Thứ Năm, 11 tháng 12, 2025

Chính trị bình dân 4 XXXXX

Chính trị bình dân 4

Bài đọc

 

XÃ HỘI ẢO... NHƯNG THẬT 1

 

... Vào ngày 13/7/2009, Yahoo! 360° đóng cửa. Ban đầu sự đóng

cửa này trông có vẻ như một tổn thất nặng nề cho các blogger

chính trị ở Việt Nam khi cộng đồng của họ tan vỡ. Một số người tự

động chuyển sang Yahoo! 360° Plus, một nền tảng do văn phòng

Yahoo! ở Việt Nam quản lý. Những người khác thì chọn wordpress,

blogger, multiply, weblog, v.v... Tuy nhiên, họ nhanh chóng tụ trở

lại, lần này là ở một diễn đàn mới, mạnh và rất có sức ảnh hưởng:

facebook. Các con số thống kê được cập nhật vào tháng 3/2013 cho

thấy Việt Nam là một trong số những nước dẫn đầu về tỷ lệ tăng

trưởng facebook, với 11 triệu tài khoản. Một chốn như vậy chắc

chắn sẽ là một mặt trận đáng sợ đối với đảng Cộng sản.

Một số blogger chính trị nổi lên. Blog Ba Sàm trở thành “điểm

gặp gỡ” của những người quan tâm đến tình hình chính trị. Ba

Sàm là biệt danh của một blogger đặt tên cho blog của mình là

Thông Tấn Xã Vỉa Hè nhằm giễu nhại Thông Tấn Xã Việt Nam.

(Trong tiếng Việt, tin vỉa hè cũng là từ lóng để chỉ những “chuyện

cóp nhặt” hay “tin vịt” mà mọi người kể cho nhau nghe khi họ cà

kê ở các quán cafe vỉa hè). Công việc mà các biên tập viên blog này

làm từ trước đến nay là điểm tin hàng ngày về Việt Nam, bất kể là

tin tức trên phương tiện truyền thông chính thống hay từ các

1. Trích từ tiểu luận “Xã hội ảo... nhưng thật” (“Virtual Civil Society... But It’s Real”), Phạm

Đoan Trang, đăng trong cuốn “Từ Facebook xuống đường”, NXB Hoàng Sa, tháng 6/2016.

 

328 | Phạm Đoan Trang

blogger (các nhà dân báo), các cơ quan truyền thông quốc tế. Với

mỗi tin, biên tập viên đăng đường dẫn và bổ sung thêm bình luận

cá nhân về tin tức đó, thường là theo phong cách hài hước và châm

biếm. Công việc này có vẻ quá đơn giản, khó có thể thu hút được

một lượng độc giả lớn đến vậy – trên 100.000 người đọc mỗi ngày,

một số lượng độc giả đáng mơ ước đối với bất kỳ tờ báo giấy nào

của nhà nước. Nhưng chắc chắn, nó không đơn giản chút nào. Blog

Ba Sàm thỏa mãn được những độc giả đã chán ngán hệ thống

tuyên truyền nghiêm túc thái quá và vô hồn của nhà nước, đó là

những người khao khát phương tiện truyền thông thay thế. Thông

Tấn Xã Vỉa Hè có vẻ hấp dẫn hơn bất kỳ cơ quan truyền thông

chính thống nào: Nó cung cấp một lượng tin tức đa dạng về tình

hình chính trị, kinh doanh, giáo dục, khoa học và công nghệ trong

nước cũng như quốc tế, với một phong cách chưa từng có - một sự

kết hợp giữa ngôn ngữ thẳng thắn, hài hước của miền Nam và các

phân tích phê bình của một trí tuệ thâm thúy kiểu miền Bắc.

Bên cạnh Ba Sàm, còn có một số blog nổi tiếng khác như Người

Buôn Gió, Quê Choa, Xuân Diện và Trương Duy Nhất (Trương

Duy Nhất bị bắt giam ngày 26/5/2013 theo Điều 258 Bộ luật Hình

sự). Số lượng các blog chính trị đã tăng lên với tốc độ vượt ngoài dự

đoán trong nhiều năm kể từ năm 2011, và hiện có khoảng 30 blog

như thế – đấy là một con số mà 4-5 năm trước đó không ai có thể

hình dung nổi.

Không giống như truyền thông của Đảng hay thứ truyền thông

bị kiểm duyệt chính thức, các phương tiện truyền thông thay thế

này có tính tương tác rất cao: Quả thực, chúng là những diễn đàn

trực tuyến, nơi mọi người tự do bình luận, và các tác giả có thể thảo

luận, thậm chí tranh cãi với khán giả về chủ đề đang được bàn đến.

Đặc điểm quan trọng này của “những tờ báo của dân” khiến cho

chúng trở thành những điểm tụ hội lý tưởng cho mọi người, bất kể

là ở trong nước hay ngoài nước, vô danh hay có danh tính rõ ràng,

hội họp trên mạng. Một số người thậm chí còn trở nên nổi tiếng vì

 

Chính trị bình dân | 329

các bình luận chứ không phải vì bài viết. Dân Làm Báo, một trong

những blog bất đồng chính kiến lớn tiếng nhất, còn tự gọi mình là

“thôn”. Từ đây một hình thức xã hội dân sự mới ra đời: xã hội dân

sự trên mạng.

Các mối quan hệ trên mạng có thể đi đến chỗ ngoài mạng. Một

số người nhanh chóng gặp gỡ ngoài đời thật và trở thành những

nhóm nhỏ mà chắc chắn không đăng ký hay có sự công nhận nào

của nhà nước. Họ làm nhiều việc thực tiễn: Họ giúp gia đình của

các blogger bị bỏ tù như Điếu Cày, Tạ Phong Tần và Anh Ba SG; họ

đi tới các phiên tòa xử những người bất đồng chính kiến chính trị

như nhà hoạt động pháp lý Cù Huy Hà Vũ; họ chia sẻ và thậm chí

in những cuốn sách tự xuất bản về lĩnh vực cấm kỵ - chính trị. Và

có lẽ quan trọng hơn cả, họ xây dựng nền tảng cho những cuộc

biểu tình sắp nổ ra.

BÁO CHÍ NHÀ NƯỚC VÀ BÁO CHÍ LỀ DÂN

Trung Quốc dường như đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong

tình hình chính trị Việt Nam. Ngoài quan điểm cho rằng đảng

Cộng sản Trung Quốc duy trì sự can thiệp vô lý vào công việc nội

bộ của đảng Cộng sản Việt Nam, có một thực tế là “phản đối Trung

Quốc hung hăng” luôn được các blogger Việt Nam lấy làm lý do

chính đáng cho các cuộc biểu tình, đặc biệt là trong bối cảnh tranh

chấp biển đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Ngày 26/5/2011, các tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp khảo

sát địa chấn của tàu Bình Minh 2 của Tập đoàn Dầu khí Petro Việt

Nam ngay tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Một làn sóng

phẫn nộ lan khắp blog và facebook. Nhật Ký Yêu Nước (một trang

facebook được tạo tháng 4/2009) kêu gọi biểu tình chống Trung

Quốc, và kết quả là ngày 5/6, các cuộc biểu tình đã nổ ra ở cả Hà

Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với trang facebook Nhật Ký

Yêu Nước, Xuân Diện và Ba Sàm nổi lên như những điểm tụ hội

nổi bật cho người biểu tình. Hai blog này đăng tải những thông báo

 

330 | Phạm Đoan Trang

biểu tình, thậm chí kêu gọi công an “dọn đường cho người dân

thực hành quyền tự do biểu đạt”.

Những lời kêu gọi như vậy là không thể chấp nhận được với

chính quyền của một đất nước nơi mà từ năm 1975 khi chiến tranh

kết thúc và đảng Cộng sản lên nắm quyền, biểu tình vẫn là một việc

cấm kỵ. Có thể giải thích điều này bằng những gì mà một công an

viên nói với tác giả trong một cuộc thẩm vấn tháng 7/2012: “Không

bao giờ được để cho một đốm lửa nhỏ bùng lên thành đám cháy

lớn. Phải dập tắt nó ngay khi còn có thể”. Một mặt, các nhà chức

trách phản ứng lại ngay lập tức bằng việc huy động công an đến, sử

dụng bạo lực để trấn áp biểu tình. Mặt khác, các chiến dịch đàn áp

bắt đầu được triển khai trên Internet. Một kỹ thuật đơn giản là tấn

công các trang web. Anh Ba Sàm, Quê Choa, Gốc Sậy và nhiều blog

có ảnh hưởng khác thường xuyên bị hack, xóa dữ liệu và thay thế

bằng những thông tin xúc phạm các nạn nhân. Mỗi cuộc tấn công

trang web đều được cộng đồng blogger coi là một thảm họa, nhưng

rất may là các blog thường được khôi phục khá nhanh chóng.

Nhiều người cho rằng tất cả các cuộc tấn công trang web này đều

là do công an mạng Việt Nam, thậm chí đôi khi là do hacker Trung

Quốc, gây ra.

Cách thức kiểm soát Internet kinh điển – chặn trang web –

cũng từng được sử dụng rộng rãi. Từ năm 2009, facebook, blogspot,

multiply, v.v... đều thỉnh thoảng bị chặn. Công an cũng không từ bỏ

việc khủng bố các blogger. Nhiều blogger đã bị công an triệu tập,

thẩm vấn, câu lưu và công kích trong 5 năm trở lại đây. Xuân Diện

bị Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội phạt tiền vì đã xuất bản

những “nội dung xấu” trên blog.

Ngoài ra, các phương tiện truyền thông nhà nước cũng luôn

được huy động triệt để cho việc “vận động quần chúng” chống lại

những cuộc biểu tình mà hiện đang được gắn nhãn là “chống nhà

nước”. Bộ máy truyền thông đại chúng đóng vai trò tích cực trong

việc khiến người dân xa lánh những người biểu tình, đánh đồng

 

Chính trị bình dân | 331

các bình luận phê phán chính phủ với hành động “bôi nhọ, nói xấu

nhà nước”, và hạ uy tín của những blogger có vẻ như có ảnh hưởng

đối với công chúng nhưng vẫn chưa bị bắt. Người biểu tình phản

ứng lại bằng việc viết nhiều hơn nữa, chụp ảnh nhiều hơn nữa và

chia sẻ nhiều hơn nữa trên facebook, youtube và blog.

Một số người tổ chức một cuộc biểu tình nhỏ trước cửa Đài

Truyền hình Hà Nội để phản đối những phóng sự vu khống người

biểu tình yêu nước. Cuộc biểu tình không thu được gì nhiều: Tổng

giám đốc Trần Gia Thái và Đài Truyền hình với tư cách là cơ quan

ngôn luận của Đảng bộ Hà Nội sẽ không bao giờ xin lỗi “đám phản

động”. Nhưng ít nhất đây cũng là lần đầu tiên đài truyền hình quốc

doanh này thấy được sự phẫn nộ của những khán giả bị đẩy làm

nạn nhân.

 

Biểu tình phản đối Đài Truyền hình Hà Nội, 21/10/2011.

Dòng chữ trên giấy: “Các nhà báo, hãy tôn trọng sự thật!

 

Journalists, respect the truth!”.

 

Cuộc chiến truyền thông trở nên dữ dội khi các quan chức bắt

đầu “dùng blogger chống blogger”. Trưởng Ban Tuyên giáo của

Thành ủy Hà Nội, Hồ Quang Lợi, trong một cuộc họp ngày

9/1/2013 tổng kết hoạt động báo chí tuyên truyền năm 2012, cho

 

332 | Phạm Đoan Trang

biết Ban đã xây dựng một lực lượng 900 “dư luận viên” ở riêng Hà

Nội “để phát huy sức mạnh của đội ngũ tuyên truyền”. Ông Lợi cho

biết thêm, Ban Tuyên giáo cũng xây dựng thành công các nhóm

chuyên gia trực tiếp tham gia bút chiến với người bất đồng trên

Internet; cho đến thời điểm đó, họ đã có 19 trang tin và 400 tài

khoản mạng. Những dư luận viên này là đội quân mạng thật sự

hung hãn. Vô danh tính, và có lẽ học vấn kém, họ hành xử như

những lính canh Internet, duyệt các blog chính trị và dội xuống bất

cứ thứ ngôn ngữ độc địa và ngụy biện nào họ có thể nghĩ ra. 1

Nhưng có vẻ như đã quá muộn để các nhà chức trách ngăn cản

mọi người thành lập hội nhóm trên mạng và nói lên ý kiến của họ.

Facebook, với tính năng hữu dụng cho phép người dùng tổ chức

các nhóm kín, trở thành lựa chọn nền tảng số 1. Có vẻ như facebook

càng bị chặn dữ dội bao nhiêu, người dùng facebook càng khao

khát đăng nhập, và họ càng trở nên thành thạo về công nghệ bấy

nhiêu. Không bức tường lửa nào có thể ngăn cản họ. Và những gì

phải đến đã đến. Tháng 8/2011, khi cuộc bố ráp người biểu tình lên

đến đỉnh điểm ở Hà Nội với lời cảnh báo chính thức từ Ủy ban

Nhân dân Thành phố Hà Nội là sẽ giải tán tất cả các kiểu hội họp,

những nhóm “người biểu tình yêu nước” đầu tiên đã được tạo ra.

Có thể hiểu họ không bao giờ đăng ký vì sẽ không bao giờ được cấp

phép. Lần đầu tiên trong lịch sử tiến trình dân chủ ở Việt Nam,

những người bất đồng chính kiến có thể kết nối trong những nhóm

dù hoạt động ngầm nhưng có tổ chức.

Trong vòng vài tháng kể từ tháng 8/2011, các nhóm hoạt động

ngầm này phát triển thành một mạng lưới lớn gồm các nhà hoạt

động trên khắp không gian Internet ở Việt Nam. Không ai thật sự

biết hay có thể nói có bao nhiêu nhóm như vậy ở Việt Nam vào

1. Ngày 25/12/2017 ở TP.HCM, tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tuyên giáo năm

2017 và triển khai nhiệm vụ cho năm 2018, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt

Nam công bố đã xây dựng “Lực lượng 47” (gọi tên theo Chỉ thị 47) với hàng chục nghìn

thành viên để “đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch với đảng Cộng sản” trên

không gian mạng.

 

Chính trị bình dân | 333

thời điểm hiện tại – đây là điều lực lượng an ninh quả thật khao

khát muốn nắm được. Đến thời điểm này chính quyền và lực lượng

an ninh đã hoàn toàn ý thức được rằng biểu tình không còn là hoạt

động “tự phát” nữa.

 

Biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội ngày 24/7/2011.

Điều quan trọng hơn cả, những nhóm online này dần dà mở

rộng mối quan tâm từ vấn đề tranh chấp chủ quyền giữa Trung

Quốc và Việt Nam sang các vấn đề khác ở đất nước Việt Nam

đương đại, chẳng hạn cuộc đấu tranh giành quyền sử dụng đất của

nông dân. Từ những người biểu tình được truyền cảm hứng bởi

tinh thần dân tộc, họ trở thành các nhà hoạt động dân chủ và nhân

quyền. Với tình hình hiện tại, những nhóm này còn xa mới trở

thành các đảng đối lập, nhưng ít nhất những người quan tâm đến

các vấn đề chính trị-xã hội có thể tự hình thành nhóm với nhau,

trong nhóm đó họ chia sẻ kinh nghiệm và kỹ năng đối đầu với an

ninh, báo cáo lại những trường hợp vi phạm nhân quyền, làm từ

thiện và cùng nhau phát động nhiều dự án xã hội khác nhau.

No-U FC là một ví dụ, đây là một đội bóng, các thành viên gặp

gỡ nhau hàng tuần vào chủ nhật với mục đích bề ngoài là để đấu

 

334 | Phạm Đoan Trang

bóng, nhưng mục đích thật sự lại là “vận động chống đường lưỡi

bò của Trung Quốc” (hay đường chín đoạn, đường chữ U mà

Trung Quốc thường dùng trong các yêu sách về chủ quyền của họ).

Được thành lập vào tháng 10/2011, câu lạc bộ này nhanh chóng trở

thành mục tiêu theo dõi và quấy nhiễu của an ninh. Nhưng điều đó

không ngăn được câu lạc bộ mở rộng số lượng thành viên và các

hoạt động xã hội như đi từ thiện, giúp trẻ em có hoàn cảnh khó

khăn và tổ chức những buổi nói chuyện chuyên đề về các tranh

chấp trên Biển Đông – các hoạt động mà nhà nước vẫn giữ vai trò

độc quyền suốt hàng chục năm.

KẾT LUẬN

Trong nhiều năm, đảng Cộng sản đã thể hiện thành công hình ảnh

Việt Nam ra thế giới như một đất nước nhỏ bé xinh đẹp có tỷ lệ

tăng trưởng kinh tế ấn tượng, chính quyền năng động và người

dân mến khách. Có một niềm tin phổ biến rằng Trung Quốc và

Việt Nam có lẽ là hai ví dụ nổi bật về việc một đất nước có thể đạt

được tiến bộ kinh tế mà không cần đến cải cách chính trị, hay nói

cách khác phát triển không nhất thiết đòi hỏi dân chủ.

Tuy nhiên, nhìn vào cuộc đấu tranh ngầm của các blogger

chống lại giới cầm quyền đàn áp thô bạo có thể đưa đến một kiến

giải khác hẳn. Thực tế là dưới bề mặt của sự phát triển kinh tế (mà

đến bây giờ còn rất yếu) là những chính sách độc tài, một nhà nước

tham nhũng và hà khắc dập tắt tiếng nói bất đồng và hạn chế các

quyền tự do. Chắc chắn điều mà chính quyền này ghét nhất là trách

nhiệm giải trình và tính minh bạch. Do đó, Internet với sức mạnh

đưa mọi thứ ra ánh sáng nhanh chóng trở thành “kẻ thù của nhà

nước”. Điều này đặc biệt đúng khi các phương tiện truyền thông xã

hội bùng nổ ở Việt Nam. Khi phương tiện truyền thông chính

thống lỗi thời không chiếm được cảm tình của độc giả và không

gian công cộng rơi vào tay các blogger, các nhà chức trách liền

dùng đến vũ lực.

 

Chính trị bình dân | 335

Nhưng một khi người dân đã biết đến vị tự do, họ sẽ không từ

bỏ nó. Dân chủ và tự do luôn có khuynh hướng mở rộng. Trong

tiếng Việt có một phép ẩn dụ về cái trần nhà. Khi nhà cầm quyền

ụp trần lên người dân, mọi người phải ở dưới cái trần ấy; nhưng

nếu một số người đẩy được cái trần đó lên để không gian giới hạn

kia được nới ra thêm chút ít, cả cộng đồng sẽ được hưởng lợi và họ

sẽ muốn thêm nữa. Do đó, cái trần sẽ nhanh chóng bị đẩy lên thêm

và mọi người sẽ hưởng thêm không gian, và thêm thèm tự do.

Mọi thứ cũng diễn ra tương tự với quyền tự do biểu đạt ở Việt

Nam trong kỷ nguyên Internet.

Khó có thể khẳng định rằng các tổ chức xã hội dân sự đã và

đang hoạt động hiệu quả và đóng góp vào tiến trình dân chủ của

đất nước. Ta cũng không thể nói rằng nhờ có Internet, dân chủ

diễn ra nhanh hơn và sẽ sớm có “mùa xuân Ả-rập” ở Việt Nam. Tuy

nhiên, tất cả các hội nhóm được tạo ra trên Internet, dù tổ chức còn

lỏng lẻo, thiếu kinh nghiệm chính trị, và còn lâu mới trở thành các

đảng đối lập, vẫn là tiền thân của xã hội dân sự trong thực tế, việc

này ít nhất có thể làm cho quần chúng quen với những ý niệm về

một không gian tự do ít sự kiểm soát của nhà nước hơn. Lý tưởng

là, các tổ chức xã hội dân sự online này sẽ là nguồn cung cấp những

ứng viên ngoài đảng Cộng sản cho các cơ quan công quyền trong

những cuộc bầu cử dân chủ tương lai.

 

Chương VII

PHONG TRÀO XÃ HỘI

 

ĐỊNH NGHĨA

Phong trào xã hội là một dạng hành động tập thể, tập trung vào

một hoặc một số vấn đề kinh tế-xã hội nào đó, nhằm tiến hành

thay đổi xã hội hoặc chống lại sự thay đổi.

Thế hành động tập thể là gì? Đơn giản, đó là hành động được

tiến hành đồng loạt bởi một nhóm người. Nó khác hẳn với hành

động cá nhân, là hành động chỉ của một người.

“Hành động tập thể” là một khái niệm mới đối với phần đông

người Việt Nam, nhất là những người không nghiên cứu khoa học

xã hội. Tuy nhiên, nó là khái niệm có mặt trong rất nhiều ngành

khoa học xã hội trên thế giới: tâm lý học, xã hội học, nhân học,

kinh tế học, chính trị học.

