Chính trị bình dân 4
Bài đọc
XÃ HỘI ẢO... NHƯNG THẬT 1
... Vào ngày 13/7/2009, Yahoo! 360° đóng cửa. Ban đầu sự đóng
cửa này trông có vẻ như một tổn thất nặng nề cho các blogger
chính trị ở Việt Nam khi cộng đồng của họ tan vỡ. Một số người
tự
động chuyển sang Yahoo! 360° Plus, một nền tảng do văn phòng
Yahoo! ở Việt Nam quản lý. Những người khác thì chọn
wordpress,
blogger, multiply, weblog, v.v... Tuy nhiên, họ nhanh chóng tụ
trở
lại, lần này là ở một diễn đàn mới, mạnh và rất có sức ảnh hưởng:
facebook. Các con số thống kê được cập nhật vào tháng 3/2013
cho
thấy Việt Nam là một trong số những nước dẫn đầu về tỷ lệ
tăng
trưởng facebook, với 11 triệu tài khoản. Một chốn như vậy chắc
chắn sẽ là một mặt trận đáng sợ đối với đảng Cộng sản.
Một số blogger chính trị nổi lên. Blog Ba Sàm trở thành “điểm
gặp gỡ” của những người quan tâm đến tình hình chính trị. Ba
Sàm là biệt danh của một blogger đặt tên cho blog của mình là
Thông Tấn Xã Vỉa Hè nhằm giễu nhại Thông Tấn Xã Việt Nam.
(Trong tiếng Việt, tin vỉa hè cũng là từ lóng để chỉ những
“chuyện
cóp nhặt” hay “tin vịt” mà mọi người kể cho nhau nghe khi họ
cà
kê ở các quán cafe vỉa hè). Công việc mà các biên tập viên
blog này
làm từ trước đến nay là điểm tin hàng ngày về Việt Nam, bất kể
là
tin tức trên phương tiện truyền thông chính thống hay từ các
1. Trích từ tiểu luận “Xã hội ảo... nhưng thật” (“Virtual
Civil Society... But It’s Real”), Phạm
Đoan Trang, đăng trong cuốn “Từ Facebook xuống đường”, NXB
Hoàng Sa, tháng 6/2016.
328 | Phạm Đoan Trang
blogger (các nhà dân báo), các cơ quan truyền thông quốc tế.
Với
mỗi tin, biên tập viên đăng đường dẫn và bổ sung thêm bình luận
cá nhân về tin tức đó, thường là theo phong cách hài hước và
châm
biếm. Công việc này có vẻ quá đơn giản, khó có thể thu hút được
một lượng độc giả lớn đến vậy – trên 100.000 người đọc mỗi
ngày,
một số lượng độc giả đáng mơ ước đối với bất kỳ tờ báo giấy
nào
của nhà nước. Nhưng chắc chắn, nó không đơn giản chút nào.
Blog
Ba Sàm thỏa mãn được những độc giả đã chán ngán hệ thống
tuyên truyền nghiêm túc thái quá và vô hồn của nhà nước, đó
là
những người khao khát phương tiện truyền thông thay thế.
Thông
Tấn Xã Vỉa Hè có vẻ hấp dẫn hơn bất kỳ cơ quan truyền thông
chính thống nào: Nó cung cấp một lượng tin tức đa dạng về
tình
hình chính trị, kinh doanh, giáo dục, khoa học và công nghệ
trong
nước cũng như quốc tế, với một phong cách chưa từng có - một
sự
kết hợp giữa ngôn ngữ thẳng thắn, hài hước của miền Nam và
các
phân tích phê bình của một trí tuệ thâm thúy kiểu miền Bắc.
Bên cạnh Ba Sàm, còn có một số blog nổi tiếng khác như Người
Buôn Gió, Quê Choa, Xuân Diện và Trương Duy Nhất (Trương
Duy Nhất bị bắt giam ngày 26/5/2013 theo Điều 258 Bộ luật
Hình
sự). Số lượng các blog chính trị đã tăng lên với tốc độ vượt
ngoài dự
đoán trong nhiều năm kể từ năm 2011, và hiện có khoảng 30
blog
như thế – đấy là một con số mà 4-5 năm trước đó không ai có
thể
hình dung nổi.
Không giống như truyền thông của Đảng hay thứ truyền thông
bị kiểm duyệt chính thức, các phương tiện truyền thông thay
thế
này có tính tương tác rất cao: Quả thực, chúng là những diễn
đàn
trực tuyến, nơi mọi người tự do bình luận, và các tác giả có
thể thảo
luận, thậm chí tranh cãi với khán giả về chủ đề đang được bàn
đến.
Đặc điểm quan trọng này của “những tờ báo của dân” khiến cho
chúng trở thành những điểm tụ hội lý tưởng cho mọi người, bất
kể
là ở trong nước hay ngoài nước, vô danh hay có danh tính rõ
ràng,
hội họp trên mạng. Một số người thậm chí còn trở nên nổi tiếng
vì
Chính trị bình dân | 329
các bình luận chứ không phải vì bài viết. Dân Làm Báo, một
trong
những blog bất đồng chính kiến lớn tiếng nhất, còn tự gọi
mình là
“thôn”. Từ đây một hình thức xã hội dân sự mới ra đời: xã hội
dân
sự trên mạng.
Các mối quan hệ trên mạng có thể đi đến chỗ ngoài mạng. Một
số người nhanh chóng gặp gỡ ngoài đời thật và trở thành những
nhóm nhỏ mà chắc chắn không đăng ký hay có sự công nhận nào
của nhà nước. Họ làm nhiều việc thực tiễn: Họ giúp gia đình của
các blogger bị bỏ tù như Điếu Cày, Tạ Phong Tần và Anh Ba SG;
họ
đi tới các phiên tòa xử những người bất đồng chính kiến chính
trị
như nhà hoạt động pháp lý Cù Huy Hà Vũ; họ chia sẻ và thậm
chí
in những cuốn sách tự xuất bản về lĩnh vực cấm kỵ - chính trị.
Và
có lẽ quan trọng hơn cả, họ xây dựng nền tảng cho những cuộc
biểu tình sắp nổ ra.
BÁO CHÍ NHÀ NƯỚC VÀ BÁO CHÍ LỀ DÂN
Trung Quốc dường như đóng một vai trò đặc biệt quan trọng
trong
tình hình chính trị Việt Nam. Ngoài quan điểm cho rằng đảng
Cộng sản Trung Quốc duy trì sự can thiệp vô lý vào công việc
nội
bộ của đảng Cộng sản Việt Nam, có một thực tế là “phản đối
Trung
Quốc hung hăng” luôn được các blogger Việt Nam lấy làm lý do
chính đáng cho các cuộc biểu tình, đặc biệt là trong bối cảnh
tranh
chấp biển đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Ngày 26/5/2011, các tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp khảo
sát địa chấn của tàu Bình Minh 2 của Tập đoàn Dầu khí Petro
Việt
Nam ngay tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Một làn
sóng
phẫn nộ lan khắp blog và facebook. Nhật Ký Yêu Nước (một
trang
facebook được tạo tháng 4/2009) kêu gọi biểu tình chống Trung
Quốc, và kết quả là ngày 5/6, các cuộc biểu tình đã nổ ra ở cả
Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với trang facebook Nhật Ký
Yêu Nước, Xuân Diện và Ba Sàm nổi lên như những điểm tụ hội
nổi bật cho người biểu tình. Hai blog này đăng tải những
thông báo
330 | Phạm Đoan Trang
biểu tình, thậm chí kêu gọi công an “dọn đường cho người dân
thực hành quyền tự do biểu đạt”.
Những lời kêu gọi như vậy là không thể chấp nhận được với
chính quyền của một đất nước nơi mà từ năm 1975 khi chiến
tranh
kết thúc và đảng Cộng sản lên nắm quyền, biểu tình vẫn là một
việc
cấm kỵ. Có thể giải thích điều này bằng những gì mà một công
an
viên nói với tác giả trong một cuộc thẩm vấn tháng 7/2012:
“Không
bao giờ được để cho một đốm lửa nhỏ bùng lên thành đám cháy
lớn. Phải dập tắt nó ngay khi còn có thể”. Một mặt, các nhà
chức
trách phản ứng lại ngay lập tức bằng việc huy động công an đến,
sử
dụng bạo lực để trấn áp biểu tình. Mặt khác, các chiến dịch
đàn áp
bắt đầu được triển khai trên Internet. Một kỹ thuật đơn giản
là tấn
công các trang web. Anh Ba Sàm, Quê Choa, Gốc Sậy và nhiều
blog
có ảnh hưởng khác thường xuyên bị hack, xóa dữ liệu và thay
thế
bằng những thông tin xúc phạm các nạn nhân. Mỗi cuộc tấn công
trang web đều được cộng đồng blogger coi là một thảm họa,
nhưng
rất may là các blog thường được khôi phục khá nhanh chóng.
Nhiều người cho rằng tất cả các cuộc tấn công trang web này đều
là do công an mạng Việt Nam, thậm chí đôi khi là do hacker
Trung
Quốc, gây ra.
Cách thức kiểm soát Internet kinh điển – chặn trang web –
cũng từng được sử dụng rộng rãi. Từ năm 2009, facebook,
blogspot,
multiply, v.v... đều thỉnh thoảng bị chặn. Công an cũng không
từ bỏ
việc khủng bố các blogger. Nhiều blogger đã bị công an triệu
tập,
thẩm vấn, câu lưu và công kích trong 5 năm trở lại đây. Xuân
Diện
bị Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội phạt tiền vì đã xuất bản
những “nội dung xấu” trên blog.
Ngoài ra, các phương tiện truyền thông nhà nước cũng luôn
được huy động triệt để cho việc “vận động quần chúng” chống lại
những cuộc biểu tình mà hiện đang được gắn nhãn là “chống nhà
nước”. Bộ máy truyền thông đại chúng đóng vai trò tích cực
trong
việc khiến người dân xa lánh những người biểu tình, đánh đồng
Chính trị bình dân | 331
các bình luận phê phán chính phủ với hành động “bôi nhọ, nói
xấu
nhà nước”, và hạ uy tín của những blogger có vẻ như có ảnh hưởng
đối với công chúng nhưng vẫn chưa bị bắt. Người biểu tình phản
ứng lại bằng việc viết nhiều hơn nữa, chụp ảnh nhiều hơn nữa
và
chia sẻ nhiều hơn nữa trên facebook, youtube và blog.
Một số người tổ chức một cuộc biểu tình nhỏ trước cửa Đài
Truyền hình Hà Nội để phản đối những phóng sự vu khống người
biểu tình yêu nước. Cuộc biểu tình không thu được gì nhiều: Tổng
giám đốc Trần Gia Thái và Đài Truyền hình với tư cách là cơ
quan
ngôn luận của Đảng bộ Hà Nội sẽ không bao giờ xin lỗi “đám phản
động”. Nhưng ít nhất đây cũng là lần đầu tiên đài truyền hình
quốc
doanh này thấy được sự phẫn nộ của những khán giả bị đẩy làm
nạn nhân.
Biểu tình phản đối Đài Truyền hình Hà Nội, 21/10/2011.
Dòng chữ trên giấy: “Các nhà báo, hãy tôn trọng sự thật!
Journalists, respect the truth!”.
Cuộc chiến truyền thông trở nên dữ dội khi các quan chức bắt
đầu “dùng blogger chống blogger”. Trưởng Ban Tuyên giáo của
Thành ủy Hà Nội, Hồ Quang Lợi, trong một cuộc họp ngày
9/1/2013 tổng kết hoạt động báo chí tuyên truyền năm 2012,
cho
332 | Phạm Đoan Trang
biết Ban đã xây dựng một lực lượng 900 “dư luận viên” ở riêng
Hà
Nội “để phát huy sức mạnh của đội ngũ tuyên truyền”. Ông Lợi
cho
biết thêm, Ban Tuyên giáo cũng xây dựng thành công các nhóm
chuyên gia trực tiếp tham gia bút chiến với người bất đồng
trên
Internet; cho đến thời điểm đó, họ đã có 19 trang tin và 400
tài
khoản mạng. Những dư luận viên này là đội quân mạng thật sự
hung hãn. Vô danh tính, và có lẽ học vấn kém, họ hành xử như
những lính canh Internet, duyệt các blog chính trị và dội xuống
bất
cứ thứ ngôn ngữ độc địa và ngụy biện nào họ có thể nghĩ ra. 1
Nhưng có vẻ như đã quá muộn để các nhà chức trách ngăn cản
mọi người thành lập hội nhóm trên mạng và nói lên ý kiến của
họ.
Facebook, với tính năng hữu dụng cho phép người dùng tổ chức
các nhóm kín, trở thành lựa chọn nền tảng số 1. Có vẻ như
facebook
càng bị chặn dữ dội bao nhiêu, người dùng facebook càng khao
khát đăng nhập, và họ càng trở nên thành thạo về công nghệ bấy
nhiêu. Không bức tường lửa nào có thể ngăn cản họ. Và những
gì
phải đến đã đến. Tháng 8/2011, khi cuộc bố ráp người biểu
tình lên
đến đỉnh điểm ở Hà Nội với lời cảnh báo chính thức từ Ủy ban
Nhân dân Thành phố Hà Nội là sẽ giải tán tất cả các kiểu hội
họp,
những nhóm “người biểu tình yêu nước” đầu tiên đã được tạo
ra.
Có thể hiểu họ không bao giờ đăng ký vì sẽ không bao giờ được
cấp
phép. Lần đầu tiên trong lịch sử tiến trình dân chủ ở Việt
Nam,
những người bất đồng chính kiến có thể kết nối trong những
nhóm
dù hoạt động ngầm nhưng có tổ chức.
Trong vòng vài tháng kể từ tháng 8/2011, các nhóm hoạt động
ngầm này phát triển thành một mạng lưới lớn gồm các nhà hoạt
động trên khắp không gian Internet ở Việt Nam. Không ai thật
sự
biết hay có thể nói có bao nhiêu nhóm như vậy ở Việt Nam vào
1. Ngày 25/12/2017 ở TP.HCM, tại Hội nghị toàn quốc tổng kết
công tác tuyên giáo năm
2017 và triển khai nhiệm vụ cho năm 2018, Tổng cục Chính trị
Quân đội Nhân dân Việt
Nam công bố đã xây dựng “Lực lượng 47” (gọi tên theo Chỉ thị
47) với hàng chục nghìn
thành viên để “đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch
với đảng Cộng sản” trên
không gian mạng.
Chính trị bình dân | 333
thời điểm hiện tại – đây là điều lực lượng an ninh quả thật
khao
khát muốn nắm được. Đến thời điểm này chính quyền và lực lượng
an ninh đã hoàn toàn ý thức được rằng biểu tình không còn là
hoạt
động “tự phát” nữa.
Biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội ngày 24/7/2011.
Điều quan trọng hơn cả, những nhóm online này dần dà mở
rộng mối quan tâm từ vấn đề tranh chấp chủ quyền giữa Trung
Quốc và Việt Nam sang các vấn đề khác ở đất nước Việt Nam
đương đại, chẳng hạn cuộc đấu tranh giành quyền sử dụng đất của
nông dân. Từ những người biểu tình được truyền cảm hứng bởi
tinh thần dân tộc, họ trở thành các nhà hoạt động dân chủ và
nhân
quyền. Với tình hình hiện tại, những nhóm này còn xa mới trở
thành các đảng đối lập, nhưng ít nhất những người quan tâm đến
các vấn đề chính trị-xã hội có thể tự hình thành nhóm với
nhau,
trong nhóm đó họ chia sẻ kinh nghiệm và kỹ năng đối đầu với
an
ninh, báo cáo lại những trường hợp vi phạm nhân quyền, làm từ
thiện và cùng nhau phát động nhiều dự án xã hội khác nhau.
No-U FC là một ví dụ, đây là một đội bóng, các thành viên gặp
gỡ nhau hàng tuần vào chủ nhật với mục đích bề ngoài là để đấu
334 | Phạm Đoan Trang
bóng, nhưng mục đích thật sự lại là “vận động chống đường lưỡi
bò của Trung Quốc” (hay đường chín đoạn, đường chữ U mà
Trung Quốc thường dùng trong các yêu sách về chủ quyền của họ).
Được thành lập vào tháng 10/2011, câu lạc bộ này nhanh chóng
trở
thành mục tiêu theo dõi và quấy nhiễu của an ninh. Nhưng điều
đó
không ngăn được câu lạc bộ mở rộng số lượng thành viên và các
hoạt động xã hội như đi từ thiện, giúp trẻ em có hoàn cảnh
khó
khăn và tổ chức những buổi nói chuyện chuyên đề về các tranh
chấp trên Biển Đông – các hoạt động mà nhà nước vẫn giữ vai
trò
độc quyền suốt hàng chục năm.
KẾT LUẬN
Trong nhiều năm, đảng Cộng sản đã thể hiện thành công hình ảnh
Việt Nam ra thế giới như một đất nước nhỏ bé xinh đẹp có tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế ấn tượng, chính quyền năng động và người
dân mến khách. Có một niềm tin phổ biến rằng Trung Quốc và
Việt Nam có lẽ là hai ví dụ nổi bật về việc một đất nước có
thể đạt
được tiến bộ kinh tế mà không cần đến cải cách chính trị, hay
nói
cách khác phát triển không nhất thiết đòi hỏi dân chủ.
Tuy nhiên, nhìn vào cuộc đấu tranh ngầm của các blogger
chống lại giới cầm quyền đàn áp thô bạo có thể đưa đến một kiến
giải khác hẳn. Thực tế là dưới bề mặt của sự phát triển kinh
tế (mà
đến bây giờ còn rất yếu) là những chính sách độc tài, một nhà
nước
tham nhũng và hà khắc dập tắt tiếng nói bất đồng và hạn chế
các
quyền tự do. Chắc chắn điều mà chính quyền này ghét nhất là
trách
nhiệm giải trình và tính minh bạch. Do đó, Internet với sức mạnh
đưa mọi thứ ra ánh sáng nhanh chóng trở thành “kẻ thù của nhà
nước”. Điều này đặc biệt đúng khi các phương tiện truyền
thông xã
hội bùng nổ ở Việt Nam. Khi phương tiện truyền thông chính
thống lỗi thời không chiếm được cảm tình của độc giả và không
gian công cộng rơi vào tay các blogger, các nhà chức trách liền
dùng đến vũ lực.
Chính trị bình dân | 335
Nhưng một khi người dân đã biết đến vị tự do, họ sẽ không từ
bỏ nó. Dân chủ và tự do luôn có khuynh hướng mở rộng. Trong
tiếng Việt có một phép ẩn dụ về cái trần nhà. Khi nhà cầm quyền
ụp trần lên người dân, mọi người phải ở dưới cái trần ấy;
nhưng
nếu một số người đẩy được cái trần đó lên để không gian giới
hạn
kia được nới ra thêm chút ít, cả cộng đồng sẽ được hưởng lợi
và họ
sẽ muốn thêm nữa. Do đó, cái trần sẽ nhanh chóng bị đẩy lên
thêm
và mọi người sẽ hưởng thêm không gian, và thêm thèm tự do.
Mọi thứ cũng diễn ra tương tự với quyền tự do biểu đạt ở Việt
Nam trong kỷ nguyên Internet.
Khó có thể khẳng định rằng các tổ chức xã hội dân sự đã và
đang hoạt động hiệu quả và đóng góp vào tiến trình dân chủ của
đất nước. Ta cũng không thể nói rằng nhờ có Internet, dân chủ
diễn ra nhanh hơn và sẽ sớm có “mùa xuân Ả-rập” ở Việt Nam.
Tuy
nhiên, tất cả các hội nhóm được tạo ra trên Internet, dù tổ
chức còn
lỏng lẻo, thiếu kinh nghiệm chính trị, và còn lâu mới trở
thành các
đảng đối lập, vẫn là tiền thân của xã hội dân sự trong thực tế,
việc
này ít nhất có thể làm cho quần chúng quen với những ý niệm về
một không gian tự do ít sự kiểm soát của nhà nước hơn. Lý tưởng
là, các tổ chức xã hội dân sự online này sẽ là nguồn cung cấp
những
ứng viên ngoài đảng Cộng sản cho các cơ quan công quyền trong
những cuộc bầu cử dân chủ tương lai.
Chương VII
PHONG TRÀO XÃ HỘI
ĐỊNH NGHĨA
Phong trào xã hội là một dạng hành động tập thể, tập trung
vào
một hoặc một số vấn đề kinh tế-xã hội nào đó, nhằm tiến hành
thay đổi xã hội hoặc chống lại sự thay đổi.
Thế hành động tập thể là gì? Đơn giản, đó là hành động được
tiến hành đồng loạt bởi một nhóm người. Nó khác hẳn với hành
động cá nhân, là hành động chỉ của một người.
“Hành động tập thể” là một khái niệm mới đối với phần đông
người Việt Nam, nhất là những người không nghiên cứu khoa học
xã hội. Tuy nhiên, nó là khái niệm có mặt trong rất nhiều
ngành
khoa học xã hội trên thế giới: tâm lý học, xã hội học, nhân học,
kinh tế học, chính trị học.
Và phong trào xã hội là một dạng hành động tập thể có mục
đích (thực hiện thay đổi hoặc chống lại sự thay đổi xã hội),
có tổ
chức. Nó không tự phát như một cuộc bạo loạn, không hỗn loạn
như khi một đám đông chen lấn, xô đẩy, hay như khi mọi người
đổ
xô đi mua chứng khoán hoặc ra ngân hàng rút tiền, tháo vốn ồ ạt...
Các bạn lưu ý: Phong trào xã hội không tự phát. Mọi hoạt động
của nó đều là có chủ đích, có kế hoạch, nhằm đạt một mục tiêu
xã
hội chung.
338 | Phạm Đoan Trang
SO SÁNH PHONG TRÀO XÃ HỘI VÀ ĐẢNG
Mặc dù có tổ chức, nhưng phong trào xã hội lại chỉ là phong
trào
mà không phải là tổ chức, và càng không phải là đảng.
- Phong trào xã hội khác tổ chức ở chỗ nó không có thứ bậc chặt
chẽ, không có kỷ luật trên-dưới (rất khó có chế tài, hình phạt
cho
người vi phạm kỷ luật);
- Phong trào xã hội khác đảng chính trị ở chỗ nó không chỉ
không có thứ bậc và kỷ luật trên-dưới, mà còn không hướng đến
việc giành chính quyền, không nhằm giành một chỗ đứng nào
trong chính trường.
Tuy nhiên, phong trào xã hội hoàn toàn có thể sinh ra đảng
phái. Ví dụ: Phong trào quyền lao động sinh ra công đoàn,
công
đảng và các đảng xã hội. Phong trào bảo vệ môi trường sinh ra
đảng xanh.
BA YẾU TỐ CẤU THÀNH PHONG TRÀO XÃ HỘI
Charles Tilly (1929-2008) là một trong những nhà khoa học
chính
trị hàng đầu nghiên cứu về phong trào xã hội. Trong lý thuyết
của
mình, ông cho rằng có ba yếu tố tạo nên một phong trào xã hội:
Thứ nhất là một chiến dịch vận động (campaign). Đó là một
hoạt động có tổ chức, kéo dài, nhằm đưa các yêu sách tập thể
đến
đối tượng cần tác động để thay đổi, ví dụ chính quyền.
Thứ hai là các tiết mục để hoạt động (repertoire): Đó là một
loạt
hình thức hoạt động chính trị được sử dụng kết hợp, như thành
lập
tổ chức, hội thảo, cafe gặp gỡ, kiến nghị, ra tuyên bố, cầu
nguyện
tập thể, tuần hành, biểu tình, làm truyền thông, phát tờ rơi
v.v. Có
rất nhiều hoạt động như vậy. Tất cả đều phải nhằm truyền tải
thông
điệp đến đối tượng cần tác động, và công chúng.
Thứ ba là sự thể hiện nhất quán trước công chúng bốn đặc điểm,
mà Charles Tilly gọi tắt là WUNC – ghép bốn chữ cái đầu bốn từ
tiếng Anh:
Chính trị bình dân | 339
y W: chính đáng, xứng đáng (worthiness)
y U: đoàn kết (unity)
y N: số lượng (number)
y C: dấn thân, cam kết tham gia (commitment)
Có nghĩa là gì? Theo Charles Tilly, những người làm phong
trào
xã hội phải thể hiện cho công chúng thấy rằng:
y Về đạo đức, họ tốt, xứng đáng; sự nghiệp đấu tranh của họ
là
chính đáng;
y Về kỷ luật, họ đoàn kết;
y Về số lượng, họ mạnh, vì họ đông đảo;
y Về tinh thần, họ dấn thân, cam kết tham gia.
Ngược lại, nếu những người làm phong trào xã hội thất bại
trong việc thể hiện bốn yếu tốt trên cho công chúng thì sao?
Đơn
giản là công chúng sẽ nghĩ rằng:
y Nếu không xứng đáng, chứng tỏ họ là người xấu.
y Nếu không đoàn kết, chứng tỏ họ không mạnh. Vừa là người
xấu, vừa không mạnh, chứng tỏ: Hoặc họ chỉ là nạn nhân, hoặc
là
một lũ hề.
y Nếu không đông đảo, chứng tỏ họ không được đông người
ủng hộ, không có tính chính danh.
y Nếu không cam kết, dấn thân, họ sẽ không đi đến cùng.
Các bạn có thể thấy: Như vậy, đối với những người tiến hành
một phong trào xã hội, làm gì (chiến dịch vận động, các tiết
mục đi
kèm) là rất quan trọng, và làm như thế nào cũng quan trọng
không
kém. Làm như thế nào – tức là phải thể hiện bốn đặc điểm WUNC
như liệt kê ở trên.
Sự thể hiện nhất quán bốn đặc điểm đó có liên quan đến vấn đề
tính chính danh mà chúng ta đã bàn ở Chương II, Phần II. Nói
cách khác, người làm phong trào xã hội phải thể hiện được
WUNC
để thu hút quần chúng, tạo ra và củng cố niềm tin của quần
chúng
vào phong trào.
340 | Phạm Đoan Trang
Phong trào bảo vệ cây xanh ở Hà Nội năm 2015 đưa đến sự ra đời
nhóm “Vì
Một Hà Nội Xanh”, sau là “Cây Xanh” (Green Trees) – một tổ chức
xã hội
dân sự độc lập chuyên về bảo vệ môi trường.
Áp dụng lý thuyết của Charles Tilly vào thực tế, chúng ta có
thể
phân tích được một số phong trào xã hội ở Việt Nam, ví dụ
phong
trào dân oan, còn thiếu điều gì. Chúng ta cũng có thể hiểu được
ngay tại sao an ninh và dư luận viên phải tốn nhiều công sức
đến
thế cho việc viết bài đánh phá, bôi nhọ các phong trào xã hội
cổ súy
cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, và công kích toàn bộ
phong trào dân chủ nói chung.
Không rõ an ninh và các dư luận viên có nghiên cứu lý thuyết
của Charles Tilly không, nhưng cứ cho là không, thì một cách
vô
tình, những gì bọn họ viết, lập luận, đều nhằm vào phá hủy bốn
đặc điểm WUNC của phong trào dân chủ. Ví dụ như sau:
y “Đấu tranh dân chủ gì chúng nó, toàn một lũ dân chủ cuội,
ăn
bám xã hội, mượn danh chống cộng để kiếm chút bơ thừa sữa cặn
của ngoại bang, cờ vàng lưu vong”: Đây là lập luận nhằm triệt
hạ tính
chính đáng của hoạt động đấu tranh vì dân chủ-nhân quyền (W).
y “Bọn dân chủ cắn xé nhau như chó với mèo”: Đây là lập luận
nhằm chứng tỏ những người hoạt động không đoàn kết (U).
Chính trị bình dân | 341
y “Quanh đi quẩn lại, lần nào biểu tình cũng chỉ chừng ấy
gương
mặt cũ rích, những luận điệu cũ rích”: Đây là lập luận đánh
vào vấn
đề số lượng của phong trào dân chủ, không đông đảo, chứng tỏ
không được lòng dân (N).
y “Suy cho cùng cũng toàn là một lũ anh hùng bàn phím, thấy
xe công an đến là chạy như vịt, vào đồn là nhận tội hết”: Đây
là lập
luận nhằm nhấn mạnh rằng những người hoạt động nhân quyền
không đủ ý chí dấn thân (C).
Sau khi đã tìm hiểu đến đây về phong trào xã hội, nếu bạn còn
hứng thú thì có thể tìm kiếm thêm các tài liệu, sách báo
nghiên cứu
về chủ đề này. Trong khuôn khổ một phần nhỏ của một chương
sách, chỉ có thể nói rằng: Phong trào xã hội là một dạng hành
động
tập thể có mục đích, có tổ chức. Người tổ chức phong trào xã
hội
phải đủ tầm chiến lược và khả năng chiến thuật để tạo ra một
chiến
dịch vận động với thông điệp thống nhất, nhiều hoạt động đi
kèm
(đòi hỏi người tổ chức phải càng sáng tạo càng tốt), và luôn
nhớ
đến việc thể hiện thống nhất bốn yếu tố WUNC.
CÁC GIAI ĐOẠN CỦA MỘT PHONG TRÀO XÃ HỘI
Các nhà nghiên cứu cho rằng theo thời gian, có thể chia một
phong
trào xã hội ra thành bốn giai đoạn.
1. Giai đoạn nổi lên
Trong giai đoạn này, sự bất mãn bắt đầu xuất hiện, khi mọi
người
đều thấy rằng có điều gì không ổn.
“Những người tiềm năng tham gia phong trào có thể không hài
lòng với một chính sách hoặc tình trạng xã hội nào đó, nhưng
họ
chưa có hành động gì để xử lý mối phẫn uất của họ, hoặc nếu
có thì
rất có thể là hành động cá nhân chứ không phải tập thể. Một
người
có thể bình luận với bạn bè và gia đình rằng anh ta/cô ta
không hài
lòng với hiện tình, hoặc có thể viết thư gửi đến tờ báo địa
phương
hoặc vị đại diện địa phương, nhưng các hành động này không có
342 | Phạm Đoan Trang
tính chiến lược và tính tập thể. Hơn nữa, có thể có sự gia
tăng
những tin bài mà các phương tiện truyền thông công bố về tình
trạng tiêu cực hoặc các chính sách không được ưa thích, điều
đó
cũng góp thêm vào sự bất mãn chung”. 1
2. Giai đoạn hợp nhất
Đây là giai đoạn mà phong trào xã hội tự định hình, tự phát
triển
một chiến lược thu hút người mới, và ra công khai. Có thể có
biểu
tình, tuần hành... và thu hút giới truyền thông.
“Ở giai đoạn này các cuộc biểu tình quần chúng có thể diễn ra
để thể hiện sức mạnh của phong trào xã hội và để làm các yêu
cầu
rõ ràng hơn. Quan trọng nhất, đây là giai đoạn mà tại đó
phong
trào trở thành một thứ vượt hơn mức các cá nhân bức xúc ngẫu
nhiên gặp nhau, ở điểm này chúng có tính tổ chức và có chiến
lược
trong tầm nhìn của mình”. 2
3. Giai đoạn hành chính hóa
Trong giai đoạn này, phong trào phụ thuộc vào tài năng của một
số
lãnh đạo và nhất là sự chuyên nghiệp của các nhân viên. Có thế,
phong trào mới tồn tại lâu dài được.
“Các phong trào xã hội trong giai đoạn này không còn chỉ dựa
vào các cuộc tuần hành của quần chúng hoặc các nhà lãnh đạo
gây
cảm hứng để tiến tới mục tiêu và tạo lập các tổ nhóm cử tri nữa;
chúng phải dựa vào những nhân viên được đào tạo để thực hiện
sứ
mệnh của tổ chức. Trong giai đoạn này, quyền lực chính trị của
phong trào xã hội lớn hơn trong các giai đoạn trước đó ở chỗ
chúng
có thể tiếp cận thường xuyên hơn với giới tinh hoa chính trị.
Nhiều
phong trào xã hội không hành chính hóa được theo cách này và
kết
cục là thất bại do các thành viên khó duy trì được cảm hứng cần
thiết và vì việc huy động liên tục quần chúng trở nên khó
khăn quá
1. “Four Stages of Social Movements”, Jonathan Christiansen,
trong “Theories of Social
Movements”, Salem Press, 2011.
2. Như trên
Chính trị bình dân | 343
mức đối với người tham gia phong trào. Việc hành chính hóa
thường có nghĩa là các nhân viên được trả lương có thể thế chỗ
vào
khi không sẵn có các tình nguyện viên thừa nhiệt tình”. 1
4. Giai đoạn thoái trào
Thoái trào là giai đoạn kết thúc một vòng đời của phong trào
xã
hội. Tuy nhiên, từ “thoái trào” không mang nghĩa tiêu cực, ám
chỉ
sự thất bại. Thoái trào có thể diễn ra theo các hình thức
như:
- Bị đàn áp và dập tắt, do lực lượng đối đầu – thường là
chính
quyền – quá mạnh;
- Bị sáp nhập, ví dụ thỏa hiệp với chính đối tượng mà ban đầu
dự định tác động, chấp nhận đối tượng và làm việc luôn cho họ;
- Thành công, đạt được các mục tiêu đề ra, nên kết thúc hoạt
động;
- Thất bại, chiến lược phá sản, nội bộ chia rẽ và tan vỡ, nên
kết
thúc hoạt động;
- Được xác lập tư cách chính thống, hòa nhập vào hệ thống
kinh tế-chính trị, nên kết thúc hoạt động.
Theo Jonathan Christiansen, lý thuyết về bốn giai đoạn của
phong trào xã hội có thể giúp giới nghiên cứu hiểu được cách
thức
mà các phong trào xã hội gây ảnh hưởng đến xã hội. Thông qua
việc phân tích những phong trào xã hội xuất hiện tại các thời
điểm
và giai đoạn nào đó, các nhà xã hội học có thể hiểu sâu hơn về
sự
vận hành của xã hội và những thay đổi mà nó kinh qua.
Phong trào xã hội được nhiều người Việt biết tới nhất có lẽ
là
phong trào đòi quyền dân sự của người da đen ở Mỹ vào những
năm 1950-1960, với một gương mặt lãnh đạo xuất chúng – mục sư
Martin Luther King. Phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan
cũng được biết đến ít nhiều. Còn ở Việt Nam, phong trào bảo vệ
cây xanh tại Hà Nội năm 2015 đã hình thành và phát triển như
một
phong trào xã hội, tiếc là nó chỉ bó hẹp trong phạm vi thủ đô
Hà
Nội và bị đàn áp quá mạnh nên ảnh hưởng không rõ nét.
1. Như trên
Phần VI
BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
Phần này giới thiệu với độc giả một nội dung cực kỳ quan trọng
của khoa học chính trị: mô hình tổ chức bộ máy nhà nước.
Nó sẽ giúp các bạn hình dung được bộ máy nhà nước trong một
chế độ dân chủ thì nên như thế nào (không phải là “phải” như
thế
nào), bằng việc điểm qua một số mô hình phổ biến của thế giới.
Qua đó, bạn sẽ hiểu rõ hơn về tam quyền phân lập, về chức
năng
của từng nhánh quyền lực – lập pháp, hành pháp, tư pháp, cũng
như sẽ hiểu rõ hơn là một đại biểu quốc hội (đại diện cho
dân) có
thể kiêm luôn chức bộ trưởng (một chức vụ trong chính phủ)
không, nếu có thì có gì đúng hay sai?
Ở Phần VI này, bạn cũng sẽ tìm hiểu thêm về hai lực lượng có
vai
trò rất phức tạp dưới chính quyền của đảng Cộng sản Việt Nam:
công an và quân đội. Nhưng trước hết, chúng ta bắt đầu với một
thứ khế ước xác định mô hình tổ chức bộ máy nhà nước và
nguyên
tắc của mối quan hệ giữa chính quyền và nhân dân: Hiến pháp.
Chương I
HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT
HIẾN PHÁP LÀ GÌ?
Hiểu một cách đơn giản nhất thì hiến pháp là một bản thiết kế
ban
đầu, xác định tổ chức bộ máy nhà nước và xác lập quyền hạn,
trách
nhiệm của nhà nước và công dân. Nó có thể là văn bản (hiến
pháp
thành văn) hoặc không phải văn bản (hiến pháp bất thành văn).
Woolsey định nghĩa hiến pháp là “tập hợp những nguyên tắc
mà dựa theo đó, các nhánh quyền lực của một nhà nước, quyền
hạn của một nhà nước, và quan hệ giữa hai cái đó, được điều
chỉnh”.
1
Bouncier định nghĩa hiến pháp là “luật căn bản của một quốc
gia, hướng dẫn các nguyên tắc mà dựa theo đó chính quyền được
thành lập, và điều chỉnh việc thực thi quyền tối cao, trực tiếp
chỉ
định ba nhánh quyền lực sẽ bao gồm những cơ quan nào và cách
thức thực thi quyền lực của chúng”. 2
Charles Baregeaud thì định nghĩa hiến pháp là “luật căn bản
mà
các mối quan hệ giữa các cá nhân hay người dân thường và cộng
đồng được xác định theo đó. Nó có thể là một văn kiện, một
văn
bản chính xác hoặc một loạt các văn bản, được thông qua vào một
thời điểm nhất định bởi một quyền lực tối cao, hoặc nó có thể
là kết
1. “Political science”, Government of Tamilnadu, India, 2003
2. “Political science”, Government of Tamilnadu, India, 2003
348 | Phạm Đoan Trang
quả tương đối của một loạt các đạo luật, nghị định, quyết định
của
tòa án, tiền lệ hoặc tập quán với những nguồn gốc khác nhau
và
mức độ quan trọng khác nhau”. 1
Còn rất nhiều định nghĩa khác nữa về hiến pháp. Tuy nhiên, từ
các định nghĩa nói trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm
chung của
mọi hiến pháp là:
- Là đạo luật căn bản (luật nguồn);
- Có thể thành văn hoặc bất thành văn;
- Quy định cấu trúc và quyền lực của nhà nước;
- Quy định quyền của công dân;
- Quy định mối quan hệ giữa chính quyền (bên cai trị) và dân
chúng (bên bị cai trị);
- Là luật tối cao của một quốc gia mà mọi người đều phải tuân
theo, cao hơn mọi đạo luật khác.
TẠI SAO PHẢI CÓ HIẾN PHÁP?
Dù thành văn hay bất thành văn, hiến pháp cũng là đạo luật
căn
bản không thể thiếu của mỗi nhà nước, vì một số lý do. Nhà nước
nào cũng cần có hiến pháp để:
- Giới hạn quyền lực của nhà nước trước nhân dân, không để
nhà nước lạm quyền;
- Bảo vệ quyền công dân, bảo vệ tự do;
- Ngăn chặn tình trạng vô chính phủ;
- Xác định bộ máy nhà nước ổn vững, ngăn chặn hoặc hạn chế
tác hại của những biến động chính trị trong hiện tại và tương
lai.
Ở khía cạnh tinh thần, hiến pháp cũng là điều cần thiết để gắn
kết người dân với chính quyền và nhất là với nhau trong một
nguyện vọng chung là được tồn tại, chung sống cùng với nhau
trong một đất nước.
1. “Political science”, Government of Tamilnadu, India, 2003
Chính trị bình dân | 349
Cũng cần nói thêm rằng, mọi nhà nước đều cần có hiến pháp.
Điều đó hàm ý rằng mỗi chính quyền với một thể chế (chế độ,
hay
hệ thống chính trị) tương ứng đều cần có hiến pháp. Với nhiều
quốc gia chuyển đổi thành công sang dân chủ, một trong những
việc đầu tiên mà chính quyền mới cần làm là soạn thảo hiến
pháp
mới hoặc sửa đổi hiến pháp cũ. Một số ví dụ có thể kể đến:
Philippines (1986), Nam Phi (1994)...
NỘI DUNG CHÍNH CỦA HIẾN PHÁP
Hiến pháp có thể dài hay ngắn, có thể có nhiều hay ít điều
khoản,
nhưng nội dung chính của mọi bản hiến pháp phải bao gồm:
1. Hình thức và tổ chức bộ máy nhà nước;
2. Chức năng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, quyền
hạn của chúng, và mối quan hệ giữa chúng với nhau;
3. Những quyền cơ bản của công dân;
4. Quan hệ giữa chính quyền và nhân dân;
5. Chế độ kinh tế của quốc gia;
6.Thủ tục thông qua, sửa đổi hiến pháp và giải quyết xung đột
giữa hiến pháp và các luật dưới hiến pháp.
THỦ TỤC XÂY DỰNG VÀ THÔNG QUA HIẾN PHÁP
Quy trình này khác nhau ở mỗi nước. Cơ quan soạn thảo hiến
pháp cũng khác nhau. Theo một thống kê thì trong số 194 quốc
gia
trên thế giới: 1
42% Cơ quan lập pháp soạn thảo hiến pháp
17% Hội đồng lập hiến soạn thảo hiến pháp
10% Hội đồng do chính phủ chỉ định soạn thảo hiến pháp
9% Hội đồng do quốc hội chỉ định soạn thảo hiến pháp
1. “Overview of the constitution-making process”, Midan Masr.
350 | Phạm Đoan Trang
6% Đàm phán, thương lượng hòa bình tạo thành hiến pháp
6% Hội đồng lập pháp đương thời, được chỉ định tạm thời trong
thời kỳ chuyển giao, soạn thảo hiến pháp
5% Ban chấp hành trung ương đảng soạn thảo hiến pháp
3% Một đại hội quốc dân soạn thảo hiến pháp
2% Một bàn tròn soạn thảo hiến pháp
Do hiến pháp là một bản khế ước, thỏa thuận giữa chính quyền
với nhân dân, cho nên nhất thiết phải có sự tham vấn (lấy ý
kiến)
nhân dân và thảo luận, phản biện cả trước và sau khi dự thảo
hiến
pháp ra đời. Tất nhiên, việc soạn thảo thì chỉ nên giới hạn
trong
một nhóm người, thường là các chuyên gia pháp lý, chứ không
phải
dành cho một số đông tham gia. Ở Việt Nam, Khoản 1 Điều 70
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 quy định Quốc
hội là cơ quan làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật
và sửa
đổi luật.