Và phong trào xã hội là một dạng hành động tập thể có mục

đích (thực hiện thay đổi hoặc chống lại sự thay đổi xã hội), có tổ

chức. Nó không tự phát như một cuộc bạo loạn, không hỗn loạn

như khi một đám đông chen lấn, xô đẩy, hay như khi mọi người đổ

xô đi mua chứng khoán hoặc ra ngân hàng rút tiền, tháo vốn ồ ạt...

Các bạn lưu ý: Phong trào xã hội không tự phát. Mọi hoạt động

của nó đều là có chủ đích, có kế hoạch, nhằm đạt một mục tiêu xã

hội chung.

 

338 | Phạm Đoan Trang

SO SÁNH PHONG TRÀO XÃ HỘI VÀ ĐẢNG

Mặc dù có tổ chức, nhưng phong trào xã hội lại chỉ là phong trào

mà không phải là tổ chức, và càng không phải là đảng.

- Phong trào xã hội khác tổ chức ở chỗ nó không có thứ bậc chặt

chẽ, không có kỷ luật trên-dưới (rất khó có chế tài, hình phạt cho

người vi phạm kỷ luật);

- Phong trào xã hội khác đảng chính trị ở chỗ nó không chỉ

không có thứ bậc và kỷ luật trên-dưới, mà còn không hướng đến

việc giành chính quyền, không nhằm giành một chỗ đứng nào

trong chính trường.

Tuy nhiên, phong trào xã hội hoàn toàn có thể sinh ra đảng

phái. Ví dụ: Phong trào quyền lao động sinh ra công đoàn, công

đảng và các đảng xã hội. Phong trào bảo vệ môi trường sinh ra

đảng xanh.

BA YẾU TỐ CẤU THÀNH PHONG TRÀO XÃ HỘI

Charles Tilly (1929-2008) là một trong những nhà khoa học chính

trị hàng đầu nghiên cứu về phong trào xã hội. Trong lý thuyết của

mình, ông cho rằng có ba yếu tố tạo nên một phong trào xã hội:

Thứ nhất là một chiến dịch vận động (campaign). Đó là một

hoạt động có tổ chức, kéo dài, nhằm đưa các yêu sách tập thể đến

đối tượng cần tác động để thay đổi, ví dụ chính quyền.

Thứ hai là các tiết mục để hoạt động (repertoire): Đó là một loạt

hình thức hoạt động chính trị được sử dụng kết hợp, như thành lập

tổ chức, hội thảo, cafe gặp gỡ, kiến nghị, ra tuyên bố, cầu nguyện

tập thể, tuần hành, biểu tình, làm truyền thông, phát tờ rơi v.v. Có

rất nhiều hoạt động như vậy. Tất cả đều phải nhằm truyền tải thông

điệp đến đối tượng cần tác động, và công chúng.

Thứ ba là sự thể hiện nhất quán trước công chúng bốn đặc điểm,

mà Charles Tilly gọi tắt là WUNC – ghép bốn chữ cái đầu bốn từ

tiếng Anh:

 

Chính trị bình dân | 339

 

y W: chính đáng, xứng đáng (worthiness)

y U: đoàn kết (unity)

y N: số lượng (number)

y C: dấn thân, cam kết tham gia (commitment)

Có nghĩa là gì? Theo Charles Tilly, những người làm phong trào

xã hội phải thể hiện cho công chúng thấy rằng:

y Về đạo đức, họ tốt, xứng đáng; sự nghiệp đấu tranh của họ là

chính đáng;

y Về kỷ luật, họ đoàn kết;

y Về số lượng, họ mạnh, vì họ đông đảo;

y Về tinh thần, họ dấn thân, cam kết tham gia.

Ngược lại, nếu những người làm phong trào xã hội thất bại

trong việc thể hiện bốn yếu tốt trên cho công chúng thì sao? Đơn

giản là công chúng sẽ nghĩ rằng:

y Nếu không xứng đáng, chứng tỏ họ là người xấu.

y Nếu không đoàn kết, chứng tỏ họ không mạnh. Vừa là người

xấu, vừa không mạnh, chứng tỏ: Hoặc họ chỉ là nạn nhân, hoặc là

một lũ hề.

y Nếu không đông đảo, chứng tỏ họ không được đông người

ủng hộ, không có tính chính danh.

y Nếu không cam kết, dấn thân, họ sẽ không đi đến cùng.

Các bạn có thể thấy: Như vậy, đối với những người tiến hành

một phong trào xã hội, làm gì (chiến dịch vận động, các tiết mục đi

kèm) là rất quan trọng, và làm như thế nào cũng quan trọng không

kém. Làm như thế nào – tức là phải thể hiện bốn đặc điểm WUNC

như liệt kê ở trên.

Sự thể hiện nhất quán bốn đặc điểm đó có liên quan đến vấn đề

tính chính danh mà chúng ta đã bàn ở Chương II, Phần II. Nói

cách khác, người làm phong trào xã hội phải thể hiện được WUNC

để thu hút quần chúng, tạo ra và củng cố niềm tin của quần chúng

vào phong trào.

 

340 | Phạm Đoan Trang

 

Phong trào bảo vệ cây xanh ở Hà Nội năm 2015 đưa đến sự ra đời nhóm “Vì

Một Hà Nội Xanh”, sau là “Cây Xanh” (Green Trees) – một tổ chức xã hội

 

dân sự độc lập chuyên về bảo vệ môi trường.

Áp dụng lý thuyết của Charles Tilly vào thực tế, chúng ta có thể

phân tích được một số phong trào xã hội ở Việt Nam, ví dụ phong

trào dân oan, còn thiếu điều gì. Chúng ta cũng có thể hiểu được

ngay tại sao an ninh và dư luận viên phải tốn nhiều công sức đến

thế cho việc viết bài đánh phá, bôi nhọ các phong trào xã hội cổ súy

cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, và công kích toàn bộ

phong trào dân chủ nói chung.

Không rõ an ninh và các dư luận viên có nghiên cứu lý thuyết

của Charles Tilly không, nhưng cứ cho là không, thì một cách vô

tình, những gì bọn họ viết, lập luận, đều nhằm vào phá hủy bốn

đặc điểm WUNC của phong trào dân chủ. Ví dụ như sau:

y “Đấu tranh dân chủ gì chúng nó, toàn một lũ dân chủ cuội, ăn

bám xã hội, mượn danh chống cộng để kiếm chút bơ thừa sữa cặn

của ngoại bang, cờ vàng lưu vong”: Đây là lập luận nhằm triệt hạ tính

chính đáng của hoạt động đấu tranh vì dân chủ-nhân quyền (W).

y “Bọn dân chủ cắn xé nhau như chó với mèo”: Đây là lập luận

nhằm chứng tỏ những người hoạt động không đoàn kết (U).

 

Chính trị bình dân | 341

y “Quanh đi quẩn lại, lần nào biểu tình cũng chỉ chừng ấy gương

mặt cũ rích, những luận điệu cũ rích”: Đây là lập luận đánh vào vấn

đề số lượng của phong trào dân chủ, không đông đảo, chứng tỏ

không được lòng dân (N).

y “Suy cho cùng cũng toàn là một lũ anh hùng bàn phím, thấy

xe công an đến là chạy như vịt, vào đồn là nhận tội hết”: Đây là lập

luận nhằm nhấn mạnh rằng những người hoạt động nhân quyền

không đủ ý chí dấn thân (C).

Sau khi đã tìm hiểu đến đây về phong trào xã hội, nếu bạn còn

hứng thú thì có thể tìm kiếm thêm các tài liệu, sách báo nghiên cứu

về chủ đề này. Trong khuôn khổ một phần nhỏ của một chương

sách, chỉ có thể nói rằng: Phong trào xã hội là một dạng hành động

tập thể có mục đích, có tổ chức. Người tổ chức phong trào xã hội

phải đủ tầm chiến lược và khả năng chiến thuật để tạo ra một chiến

dịch vận động với thông điệp thống nhất, nhiều hoạt động đi kèm

(đòi hỏi người tổ chức phải càng sáng tạo càng tốt), và luôn nhớ

đến việc thể hiện thống nhất bốn yếu tố WUNC.

CÁC GIAI ĐOẠN CỦA MỘT PHONG TRÀO XÃ HỘI

Các nhà nghiên cứu cho rằng theo thời gian, có thể chia một phong

trào xã hội ra thành bốn giai đoạn.

1. Giai đoạn nổi lên

Trong giai đoạn này, sự bất mãn bắt đầu xuất hiện, khi mọi người

đều thấy rằng có điều gì không ổn.

“Những người tiềm năng tham gia phong trào có thể không hài

lòng với một chính sách hoặc tình trạng xã hội nào đó, nhưng họ

chưa có hành động gì để xử lý mối phẫn uất của họ, hoặc nếu có thì

rất có thể là hành động cá nhân chứ không phải tập thể. Một người

có thể bình luận với bạn bè và gia đình rằng anh ta/cô ta không hài

lòng với hiện tình, hoặc có thể viết thư gửi đến tờ báo địa phương

hoặc vị đại diện địa phương, nhưng các hành động này không có

 

342 | Phạm Đoan Trang

tính chiến lược và tính tập thể. Hơn nữa, có thể có sự gia tăng

những tin bài mà các phương tiện truyền thông công bố về tình

trạng tiêu cực hoặc các chính sách không được ưa thích, điều đó

cũng góp thêm vào sự bất mãn chung”. 1

2. Giai đoạn hợp nhất

Đây là giai đoạn mà phong trào xã hội tự định hình, tự phát triển

một chiến lược thu hút người mới, và ra công khai. Có thể có biểu

tình, tuần hành... và thu hút giới truyền thông.

“Ở giai đoạn này các cuộc biểu tình quần chúng có thể diễn ra

để thể hiện sức mạnh của phong trào xã hội và để làm các yêu cầu

rõ ràng hơn. Quan trọng nhất, đây là giai đoạn mà tại đó phong

trào trở thành một thứ vượt hơn mức các cá nhân bức xúc ngẫu

nhiên gặp nhau, ở điểm này chúng có tính tổ chức và có chiến lược

trong tầm nhìn của mình”. 2

3. Giai đoạn hành chính hóa

Trong giai đoạn này, phong trào phụ thuộc vào tài năng của một số

lãnh đạo và nhất là sự chuyên nghiệp của các nhân viên. Có thế,

phong trào mới tồn tại lâu dài được.

“Các phong trào xã hội trong giai đoạn này không còn chỉ dựa

vào các cuộc tuần hành của quần chúng hoặc các nhà lãnh đạo gây

cảm hứng để tiến tới mục tiêu và tạo lập các tổ nhóm cử tri nữa;

chúng phải dựa vào những nhân viên được đào tạo để thực hiện sứ

mệnh của tổ chức. Trong giai đoạn này, quyền lực chính trị của

phong trào xã hội lớn hơn trong các giai đoạn trước đó ở chỗ chúng

có thể tiếp cận thường xuyên hơn với giới tinh hoa chính trị. Nhiều

phong trào xã hội không hành chính hóa được theo cách này và kết

cục là thất bại do các thành viên khó duy trì được cảm hứng cần

thiết và vì việc huy động liên tục quần chúng trở nên khó khăn quá

1. “Four Stages of Social Movements”, Jonathan Christiansen, trong “Theories of Social

Movements”, Salem Press, 2011.

2. Như trên

 

Chính trị bình dân | 343

mức đối với người tham gia phong trào. Việc hành chính hóa

thường có nghĩa là các nhân viên được trả lương có thể thế chỗ vào

khi không sẵn có các tình nguyện viên thừa nhiệt tình”. 1

4. Giai đoạn thoái trào

Thoái trào là giai đoạn kết thúc một vòng đời của phong trào xã

hội. Tuy nhiên, từ “thoái trào” không mang nghĩa tiêu cực, ám chỉ

sự thất bại. Thoái trào có thể diễn ra theo các hình thức như:

- Bị đàn áp và dập tắt, do lực lượng đối đầu – thường là chính

quyền – quá mạnh;

- Bị sáp nhập, ví dụ thỏa hiệp với chính đối tượng mà ban đầu

dự định tác động, chấp nhận đối tượng và làm việc luôn cho họ;

- Thành công, đạt được các mục tiêu đề ra, nên kết thúc hoạt động;

- Thất bại, chiến lược phá sản, nội bộ chia rẽ và tan vỡ, nên kết

thúc hoạt động;

- Được xác lập tư cách chính thống, hòa nhập vào hệ thống

kinh tế-chính trị, nên kết thúc hoạt động.

Theo Jonathan Christiansen, lý thuyết về bốn giai đoạn của

phong trào xã hội có thể giúp giới nghiên cứu hiểu được cách thức

mà các phong trào xã hội gây ảnh hưởng đến xã hội. Thông qua

việc phân tích những phong trào xã hội xuất hiện tại các thời điểm

và giai đoạn nào đó, các nhà xã hội học có thể hiểu sâu hơn về sự

vận hành của xã hội và những thay đổi mà nó kinh qua.

Phong trào xã hội được nhiều người Việt biết tới nhất có lẽ là

phong trào đòi quyền dân sự của người da đen ở Mỹ vào những

năm 1950-1960, với một gương mặt lãnh đạo xuất chúng – mục sư

Martin Luther King. Phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan

cũng được biết đến ít nhiều. Còn ở Việt Nam, phong trào bảo vệ

cây xanh tại Hà Nội năm 2015 đã hình thành và phát triển như một

phong trào xã hội, tiếc là nó chỉ bó hẹp trong phạm vi thủ đô Hà

Nội và bị đàn áp quá mạnh nên ảnh hưởng không rõ nét.

1. Như trên

 

Phần VI

BỘ MÁY NHÀ NƯỚC

 

Phần này giới thiệu với độc giả một nội dung cực kỳ quan trọng

của khoa học chính trị: mô hình tổ chức bộ máy nhà nước.

Nó sẽ giúp các bạn hình dung được bộ máy nhà nước trong một

chế độ dân chủ thì nên như thế nào (không phải là “phải” như thế

nào), bằng việc điểm qua một số mô hình phổ biến của thế giới.

Qua đó, bạn sẽ hiểu rõ hơn về tam quyền phân lập, về chức năng

của từng nhánh quyền lực – lập pháp, hành pháp, tư pháp, cũng

như sẽ hiểu rõ hơn là một đại biểu quốc hội (đại diện cho dân) có

thể kiêm luôn chức bộ trưởng (một chức vụ trong chính phủ)

không, nếu có thì có gì đúng hay sai?

Ở Phần VI này, bạn cũng sẽ tìm hiểu thêm về hai lực lượng có vai

trò rất phức tạp dưới chính quyền của đảng Cộng sản Việt Nam:

công an và quân đội. Nhưng trước hết, chúng ta bắt đầu với một

thứ khế ước xác định mô hình tổ chức bộ máy nhà nước và nguyên

tắc của mối quan hệ giữa chính quyền và nhân dân: Hiến pháp.

 

Chương I

 

HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT

 

HIẾN PHÁP LÀ GÌ?

Hiểu một cách đơn giản nhất thì hiến pháp là một bản thiết kế ban

đầu, xác định tổ chức bộ máy nhà nước và xác lập quyền hạn, trách

nhiệm của nhà nước và công dân. Nó có thể là văn bản (hiến pháp

thành văn) hoặc không phải văn bản (hiến pháp bất thành văn).

Woolsey định nghĩa hiến pháp là “tập hợp những nguyên tắc

mà dựa theo đó, các nhánh quyền lực của một nhà nước, quyền

hạn của một nhà nước, và quan hệ giữa hai cái đó, được điều

chỉnh”.

1

Bouncier định nghĩa hiến pháp là “luật căn bản của một quốc

gia, hướng dẫn các nguyên tắc mà dựa theo đó chính quyền được

thành lập, và điều chỉnh việc thực thi quyền tối cao, trực tiếp chỉ

định ba nhánh quyền lực sẽ bao gồm những cơ quan nào và cách

thức thực thi quyền lực của chúng”. 2

Charles Baregeaud thì định nghĩa hiến pháp là “luật căn bản mà

các mối quan hệ giữa các cá nhân hay người dân thường và cộng

đồng được xác định theo đó. Nó có thể là một văn kiện, một văn

bản chính xác hoặc một loạt các văn bản, được thông qua vào một

thời điểm nhất định bởi một quyền lực tối cao, hoặc nó có thể là kết

 

1. “Political science”, Government of Tamilnadu, India, 2003

2. “Political science”, Government of Tamilnadu, India, 2003

 

348 | Phạm Đoan Trang

quả tương đối của một loạt các đạo luật, nghị định, quyết định của

tòa án, tiền lệ hoặc tập quán với những nguồn gốc khác nhau và

mức độ quan trọng khác nhau”. 1

Còn rất nhiều định nghĩa khác nữa về hiến pháp. Tuy nhiên, từ

các định nghĩa nói trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm chung của

mọi hiến pháp là:

- Là đạo luật căn bản (luật nguồn);

- Có thể thành văn hoặc bất thành văn;

- Quy định cấu trúc và quyền lực của nhà nước;

- Quy định quyền của công dân;

- Quy định mối quan hệ giữa chính quyền (bên cai trị) và dân

chúng (bên bị cai trị);

- Là luật tối cao của một quốc gia mà mọi người đều phải tuân

theo, cao hơn mọi đạo luật khác.

TẠI SAO PHẢI CÓ HIẾN PHÁP?

Dù thành văn hay bất thành văn, hiến pháp cũng là đạo luật căn

bản không thể thiếu của mỗi nhà nước, vì một số lý do. Nhà nước

nào cũng cần có hiến pháp để:

- Giới hạn quyền lực của nhà nước trước nhân dân, không để

nhà nước lạm quyền;

- Bảo vệ quyền công dân, bảo vệ tự do;

- Ngăn chặn tình trạng vô chính phủ;

- Xác định bộ máy nhà nước ổn vững, ngăn chặn hoặc hạn chế

tác hại của những biến động chính trị trong hiện tại và tương lai.

Ở khía cạnh tinh thần, hiến pháp cũng là điều cần thiết để gắn

kết người dân với chính quyền và nhất là với nhau trong một

nguyện vọng chung là được tồn tại, chung sống cùng với nhau

trong một đất nước.

1. “Political science”, Government of Tamilnadu, India, 2003

 

Chính trị bình dân | 349

Cũng cần nói thêm rằng, mọi nhà nước đều cần có hiến pháp.

Điều đó hàm ý rằng mỗi chính quyền với một thể chế (chế độ, hay

hệ thống chính trị) tương ứng đều cần có hiến pháp. Với nhiều

quốc gia chuyển đổi thành công sang dân chủ, một trong những

việc đầu tiên mà chính quyền mới cần làm là soạn thảo hiến pháp

mới hoặc sửa đổi hiến pháp cũ. Một số ví dụ có thể kể đến:

Philippines (1986), Nam Phi (1994)...

NỘI DUNG CHÍNH CỦA HIẾN PHÁP

Hiến pháp có thể dài hay ngắn, có thể có nhiều hay ít điều khoản,

nhưng nội dung chính của mọi bản hiến pháp phải bao gồm:

1. Hình thức và tổ chức bộ máy nhà nước;

2. Chức năng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, quyền

hạn của chúng, và mối quan hệ giữa chúng với nhau;

3. Những quyền cơ bản của công dân;

4. Quan hệ giữa chính quyền và nhân dân;

5. Chế độ kinh tế của quốc gia;

6.Thủ tục thông qua, sửa đổi hiến pháp và giải quyết xung đột

giữa hiến pháp và các luật dưới hiến pháp.

THỦ TỤC XÂY DỰNG VÀ THÔNG QUA HIẾN PHÁP

Quy trình này khác nhau ở mỗi nước. Cơ quan soạn thảo hiến

pháp cũng khác nhau. Theo một thống kê thì trong số 194 quốc gia

trên thế giới: 1

42% Cơ quan lập pháp soạn thảo hiến pháp

17% Hội đồng lập hiến soạn thảo hiến pháp

10% Hội đồng do chính phủ chỉ định soạn thảo hiến pháp

9% Hội đồng do quốc hội chỉ định soạn thảo hiến pháp

1. “Overview of the constitution-making process”, Midan Masr.

 

350 | Phạm Đoan Trang

6% Đàm phán, thương lượng hòa bình tạo thành hiến pháp

6% Hội đồng lập pháp đương thời, được chỉ định tạm thời trong

thời kỳ chuyển giao, soạn thảo hiến pháp

5% Ban chấp hành trung ương đảng soạn thảo hiến pháp

3% Một đại hội quốc dân soạn thảo hiến pháp

2% Một bàn tròn soạn thảo hiến pháp

Do hiến pháp là một bản khế ước, thỏa thuận giữa chính quyền

với nhân dân, cho nên nhất thiết phải có sự tham vấn (lấy ý kiến)

nhân dân và thảo luận, phản biện cả trước và sau khi dự thảo hiến

pháp ra đời. Tất nhiên, việc soạn thảo thì chỉ nên giới hạn trong

một nhóm người, thường là các chuyên gia pháp lý, chứ không phải

dành cho một số đông tham gia. Ở Việt Nam, Khoản 1 Điều 70

Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 quy định Quốc

hội là cơ quan làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa

đổi luật.

Phê chuẩn, hay phúc quyết, hiến pháp là tiến trình mà thông

qua đó, hiến pháp có hiệu lực chính thức. Có hai cách thức chính

là: 1. Quốc hội phê chuẩn; 2. Trưng cầu dân ý toàn quốc. Ở Mỹ,

soạn thảo hiến pháp mất bốn tháng nhưng quá trình phê chuẩn

kéo dài tới 40 tháng.

CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT, TRANH CHẤP

Tất cả các hiến pháp đều cần quy định rõ cơ quan nào có thẩm

quyền phán xét tính hợp hiến của một đạo luật hay quy định nào

đó của các cơ quan nhà nước. Ở các quốc gia lâu nay, cơ quan có

thẩm quyền đó thường là tòa án tối cao (tối cao pháp viện) hoặc tòa

án hiến pháp (tòa bảo hiến). Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, thành lập

năm 1789, được coi là tòa bảo hiến cổ nhất thế giới, vì nó là tòa án

đầu tiên trên thế giới có thẩm quyền tuyên vô hiệu một đạo luật

nào đó nếu đạo luật ấy vi phạm hiến pháp (vi hiến).

 

Chính trị bình dân | 351

Nhiều nước khác thành lập những tòa án riêng biệt chỉ giải

quyết các vấn đề xoay quanh hiến pháp và bảo vệ hiến pháp. Tòa

bảo hiến riêng biệt đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Áo vào

năm 1920.

Ở Việt Nam, không có tòa bảo hiến riêng, và Tòa án Nhân dân

Tối cao cũng không có thẩm quyền diễn giải Hiến pháp. Khoản 2

Điều 74 nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 quy định Ủy ban

Thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ và quyền giải thích Hiến pháp,

luật, pháp lệnh. Điều 119 Hiến pháp quy định “Cơ chế bảo vệ Hiến

pháp do luật định”.

Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam

Ở Việt Nam, bản “khế ước xã hội” mang tên Hiến pháp lâu nay thật ra

không phải là khế ước, bởi nó không thể hiện ý chí của cả hai bên – người

dân, hay chủ nhân của đất nước, và chính quyền. Hiến pháp của nước

Việt Nam thời cộng sản thuần túy do đảng Cộng sản cầm quyền áp đặt lên

người dân, thông qua một quốc hội mà tuyệt đại đa số thành viên là đảng

viên cộng sản. Hiến pháp cũng được xem là sự thể chế hóa cương lĩnh của

đảng Cộng sản, còn luật pháp là sự thể chế hóa các nghị quyết của đảng.

Bản thân Hiến pháp có nhiều điều luôn thòng theo cụm từ “theo quy

định của pháp luật”, “do pháp luật quy định”, ví dụ:

Điều 23: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền

ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do

pháp luật quy định”.

Điều 25: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận

thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do

pháp luật quy định”.

Điều 30: “Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh

thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật”.

Điều 54: “Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường

theo quy định của pháp luật”.

CƠ CHẾ BẢO HIẾN

Bảo hiến tức là bảo vệ hiến pháp. Ở các nước phương Tây, nhất là

Mỹ, có một thủ tục gọi là “judicial review”, dịch sát nghĩa là “xem

lại, xét duyệt lại luật pháp”, cũng chính là cơ chế bảo hiến. “Xem lại,

 

352 | Phạm Đoan Trang

xét duyệt lại luật pháp” là việc cơ quan tư pháp xem xét, thẩm định

lại và có thể tuyên vô hiệu một đạo luật, nghị định hay các hành

động, việc làm của các nhánh quyền lực khác (lập pháp và hành

pháp). Theo đó, tòa án có thể tuyên bố những đạo luật, nghị định

hay việc làm nào đó của chính phủ hay quốc hội là “vi hiến”, nếu

chúng không tuân thủ hoặc thậm chí đi ngược lại hiến pháp. Khi

ấy, chúng mất hiệu lực.

Ở Việt Nam dưới thời chính quyền cộng sản, không tồn tại cơ

chế bảo hiến này. Cho nên luật và các văn bản dưới luật ở Việt Nam

vi hiến rất nhiều nhưng vẫn được sử dụng làm công cụ quản lý nhà

nước. Một báo cáo của Bộ Tư pháp, công bố ngày 15/1/2015, cho

biết: Trong 10 tháng đầu năm 2014, các bộ, cơ quan, địa phương đã

kiểm tra và phát hiện 9.017 văn bản có dấu hiệu vi phạm các điều

kiện về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản (chiếm tỷ lệ 22%). 1

Một trong những nghị định vi hiến nổi tiếng là Nghị định

38/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 quy định một số biện pháp bảo

đảm trật tự công cộng. Văn bản này đã trở thành công cụ cực kỳ

đắc lực để lực lượng công an trấn áp bất kỳ cuộc tụ tập ôn hòa nào

của người dân, xâm phạm hoàn toàn quyền biểu tình được quy

định tại Điều 69 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 (sau này là tại

Điều 25 Hiến pháp 2013).

TIÊU CHUẨN CỦA MỘT HIẾN PHÁP

Một bản hiến pháp tốt phải đạt được ít nhất là các tiêu chí sau đây:

- Rõ ràng, chặt chẽ: Mọi điều khoản và ngôn từ của hiến pháp

đều phải rõ ràng, chặt chẽ để không tạo ra kẽ hở hay điểm nào mơ

hồ, gây tranh cãi; không ai có thể hiểu nhầm.

- Tổng quát: Hiến pháp phải nêu đầy đủ các khía cạnh trong nội

dung chính đã nêu ở trên.

1. Hà Nội Mới đưa tin, chuyên trang Người Đồng Hành của tạp chí điện tử Nhịp Sống Số

dẫn lại: http://ndh.vn/10-thang-10-000-van-ban-phap-luat-vi-hien-trai-luat-201501

1608124138p145c151.news

 

Chính trị bình dân | 353

- Súc tích: Câu từ trong hiến pháp phải cô đọng, hàm súc. Hiến

pháp cũng chỉ quy định những điều căn bản nhất, quan trọng nhất

liên quan tới nội dung. (Tất nhiên, không được bỏ sót những điều

quan trọng).

- Linh hoạt: Hiến pháp không được quá cứng nhắc, không thể

sửa đổi. Nó vẫn phải đảm bảo cơ chế để có thể sửa đổi nếu cần.

 

* * *

 

LUẬT PHÁP

T.H. Green định nghĩa: “Luật pháp là hệ thống các quyền và nghĩa

vụ mà nhà nước cưỡng chế thi hành”. Sidgwick định nghĩa: “Luật

pháp là bất cứ quy tắc chung nào để thực hiện hoặc không thực

hiện một loại hành vi nào đó, và nếu không tuân thủ thì người

không tuân thủ sẽ phải chịu một hình phạt nào đó”. 1

Triết gia cộng sản Karl Marx có một định nghĩa phản ánh cái

mà ông gọi là “tính giai cấp của pháp luật”, rằng “pháp luật là ý chí

của giai cấp thống trị được đề lên thành luật”. Đây quả là một định

nghĩa rất nặng tính giai cấp.

Có nhiều định nghĩa khác về luật pháp. Một cách trung tính, có

thể định nghĩa luật pháp là “một tập hợp các quy tắc công cộng và

có thể thực thi, được áp dụng trong toàn thể cộng đồng chính trị,

có tính ràng buộc”. 2

 

Định nghĩa này không nặng nề tính giai cấp,

nhưng các bạn nên lưu ý từ “chính trị”. Thật vậy, luật pháp có liên

quan chặt chẽ đến chính trị, đến thể chế.

Vì luật pháp điều chỉnh hành vi trong quan hệ xã hội (quan hệ

giữa người với người), cho nên nó chắc chắn phải có ý nghĩa chính

trị. Ở khía cạnh chính trị đó, các tác giả phương Tây đều hiểu luật

1. “Political science”, Government of Tamilnadu, India, 2003

2. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Palgrave Foundations, 2007.

 

354 | Phạm Đoan Trang

pháp như công cụ để bảo vệ trật tự và văn minh, và nếu không có

luật pháp thì xã hội rơi vào trạng thái tự nhiên – dã man, phi văn

minh – trong đó cá nhân nào cũng có quyền tự do xâm phạm đến

tự do của cá nhân khác. Vì thế, luật là để bảo vệ mỗi thành viên

trong xã hội khỏi phần còn lại của xã hội, bảo vệ quyền và tự do của

thành viên đó khỏi những người khác.

Điều này thật khác với cách hiểu “chính thống” về luật ở Việt

Nam dưới thời cộng sản. Quan chức, công chức, công an... đều tin

rằng luật pháp là công cụ quản lý nhà nước, và theo nghĩa đó thì nó

chẳng liên quan gì đến quyền và tự do. Ngược lại, luật phải làm sao

để tạo thuận lợi tối đa cho công tác quản lý của nhà nước.

Còn nếu mở rộng thêm cách hiểu của phương Tây về luật pháp,

ta sẽ thấy như vậy, trên nguyên tắc, luật pháp và chính trị bắt buộc

phải tách biệt với nhau, để luật pháp không trở thành công cụ hỗ trợ

cho nhà nước áp chế nhân dân, người giàu áp chế người nghèo, đàn

ông áp chế phụ nữ... Cũng vậy, tư pháp bắt buộc phải độc lập, nằm

ngoài và không chịu ảnh hưởng của chính trị. Trong khi đó, với cách

hiểu của Việt Nam về luật pháp, thì tư pháp không thể độc lập.

 

* * *

 

SỰ KHÁC NHAU GIỮA “RULE OF LAW” VÀ “RULE BY LAW”

Bây giờ chúng ta sẽ bàn đến một vấn đề gây tranh cãi rất lớn ở Việt

Nam và... Trung Quốc, đó là cách dịch (sang tiếng Việt và tiếng

Trung) hai khái niệm: “rule of law” và “rule by law”. Để dịch sang

tiếng Việt được chính xác hai khái niệm này thì trước hết phải hiểu

bản chất chúng là gì, theo cách định nghĩa của phương Tây.

“Rule of law” có nghĩa là tất cả mọi người đều bình đẳng trước

pháp luật, cho dù đó là người đứng đầu cơ quan lập pháp, hành

pháp hay tư pháp, là đảng cầm quyền hay một tổ chức phi chính

phủ nhỏ bé. Không một ai đứng trên pháp luật, không một ai có

quyền hoặc nghĩa vụ nhiều hơn luật định.

 

Chính trị bình dân | 355

Còn “rule by law” nghĩa là luật pháp được sử dụng như một

công cụ để quản lý, để cưỡng chế và đàn áp. “Rule by law” đòi hỏi

một sự trung thành tuyệt đối với pháp luật, kể cả là trung thành mù

quáng với một thứ pháp luật bất công, hà khắc, độc đoán; nhưng

lại chỉ đòi hỏi điều đó từ những người bị cai trị mà thôi. Luôn luôn

có một tầng lớp – một cá nhân hoặc một nhóm – nắm quyền lực

lập pháp, ở trên luật pháp, và hưởng những đặc quyền, đặc lợi do

việc ở trên luật pháp đó tạo ra. Tầng lớp đó sẽ luôn lợi dụng luật

pháp làm công cụ để cai trị những người khác.

Như vậy, bạn có thể thấy: Một chính quyền độc tài sẽ “rule by

law” khi nó dùng luật pháp làm công cụ để tiện bề cai trị dân chúng

– ngôn ngữ cộng sản gọi là “tạo thuận lợi cho công tác quản lý”, “vì

mục tiêu quản lý nhà nước”. Nó “rule by law” không phải vì nó

thượng tôn pháp luật, mà vì “rule by law” đem lại thuận tiện cho

nó. Và bởi luật pháp làm ra chỉ để cai trị dân, còn chính quyền thì

được “đặc cách”, làm sai cũng không phải chịu trách nhiệm gì, nên

đất nước đó không có “rule of law”.

Với cách hiểu ấy, ta có thể dịch “rule of law” là pháp trị, hoặc

“pháp quyền” như nhiều người lâu nay vẫn gọi – hàm ý pháp luật ở

trên tất cả, pháp luật trị vì tất cả, quyền lực của pháp luật là cao

nhất. Còn “rule by law” là tận dụng luật pháp để cai trị, có thể dịch

nó là “ỷ pháp trị quốc” như gợi ý của luật sư Trần Quỳnh Vi, biên

tập viên Luật Khoa tạp chí.

Ngày 12/6/2011, trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Sài Gòn,

facebooker Phan Nguyên bị an ninh mặc thường phục đánh đập tàn nhẫn

ở khu vực Nhà Thờ Đức Bà. Bức ảnh Phan Nguyên bị quật ngã lan truyền

trên mạng xã hội; bản thân Phan Nguyên cũng viết bài trên mạng kể lại

câu chuyện. Nhưng không một nhân viên công quyền nào bị xử lý vì vụ

việc này. Phía công an nghiễm nhiên cho rằng đó là ảnh giả, chuyện bịa.

 

356 | Phạm Đoan Trang

 

Cũng trong tháng 7/2011, vào chiều mồng 2, một cô gái 18 tuổi tên là

Phạm Thị Mỹ Linh, do bức xúc với cảnh sát giao thông nên đã tát một

cảnh sát giao thông trên đường Lê Văn Khương (phường Thới An, quận

12, TP. HCM). Hình ảnh cũng bị quay clip; clip này nhanh chóng được

công an sử dụng. Ngày 20/7, cô Linh bị công an quận 12, TP. HCM, khởi

tố vì tội “chống người thi hành công vụ”. Cô lĩnh án 9 tháng tù.

... Ngày 7/4/2016, tại Hà Nội, Trung úy Nguyễn Văn Bắc (SN 1983, cảnh

sát khu vực phường Trung Liệt, quận Đống Đa) bất thình lình kiểm tra

nhà dân nhưng bị từ chối. Trung úy đã nhổ nước bọt vào mặt cô Trần

Phương Linh (SN 1992) và bị quay clip. Clip lan nhanh trên mạng xã hội

trong ngày 8/4, buộc công an quận Đống Đa phải vào cuộc xác minh.

Trung úy Bắc ban đầu phủ nhận việc nhổ nước bọt, nhưng cuối cùng,

ngày 11/4, đã chấp nhận xin lỗi cô Linh, ngoài ra không bị xử lý gì thêm.

Ngày 14/4/2016, tại TP.HCM, Thượng sĩ công an Lương Việt Hà dùng thế

võ hiểm quật ngã anh Phạm Thiện Minh Phong, một người bán hàng

rong, gây chấn thương. Lý do là anh Phong không chịu đóng 700.000

đồng “hụi chết” mỗi tháng như những người bán hàng rong khác. Thượng

sĩ Việt Hà sau đó cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự gì về hành

động của mình.

Mỗi năm ở Việt Nam dưới thời cộng sản, đều có hàng chục vụ cảnh sát,

an ninh bị tố cáo lạm quyền, đánh đập người dân gây thương tích, thậm

chí gây tử vong. Song, hầu như không có vụ nào công an bị xử lý hoặc

phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngược lại, nếu phía dân có lời nói hay

hành vi nào động chạm đến công an thì sự trừng phạt sẽ đến rất nhanh

chóng và hình phạt rất nghiêm khắc. Bộ luật Hình sự có rất nhiều điều

luật được dùng để khép tội dân một cách dễ dàng: Điều 245 “gây rối trật

tự công cộng”, Điều 257 “chống người thi hành công vụ”, Điều 258 “lợi

dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích nhà nước”...

Tình trạng ấy nói lên một sự thật: Luật pháp ở nước CHXHCN Việt Nam

chỉ là công cụ để nhà nước quản lý, hay là chỉ dùng cho dân. Công an – với

vai trò lực lượng bảo vệ chế độ – thường được ưu ái, được luật pháp ưu

tiên bảo vệ. Việt Nam dưới thời cộng sản là một chế độ “rule by law”, nơi

không tồn tại “rule of law”.

Vấn đề “rule by law” cũng đưa đến một câu chuyện khác, đó là

việc nhiều người có quan điểm duy luật, họ hướng tới và đòi hỏi xã

hội phải thượng tôn luật pháp, bất kể luật pháp đó như thế nào. Ví

dụ, nếu luật pháp không thừa nhận hôn nhân đồng tính thì quan

điểm duy luật cho rằng việc hai người đồng tính lấy nhau chắc

chắn là hành vi phạm pháp và phải bị trừng phạt. Tương tự, cho dù

 

Chính trị bình dân | 357

công an có lạm quyền, hành hung, bắt người tùy tiện (như trong vụ

cưỡng chế đất ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức), nhưng nếu dân

chống lại thì tức là phạm tội chống người thi hành công vụ; nếu

dân “cả gan” bắt giữ công an thì thậm chí còn phạm tội bắt người

trái pháp luật, khủng bố.

Trong một xã hội “rule of law”, quan điểm thượng tôn pháp luật

đó là đúng đắn, tiến bộ. Nhưng trong một xã hội “rule by law”, quan

điểm đó dĩ nhiên sẽ được chính quyền độc tài rất ưa thích và lợi

dụng: Nhà nước cứ việc ban hành thật nhiều đạo luật “tạo thuận lợi

cho công tác quản lý”, siết chặt tự do của dân chúng, và cưỡng bức

dân chúng phải phục tùng. Và nếu luật bất công mà ta cũng phải

tuân thủ, thì lịch sử thế giới sẽ không còn ghi nhận công lao của

Mahatma Gandhi, Rosa Parks, Martin Luther King – những người

bất tuân dân sự nổi tiếng – nữa.

“Làm sao chúng ta có thể cổ súy cho việc vi phạm một số luật và tuân thủ

một số khác? Câu trả lời nằm ở một thực tế là có hai loại luật: công bằng

và bất công. Tôi sẽ là người đầu tiên cổ súy cho việc tuân thủ những đạo

luật công bằng. Con người ta không chỉ có trách nhiệm pháp lý mà còn có

cả trách nhiệm đạo đức buộc ta phải tuân thủ các đạo luật công bằng.

Ngược lại, con người cũng có trách nhiệm đạo đức là phải bất tuân những

luật không công bằng. Thánh Augustine nói đúng, ‘luật bất công thì

không phải là luật’”.

“Luật nào nâng phẩm tính của con người lên là luật công bằng. Luật nào

hạ thấp nhân tính là luật bất công”.

(“Lá thư từ ngục Birmingham”, Martin Luther King, 16/4/1963)

 

Bài đọc

 

BẢN HIẾN PHÁP VANG VỌNG TIẾNG DÂN 1

 

Tôi viết bài này cách đây gần ba năm. Bây giờ nếu viết lại, có thể tôi

sẽ viết khác nhiều, nhất là sẽ có cảm giác ngờ vực ở tính dân chủ

của cuộc bầu cử Quốc hội khóa I khi theo thống kê thời đó, “89%

cử tri trên cả nước đã đi bầu, có nhiều nơi tới 95%”.

Nhưng tôi vẫn tin hiến pháp 1946 mà Quốc hội khóa I thông

qua là bản hiến pháp vì nhân dân nhất trong các bản hiến pháp của

Việt Nam, ít nhất thì nó cũng không dành ưu tiên cho một đảng

chính trị nào, không chủ trương đấu tranh giai cấp; nó bảo đảm

quyền tư hữu tài sản của công dân và quy định “Nghị viện họp

công khai, công chúng được vào nghe”.

* * *

 

Nói về Hiến pháp 1946, rất nhiều người cho rằng đó là hiến

pháp nhân bản nhất, dân chủ nhất và đoàn kết dân tộc nhất. Không

chỉ thế, bản hiến pháp đầu tiên của Việt Nam còn được hình thành,

soạn thảo và thông qua trong một hoàn cảnh lịch sử, đầy cam go

gian khổ nhưng vẫn đảm bảo tinh thần “dân là gốc”, dân là tất cả.

Theo Phó Giáo sư sử học Lê Mậu Hãn, “nói tới Hiến pháp 1946

1. Bản gốc bài viết này đăng trên báo Pháp luật TP. HCM ngày 18/8/2010, link gốc tại:

http://plo.vn/thoi-su/chinh-tri/ban-hien-phap-vang-vong-tieng-dan-177600.html.

Ở đây là bài đăng lại trên blog cá nhân của tác giả, ngày 13/5/2013.

 

360 | Phạm Đoan Trang

là phải nói tới Hồ Chí Minh và cuộc Tổng tuyển cử 1946”. Bản hiến

pháp đầu tiên của Việt Nam ra đời năm 1946, nhưng tư tưởng của

Hồ Chí Minh về một nhà nước dân chủ cộng hòa, một chính quyền

của toàn dân, thì đã hình thành từ rất lâu trước đó. Ngay từ năm

1919 khi gửi “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đến Hội nghị

Versailles, Người đã thể hiện tư tưởng lập hiến của mình. Trong 8

điều yêu sách, điều thứ bảy yêu cầu phải có hiến pháp cho nhân

dân Việt Nam: “Bảy xin Hiến pháp ban hành/ Trăm điều phải có

thần linh pháp quyền” (Việt Nam yêu cầu ca – diễn ca của bản yêu

sách, do Hồ Chí Minh soạn để tuyên truyền).