Phê chuẩn, hay phúc quyết, hiến pháp là tiến trình mà thông
qua đó, hiến pháp có hiệu lực chính thức. Có hai cách thức
chính
là: 1. Quốc hội phê chuẩn; 2. Trưng cầu dân ý toàn quốc. Ở Mỹ,
soạn thảo hiến pháp mất bốn tháng nhưng quá trình phê chuẩn
kéo dài tới 40 tháng.
CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT, TRANH CHẤP
Tất cả các hiến pháp đều cần quy định rõ cơ quan nào có thẩm
quyền phán xét tính hợp hiến của một đạo luật hay quy định
nào
đó của các cơ quan nhà nước. Ở các quốc gia lâu nay, cơ quan
có
thẩm quyền đó thường là tòa án tối cao (tối cao pháp viện) hoặc
tòa
án hiến pháp (tòa bảo hiến). Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, thành
lập
năm 1789, được coi là tòa bảo hiến cổ nhất thế giới, vì nó là
tòa án
đầu tiên trên thế giới có thẩm quyền tuyên vô hiệu một đạo luật
nào đó nếu đạo luật ấy vi phạm hiến pháp (vi hiến).
Chính trị bình dân | 351
Nhiều nước khác thành lập những tòa án riêng biệt chỉ giải
quyết các vấn đề xoay quanh hiến pháp và bảo vệ hiến pháp.
Tòa
bảo hiến riêng biệt đầu tiên trên thế giới được thành lập ở
Áo vào
năm 1920.
Ở Việt Nam, không có tòa bảo hiến riêng, và Tòa án Nhân dân
Tối cao cũng không có thẩm quyền diễn giải Hiến pháp. Khoản 2
Điều 74 nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 quy định Ủy ban
Thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ và quyền giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh. Điều 119 Hiến pháp quy định “Cơ chế bảo vệ
Hiến
pháp do luật định”.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam
Ở Việt Nam, bản “khế ước xã hội” mang tên Hiến pháp lâu nay
thật ra
không phải là khế ước, bởi nó không thể hiện ý chí của cả hai
bên – người
dân, hay chủ nhân của đất nước, và chính quyền. Hiến pháp của
nước
Việt Nam thời cộng sản thuần túy do đảng Cộng sản cầm quyền
áp đặt lên
người dân, thông qua một quốc hội mà tuyệt đại đa số thành
viên là đảng
viên cộng sản. Hiến pháp cũng được xem là sự thể chế hóa
cương lĩnh của
đảng Cộng sản, còn luật pháp là sự thể chế hóa các nghị quyết
của đảng.
Bản thân Hiến pháp có nhiều điều luôn thòng theo cụm từ “theo
quy
định của pháp luật”, “do pháp luật quy định”, ví dụ:
Điều 23: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước,
có quyền
ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các
quyền này do
pháp luật quy định”.
Điều 25: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các
quyền này do
pháp luật quy định”.
Điều 30: “Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật
chất, tinh
thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật”.
Điều 54: “Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được
bồi thường
theo quy định của pháp luật”.
CƠ CHẾ BẢO HIẾN
Bảo hiến tức là bảo vệ hiến pháp. Ở các nước phương Tây, nhất
là
Mỹ, có một thủ tục gọi là “judicial review”, dịch sát nghĩa
là “xem
lại, xét duyệt lại luật pháp”, cũng chính là cơ chế bảo hiến.
“Xem lại,
352 | Phạm Đoan Trang
xét duyệt lại luật pháp” là việc cơ quan tư pháp xem xét, thẩm
định
lại và có thể tuyên vô hiệu một đạo luật, nghị định hay các
hành
động, việc làm của các nhánh quyền lực khác (lập pháp và hành
pháp). Theo đó, tòa án có thể tuyên bố những đạo luật, nghị định
hay việc làm nào đó của chính phủ hay quốc hội là “vi hiến”,
nếu
chúng không tuân thủ hoặc thậm chí đi ngược lại hiến pháp.
Khi
ấy, chúng mất hiệu lực.
Ở Việt Nam dưới thời chính quyền cộng sản, không tồn tại cơ
chế bảo hiến này. Cho nên luật và các văn bản dưới luật ở Việt
Nam
vi hiến rất nhiều nhưng vẫn được sử dụng làm công cụ quản lý
nhà
nước. Một báo cáo của Bộ Tư pháp, công bố ngày 15/1/2015, cho
biết: Trong 10 tháng đầu năm 2014, các bộ, cơ quan, địa
phương đã
kiểm tra và phát hiện 9.017 văn bản có dấu hiệu vi phạm các
điều
kiện về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản (chiếm tỷ lệ
22%). 1
Một trong những nghị định vi hiến nổi tiếng là Nghị định
38/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 quy định một số biện pháp bảo
đảm trật tự công cộng. Văn bản này đã trở thành công cụ cực kỳ
đắc lực để lực lượng công an trấn áp bất kỳ cuộc tụ tập ôn
hòa nào
của người dân, xâm phạm hoàn toàn quyền biểu tình được quy
định tại Điều 69 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 (sau này là
tại
Điều 25 Hiến pháp 2013).
TIÊU CHUẨN CỦA MỘT HIẾN PHÁP
Một bản hiến pháp tốt phải đạt được ít nhất là các tiêu chí
sau đây:
- Rõ ràng, chặt chẽ: Mọi điều khoản và ngôn từ của hiến pháp
đều phải rõ ràng, chặt chẽ để không tạo ra kẽ hở hay điểm nào
mơ
hồ, gây tranh cãi; không ai có thể hiểu nhầm.
- Tổng quát: Hiến pháp phải nêu đầy đủ các khía cạnh trong nội
dung chính đã nêu ở trên.
1. Hà Nội Mới đưa tin, chuyên trang Người Đồng Hành của tạp
chí điện tử Nhịp Sống Số
dẫn lại:
http://ndh.vn/10-thang-10-000-van-ban-phap-luat-vi-hien-trai-luat-201501
1608124138p145c151.news
Chính trị bình dân | 353
- Súc tích: Câu từ trong hiến pháp phải cô đọng, hàm súc. Hiến
pháp cũng chỉ quy định những điều căn bản nhất, quan trọng nhất
liên quan tới nội dung. (Tất nhiên, không được bỏ sót những
điều
quan trọng).
- Linh hoạt: Hiến pháp không được quá cứng nhắc, không thể
sửa đổi. Nó vẫn phải đảm bảo cơ chế để có thể sửa đổi nếu cần.
* * *
LUẬT PHÁP
T.H. Green định nghĩa: “Luật pháp là hệ thống các quyền và
nghĩa
vụ mà nhà nước cưỡng chế thi hành”. Sidgwick định nghĩa: “Luật
pháp là bất cứ quy tắc chung nào để thực hiện hoặc không thực
hiện một loại hành vi nào đó, và nếu không tuân thủ thì người
không tuân thủ sẽ phải chịu một hình phạt nào đó”. 1
Triết gia cộng sản Karl Marx có một định nghĩa phản ánh cái
mà ông gọi là “tính giai cấp của pháp luật”, rằng “pháp luật
là ý chí
của giai cấp thống trị được đề lên thành luật”. Đây quả là một
định
nghĩa rất nặng tính giai cấp.
Có nhiều định nghĩa khác về luật pháp. Một cách trung tính,
có
thể định nghĩa luật pháp là “một tập hợp các quy tắc công cộng
và
có thể thực thi, được áp dụng trong toàn thể cộng đồng chính
trị,
có tính ràng buộc”. 2
Định nghĩa này không nặng nề tính giai cấp,
nhưng các bạn nên lưu ý từ “chính trị”. Thật vậy, luật pháp
có liên
quan chặt chẽ đến chính trị, đến thể chế.
Vì luật pháp điều chỉnh hành vi trong quan hệ xã hội (quan hệ
giữa người với người), cho nên nó chắc chắn phải có ý nghĩa
chính
trị. Ở khía cạnh chính trị đó, các tác giả phương Tây đều hiểu
luật
1. “Political science”, Government of Tamilnadu, India, 2003
2. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Palgrave
Foundations, 2007.
354 | Phạm Đoan Trang
pháp như công cụ để bảo vệ trật tự và văn minh, và nếu không
có
luật pháp thì xã hội rơi vào trạng thái tự nhiên – dã man,
phi văn
minh – trong đó cá nhân nào cũng có quyền tự do xâm phạm đến
tự do của cá nhân khác. Vì thế, luật là để bảo vệ mỗi thành
viên
trong xã hội khỏi phần còn lại của xã hội, bảo vệ quyền và tự
do của
thành viên đó khỏi những người khác.
Điều này thật khác với cách hiểu “chính thống” về luật ở Việt
Nam dưới thời cộng sản. Quan chức, công chức, công an... đều
tin
rằng luật pháp là công cụ quản lý nhà nước, và theo nghĩa đó
thì nó
chẳng liên quan gì đến quyền và tự do. Ngược lại, luật phải
làm sao
để tạo thuận lợi tối đa cho công tác quản lý của nhà nước.
Còn nếu mở rộng thêm cách hiểu của phương Tây về luật pháp,
ta sẽ thấy như vậy, trên nguyên tắc, luật pháp và chính trị bắt
buộc
phải tách biệt với nhau, để luật pháp không trở thành công cụ
hỗ trợ
cho nhà nước áp chế nhân dân, người giàu áp chế người nghèo,
đàn
ông áp chế phụ nữ... Cũng vậy, tư pháp bắt buộc phải độc lập,
nằm
ngoài và không chịu ảnh hưởng của chính trị. Trong khi đó, với
cách
hiểu của Việt Nam về luật pháp, thì tư pháp không thể độc lập.
* * *
SỰ KHÁC NHAU GIỮA “RULE OF LAW” VÀ “RULE BY LAW”
Bây giờ chúng ta sẽ bàn đến một vấn đề gây tranh cãi rất lớn ở
Việt
Nam và... Trung Quốc, đó là cách dịch (sang tiếng Việt và tiếng
Trung) hai khái niệm: “rule of law” và “rule by law”. Để dịch
sang
tiếng Việt được chính xác hai khái niệm này thì trước hết phải
hiểu
bản chất chúng là gì, theo cách định nghĩa của phương Tây.
“Rule of law” có nghĩa là tất cả mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật, cho dù đó là người đứng đầu cơ quan lập pháp, hành
pháp hay tư pháp, là đảng cầm quyền hay một tổ chức phi chính
phủ nhỏ bé. Không một ai đứng trên pháp luật, không một ai có
quyền hoặc nghĩa vụ nhiều hơn luật định.
Chính trị bình dân | 355
Còn “rule by law” nghĩa là luật pháp được sử dụng như một
công cụ để quản lý, để cưỡng chế và đàn áp. “Rule by law” đòi
hỏi
một sự trung thành tuyệt đối với pháp luật, kể cả là trung
thành mù
quáng với một thứ pháp luật bất công, hà khắc, độc đoán;
nhưng
lại chỉ đòi hỏi điều đó từ những người bị cai trị mà thôi.
Luôn luôn
có một tầng lớp – một cá nhân hoặc một nhóm – nắm quyền lực
lập pháp, ở trên luật pháp, và hưởng những đặc quyền, đặc lợi
do
việc ở trên luật pháp đó tạo ra. Tầng lớp đó sẽ luôn lợi dụng
luật
pháp làm công cụ để cai trị những người khác.
Như vậy, bạn có thể thấy: Một chính quyền độc tài sẽ “rule by
law” khi nó dùng luật pháp làm công cụ để tiện bề cai trị dân
chúng
– ngôn ngữ cộng sản gọi là “tạo thuận lợi cho công tác quản
lý”, “vì
mục tiêu quản lý nhà nước”. Nó “rule by law” không phải vì nó
thượng tôn pháp luật, mà vì “rule by law” đem lại thuận tiện
cho
nó. Và bởi luật pháp làm ra chỉ để cai trị dân, còn chính quyền
thì
được “đặc cách”, làm sai cũng không phải chịu trách nhiệm gì,
nên
đất nước đó không có “rule of law”.
Với cách hiểu ấy, ta có thể dịch “rule of law” là pháp trị,
hoặc
“pháp quyền” như nhiều người lâu nay vẫn gọi – hàm ý pháp luật
ở
trên tất cả, pháp luật trị vì tất cả, quyền lực của pháp luật
là cao
nhất. Còn “rule by law” là tận dụng luật pháp để cai trị, có
thể dịch
nó là “ỷ pháp trị quốc” như gợi ý của luật sư Trần Quỳnh Vi,
biên
tập viên Luật Khoa tạp chí.
Ngày 12/6/2011, trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại
Sài Gòn,
facebooker Phan Nguyên bị an ninh mặc thường phục đánh đập
tàn nhẫn
ở khu vực Nhà Thờ Đức Bà. Bức ảnh Phan Nguyên bị quật ngã lan
truyền
trên mạng xã hội; bản thân Phan Nguyên cũng viết bài trên mạng
kể lại
câu chuyện. Nhưng không một nhân viên công quyền nào bị xử lý
vì vụ
việc này. Phía công an nghiễm nhiên cho rằng đó là ảnh giả,
chuyện bịa.
356 | Phạm Đoan Trang
Cũng trong tháng 7/2011, vào chiều mồng 2, một cô gái 18 tuổi
tên là
Phạm Thị Mỹ Linh, do bức xúc với cảnh sát giao thông nên đã
tát một
cảnh sát giao thông trên đường Lê Văn Khương (phường Thới An,
quận
12, TP. HCM). Hình ảnh cũng bị quay clip; clip này nhanh
chóng được
công an sử dụng. Ngày 20/7, cô Linh bị công an quận 12, TP.
HCM, khởi
tố vì tội “chống người thi hành công vụ”. Cô lĩnh án 9 tháng
tù.
... Ngày 7/4/2016, tại Hà Nội, Trung úy Nguyễn Văn Bắc (SN
1983, cảnh
sát khu vực phường Trung Liệt, quận Đống Đa) bất thình lình
kiểm tra
nhà dân nhưng bị từ chối. Trung úy đã nhổ nước bọt vào mặt cô
Trần
Phương Linh (SN 1992) và bị quay clip. Clip lan nhanh trên mạng
xã hội
trong ngày 8/4, buộc công an quận Đống Đa phải vào cuộc xác
minh.
Trung úy Bắc ban đầu phủ nhận việc nhổ nước bọt, nhưng cuối
cùng,
ngày 11/4, đã chấp nhận xin lỗi cô Linh, ngoài ra không bị xử
lý gì thêm.
Ngày 14/4/2016, tại TP.HCM, Thượng sĩ công an Lương Việt Hà
dùng thế
võ hiểm quật ngã anh Phạm Thiện Minh Phong, một người bán
hàng
rong, gây chấn thương. Lý do là anh Phong không chịu đóng
700.000
đồng “hụi chết” mỗi tháng như những người bán hàng rong khác.
Thượng
sĩ Việt Hà sau đó cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự gì
về hành
động của mình.
Mỗi năm ở Việt Nam dưới thời cộng sản, đều có hàng chục vụ cảnh
sát,
an ninh bị tố cáo lạm quyền, đánh đập người dân gây thương
tích, thậm
chí gây tử vong. Song, hầu như không có vụ nào công an bị xử
lý hoặc
phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngược lại, nếu phía dân có lời
nói hay
hành vi nào động chạm đến công an thì sự trừng phạt sẽ đến rất
nhanh
chóng và hình phạt rất nghiêm khắc. Bộ luật Hình sự có rất
nhiều điều
luật được dùng để khép tội dân một cách dễ dàng: Điều 245
“gây rối trật
tự công cộng”, Điều 257 “chống người thi hành công vụ”, Điều
258 “lợi
dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích nhà nước”...
Tình trạng ấy nói lên một sự thật: Luật pháp ở nước CHXHCN Việt
Nam
chỉ là công cụ để nhà nước quản lý, hay là chỉ dùng cho dân.
Công an – với
vai trò lực lượng bảo vệ chế độ – thường được ưu ái, được luật
pháp ưu
tiên bảo vệ. Việt Nam dưới thời cộng sản là một chế độ “rule
by law”, nơi
không tồn tại “rule of law”.
Vấn đề “rule by law” cũng đưa đến một câu chuyện khác, đó là
việc nhiều người có quan điểm duy luật, họ hướng tới và đòi hỏi
xã
hội phải thượng tôn luật pháp, bất kể luật pháp đó như thế
nào. Ví
dụ, nếu luật pháp không thừa nhận hôn nhân đồng tính thì quan
điểm duy luật cho rằng việc hai người đồng tính lấy nhau chắc
chắn là hành vi phạm pháp và phải bị trừng phạt. Tương tự,
cho dù
Chính trị bình dân | 357
công an có lạm quyền, hành hung, bắt người tùy tiện (như
trong vụ
cưỡng chế đất ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức), nhưng nếu dân
chống lại thì tức là phạm tội chống người thi hành công vụ; nếu
dân “cả gan” bắt giữ công an thì thậm chí còn phạm tội bắt
người
trái pháp luật, khủng bố.
Trong một xã hội “rule of law”, quan điểm thượng tôn pháp luật
đó là đúng đắn, tiến bộ. Nhưng trong một xã hội “rule by
law”, quan
điểm đó dĩ nhiên sẽ được chính quyền độc tài rất ưa thích và
lợi
dụng: Nhà nước cứ việc ban hành thật nhiều đạo luật “tạo thuận
lợi
cho công tác quản lý”, siết chặt tự do của dân chúng, và cưỡng
bức
dân chúng phải phục tùng. Và nếu luật bất công mà ta cũng phải
tuân thủ, thì lịch sử thế giới sẽ không còn ghi nhận công lao
của
Mahatma Gandhi, Rosa Parks, Martin Luther King – những người
bất tuân dân sự nổi tiếng – nữa.
“Làm sao chúng ta có thể cổ súy cho việc vi phạm một số luật
và tuân thủ
một số khác? Câu trả lời nằm ở một thực tế là có hai loại luật:
công bằng
và bất công. Tôi sẽ là người đầu tiên cổ súy cho việc tuân thủ
những đạo
luật công bằng. Con người ta không chỉ có trách nhiệm pháp lý
mà còn có
cả trách nhiệm đạo đức buộc ta phải tuân thủ các đạo luật
công bằng.
Ngược lại, con người cũng có trách nhiệm đạo đức là phải bất
tuân những
luật không công bằng. Thánh Augustine nói đúng, ‘luật bất
công thì
không phải là luật’”.
“Luật nào nâng phẩm tính của con người lên là luật công bằng.
Luật nào
hạ thấp nhân tính là luật bất công”.
(“Lá thư từ ngục Birmingham”, Martin Luther King, 16/4/1963)
Bài đọc
BẢN HIẾN PHÁP VANG VỌNG TIẾNG DÂN 1
Tôi viết bài này cách đây gần ba năm. Bây giờ nếu viết lại,
có thể tôi
sẽ viết khác nhiều, nhất là sẽ có cảm giác ngờ vực ở tính dân
chủ
của cuộc bầu cử Quốc hội khóa I khi theo thống kê thời đó,
“89%
cử tri trên cả nước đã đi bầu, có nhiều nơi tới 95%”.
Nhưng tôi vẫn tin hiến pháp 1946 mà Quốc hội khóa I thông
qua là bản hiến pháp vì nhân dân nhất trong các bản hiến pháp
của
Việt Nam, ít nhất thì nó cũng không dành ưu tiên cho một đảng
chính trị nào, không chủ trương đấu tranh giai cấp; nó bảo đảm
quyền tư hữu tài sản của công dân và quy định “Nghị viện họp
công khai, công chúng được vào nghe”.
* * *
Nói về Hiến pháp 1946, rất nhiều người cho rằng đó là hiến
pháp nhân bản nhất, dân chủ nhất và đoàn kết dân tộc nhất.
Không
chỉ thế, bản hiến pháp đầu tiên của Việt Nam còn được hình
thành,
soạn thảo và thông qua trong một hoàn cảnh lịch sử, đầy cam
go
gian khổ nhưng vẫn đảm bảo tinh thần “dân là gốc”, dân là tất
cả.
Theo Phó Giáo sư sử học Lê Mậu Hãn, “nói tới Hiến pháp 1946
1. Bản gốc bài viết này đăng trên báo Pháp luật TP. HCM ngày
18/8/2010, link gốc tại:
http://plo.vn/thoi-su/chinh-tri/ban-hien-phap-vang-vong-tieng-dan-177600.html.
Ở đây là bài đăng lại trên blog cá nhân của tác giả, ngày
13/5/2013.
360 | Phạm Đoan Trang
là phải nói tới Hồ Chí Minh và cuộc Tổng tuyển cử 1946”. Bản
hiến
pháp đầu tiên của Việt Nam ra đời năm 1946, nhưng tư tưởng của
Hồ Chí Minh về một nhà nước dân chủ cộng hòa, một chính quyền
của toàn dân, thì đã hình thành từ rất lâu trước đó. Ngay từ
năm
1919 khi gửi “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đến Hội nghị
Versailles, Người đã thể hiện tư tưởng lập hiến của mình.
Trong 8
điều yêu sách, điều thứ bảy yêu cầu phải có hiến pháp cho
nhân
dân Việt Nam: “Bảy xin Hiến pháp ban hành/ Trăm điều phải có
thần linh pháp quyền” (Việt Nam yêu cầu ca – diễn ca của bản
yêu
sách, do Hồ Chí Minh soạn để tuyên truyền).
Ngày 03/9/1945, chỉ một ngày sau lễ Tuyên bố độc lập, trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói tới việc “phải có một hiến pháp dân chủ”, và đề
nghị
Chính phủ “tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu” để bầu ra Quốc dân đại hội xây dựng
hiến pháp.
Ngày 8/9, Chính phủ ra Sắc lệnh 14-SL nêu rõ: “... nhân dân
Việt Nam do Quốc dân đại hội thay mặt là quyền lực tối cao để
ấn
định cho nước Việt Nam một hiến pháp dân chủ cộng hòa”. Sắc
lệnh cũng tuyên bố tiến hành Tổng tuyển cử.
CUỘC TỔNG TUYỂN CỬ LỊCH SỬ
Cuộc tuyển cử dân chủ - nơi ngọn nguồn phản ánh tinh thần Hiến
pháp 1946 – đã diễn ra trong tình hình chính trị - kinh tế -
xã hội
cực kỳ khó khăn, trong hoàn cảnh thù trong giặc ngoài. Đó thực
chất là một cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt để bảo vệ quyền
làm
chủ của người dân, quyền tự quyết của dân tộc. Về đối nội,
các tài
liệu về lịch sử Quốc hội ghi lại: Các báo như Việt Nam, Thiết
Thực,
Đồng Tâm... (của hai đảng Việt Quốc, Việt Cách) nói xấu Việt
Minh quyết liệt, kêu gọi tẩy chay Tổng tuyển cử vì cho là
trình độ
dân trí của nước ta còn thấp, quần chúng không đủ năng lực thực
hiện quyền công dân, cần tập trung chống Pháp chứ không nên
mất thì giờ vào bầu cử v.v.
Chính trị bình dân | 361
Đáp lại, báo Cứu Quốc của Mặt Trận Việt Minh số ra ngày
24/11/1945 khẳng định: “Chỉ Tổng tuyển cử mới để cho dân
chúng
có dịp nói hết những ý muốn của họ (...). Sau hết, cũng chỉ
có
Tổng tuyển cử mới có thể cấp cho nước Việt Nam một hiến pháp
mới ấn định rõ ràng quyền lợi của quốc dân...”.
“Về đối ngoại, ở miền Bắc, Tàu Tưởng và tay sai ra sức gây rối,
phá hoại Tổng tuyển cử (cướp hòm phiếu, hành hung tự vệ tại Hải
Phòng). Ở Nam Bộ, thực dân Pháp khủng bố ác liệt, ném bom
nhiều nơi. Hàng chục người đã chết và bị thương, nhưng người
dân vẫn đi bỏ phiếu lưu động, đổ xương máu thực hiện quyền tự
do dân chủ. 89% cử tri trên cả nước đã đi bầu, có nhiều nơi tới
95%” (báo Sự Thật, số ra ngày 10/1/1946).
Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam ra đời như thế.
Ứng cử viên Đại biểu Quốc hội khóa I trong lễ ra mắt cử tri tại
Việt Nam Học
xá (về sau là Đại học Bách khoa Hà Nội).
Chính Quốc hội này, vào sáng 2/3/1946, đã họp kỳ họp đầu tiên
với thời gian ngắn kỷ lục: 4 tiếng đồng hồ, trong hoàn cảnh nền
độc
lập nước nhà bị thực dân Pháp lăm le xâm phạm. Tại đây, Quốc
hội
bầu ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người: Trần Duy Hưng, Tôn
Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh
362 | Phạm Đoan Trang
Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương,
Phạm Gia Đỗ, Nguyễn Thị Thục Viên. Tất cả đều là những nhà
trí
thức, đại diện cho các đảng phái khác nhau (như Phạm Gia Đỗ
là
thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng, tức Việt Quốc).
QUYẾT LIỆT VÀ DÂN CHỦ
Theo một số tài liệu, Hiến pháp 1946 tập hợp những kiến nghị
phong phú của toàn dân và tham khảo kinh nghiệm về Hiến pháp
các nước Âu – Á. Tuy nhiên, Phó Giáo sư sử học Lê Mậu Hãn cho
biết, sau nhiều năm nghiên cứu, ông vẫn không tìm ra được nguồn
văn bản cụ thể mà Hiến pháp có tham khảo. Song những người
soạn thảo Hiến pháp 1946 đều là trí thức xuất thân từ hệ thống
đào
tạo của Pháp, hấp thu tư tưởng phương Tây, nên có thể nói bản
hiến pháp có tinh thần dân chủ, pháp quyền rõ nét.
Ban dự thảo Hiến pháp đã soạn bản hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam cũng trong một thời gian rất ngắn, chỉ có vài
tháng,
và bắt đầu công bố trước Quốc hội từ ngày 2/11/1946. Đỗ Đức Dục
là người thuyết trình. Đại diện của các đảng trong Quốc hội
cho ý
kiến đánh giá và phản biện: Hồ Đức Thành – đại diện Việt Nam
Cách mạng Đồng minh Hội tức Việt Cách; Hoàng Văn Đức – đại
diện nhóm dân chủ; Lê Thị Xuyến – đại diện nhóm xã hội; Nguyễn
Đình Thi – đại diện Việt Minh; Trần Trung Dung – đại diện Việt
Quốc; Trần Huy Liệu – đại diện nhóm mácxít.
Theo các tài liệu về lịch sử Quốc hội Việt Nam khóa I, quá
trình
tranh luận, tranh cãi để thông qua Hiến pháp 1946 diễn ra quyết
liệt và dân chủ. Phó Giáo sư Lê Mậu Hãn cho biết, bàn thảo
căng
thẳng nhất là ở việc quyết “một viện hay hai viện”. Chẳng hạn,
Trần
Trung Dung không đồng ý với chế độ một viện, sợ chế độ này
không thích hợp với Việt Nam, nơi dân chúng chưa được huấn
luyện nhiều về chính trị. Phạm Gia Đỗ cũng phản đối chế độ một
viện vì coi đó là “độc tài của đa số”. Tuy nhiên, phần đông đại
biểu
lại tán thành một viện. Đào Trọng Kim nói rằng một viện là
phù
Chính trị bình dân | 363
hợp, “chế độ tập quyền và phân công rất thích hợp để có thể ứng
phó mau lẹ với thời cuộc”.
Trần Trung Dung nói nhiều đến quyền tự do của công dân và
chỉ trích Chính phủ trong một năm cầm quyền chưa cho dân
chúng được hưởng quyền tự do. Phạm Văn Đồng ngắt lời, phản
bác Trần Trung Dung phê phán như thế là không đúng trong điều
kiện Chính phủ phải nỗ lực đấu tranh đối ngoại gay go để giữ
vững
độc lập...
Sau nhiều buổi thảo luận và tranh luận từng điều cụ thể, tới
ngày 9/11/1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua bản hiến
pháp
đầu tiên với 240/242 phiếu thuận. Hai phiếu không tán thành
là
của Nguyễn Sơn Hà và Phạm Gia Đỗ. Đại biểu Nguyễn Sơn Hà bỏ
phiếu chống vì Hiến pháp không có điều nói về tự do kinh
doanh.
Còn Đại biểu Phạm Gia Đỗ bảo lưu việc phản đối chế độ một viện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: “Hơn 10 ngày nay các đại biểu
đã khó nhọc làm việc. Quốc hội đã thu được một kết quả làm vẻ
vang cho đất nước là đã thảo luận xong bản hiến pháp”. Tuy
“chưa
hoàn toàn” nhưng nó “tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc
lập, dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do (...), phụ nữ
Việt
Nam đã được ngang hàng với đàn ông để hưởng chung mọi quyền
tự do đó của một công dân”.
Do hoàn cảnh chiến tranh đang lan rộng, nên Quốc hội, mặc dù
thông qua Hiến pháp, đã quyết định không đưa Hiến pháp ra
trưng
cầu dân ý, đồng thời biểu quyết chưa ban hành, thi hành Hiến
pháp
ngay. Việc bầu Nghị viện nhân dân (Điều 24 quy định Nghị viện
do
công dân Việt Nam bầu ra, ba năm một lần) cũng không thể tổ
chức được.
Dù vậy, được soạn thảo và thông qua một cách dân chủ, bởi một
Quốc hội được bầu ra một cách dân chủ, Hiến pháp 1946 là bản
hiến pháp có rất nhiều giá trị. Nó khẳng định quyền tự do,
quyền
làm chủ đất nước của toàn dân, thể hiện sâu sắc tư tưởng giải
phóng
dân tộc, độc lập – tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đánh giá về
nó,
364 | Phạm Đoan Trang
TS luật Phạm Duy Nghĩa, trong một bài trả lời phỏng vấn báo
Tuổi
Trẻ, đã gọi đó là bản hiến pháp mà “mỗi câu chữ đều vang vọng
tiếng dân”. Còn Phó Giáo sư sử học Lê Mậu Hãn thì nhận định:
“Chúng ta vẫn còn nợ Hiến pháp 1946 nhiều lắm”.
Bài đọc
LƯỢC SỬ CUỘC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP VIỆT NAM 1
2011
Tháng 1: Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ
XI của đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Khẩn trương nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới”. Bản báo cáo dài
hơn
100 trang, với ngôn ngữ chung chung thường lệ, không nêu cụ
thể
“tình hình mới” là như thế nào, nhưng có nhận định: “Từ cuối
năm 2007, đầu năm 2008, kinh tế và đời sống gặp nhiều khó
khăn.
Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn,
đẩy
mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình””.
2/8: Ủy ban Thường vụ Quốc hội có tờ trình lên Quốc hội “về
việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung
Hiến pháp năm 1992”.
Tờ trình khẳng định việc sửa đổi Hiến pháp là nhằm mục đích
“thể chế hóa kịp thời đường lối, các chủ trương, chính sách lớn
của
Đảng”, “việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải bám sát” các
cương
lĩnh, nghị quyết và văn kiện của Đảng, “ghi nhận những thành
quả”, “thành tựu to lớn” của đất nước “do Đảng khởi xướng”.
Tờ trình cũng đề ra một định hướng của việc sửa đổi Hiến pháp
1992 là “Khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản
1. Bài đăng trên blog cá nhân của tác giả vào ngày 28/4/2013.
Bản lược sử này chỉ được
cập nhật đến ngày 5/5/2013.
366 | Phạm Đoan Trang
Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội đã được nhân dân ta, mà đại
diện cao nhất là Quốc hội thừa nhận và ghi vào Hiến pháp”.
6/8: Quốc hội ra Nghị quyết số 06/2011/QH13 “Về việc sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992”.
Thành viên Ủy ban gồm:
- Ông Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc
hội, Chủ tịch Ủy ban.
- Ông Uông Chu Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch
Quốc hội, Phó Chủ tịch Ủy ban.
- Ông Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí
thư, Ủy viên.
- Bà Nguyễn Thị Doan, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ
tịch nước, Ủy viên.
- Ông Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng
Chính phủ, Ủy viên.
- Bà Tòng Thị Phóng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc
hội, Ủy viên.
- Ông Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị
Tất cả đều là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam và giữ chức vụ
cao trong bộ máy lãnh đạo.
24/8: Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992 họp phiên thứ
nhất.
2012
21/2: Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992 họp phiên thứ
hai,
thảo luận về “Báo cáo của Ban Biên tập về những vấn đề cơ bản
trong sửa đổi Hiến pháp năm 1992”.
22/5: Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành văn bản số 52-HD/
BTGTW, gửi các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung
ương
Hướng dẫn tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết của Hội
Chính trị bình dân | 367
nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành TW Đảng khóa XI (7/5/2012),
trong đó có “những vấn đề cơ bản định hướng việc sửa đổi Hiến
pháp 1992” (tiếp tục thể chế hóa đầy đủ và sâu sắc hơn chủ
trương
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực
nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo).
23/11: Quốc hội ra Nghị quyết “Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về
dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, đợt lấy ý kiến “bắt đầu
từ
ngày 02 tháng 01 năm 2013 và kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm
2013”.
29/12: Bộ Chính trị ra Chỉ thị “về việc tổ chức lấy ý kiến
nhân
dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, nêu rõ: “Quân ủy
Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương (...) chỉ đạo chặt chẽ
công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội;
phối
hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan kịp thời đấu tranh,
ngăn
chặn những hành vi lợi dụng dân chủ việc lấy ý kiến nhân dân
để
tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta”.
Cùng ngày, tại cuộc họp báo triển khai thực hiện việc lấy ý
kiến
nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Chủ nhiệm Ủy ban
Pháp luật Quốc hội Phan Trung Lý, Trưởng ban biên tập dự thảo
sửa đổi Hiến pháp 1992, khẳng định: “Không có điều gì cấm kỵ
khi
nhân dân góp ý sửa Hiến pháp”, “nhân dân có thể cho ý kiến đối
với
điều 4 Hiến pháp như với tất cả các nội dung khác trong dự thảo,
không có gì cấm kỵ cả”.
2013
2/1: Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 22-CT/TW về việc tổ chức lấy
ý kiến
nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Điểm số 3 và 4
quy
định:
“Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo,
kiểm tra việc lấy ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp trong lực
368 | Phạm Đoan Trang
lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; chỉ đạo chặt chẽ
công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội;
phối
hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan kịp thời đấu tranh,
ngăn
chặn những hành vi lợi dụng dân chủ việc lấy ý kiến nhân dân
để
tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta”.
“Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Cán sự Đảng Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, Ban Cán sự Đảng Bộ Thông tin và Truyền
thông chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí ở trung ương và
địa
phương có kế hoạch tuyên truyền bằng nhiều hình thức thích hợp
và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến
về
dự thảo sửa đổi Hiến pháp; mở chuyên trang, chuyên mục về dự
thảo sửa đổi Hiến pháp và phản ảnh kịp thời ý kiến đóng góp của
nhân dân”.
11/1: Giáo sư Hoàng Xuân Phú có bài viết “Hai tử huyệt của chế
độ”, nhận định:
“Có lẽ lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam quan niệm rằng quy
định về quyền lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội,
và quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản
lý
tại Điều 4 và Điều 17–18 của Hiến pháp 1992 là hai tử huyệt của
chế độ. Vì vậy, dư luận càng muốn hủy bỏ hoặc sửa đổi hai quy
định đó, thì họ càng kiên quyết bảo lưu. Chúng nằm trong định
hướng bất di, bất dịch của lãnh đạo đảng, và được tái thể hiện
tại
Điều 4 1
và Điều 57 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992”.
19/1: 72 trí thức cùng ký vào một bản kiến nghị gọi là “Kiến
nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992”, với nội dung đề nghị soạn thảo
Hiến pháp theo Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc về Quyền Con
Người, thực hiện tam quyền phân lập, thành lập tòa bảo hiến,
lực
lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ
không phải với đảng Cộng sản Việt Nam như Điều 70 của dự thảo.
1. Điều 4 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 quy định đảng
Cộng sản Việt Nam
là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Chính trị bình dân | 369
Kiến nghị được đăng tải trên trang web Bauxite Việt Nam và
Anh Ba Sàm. Sau đó, một số chuyên gia luật (ẩn danh) đã soạn
thảo
một dự thảo hiến pháp đi kèm kiến nghị này, theo đó Việt Nam
thực hiện dân chủ đa đảng. Cả dự thảo và bức kiến nghị hôm
19/01
trở thành Kiến nghị 72 - là bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp đầu
tiên không phải do Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đưa
ra
trong lần sửa đổi này.
1/2: Trang web Cùng viết hiến pháp (hienphap.net) ra đời với
mục đích “tạo ra một không gian đối thoại dân chủ về việc sửa
đổi
Hiến pháp”, như lời phi lộ của nhóm khởi xướng (gồm Giáo sư
Ngô
Bảo Châu, Giáo sư Đàm Thanh Sơn, cựu Tổng Biên tập VietNamNet
Nguyễn Anh Tuấn).
2/2: Đại biểu Quốc hội Lê Như Tiến, Phó chủ nhiệm Ủy ban
Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, trả lời
phỏng
vấn tạp chí Thanh Tra, tái khẳng định: “Không có “vùng cấm”
trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này”.
4/2: 16 đại diện của nhóm Kiến nghị 72 đến trụ sở Quốc hội tại
37 Hùng Vương (Hà Nội) gửi Kiến nghị, trưởng đoàn là ông
Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Tư pháp. Một số cơ quan báo
chí có đến đưa tin và đăng tải, như báo Pháp luật TP.HCM.
Ông Lê Minh Thông, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của
Quốc hội, Phó Ban Biên tập dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
1992, tiếp đoàn.
21/2: Một số cựu sinh viên Đại học Luật Hà Nội gửi “Kiến nghị
về việc sửa đổi Hiến pháp1992”, với hai nội dung: 1. Hủy thời
hạn
chót cho việc lấy ý kiến nhân dân; 2. Tổ chức trưng cầu dân ý
để
nhân dân thực hiện quyền phúc quyết hiến pháp.
25/2: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại một hội nghị
với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc: “Vừa rồi đã có các luồng
ý
kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng,
đạo
đức... Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ
nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng
370 | Phạm Đoan Trang
không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân
đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả
lên
phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái
chứ
còn gì nữa”.
Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng tin này trong chương
trình Thời sự 19h, và lập tức gây ra một làn sóng phản đối
trên
không gian facebook.
26/2: Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, báo Gia đình và Xã hội, có bài
viết “Vài lời với TBT ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng”, đăng trên blog
cá
nhân và có gửi cho hai trang web khác là Anh Ba Sàm và Cùng
viết
Hiến pháp. Buổi sáng, Anh Ba Sàm đăng tải bài viết này. Đầu
giờ
chiều, ban lãnh đạo báo Gia đình và Xã hội tổ chức họp và chất
vấn
Nguyễn Đắc Kiên về bài viết, sau đó tuyên bố cho ông Kiên nghỉ
việc, và đăng thông báo buộc thôi việc trên trang điện tử của
báo.
28/2: Từ trang Dân Làm Báo, xuất hiện lời Tuyên bố của các
Công dân tự do. Không còn là một kiến nghị, Tuyên bố này giống
như sự thể hiện một ý chí chính trị: “Chúng tôi không chỉ muốn
bỏ
Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà chúng tôi muốn tổ chức
một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới thực sự là ý chí
của
toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như
Hiến pháp hiện hành. Chúng tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng
hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa
bình,
tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ
tư
cách gì để thao túng, toàn trị đất nước”.
1/3: Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi thư góp ý về Hiến pháp
cho Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, yêu cầu Hiến pháp
mới phải nêu rõ hơn các quyền con người, xóa bỏ đặc quyền của
bất kỳ đảng phái chính trị nào, Nhà nước không được tuyên
truyền
tiêu cực về tôn giáo và không được can thiệp vào công việc nội
bộ
của cộng đồng tôn giáo.
2/3: Đoàn công tác Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 do
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch Ủy ban dự thảo
Chính trị bình dân | 371
– dẫn đầu đã có cuộc làm việc với TP.HCM về việc tổ chức lấy
ý
kiến nhân dân đối với dự thảo sửa đổi Hiến pháp trên địa bàn
Thành phố.
Sau đó, mỗi hộ dân tại TP.HCM bắt đầu được phát một tập tài
liệu 79 trang so sánh Hiến pháp 1992 với dự thảo Hiến pháp do
Ủy
ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đưa ra. Kèm theo đó là một
bản “Phiếu lấy ý kiến nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về dự
thảo sửa đổi hiến pháp 1992”.
Bản này đưa ra hai nội dung góp ý:
- Đồng ý với toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992
- Đồng ý với những nội dung khác trong Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 và có ý kiến góp ý, đề nghị sửa đổi, bổ sung ở
những Chương, Điều, Khoản hoặc từ ngữ cụ thể.
372 | Phạm Đoan Trang
6/3: Công thư của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng gia
hạn góp ý sửa đổi Hiến pháp sẽ được dời lại đến ngày 30/9
thay vì
31/3, và đề nghị các cấp chính quyền, các cơ quan ban, ngành
địa
phương tạo điều kiện cho người dân đóng góp ý kiến.
8/3: Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) bắt đầu một chiến dịch
truyền thông vào “giờ vàng” – Chương trình Thời sự 19h hàng
ngày – với nội dung đả kích những người ký vào bản Kiến nghị
72,
và khẳng định, ca ngợi vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng Cộng
sản Việt Nam.
Cùng ngày, blog Anh Ba Sàm – trang blog mạnh mẽ nhất trong
việc đăng các bài viết, tư liệu mang các quan điểm ngoài quan
điểm
của Đảng và Nhà nước về sửa đổi hiến pháp – bị hack, toàn bộ
dữ
liệu bị xóa. Biên tập viên điều hành blog tìm cách lấy lại
quyền
kiểm soát trang web của mình, và bắt đầu cuộc chiến không cân
sức giữa “Thông Tấn Xã Vỉa Hè” và cả một quân đoàn hacker.