Ngày 03/9/1945, chỉ một ngày sau lễ Tuyên bố độc lập, trong

phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã nói tới việc “phải có một hiến pháp dân chủ”, và đề nghị

Chính phủ “tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với

chế độ phổ thông đầu phiếu” để bầu ra Quốc dân đại hội xây dựng

hiến pháp.

Ngày 8/9, Chính phủ ra Sắc lệnh 14-SL nêu rõ: “... nhân dân

Việt Nam do Quốc dân đại hội thay mặt là quyền lực tối cao để ấn

định cho nước Việt Nam một hiến pháp dân chủ cộng hòa”. Sắc

lệnh cũng tuyên bố tiến hành Tổng tuyển cử.

CUỘC TỔNG TUYỂN CỬ LỊCH SỬ

Cuộc tuyển cử dân chủ - nơi ngọn nguồn phản ánh tinh thần Hiến

pháp 1946 – đã diễn ra trong tình hình chính trị - kinh tế - xã hội

cực kỳ khó khăn, trong hoàn cảnh thù trong giặc ngoài. Đó thực

chất là một cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt để bảo vệ quyền làm

chủ của người dân, quyền tự quyết của dân tộc. Về đối nội, các tài

liệu về lịch sử Quốc hội ghi lại: Các báo như Việt Nam, Thiết Thực,

Đồng Tâm... (của hai đảng Việt Quốc, Việt Cách) nói xấu Việt

Minh quyết liệt, kêu gọi tẩy chay Tổng tuyển cử vì cho là trình độ

dân trí của nước ta còn thấp, quần chúng không đủ năng lực thực

hiện quyền công dân, cần tập trung chống Pháp chứ không nên

mất thì giờ vào bầu cử v.v.

 

Chính trị bình dân | 361

Đáp lại, báo Cứu Quốc của Mặt Trận Việt Minh số ra ngày

24/11/1945 khẳng định: “Chỉ Tổng tuyển cử mới để cho dân chúng

có dịp nói hết những ý muốn của họ (...). Sau hết, cũng chỉ có

Tổng tuyển cử mới có thể cấp cho nước Việt Nam một hiến pháp

mới ấn định rõ ràng quyền lợi của quốc dân...”.

“Về đối ngoại, ở miền Bắc, Tàu Tưởng và tay sai ra sức gây rối,

phá hoại Tổng tuyển cử (cướp hòm phiếu, hành hung tự vệ tại Hải

Phòng). Ở Nam Bộ, thực dân Pháp khủng bố ác liệt, ném bom

nhiều nơi. Hàng chục người đã chết và bị thương, nhưng người

dân vẫn đi bỏ phiếu lưu động, đổ xương máu thực hiện quyền tự

do dân chủ. 89% cử tri trên cả nước đã đi bầu, có nhiều nơi tới

95%” (báo Sự Thật, số ra ngày 10/1/1946).

Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam ra đời như thế.

 

Ứng cử viên Đại biểu Quốc hội khóa I trong lễ ra mắt cử tri tại Việt Nam Học

 

xá (về sau là Đại học Bách khoa Hà Nội).

 

Chính Quốc hội này, vào sáng 2/3/1946, đã họp kỳ họp đầu tiên

với thời gian ngắn kỷ lục: 4 tiếng đồng hồ, trong hoàn cảnh nền độc

lập nước nhà bị thực dân Pháp lăm le xâm phạm. Tại đây, Quốc hội

bầu ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người: Trần Duy Hưng, Tôn

Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh

 

362 | Phạm Đoan Trang

Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương,

Phạm Gia Đỗ, Nguyễn Thị Thục Viên. Tất cả đều là những nhà trí

thức, đại diện cho các đảng phái khác nhau (như Phạm Gia Đỗ là

thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng, tức Việt Quốc).

QUYẾT LIỆT VÀ DÂN CHỦ

Theo một số tài liệu, Hiến pháp 1946 tập hợp những kiến nghị

phong phú của toàn dân và tham khảo kinh nghiệm về Hiến pháp

các nước Âu – Á. Tuy nhiên, Phó Giáo sư sử học Lê Mậu Hãn cho

biết, sau nhiều năm nghiên cứu, ông vẫn không tìm ra được nguồn

văn bản cụ thể mà Hiến pháp có tham khảo. Song những người

soạn thảo Hiến pháp 1946 đều là trí thức xuất thân từ hệ thống đào

tạo của Pháp, hấp thu tư tưởng phương Tây, nên có thể nói bản

hiến pháp có tinh thần dân chủ, pháp quyền rõ nét.

Ban dự thảo Hiến pháp đã soạn bản hiến pháp đầu tiên của

nước Việt Nam cũng trong một thời gian rất ngắn, chỉ có vài tháng,

và bắt đầu công bố trước Quốc hội từ ngày 2/11/1946. Đỗ Đức Dục

là người thuyết trình. Đại diện của các đảng trong Quốc hội cho ý

kiến đánh giá và phản biện: Hồ Đức Thành – đại diện Việt Nam

Cách mạng Đồng minh Hội tức Việt Cách; Hoàng Văn Đức – đại

diện nhóm dân chủ; Lê Thị Xuyến – đại diện nhóm xã hội; Nguyễn

Đình Thi – đại diện Việt Minh; Trần Trung Dung – đại diện Việt

Quốc; Trần Huy Liệu – đại diện nhóm mácxít.

Theo các tài liệu về lịch sử Quốc hội Việt Nam khóa I, quá trình

tranh luận, tranh cãi để thông qua Hiến pháp 1946 diễn ra quyết

liệt và dân chủ. Phó Giáo sư Lê Mậu Hãn cho biết, bàn thảo căng

thẳng nhất là ở việc quyết “một viện hay hai viện”. Chẳng hạn, Trần

Trung Dung không đồng ý với chế độ một viện, sợ chế độ này

không thích hợp với Việt Nam, nơi dân chúng chưa được huấn

luyện nhiều về chính trị. Phạm Gia Đỗ cũng phản đối chế độ một

viện vì coi đó là “độc tài của đa số”. Tuy nhiên, phần đông đại biểu

lại tán thành một viện. Đào Trọng Kim nói rằng một viện là phù

 

Chính trị bình dân | 363

hợp, “chế độ tập quyền và phân công rất thích hợp để có thể ứng

phó mau lẹ với thời cuộc”.

Trần Trung Dung nói nhiều đến quyền tự do của công dân và

chỉ trích Chính phủ trong một năm cầm quyền chưa cho dân

chúng được hưởng quyền tự do. Phạm Văn Đồng ngắt lời, phản

bác Trần Trung Dung phê phán như thế là không đúng trong điều

kiện Chính phủ phải nỗ lực đấu tranh đối ngoại gay go để giữ vững

độc lập...

Sau nhiều buổi thảo luận và tranh luận từng điều cụ thể, tới

ngày 9/11/1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua bản hiến pháp

đầu tiên với 240/242 phiếu thuận. Hai phiếu không tán thành là

của Nguyễn Sơn Hà và Phạm Gia Đỗ. Đại biểu Nguyễn Sơn Hà bỏ

phiếu chống vì Hiến pháp không có điều nói về tự do kinh doanh.

Còn Đại biểu Phạm Gia Đỗ bảo lưu việc phản đối chế độ một viện.

Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: “Hơn 10 ngày nay các đại biểu

đã khó nhọc làm việc. Quốc hội đã thu được một kết quả làm vẻ

vang cho đất nước là đã thảo luận xong bản hiến pháp”. Tuy “chưa

hoàn toàn” nhưng nó “tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc

lập, dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do (...), phụ nữ Việt

Nam đã được ngang hàng với đàn ông để hưởng chung mọi quyền

tự do đó của một công dân”.

Do hoàn cảnh chiến tranh đang lan rộng, nên Quốc hội, mặc dù

thông qua Hiến pháp, đã quyết định không đưa Hiến pháp ra trưng

cầu dân ý, đồng thời biểu quyết chưa ban hành, thi hành Hiến pháp

ngay. Việc bầu Nghị viện nhân dân (Điều 24 quy định Nghị viện do

công dân Việt Nam bầu ra, ba năm một lần) cũng không thể tổ

chức được.

Dù vậy, được soạn thảo và thông qua một cách dân chủ, bởi một

Quốc hội được bầu ra một cách dân chủ, Hiến pháp 1946 là bản

hiến pháp có rất nhiều giá trị. Nó khẳng định quyền tự do, quyền

làm chủ đất nước của toàn dân, thể hiện sâu sắc tư tưởng giải phóng

dân tộc, độc lập – tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đánh giá về nó,

 

364 | Phạm Đoan Trang

TS luật Phạm Duy Nghĩa, trong một bài trả lời phỏng vấn báo Tuổi

Trẻ, đã gọi đó là bản hiến pháp mà “mỗi câu chữ đều vang vọng

tiếng dân”. Còn Phó Giáo sư sử học Lê Mậu Hãn thì nhận định:

“Chúng ta vẫn còn nợ Hiến pháp 1946 nhiều lắm”.

 

Bài đọc

 

LƯỢC SỬ CUỘC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP VIỆT NAM 1

 

2011

Tháng 1: Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI của đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Khẩn trương nghiên

cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ

sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới”. Bản báo cáo dài hơn

100 trang, với ngôn ngữ chung chung thường lệ, không nêu cụ thể

“tình hình mới” là như thế nào, nhưng có nhận định: “Từ cuối

năm 2007, đầu năm 2008, kinh tế và đời sống gặp nhiều khó khăn.

Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy

mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình””.

2/8: Ủy ban Thường vụ Quốc hội có tờ trình lên Quốc hội “về

việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung

Hiến pháp năm 1992”.

Tờ trình khẳng định việc sửa đổi Hiến pháp là nhằm mục đích

“thể chế hóa kịp thời đường lối, các chủ trương, chính sách lớn của

Đảng”, “việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải bám sát” các cương

lĩnh, nghị quyết và văn kiện của Đảng, “ghi nhận những thành

quả”, “thành tựu to lớn” của đất nước “do Đảng khởi xướng”.

Tờ trình cũng đề ra một định hướng của việc sửa đổi Hiến pháp

1992 là “Khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản

1. Bài đăng trên blog cá nhân của tác giả vào ngày 28/4/2013. Bản lược sử này chỉ được

cập nhật đến ngày 5/5/2013.

 

366 | Phạm Đoan Trang

Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội đã được nhân dân ta, mà đại

diện cao nhất là Quốc hội thừa nhận và ghi vào Hiến pháp”.

6/8: Quốc hội ra Nghị quyết số 06/2011/QH13 “Về việc sửa đổi,

bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi

Hiến pháp năm 1992”.

Thành viên Ủy ban gồm:

- Ông Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc

hội, Chủ tịch Ủy ban.

- Ông Uông Chu Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch

Quốc hội, Phó Chủ tịch Ủy ban.

- Ông Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí

thư, Ủy viên.

- Bà Nguyễn Thị Doan, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ

tịch nước, Ủy viên.

- Ông Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng

Chính phủ, Ủy viên.

- Bà Tòng Thị Phóng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc

hội, Ủy viên.

- Ông Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị

Tất cả đều là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam và giữ chức vụ

cao trong bộ máy lãnh đạo.

24/8: Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992 họp phiên thứ

nhất.

2012

21/2: Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992 họp phiên thứ hai,

thảo luận về “Báo cáo của Ban Biên tập về những vấn đề cơ bản

trong sửa đổi Hiến pháp năm 1992”.

22/5: Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành văn bản số 52-HD/

BTGTW, gửi các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương

Hướng dẫn tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết của Hội

 

Chính trị bình dân | 367

nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành TW Đảng khóa XI (7/5/2012),

trong đó có “những vấn đề cơ bản định hướng việc sửa đổi Hiến

pháp 1992” (tiếp tục thể chế hóa đầy đủ và sâu sắc hơn chủ trương

phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà

nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công

nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do đảng Cộng sản

Việt Nam lãnh đạo).

23/11: Quốc hội ra Nghị quyết “Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về

dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, đợt lấy ý kiến “bắt đầu từ

ngày 02 tháng 01 năm 2013 và kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm

2013”.

29/12: Bộ Chính trị ra Chỉ thị “về việc tổ chức lấy ý kiến nhân

dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, nêu rõ: “Quân ủy

Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương (...) chỉ đạo chặt chẽ

công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; phối

hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan kịp thời đấu tranh, ngăn

chặn những hành vi lợi dụng dân chủ việc lấy ý kiến nhân dân để

tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta”.

Cùng ngày, tại cuộc họp báo triển khai thực hiện việc lấy ý kiến

nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Chủ nhiệm Ủy ban

Pháp luật Quốc hội Phan Trung Lý, Trưởng ban biên tập dự thảo

sửa đổi Hiến pháp 1992, khẳng định: “Không có điều gì cấm kỵ khi

nhân dân góp ý sửa Hiến pháp”, “nhân dân có thể cho ý kiến đối với

điều 4 Hiến pháp như với tất cả các nội dung khác trong dự thảo,

không có gì cấm kỵ cả”.

2013

2/1: Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 22-CT/TW về việc tổ chức lấy ý kiến

nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Điểm số 3 và 4 quy

định:

“Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương lãnh đạo,

kiểm tra việc lấy ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp trong lực

 

368 | Phạm Đoan Trang

lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; chỉ đạo chặt chẽ

công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; phối

hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan kịp thời đấu tranh, ngăn

chặn những hành vi lợi dụng dân chủ việc lấy ý kiến nhân dân để

tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta”.

“Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Cán sự Đảng Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch, Ban Cán sự Đảng Bộ Thông tin và Truyền

thông chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí ở trung ương và địa

phương có kế hoạch tuyên truyền bằng nhiều hình thức thích hợp

và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến về

dự thảo sửa đổi Hiến pháp; mở chuyên trang, chuyên mục về dự

thảo sửa đổi Hiến pháp và phản ảnh kịp thời ý kiến đóng góp của

nhân dân”.

11/1: Giáo sư Hoàng Xuân Phú có bài viết “Hai tử huyệt của chế

độ”, nhận định:

“Có lẽ lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam quan niệm rằng quy

định về quyền lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội,

và quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý

tại Điều 4 và Điều 17–18 của Hiến pháp 1992 là hai tử huyệt của

chế độ. Vì vậy, dư luận càng muốn hủy bỏ hoặc sửa đổi hai quy

định đó, thì họ càng kiên quyết bảo lưu. Chúng nằm trong định

hướng bất di, bất dịch của lãnh đạo đảng, và được tái thể hiện tại

Điều 4 1

và Điều 57 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992”.

19/1: 72 trí thức cùng ký vào một bản kiến nghị gọi là “Kiến

nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992”, với nội dung đề nghị soạn thảo

Hiến pháp theo Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc về Quyền Con

Người, thực hiện tam quyền phân lập, thành lập tòa bảo hiến, lực

lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ

không phải với đảng Cộng sản Việt Nam như Điều 70 của dự thảo.

1. Điều 4 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 quy định đảng Cộng sản Việt Nam

là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.

 

Chính trị bình dân | 369

Kiến nghị được đăng tải trên trang web Bauxite Việt Nam và

Anh Ba Sàm. Sau đó, một số chuyên gia luật (ẩn danh) đã soạn thảo

một dự thảo hiến pháp đi kèm kiến nghị này, theo đó Việt Nam

thực hiện dân chủ đa đảng. Cả dự thảo và bức kiến nghị hôm 19/01

trở thành Kiến nghị 72 - là bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp đầu

tiên không phải do Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đưa ra

trong lần sửa đổi này.

1/2: Trang web Cùng viết hiến pháp (hienphap.net) ra đời với

mục đích “tạo ra một không gian đối thoại dân chủ về việc sửa đổi

Hiến pháp”, như lời phi lộ của nhóm khởi xướng (gồm Giáo sư Ngô

Bảo Châu, Giáo sư Đàm Thanh Sơn, cựu Tổng Biên tập VietNamNet

Nguyễn Anh Tuấn).

2/2: Đại biểu Quốc hội Lê Như Tiến, Phó chủ nhiệm Ủy ban

Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, trả lời phỏng

vấn tạp chí Thanh Tra, tái khẳng định: “Không có “vùng cấm”

trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này”.

4/2: 16 đại diện của nhóm Kiến nghị 72 đến trụ sở Quốc hội tại

37 Hùng Vương (Hà Nội) gửi Kiến nghị, trưởng đoàn là ông

Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Tư pháp. Một số cơ quan báo

chí có đến đưa tin và đăng tải, như báo Pháp luật TP.HCM.

Ông Lê Minh Thông, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của

Quốc hội, Phó Ban Biên tập dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp

1992, tiếp đoàn.

21/2: Một số cựu sinh viên Đại học Luật Hà Nội gửi “Kiến nghị

về việc sửa đổi Hiến pháp1992”, với hai nội dung: 1. Hủy thời hạn

chót cho việc lấy ý kiến nhân dân; 2. Tổ chức trưng cầu dân ý để

nhân dân thực hiện quyền phúc quyết hiến pháp.

25/2: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại một hội nghị

với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc: “Vừa rồi đã có các luồng ý

kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo

đức... Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ

nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng

 

370 | Phạm Đoan Trang

không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân

đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên

phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ

còn gì nữa”.

Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng tin này trong chương

trình Thời sự 19h, và lập tức gây ra một làn sóng phản đối trên

không gian facebook.

26/2: Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, báo Gia đình và Xã hội, có bài

viết “Vài lời với TBT ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng”, đăng trên blog cá

nhân và có gửi cho hai trang web khác là Anh Ba Sàm và Cùng viết

Hiến pháp. Buổi sáng, Anh Ba Sàm đăng tải bài viết này. Đầu giờ

chiều, ban lãnh đạo báo Gia đình và Xã hội tổ chức họp và chất vấn

Nguyễn Đắc Kiên về bài viết, sau đó tuyên bố cho ông Kiên nghỉ

việc, và đăng thông báo buộc thôi việc trên trang điện tử của báo.

28/2: Từ trang Dân Làm Báo, xuất hiện lời Tuyên bố của các

Công dân tự do. Không còn là một kiến nghị, Tuyên bố này giống

như sự thể hiện một ý chí chính trị: “Chúng tôi không chỉ muốn bỏ

Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà chúng tôi muốn tổ chức

một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới thực sự là ý chí của

toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như

Hiến pháp hiện hành. Chúng tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng

hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình,

tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư

cách gì để thao túng, toàn trị đất nước”.

1/3: Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi thư góp ý về Hiến pháp

cho Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, yêu cầu Hiến pháp

mới phải nêu rõ hơn các quyền con người, xóa bỏ đặc quyền của

bất kỳ đảng phái chính trị nào, Nhà nước không được tuyên truyền

tiêu cực về tôn giáo và không được can thiệp vào công việc nội bộ

của cộng đồng tôn giáo.

2/3: Đoàn công tác Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 do

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch Ủy ban dự thảo

 

Chính trị bình dân | 371

– dẫn đầu đã có cuộc làm việc với TP.HCM về việc tổ chức lấy ý

kiến nhân dân đối với dự thảo sửa đổi Hiến pháp trên địa bàn

Thành phố.

Sau đó, mỗi hộ dân tại TP.HCM bắt đầu được phát một tập tài

liệu 79 trang so sánh Hiến pháp 1992 với dự thảo Hiến pháp do Ủy

ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đưa ra. Kèm theo đó là một

bản “Phiếu lấy ý kiến nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về dự

thảo sửa đổi hiến pháp 1992”.

Bản này đưa ra hai nội dung góp ý:

- Đồng ý với toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992

- Đồng ý với những nội dung khác trong Dự thảo sửa đổi Hiến

pháp năm 1992 và có ý kiến góp ý, đề nghị sửa đổi, bổ sung ở

những Chương, Điều, Khoản hoặc từ ngữ cụ thể.

 

372 | Phạm Đoan Trang

6/3: Công thư của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng gia

hạn góp ý sửa đổi Hiến pháp sẽ được dời lại đến ngày 30/9 thay vì

31/3, và đề nghị các cấp chính quyền, các cơ quan ban, ngành địa

phương tạo điều kiện cho người dân đóng góp ý kiến.

8/3: Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) bắt đầu một chiến dịch

truyền thông vào “giờ vàng” – Chương trình Thời sự 19h hàng

ngày – với nội dung đả kích những người ký vào bản Kiến nghị 72,

và khẳng định, ca ngợi vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng Cộng

sản Việt Nam.

Cùng ngày, blog Anh Ba Sàm – trang blog mạnh mẽ nhất trong

việc đăng các bài viết, tư liệu mang các quan điểm ngoài quan điểm

của Đảng và Nhà nước về sửa đổi hiến pháp – bị hack, toàn bộ dữ

liệu bị xóa. Biên tập viên điều hành blog tìm cách lấy lại quyền

kiểm soát trang web của mình, và bắt đầu cuộc chiến không cân

sức giữa “Thông Tấn Xã Vỉa Hè” và cả một quân đoàn hacker.

Đồng thời với chiến dịch truyền thông trên Đài Truyền hình

Việt Nam, các báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An

Nhân Dân, nhiều người tham gia ký Kiến nghị 72 (các đợt sau này)

cũng phản ánh việc bị công an và chính quyền địa phương thăm

dò, hạch sách.

9/3: Báo Đại Đoàn Kết đăng bài “Sự ngụy tạo có chủ đích”, khẳng

định phần lớn những người ký tên vào Kiến nghị 72, tại địa bàn

tỉnh Hà Tĩnh, đều là những địa chỉ không có thực và bị giả mạo.

Kết luận của nhóm tác giả bài báo: “Việc ngụy tạo tên người dân

nhằm tạo sức ép với Đảng và Nhà nước đã khiến việc dân chủ lấy

ý kiến đóng góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã bị lợi dụng

làm méo mó, biến dạng là động cơ chính trị không trong sáng của

một số người có tư tưởng đối lập”.

10/3: Đài Truyền hình Việt Nam hưởng ứng báo Đại Đoàn Kết

với phóng sự “Mạo danh chữ ký kiến nghị sửa đổi hiến pháp” trong

Bản tin Thời sự 19h. Phóng sự ghi hình bà Nguyễn Thị Hường,

Phó Hiệu trưởng trường Đại học Hà Tĩnh, cho biết: “Riêng điều 4

 

Chính trị bình dân | 373

Hiến pháp, các em sinh viên đều hoàn toàn đồng tình, không có

bất kỳ ý kiến trái chiều nào”.

12/3: Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng

Cộng sản Việt Nam, có bài viết “Khi phản biện xã hội được sử dụng

như một chiêu bài” của tác giả Huỳnh Tấn, bóng gió rằng các tác

giả của những bản kiến nghị trên Internet chắc là “không có việc gì

làm”, “chống Đảng”.

13/3: Hacker tiếp tục cướp các địa chỉ khác (mới lập) của Anh

Ba Sàm, tung lên những hình ảnh nguỵ tạo về một biên tập viên

trang này nhằm mục đích bôi nhọ.

15/3: Anh Ba Sàm tiếp tục blogging ở địa chỉ mới.

17/3: Công An Nhân Dân đăng bài của tác giả Phương Nhi,

nhấn mạnh rằng khẳng định Điều 4 Hiến pháp là một phần của lịch

sử lập hiến Việt Nam, bảo vệ Điều 4 là bảo vệ chủ quyền dân tộc,

thành quả cách mạng, tôn trọng lịch sử và phẩm giá của dân tộc.

18/3: Báo Quân Đội Nhân Dân có bài xã luận khẳng định quân

đội không thể thoát ly sự lãnh đạo của Đảng. VTV hưởng ứng.

Một số người dân TP.HCM bắt đầu phản ánh lên facebook,

trang Bauxite Việt Nam và trang Anh Ba Sàm, về việc bị cán bộ địa

phương (người của tổ dân phố, phường...) đến nhà “hướng dẫn”

ký xác nhận đồng ý vào Phiếu lấy ý kiến, ví dụ: “Chỉ cần ghi “Đồng

ý” là xong”, “Nên tránh ghi phần 2, nhất là về Điều 4 và các điều về

công an. Nếu ai ghi phần 2 thì các tổ trưởng nhớ ghi nháy thêm địa

chỉ nhà hộ đó”.

20/3: VTV và Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Tĩnh, ông Từ

Văn Diện, cùng khẳng định Thái Bình và Hà Tĩnh là hai mảnh đất

rất giàu truyền thống cách mạng, nhưng lại có rất nhiều người bị

ngụy tạo chữ ký vào bản Kiến nghị 72, chứng tỏ đây là “việc làm có

mưu đồ chính trị chống phá đường lối chủ trương của Đảng và

chính sách pháp luật của Nhà nước”.

 

374 | Phạm Đoan Trang

Tuy nhiên, VTV và ông Từ Văn Diện không đưa ra bằng chứng

cụ thể nào về sự nguỵ tạo. 10 ngày sau, Giáo sư Hoàng Xuân Phú

chỉ ra điều đó trong bài viết “Chẳng nhẽ độc quyền cả nói dối hay

sao?”, đăng trên blog cá nhân, và blog Anh Ba Sàm đăng lại.

22/3: VTV phỏng vấn ông Nguyễn Đình Lộc, cựu Bộ trưởng

Tư pháp, thành viên của Kiến nghị 72. Ông Lộc nói: “(...) những

cái bản ấy tôi không tham gia. Tôi không tham gia. Tôi không tham

gia vào việc xây dựng cái tờ văn bản ấy”.

Cùng ngày, trên Đài Tiếng nói Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ

Thế Tùng, nguyên Viện trưởng Viện kinh tế, Học viện chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, khẳng định sở hữu toàn dân

về đất đai là tất yếu.

2/4: Nhóm khởi xướng Kiến nghị 72 ra một bản thông báo,

tuyên bố rõ: “Dùng bạo lực và những thủ đoạn chính trị để duy trì

chế độ toàn trị, cưỡng lại ý chí của nhân dân sẽ gây nguy hại lớn

cho đất nước, cho dân tộc và cho cả đảng Cộng sản Việt Nam”.

3/4: Tỉnh Bình Dương tổ chức họp báo công bố kết quả lấy ý

kiến nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, theo đó, số lượt ý kiến đóng

góp từ ngày 12/3 tới ngày 27/3 trong toàn tỉnh lên tới 44.459.628

trên tổng dân số 1,7 triệu người. Trong số ý kiến đóng góp này, có

44.455.188 người tán thành nguyên văn với bản Dự thảo Hiến

pháp, chiếm tỷ lệ 99,99% dân số tỉnh Bình Dương.

13/4: Nhóm Các Công dân Tự do ra tuyên bố thứ hai, “Quyền

lập hiến phải thuộc về nhân dân”, kêu gọi từ chối, bất hợp tác với

mọi hành vi cưỡng ép ký nhận các văn bản liên quan đến Hiến

pháp, yêu cầu chính quyền chấm dứt việc đến từng nhà dân ép ký

tên vào kiến nghị, ra văn bản nghiêm cấm và nghiêm trị mọi phát

biểu và hành vi đe doạ những người dân muốn nêu ý kiến độc lập

về Hiến pháp.

21/4: Báo Quân Đội Nhân Dân trích lời Uỷ ban Thường vụ

Quốc hội cho biết, “Sau 3 tháng triển khai nghiêm túc, dân chủ

Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Bộ Chính trị về tổ chức lấy ý

 

Chính trị bình dân | 375

kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đã có hơn

26 triệu lượt ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân về Dự thảo

sửa đổi Hiến pháp năm 1992, với 28.140 hội nghị, hội thảo, tọa

đàm lấy ý kiến góp ý”.

 

Chương II

LẬP PHÁP

 

Đây là một trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ máy nhà

nước. Thực thể này có nhiều cách gọi khác nhau: hội đồng quốc

gia, hội đồng lập pháp, nghị viện, “nhà của các vị đại diện”... Đôi

khi “nhà của các vị đại diện” chính là hạ viện trong hệ thống lưỡng

viện, vì hạ viện có tính đại diện cao hơn thượng viện.

Ở Trung Quốc, cơ quan lập pháp được gọi bằng cái tên “Đại hội

Đại biểu Nhân dân Toàn quốc”, gọi tắt là Nhân Đại Toàn Quốc.

CHXHCN Việt Nam gọi nó là Quốc hội. Để đơn giản, chương này

sẽ dùng cách gọi “cơ quan lập pháp” hoặc “quốc hội”.

Vậy quốc hội là gì? Đó là một tập hợp người được coi là đại diện

của nhân dân, và nó có một số chức năng như sau: 1. Làm luật

(thành văn); 2. Soạn và sửa đổi hiến pháp; 3. Đại diện cho dân; 4.

Bầu chọn nhân sự lãnh đạo; 5. Giám sát; 6. Tài chính; 7. Chức năng

gần như hành pháp; 8. Chức năng gần như tư pháp; 9. Điều tra; 10.

Thông tin. Sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về từng chức năng

của nhánh lập pháp.

 

* * *

 

CHỨC NĂNG CỦA QUỐC HỘI

(Các mục 1, 2, 4, 6, 7, 8, 9, 10 được trích từ cuốn “Governing: An

Introduction to Political Science” của học giả chính trị Austin

 

378 | Phạm Đoan Trang

Ranney. Các chú thích trong ngoặc đơn là của tác giả Ranney, trong

ngoặc vuông là của người dịch.)

1. Làm luật thành văn

Chức năng đầu tiên của cơ quan lập pháp trong các thể chế dân chủ

hiện đại là làm ra những đạo luật thành văn. Tôi [tác giả Austin

Ranney] dùng khái niệm làm ra luật thành văn chứ không phải làm

luật nói chung, bởi vì cụm từ làm ra luật thành văn mô tả chính xác

hơn những gì lập pháp thực sự làm. Luật pháp là những quy tắc

ứng xử xuất phát chính thức từ bất kỳ cơ quan nhà nước có thẩm

quyền nào [nghĩa là có thể từ chính phủ hoặc từ tòa án], trong khi

luật thành văn là những đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành

chính thức. Luật thành văn cấu thành một bộ phận quan trọng

trong toàn bộ hệ thống luật pháp của bất cứ thể chế dân chủ nào,

nhưng hệ thống luật pháp cũng có thể bao gồm cả những bộ phận

khác, như luật chung và các nguyên tắc về công lý tự nhiên, do tòa

án tạo ra, và cả những nghị định và quy định của cơ quan hành

pháp và hành chính. Do đó, cơ quan lập pháp độc quyền về việc

làm ra các luật thành văn, nhưng không giữ độc quyền về việc làm

ra luật nói chung.

2. Soạn thảo và sửa đổi hiến pháp

Trong hầu hết các nền dân chủ, cơ quan lập pháp đều có quyền lực

nhất định trong việc xây dựng và sửa đổi hiến pháp quốc gia. Nhiều

bản hiến pháp được khởi thảo bởi quốc hội, và mọi cơ quan lập

pháp đều có quyền đóng một vai trò nào đó trong việc sửa đổi hiến

pháp một cách chính thức. Ở một số quốc gia dân chủ, ví dụ Anh

và New Zealand, lập pháp là cơ quan duy nhất được quyền sửa hiến

pháp. Ở nhiều nước khác, như Úc, Thụy Sĩ, Pháp (và hầu hết các

nước châu Mỹ), thông thường cơ quan lập pháp đề nghị sửa đổi

hiến pháp, và cử tri phê chuẩn hoặc bác bỏ các đề nghị, đề xuất đó,

thông qua trưng cầu dân ý. Ở một số nước khác nữa, như Hoa Kỳ,

việc sửa đổi hiến pháp do cơ quan lập pháp của liên bang đề nghị

 

Chính trị bình dân | 379

và phải được phê chuẩn bởi cơ quan lập pháp của các tiểu bang

hoặc bởi một đại hội toàn quốc.

3. Đại diện cho dân

Với chức năng này, quốc hội đóng vai trò như mắt xích liên kết giữa

chính phủ và nhân dân, trong đó, quốc hội đứng về phía dân và đại

diện cho dân. Đây là chức năng cực kỳ quan trọng của quốc hội.

Khả năng đại diện cho nhân dân của quốc hội cao đến đâu thì

chứng tỏ nhà nước dân chủ đến đó. Nói cách khác, khả năng quốc

hội đại diện cho nhân dân chính là một trong số các chỉ dấu về mức

độ dân chủ của quốc gia. (Xem Chương III, “Về tính đại diện”, ở

Phần III, Dân chủ).

Ở Việt Nam dưới thời cộng sản, do độc đảng và bầu cử phi dân

chủ, tính đại diện của Quốc hội được tuyên giáo hiểu là mức độ mà

quốc hội đại diện được cho cả nước, tức là mức độ Quốc hội phản

ánh cả xã hội, làm sao để Quốc hội như một xã hội thu nhỏ, có đủ

thành phần về giới tính, dân tộc, nghề nghiệp... (Xem Chương

VII, “Hệ thống chính trị CHXHCN Việt Nam”, của Phần VI này).

4. Bầu chọn nhân sự lãnh đạo

Cơ quan lập pháp ở hầu hết các nước dân chủ đều có vai trò quan

trọng trong việc lựa chọn ra một số hoặc tất cả các chức vụ hành

pháp cao cấp nhất. Ví dụ nổi bật là những cuộc “bầu cử” gián tiếp

của cơ quan lập pháp để chọn ra thủ tướng, ở một số nước theo chế

độ cộng hòa đại nghị. Tất nhiên, không phải lúc nào cơ quan lập

pháp cũng bỏ phiếu trực tiếp để chọn ra người vào vị trí này trong

số rất nhiều ứng cử viên khác nhau. Nhưng cứ mỗi khi họ bỏ phiếu

bất tín nhiệm thì, trên thực tế, điều đó có nghĩa là họ đang tiến

hành bầu lại hoặc bãi miễn một vị thủ tướng đã từng được bầu

chọn: Nếu việc bất tín nhiệm được thông qua thì thủ tướng phải từ

chức; nếu không thông qua được thì thủ tướng tiếp tục tại vị.

Ngay cả trong chế độ cộng hòa tổng thống, cơ quan lập pháp

cũng có quyền bầu chọn nhân sự. Chẳng hạn, Hiến pháp Mỹ quy

 

380 | Phạm Đoan Trang

định rằng, nếu không có ứng viên tổng thống hoặc phó tổng thống

nào kiếm được đa số phiếu của Đại Cử tri Đoàn, thì Hạ viện sẽ

chọn ra tổng thống từ hai hoặc ba ứng viên có số phiếu lớn nhất, và

Thượng viện sẽ chọn phó tổng thống theo một cách khác. Chưa có

tổng thống hay phó tổng thống nào được bầu lên thông qua cơ chế

này suốt từ năm 1824 đến nay (năm đó, không ứng viên nào giành

được đa số phiếu đại cử tri, nên Hạ viện chọn John Quincy Adam

là người chiến thắng, trước Andrew Jackson và William H.

Crawford). Tuy nhiên, Quốc hội Mỹ vẫn giữ quyền bầu chọn nhân

sự, phòng có ngày lại cần dùng đến.

5. Giám sát

Thực hiện chức năng này có nghĩa là quốc hội phải buộc được

chính phủ minh bạch, báo cáo, giải trình và chịu trách nhiệm trước

quốc hội (cũng có nghĩa là trước nhân dân, vì quốc hội đại diện cho

dân) về mọi hoạt động của chính phủ. Quốc hội và chính phủ làm

điều đó thông qua các báo cáo thường xuyên, các cuộc chất vấn và

giải trình, mà ở Mỹ gọi là “điều trần”.

Quốc hội thường được gọi là “cơ quan lập pháp”, nên người ta

dễ nghĩ rằng làm luật là chức năng chính của quốc hội. Tuy nhiên,

các nhà khoa học chính trị nhận xét rằng, trong các nền dân chủ

hiện đại, vai trò làm luật của quốc hội ngày càng giảm đi, trong khi

vai trò giám sát chính phủ ngày càng tăng lên.

Ở các chế độ đại nghị như Anh quốc, khi mà đảng chiếm đa số

thành viên trong quốc hội cũng là đảng cầm quyền, thì vai trò giám

sát của quốc hội do đảng đối lập nắm.

Khả năng giám sát chính phủ của quốc hội cũng là chỉ dấu cho

thấy sức mạnh của quốc hội và nền dân chủ của đất nước. Rõ ràng

là, muốn giám sát được chính phủ thì quốc hội cần được tiếp cận

thông tin, nhất là thông tin từ chính phủ, và nói rộng ra, cần có

nguồn lực tốt để có thể tiếp cận các dịch vụ (như nghiên cứu, tư

vấn chuyên môn, các nguồn ý kiến chuyên gia...).

 

Chính trị bình dân | 381

 

6. Tài chính

Trong mọi nền dân chủ hiện đại, lập pháp đều nắm “sức mạnh của

hầu bao” và là cơ quan quyết định mục đích cũng như phạm vi của

mỗi thứ thuế má và công quỹ. Về mặt luật pháp, chính phủ chỉ có

thể chi tiêu những khoản công quỹ do lập pháp cấp cho. Giống như

nhiều chức năng khác của lập pháp, các kế hoạch chính trong tài

chính công đều được chuyển từ cơ quan lập pháp sang cơ quan

hành pháp, trong hầu hết các thể chế dân chủ. Hiện nay, nhiều

quốc hội chỉ xem lại ngân sách do hành pháp đề xuất, thay vì tự

soạn thảo kế hoạch ngân sách từ đầu. Mỗi cơ quan lập pháp cụ thể

sẽ xem xét lại ngân sách này như thế nào, điều đó phụ thuộc vào

việc hành pháp có quyền hành tới mức độ nào.

Một cách ngắn gọn, lập pháp giữ quyền xem xét, phê duyệt hoặc

bác bỏ kế hoạch ngân sách do hành pháp soạn thảo và đề xuất.

Ở Mỹ, Chính phủ chỉ được phép chi tiêu những khoản công

quỹ do Quốc hội phê duyệt, nếu không được duyệt là... phải tạm

dừng hoạt động, gọi là tạm đóng cửa.

 

Dòng chữ trong ảnh: Do chính phủ liên bang đóng cửa,

tất cả các công viên quốc gia đều đóng cửa.

 

7. Các chức năng gần như hành pháp

Ngoài việc xem xét phê duyệt ngân sách hành pháp, nhiều cơ quan

 

382 | Phạm Đoan Trang

lập pháp ở các thể chế dân chủ còn có chức năng xem xét, phê

duyệt cả một số đề xuất khác của cơ quan hành pháp. Chẳng hạn,

ở hầu hết các nước dân chủ, những điều ước quốc tế là do hành

pháp đàm phán, nhưng phải được lập pháp phê chuẩn thì mới có

hiệu lực. Ở Mỹ, tổng thống chỉ định nhiều chức vụ hành pháp, tư

pháp khác nhau (thẩm phán liên bang, thành viên nội các, người

đứng đầu mỗi cơ quan hành chính, và các vị đại sứ) “theo và với

sự cố vấn và đồng thuận của Thượng viện” (Điều II) (tức là, việc

chỉ định sẽ chỉ có tính chất “tạm thời” cho tới khi nào được đa số

thành viên Thượng viện phê chuẩn). Ai theo dõi các phiên điều

trần về việc chỉ định Robert H. Bork năm 1988 [có thể tác giả

nhầm, năm đúng là 1987] và Clarence Thomas năm 1991 làm

thành viên Tòa án Tối cao đều biết rằng việc cơ quan lập pháp thực

thi chức năng này của họ đôi khi trở thành tin tức nổi bật trên

trang nhất các báo, và Thượng viện thỉnh thoảng cũng bác bỏ một

số ứng viên tổng thống.

8. Các chức năng gần như tư pháp

Một số cơ quan lập pháp còn thực hiện cả chức năng gần như tư

pháp. Chẳng hạn, Hiến pháp Mỹ quy định Hạ viện có thể đặt vấn

đề luận tội bất kỳ công chức nào trong chính phủ liên bang (kể cả

tổng thống, phó tổng thống, thành viên nội các, và chánh án Tòa

Tối cao). Xin nhớ rằng luận tội không phải là kết tội. Thay vì thế,

luận tội là hành vi chính thức cáo buộc tổng thống phạm một tội

nào đó – hãy so nó với cáo trạng của bồi thẩm đoàn trong một vụ

án hình sự bình thường. Bất kỳ quan chức nào bị luận tội như vậy

cũng phải bị xét xử bởi Thượng viện, và cần phải có hai phần ba số

phiếu tán thành thì mới kết tội được. Hạ viện đã luận tội tổng cộng

16 quan chức kể từ năm 1789: 13 chánh án, hai tổng thống, và một

thành viên nội các. Chỉ có 7 người, tất cả đều là chánh án, bị kết tội

và cách chức. Tổng thống Andrew Jackson thoát bị kết tội một lần

vào năm 1868 chỉ nhờ chênh lệch đúng một phiếu. Năm 1974,

Tổng thống Richard Nixon từ chức khi tình hình cho thấy rõ ràng

là Hạ viện sắp luận tội ông ta. Năm 1998, Hạ viện bỏ phiếu về hai

 

Chính trị bình dân | 383

bản luận tội Tổng thống Bill Clinton; ông bị Thượng viện xét xử

năm 1999 nhưng được tha bổng khi mà cả hai bản luận tội đều

chẳng bản nào nhận được hai phần ba số phiếu cần thiết.

 

Năm 1999, Bill Clinton bị Hạ viện luận tội và Thượng viện xét xử

(nhưng không đủ 2/3 số phiếu để bị cách chức).

Một vụ việc tương tự xảy ra ở Brazil năm 1992: Hạ viện bỏ

phiếu luận tội Tổng thống Fernando Collor de Mello nhận hối lộ,

nhưng Collor từ chức trước khi Thượng viện có thể xét xử ông ta,

và Phó Tổng thống Itamar Franco lên thay.