Đồng thời với chiến dịch truyền thông trên Đài Truyền hình
Việt Nam, các báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An
Nhân Dân, nhiều người tham gia ký Kiến nghị 72 (các đợt sau
này)
cũng phản ánh việc bị công an và chính quyền địa phương thăm
dò, hạch sách.
9/3: Báo Đại Đoàn Kết đăng bài “Sự ngụy tạo có chủ đích”, khẳng
định phần lớn những người ký tên vào Kiến nghị 72, tại địa
bàn
tỉnh Hà Tĩnh, đều là những địa chỉ không có thực và bị giả mạo.
Kết luận của nhóm tác giả bài báo: “Việc ngụy tạo tên người
dân
nhằm tạo sức ép với Đảng và Nhà nước đã khiến việc dân chủ lấy
ý kiến đóng góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã bị lợi
dụng
làm méo mó, biến dạng là động cơ chính trị không trong sáng của
một số người có tư tưởng đối lập”.
10/3: Đài Truyền hình Việt Nam hưởng ứng báo Đại Đoàn Kết
với phóng sự “Mạo danh chữ ký kiến nghị sửa đổi hiến pháp”
trong
Bản tin Thời sự 19h. Phóng sự ghi hình bà Nguyễn Thị Hường,
Phó Hiệu trưởng trường Đại học Hà Tĩnh, cho biết: “Riêng điều
4
Chính trị bình dân | 373
Hiến pháp, các em sinh viên đều hoàn toàn đồng tình, không có
bất kỳ ý kiến trái chiều nào”.
12/3: Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng
Cộng sản Việt Nam, có bài viết “Khi phản biện xã hội được sử
dụng
như một chiêu bài” của tác giả Huỳnh Tấn, bóng gió rằng các
tác
giả của những bản kiến nghị trên Internet chắc là “không có
việc gì
làm”, “chống Đảng”.
13/3: Hacker tiếp tục cướp các địa chỉ khác (mới lập) của Anh
Ba Sàm, tung lên những hình ảnh nguỵ tạo về một biên tập viên
trang này nhằm mục đích bôi nhọ.
15/3: Anh Ba Sàm tiếp tục blogging ở địa chỉ mới.
17/3: Công An Nhân Dân đăng bài của tác giả Phương Nhi,
nhấn mạnh rằng khẳng định Điều 4 Hiến pháp là một phần của lịch
sử lập hiến Việt Nam, bảo vệ Điều 4 là bảo vệ chủ quyền dân tộc,
thành quả cách mạng, tôn trọng lịch sử và phẩm giá của dân tộc.
18/3: Báo Quân Đội Nhân Dân có bài xã luận khẳng định quân
đội không thể thoát ly sự lãnh đạo của Đảng. VTV hưởng ứng.
Một số người dân TP.HCM bắt đầu phản ánh lên facebook,
trang Bauxite Việt Nam và trang Anh Ba Sàm, về việc bị cán bộ
địa
phương (người của tổ dân phố, phường...) đến nhà “hướng dẫn”
ký xác nhận đồng ý vào Phiếu lấy ý kiến, ví dụ: “Chỉ cần ghi
“Đồng
ý” là xong”, “Nên tránh ghi phần 2, nhất là về Điều 4 và các
điều về
công an. Nếu ai ghi phần 2 thì các tổ trưởng nhớ ghi nháy
thêm địa
chỉ nhà hộ đó”.
20/3: VTV và Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Tĩnh, ông Từ
Văn Diện, cùng khẳng định Thái Bình và Hà Tĩnh là hai mảnh đất
rất giàu truyền thống cách mạng, nhưng lại có rất nhiều người
bị
ngụy tạo chữ ký vào bản Kiến nghị 72, chứng tỏ đây là “việc
làm có
mưu đồ chính trị chống phá đường lối chủ trương của Đảng và
chính sách pháp luật của Nhà nước”.
374 | Phạm Đoan Trang
Tuy nhiên, VTV và ông Từ Văn Diện không đưa ra bằng chứng
cụ thể nào về sự nguỵ tạo. 10 ngày sau, Giáo sư Hoàng Xuân
Phú
chỉ ra điều đó trong bài viết “Chẳng nhẽ độc quyền cả nói dối
hay
sao?”, đăng trên blog cá nhân, và blog Anh Ba Sàm đăng lại.
22/3: VTV phỏng vấn ông Nguyễn Đình Lộc, cựu Bộ trưởng
Tư pháp, thành viên của Kiến nghị 72. Ông Lộc nói: “(...) những
cái bản ấy tôi không tham gia. Tôi không tham gia. Tôi không
tham
gia vào việc xây dựng cái tờ văn bản ấy”.
Cùng ngày, trên Đài Tiếng nói Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ
Thế Tùng, nguyên Viện trưởng Viện kinh tế, Học viện chính trị
-
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, khẳng định sở hữu toàn dân
về đất đai là tất yếu.
2/4: Nhóm khởi xướng Kiến nghị 72 ra một bản thông báo,
tuyên bố rõ: “Dùng bạo lực và những thủ đoạn chính trị để duy
trì
chế độ toàn trị, cưỡng lại ý chí của nhân dân sẽ gây nguy hại
lớn
cho đất nước, cho dân tộc và cho cả đảng Cộng sản Việt Nam”.
3/4: Tỉnh Bình Dương tổ chức họp báo công bố kết quả lấy ý
kiến nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, theo đó, số lượt ý kiến
đóng
góp từ ngày 12/3 tới ngày 27/3 trong toàn tỉnh lên tới
44.459.628
trên tổng dân số 1,7 triệu người. Trong số ý kiến đóng góp
này, có
44.455.188 người tán thành nguyên văn với bản Dự thảo Hiến
pháp, chiếm tỷ lệ 99,99% dân số tỉnh Bình Dương.
13/4: Nhóm Các Công dân Tự do ra tuyên bố thứ hai, “Quyền
lập hiến phải thuộc về nhân dân”, kêu gọi từ chối, bất hợp
tác với
mọi hành vi cưỡng ép ký nhận các văn bản liên quan đến Hiến
pháp, yêu cầu chính quyền chấm dứt việc đến từng nhà dân ép
ký
tên vào kiến nghị, ra văn bản nghiêm cấm và nghiêm trị mọi
phát
biểu và hành vi đe doạ những người dân muốn nêu ý kiến độc lập
về Hiến pháp.
21/4: Báo Quân Đội Nhân Dân trích lời Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội cho biết, “Sau 3 tháng triển khai nghiêm túc, dân chủ
Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Bộ Chính trị về tổ chức
lấy ý
Chính trị bình dân | 375
kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đã có
hơn
26 triệu lượt ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân về Dự
thảo
sửa đổi Hiến pháp năm 1992, với 28.140 hội nghị, hội thảo, tọa
đàm lấy ý kiến góp ý”.
Chương II
LẬP PHÁP
Đây là một trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ máy nhà
nước. Thực thể này có nhiều cách gọi khác nhau: hội đồng quốc
gia, hội đồng lập pháp, nghị viện, “nhà của các vị đại diện”...
Đôi
khi “nhà của các vị đại diện” chính là hạ viện trong hệ thống
lưỡng
viện, vì hạ viện có tính đại diện cao hơn thượng viện.
Ở Trung Quốc, cơ quan lập pháp được gọi bằng cái tên “Đại hội
Đại biểu Nhân dân Toàn quốc”, gọi tắt là Nhân Đại Toàn Quốc.
CHXHCN Việt Nam gọi nó là Quốc hội. Để đơn giản, chương này
sẽ dùng cách gọi “cơ quan lập pháp” hoặc “quốc hội”.
Vậy quốc hội là gì? Đó là một tập hợp người được coi là đại
diện
của nhân dân, và nó có một số chức năng như sau: 1. Làm luật
(thành văn); 2. Soạn và sửa đổi hiến pháp; 3. Đại diện cho
dân; 4.
Bầu chọn nhân sự lãnh đạo; 5. Giám sát; 6. Tài chính; 7. Chức
năng
gần như hành pháp; 8. Chức năng gần như tư pháp; 9. Điều tra;
10.
Thông tin. Sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về từng chức
năng
của nhánh lập pháp.
* * *
CHỨC NĂNG CỦA QUỐC HỘI
(Các mục 1, 2, 4, 6, 7, 8, 9, 10 được trích từ cuốn
“Governing: An
Introduction to Political Science” của học giả chính trị
Austin
378 | Phạm Đoan Trang
Ranney. Các chú thích trong ngoặc đơn là của tác giả Ranney,
trong
ngoặc vuông là của người dịch.)
1. Làm luật thành văn
Chức năng đầu tiên của cơ quan lập pháp trong các thể chế dân
chủ
hiện đại là làm ra những đạo luật thành văn. Tôi [tác giả
Austin
Ranney] dùng khái niệm làm ra luật thành văn chứ không phải
làm
luật nói chung, bởi vì cụm từ làm ra luật thành văn mô tả
chính xác
hơn những gì lập pháp thực sự làm. Luật pháp là những quy tắc
ứng xử xuất phát chính thức từ bất kỳ cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nào [nghĩa là có thể từ chính phủ hoặc từ tòa án],
trong khi
luật thành văn là những đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành
chính thức. Luật thành văn cấu thành một bộ phận quan trọng
trong toàn bộ hệ thống luật pháp của bất cứ thể chế dân chủ
nào,
nhưng hệ thống luật pháp cũng có thể bao gồm cả những bộ phận
khác, như luật chung và các nguyên tắc về công lý tự nhiên,
do tòa
án tạo ra, và cả những nghị định và quy định của cơ quan hành
pháp và hành chính. Do đó, cơ quan lập pháp độc quyền về việc
làm ra các luật thành văn, nhưng không giữ độc quyền về việc
làm
ra luật nói chung.
2. Soạn thảo và sửa đổi hiến pháp
Trong hầu hết các nền dân chủ, cơ quan lập pháp đều có quyền
lực
nhất định trong việc xây dựng và sửa đổi hiến pháp quốc gia.
Nhiều
bản hiến pháp được khởi thảo bởi quốc hội, và mọi cơ quan lập
pháp đều có quyền đóng một vai trò nào đó trong việc sửa đổi
hiến
pháp một cách chính thức. Ở một số quốc gia dân chủ, ví dụ
Anh
và New Zealand, lập pháp là cơ quan duy nhất được quyền sửa
hiến
pháp. Ở nhiều nước khác, như Úc, Thụy Sĩ, Pháp (và hầu hết
các
nước châu Mỹ), thông thường cơ quan lập pháp đề nghị sửa đổi
hiến pháp, và cử tri phê chuẩn hoặc bác bỏ các đề nghị, đề xuất
đó,
thông qua trưng cầu dân ý. Ở một số nước khác nữa, như Hoa Kỳ,
việc sửa đổi hiến pháp do cơ quan lập pháp của liên bang đề
nghị
Chính trị bình dân | 379
và phải được phê chuẩn bởi cơ quan lập pháp của các tiểu bang
hoặc bởi một đại hội toàn quốc.
3. Đại diện cho dân
Với chức năng này, quốc hội đóng vai trò như mắt xích liên kết
giữa
chính phủ và nhân dân, trong đó, quốc hội đứng về phía dân và
đại
diện cho dân. Đây là chức năng cực kỳ quan trọng của quốc hội.
Khả năng đại diện cho nhân dân của quốc hội cao đến đâu thì
chứng tỏ nhà nước dân chủ đến đó. Nói cách khác, khả năng quốc
hội đại diện cho nhân dân chính là một trong số các chỉ dấu về
mức
độ dân chủ của quốc gia. (Xem Chương III, “Về tính đại diện”,
ở
Phần III, Dân chủ).
Ở Việt Nam dưới thời cộng sản, do độc đảng và bầu cử phi dân
chủ, tính đại diện của Quốc hội được tuyên giáo hiểu là mức độ
mà
quốc hội đại diện được cho cả nước, tức là mức độ Quốc hội phản
ánh cả xã hội, làm sao để Quốc hội như một xã hội thu nhỏ, có
đủ
thành phần về giới tính, dân tộc, nghề nghiệp... (Xem Chương
VII, “Hệ thống chính trị CHXHCN Việt Nam”, của Phần VI này).
4. Bầu chọn nhân sự lãnh đạo
Cơ quan lập pháp ở hầu hết các nước dân chủ đều có vai trò
quan
trọng trong việc lựa chọn ra một số hoặc tất cả các chức vụ
hành
pháp cao cấp nhất. Ví dụ nổi bật là những cuộc “bầu cử” gián
tiếp
của cơ quan lập pháp để chọn ra thủ tướng, ở một số nước theo
chế
độ cộng hòa đại nghị. Tất nhiên, không phải lúc nào cơ quan lập
pháp cũng bỏ phiếu trực tiếp để chọn ra người vào vị trí này
trong
số rất nhiều ứng cử viên khác nhau. Nhưng cứ mỗi khi họ bỏ
phiếu
bất tín nhiệm thì, trên thực tế, điều đó có nghĩa là họ đang
tiến
hành bầu lại hoặc bãi miễn một vị thủ tướng đã từng được bầu
chọn: Nếu việc bất tín nhiệm được thông qua thì thủ tướng phải
từ
chức; nếu không thông qua được thì thủ tướng tiếp tục tại vị.
Ngay cả trong chế độ cộng hòa tổng thống, cơ quan lập pháp
cũng có quyền bầu chọn nhân sự. Chẳng hạn, Hiến pháp Mỹ quy
380 | Phạm Đoan Trang
định rằng, nếu không có ứng viên tổng thống hoặc phó tổng thống
nào kiếm được đa số phiếu của Đại Cử tri Đoàn, thì Hạ viện sẽ
chọn ra tổng thống từ hai hoặc ba ứng viên có số phiếu lớn nhất,
và
Thượng viện sẽ chọn phó tổng thống theo một cách khác. Chưa
có
tổng thống hay phó tổng thống nào được bầu lên thông qua cơ
chế
này suốt từ năm 1824 đến nay (năm đó, không ứng viên nào
giành
được đa số phiếu đại cử tri, nên Hạ viện chọn John Quincy
Adam
là người chiến thắng, trước Andrew Jackson và William H.
Crawford). Tuy nhiên, Quốc hội Mỹ vẫn giữ quyền bầu chọn nhân
sự, phòng có ngày lại cần dùng đến.
5. Giám sát
Thực hiện chức năng này có nghĩa là quốc hội phải buộc được
chính phủ minh bạch, báo cáo, giải trình và chịu trách nhiệm
trước
quốc hội (cũng có nghĩa là trước nhân dân, vì quốc hội đại diện
cho
dân) về mọi hoạt động của chính phủ. Quốc hội và chính phủ
làm
điều đó thông qua các báo cáo thường xuyên, các cuộc chất vấn
và
giải trình, mà ở Mỹ gọi là “điều trần”.
Quốc hội thường được gọi là “cơ quan lập pháp”, nên người ta
dễ nghĩ rằng làm luật là chức năng chính của quốc hội. Tuy
nhiên,
các nhà khoa học chính trị nhận xét rằng, trong các nền dân
chủ
hiện đại, vai trò làm luật của quốc hội ngày càng giảm đi,
trong khi
vai trò giám sát chính phủ ngày càng tăng lên.
Ở các chế độ đại nghị như Anh quốc, khi mà đảng chiếm đa số
thành viên trong quốc hội cũng là đảng cầm quyền, thì vai trò
giám
sát của quốc hội do đảng đối lập nắm.
Khả năng giám sát chính phủ của quốc hội cũng là chỉ dấu cho
thấy sức mạnh của quốc hội và nền dân chủ của đất nước. Rõ
ràng
là, muốn giám sát được chính phủ thì quốc hội cần được tiếp cận
thông tin, nhất là thông tin từ chính phủ, và nói rộng ra, cần
có
nguồn lực tốt để có thể tiếp cận các dịch vụ (như nghiên cứu,
tư
vấn chuyên môn, các nguồn ý kiến chuyên gia...).
Chính trị bình dân | 381
6. Tài chính
Trong mọi nền dân chủ hiện đại, lập pháp đều nắm “sức mạnh của
hầu bao” và là cơ quan quyết định mục đích cũng như phạm vi của
mỗi thứ thuế má và công quỹ. Về mặt luật pháp, chính phủ chỉ
có
thể chi tiêu những khoản công quỹ do lập pháp cấp cho. Giống
như
nhiều chức năng khác của lập pháp, các kế hoạch chính trong
tài
chính công đều được chuyển từ cơ quan lập pháp sang cơ quan
hành pháp, trong hầu hết các thể chế dân chủ. Hiện nay, nhiều
quốc hội chỉ xem lại ngân sách do hành pháp đề xuất, thay vì
tự
soạn thảo kế hoạch ngân sách từ đầu. Mỗi cơ quan lập pháp cụ
thể
sẽ xem xét lại ngân sách này như thế nào, điều đó phụ thuộc
vào
việc hành pháp có quyền hành tới mức độ nào.
Một cách ngắn gọn, lập pháp giữ quyền xem xét, phê duyệt hoặc
bác bỏ kế hoạch ngân sách do hành pháp soạn thảo và đề xuất.
Ở Mỹ, Chính phủ chỉ được phép chi tiêu những khoản công
quỹ do Quốc hội phê duyệt, nếu không được duyệt là... phải tạm
dừng hoạt động, gọi là tạm đóng cửa.
Dòng chữ trong ảnh: Do chính phủ liên bang đóng cửa,
tất cả các công viên quốc gia đều đóng cửa.
7. Các chức năng gần như hành pháp
Ngoài việc xem xét phê duyệt ngân sách hành pháp, nhiều cơ
quan
382 | Phạm Đoan Trang
lập pháp ở các thể chế dân chủ còn có chức năng xem xét, phê
duyệt cả một số đề xuất khác của cơ quan hành pháp. Chẳng hạn,
ở hầu hết các nước dân chủ, những điều ước quốc tế là do hành
pháp đàm phán, nhưng phải được lập pháp phê chuẩn thì mới có
hiệu lực. Ở Mỹ, tổng thống chỉ định nhiều chức vụ hành pháp,
tư
pháp khác nhau (thẩm phán liên bang, thành viên nội các, người
đứng đầu mỗi cơ quan hành chính, và các vị đại sứ) “theo và với
sự cố vấn và đồng thuận của Thượng viện” (Điều II) (tức là,
việc
chỉ định sẽ chỉ có tính chất “tạm thời” cho tới khi nào được
đa số
thành viên Thượng viện phê chuẩn). Ai theo dõi các phiên điều
trần về việc chỉ định Robert H. Bork năm 1988 [có thể tác giả
nhầm, năm đúng là 1987] và Clarence Thomas năm 1991 làm
thành viên Tòa án Tối cao đều biết rằng việc cơ quan lập pháp
thực
thi chức năng này của họ đôi khi trở thành tin tức nổi bật
trên
trang nhất các báo, và Thượng viện thỉnh thoảng cũng bác bỏ một
số ứng viên tổng thống.
8. Các chức năng gần như tư pháp
Một số cơ quan lập pháp còn thực hiện cả chức năng gần như tư
pháp. Chẳng hạn, Hiến pháp Mỹ quy định Hạ viện có thể đặt vấn
đề luận tội bất kỳ công chức nào trong chính phủ liên bang (kể
cả
tổng thống, phó tổng thống, thành viên nội các, và chánh án
Tòa
Tối cao). Xin nhớ rằng luận tội không phải là kết tội. Thay
vì thế,
luận tội là hành vi chính thức cáo buộc tổng thống phạm một tội
nào đó – hãy so nó với cáo trạng của bồi thẩm đoàn trong một
vụ
án hình sự bình thường. Bất kỳ quan chức nào bị luận tội như
vậy
cũng phải bị xét xử bởi Thượng viện, và cần phải có hai phần
ba số
phiếu tán thành thì mới kết tội được. Hạ viện đã luận tội tổng
cộng
16 quan chức kể từ năm 1789: 13 chánh án, hai tổng thống, và
một
thành viên nội các. Chỉ có 7 người, tất cả đều là chánh án, bị
kết tội
và cách chức. Tổng thống Andrew Jackson thoát bị kết tội một
lần
vào năm 1868 chỉ nhờ chênh lệch đúng một phiếu. Năm 1974,
Tổng thống Richard Nixon từ chức khi tình hình cho thấy rõ
ràng
là Hạ viện sắp luận tội ông ta. Năm 1998, Hạ viện bỏ phiếu về
hai
Chính trị bình dân | 383
bản luận tội Tổng thống Bill Clinton; ông bị Thượng viện xét
xử
năm 1999 nhưng được tha bổng khi mà cả hai bản luận tội đều
chẳng bản nào nhận được hai phần ba số phiếu cần thiết.
Năm 1999, Bill Clinton bị Hạ viện luận tội và Thượng viện xét
xử
(nhưng không đủ 2/3 số phiếu để bị cách chức).
Một vụ việc tương tự xảy ra ở Brazil năm 1992: Hạ viện bỏ
phiếu luận tội Tổng thống Fernando Collor de Mello nhận hối lộ,
nhưng Collor từ chức trước khi Thượng viện có thể xét xử ông
ta,
và Phó Tổng thống Itamar Franco lên thay.
Tương tự, Quốc hội Pháp có thể cáo buộc tổng thống và các bộ
trường vì tội phản quốc và các tội khác, mặc dù những quan chức
bị buộc tội sẽ được xét xử bởi tòa án cấp cao chứ không phải
quốc
hội. Thượng viện Anh đã mất phần lớn quyền lực nhưng vẫn tiếp
tục là tòa án cấp cao nhất nước. Hầu hết công việc tư pháp của
Thượng viện, và toàn bộ các hoạt động của nó với tư cách tòa
phúc
thẩm, đều được tiến hành nhân danh toàn thể Thượng viện bởi
một nhóm nhỏ, gồm 10-15 chuyên gia pháp lý, kể cả Đại Chưởng
ấn [có người dịch là Nhiếp chính quan], 12 nguyên lão, và các
thành viên khác của Thượng viện – những người từng giữ chức vụ
tư pháp cao (ví dụ, nguyên đại chưởng quan).
384 | Phạm Đoan Trang
9. Điều tra
Những cuộc điều tra của cơ quan lập pháp thường thu hút sự
chú
ý đáng kể của dư luận, đặc biệt là ở Mỹ. Hai ví dụ nổi tiếng
nhất gần
đây là vụ năm 1988 do ủy ban phối hợp chung Hạ viện-Thượng
viện tiến hành để làm rõ những kế hoạch bí mật của Cố vấn An
ninh Quốc gia John Poindexter và trợ lý Oliver North nhằm bán
vũ
khí cho Iran và sử dụng quy trình này để tài trợ cho những
nhóm
phiến quân nổi dậy ở Nicaragua; và vụ do Ủy ban phụ trách các
công việc của chính phủ, trực thuộc Thượng viện, tiến hành nhằm
điều tra các hoạt động nghi là bất hợp pháp của lực lượng ủng
hộ
Clinton trong việc gây quỹ cho chiến dịch tái tranh cử của
ông
Clinton (năm 1996).
Một cuộc điều trần tại Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos (Hạ viện
Mỹ) về tình
hình tù nhân lương tâm trên thế giới, trong đó có Trung Quốc
và Việt Nam,
ngày 14/1/2014, Washington D.C.
Ảnh: Phạm Đoan Trang
Tuy nhiên, không phải chỉ mình cơ quan lập pháp Mỹ có hoạt
động điều tra. Hạ viện Anh cũng đã thành lập một số “ủy ban
có
chọn lọc” nhằm mục đích làm rõ những thông tin họ cần biết về
Chính trị bình dân | 385
các vấn đề mà các ủy ban thường trực của họ không bao quát được.
Các ủy ban có chọn lọc này tổ chức những phiên điều trần, triệu
tập nhân chứng và thu thập bút lục, và sau đó đệ trình báo
cáo. Đôi
khi những báo cáo ấy có thể đưa đến việc thay đổi luật pháp
hiện
hành, thay đổi các quy định hành chính hiện hành, hoặc cả
hai.
Mặc dù Anh, khác với Mỹ, thực hiện rất nhiều cuộc điều tra của
chính phủ thông qua các hội đồng thuộc hoàng gia (bao gồm cả
những nhà lập pháp lẫn người ngoài), nhưng các ủy ban có chọn
lọc vẫn đóng một vai trò đáng kể trong việc định hình chính
sách.
10. Chức năng thông tin
Một số cuộc điều tra của cơ quan lập pháp được tiến hành chủ
yếu
nhằm thu thập thông tin cần thiết cho việc xây dựng luật mới.
Tuy
nhiên, cũng có nhiều cuộc điều tra mà mục đích chính yếu là để
thông tin cho các cơ quan khác trong chính quyền hoặc cho
công
luận nói chung về những gì đang xảy ra. Ví dụ, cuộc điều tra
của
một ủy ban trong Thượng viện Mỹ về hoạt động gây quỹ cho chiến
dịch tranh cử tổng thống năm 1996 chỉ nhằm cung cấp phần nào
căn cứ cho những luật mới điều tiết việc tài trợ cho các chiến
dịch
vận động và thể thức vận động. Cuộc điều tra cũng được tiến
hành
để xác định xem có phải đạo luật hiện hành khi đó đã bị chính
Tổng thống Clinton, hoặc các thành viên trong chính quyền và
tổ
chức vận động tranh cử của ông ta, vi phạm hay không. Một ví
dụ
khác, vào cuối những năm 1970, cả hai viện của Quốc hội Mỹ đã
thành lập ủy ban điều tra vụ ám sát Tổng thống John F. Kenney
năm 1963, Martin Luther King năm 1968, để xác định xem đó là
hành động của các cá nhân, như công cuộc điều tra trước đó đã
kết
luận, hay là kết quả của nhiều âm mưu nào đấy.
Các cuộc điều tra của cơ quan lập pháp là một cách để thông
tin
cho công luận, và các cuộc tranh luận của họ cũng là một cách
thông tin khác. Ở nhiều quốc hội, đường lối và kỷ luật đảng mạnh
đến mức thảo luận trong cơ quan lập pháp khó có thể thay đổi
được lá phiếu của mỗi nghị sĩ. Nhưng cho dù có như thế thì thảo
386 | Phạm Đoan Trang
luận vẫn tạo ra diễn đàn chính, nơi các quan điểm ủng hộ và
phản
đối mỗi vấn đề đều được đưa ra. Do đó, thảo luận cũng đóng gần
như hoàn toàn cái vai trò cung cấp thông tin và thúc đẩy ý kiến
công luận, mà các chiến dịch vận động tranh cử vẫn thực hiện.
(...)
Nếu người dân được thông tin và khai sáng là điều kiện thiết
yếu,
hàng đầu cho một nền dân chủ bền vững, thì thông tin cho công
luận dứt khoát không phải là chức năng kém quan trọng nhất
trong
các chức năng của lập pháp.
Nghị trường Mỹ có một chuyện rất thú vị, đó là trước khi một
dự thảo
luật được biểu quyết thông qua, các thượng nghị sĩ có quyền
phát biểu nói
liên tục bao lâu cũng được, miễn là không ngừng nói, không được
ngồi.
Nói cho đến khi nào kiệt sức không nói được nữa mà thôi.
Chính vì vậy
một nhóm thiểu số thượng nghị sĩ hoặc một đảng muốn chống lại
dự
thảo luật có lợi cho phe đối lập, họ sẽ cử một hoặc nhiều thượng
nghị sĩ
đứng lên phát biểu con cà con kê hết giờ này sang giờ khác, hết
ngày này
sang ngày khác cho đến khi hết thời gian để mọi người có thể
biểu quyết
mà thôi. Chiến thuật này có một tên hẳn hoi, đó là: chiến thuật
filibuster.
Chiến thuật này thậm chí đã được lên thành phim “Mr. Smith
Goes to
Washington” (1939). Lịch sử Mỹ đã ghi nhận Storm Thurmond là
người
đã sử dụng chiến thuật filibuster dài nhất trong lịch sử. Ông
đã phát biểu
trong 24 tiếng 18 phút trong cố gắng chống lại Đạo luật các
Quyền Dân
sự năm 1957. Trong bài phát biểu của ông có những chủ đề thậm
chí như
công thức món ăn của bà nội ông v.v...
Xem lại nghị trường của nước ta, dường các đại biểu Quốc hội
từ các năm
trước đã nhen nhúm, nhưng năm nay đặc biệt rõ hơn sử dụng
“chiến
thuật filibuster” kiểu Việt Nam. Nghĩa là sẽ có những ông/bà
đại biểu đưa
ra những ý kiến trời ơi đất hỡi, dường như là muốn câu giờ để
thời gian
họp Quốc hội trôi qua, còn những việc quan trọng của đất nước
thì sẽ bị
lờ đi. Thậm chí đến bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân
cũng
chơi cái “chiến thuật filibuster” này khi yêu cầu luật sư tố
thân chủ. Báo
chí thì có đề tài câu view, người dân ngây thơ thì bị xỏ mũi
tranh cãi
những ý kiến điên rồ này.
Chỉ có đất nước là lụn bại.
(Nhà báo Nguyễn Dân (facebooker Ếch Ao)
viết trên facebook cá nhân ngày 03/6/2017).
* * *
Chính trị bình dân | 387
LƯỠNG VIỆN VÀ MỘT VIỆN
Chương này xoay quanh vấn đề cấu trúc của cơ quan lập pháp:
Quốc
hội một viện hay hai viện? Ưu, nhược điểm của mỗi mô hình?
Trong lịch sử, Nam Tư (Yugolasvia) từng có thời có tới 5 viện
trong quốc hội. Nam Phi giai đoạn 1984-1994 có quốc hội ba viện.
Tuy nhiên, nhìn chung trên thế giới, cơ quan lập pháp các nước
chỉ
có một hoặc hai viện, với tỷ lệ cũng tương đương nhau
(50:50).
Quốc hội lưỡng viện Quốc hội một viện
Mỹ, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Đức,
Ireland, Hà Lan, Pháp, Philippines,
Rumani, Séc, Slovenia, Tây Ban
Nha, Ý...
Bồ Đào Nha, Bulgaria, Croatia,
Đan Mạch, Estonia, Hungary, Hy
Lạp, Phần Lan, Slovakia, Thụy
Điển, Trung Quốc, Việt Nam...
Quốc hội lưỡng viện
Là quốc hội mà quyền lực được chia cho hai viện: thượng viện
và
hạ viện.
Bạn chú ý rằng gọi là “thượng” và “hạ”, nhưng không có nghĩa
là
thượng viện cao hơn hạ viện. Không những thế, thượng viện lại
có
quy mô nhỏ hơn (ít ghế hơn) và có tính đại diện thấp hơn hạ
viện.
Ở một số nước, thượng viện thường được xem như chỉ có chức
năng tư vấn hoặc xem xét lại, nên quyền lực của thượng viện
thậm
chí còn hạn chế hơn hạ viện: chỉ được bỏ phiếu trong một số vấn
đề nhất định (ví dụ sửa hiến pháp), không được đề xuất dự luật,
không được bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ, không được phủ
quyết dự thảo luật, không được sửa đổi dự thảo luật...
Ở Mỹ, quyền lực được chia đều cho hai viện hay nói cách khác,
quyền của thượng viện ngang bằng hạ viện, thậm chí còn có một
vài quyền mà hạ viện không có, chẳng hạn như quyền chỉ định
chánh án, đại sứ...
Thành viên của thượng viện được gọi là thượng nghị sĩ hoặc
nghị sĩ. Cương vị này có thể được bầu trực tiếp, bầu gián tiếp
hoặc
388 | Phạm Đoan Trang
được chỉ định, tùy nước. Nếu được bầu thì thượng viện được bầu
từng phần (gối nhau).
Thành viên của hạ viện được gọi là dân biểu. Dân biểu được bầu
trực tiếp và đồng loạt.
Do hạ viện có tính đại diện cao hơn cho nên dân biểu thường
quan tâm đến đơn vị bầu cử của mình, hơn là đến cả đơn vị bầu
cử
lẫn đất nước. Dân biểu thường chú ý đến các đạo luật của địa
phương mình hơn. Thượng viện thì thường quan tâm tới các vấn
đề quốc gia hơn.
Ưu điểm của quốc hội lưỡng viện
- Hai viện kiểm soát quyền lực lẫn nhau và ngăn chặn sự khống
chế
của nhóm lợi ích.
- Hai viện kiểm soát hành pháp hiệu quả hơn một viện.
- Tăng cường khả năng đại diện cho nhiều lợi ích hơn, nhiều
nhóm cử tri hơn.
- Bảo vệ hiến pháp tốt hơn, trì hoãn hoặc ngăn chặn việc
thông
qua những đạo luật chưa hợp lý.
- Tạo thêm thời gian cho việc thảo luận và phản biện các dự
thảo luật.
- Rất phù hợp với những quốc gia rộng lớn, có dân số không
đồng nhất, hoặc nước theo thể chế liên bang.
Nhược điểm của quốc hội lưỡng viện
- Làm cho tiến trình lập pháp càng phức tạp, khó khăn, mất
thì
giờ hơn; có thể gây ra “bế tắc về chính sách” khi mà các đạo
luật mãi
không được thông qua. Chuyện này đặc biệt dễ xảy ra khi hành
pháp và lập pháp nằm trong tay hai đảng khác nhau hoặc hai viện
do hai đảng khác nhau khống chế.
- Tốn kém hơn, ít nhất là tốn tiền lương cho các nghị sĩ và
dân
biểu.
- Khó xác định trách nhiệm trong trường hợp một đạo luật tồi
tệ được thông qua, bởi hai viện thường đổ lỗi cho nhau.
Chính trị bình dân | 389
Dân biểu Mỹ Zoe Lofgren (đảng Dân chủ, bang California)
cầm tập báo cáo về blogger Ba Sàm, tại văn phòng của bà ở
Washington
D.C., ngày 13/11/2014. Ảnh: Phạm Đoan Trang
Quốc hội một viện
Ưu điểm của quốc hội một viện
- Tiết kiệm chi phí, kinh tế hơn lưỡng viện.
- Dễ xác định trách nhiệm khi một luật tồi tệ được thông qua
(hoặc khi không thông qua được luật).
- Tiến trình lập pháp gọn nhẹ hơn, có thể nhanh chóng hơn.
- Quốc hội đại diện được cho cả lợi ích quốc gia lẫn địa
phương.
Nhược điểm của quốc hội một viện
- Thiếu sự kiểm soát quyền lực lẫn nhau như ở cơ chế lưỡng viện,
và vì thế, quốc hội có thể bị chi phối bởi nhóm lợi ích.
- Khả năng kiểm soát hành pháp kém hơn. Ở những nước theo
chế độ đại nghị mà lãnh đạo phe đa số trong quốc hội cũng là
quan
chức hành pháp thì có nguy cơ hành pháp lấn át lập pháp. (Ở
nước
độc đảng như Việt Nam dưới thời cộng sản thì đó không còn là
nguy cơ mà đã là thực tế).
390 | Phạm Đoan Trang
- Tính đại diện thấp, nhiều nhóm trong xã hội có thể không
được đại diện đúng mức ở quốc hội.
- Chất lượng làm luật kém hơn, có thể thông qua những đạo
luật tồi tệ, vi hiến, bất hợp lý.
- Không thích hợp với những nước có dân số lớn, không đồng
nhất, hoặc những nước theo thể chế liên bang.
* * *
TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG QUỐC HỘI
Dưới đây là một bảng danh sách các tiêu chí để đánh giá một
quốc
hội có thực sự là đại diện của dân không, có thực sự là cơ
quan dân
cử vận hành trong một nền dân chủ không. Bảng này do M.
Steven
Fish và Matthew Kroenig lập cho một khảo sát quốc tế của họ từ
năm 2002 đến năm 2005, nhằm khẳng định một điều: Cơ quan lập
pháp càng mạnh thì đất nước càng dân chủ.
Bảng khảo sát Fish-Kroenig về quyền lực lập pháp*
1. Một mình quốc hội, không có sự tham gia của bất kỳ cơ quan
nào khác,
có đủ quyền luận tội tổng thống hoặc thay thế thủ tướng.
2. Các bộ trưởng có thể đồng thời là thành viên của quốc hội.
3. Quốc hội có quyền triệu tập quan chức hành pháp. Điều trần
của các
quan chức hành pháp trước quốc hội hoặc các ủy ban của quốc hội
được
tiến hành thường xuyên.
4. Quốc hội có quyền tiến hành điều tra độc lập về người đứng
đầu cơ
quan hành pháp và các cơ quan thuộc hành pháp.
5. Quốc hội có thực quyền giám sát các cơ quan công quyền
(quân đội,
hành pháp, tình báo, mật vụ).
6. Quốc hội chỉ định thủ tướng.
7. Bắt buộc phải có sự chuẩn y của quốc hội thì mới có thể
phê chuẩn việc
chỉ định từng bộ trưởng. Hoặc tự quốc hội có quyền chỉ định bộ
trưởng.
8. Quốc gia không có tổng thống, hoặc có tổng thống nhưng tổng
thống
do quốc hội bầu ra.
Chính trị bình dân | 391
9. Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ mà
không đe dọa
gì đến nhiệm kỳ của quốc hội (tức là không có nguy cơ bị giải
tán).
10. Quốc hội được miễn trừ khỏi việc bị cơ quan hành pháp giải
tán.
11. Mỗi sáng kiến làm luật của cơ quan hành pháp phải được sự
phê
chuẩn, chuẩn y của quốc hội thì mới có hiệu lực, nói cách
khác, cơ quan
hành pháp không có quyền lực lập pháp.
12. Luật do quốc hội thông qua không thể bị phủ quyết, hoặc
phần lớn
không thể bị phủ quyết; nói cách khác, cơ quan hành pháp
không có
quyền phủ quyết, hoặc có quyền phủ quyết song phủ quyết vô hiệu
nếu bị
đa số thành viên quốc hội bác bỏ.
13. Luật do quốc hội làm ra và ban hành là tối cao.
14. Quốc hội có quyền đề xuất dự thảo luật ở mọi lĩnh vực
chính sách;
hành pháp không có quyền kiểm soát việc đó.
15. Việc chi tiêu ngân quỹ của quốc hội phải được ủy nhiệm;
cơ quan
hành pháp không có quyền sử dụng những khoản ngân quỹ mà quốc
hội
đã lấy.
16. Quốc hội kiểm soát mọi nguồn tiền tài trợ cho hoạt động của
quốc hội
và cấp phát lương bổng cho thành viên quốc hội.
17. Thành viên quốc hội được miễn trừ khỏi việc bị bắt và/hoặc
bị truy tố
hình sự.
18. Tất cả thành viên quốc hội đều là dân cử (do bầu cử mà
ra); cơ quan
hành pháp không có quyền chỉ định bất kỳ thành viên nào của
quốc hội.
19. Một mình quốc hội, không có sự tham gia của bất kỳ cơ
quan nào
khác, có quyền sửa đổi hiến pháp.
20. Việc tuyên bố chiến tranh bắt buộc phải được sự chuẩn y của
quốc
hội.
21. Việc thông qua các điều ước quốc tế bắt buộc phải được sự
chuẩn y
của quốc hội.
22. Quốc hội có quyền ra lệnh ân xá.
23. Quốc hội có quyền tha tội.
24. Quốc hội xét duyệt và có quyền bác bỏ các nhân sự được chỉ
định cho
cơ quan tư pháp; hoặc tự quốc hội có quyền chỉ định thành
viên cơ quan
tư pháp.
25. Thống đốc ngân hàng trung ương do quốc hội chỉ định.
26. Quốc hội là một tiếng nói có trọng lượng trong hoạt động
của cơ quan
truyền thông quốc doanh.
27. Quốc hội họp thường xuyên.
392 | Phạm Đoan Trang
28. Mỗi nhà lập pháp (đại biểu quốc hội, nghị sĩ, dân biểu) đều
có thư ký
riêng.
29. Mỗi nhà lập pháp đều có ít nhất một trợ lý không phải là
thư ký và có
chuyên môn về chính sách.
30. Các nhà lập pháp có thể được tái cử, không bị hạn chế gì.
31. Mỗi một ghế trong quốc hội đều là một cương vị đủ hấp dẫn
để các
nhà lập pháp nói chung đều ưa thích và vì thế đều mong muốn
được tái
cử.
32. Việc tái cử các thành viên đương nhiệm của quốc hội là phổ
biến, đủ
để vào bất kỳ lúc nào, quốc hội cũng có một số lượng đáng kể
thành viên
nhiều kinh nghiệm.
* “Stronger legislatures, stronger democracies”, M. Steven
Fish, tháng 1/2006. Bài nằm trong
tuyển tập “Democracy: A Reader”, Larry Diamond & Marc F.
Plattner, John Hopkins
University Press, 2009.
* * *
CƠ QUAN LẬP PHÁP Ở VIỆT NAM
Cơ quan lập pháp ở Việt Nam gồm Quốc hội và các hội đồng nhân
dân.
Cơ quan lập pháp cấp cao nhất – cấp trung ương – được gọi là
Quốc hội. Thành viên của nó được gọi là đại biểu Quốc hội.
Điều 69 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định “Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc
hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các
vấn
đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động
của Nhà nước”.
Mặc dù Hiến pháp nghe có vẻ rất dân chủ như vậy, nhưng như
ở Chương “Hiến pháp và pháp luật” đã đề cập, trên thực tế thì
bản
“khế ước xã hội” này chưa bao giờ được nhân dân phúc quyết,
và
nó chỉ là sự thể chế hóa cương lĩnh của đảng Cộng sản.
Chính trị bình dân | 393
Quốc hội là cơ quan một viện được bầu với nhiệm kỳ 5 năm.
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến hành theo nguyên tắc
phổ
thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Quốc hội tổ chức họp mỗi năm hai lần, mỗi lần một tháng.
Theo Luật Tổ chức Quốc hội, tổng số đại biểu Quốc hội không
vượt quá 500.