Tương tự, Quốc hội Pháp có thể cáo buộc tổng thống và các bộ

trường vì tội phản quốc và các tội khác, mặc dù những quan chức

bị buộc tội sẽ được xét xử bởi tòa án cấp cao chứ không phải quốc

hội. Thượng viện Anh đã mất phần lớn quyền lực nhưng vẫn tiếp

tục là tòa án cấp cao nhất nước. Hầu hết công việc tư pháp của

Thượng viện, và toàn bộ các hoạt động của nó với tư cách tòa phúc

thẩm, đều được tiến hành nhân danh toàn thể Thượng viện bởi

một nhóm nhỏ, gồm 10-15 chuyên gia pháp lý, kể cả Đại Chưởng

ấn [có người dịch là Nhiếp chính quan], 12 nguyên lão, và các

thành viên khác của Thượng viện – những người từng giữ chức vụ

tư pháp cao (ví dụ, nguyên đại chưởng quan).

 

384 | Phạm Đoan Trang

9. Điều tra

Những cuộc điều tra của cơ quan lập pháp thường thu hút sự chú

ý đáng kể của dư luận, đặc biệt là ở Mỹ. Hai ví dụ nổi tiếng nhất gần

đây là vụ năm 1988 do ủy ban phối hợp chung Hạ viện-Thượng

viện tiến hành để làm rõ những kế hoạch bí mật của Cố vấn An

ninh Quốc gia John Poindexter và trợ lý Oliver North nhằm bán vũ

khí cho Iran và sử dụng quy trình này để tài trợ cho những nhóm

phiến quân nổi dậy ở Nicaragua; và vụ do Ủy ban phụ trách các

công việc của chính phủ, trực thuộc Thượng viện, tiến hành nhằm

điều tra các hoạt động nghi là bất hợp pháp của lực lượng ủng hộ

Clinton trong việc gây quỹ cho chiến dịch tái tranh cử của ông

Clinton (năm 1996).

 

Một cuộc điều trần tại Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos (Hạ viện Mỹ) về tình

hình tù nhân lương tâm trên thế giới, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam,

 

ngày 14/1/2014, Washington D.C.

Ảnh: Phạm Đoan Trang

 

Tuy nhiên, không phải chỉ mình cơ quan lập pháp Mỹ có hoạt

động điều tra. Hạ viện Anh cũng đã thành lập một số “ủy ban có

chọn lọc” nhằm mục đích làm rõ những thông tin họ cần biết về

 

Chính trị bình dân | 385

các vấn đề mà các ủy ban thường trực của họ không bao quát được.

Các ủy ban có chọn lọc này tổ chức những phiên điều trần, triệu

tập nhân chứng và thu thập bút lục, và sau đó đệ trình báo cáo. Đôi

khi những báo cáo ấy có thể đưa đến việc thay đổi luật pháp hiện

hành, thay đổi các quy định hành chính hiện hành, hoặc cả hai.

Mặc dù Anh, khác với Mỹ, thực hiện rất nhiều cuộc điều tra của

chính phủ thông qua các hội đồng thuộc hoàng gia (bao gồm cả

những nhà lập pháp lẫn người ngoài), nhưng các ủy ban có chọn

lọc vẫn đóng một vai trò đáng kể trong việc định hình chính sách.

10. Chức năng thông tin

Một số cuộc điều tra của cơ quan lập pháp được tiến hành chủ yếu

nhằm thu thập thông tin cần thiết cho việc xây dựng luật mới. Tuy

nhiên, cũng có nhiều cuộc điều tra mà mục đích chính yếu là để

thông tin cho các cơ quan khác trong chính quyền hoặc cho công

luận nói chung về những gì đang xảy ra. Ví dụ, cuộc điều tra của

một ủy ban trong Thượng viện Mỹ về hoạt động gây quỹ cho chiến

dịch tranh cử tổng thống năm 1996 chỉ nhằm cung cấp phần nào

căn cứ cho những luật mới điều tiết việc tài trợ cho các chiến dịch

vận động và thể thức vận động. Cuộc điều tra cũng được tiến hành

để xác định xem có phải đạo luật hiện hành khi đó đã bị chính

Tổng thống Clinton, hoặc các thành viên trong chính quyền và tổ

chức vận động tranh cử của ông ta, vi phạm hay không. Một ví dụ

khác, vào cuối những năm 1970, cả hai viện của Quốc hội Mỹ đã

thành lập ủy ban điều tra vụ ám sát Tổng thống John F. Kenney

năm 1963, Martin Luther King năm 1968, để xác định xem đó là

hành động của các cá nhân, như công cuộc điều tra trước đó đã kết

luận, hay là kết quả của nhiều âm mưu nào đấy.

Các cuộc điều tra của cơ quan lập pháp là một cách để thông tin

cho công luận, và các cuộc tranh luận của họ cũng là một cách

thông tin khác. Ở nhiều quốc hội, đường lối và kỷ luật đảng mạnh

đến mức thảo luận trong cơ quan lập pháp khó có thể thay đổi

được lá phiếu của mỗi nghị sĩ. Nhưng cho dù có như thế thì thảo

 

386 | Phạm Đoan Trang

luận vẫn tạo ra diễn đàn chính, nơi các quan điểm ủng hộ và phản

đối mỗi vấn đề đều được đưa ra. Do đó, thảo luận cũng đóng gần

như hoàn toàn cái vai trò cung cấp thông tin và thúc đẩy ý kiến

công luận, mà các chiến dịch vận động tranh cử vẫn thực hiện. (...)

Nếu người dân được thông tin và khai sáng là điều kiện thiết yếu,

hàng đầu cho một nền dân chủ bền vững, thì thông tin cho công

luận dứt khoát không phải là chức năng kém quan trọng nhất trong

các chức năng của lập pháp.

Nghị trường Mỹ có một chuyện rất thú vị, đó là trước khi một dự thảo

luật được biểu quyết thông qua, các thượng nghị sĩ có quyền phát biểu nói

liên tục bao lâu cũng được, miễn là không ngừng nói, không được ngồi.

Nói cho đến khi nào kiệt sức không nói được nữa mà thôi. Chính vì vậy

một nhóm thiểu số thượng nghị sĩ hoặc một đảng muốn chống lại dự

thảo luật có lợi cho phe đối lập, họ sẽ cử một hoặc nhiều thượng nghị sĩ

đứng lên phát biểu con cà con kê hết giờ này sang giờ khác, hết ngày này

sang ngày khác cho đến khi hết thời gian để mọi người có thể biểu quyết

mà thôi. Chiến thuật này có một tên hẳn hoi, đó là: chiến thuật filibuster.

Chiến thuật này thậm chí đã được lên thành phim “Mr. Smith Goes to

Washington” (1939). Lịch sử Mỹ đã ghi nhận Storm Thurmond là người

đã sử dụng chiến thuật filibuster dài nhất trong lịch sử. Ông đã phát biểu

trong 24 tiếng 18 phút trong cố gắng chống lại Đạo luật các Quyền Dân

sự năm 1957. Trong bài phát biểu của ông có những chủ đề thậm chí như

công thức món ăn của bà nội ông v.v...

Xem lại nghị trường của nước ta, dường các đại biểu Quốc hội từ các năm

trước đã nhen nhúm, nhưng năm nay đặc biệt rõ hơn sử dụng “chiến

thuật filibuster” kiểu Việt Nam. Nghĩa là sẽ có những ông/bà đại biểu đưa

ra những ý kiến trời ơi đất hỡi, dường như là muốn câu giờ để thời gian

họp Quốc hội trôi qua, còn những việc quan trọng của đất nước thì sẽ bị

lờ đi. Thậm chí đến bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cũng

chơi cái “chiến thuật filibuster” này khi yêu cầu luật sư tố thân chủ. Báo

chí thì có đề tài câu view, người dân ngây thơ thì bị xỏ mũi tranh cãi

những ý kiến điên rồ này.

Chỉ có đất nước là lụn bại.

 

(Nhà báo Nguyễn Dân (facebooker Ếch Ao)

viết trên facebook cá nhân ngày 03/6/2017).

 

* * *

 

Chính trị bình dân | 387

 

LƯỠNG VIỆN VÀ MỘT VIỆN

Chương này xoay quanh vấn đề cấu trúc của cơ quan lập pháp: Quốc

hội một viện hay hai viện? Ưu, nhược điểm của mỗi mô hình?

Trong lịch sử, Nam Tư (Yugolasvia) từng có thời có tới 5 viện

trong quốc hội. Nam Phi giai đoạn 1984-1994 có quốc hội ba viện.

Tuy nhiên, nhìn chung trên thế giới, cơ quan lập pháp các nước chỉ

có một hoặc hai viện, với tỷ lệ cũng tương đương nhau (50:50).

Quốc hội lưỡng viện Quốc hội một viện

Mỹ, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Đức,

Ireland, Hà Lan, Pháp, Philippines,

Rumani, Séc, Slovenia, Tây Ban

Nha, Ý...

 

Bồ Đào Nha, Bulgaria, Croatia,

Đan Mạch, Estonia, Hungary, Hy

Lạp, Phần Lan, Slovakia, Thụy

Điển, Trung Quốc, Việt Nam...

 

Quốc hội lưỡng viện

Là quốc hội mà quyền lực được chia cho hai viện: thượng viện và

hạ viện.

Bạn chú ý rằng gọi là “thượng” và “hạ”, nhưng không có nghĩa là

thượng viện cao hơn hạ viện. Không những thế, thượng viện lại có

quy mô nhỏ hơn (ít ghế hơn) và có tính đại diện thấp hơn hạ viện.

Ở một số nước, thượng viện thường được xem như chỉ có chức

năng tư vấn hoặc xem xét lại, nên quyền lực của thượng viện thậm

chí còn hạn chế hơn hạ viện: chỉ được bỏ phiếu trong một số vấn

đề nhất định (ví dụ sửa hiến pháp), không được đề xuất dự luật,

không được bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ, không được phủ

quyết dự thảo luật, không được sửa đổi dự thảo luật...

Ở Mỹ, quyền lực được chia đều cho hai viện hay nói cách khác,

quyền của thượng viện ngang bằng hạ viện, thậm chí còn có một

vài quyền mà hạ viện không có, chẳng hạn như quyền chỉ định

chánh án, đại sứ...

Thành viên của thượng viện được gọi là thượng nghị sĩ hoặc

nghị sĩ. Cương vị này có thể được bầu trực tiếp, bầu gián tiếp hoặc

 

388 | Phạm Đoan Trang

được chỉ định, tùy nước. Nếu được bầu thì thượng viện được bầu

từng phần (gối nhau).

Thành viên của hạ viện được gọi là dân biểu. Dân biểu được bầu

trực tiếp và đồng loạt.

Do hạ viện có tính đại diện cao hơn cho nên dân biểu thường

quan tâm đến đơn vị bầu cử của mình, hơn là đến cả đơn vị bầu cử

lẫn đất nước. Dân biểu thường chú ý đến các đạo luật của địa

phương mình hơn. Thượng viện thì thường quan tâm tới các vấn

đề quốc gia hơn.

Ưu điểm của quốc hội lưỡng viện

- Hai viện kiểm soát quyền lực lẫn nhau và ngăn chặn sự khống chế

của nhóm lợi ích.

- Hai viện kiểm soát hành pháp hiệu quả hơn một viện.

- Tăng cường khả năng đại diện cho nhiều lợi ích hơn, nhiều

nhóm cử tri hơn.

- Bảo vệ hiến pháp tốt hơn, trì hoãn hoặc ngăn chặn việc thông

qua những đạo luật chưa hợp lý.

- Tạo thêm thời gian cho việc thảo luận và phản biện các dự

thảo luật.

- Rất phù hợp với những quốc gia rộng lớn, có dân số không

đồng nhất, hoặc nước theo thể chế liên bang.

Nhược điểm của quốc hội lưỡng viện

- Làm cho tiến trình lập pháp càng phức tạp, khó khăn, mất thì

giờ hơn; có thể gây ra “bế tắc về chính sách” khi mà các đạo luật mãi

không được thông qua. Chuyện này đặc biệt dễ xảy ra khi hành

pháp và lập pháp nằm trong tay hai đảng khác nhau hoặc hai viện

do hai đảng khác nhau khống chế.

- Tốn kém hơn, ít nhất là tốn tiền lương cho các nghị sĩ và dân

biểu.

- Khó xác định trách nhiệm trong trường hợp một đạo luật tồi

tệ được thông qua, bởi hai viện thường đổ lỗi cho nhau.

 

Chính trị bình dân | 389

 

Dân biểu Mỹ Zoe Lofgren (đảng Dân chủ, bang California)

cầm tập báo cáo về blogger Ba Sàm, tại văn phòng của bà ở Washington

D.C., ngày 13/11/2014. Ảnh: Phạm Đoan Trang

 

Quốc hội một viện

Ưu điểm của quốc hội một viện

- Tiết kiệm chi phí, kinh tế hơn lưỡng viện.

- Dễ xác định trách nhiệm khi một luật tồi tệ được thông qua

(hoặc khi không thông qua được luật).

- Tiến trình lập pháp gọn nhẹ hơn, có thể nhanh chóng hơn.

- Quốc hội đại diện được cho cả lợi ích quốc gia lẫn địa phương.

Nhược điểm của quốc hội một viện

- Thiếu sự kiểm soát quyền lực lẫn nhau như ở cơ chế lưỡng viện,

và vì thế, quốc hội có thể bị chi phối bởi nhóm lợi ích.

- Khả năng kiểm soát hành pháp kém hơn. Ở những nước theo

chế độ đại nghị mà lãnh đạo phe đa số trong quốc hội cũng là quan

chức hành pháp thì có nguy cơ hành pháp lấn át lập pháp. (Ở nước

độc đảng như Việt Nam dưới thời cộng sản thì đó không còn là

nguy cơ mà đã là thực tế).

 

390 | Phạm Đoan Trang

- Tính đại diện thấp, nhiều nhóm trong xã hội có thể không

được đại diện đúng mức ở quốc hội.

- Chất lượng làm luật kém hơn, có thể thông qua những đạo

luật tồi tệ, vi hiến, bất hợp lý.

- Không thích hợp với những nước có dân số lớn, không đồng

nhất, hoặc những nước theo thể chế liên bang.

 

* * *

 

TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG QUỐC HỘI

Dưới đây là một bảng danh sách các tiêu chí để đánh giá một quốc

hội có thực sự là đại diện của dân không, có thực sự là cơ quan dân

cử vận hành trong một nền dân chủ không. Bảng này do M. Steven

Fish và Matthew Kroenig lập cho một khảo sát quốc tế của họ từ

năm 2002 đến năm 2005, nhằm khẳng định một điều: Cơ quan lập

pháp càng mạnh thì đất nước càng dân chủ.

Bảng khảo sát Fish-Kroenig về quyền lực lập pháp*

1. Một mình quốc hội, không có sự tham gia của bất kỳ cơ quan nào khác,

có đủ quyền luận tội tổng thống hoặc thay thế thủ tướng.

2. Các bộ trưởng có thể đồng thời là thành viên của quốc hội.

3. Quốc hội có quyền triệu tập quan chức hành pháp. Điều trần của các

quan chức hành pháp trước quốc hội hoặc các ủy ban của quốc hội được

tiến hành thường xuyên.

4. Quốc hội có quyền tiến hành điều tra độc lập về người đứng đầu cơ

quan hành pháp và các cơ quan thuộc hành pháp.

5. Quốc hội có thực quyền giám sát các cơ quan công quyền (quân đội,

hành pháp, tình báo, mật vụ).

6. Quốc hội chỉ định thủ tướng.

7. Bắt buộc phải có sự chuẩn y của quốc hội thì mới có thể phê chuẩn việc

chỉ định từng bộ trưởng. Hoặc tự quốc hội có quyền chỉ định bộ trưởng.

8. Quốc gia không có tổng thống, hoặc có tổng thống nhưng tổng thống

do quốc hội bầu ra.

 

Chính trị bình dân | 391

 

9. Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ mà không đe dọa

gì đến nhiệm kỳ của quốc hội (tức là không có nguy cơ bị giải tán).

10. Quốc hội được miễn trừ khỏi việc bị cơ quan hành pháp giải tán.

11. Mỗi sáng kiến làm luật của cơ quan hành pháp phải được sự phê

chuẩn, chuẩn y của quốc hội thì mới có hiệu lực, nói cách khác, cơ quan

hành pháp không có quyền lực lập pháp.

12. Luật do quốc hội thông qua không thể bị phủ quyết, hoặc phần lớn

không thể bị phủ quyết; nói cách khác, cơ quan hành pháp không có

quyền phủ quyết, hoặc có quyền phủ quyết song phủ quyết vô hiệu nếu bị

đa số thành viên quốc hội bác bỏ.

13. Luật do quốc hội làm ra và ban hành là tối cao.

14. Quốc hội có quyền đề xuất dự thảo luật ở mọi lĩnh vực chính sách;

hành pháp không có quyền kiểm soát việc đó.

15. Việc chi tiêu ngân quỹ của quốc hội phải được ủy nhiệm; cơ quan

hành pháp không có quyền sử dụng những khoản ngân quỹ mà quốc hội

đã lấy.

16. Quốc hội kiểm soát mọi nguồn tiền tài trợ cho hoạt động của quốc hội

và cấp phát lương bổng cho thành viên quốc hội.

17. Thành viên quốc hội được miễn trừ khỏi việc bị bắt và/hoặc bị truy tố

hình sự.

18. Tất cả thành viên quốc hội đều là dân cử (do bầu cử mà ra); cơ quan

hành pháp không có quyền chỉ định bất kỳ thành viên nào của quốc hội.

19. Một mình quốc hội, không có sự tham gia của bất kỳ cơ quan nào

khác, có quyền sửa đổi hiến pháp.

20. Việc tuyên bố chiến tranh bắt buộc phải được sự chuẩn y của quốc

hội.

21. Việc thông qua các điều ước quốc tế bắt buộc phải được sự chuẩn y

của quốc hội.

22. Quốc hội có quyền ra lệnh ân xá.

23. Quốc hội có quyền tha tội.

24. Quốc hội xét duyệt và có quyền bác bỏ các nhân sự được chỉ định cho

cơ quan tư pháp; hoặc tự quốc hội có quyền chỉ định thành viên cơ quan

tư pháp.

25. Thống đốc ngân hàng trung ương do quốc hội chỉ định.

26. Quốc hội là một tiếng nói có trọng lượng trong hoạt động của cơ quan

truyền thông quốc doanh.

27. Quốc hội họp thường xuyên.

 

392 | Phạm Đoan Trang

 

28. Mỗi nhà lập pháp (đại biểu quốc hội, nghị sĩ, dân biểu) đều có thư ký

riêng.

29. Mỗi nhà lập pháp đều có ít nhất một trợ lý không phải là thư ký và có

chuyên môn về chính sách.

30. Các nhà lập pháp có thể được tái cử, không bị hạn chế gì.

31. Mỗi một ghế trong quốc hội đều là một cương vị đủ hấp dẫn để các

nhà lập pháp nói chung đều ưa thích và vì thế đều mong muốn được tái

cử.

32. Việc tái cử các thành viên đương nhiệm của quốc hội là phổ biến, đủ

để vào bất kỳ lúc nào, quốc hội cũng có một số lượng đáng kể thành viên

nhiều kinh nghiệm.

* “Stronger legislatures, stronger democracies”, M. Steven Fish, tháng 1/2006. Bài nằm trong

tuyển tập “Democracy: A Reader”, Larry Diamond & Marc F. Plattner, John Hopkins

University Press, 2009.

 

* * *

 

CƠ QUAN LẬP PHÁP Ở VIỆT NAM

Cơ quan lập pháp ở Việt Nam gồm Quốc hội và các hội đồng nhân dân.

Cơ quan lập pháp cấp cao nhất – cấp trung ương – được gọi là

Quốc hội. Thành viên của nó được gọi là đại biểu Quốc hội.

Điều 69 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định “Quốc hội là cơ

quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước

cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc

hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn

đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động

của Nhà nước”.

Mặc dù Hiến pháp nghe có vẻ rất dân chủ như vậy, nhưng như

ở Chương “Hiến pháp và pháp luật” đã đề cập, trên thực tế thì bản

“khế ước xã hội” này chưa bao giờ được nhân dân phúc quyết, và

nó chỉ là sự thể chế hóa cương lĩnh của đảng Cộng sản.

 

Chính trị bình dân | 393

Quốc hội là cơ quan một viện được bầu với nhiệm kỳ 5 năm.

Việc bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến hành theo nguyên tắc phổ

thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Quốc hội tổ chức họp mỗi năm hai lần, mỗi lần một tháng.

Theo Luật Tổ chức Quốc hội, tổng số đại biểu Quốc hội không

vượt quá 500.