Quốc hội có một ủy ban thường vụ, một hội đồng dân tộc, và 9
ủy ban chuyên môn: (1) Ủy ban Pháp luật; (2) Ủy ban Tư pháp;
(3)
Ủy ban Kinh tế; (4) Ủy ban Tài chính và Ngân sách; (5) Ủy ban
Quốc phòng và An ninh; (6) Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh
niên, Thiếu niên và Nhi đồng; (7) Ủy ban về các Vấn đề Xã hội;
(8)
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường; và (9) Ủy ban Đối
ngoại.
Vì Việt Nam là một nhà nước độc đảng, nên chỉ có một đảng
cầm quyền là đảng Cộng sản Việt Nam, không có đảng đối lập,
và
trung bình ít nhất 95% đại biểu Quốc hội là đảng viên cộng sản.
Số
đại biểu còn lại có thể không phải là đảng viên tại thời điểm
được
bầu, nhưng sau đó họ có thể sẽ được kết nạp vào đảng Cộng sản;
hoặc họ phải là cảm tình viên của đảng Cộng sản, hay ít nhất
cũng
không phải người có ý thức hệ khác với đảng Cộng sản.
Đó là ở cấp trung ương. Ở cấp địa phương, cơ quan lập pháp là
các hội đồng nhân dân. Thành viên của nó được gọi là đại biểu
hội
đồng nhân dân (các cấp).
Theo Hiến pháp, “Hội đồng Nhân dân là cơ quan quyền lực
Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân, do nhân dân trong vùng bầu ra, chịu
trách
nhiệm trước nhân dân trong vùng và cơ quan Nhà nước cấp
trên”.
“Hội đồng Nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật
định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương
và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng Nhân dân” (Điều
113).
“Uỷ ban nhân dân do Hội đồng Nhân dân bầu là cơ quan chấp
hành của Hội đồng Nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa
394 | Phạm Đoan Trang
phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng Nhân dân cùng cấp và
cơ quan nhà nước cấp trên” (Điều 114).
Việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo
nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Về ngôn ngữ lập pháp và hành chính, Việt Nam cộng sản rất
giống Trung Quốc cộng sản. Ví dụ, Trung Quốc gọi cơ quan lập
pháp là Đại hội Đại biểu Nhân dân, Việt Nam gọi là Quốc hội.
Trung Quốc có Luật Bầu cử đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc
và
đại hội đại biểu nhân dân các cấp (2010). Việt Nam có Luật Bầu
cử
Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng Nhân dân (2015). Ở cả
hai
nước cũng đều tồn tại cơ chế hiệp thương trong bầu cử. (Xem
thêm
chương Bầu cử, Phần V, “Tương tác chính trị”).
* * *
TIẾN TRÌNH LẬP PHÁP
Phần này là câu trả lời cho câu hỏi “làm thế nào một dự luật
trở
thành luật”.
Dưới đây là quy trình làm luật ở một nước có quốc hội lưỡng
viện trong khu vực Đông Nam Á – Philippines. Quy trình này
được tóm tắt lại và in trong các tờ rơi phát miễn phí ở cơ
quan lập
pháp Philippines cho mọi du khách trong và ngoài nước.
- Dự thảo có thể được trình ở Hạ viện hoặc Thượng viện. Dự
thảo chỉ được xoay quanh một vấn đề duy nhất, và vấn đề đó phải
được nêu ở ngay tiêu đề của dự thảo.
- Tại phiên đọc thứ nhất, tiêu đề và mã số dự luật sẽ được đọc,
và sau đó, dự thảo được chuyển cho ủy ban thích hợp.
- Một ủy ban nghiên cứu dự thảo và tổ chức điều trần về dự
thảo. Sau đó, ủy ban lập một báo cáo về dự thảo. Mỗi ủy ban
chỉ lập
một báo cáo về một dự thảo mà ủy ban quyết định đề xuất để
Thượng viện hoặc Hạ viện phê chuẩn.
Chính trị bình dân | 395
- Báo cáo của ủy ban được đọc tại một phiên họp mở. Sau đó,
báo cáo cùng dự thảo được đưa lên Ủy ban Quy tắc. Ủy ban Quy
tắc có thể lên lịch đưa dự thảo vào phiên đọc thứ hai hoặc
vào
chương trình những công việc chưa được chỉ định.
- Tại phiên đọc thứ hai, dự thảo được đưa ra để thảo luận và
sửa
đổi trước khi được đưa vào lịch cho phiên đọc thứ ba. Mỗi dự
thảo
phải qua ba phiên đọc, vào ba ngày khác nhau, chỉ trừ khi Tổng
thống xác nhận một dự thảo nào đó là khẩn cấp, chẳng hạn để đối
phó với một tình huống báo động khẩn cấp nào đó trên toàn quốc.
- Sau khi được một viện phê chuẩn, dự luật được chuyển sang
viện còn lại và cũng phải qua những thủ tục như thế.
- Nếu một trong hai viện sửa đổi dự luật, thì viện còn lại
cũng
phải nhất trí. Nếu một trong hai viện lại có một dự luật mâu
thuẫn
với dự luật do viện kia thông qua, hai dự luật chứa những điều
khoản mâu thuẫn nhau, thì một ủy ban bao gồm đại diện của cả
hai
viện sẽ được lập ra để điều hòa các điều khoản mâu thuẫn. Sau
đó,
nếu có thể điều hòa được các điều khoản mâu thuẫn, thì một
báo
cáo của ủy ban này sẽ được soạn thảo để phê chuẩn, và phải được
sự phê chuẩn của cả hai viện.
- Khi dự luật được cả hai viện thông qua, nó được ký bởi các
lãnh đạo của cả hai viện và rồi được gửi tới Tổng thống để Tổng
thống phê chuẩn.
- Tổng thống có thể ký để dự luật chính thức trở thành luật,
hoặc có thể phủ quyết toàn bộ hay một phần dự luật. Trong
vòng
30 ngày kể từ khi Tổng thống nhận được dự luật, nếu Tổng thống
không ký phê chuẩn hay phủ quyết nó, thì dự luật trở thành luật.
Ngay cả khi Tổng thống phủ quyết, nếu cả hai viện bác bỏ được
phủ quyết đó với 2/3 số thành viên mỗi viện tán thành bác bỏ
phủ
quyết, thì dự luật vẫn trở thành luật.
Tiến trình lập pháp của Philippines rất giống với tiến trình
lập
pháp ở Mỹ. Tại Mỹ, quá trình để một dự thảo luật trở thành luật
trải
qua các bước như sau: 1
1. “Government 101: How a Bill Becomes Law”, đăng trên trang
Vote Smart tại địa chỉ:
https://votesmart.org/education/how-a-bill-becomes-law#.WTbVeGiGPIV.
396 | Phạm Đoan Trang
- Bất cứ thành viên nào của Thượng viện hay Hạ viện đều có thể
đề xuất một dự luật.
- Sau đó, dự luật được Chủ tịch Thượng viện hoặc Chủ tịch Hạ
viện chuyển đến ủy ban thích hợp. Một dự luật có thể được
chuyển
tới một, hai hoặc nhiều ủy ban, hoặc có thể được chia nhỏ
thành
nhiều phần và mỗi phần được gửi tới một ủy ban riêng. Chủ tịch
Hạ viện có thể ấn định hạn thời gian cho các ủy ban.
- Các dự luật được đưa vào lịch của ủy ban mà chúng được gửi
tới. Việc các ủy ban chậm có phản hồi về dự luật đồng nghĩa với
việc nó bị loại bỏ.
- Thủ tục tại các ủy ban:
y Các cơ quan của chính phủ đề nghị có bình luận về dự luật.
y Chủ tịch ủy ban có thể chuyển dự luật về cho tiểu ban (cấp
dưới ủy ban).
y Các cuộc điều trần về dự luật được tổ chức.
y Các tiểu ban soạn thảo báo cáo của họ về dự luật, gửi cho ủy
ban.
y Ủy ban tổ chức những phiên họp “gia tăng giá trị”, trong đó
họ
sẽ sửa đổi, bổ sung dự luật. Nếu phải sửa nhiều thì ủy ban có
thể ra
lệnh làm lại một dự luật “sạch”, nghĩa là có sửa đổi, bổ sung
lại. Khi
đó, dự luật mới này sẽ được đánh mã số mới và được gửi “lên
sàn”,
còn dự luật cũ thì bị hủy. Thượng viện hoặc Hạ viện phải phê
chuẩn, điều chỉnh hay bác bỏ tất cả các sửa đổi, bổ sung của ủy
ban
rồi mới có thể tiến hành bỏ phiếu thông qua.
- “Lên sàn”, tức là dự luật được đưa vào lịch làm việc của
hai
viện, sau đó mỗi viện sẽ tổ chức tranh luận, tranh biện về dự
luật.
• Tại Hạ viện, việc tranh luận chịu những giới hạn do Ủy ban
Quy tắc đặt ra. Ủy ban Bảo trợ sẽ dẫn dắt cuộc tranh luận và
phân
bổ thời gian công bằng giữa bên tán thành và bên phản đối dự
luật.
• Tại Thượng viện, việc tranh luận được kéo dài không giới hạn.
Thành viên Thượng viện, tức là thượng nghị sĩ, có thể nói bao
lâu
Chính trị bình dân | 397
tùy thích, kéo dài cuộc tranh luận để ngăn Thượng viện thông
qua
dự luật – đây gọi là thủ tục filibuster. Thủ tục filibuster
này chỉ có
thể bị vô hiệu hóa nếu có 3/5 số thành viên Thượng viện bỏ
phiếu
thực hiện một thủ tục khác, gọi là cloture, “đóng cửa”. Khi
Thượng
viện dùng đến cơ chế “đóng cửa” này thì thời gian tranh luận
sẽ bị
giới hạn ở mức dưới 30 tiếng đồng hồ.
• Bỏ phiếu. Nếu dự luật được thông qua ở một trong hai viện,
nó sẽ được chuyển sang cho viện còn lại. Nếu có một trong hai
viện không thông qua dự luật thì coi như nó chết. Nếu hai viện
cùng thông qua một dự luật thì dự luật được chuyển tới Tổng
thống. Nếu hai viện thông qua một dự luật với những điều khoản
khác biệt thì dự luật sẽ được chuyển tới một ủy ban khác, do
hai
viện thành lập. Thành viên của ủy ban được chỉ định bởi chủ tịch
của những ủy ban trước đó từng làm việc về dự luật. Giờ đây, ủy
ban này sẽ điều hợp những khác biệt của hai bản dự luật của
Thượng viện và Hạ viện.
- Cuối cùng, nếu Tổng thống ký thông qua dự luật, hoặc nếu cả
hai viện đều bác bỏ phủ quyết của Tổng thống (với 2/3 thành
viên
có mặt ở mỗi viện bỏ phiếu bác bỏ phủ quyết), thì dự luật trở
thành
luật và được gán một mã số chính thức.
* * *
Còn ở nước CHXHCN Việt Nam, quy trình xây dựng pháp luật
trải qua các bước như sau: 1
1. Lập chương trình xây dựng pháp luật
Căn cứ để lập chương trình là các nghị quyết của đảng Cộng sản
Việt Nam và các sáng kiến pháp luật. Chỉ có: Chủ tịch nước và
các
1. Phần này dựa theo một bài giảng của Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn
Minh Thuyết, đại biểu
Quốc hội các khóa XI, XII. Nội dung do ông Thuyết tóm tắt.
398 | Phạm Đoan Trang
cơ quan nhà nước (Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc
và các ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối
cao,
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Kiểm toán Nhà nước), Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức thành viên, đại biểu quốc hội mới có
quyền
đề xuất sáng kiến pháp luật.
Thủ tục lập chương trình xây dựng pháp luật: Ủy ban Tư pháp
của Quốc hội tập hợp các sáng kiến pháp luật, gửi Ủy ban Thường
vụ Quốc hội xem xét và trình Quốc hội. Quốc hội thảo luận và
biểu
quyết thông qua.
2. Soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật
- Lập Ban Soạn thảo.
- Tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan.
- Lập dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
- Đánh giá tác động và xây dựng báo cáo đánh giá tác động của
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
- Lấy ý kiến tổ chức, cá nhân có liên quan (trực tiếp, hoặc
qua
cổng thông tin điện tử); tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu các ý
kiến.
- Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
- Thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật.
3. Thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật
- Khảo sát thực tế.
- Lấy ý kiến chuyên gia và các đối tượng liên quan.
- Thẩm tra sơ bộ (Thường trực Hội đồng dân tộc và các ủy ban
của Quốc hội)
- Thẩm tra chính thức (hội nghị toàn thể)
4. Báo cáo thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật
- Lần 1: Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo thẩm tra
sơ bộ.
Chính trị bình dân | 399
- Lần 2: Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo thẩm tra
chính thức.
5. Thảo luận ở Quốc hội
- Thảo luận ở tổ
- Thảo luận ở hội trường
6. Tiếp thu, sửa chữa
- Cơ quan thẩm tra và Ban Soạn thảo phối hợp sửa chữa dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật theo ý kiến đại biểu Quốc hội.
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận, thông qua báo cáo tiếp
thu, giải trình.
7. Quốc hội thảo luận và biểu quyết thông qua
- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trình bày báo cáo tiếp thu, giải
trình.
- Quốc hội thảo luận lần hai.
- Quốc hội biểu quyết về một số điều và toàn văn văn bản quy
phạm pháp luật.
Ta có thể nhìn thấy ở quy trình này một số vấn đề: Ngay từ đầu,
chương trình xây dựng pháp luật đã căn cứ vào... nghị quyết của
đảng Cộng sản Việt Nam, chứ không phải vào nhu cầu của người
dân, của cuộc sống. Tức là, việc làm luật chỉ có ý nghĩa minh
họa
đường lối, minh họa và hiện thực hóa các nghị quyết của đảng
Cộng sản.
Bên cạnh đó, chương trình xây dựng pháp luật cũng dựa vào các
sáng kiến pháp luật, nhưng những sáng kiến pháp luật này thì
không phải ai cũng đưa ra được, và không tồn tại cơ chế để
người
dân, nếu có ý tưởng lập pháp, có thể vận động đưa ý tưởng của
mình ra Quốc hội.
Quốc hội của nước CHXHCN Việt Nam chỉ bao gồm thành
viên của một đảng duy nhất – đảng Cộng sản Việt Nam – nên
tính
đại diện của nó rất thấp, nếu không muốn nói rằng nó không hề
đại
400 | Phạm Đoan Trang
diện cho người dân. Khả năng giám sát, kiểm soát hành pháp của
nó cũng gần như bằng không, chủ yếu do cơ chế độc đảng và một
phần nhỏ là do nó chỉ có một viện. (Thông thường, có hai viện
cùng giám sát và kiểm soát hành pháp thì quốc hội sẽ ít có khả
năng bị chính phủ lấn át, chi phối hơn).
Bài đọc
10 ĐẦU VIỆC CỦA MỘT ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Trịnh Hữu Long 1
Đối với các đại biểu Quốc hội lần đầu góp mặt tại nghị trường,
việc
tìm hiểu các hoạt động của một đại biểu Quốc hội là tối quan
trọng.
Bất luận bạn là đại biểu do Đảng cử hay do tự ứng cử, kể từ
tháng
7 này, cuộc đời bạn sẽ sang một trang hoàn toàn khác: bạn trở
thành 1 trong 500 người quyết định những vấn đề hệ trọng nhất
của quốc gia.
Xin nhắc lại: những vấn đề hệ trọng nhất của cả một quốc gia,
gồm có gần 100 triệu người.
Hãy tạm quên đi chuyện đảng Cộng sản Việt Nam chi phối
Quốc hội ra sao. Tất cả mọi người đã biết chuyện đó rồi. Tuy
nhiên,
một khi dãy nút bấm còn ở trong tay bạn, chỉ có bạn mới là
người
quyết định sẽ bấm nút nào.
Sau đây là danh sách những việc cần bạn làm với tư cách là một
đại diện của dân.
Trước hết, danh sách công việc này sẽ phải dựa trên ba chức
năng của Quốc hội. Là một thành viên của Quốc hội, công việc
của
bạn là thực hiện ba chức năng đó, bao gồm:
1. Bài đã đăng trên Luật Khoa tạp chí ngày 14/2/2016, tại địa
chỉ: http://luatkhoa.
org/2016/02/10-dau-viec-cua-mot-dai-bieu-quoc-hoi/
402 | Phạm Đoan Trang
1. Làm và sửa đổi Hiến pháp, làm và sửa đổi luật.
2. Quyết định các vấn đề quan trọng.
3.Thực hiện quyền giám sát tối cao.
Nghe vậy có vẻ hơi chung chung. Vậy cụ thể thực hiện những
chức năng này là làm gì? Hiến pháp nói rõ chuyện đó.
1. QUYẾT ĐỊNH CHIẾC GHẾ CỦA NHỮNG NGƯỜI QUYỀN LỰC
NHẤT (NGOẠI TRỪ NGƯỜI QUYỀN LỰC NHẤT)
Ok. Bạn đã từng bầu lớp trưởng, tổ trưởng dân phố, bí thư
đoàn
thanh niên, bí thư các đảng bộ, cán bộ chính quyền địa phương
và
rất nhiều các chức danh khác. Nhưng ở đây chúng ta đang nói đến
một chuyện to tát hơn nhiều: chiếc ghế của các ông bà Chủ tịch
nước, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc Hội. Đó là chưa kể
một loạt những chiếc ghế khác ít quyền lực hơn ở cấp trung
ương
như Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm
sát Nhân dân Tối cao, các bộ trưởng, các chủ nhiệm ủy ban của
Quốc Hội,...
Không những thế, là đại biểu Quốc hội, bạn có quyền yêu cầu
bỏ phiếu tín nhiệm hay bỏ phiếu phế truất các ông bà này.
Nghe có
vẻ lạ tai nhưng chuyện này đã từng xảy ra hồi tháng 11/2010.
Khi
đó, đại biểu Nguyễn Minh Thuyết đã yêu cầu Quốc hội bỏ phiếu
tín nhiệm đối với Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng liên
quan đến vụ Vinashin nhưng không thành.
2. LÀM LUẬT
Quốc hội chắc chắn không phải là nơi viết nội quy cho một
nhóm
vài chục hay vài trăm người. Luật bạn viết ra hay thông qua
được
áp dụng cho toàn dân. Quốc hội khóa XIV sẽ là một nơi khắc
nghiệt với các nhà lập pháp, bởi khối lượng công việc và
thách thức
khổng lồ.
Bạn cần phải sẵn sàng cho việc bỏ phiếu thông qua Hiệp định
Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Rồi nếu TPP chính thức
có
Chính trị bình dân | 403
hiệu lực, trong suốt nhiệm kỳ 5 năm của bạn, một trong những
nghị trình chính sẽ là nội địa hóa toàn bộ quy định của TPP.
Hãy
chắc là bạn nắm rõ nội dung của hiệp định này.
Quốc hội khóa cũ cũng để lại cho bạn và 499 đồng nghiệp khác
một món nợ khổng lồ các đạo luật cần được thông qua, trong đó
có
nhiều món khá là “khoai”. Ví dụ: Luật Biểu tình, Luật về Hội,
Luật
Tín ngưỡng - Tôn giáo, Luật về Máu và Tế bào gốc, Luật Hỗ trợ
Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ, Luật Quản lý Ngoại thương,...
Đó là chưa kể sẽ có nhiều đạo luật mới phát sinh, mà một
trong
số đang ở trong tầm ngắm là luật về đảng.
Bạn cũng nên dự liệu sẵn khả năng Quốc hội khóa XIV sẽ phải
sửa đổi hoặc ban hành một bản hiến pháp mới. Vào thời kỳ nhiều
biến động này, không gì là không thể.
Vốn dĩ lâu nay đại biểu Quốc hội Việt Nam cực kỳ thụ động
trong việc làm luật, hầu như chỉ chờ chính phủ trình sang dự
luật
gì thì xem xét cái đó. Đã đến lúc mọi chuyện cần phải thay đổi.
Bạn
hãy trở thành người chủ động đưa ra các sáng kiến lập pháp và
các
dự thảo luật mới. Rất nhiều vấn đề nhức nhối như lạm dụng đồ
uống có cồn, thực phẩm độc hại, bệnh viện quá tải hay khủng
hoảng chất lượng giáo dục đang chờ bạn giải quyết.
Có như vậy người ta mới gọi bạn là “nhà lập pháp” theo nghĩa
đầy đủ của từ này được.
Công cụ không thể thiếu trong công việc của bạn là Luật Ban
hành Văn bản Quy phạm Pháp luật 2015, sẽ có hiệu lực từ ngày
01/7/2016 và kế hoạch xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016.
3. QUYẾT ĐỊNH NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Bạn có biết dự toán ngân sách nhà nước năm 2016 là bao nhiêu
không? Hơn 1 triệu tỷ đồng, tức là khoảng 45 tỷ USD. Để so
sánh,
bạn cần biết người giàu nhất Việt Nam, Phạm Nhật Vượng, cũng
chỉ có trên dưới 1 tỷ USD.