Quốc hội có một ủy ban thường vụ, một hội đồng dân tộc, và 9

ủy ban chuyên môn: (1) Ủy ban Pháp luật; (2) Ủy ban Tư pháp; (3)

Ủy ban Kinh tế; (4) Ủy ban Tài chính và Ngân sách; (5) Ủy ban

Quốc phòng và An ninh; (6) Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh

niên, Thiếu niên và Nhi đồng; (7) Ủy ban về các Vấn đề Xã hội; (8)

Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường; và (9) Ủy ban Đối

ngoại.

Vì Việt Nam là một nhà nước độc đảng, nên chỉ có một đảng

cầm quyền là đảng Cộng sản Việt Nam, không có đảng đối lập, và

trung bình ít nhất 95% đại biểu Quốc hội là đảng viên cộng sản. Số

đại biểu còn lại có thể không phải là đảng viên tại thời điểm được

bầu, nhưng sau đó họ có thể sẽ được kết nạp vào đảng Cộng sản;

hoặc họ phải là cảm tình viên của đảng Cộng sản, hay ít nhất cũng

không phải người có ý thức hệ khác với đảng Cộng sản.

Đó là ở cấp trung ương. Ở cấp địa phương, cơ quan lập pháp là

các hội đồng nhân dân. Thành viên của nó được gọi là đại biểu hội

đồng nhân dân (các cấp).

Theo Hiến pháp, “Hội đồng Nhân dân là cơ quan quyền lực

Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền

làm chủ của nhân dân, do nhân dân trong vùng bầu ra, chịu trách

nhiệm trước nhân dân trong vùng và cơ quan Nhà nước cấp trên”.

“Hội đồng Nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật

định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương

và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng Nhân dân” (Điều 113).

“Uỷ ban nhân dân do Hội đồng Nhân dân bầu là cơ quan chấp

hành của Hội đồng Nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa

 

394 | Phạm Đoan Trang

phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng Nhân dân cùng cấp và

cơ quan nhà nước cấp trên” (Điều 114).

Việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo

nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Về ngôn ngữ lập pháp và hành chính, Việt Nam cộng sản rất

giống Trung Quốc cộng sản. Ví dụ, Trung Quốc gọi cơ quan lập

pháp là Đại hội Đại biểu Nhân dân, Việt Nam gọi là Quốc hội.

Trung Quốc có Luật Bầu cử đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc và

đại hội đại biểu nhân dân các cấp (2010). Việt Nam có Luật Bầu cử

Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng Nhân dân (2015). Ở cả hai

nước cũng đều tồn tại cơ chế hiệp thương trong bầu cử. (Xem thêm

chương Bầu cử, Phần V, “Tương tác chính trị”).

 

* * *

TIẾN TRÌNH LẬP PHÁP

Phần này là câu trả lời cho câu hỏi “làm thế nào một dự luật trở

thành luật”.

Dưới đây là quy trình làm luật ở một nước có quốc hội lưỡng

viện trong khu vực Đông Nam Á – Philippines. Quy trình này

được tóm tắt lại và in trong các tờ rơi phát miễn phí ở cơ quan lập

pháp Philippines cho mọi du khách trong và ngoài nước.

- Dự thảo có thể được trình ở Hạ viện hoặc Thượng viện. Dự

thảo chỉ được xoay quanh một vấn đề duy nhất, và vấn đề đó phải

được nêu ở ngay tiêu đề của dự thảo.

- Tại phiên đọc thứ nhất, tiêu đề và mã số dự luật sẽ được đọc,

và sau đó, dự thảo được chuyển cho ủy ban thích hợp.

- Một ủy ban nghiên cứu dự thảo và tổ chức điều trần về dự

thảo. Sau đó, ủy ban lập một báo cáo về dự thảo. Mỗi ủy ban chỉ lập

một báo cáo về một dự thảo mà ủy ban quyết định đề xuất để

Thượng viện hoặc Hạ viện phê chuẩn.

 

Chính trị bình dân | 395

- Báo cáo của ủy ban được đọc tại một phiên họp mở. Sau đó,

báo cáo cùng dự thảo được đưa lên Ủy ban Quy tắc. Ủy ban Quy

tắc có thể lên lịch đưa dự thảo vào phiên đọc thứ hai hoặc vào

chương trình những công việc chưa được chỉ định.

- Tại phiên đọc thứ hai, dự thảo được đưa ra để thảo luận và sửa

đổi trước khi được đưa vào lịch cho phiên đọc thứ ba. Mỗi dự thảo

phải qua ba phiên đọc, vào ba ngày khác nhau, chỉ trừ khi Tổng

thống xác nhận một dự thảo nào đó là khẩn cấp, chẳng hạn để đối

phó với một tình huống báo động khẩn cấp nào đó trên toàn quốc.

- Sau khi được một viện phê chuẩn, dự luật được chuyển sang

viện còn lại và cũng phải qua những thủ tục như thế.

- Nếu một trong hai viện sửa đổi dự luật, thì viện còn lại cũng

phải nhất trí. Nếu một trong hai viện lại có một dự luật mâu thuẫn

với dự luật do viện kia thông qua, hai dự luật chứa những điều

khoản mâu thuẫn nhau, thì một ủy ban bao gồm đại diện của cả hai

viện sẽ được lập ra để điều hòa các điều khoản mâu thuẫn. Sau đó,

nếu có thể điều hòa được các điều khoản mâu thuẫn, thì một báo

cáo của ủy ban này sẽ được soạn thảo để phê chuẩn, và phải được

sự phê chuẩn của cả hai viện.

- Khi dự luật được cả hai viện thông qua, nó được ký bởi các

lãnh đạo của cả hai viện và rồi được gửi tới Tổng thống để Tổng

thống phê chuẩn.

- Tổng thống có thể ký để dự luật chính thức trở thành luật,

hoặc có thể phủ quyết toàn bộ hay một phần dự luật. Trong vòng

30 ngày kể từ khi Tổng thống nhận được dự luật, nếu Tổng thống

không ký phê chuẩn hay phủ quyết nó, thì dự luật trở thành luật.

Ngay cả khi Tổng thống phủ quyết, nếu cả hai viện bác bỏ được

phủ quyết đó với 2/3 số thành viên mỗi viện tán thành bác bỏ phủ

quyết, thì dự luật vẫn trở thành luật.

Tiến trình lập pháp của Philippines rất giống với tiến trình lập

pháp ở Mỹ. Tại Mỹ, quá trình để một dự thảo luật trở thành luật trải

qua các bước như sau: 1

1. “Government 101: How a Bill Becomes Law”, đăng trên trang Vote Smart tại địa chỉ:

https://votesmart.org/education/how-a-bill-becomes-law#.WTbVeGiGPIV.

 

396 | Phạm Đoan Trang

- Bất cứ thành viên nào của Thượng viện hay Hạ viện đều có thể

đề xuất một dự luật.

- Sau đó, dự luật được Chủ tịch Thượng viện hoặc Chủ tịch Hạ

viện chuyển đến ủy ban thích hợp. Một dự luật có thể được chuyển

tới một, hai hoặc nhiều ủy ban, hoặc có thể được chia nhỏ thành

nhiều phần và mỗi phần được gửi tới một ủy ban riêng. Chủ tịch

Hạ viện có thể ấn định hạn thời gian cho các ủy ban.

- Các dự luật được đưa vào lịch của ủy ban mà chúng được gửi

tới. Việc các ủy ban chậm có phản hồi về dự luật đồng nghĩa với

việc nó bị loại bỏ.

- Thủ tục tại các ủy ban:

y Các cơ quan của chính phủ đề nghị có bình luận về dự luật.

y Chủ tịch ủy ban có thể chuyển dự luật về cho tiểu ban (cấp

dưới ủy ban).

y Các cuộc điều trần về dự luật được tổ chức.

y Các tiểu ban soạn thảo báo cáo của họ về dự luật, gửi cho ủy

ban.

y Ủy ban tổ chức những phiên họp “gia tăng giá trị”, trong đó họ

sẽ sửa đổi, bổ sung dự luật. Nếu phải sửa nhiều thì ủy ban có thể ra

lệnh làm lại một dự luật “sạch”, nghĩa là có sửa đổi, bổ sung lại. Khi

đó, dự luật mới này sẽ được đánh mã số mới và được gửi “lên sàn”,

còn dự luật cũ thì bị hủy. Thượng viện hoặc Hạ viện phải phê

chuẩn, điều chỉnh hay bác bỏ tất cả các sửa đổi, bổ sung của ủy ban

rồi mới có thể tiến hành bỏ phiếu thông qua.

- “Lên sàn”, tức là dự luật được đưa vào lịch làm việc của hai

viện, sau đó mỗi viện sẽ tổ chức tranh luận, tranh biện về dự luật.

• Tại Hạ viện, việc tranh luận chịu những giới hạn do Ủy ban

Quy tắc đặt ra. Ủy ban Bảo trợ sẽ dẫn dắt cuộc tranh luận và phân

bổ thời gian công bằng giữa bên tán thành và bên phản đối dự luật.

• Tại Thượng viện, việc tranh luận được kéo dài không giới hạn.

Thành viên Thượng viện, tức là thượng nghị sĩ, có thể nói bao lâu

 

Chính trị bình dân | 397

tùy thích, kéo dài cuộc tranh luận để ngăn Thượng viện thông qua

dự luật – đây gọi là thủ tục filibuster. Thủ tục filibuster này chỉ có

thể bị vô hiệu hóa nếu có 3/5 số thành viên Thượng viện bỏ phiếu

thực hiện một thủ tục khác, gọi là cloture, “đóng cửa”. Khi Thượng

viện dùng đến cơ chế “đóng cửa” này thì thời gian tranh luận sẽ bị

giới hạn ở mức dưới 30 tiếng đồng hồ.

• Bỏ phiếu. Nếu dự luật được thông qua ở một trong hai viện,

nó sẽ được chuyển sang cho viện còn lại. Nếu có một trong hai

viện không thông qua dự luật thì coi như nó chết. Nếu hai viện

cùng thông qua một dự luật thì dự luật được chuyển tới Tổng

thống. Nếu hai viện thông qua một dự luật với những điều khoản

khác biệt thì dự luật sẽ được chuyển tới một ủy ban khác, do hai

viện thành lập. Thành viên của ủy ban được chỉ định bởi chủ tịch

của những ủy ban trước đó từng làm việc về dự luật. Giờ đây, ủy

ban này sẽ điều hợp những khác biệt của hai bản dự luật của

Thượng viện và Hạ viện.

- Cuối cùng, nếu Tổng thống ký thông qua dự luật, hoặc nếu cả

hai viện đều bác bỏ phủ quyết của Tổng thống (với 2/3 thành viên

có mặt ở mỗi viện bỏ phiếu bác bỏ phủ quyết), thì dự luật trở thành

luật và được gán một mã số chính thức.

 

* * *

 

Còn ở nước CHXHCN Việt Nam, quy trình xây dựng pháp luật

trải qua các bước như sau: 1

1. Lập chương trình xây dựng pháp luật

Căn cứ để lập chương trình là các nghị quyết của đảng Cộng sản

Việt Nam và các sáng kiến pháp luật. Chỉ có: Chủ tịch nước và các

1. Phần này dựa theo một bài giảng của Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Minh Thuyết, đại biểu

Quốc hội các khóa XI, XII. Nội dung do ông Thuyết tóm tắt.

 

398 | Phạm Đoan Trang

cơ quan nhà nước (Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc

và các ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao,

Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Kiểm toán Nhà nước), Mặt trận

Tổ quốc và các tổ chức thành viên, đại biểu quốc hội mới có quyền

đề xuất sáng kiến pháp luật.

Thủ tục lập chương trình xây dựng pháp luật: Ủy ban Tư pháp

của Quốc hội tập hợp các sáng kiến pháp luật, gửi Ủy ban Thường

vụ Quốc hội xem xét và trình Quốc hội. Quốc hội thảo luận và biểu

quyết thông qua.

2. Soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật

- Lập Ban Soạn thảo.

- Tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy

phạm pháp luật có liên quan.

- Lập dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

- Đánh giá tác động và xây dựng báo cáo đánh giá tác động của

dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

- Lấy ý kiến tổ chức, cá nhân có liên quan (trực tiếp, hoặc qua

cổng thông tin điện tử); tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến.

- Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

- Thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo văn bản quy phạm

pháp luật.

3. Thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật

- Khảo sát thực tế.

- Lấy ý kiến chuyên gia và các đối tượng liên quan.

- Thẩm tra sơ bộ (Thường trực Hội đồng dân tộc và các ủy ban

của Quốc hội)

- Thẩm tra chính thức (hội nghị toàn thể)

4. Báo cáo thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật

- Lần 1: Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo thẩm tra sơ bộ.

 

Chính trị bình dân | 399

- Lần 2: Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo thẩm tra

chính thức.

5. Thảo luận ở Quốc hội

- Thảo luận ở tổ

- Thảo luận ở hội trường

6. Tiếp thu, sửa chữa

- Cơ quan thẩm tra và Ban Soạn thảo phối hợp sửa chữa dự thảo

văn bản quy phạm pháp luật theo ý kiến đại biểu Quốc hội.

- Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận, thông qua báo cáo tiếp

thu, giải trình.

7. Quốc hội thảo luận và biểu quyết thông qua

- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình.

- Quốc hội thảo luận lần hai.

- Quốc hội biểu quyết về một số điều và toàn văn văn bản quy

phạm pháp luật.

Ta có thể nhìn thấy ở quy trình này một số vấn đề: Ngay từ đầu,

chương trình xây dựng pháp luật đã căn cứ vào... nghị quyết của

đảng Cộng sản Việt Nam, chứ không phải vào nhu cầu của người

dân, của cuộc sống. Tức là, việc làm luật chỉ có ý nghĩa minh họa

đường lối, minh họa và hiện thực hóa các nghị quyết của đảng

Cộng sản.

Bên cạnh đó, chương trình xây dựng pháp luật cũng dựa vào các

sáng kiến pháp luật, nhưng những sáng kiến pháp luật này thì

không phải ai cũng đưa ra được, và không tồn tại cơ chế để người

dân, nếu có ý tưởng lập pháp, có thể vận động đưa ý tưởng của

mình ra Quốc hội.

Quốc hội của nước CHXHCN Việt Nam chỉ bao gồm thành

viên của một đảng duy nhất – đảng Cộng sản Việt Nam – nên tính

đại diện của nó rất thấp, nếu không muốn nói rằng nó không hề đại

 

400 | Phạm Đoan Trang

diện cho người dân. Khả năng giám sát, kiểm soát hành pháp của

nó cũng gần như bằng không, chủ yếu do cơ chế độc đảng và một

phần nhỏ là do nó chỉ có một viện. (Thông thường, có hai viện

cùng giám sát và kiểm soát hành pháp thì quốc hội sẽ ít có khả

năng bị chính phủ lấn át, chi phối hơn).

 

Bài đọc

 

10 ĐẦU VIỆC CỦA MỘT ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

 

Trịnh Hữu Long 1

 

Đối với các đại biểu Quốc hội lần đầu góp mặt tại nghị trường, việc

tìm hiểu các hoạt động của một đại biểu Quốc hội là tối quan trọng.

Bất luận bạn là đại biểu do Đảng cử hay do tự ứng cử, kể từ tháng

7 này, cuộc đời bạn sẽ sang một trang hoàn toàn khác: bạn trở

thành 1 trong 500 người quyết định những vấn đề hệ trọng nhất

của quốc gia.

Xin nhắc lại: những vấn đề hệ trọng nhất của cả một quốc gia,

gồm có gần 100 triệu người.

Hãy tạm quên đi chuyện đảng Cộng sản Việt Nam chi phối

Quốc hội ra sao. Tất cả mọi người đã biết chuyện đó rồi. Tuy nhiên,

một khi dãy nút bấm còn ở trong tay bạn, chỉ có bạn mới là người

quyết định sẽ bấm nút nào.

Sau đây là danh sách những việc cần bạn làm với tư cách là một

đại diện của dân.

Trước hết, danh sách công việc này sẽ phải dựa trên ba chức

năng của Quốc hội. Là một thành viên của Quốc hội, công việc của

bạn là thực hiện ba chức năng đó, bao gồm:

1. Bài đã đăng trên Luật Khoa tạp chí ngày 14/2/2016, tại địa chỉ: http://luatkhoa.

org/2016/02/10-dau-viec-cua-mot-dai-bieu-quoc-hoi/

 

402 | Phạm Đoan Trang

1. Làm và sửa đổi Hiến pháp, làm và sửa đổi luật.

2. Quyết định các vấn đề quan trọng.

3.Thực hiện quyền giám sát tối cao.

Nghe vậy có vẻ hơi chung chung. Vậy cụ thể thực hiện những

chức năng này là làm gì? Hiến pháp nói rõ chuyện đó.

1. QUYẾT ĐỊNH CHIẾC GHẾ CỦA NHỮNG NGƯỜI QUYỀN LỰC

NHẤT (NGOẠI TRỪ NGƯỜI QUYỀN LỰC NHẤT)

Ok. Bạn đã từng bầu lớp trưởng, tổ trưởng dân phố, bí thư đoàn

thanh niên, bí thư các đảng bộ, cán bộ chính quyền địa phương và

rất nhiều các chức danh khác. Nhưng ở đây chúng ta đang nói đến

một chuyện to tát hơn nhiều: chiếc ghế của các ông bà Chủ tịch

nước, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc Hội. Đó là chưa kể

một loạt những chiếc ghế khác ít quyền lực hơn ở cấp trung ương

như Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm

sát Nhân dân Tối cao, các bộ trưởng, các chủ nhiệm ủy ban của

Quốc Hội,...

Không những thế, là đại biểu Quốc hội, bạn có quyền yêu cầu

bỏ phiếu tín nhiệm hay bỏ phiếu phế truất các ông bà này. Nghe có

vẻ lạ tai nhưng chuyện này đã từng xảy ra hồi tháng 11/2010. Khi

đó, đại biểu Nguyễn Minh Thuyết đã yêu cầu Quốc hội bỏ phiếu

tín nhiệm đối với Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng liên

quan đến vụ Vinashin nhưng không thành.

2. LÀM LUẬT

Quốc hội chắc chắn không phải là nơi viết nội quy cho một nhóm

vài chục hay vài trăm người. Luật bạn viết ra hay thông qua được

áp dụng cho toàn dân. Quốc hội khóa XIV sẽ là một nơi khắc

nghiệt với các nhà lập pháp, bởi khối lượng công việc và thách thức

khổng lồ.

Bạn cần phải sẵn sàng cho việc bỏ phiếu thông qua Hiệp định

Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Rồi nếu TPP chính thức có

 

Chính trị bình dân | 403

hiệu lực, trong suốt nhiệm kỳ 5 năm của bạn, một trong những

nghị trình chính sẽ là nội địa hóa toàn bộ quy định của TPP. Hãy

chắc là bạn nắm rõ nội dung của hiệp định này.

Quốc hội khóa cũ cũng để lại cho bạn và 499 đồng nghiệp khác

một món nợ khổng lồ các đạo luật cần được thông qua, trong đó có

nhiều món khá là “khoai”. Ví dụ: Luật Biểu tình, Luật về Hội, Luật

Tín ngưỡng - Tôn giáo, Luật về Máu và Tế bào gốc, Luật Hỗ trợ

Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ, Luật Quản lý Ngoại thương,...

Đó là chưa kể sẽ có nhiều đạo luật mới phát sinh, mà một trong

số đang ở trong tầm ngắm là luật về đảng.

Bạn cũng nên dự liệu sẵn khả năng Quốc hội khóa XIV sẽ phải

sửa đổi hoặc ban hành một bản hiến pháp mới. Vào thời kỳ nhiều

biến động này, không gì là không thể.

Vốn dĩ lâu nay đại biểu Quốc hội Việt Nam cực kỳ thụ động

trong việc làm luật, hầu như chỉ chờ chính phủ trình sang dự luật

gì thì xem xét cái đó. Đã đến lúc mọi chuyện cần phải thay đổi. Bạn

hãy trở thành người chủ động đưa ra các sáng kiến lập pháp và các

dự thảo luật mới. Rất nhiều vấn đề nhức nhối như lạm dụng đồ

uống có cồn, thực phẩm độc hại, bệnh viện quá tải hay khủng

hoảng chất lượng giáo dục đang chờ bạn giải quyết.

Có như vậy người ta mới gọi bạn là “nhà lập pháp” theo nghĩa

đầy đủ của từ này được.

Công cụ không thể thiếu trong công việc của bạn là Luật Ban

hành Văn bản Quy phạm Pháp luật 2015, sẽ có hiệu lực từ ngày

01/7/2016 và kế hoạch xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016.

3. QUYẾT ĐỊNH NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Bạn có biết dự toán ngân sách nhà nước năm 2016 là bao nhiêu

không? Hơn 1 triệu tỷ đồng, tức là khoảng 45 tỷ USD. Để so sánh,

bạn cần biết người giàu nhất Việt Nam, Phạm Nhật Vượng, cũng

chỉ có trên dưới 1 tỷ USD.

 

404 | Phạm Đoan Trang

Vào phiên họp cuối mỗi năm, thường rơi vào tháng 11, mỗi đại

biểu Quốc hội sẽ phải bấm nút quyết định dự toán ngân sách nhà

nước năm sau. Bạn phải làm quen với các khái niệm chính sách tài

khóa, thu nội địa, thu từ dầu thô, thu từ viện trợ, thu cân đối hoạt

động xuất nhập khẩu, chi thường xuyên, chi đầu tư – phát triển, chi

phát triển sự nghiệp, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, bội chi, thâm

hụt ngân sách, và rất nhiều khái niệm tài chính công khác.

Dĩ nhiên, sau mỗi năm tài khóa, cũng chính bạn sẽ là người

bấm nút thông qua báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước của

năm đó. Việc này thường diễn ra sau hơn một năm kể từ khi kết

thúc năm tài khóa.

4. QUYẾT ĐỊNH TRẦN NỢ CÔNG

Vào đầu mỗi khóa Quốc hội, một trong những “bài tập” khó nhằn

cho mỗi đại biểu Quốc hội là quyết định chỉ tiêu phát triển kinh tế

– xã hội cho cả 5 năm sau đó bằng việc thông qua một nghị quyết.

Một trong những con số quan trọng nhất của bản nghị quyết đó

là tỉ lệ nợ công.

Năm 2011, Quốc hội khóa XIII đặt ra con số 65% GDP. Nhiều

thống kê cho thấy tổng nợ công của Việt Nam đã sắp chạm cái trần

này. Đặc biệt trong bối cảnh phải cắt giảm các dòng thuế nhập

khẩu do quy định của các hiệp định thương mại tự do (FTA), một

chính phủ đã quen chi tiêu quá tay cho một bộ máy quá cồng kềnh

sẽ muốn vay thêm tiền để trang trải cho các hoạt động của mình.

Do đó, chính phủ có thể sẽ gây sức ép buộc Quốc hội phải nới

trần nợ công, nghĩa là cho phép họ vay thêm tiền. Liệu bạn có thỏa

hiệp với một chính phủ chi tiêu quá dễ dãi như vậy hay không? Vào

thời điểm quyết định, phiếu biểu quyết của bạn sẽ hoặc là đẩy

chính phủ vào thế phải cắt giảm chi tiêu, hoặc là đẩy đất nước chìm

sâu vào nợ nần và có thể sau cùng sẽ vỡ nợ.

Tất nhiên rồi, bạn buộc phải nắm rõ Luật Quản lý Nợ công.

 

Chính trị bình dân | 405

 

5. QUYẾT ĐỊNH VỀ THUẾ

Thuế là thứ tạo ra mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Không

có thuế thì không có nhà nước. Có thuế thì người dân và doanh

nghiệp sẽ thấy túi tiền của họ vơi đi một chút. Tìm được điểm cân

bằng hợp lý để định ra một loại thuế, một mức thuế là việc không

đơn giản. Làm sai có thể dẫn đến rối loạn xã hội. Và bạn là người

phải làm cái việc đó.

Như đã nói ở trên, việc Việt Nam tham gia các hiệp định

thương mại tự do, đặc biệt là TPP và Cộng đồng Kinh tế ASEAN,

sẽ tháo dỡ rất nhiều các dòng thuế nhập khẩu. Điều này đương

nhiên sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách. Trong khóa

XIV của bạn, Chính phủ và một số nhóm lợi ích nào đó sẽ tìm

cách nghĩ ra các loại thuế và phí mới để bù đắp nguồn thu và gây

sức ép để Quốc hội thông qua. Bạn sẽ đứng ở giữa Chính phủ và

người dân trong vấn đề nhạy cảm nhất này của quốc gia. Đây rõ là

chuyện không dễ dàng.

6. PHÊ CHUẨN CÁC HIỆP ƯỚC QUỐC TẾ

Bạn đã từng nghe nói với Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em,

Công ước Chống Tra tấn, Hiệp định Thương mại Tự do Việt - Mỹ,

các hiệp định WTO, và sắp tới là TPP.

Bạn cũng từng nghe nói đến việc bộ trưởng thương mại các

nước đã ký kết Hiệp định TPP ngày 04/02 vừa qua. Vậy tại sao TPP

vẫn chưa có hiệu lực?

Lý do là vì TPP, cũng như nhiều (chứ không phải tất cả) các hiệp

ước quốc tế khác, phải đi qua một cửa nữa, trước khi có hiệu lực:

được quốc hội các nước liên quan phê chuẩn. Hãy chắc chắn là bạn

nắm được Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện Điều ước Quốc tế.

7. QUYẾT ĐỊNH PHÊ DUYỆT CÁC DỰ ÁN LỚN

Dự án lớn được gọi chính thức là “dự án quan trọng quốc gia”, bao

gồm các dự án sử dụng vốn đầu tư công từ 10.000 tỷ đồng trở lên,

 

406 | Phạm Đoan Trang

dự án nhà máy điện hạt nhân, các dự án di dân tái định cư từ

20.000 người trở lên ở miền núi hoặc 50.000 người trở lên ở các

vùng khác...

Các dự án này phải qua được cửa Quốc hội mới được làm.

Quốc hội đã từng quyết các dự án đường dây 500 kV, dự án đường

Hồ Chí Minh hay dự án nhà máy thủy điện Sơn La.

Trên bàn làm việc của bạn trong khóa XIV có thể sẽ có dự án

đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Việc thẩm tra những dự án như thế

này hoàn toàn không đơn giản và sẽ gây rất nhiều tranh cãi. Ít nhất

bạn phải nắm rõ Luật Đầu tư Công.

8. QUYẾT ĐỊNH THÀNH LẬP, CHIA TÁCH, SÁP NHẬP ĐỊA GIỚI

HÀNH CHÍNH CẤP TỈNH

Năm 2008, Quốc hội khóa XII đã gây sốc khi sáp nhập toàn bộ tỉnh

Hà Tây và một số vùng của tỉnh Hòa Bình và tỉnh Vĩnh Phúc vào

Hà Nội, biến Hà Nội thành một trong những thủ đô nhiều ruộng

đồng nhất thế giới.

Cho đến giờ, vẫn chưa có giải thích thấu đáo và rõ ràng nào về

lý do dẫn đến quyết định này, cũng như tác động của nó đến cuộc

sống của người dân các vùng liên quan.

Điều tương tự có thể lặp lại và bạn sẽ là người góp phần quyết

định chuyện đó.

9. QUYẾT ĐỊNH VẤN ĐỀ CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH; QUY

ĐỊNH VỀ TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP, CÁC BIỆN PHÁP ĐẶC BIỆT

KHÁC BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH QUỐC GIA

Khó mà đoán được Trung Quốc sẽ làm những gì trên Biển Đông

và đất liền. Và liệu biên giới với Cambodia có yên ổn trong 5 năm

tới hay không? Không ai biết. Nhưng khi có sự biến xảy ra, với tư

cách là đại biểu Quốc hội, bạn có trọng trách đặc biệt trong việc

quyết định cách giải quyết vấn đề.

 

Chính trị bình dân | 407

10. GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC

Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ

quan nhà nước. Chắc bạn đã từng thấy các đại biểu Quốc hội chất

vấn các quan chức cấp cao như Thủ tướng, các bộ trưởng, Chánh

án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân

tối cao và nhiều quan chức khác. Đó chính là một trong những

hoạt động giám sát.

Xem xét và thảo luận các báo cáo công tác của các quan chức

cấp cao cũng là giám sát. Bên cạnh đó, đại biểu Quốc hội có thể

tham gia các đoàn giám sát chuyên đề về một vấn đề cụ thể nào đó,

ví dụ vấn đề xét xử oan sai hay chương trình mục tiêu quốc gia xây

dựng nông thôn mới.

 

* * *

 

Trên đây là một số đầu việc quan trọng mà một đại biểu Quốc

hội phải làm. Bạn có thể xem đầy đủ các đầu việc này tại Điều 70

của Hiến pháp hiện hành về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội.

Đọc kỹ Luật Tổ chức Quốc hội cũng không thừa.

Bài viết này đưa ra rất nhiều văn bản luật và cả Hiến pháp để

bạn áp dụng. Tuy nhiên, cũng đừng quên rằng, với tư cách là một

đại biểu Quốc hội, bạn có thể thay đổi tất cả những văn bản đó.

Chúc bạn thành công.

 

Bài đọc

 

CÁCH ĐO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI1

 

Những năm gần đây, gần như trước kỳ họp Quốc hội nào, câu

chuyện nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội cũng được nêu

ra. Có lẽ đã tới lúc cần đặt vấn đề một cách “sát sườn” hơn: Làm thế

nào để cân, đong, đo, đếm được chất lượng ấy?

Hiệu quả hoạt động của cơ quan lập pháp phụ thuộc vào chất

lượng của đại biểu Quốc hội và mức độ thực quyền của Quốc hội

đối với cơ quan hành pháp. Nếu nói hiện nay năng lực lập pháp ở

ta còn yếu, thì cứ phải tiên trách đại biểu, hậu trách cái cơ chế quyết

định thực quyền của Quốc hội.

TIÊN TRÁCH ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

Điểm chung dễ nhận thấy ở đa số đại biểu Quốc hội của ta là tính

hiền, hiểu theo nghĩa ít nói, ít phát biểu trong phiên họp toàn thể, và

ít tiếp xúc báo chí. Có lẽ vì thế mà mỗi khóa, có vài trăm đại biểu

Quốc hội nhưng chỉ vài gương mặt “nổi”: Nguyễn Ngọc Trân, Tôn

Nữ Thị Ninh (khóa XI), Nguyễn Minh Thuyết, Dương Trung Quốc,

Nguyễn Đình Xuân (khóa XII)... Các đại biểu này nổi bật giữa hàng

trăm đại biểu là bởi họ thường xuyên có ý kiến chất vấn trong mỗi

kỳ họp Quốc hội, luôn sẵn sàng trả lời phỏng vấn của giới truyền

thông, được công luận (báo chí và dân chúng) nhắc tới nhiều.

1. Bài của Phạm Đoan Trang, đăng trên chuyên trang Tuần Việt Nam của báo điện tử

VietNamNet ngày 20/10/2009.

 

410 | Phạm Đoan Trang

Tình trạng này, quả thật, hơi bất bình thường, vì đúng ra việc

thay mặt cử tri chất vấn và giám sát hoạt động của Chính phủ, cũng

như duy trì tiếp xúc với các kênh báo chí để truyền tải thông tin tới

công luận, phải là một phần việc đương nhiên của các đại biểu. Đại

biểu Quốc hội chẳng nên nổi tiếng vì đã làm những nhiệm vụ

đương nhiên của mình.

Tương tự, đã chất vấn thì dễ phải quyết liệt, cho nên khi dư luận

trầm trồ thấy một số ít ĐB nêu trên hay đưa ra các câu hỏi gai góc,

ta chẳng biết nên buồn hay vui: Hỏi vậy mà đã là “mạnh bạo quá”,

“đụng chạm quá” hay sao?

Vì đa số các đại biểu “hiền” như thế, nên những người quan tâm

theo dõi các kỳ họp Quốc hội khó mà hài lòng. Cử tri Trần Trinh

Mạnh (phường Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội) nhận xét: “Người dân

đã bầu các đại biểu để đại diện cho quyền lợi và tiếng nói của họ,

trong khi dân có rất nhiều bức xúc mà đại diện của mình lại thường

im lặng trên diễn đàn Quốc hội. Đây là điều khó chấp nhận”.

Im lặng ngồi dự họp đã đành, còn có những đại biểu Quốc hội

im lặng không dự. Cử tri Nguyễn Phi Long (phường Điện Biên, Ba

Đình, Hà Nội) đã bày tỏ sự bức xúc trước hiện tượng nhiều phiên

làm việc của Quốc hội trống rất nhiều ghế: “Đại biểu nào vắng mặt

nhiều thì không nên tham gia Quốc hội”.

Hiện tượng này được phỏng đoán là do các đại biểu đó bận việc

khác, bởi lẽ tới 70% đại biểu Quốc hội của ta hiện nay là đại biểu

kiêm nhiệm. Nhiều đại biểu còn làm Bộ trưởng, Thứ trưởng trong

cơ quan hành pháp, nên quỹ thời gian tất nhiên phải san sẻ cho cả

hai việc “đá bóng” và “thổi còi”.

Còn sự “im lặng khó hiểu” của số đông đại biểu Quốc hội trước

hội trường thực ra cũng không quá khó hiểu. Một gương mặt kỳ

cựu trong số các đại biểu Quốc hội khóa XII, ông Nguyễn Minh

Thuyết, từng giải thích rằng có những đại biểu là người địa phương,

ít có điều kiện tham dự thường xuyên những sự kiện chính trị lớn

như họp Quốc hội.

 

Chính trị bình dân | 411

“Đã vậy, mà lại phải tham gia ý kiến về các vấn đề kinh tế - xã

hội phức tạp thuộc những lĩnh vực không phải chuyên môn của

mình, thì họ dễ cảm thấy e ngại” - ông Thuyết cho biết.

Có những đại biểu Quốc hội còn rất trẻ. Có đại biểu là người

dân tộc thiểu số. Khóa XII, lại có người còn đang đi tìm việc khi

được bầu làm đại biểu Quốc hội. Đặc biệt hơn nữa, như Chủ tịch

Quốc hội Nguyễn Phú Trọng từng “tiết lộ”: “Không loại trừ cả

trường hợp nhiều người không thích làm đại biểu đâu nhưng vì

công việc nên phải làm”.

Những đại biểu như vậy, nếu im lặng ngồi dự phiên họp toàn

thể của Quốc hội, cũng là điều dễ hiểu.

HẬU TRÁCH CƠ CHẾ

Tuy nhiên, sẽ là không thỏa đáng nếu quy hoàn toàn chất lượng

hoạt động của cơ quan lập pháp cho năng lực của đại biểu Quốc

hội. Nhìn vào danh sách đại biểu Quốc hội các khóa từ khóa 9 tới

nay (khóa XII), có thể thấy mặt bằng trình độ của đại biểu Quốc

hội đã tăng lên đáng kể (tạm theo một tiêu chí là bằng cấp):

y Khóa IX (1992-1997): 395 đại biểu, trong đó 222 người tốt

nghiệp đại học hoặc sau đại học, chiếm tỷ lệ 56,2%;

y Khóa X (1997-2002): 450 đại biểu, trong đó 411 người tốt

nghiệp đại học hoặc sau đại học, chiếm tỷ lệ 91,33%;

y Khóa XI (2002-2007): 498 đại biểu, trong đó 465 người tốt

nghiệp đại học hoặc sau đại học, chiếm tỷ lệ 93,37%;

y Khóa XII (2007-2011): 493 đại biểu, trong đó 473 người tốt

nghiệp đại học hoặc sau đại học, chiếm tỷ lệ 95,94%

 

(nguồn: Văn phòng Quốc hội)

Bên cạnh đó, có một thực tế là vào những kỳ họp đầu tiên của

mỗi khóa Quốc hội, các đại biểu thường vào cuộc rất sôi nổi. Càng

các kỳ họp về sau, không khí càng bớt “nóng”, và rồi đến khi nhiều

vấn đề không được giải quyết triệt để như mong đợi của một bộ

 

412 | Phạm Đoan Trang

phận cử tri, thì câu hỏi về chất lượng hoạt động của Quốc hội lại

tiếp tục được đặt ra.

Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII vừa qua, báo cáo kinh tế - xã

hội được trình Quốc hội khá muộn, báo cáo về dự án khai thác

bô-xít Tây Nguyên phải được “nhắc” đôi lần, Chính phủ mới gửi

Quốc hội. Chương trình nghị sự cũng không có nội dung thảo

luận nào riêng về đại dự án này. Trong khi một trong các chức

năng hiến định của lập pháp là “quyết định các vấn đề quan trọng

của đất nước”.

Tương tự, mặc dù Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội

cũng thấy rõ, trong gói kích cầu của Chính phủ có những khoản

thuộc thẩm quyền Quốc hội và phải có ý kiến Quốc hội, nhưng chủ

trương kích cầu đã được Chính phủ quyết định nhanh gọn, và Ủy

ban thì đã nhất trí cao, tán thành nhanh.

Gói kích cầu chiếm gần 10% GDP mà được thông qua mau

chóng như vậy, chứng tỏ công tác quản lý vĩ mô ở ta nhiều khi cũng

khá... thuận lợi, nhất là nếu so sánh với một số quốc gia khác. Ở

khía cạnh ngược lại, điều này cho thấy vai trò của Quốc hội trong

các vấn đề quan trọng của đất nước hãy còn nặng tính hình thức.

Nhìn vào hoạt động của cơ quan lập pháp, Tiến sĩ Hoàng Ngọc

Giao (Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển) đặt

câu hỏi: “Liệu dự án bô-xít, một dự án nằm trên địa bàn hết sức

quan trọng không chỉ về văn hóa, môi trường mà còn với an ninh,

quốc phòng; việc mở bể than ở châu thổ sông Hồng, hay việc tung

ra các gói kích cầu của Chính phủ, có phải là những vấn đề trọng

đại của đất nước hay không? Nếu phải, quyền của Quốc hội, quyền

thật sự ấy, trong những vấn đề đó là gì, tới đâu?”.

Câu trả lời nằm ở cơ chế cho sự vận hành của Quốc hội, cơ chế

đảm bảo quyền lực thực sự của Quốc hội.

QUỐC HỘI CẦN TỰ “LÀM LUẬT”

Cứ như hiện nay thì ngay trong quy chế hoạt động của Quốc hội,

 

Chính trị bình dân | 413

cũng đã có những điểm hạn chế năng lực chất vấn, kiểm tra và

giám sát của đại biểu.

Một ví dụ đã được báo chí nhắc tới nhiều là quy định về đề xuất

bỏ phiếu. Để một vấn đề được đưa ra biểu quyết tại Quốc hội, cần

một trong bốn điều kiện:

• Có đề nghị của Chính phủ;

• Có đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

• Có đề nghị của một ủy ban chuyên trách liên quan trong Quốc

hội;

• Có đề nghị của tối thiểu 20% số đại biểu Quốc hội.

Trong số này, điều kiện “tối thiểu 20% số đại biểu Quốc hội” rất

có thể mâu thuẫn với thực tế. Như đại biểu Dương Trung Quốc

nhận định: “Quốc hội có tới 92% là đảng viên, mà đã là đảng viên

thì khi quyết định các vấn đề, phải tuân thủ theo định hướng của

tổ chức”. Nghĩa là, trên thực tế, khó mà đạt được tỷ lệ 20% số đại

biểu Quốc hội nhất trí đưa một vấn đề ra biểu quyết.

Do vậy, để tăng tính hiệu quả, cơ quan lập pháp cần xây dựng cơ

chế cho sự vận hành của chính mình. Nói cách khác, trước hết, các

nhà làm luật cần tự... cởi trói.

ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO

Bên cạnh việc Quốc hội hoàn thiện cơ chế và bản thân mỗi đại biểu

tự nâng cao năng lực bản thân, rất cần có sự đổi mới phương thức

lãnh đạo để đảm bảo Quốc hội có thực quyền.

Sẽ khó có một quốc hội hiệu quả nếu như với mỗi quyết định

“đã rồi” của Chính phủ, “Quốc hội cũng chỉ có thể nhắc nhở, lưu ý

các cơ quan Chính phủ “rút kinh nghiệm” thôi”, như đại biểu

Nguyễn Minh Thuyết từng thừa nhận. “Nhiều khi, trong suy nghĩ

thì mình bất bình đấy, nhưng khi chất vấn mình không được thể

hiện thái độ quá. Chất vấn xong, đưa ý kiến của mình xong, Chính

phủ không làm theo thì mình cũng phải chấp nhận, vì thực ra ý

 

414 | Phạm Đoan Trang

kiến của đại biểu Quốc hội cũng chỉ là một ý kiến thôi” - ông Thuyết

nhấn mạnh.

Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho cử tri, cho nhân dân.

Nếu ý kiến của đại biểu Quốc hội “cũng chỉ là một ý kiến”, thì nghĩa

là tiếng nói của nhân dân cũng chỉ... như vậy mà thôi.

Cuối cùng, mặc dù Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng cho

rằng thời gian qua Quốc hội đã phát huy khá tốt vai trò giám sát

hành pháp, nhưng thực tế là những phản ứng của Quốc hội lại chỉ

đến sau khi Chính phủ đã có quyết định (các dự án bô-xít, gói kích

cầu, mở bể than sông Hồng), và về căn bản là đồng thuận.

Cách đo chuẩn xác về hiệu quả hoạt động của Quốc hội, đó là

trả lời câu hỏi: Mỗi đại biểu Quốc hội, mỗi cử tri, đã cảm thấy tiếng

nói của mình có khả năng thay đổi chính sách Nhà nước hay chưa?

Một khi đại biểu chưa cảm thấy “sức mạnh” của mình, thì

chứng tỏ Quốc hội vẫn chưa thực hiện tốt vai trò “cơ quan quyền

lực cao nhất” được cử tri đặt niềm tin và có bổn phận thực hiện

niềm tin ấy.

29/8/2018

Phạm Đoan Trang

Theo https://luatkhoa.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 XXXXXX

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP   Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ máy nhà nước. Thực thể này...