404 | Phạm Đoan Trang
Vào phiên họp cuối mỗi năm, thường rơi vào tháng 11, mỗi đại
biểu Quốc hội sẽ phải bấm nút quyết định dự toán ngân sách
nhà
nước năm sau. Bạn phải làm quen với các khái niệm chính sách
tài
khóa, thu nội địa, thu từ dầu thô, thu từ viện trợ, thu cân đối
hoạt
động xuất nhập khẩu, chi thường xuyên, chi đầu tư – phát triển,
chi
phát triển sự nghiệp, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, bội
chi, thâm
hụt ngân sách, và rất nhiều khái niệm tài chính công khác.
Dĩ nhiên, sau mỗi năm tài khóa, cũng chính bạn sẽ là người
bấm nút thông qua báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước của
năm đó. Việc này thường diễn ra sau hơn một năm kể từ khi kết
thúc năm tài khóa.
4. QUYẾT ĐỊNH TRẦN NỢ CÔNG
Vào đầu mỗi khóa Quốc hội, một trong những “bài tập” khó nhằn
cho mỗi đại biểu Quốc hội là quyết định chỉ tiêu phát triển
kinh tế
– xã hội cho cả 5 năm sau đó bằng việc thông qua một nghị quyết.
Một trong những con số quan trọng nhất của bản nghị quyết đó
là tỉ lệ nợ công.
Năm 2011, Quốc hội khóa XIII đặt ra con số 65% GDP. Nhiều
thống kê cho thấy tổng nợ công của Việt Nam đã sắp chạm cái
trần
này. Đặc biệt trong bối cảnh phải cắt giảm các dòng thuế nhập
khẩu do quy định của các hiệp định thương mại tự do (FTA), một
chính phủ đã quen chi tiêu quá tay cho một bộ máy quá cồng kềnh
sẽ muốn vay thêm tiền để trang trải cho các hoạt động của
mình.
Do đó, chính phủ có thể sẽ gây sức ép buộc Quốc hội phải nới
trần nợ công, nghĩa là cho phép họ vay thêm tiền. Liệu bạn có
thỏa
hiệp với một chính phủ chi tiêu quá dễ dãi như vậy hay không?
Vào
thời điểm quyết định, phiếu biểu quyết của bạn sẽ hoặc là đẩy
chính phủ vào thế phải cắt giảm chi tiêu, hoặc là đẩy đất nước
chìm
sâu vào nợ nần và có thể sau cùng sẽ vỡ nợ.
Tất nhiên rồi, bạn buộc phải nắm rõ Luật Quản lý Nợ công.
Chính trị bình dân | 405
5. QUYẾT ĐỊNH VỀ THUẾ
Thuế là thứ tạo ra mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.
Không
có thuế thì không có nhà nước. Có thuế thì người dân và doanh
nghiệp sẽ thấy túi tiền của họ vơi đi một chút. Tìm được điểm
cân
bằng hợp lý để định ra một loại thuế, một mức thuế là việc
không
đơn giản. Làm sai có thể dẫn đến rối loạn xã hội. Và bạn là
người
phải làm cái việc đó.
Như đã nói ở trên, việc Việt Nam tham gia các hiệp định
thương mại tự do, đặc biệt là TPP và Cộng đồng Kinh tế ASEAN,
sẽ tháo dỡ rất nhiều các dòng thuế nhập khẩu. Điều này đương
nhiên sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách. Trong khóa
XIV của bạn, Chính phủ và một số nhóm lợi ích nào đó sẽ tìm
cách nghĩ ra các loại thuế và phí mới để bù đắp nguồn thu và
gây
sức ép để Quốc hội thông qua. Bạn sẽ đứng ở giữa Chính phủ và
người dân trong vấn đề nhạy cảm nhất này của quốc gia. Đây rõ
là
chuyện không dễ dàng.
6. PHÊ CHUẨN CÁC HIỆP ƯỚC QUỐC TẾ
Bạn đã từng nghe nói với Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em,
Công ước Chống Tra tấn, Hiệp định Thương mại Tự do Việt - Mỹ,
các hiệp định WTO, và sắp tới là TPP.
Bạn cũng từng nghe nói đến việc bộ trưởng thương mại các
nước đã ký kết Hiệp định TPP ngày 04/02 vừa qua. Vậy tại sao
TPP
vẫn chưa có hiệu lực?
Lý do là vì TPP, cũng như nhiều (chứ không phải tất cả) các
hiệp
ước quốc tế khác, phải đi qua một cửa nữa, trước khi có hiệu
lực:
được quốc hội các nước liên quan phê chuẩn. Hãy chắc chắn là
bạn
nắm được Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện Điều ước Quốc tế.
7. QUYẾT ĐỊNH PHÊ DUYỆT CÁC DỰ ÁN LỚN
Dự án lớn được gọi chính thức là “dự án quan trọng quốc gia”,
bao
gồm các dự án sử dụng vốn đầu tư công từ 10.000 tỷ đồng trở
lên,
406 | Phạm Đoan Trang
dự án nhà máy điện hạt nhân, các dự án di dân tái định cư từ
20.000 người trở lên ở miền núi hoặc 50.000 người trở lên ở
các
vùng khác...
Các dự án này phải qua được cửa Quốc hội mới được làm.
Quốc hội đã từng quyết các dự án đường dây 500 kV, dự án đường
Hồ Chí Minh hay dự án nhà máy thủy điện Sơn La.
Trên bàn làm việc của bạn trong khóa XIV có thể sẽ có dự án
đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Việc thẩm tra những dự án như thế
này hoàn toàn không đơn giản và sẽ gây rất nhiều tranh cãi.
Ít nhất
bạn phải nắm rõ Luật Đầu tư Công.
8. QUYẾT ĐỊNH THÀNH LẬP, CHIA TÁCH, SÁP NHẬP ĐỊA GIỚI
HÀNH CHÍNH CẤP TỈNH
Năm 2008, Quốc hội khóa XII đã gây sốc khi sáp nhập toàn bộ tỉnh
Hà Tây và một số vùng của tỉnh Hòa Bình và tỉnh Vĩnh Phúc vào
Hà Nội, biến Hà Nội thành một trong những thủ đô nhiều ruộng
đồng nhất thế giới.
Cho đến giờ, vẫn chưa có giải thích thấu đáo và rõ ràng nào về
lý do dẫn đến quyết định này, cũng như tác động của nó đến cuộc
sống của người dân các vùng liên quan.
Điều tương tự có thể lặp lại và bạn sẽ là người góp phần quyết
định chuyện đó.
9. QUYẾT ĐỊNH VẤN ĐỀ CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH; QUY
ĐỊNH VỀ TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP, CÁC BIỆN PHÁP ĐẶC BIỆT
KHÁC BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH QUỐC GIA
Khó mà đoán được Trung Quốc sẽ làm những gì trên Biển Đông
và đất liền. Và liệu biên giới với Cambodia có yên ổn trong 5
năm
tới hay không? Không ai biết. Nhưng khi có sự biến xảy ra, với
tư
cách là đại biểu Quốc hội, bạn có trọng trách đặc biệt trong
việc
quyết định cách giải quyết vấn đề.
Chính trị bình dân | 407
10. GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các
cơ
quan nhà nước. Chắc bạn đã từng thấy các đại biểu Quốc hội chất
vấn các quan chức cấp cao như Thủ tướng, các bộ trưởng, Chánh
án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân
dân
tối cao và nhiều quan chức khác. Đó chính là một trong những
hoạt động giám sát.
Xem xét và thảo luận các báo cáo công tác của các quan chức
cấp cao cũng là giám sát. Bên cạnh đó, đại biểu Quốc hội có
thể
tham gia các đoàn giám sát chuyên đề về một vấn đề cụ thể nào
đó,
ví dụ vấn đề xét xử oan sai hay chương trình mục tiêu quốc
gia xây
dựng nông thôn mới.
* * *
Trên đây là một số đầu việc quan trọng mà một đại biểu Quốc
hội phải làm. Bạn có thể xem đầy đủ các đầu việc này tại Điều
70
của Hiến pháp hiện hành về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội.
Đọc kỹ Luật Tổ chức Quốc hội cũng không thừa.
Bài viết này đưa ra rất nhiều văn bản luật và cả Hiến pháp để
bạn áp dụng. Tuy nhiên, cũng đừng quên rằng, với tư cách là một
đại biểu Quốc hội, bạn có thể thay đổi tất cả những văn bản
đó.
Chúc bạn thành công.
Bài đọc
CÁCH ĐO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI1
Những năm gần đây, gần như trước kỳ họp Quốc hội nào, câu
chuyện nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội cũng được nêu
ra. Có lẽ đã tới lúc cần đặt vấn đề một cách “sát sườn” hơn:
Làm thế
nào để cân, đong, đo, đếm được chất lượng ấy?
Hiệu quả hoạt động của cơ quan lập pháp phụ thuộc vào chất
lượng của đại biểu Quốc hội và mức độ thực quyền của Quốc hội
đối với cơ quan hành pháp. Nếu nói hiện nay năng lực lập pháp
ở
ta còn yếu, thì cứ phải tiên trách đại biểu, hậu trách cái cơ
chế quyết
định thực quyền của Quốc hội.
TIÊN TRÁCH ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Điểm chung dễ nhận thấy ở đa số đại biểu Quốc hội của ta là
tính
hiền, hiểu theo nghĩa ít nói, ít phát biểu trong phiên họp
toàn thể, và
ít tiếp xúc báo chí. Có lẽ vì thế mà mỗi khóa, có vài trăm đại
biểu
Quốc hội nhưng chỉ vài gương mặt “nổi”: Nguyễn Ngọc Trân, Tôn
Nữ Thị Ninh (khóa XI), Nguyễn Minh Thuyết, Dương Trung Quốc,
Nguyễn Đình Xuân (khóa XII)... Các đại biểu này nổi bật giữa
hàng
trăm đại biểu là bởi họ thường xuyên có ý kiến chất vấn trong
mỗi
kỳ họp Quốc hội, luôn sẵn sàng trả lời phỏng vấn của giới
truyền
thông, được công luận (báo chí và dân chúng) nhắc tới nhiều.
1. Bài của Phạm Đoan Trang, đăng trên chuyên trang Tuần Việt
Nam của báo điện tử
VietNamNet ngày 20/10/2009.
410 | Phạm Đoan Trang
Tình trạng này, quả thật, hơi bất bình thường, vì đúng ra việc
thay mặt cử tri chất vấn và giám sát hoạt động của Chính phủ,
cũng
như duy trì tiếp xúc với các kênh báo chí để truyền tải thông
tin tới
công luận, phải là một phần việc đương nhiên của các đại biểu.
Đại
biểu Quốc hội chẳng nên nổi tiếng vì đã làm những nhiệm vụ
đương nhiên của mình.
Tương tự, đã chất vấn thì dễ phải quyết liệt, cho nên khi dư
luận
trầm trồ thấy một số ít ĐB nêu trên hay đưa ra các câu hỏi
gai góc,
ta chẳng biết nên buồn hay vui: Hỏi vậy mà đã là “mạnh bạo
quá”,
“đụng chạm quá” hay sao?
Vì đa số các đại biểu “hiền” như thế, nên những người quan
tâm
theo dõi các kỳ họp Quốc hội khó mà hài lòng. Cử tri Trần
Trinh
Mạnh (phường Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội) nhận xét: “Người dân
đã bầu các đại biểu để đại diện cho quyền lợi và tiếng nói của
họ,
trong khi dân có rất nhiều bức xúc mà đại diện của mình lại
thường
im lặng trên diễn đàn Quốc hội. Đây là điều khó chấp nhận”.
Im lặng ngồi dự họp đã đành, còn có những đại biểu Quốc hội
im lặng không dự. Cử tri Nguyễn Phi Long (phường Điện Biên,
Ba
Đình, Hà Nội) đã bày tỏ sự bức xúc trước hiện tượng nhiều
phiên
làm việc của Quốc hội trống rất nhiều ghế: “Đại biểu nào vắng
mặt
nhiều thì không nên tham gia Quốc hội”.
Hiện tượng này được phỏng đoán là do các đại biểu đó bận việc
khác, bởi lẽ tới 70% đại biểu Quốc hội của ta hiện nay là đại
biểu
kiêm nhiệm. Nhiều đại biểu còn làm Bộ trưởng, Thứ trưởng
trong
cơ quan hành pháp, nên quỹ thời gian tất nhiên phải san sẻ
cho cả
hai việc “đá bóng” và “thổi còi”.
Còn sự “im lặng khó hiểu” của số đông đại biểu Quốc hội trước
hội trường thực ra cũng không quá khó hiểu. Một gương mặt kỳ
cựu trong số các đại biểu Quốc hội khóa XII, ông Nguyễn Minh
Thuyết, từng giải thích rằng có những đại biểu là người địa
phương,
ít có điều kiện tham dự thường xuyên những sự kiện chính trị
lớn
như họp Quốc hội.
Chính trị bình dân | 411
“Đã vậy, mà lại phải tham gia ý kiến về các vấn đề kinh tế -
xã
hội phức tạp thuộc những lĩnh vực không phải chuyên môn của
mình, thì họ dễ cảm thấy e ngại” - ông Thuyết cho biết.
Có những đại biểu Quốc hội còn rất trẻ. Có đại biểu là người
dân tộc thiểu số. Khóa XII, lại có người còn đang đi tìm việc
khi
được bầu làm đại biểu Quốc hội. Đặc biệt hơn nữa, như Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Phú Trọng từng “tiết lộ”: “Không loại trừ cả
trường hợp nhiều người không thích làm đại biểu đâu nhưng vì
công việc nên phải làm”.
Những đại biểu như vậy, nếu im lặng ngồi dự phiên họp toàn
thể của Quốc hội, cũng là điều dễ hiểu.
HẬU TRÁCH CƠ CHẾ
Tuy nhiên, sẽ là không thỏa đáng nếu quy hoàn toàn chất lượng
hoạt động của cơ quan lập pháp cho năng lực của đại biểu Quốc
hội. Nhìn vào danh sách đại biểu Quốc hội các khóa từ khóa 9
tới
nay (khóa XII), có thể thấy mặt bằng trình độ của đại biểu Quốc
hội đã tăng lên đáng kể (tạm theo một tiêu chí là bằng cấp):
y Khóa IX (1992-1997): 395 đại biểu, trong đó 222 người tốt
nghiệp đại học hoặc sau đại học, chiếm tỷ lệ 56,2%;
y Khóa X (1997-2002): 450 đại biểu, trong đó 411 người tốt
nghiệp đại học hoặc sau đại học, chiếm tỷ lệ 91,33%;
y Khóa XI (2002-2007): 498 đại biểu, trong đó 465 người tốt
nghiệp đại học hoặc sau đại học, chiếm tỷ lệ 93,37%;
y Khóa XII (2007-2011): 493 đại biểu, trong đó 473 người tốt
nghiệp đại học hoặc sau đại học, chiếm tỷ lệ 95,94%
(nguồn: Văn phòng Quốc hội)
Bên cạnh đó, có một thực tế là vào những kỳ họp đầu tiên của
mỗi khóa Quốc hội, các đại biểu thường vào cuộc rất sôi nổi.
Càng
các kỳ họp về sau, không khí càng bớt “nóng”, và rồi đến khi
nhiều
vấn đề không được giải quyết triệt để như mong đợi của một bộ
412 | Phạm Đoan Trang
phận cử tri, thì câu hỏi về chất lượng hoạt động của Quốc hội
lại
tiếp tục được đặt ra.
Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII vừa qua, báo cáo kinh tế - xã
hội được trình Quốc hội khá muộn, báo cáo về dự án khai thác
bô-xít Tây Nguyên phải được “nhắc” đôi lần, Chính phủ mới gửi
Quốc hội. Chương trình nghị sự cũng không có nội dung thảo
luận nào riêng về đại dự án này. Trong khi một trong các chức
năng hiến định của lập pháp là “quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước”.
Tương tự, mặc dù Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội
cũng thấy rõ, trong gói kích cầu của Chính phủ có những khoản
thuộc thẩm quyền Quốc hội và phải có ý kiến Quốc hội, nhưng
chủ
trương kích cầu đã được Chính phủ quyết định nhanh gọn, và Ủy
ban thì đã nhất trí cao, tán thành nhanh.
Gói kích cầu chiếm gần 10% GDP mà được thông qua mau
chóng như vậy, chứng tỏ công tác quản lý vĩ mô ở ta nhiều khi
cũng
khá... thuận lợi, nhất là nếu so sánh với một số quốc gia
khác. Ở
khía cạnh ngược lại, điều này cho thấy vai trò của Quốc hội
trong
các vấn đề quan trọng của đất nước hãy còn nặng tính hình thức.
Nhìn vào hoạt động của cơ quan lập pháp, Tiến sĩ Hoàng Ngọc
Giao (Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển) đặt
câu hỏi: “Liệu dự án bô-xít, một dự án nằm trên địa bàn hết sức
quan trọng không chỉ về văn hóa, môi trường mà còn với an
ninh,
quốc phòng; việc mở bể than ở châu thổ sông Hồng, hay việc
tung
ra các gói kích cầu của Chính phủ, có phải là những vấn đề trọng
đại của đất nước hay không? Nếu phải, quyền của Quốc hội, quyền
thật sự ấy, trong những vấn đề đó là gì, tới đâu?”.
Câu trả lời nằm ở cơ chế cho sự vận hành của Quốc hội, cơ chế
đảm bảo quyền lực thực sự của Quốc hội.
QUỐC HỘI CẦN TỰ “LÀM LUẬT”
Cứ như hiện nay thì ngay trong quy chế hoạt động của Quốc hội,
Chính trị bình dân | 413
cũng đã có những điểm hạn chế năng lực chất vấn, kiểm tra và
giám sát của đại biểu.
Một ví dụ đã được báo chí nhắc tới nhiều là quy định về đề xuất
bỏ phiếu. Để một vấn đề được đưa ra biểu quyết tại Quốc hội,
cần
một trong bốn điều kiện:
• Có đề nghị của Chính phủ;
• Có đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
• Có đề nghị của một ủy ban chuyên trách liên quan trong Quốc
hội;
• Có đề nghị của tối thiểu 20% số đại biểu Quốc hội.
Trong số này, điều kiện “tối thiểu 20% số đại biểu Quốc hội”
rất
có thể mâu thuẫn với thực tế. Như đại biểu Dương Trung Quốc
nhận định: “Quốc hội có tới 92% là đảng viên, mà đã là đảng
viên
thì khi quyết định các vấn đề, phải tuân thủ theo định hướng
của
tổ chức”. Nghĩa là, trên thực tế, khó mà đạt được tỷ lệ 20% số
đại
biểu Quốc hội nhất trí đưa một vấn đề ra biểu quyết.
Do vậy, để tăng tính hiệu quả, cơ quan lập pháp cần xây dựng
cơ
chế cho sự vận hành của chính mình. Nói cách khác, trước hết,
các
nhà làm luật cần tự... cởi trói.
ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
Bên cạnh việc Quốc hội hoàn thiện cơ chế và bản thân mỗi đại
biểu
tự nâng cao năng lực bản thân, rất cần có sự đổi mới phương
thức
lãnh đạo để đảm bảo Quốc hội có thực quyền.
Sẽ khó có một quốc hội hiệu quả nếu như với mỗi quyết định
“đã rồi” của Chính phủ, “Quốc hội cũng chỉ có thể nhắc nhở,
lưu ý
các cơ quan Chính phủ “rút kinh nghiệm” thôi”, như đại biểu
Nguyễn Minh Thuyết từng thừa nhận. “Nhiều khi, trong suy nghĩ
thì mình bất bình đấy, nhưng khi chất vấn mình không được thể
hiện thái độ quá. Chất vấn xong, đưa ý kiến của mình xong,
Chính
phủ không làm theo thì mình cũng phải chấp nhận, vì thực ra ý
414 | Phạm Đoan Trang
kiến của đại biểu Quốc hội cũng chỉ là một ý kiến thôi” - ông
Thuyết
nhấn mạnh.
Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho cử tri, cho nhân dân.
Nếu ý kiến của đại biểu Quốc hội “cũng chỉ là một ý kiến”,
thì nghĩa
là tiếng nói của nhân dân cũng chỉ... như vậy mà thôi.
Cuối cùng, mặc dù Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng cho
rằng thời gian qua Quốc hội đã phát huy khá tốt vai trò giám
sát
hành pháp, nhưng thực tế là những phản ứng của Quốc hội lại
chỉ
đến sau khi Chính phủ đã có quyết định (các dự án bô-xít, gói
kích
cầu, mở bể than sông Hồng), và về căn bản là đồng thuận.
Cách đo chuẩn xác về hiệu quả hoạt động của Quốc hội, đó là
trả lời câu hỏi: Mỗi đại biểu Quốc hội, mỗi cử tri, đã cảm thấy
tiếng
nói của mình có khả năng thay đổi chính sách Nhà nước hay
chưa?
Một khi đại biểu chưa cảm thấy “sức mạnh” của mình, thì
chứng tỏ Quốc hội vẫn chưa thực hiện tốt vai trò “cơ quan quyền
lực cao nhất” được cử tri đặt niềm tin và có bổn phận thực hiện
niềm tin ấy.
29/8/2018
Phạm Đoan Trang
Theo https://luatkhoa.com/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét