Thứ Năm, 11 tháng 12, 2025

Chính trị bình dân 5 XXXXXX

Chính trị bình dân 5

Chương III

HÀNH PHÁP

 

Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ

máy nhà nước. Thực thể này thường được gọi bằng cái tên “chính

phủ”. Trên hình thức, nó dường như là nhánh nổi bật nhất trong ba

nhánh quyền lực. Thậm chí, nói đến nhà nước, nhiều người chỉ

nghĩ đến chính phủ mà quên mất hai nhánh lập pháp, tư pháp;

người ta đồng nhất luôn chính phủ với nhà nước, chính quyền.

Vậy cơ quan hành pháp, hay chính phủ, là gì? Một cách ngắn

gọn nhất, đó là một tổ chức mà hoạt động cốt lõi là xây dựng chính

sách công và lãnh đạo, chỉ huy, giám sát, để bảo đảm rằng chính

sách đó được thực thi. Thành viên của nó (các quan chức) và bản

thân nó được bầu chọn thông qua bỏ phiếu (bầu cử) hoặc được chỉ

định, và làm việc theo nhiệm kỳ.

Để hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xem xét các chức năng cụ thể của

một chính phủ: 1. Đại diện cho quốc gia; 2. Ban hành chính sách,

lãnh đạo, điều khiển việc thực thi chính sách; 3. Đối phó với khủng

hoảng của đất nước.

 

* * *

CHỨC NĂNG CỦA CHÍNH PHỦ

1. Đại diện cho quốc gia

Chính phủ là tổ chức đại diện cho một quốc gia. Các nhân vật

 

416 | Phạm Đoan Trang

như tổng thống hay chủ tịch nước, thủ tướng, bộ trưởng, đều là

những gương mặt đại diện cho cả đất nước trong quan hệ quốc tế

nói chung, trong các sự kiện ngoại giao, ký kết hiệp định, hiệp

ước nói riêng. Sự đại diện này mang tính chất hình thức và biểu

tượng rất cao. (Còn trên thực tế, rất có thể họ chẳng đủ tư cách

đại diện cho đất nước, ví dụ nếu họ là một chính quyền không do

dân bầu nên).

2. Ban hành chính sách, lãnh đạo, điều khiển việc thực thi

Chức năng chính của cơ quan hành pháp là “hành”, tức là ban

hành, điều hành, thi hành chính sách. Chính phủ là nơi xây dựng

các chương trình kinh tế, xã hội của cả đất nước và lãnh đạo quá

trình triển khai chúng, cũng như giám sát cả quá trình này để bảo

đảm đạt được mục tiêu chính sách.

Bạn có thể thấy yếu tố “ban hành chính sách” rất giống với hoạt

động lập pháp của quốc hội. Đúng là như vậy. Cơ quan hành pháp

có quyền lực lập pháp; nó có thể ban hành nghị định, sắc lệnh,

pháp lệnh, quyết định, chỉ thị, v.v. Sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng chức

năng chính của quốc hội là làm luật, còn chính phủ thi hành luật:

Như đã nói ở Chương II, “Lập pháp”, thời nay, vai trò làm luật của

quốc hội ngày càng giảm mà vai trò giám sát chính phủ ngày càng

tăng. Trong khi đó, về phần chính phủ, vai trò lãnh đạo, chỉ huy,

điều phối việc thực thi tiến trình chính sách cũng ngày càng mở

rộng. Ở những đất nước thiếu dân chủ, cơ quan lập pháp không đại

diện cho dân, thì chính phủ hoàn toàn lấn át quốc hội. Bạn có thể

thấy Việt Nam dưới thời cộng sản, chính phủ đồng nhất với “Đảng

và Nhà nước”, bộ máy nhà nước phình to và can thiệp vào đủ việc

thuộc về xã hội dân sự, và quốc hội chỉ là nơi hợp thức hóa và triển

khai các nghị quyết của đảng Cộng sản.

3. Đối phó với khủng hoảng của đất nước

Khi xảy ra khủng hoảng trong nước hoặc trong chính trị quốc tế

mà có liên quan đến đất nước (thiên tai, chiến tranh...), chính phủ

 

Chính trị bình dân | 417

có chức năng ra quyết định và hành động khẩn cấp để đương đầu

và xử lý khủng hoảng.

Lệ thường, dân chúng ở các vùng bị thiên tai luôn mong chờ

nhà nước đứng ra ứng cứu. Tính chính danh của một chính phủ

– đối với người dân trong nước và đối với cộng đồng quốc tế – có

thể tùy thuộc vào cách ứng phó của họ trước thiên tai. Đó là bởi vì

chính phủ là thực thể duy nhất có thể huy động lượng lớn sức

người sức của vào dự báo, phòng chống thiên tai; cứu giúp dân khi

có thiên tai và tái thiết sau khi thiên tai đã qua đi.

Tất nhiên, ngoài chính phủ còn có khu vực xã hội dân sự – tức

các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế, các nhóm thiện

nguyện, nhà thờ, nhà chùa v.v... Nhưng, chính phủ vẫn có khả

năng tập hợp lực lượng mạnh mẽ hơn cả.

Người dân luôn có xu hướng trông đợi chính phủ hành động. Chính vì

thế, thiên tai, địch họa là cơ hội cho chính phủ tạo thiện cảm và uy tín

chính trị nơi dân chúng.

Tại Mỹ, sau vụ khủng bố 11/9/2001, uy tín của Thị trưởng New York

Rudolph Giuliani tăng vọt, do chính quyền New York đã đưa ra được

những biện pháp hiệu quả để khắc phục khủng hoảng. Tương tự, sau đợt

động đất hồi tháng 5/2008 ở Tứ Xuyên, uy tín của Thủ tướng Trung Quốc

Ôn Gia Bảo cũng tăng đáng kể do ông đã rất nhiệt tình và thường xuyên

có mặt tại nơi xảy ra thảm họa.

Mùa đông năm 2008, do mưa lũ kéo dài, ở Hà Nội xảy ra một trận lụt lịch

sử. Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị nói với VietNamNet trong

một cuộc phỏng vấn qua điện thoại: “Tôi thấy nhân dân ta bây giờ so với

ngày xưa ỷ lại Nhà nước lắm. Cứ chờ trên về, chờ cung cấp cái này, hỗ trợ

cái kia chứ không đem hết sức ra tự làm”.* Phát biểu của ông Nghị gây

phản ứng giận dữ từ nhiều độc giả.

* Bí thư Hà Nội: “Thiên tai thì không tính trước được”, Lê Nhung/ VietNamNet, 4/11/2008.

Tuy nhiên, tiềm ẩn nguy cơ không nhỏ nếu chính phủ lạm

quyền, lấy cớ đối phó với tình huống khẩn cấp.

“Thường thường cơ quan lập pháp sẽ trao quyền gần như độc

đoán cho hành pháp trong thời gian có chiến tranh, hoặc cho hành

pháp “quyền lực trong tình huống khẩn cấp” khi đất nước phải đối

 

418 | Phạm Đoan Trang

diện với những khủng hoảng nội bộ như thiên tai, khủng bố, sản

xuất rối loạn và bất ổn dân sự. Tuy nhiên, rõ ràng là quyền tuyên bố

“tình trạng khẩn cấp” và áp đặt kiểu cai trị, điều hành rất dễ bị lạm

dụng. Không hiếm việc chính phủ tận dụng các quyền này để làm

suy yếu hoặc xóa bỏ lực lượng đối lập chính trị, dưới vỏ bọc là hiến

pháp” (Andrew Heywood). 1

Một ví dụ ở gần Việt Nam là Philippines dưới thời chính quyền

Marcos (1965-1986). Vào ngày 23/9/1972, viện lý do phiến quân

cộng sản có vũ trang nổi dậy nhiều, Tổng thống Ferdinand Marcos

tuyên bố đưa Philippines vào tình trạng thiết quân luật. Trong thời

gian thiết quân luật đó, ông ta sửa hiến pháp, bịt miệng báo chí, đàn

áp đối lập, cai trị rất hà khắc nhân danh chống cộng. Philippines đã

phải sống dưới ách độc tài của Marcos cho đến khi cuộc Cách

mạng Nhân dân 1986 lật đổ được ông ta.

* * *

 

NGUYÊN THỦ QUỐC GIA VÀ NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CHÍNH PHỦ

Đến đây chúng ta cần phải dành riêng một phần của chương này để

nói về hai ngôi sao của chính trường: nguyên thủ quốc gia (vua/ nữ

hoàng, tổng thống, quốc trưởng, hoặc chủ tịch nước) và người đứng

đầu chính phủ (thủ tướng). Sở dĩ gọi là ngôi sao vì đây chắc chắn là

hai nhân vật nổi bật nhất trong bất kỳ nền chính trị nào, hai cá nhân

có tính đại diện cao nhất cho nhà nước trên trường quốc tế.

Nguyên thủ quốc gia

Nguyên thủ là người đứng đầu nhà nước về mặt hình thức. Người

đó có thể là vua (như đức vua Thái Lan), nữ hoàng (nữ hoàng

Anh), là tổng thống (tổng thống Mỹ), hoặc chủ tịch nước

(CHXHCN Việt Nam). Điều 86 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy

1. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd, Palgrave Foundations, 2007.

 

Chính trị bình dân | 419

định “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước

CHXHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại”.

Nguyên thủ quốc gia là một cương vị có tính hình thức và biểu

tượng rất cao. Do đó, ta thường thấy họ xuất hiện trong các nghi

thức long trọng, buổi lễ, sự kiện chính trị, sự kiện ngoại giao... của

đất nước. Khoản 4 Điều 88 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định

Chủ tịch nước là người có thẩm quyền “quyết định tặng thưởng

huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu

vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch,

trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam”.

Ở Anh, nữ hoàng là người giữ quyền ban tước hiệu hiệp sĩ, như

Nữ hoàng Elizabeth đã phong hiệp sĩ cho danh ca Paul McCartney.

Ở Việt Nam, bạn cũng thấy chủ tịch nước xuất hiện trong các dịp

được coi là rất trang trọng, ví dụ như trao giải thưởng Hồ Chí Minh

hay đọc thư chúc Tết đồng bào lúc giao thừa (thực ra là ghi hình từ

trước và tới thời điểm đó thì đài truyền hình phát sóng).

Vua hay nữ hoàng lên ngôi theo truyền thống (cha/mẹ truyền

con nối). Tổng thống hay chủ tịch nước thì có thể do dân bầu cử

trực tiếp (như ở Mỹ) hoặc do quốc hội bầu chọn. Trường hợp nước

CHXHCN Việt Nam, chủ tịch nước do quốc hội bầu (Khoản 7

Điều 70 Hiến pháp Việt Nam 2013).

Người đứng đầu chính phủ

Cương vị đứng đầu chính phủ - tức đứng đầu cơ quan hành pháp

– là một chức vụ được gọi là thủ tướng hay thủ hiến. Thủ tướng do

nguyên thủ quốc gia chỉ định hoặc do phe đa số trong quốc hội bầu

chọn. Trong trường hợp CHXHCN Việt Nam, thủ tướng là do

“chủ tịch nước đề nghị quốc hội bầu” (Khoản 3, Điều 88 Hiến pháp

Việt Nam 2013).

Đóng cả hai vai trò

Đến đây thì có lẽ bạn đã nhận thấy có những nền chính trị, hay

những quốc gia, trong đó có một cá nhân đóng cả hai vai trò –

 

420 | Phạm Đoan Trang

nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu cơ quan hành pháp. Đó là

tổng thống chế, một trong hai hình thức phổ biến nhất của chế độ

cộng hòa, bên cạnh nghị viện chế. Ví dụ nổi bật nhất là Mỹ. Tổng

thống Mỹ đứng đầu nhà nước, đồng thời cũng là người đứng đầu

chính phủ. Có một số quốc gia khác cũng vậy: Argentina, Brazil,

Venezuela... nhưng do Mỹ là một trong các siêu cường của thế giới

nên chắc chắn Mỹ là ví dụ mà ai nấy đều biết đến. Tổng thống Mỹ

cũng luôn là một ngôi sao trên chính trường quốc tế, là một trong

các nhân vật được báo chí quốc tế chú ý.

Là nguyên thủ quốc gia, tổng thống Mỹ đóng một vai trò mang

tính hình thức và biểu tượng rất cao. Tổng thống là đại diện của

nước Mỹ, hiện thân của tinh thần ái quốc ở xứ hợp chủng, là biểu

tượng của sự đoàn kết dân tộc, ở chừng mực nào đó còn là niềm tự

hào của người dân Mỹ. Ở cương vị ấy, ông ta được kỳ vọng phải

hành xử mẫu mực, công bằng, đạo đức, một lòng phụng sự đất

nước. Ông ta được đòi hỏi phải sẵn sàng giúp đỡ các đảng chính trị

khác trong các hoạt động vì lợi ích chung, trong quan hệ và tiếp xúc

của các đảng đó với Quốc hội.

Đồng thời, tổng thống lại cũng là người đứng đầu cơ quan hành

pháp, chỉ huy quá trình làm ra và thực thi chính sách, và là lãnh đạo

một đảng nào đó (Dân chủ, Cộng hòa...). Với tư cách đứng đầu

hành pháp, tổng thống phối hợp với các bộ và các cơ quan hành

pháp lớn, ví dụ như Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm

(FDA), lãnh đạo tiến trình chính sách.

Tóm lại, ở Mỹ, tổng thống đóng vai trò kép.

Truyền hình và phát thanh ở Mỹ gặp một khó khăn với điều này.

Ví dụ, khi một tổng thống Mỹ phát biểu trên truyền hình quốc gia

mà không phải trả phí cho nhà đài, đảng đối lập có thể sẽ la ó đòi

được lên sóng miễn phí với cùng thời lượng phát hình để đáp lại.

Khi ấy, nhà đài sẽ phải xác định xem tổng thống đã xuất hiện trên

truyền hình với tư cách gì – nguyên thủ quốc gia hay người đứng

đầu chính phủ. Nếu ông ta phát biểu với tư cách nguyên thủ quốc

 

Chính trị bình dân | 421

gia thì đảng đối lập không có lý gì để đòi được lên sóng. Còn nếu

ông ta phát biểu với tư cách lãnh đạo một đảng chính trị (Dân chủ,

Cộng hòa...) thì nguyên tắc công bằng sẽ buộc đài truyền hình phải

để phe đối lập xuất hiện trên sóng một cách tương đương.

1

Ngoài ra, theo Hiến pháp Mỹ, tổng thống còn là tổng tư lệnh các

lực lượng vũ trang. Hiến pháp cho tổng thống quyền này để thực

thi nguyên tắc dân quản quân. Trên cương vị tổng tư lệnh, tổng

thống có quyền huy động quân đội đến bất kỳ nơi đâu và làm bất

kỳ điều gì, kể cả tấn công vũ trang các nước khác. Tuy nhiên, Quốc

hội Mỹ mới được quyền quyết định tình trạng chiến tranh và tuyên

chiến. Ngày 08/12/1941, Tổng thống Franklin Delano Roosevelt đã

đọc một bài diễn văn đầy hùng biện trước Quốc hội Mỹ, đề nghị

Quốc hội tuyên chiến với phát xít Nhật. Bài diễn văn nổi tiếng đến

nỗi sau này nhiều người tưởng lầm rằng Tổng thống Roosevelt trực

tiếp tuyên chiến với Nhật Bản.

Ở Việt Nam, theo Khoản 5, Điều 88 Hiến pháp 2013, Chủ tịch

nước cũng là người thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ

chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Hội đồng này có

toàn quyền quyết định tình trạng chiến tranh, động viên mọi lực

lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc... (Xem Chương

VII, “Hệ thống chính trị ở Việt Nam cộng sản”).

“Ông trùm”

Riêng ở Việt Nam thời cộng sản, bên cạnh Chủ tịch nước và Thủ

tướng, lại có một nhân vật thứ ba cũng là ngôi sao nghị trường,

thậm chí trong nhiều giai đoạn còn là ngôi sao sáng nhất trong cả

ba, đó là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản

Việt Nam, gọi tắt là Tổng Bí thư đảng. Không phải là nguyên thủ

quốc gia, cũng không đứng đầu chính phủ, chỉ là lãnh đạo một

đảng, nhưng nhiều đời tổng bí thư có quyền lực bao trùm cả hệ

1. “Governing: An Introduction to Political Science”, Austin Ranney, 8th edition, Prentice

Hall, 2001, trang 268.

 

422 | Phạm Đoan Trang

thống chính trị, biến cả chủ tịch nước lẫn thủ tướng thành cái bóng

mờ nhạt, ví dụ như thời Lê Duẩn cầm quyền sau chiến tranh (từ

năm 1976 đến khi mất, năm 1986).

Theo quy chế đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc của đảng Cộng

sản (5 năm một lần) bầu ra Ban Chấp hành Trung ương đảng. Ban

Chấp hành Trung ương bầu ra Bộ Chính trị, và bầu ra Tổng Bí thư

trong số ủy viên Bộ Chính trị. Trên thực tế, tính bí mật, mưu mô là

đặc thù và cũng là sức mạnh của đảng trước dân; chính trị trong

đảng là một thế giới riêng mà người dân ở ngoài đảng (được gọi là

“quần chúng”) không thể nào tiếp cận để hiểu được.

 

Ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư thứ 12 của đảng Cộng sản Việt Nam,

gương mặt nổi bật trong nền chính trị cộng sản kể từ Đại hội đảng XII

 

(tháng 1/2016).

 

* * *

 

CƠ QUAN HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM

Cơ quan hành pháp ở Việt Nam là Chính phủ và ủy ban nhân dân

các cấp. Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính phủ là cơ

quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội

Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp

hành của Quốc hội.

Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội, tức là 5 năm.

 

Chính trị bình dân | 423

Chính phủ gồm Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng

và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên

Chính phủ do Quốc hội quyết định.

Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công

tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021 của nước CHXHCN Việt Nam

có 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ. 18 bộ gồm: Quốc phòng; Công an;

Ngoại giao; Nội vụ; Tư pháp; Kế hoạch và Đầu tư; Tài chính; Công

Thương; Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Giao thông Vận

tải; Xây dựng; Tài nguyên và Môi trường; Thông tin và Truyền

thông; Lao động, Thương binh và Xã hội; Văn hóa, Thể thao và Du

lịch; Khoa học và Công nghệ; Giáo dục và Đào tạo; Y tế.

4 cơ quan ngang bộ gồm: Ủy ban Dân tộc; Ngân hàng nhà nước;

Thanh tra Chính phủ; Văn phòng Chính phủ.

 

Bài đọc

 

NHÁNH HÀNH PHÁP Ở MỸ 1

 

Nhánh hành pháp liên bang chịu trách nhiệm thi hành các luật

mà Quốc hội thông qua. Nó bao gồm Tổng thống, Phó Tổng thống,

nhân viên Nhà Trắng, và bộ máy hành chính liên bang. Mặc dù

tổng thống không làm luật, nhưng họ tham gia tích cực vào việc lập

chương trình nghị sự, hình thành và thông qua chính sách, và thực

thi chính sách. Ngoài phó tổng thống, tổng thống là quan chức duy

nhất của liên bang được bầu chọn trên toàn quốc. Trên thực tế,

tổng thống đại diện cho chính quyền Mỹ, là biểu tượng cho văn hóa

và các giá trị Mỹ, và phát ngôn đại diện cho cả nước Mỹ ở bên

ngoài. Với vai trò đó, tổng thống thu hút sự chú ý khổng lồ của dư

luận và giới truyền thông, khiến ông ta có ảnh hưởng không ai

bằng trong việc thiết lập chương trình nghị sự và lãnh đạo một

chính sách. Ví dụ, Tổng thống George H. W. Bush là người khởi

động thảo luận về việc xem xét lại Luật Không khí Sạch. Việc ông

quan tâm đến sửa đổi luật này và tham gia tích cực vào xây dựng

nó đã phá vỡ một thế bế tắc, đóng băng kéo dài cả thập kỷ, và cuối

cùng, vào năm 1990, đã đưa đến việc một trong những đạo luật

quan trọng nhất về môi trường được thông qua. Tổng thống Reagan

năm 1981 và Tổng thống George W. Bush năm 2001 cũng thành

công tương tự trong việc tập trung toàn bộ sự chú ý của quốc dân

1. “Public Policy: Politics, Analysis, and Alternatives”, Kraft & Furlong, 3rd edition, CQ

Press, 2009

 

426 | Phạm Đoan Trang

vào yêu cầu phải cắt giảm bền vững thuế liên bang. (...) thành công

của họ trong việc thuyết phục Quốc hội phê chuẩn giảm thuế liên

bang đã tác động sâu sắc tới chính sách kinh tế, kể cả làm tăng

thâm hụt ngân sách liên bang và nợ quốc gia.

Bên cạnh tổng thống, toàn thể nhân viên Nhà Trắng và Văn

phòng Điều hành của Tổng thống 1

 

(EOP) cũng tham gia mật thiết

vào quá trình xây dựng và triển khai chính sách. EOP bao gồm các

văn phòng và cơ quan của Nhà Trắng đóng vai trò hỗ trợ tổng

thống trong việc xây dựng, triển khai và thực thi chính sách công.

Trong số các văn phòng này, có Văn phòng Quản lý và Ngân sách

(OMB), Hội đồng Cố vấn Kinh tế, Hội đồng An ninh Quốc gia

(NSC), Văn phòng Chính sách Khoa học và Công nghệ. Cùng với

nhau, các văn phòng này tạo nên một nền “tiểu hành chính”, cung

cấp cho tổng thống và các nhân viên của ông những thông tin và ý

tưởng chính sách quan trọng trong lĩnh vực có liên quan. EOP cập

nhật thông tin cho tổng thống về số lượng tràn ngập các chính sách

đang được xem xét ở Quốc hội hoặc đã được thực thi ở cơ quan

hành chính liên bang, giúp tổng thống có cơ hội gây ảnh hưởng

đến định hướng chính sách. Trong hầu hết các lĩnh vực chính sách,

chương trình nghị sự và quan điểm của tổng thống, đặc biệt trong

các vấn đề quốc nội, phản ánh sự quan tâm và ý thức hệ của đảng

mà tổng thống là thành viên; cũng như phản ánh các đơn vị bầu cử

quan trọng nhất đối với đảng của ông ta và đối với việc tái đắc cử

của tổng thống, nếu ông đang làm nhiệm kỳ đầu.

Các tổng thống đảng Dân chủ và Cộng hòa có xu hướng thông

qua các lập trường chính sách khác biệt về phần lớn vấn đề, do triết

lý khác nhau của họ về quản trị và do những lợi ích cụ thể mà đảng

của họ đại diện. George W. Bush ủng hộ cải cách hệ thống an sinh

xã hội năm 2004, nhấn mạnh việc lập những tài khoản cá nhân

hoặc tài khoản hưu trí tư nhân – một ý tưởng chia rẽ sâu sắc Quốc

hội, chủ yếu là do khác biệt về đường lối của mỗi đảng.

1. Executive Office of the President

 

Chính trị bình dân | 427

Hệ thống hành chính liên bang cấu thành nên nhánh hành

pháp. Nó bao gồm tất cả các cơ quan, văn phòng trực thuộc mỗi bộ

trong nội các và các văn phòng và cơ quan khác có nhiệm vụ xây

dựng, triển khai và thực thi chính sách trong từng lĩnh vực chuyên

môn cụ thể. Nổi tiếng nhất trong số các cơ quan, văn phòng này là

15 bộ cấp nội các 1

 

, mỗi bộ được quản lý bởi một bộ trưởng 2

do

 

tổng thống chỉ định và Thượng viện xác nhận.

Mỗi bộ trong nội các lại bao gồm nhiều cơ quan cấp dưới, một

số trong các cơ quan đó còn nổi tiếng hơn bộ chủ quản của nó. Ví

dụ, Cơ quan Hàng không Liên bang (FAA), mà nhiệm vụ chính là

bảo đảm an toàn hàng không, là một phần của Bộ Giao thông Vận

tải. Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA), chịu trách

nhiệm bảo đảm an toàn lương thực-thực phẩm và thuốc men, là

một phần của Bộ Y tế và Con người. FBI, có nhiệm vụ bảo vệ nước

Mỹ khỏi những mối đe dọa bên trong và bên ngoài, là cánh tay điều

tra của Bộ Tư pháp. Các cơ quan hành chính này ban hành báo cáo

và những nghiên cứu giúp cho công chúng theo sát các hoạt động

của chúng trong các lĩnh vực chính sách cụ thể.

Mỗi cơ quan làm chính sách trong lĩnh vực cụ thể của nó thông

qua việc diễn giải luật và triển khai những quy định quan trọng đối

với việc thực thi chính sách. Các quan chức trong những cơ quan

liên bang này có quyền hạn tương đối lớn để hình thành chính sách

công, thậm chí trách nhiệm cuối cùng trong việc làm chính sách là

thuộc về người được tổng thống chỉ định đứng đầu mỗi cơ quan

hay bộ đó. Họ phối hợp chặt chẽ với Nhà Trắng để bảo đảm rằng

quyết định của các cơ quan và bộ đều nhất quán với các chương

trình và ưu tiên của tổng thống, ít nhất là trong các lĩnh vực mà

quyết định đó không bị luật pháp giới hạn quá nghiêm khắc. Kết

quả là, hệ thống hành chính Mỹ bị/được chính trị hóa rất mạnh so

với hệ thống hành chính ở nhiều nước phát triển khác, và chính

1. Cabinet-level department

2. Secretary

 

428 | Phạm Đoan Trang

sách của họ có thể thay đổi rất đáng kể từ đời tổng thống này sang

đời tổng thống khác.

Ví dụ như sự chuyển đổi từ Tổng thống Bill Clinton sang Tổng

thống George W. Bush. Những người Bush chỉ định vào các cơ

quan hành chính, cũng như các chính sách của chính quyền Bush,

mang tính bảo thủ hơn so với người tiền nhiệm Bill Clinton. Sự

khác biệt thể hiện đáng kể ngay cả trong việc chọn những cá nhân

phục vụ tình nguyện trong các ủy ban cố vấn khoa học của các cơ

quan hành chính như FDA và CDC (Trung tâm Kiểm soát và Ngăn

ngừa Dịch bệnh). Các ủy ban cố vấn đó có mục đích cập nhật

thông tin cho chính phủ về sức khỏe cộng đồng và các lĩnh vực

chính sách khác. Chỉ riêng Bộ Y tế và Con Người đã có hơn 250 ủy

ban cố vấn trong lĩnh vực y tế. Do những diễn giải của các ủy ban

về khoa học có thể thúc đẩy các quyết định chính sách theo cách

này hay cách khác, nên tổng thống và các quan chức nội các đặc

biệt quan tâm đến việc ai là người làm trong các ủy ban ấy.....

Một sự thay đổi trong ý thức hệ cũng khiến chính quyền khó

mà lấp đầy ngay những vị trí quan trọng trong các cơ quan hành

pháp. Ví dụ như việc chỉ định người đứng đầu FDA. Trong vòng

hai năm đầu của nhiệm kỳ Tổng thống George W. Bush, FDA

không có người đứng đầu, do các đảng viên Dân chủ và Cộng hòa

trong Quốc hội không thống nhất được với nhau về các yêu cầu đối

với người đứng đầu FDA. Đảng Dân chủ nói rằng họ phản đối

những ứng viên có liên hệ chặt chẽ với những ngành nghề mà FDA

quản lý, gồm cả những ngành làm về dược phẩm, thiết bị y tế, thực

phẩm và hóa mỹ phẩm. Đảng Cộng hòa lại khẳng định rằng ứng

viên nhất định phải là người ủng hộ các quan điểm bảo thủ, ví dụ

như phải ủng hộ dừng mua bán thuốc tránh thai RU-486. Vào

tháng 10/2002, Bush chỉ định Mark McClellan – bác sĩ nội khoa,

phó giáo sư ĐH Stanford, người được cả hai đảng tin tưởng và có

quan điểm thực dụng hơn là nặng về ý thức hệ – vào FDA. Tuy

nhiên, đầu năm 2004, McClellan đã từ chức để chuyển sang làm

 

Chính trị bình dân | 429

lãnh đạo Trung tâm Dịch vụ Medicare và Medicaid. Tiến sĩ Lester

M. Crawford thay thế ông, đầu tiên làm quyền giám đốc FDA, cho

đến khi được Thượng viện chính thức phê chuẩn vào tháng 7/2005.

Tới tháng 9/2005, đến lượt ông Crawford lại từ chức, sau một loạt

quyết định gây tranh cãi ở FDA, đặc biệt về việc mua bán thuốc

tránh thai khẩn cấp không cần kê đơn.

Bên ngoài các bộ thuộc nội các là vô số cơ quan hành pháp và

pháp quy độc lập. Một trong số những cơ quan nổi tiếng nhất là Cơ

quan Bảo vệ Môi trường (EPA), một cơ quan hành pháp độc lập, có

lãnh đạo là được chỉ định và là người nắm trách nhiệm lớn trong

việc xây dựng và thực thi chính sách môi trường. Các cơ quan độc

lập khác với các bộ thuộc nội các chủ yếu bởi vì họ chịu trách

nhiệm trong một lĩnh vực chính sách tập trung hơn. Các ví dụ khác

là Cơ quan Hàng không Vũ trụ Quốc gia (NASA), Cơ quan Tình

báo Trung ương (CIA), và Ủy ban Pháp quy về Hạt nhân (NRC)

chịu trách nhiệm giám sát việc sử dụng năng lượng hạt nhân dân

sự, gồm cả nhà máy điện hạt nhân lẫn lượng chất thải hạt nhân cao

cấp mà chúng sản sinh ra.

Ủy ban Pháp quy Độc lập (IRC) là một nhánh khác của hành

pháp. Giống như các bộ thuộc nội các, người đứng đầu ủy ban là

do tổng thống chỉ định và thượng viện phê chuẩn, nhưng chỉ trong

các nhiệm kỳ cố định. Nhiệm kỳ nhằm tách việc ra quyết định của

IRC khỏi các áp lực chính trị từ tổng thống hay quốc hội. Thêm vào

đó, hầu hết các IRC đều chịu trách nhiệm về việc xây dựng các quy

định kinh tế trong những ngành cụ thể. Ví dụ như Ủy ban Truyền

thông Liên bang (FCC) làm nhiệm vụ quản lý ngành truyền thông,

và SEC điều phối thị trường tài chính. Mỗi IRC tập trung vào một

ngành nhất định, do đó phạm vi quyền hạn của nó thường là hẹp.

Mặc dù mỗi cơ quan hành pháp đều vận hành trong lĩnh vực

chuyên môn riêng của nó, nhưng việc mà nó làm có thể mâu thuẫn

với các cơ quan khác. Ví dụ, EPA, với nhiệm vụ làm giảm ô nhiễm,

trong nhiều năm đã muốn các ô tô phải cài thiết bị kiểm soát ô

 

430 | Phạm Đoan Trang

nhiễm để giảm chất thải từ động cơ. Ủy ban An toàn Giao thông

Quốc gia (trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải), có liên quan đến an

toàn giao thông bằng phương tiện xe hơi, thì lại cho rằng cơ chế

như thế có thể khiến ô tô dễ bị cháy nổ hơn.

15 bộ thuộc nội các và các cơ quan lớn

Bộ điều hành Các cơ quan liên bang

Bộ Nông nghiệp Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA)

Bộ Thương mại Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng

Bộ Quốc phòng Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA)

Bộ Giáo dục Ủy ban Cơ hội Việc làm Bình đẳng

Bộ Năng lượng Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Mỹ

Bộ Y tế và Con Người Ủy ban Truyền thông Liên bang (FCC)

Bộ An ninh Nội địa Tập đoàn Bảo hiểm Ký quỹ Liên bang

Bộ Nhà ở và Phát triển Đô thị Cục Dự trữ Liên bang

Bộ Nội vụ Ủy ban Thương mại Liên bang

Bộ Tư pháp Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Liên

 

bang (NASA)

Bộ Lao động Quỹ Khoa học Quốc gia

Bộ Ngoại giao Ủy ban Pháp quy Hạt nhân

Bộ Giao thông Vận tải Peace Corps

Bộ Tài chính Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái

Bộ Cựu chiến binh Cơ quan Bưu chính Mỹ

 

Chương IV

TƯ PHÁP

 

Đây là nhánh thứ ba trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ

máy nhà nước. Thực thể này có chức năng diễn giải luật pháp, trên

cơ sở đó, xét xử và giải quyết các tranh chấp pháp lý. Để hiểu rõ hơn

về các chức năng của nó, ta cần biết hai hệ thống luật pháp cơ bản

trên thế giới.

PHÂN LOẠI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

Nếu phân loại theo cách thức áp dụng luật, trên thế giới có hai hệ

thống pháp luật chính: 1. thông luật (common law), hay còn gọi là

luật thường; 2. dân luật (civil law), hay còn gọi là luật dân sự, luật

lục địa.

Nếu phân loại theo cách thức truy tìm sự thật, thế giới có hai hệ

thống pháp luật chính: 1. hệ thống tranh tụng, có người dịch là hệ

thống đối nghịch (adversarial system); 2. hệ thống điều tra, còn gọi

là hệ thống thẩm vấn (inquisitorial system).

Trong hệ thống tranh tụng, tòa án trung lập, độc lập sẽ nghe lập

luận và xem xét bằng chứng mà hai bên đối nghịch nhau – công tố

viên và bị cáo trong các vụ hình sự, nguyên đơn và bị đơn trong các

vụ dân sự – đưa ra, và trên cơ sở đó, ra phán quyết. Trong hệ thống

điều tra, tòa án trung lập, độc lập đóng vai trò chủ động trong việc

tìm kiếm, thu thập bằng chứng và thẩm vấn nhân chứng, và trên cơ

sở đó, ra phán quyết. Việc điều tra thường do một hay nhiều thẩm

phán đảm nhận.

 

432 | Phạm Đoan Trang

Các nước theo thông luật thường áp dụng hệ thống tranh tụng,

còn các nước theo dân luật thì áp dụng hệ thống điều tra. Các quốc

gia theo thông luật điển hình là: Mỹ (trừ tiểu bang Lousiana),

Canada (trừ bang nói tiếng Pháp Quebec), Anh, Úc, các nước chịu

ảnh hưởng của Anh như Ấn Độ. Các quốc gia theo dân luật điển

hình là Pháp, Đức (các nước châu Âu lục địa), Trung Quốc... và

một nước trước kia là thuộc địa của Pháp, phần nào chịu ảnh

hưởng từ hệ thống luật của Pháp, là CHXHCN Việt Nam.

Hai hệ thống luật pháp – tranh tụng và điều tra – khác nhau ở

các khía cạnh cơ bản sau:

1. Trong hệ thống điều tra, quyết định có khởi tố, xét xử một

người nào đó hay không là của thẩm phán, đại diện cho Bộ Tư

pháp. Trong hệ thống tranh tụng, nó là quyết định của bồi thẩm

đoàn.

2. Trong hệ thống điều tra, thẩm phán là người chủ động tìm

kiếm, thu thập bằng chứng để ra quyết định khi xét xử. Trong hệ

thống tranh tụng, đó là việc của hai bên đối nghịch nhau – công tố

viên và bị cáo, nguyên đơn và bị đơn.

3. Trong hệ thống điều tra, vai trò của thẩm phán quan trọng.

Trong hệ thống tranh tụng, luật sư là ngôi sao, là người có ảnh

hưởng lớn đến kết quả phiên tòa.

(Ban đầu là như vậy, nhưng ngày nay, hệ thống pháp luật ở các

nước cũng đã có nhiều thay đổi. Có nơi, như ở bang California của

Mỹ, cả thẩm phán và bồi thẩm đoàn đều có thể ra quyết định có

khởi tố, xét xử hay không.)

Điều quan trọng ở đây là: Tuy hai hệ thống luật pháp có những

khác biệt như vậy, song cả hai đều phải hướng tới sự thật, tới việc

trừng phạt người có tội, bảo vệ các quyền tự do của người dân và

công lý. Muốn vậy, tư pháp phải bảo đảm các chuẩn mực tố tụng,

chuẩn mực về pháp luật và nhân quyền. Và các bạn chú ý, ở cả hai

định nghĩa về hai hệ thống pháp luật, đều có cụm từ “tòa án trung

lập, độc lập”. Đó là đòi hỏi cao nhất đối với hệ thống tư pháp ở các

nhà nước pháp trị (có rule of law).

 

Chính trị bình dân | 433

 

Trung lập

Trung lập là sự không tồn tại tính bè phái, phe cánh, không đứng về phía

bên nào. Trong quan hệ quốc tế, trung lập là một tình trạng pháp lý trong

đó một nhà nước tuyên bố và xác quyết rằng nó không tham gia vào xung

đột hay chiến tranh, không ủng hộ và không giúp đỡ hay viện trợ cho bên

nào.

Trong một quốc gia hay xã hội, nguyên tắc trung lập được áp dụng đối với

thẩm phán, công chức, quân đội, công an, và những người của cộng đồng

khác. Nó đòi hỏi tất cả những người ở các cương vị này không được có

cảm tình, sự ủng hộ hay có xu hướng ngả về ý thức hệ nào. Đó là trên

nguyên tắc. Trên thực tế, đòi hỏi có thể ít khe khắt hơn: Những người này

chỉ phải công bằng, vô tư, không thiên vị. Họ có thể có cảm tình đối với

một ý thức hệ nào đó, miễn là điều đó không xâm phạm hoặc không mâu

thuẫn với những trách nhiệm, nghĩa vụ của họ đối với cộng đồng, hoặc

nghề nghiệp của họ.

TÒA ÁN ĐỘC LẬP

Như vậy, cho dù ở hệ thống luật pháp nào thì tòa án cũng phải

trung lập và độc lập. Trung lập hiểu nôm na là không đứng về bên

nào, không ủng hộ ý thức hệ nào. Còn độc lập, đối với ngành tư

pháp, có nghĩa là gì? Một cách ngắn gọn, hệ thống tư pháp độc lập

phải bảo đảm hai nguyên tắc sau:

1. Thẩm phán và công tố phải tách biệt

Thẩm phán (bên điều tra và/hoặc xét xử) và công tố (bên buộc tội)

không bao giờ được cùng là một người hay một cơ quan, tổ chức.

Ở Mỹ, quyền công tố được trao cho một cơ quan hành pháp là

Bộ Tư pháp (trực thuộc nội các). Người đứng đầu Bộ Tư pháp là

Bộ trưởng Tư pháp, tiếng Anh là attorney general mà có người

dịch sang tiếng Việt là tổng chưởng lý, hoặc công tố viên trưởng.

Chức này do tổng thống chỉ định và Thượng viện phê chuẩn. Tuy

vậy, công tố ở Mỹ lại độc lập với tổng thống cũng như với chính

phủ. Ở Anh cũng vậy, công tố là cơ quan nhà nước, không trực

thuộc bộ nào, và độc lập với các cơ quan nhà nước khác.

 

434 | Phạm Đoan Trang

Ở Việt Nam, Viện Kiểm sát Nhân dân đóng hai vai trò: 1. Công

tố; 2. Giám sát tòa án, cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án. Với

vai trò công tố, viện kiểm sát là thực thể có quyền buộc tội ai đó và

phải điều tra, nhưng trên thực tế, cơ quan điều tra của Viện Kiểm

sát chỉ có thẩm quyền đối với các vụ việc vi phạm pháp luật tố tụng,

và gần như 100% trường hợp, Viện Kiểm sát chỉ làm mỗi cái việc

phê chuẩn các cáo buộc do công an đưa ra. Với vai trò giám sát, họ

cũng không giám sát được ai, nhất là không giám sát được công an.

Bằng chứng là đã có hàng trăm vụ người dân chết trong đồn công

an hoặc trong trại tạm giam của công an, nhưng không vụ việc nào

được điều tra và không nhân viên công an nào phải chịu trách

nhiệm gì.

Tòa án ở Việt Nam khi ra phán quyết cũng thường chỉ dựa vào

kết luận điều tra của công an và cáo buộc của viện kiểm sát, mà cáo

buộc đó thì dựa vào kết luận điều tra. Vì thế, nguyên tắc “tách biệt

thẩm phán và công tố” không được bảo đảm.

Viện Kiểm sát Nhân dân ở Việt Nam là một thực thể rất khó

được xếp vào nhánh hành pháp hay tư pháp. Không có văn bản

pháp luật nào xác định điều đó. Bản thân họ, vì không có một cơ

quan điều tra riêng đủ thẩm quyền và năng lực, cho nên phụ thuộc

hoàn toàn vào công an trong đa số vụ án, khiến ai cũng tưởng Viện

Kiểm sát thuộc nhánh hành pháp.

2. Tòa án, thẩm phán phải độc lập trước mọi sức ép về chính trị

Nguyên tắc thứ hai của việc tư pháp độc lập, là tòa án và thẩm phán

phải thoát khỏi chính trị, không được phép chịu một sức ép chính

trị nào. Tòa án không được phép thuộc về hành pháp hay lập pháp.

Môi trường làm việc của tòa án và thẩm phán phải bảo đảm bình

yên, ổn định, trong sạch, không nhuốm màu lợi ích, không bị đe

dọa...

Điều đó thể hiện ở việc chức vụ thẩm phán thường là chức vụ

trọn đời (để thẩm phán không phải lo chạy chọt giữ chức), thẩm

phán tuyệt đối không được tham gia đảng phái hay tổ chức nào.

 

Chính trị bình dân | 435

Ở Mỹ, Hiến pháp quy định tất cả các thẩm phán liên bang đều

do tổng thống chỉ định (và trình Thượng viện phê chuẩn), giữ chức

trọn đời và không bị hạ lương. Như vậy có nghĩa là họ không phải

vận động tranh cử, công việc của họ không có nhiệm kỳ, và họ

không chịu sức ép bị trừ lương. Tóm lại, họ không phải chịu tác

động nào về mặt chính trị. Bạn có thể hỏi, vậy nếu trong thời gian

tại vị, thẩm phán hành xử không chuẩn mực, lạm quyền, tham

nhũng, xét xử oan sai thì sao? Khi đó, họ sẽ bị Hạ viện luận tội và

Thượng viện kết tội. Nếu đa số thành viên Hạ viện thông qua việc

luận tội họ và hai phần ba thành viên Thượng viện kết tội, thì thẩm

phán mới bị cách chức. Ở Vương quốc Anh cũng vậy. Còn ở Pháp,

lập pháp và tư pháp sẽ cùng bầu ra một cơ quan giám sát đặc biệt

để giám sát thẩm phán.

Trong khi đó, ở Việt Nam dưới thời cộng sản, thẩm phán phải

là đảng viên đảng Cộng sản. Bạn sẽ không tìm thấy quy định này ở

bất kỳ văn bản pháp luật nào; nó là luật bất thành văn. Cũng tương

tự như vậy, mọi tổng biên tập, lãnh đạo cơ quan báo chí phải là

đảng viên cộng sản, riêng Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt

Nam còn phải (và được) là ủy viên Trung ương đảng.

Chỉ riêng điều đó thôi đã đủ vi phạm hoàn toàn nguyên tắc

trung lập và độc lập của hệ thống tư pháp (và báo chí).

TƯ PHÁP CÓ THỂ LÀM RA LUẬT KHÔNG?

Đến đây hẳn bạn đã thấy, nếu hiểu “lập pháp là làm luật, hành pháp

là thi hành luật, tư pháp là diễn giải luật và xét xử tranh chấp” thì

tuy đúng nhưng đó là một cách hiểu quá thô sơ, đơn giản trong xã

hội hiện đại. Trong các nền dân chủ ngày nay, lập pháp không chỉ

làm luật nữa mà có thể điều tra như hành pháp, hành pháp có thể

ra luật, và tất nhiên, tư pháp cũng không chỉ dừng ở việc diễn giải

luật và xét xử tranh chấp.

Nói cách khác, tư pháp có thể làm luật, tạo ra chính sách. Một ví

dụ thường được nhắc đến trong các sách về chính trị học là việc Tối

 

436 | Phạm Đoan Trang

cao Pháp viện Hoa Kỳ đã ra phán quyết khẳng định việc phân biệt

trường công dành riêng cho người da trắng và da màu là vi hiến

(vụ kiện Brown và Hội đồng Giáo dục của Topeka, 1954), và ra

lệnh cho các bang phải nhanh chóng chấm dứt tệ nạn phân biệt

chủng tộc ở trường học (1955).

Vụ kiện Brown và Hội đồng Giáo dục Topeka sau này được xem

như cột mốc mở đầu phong trào đấu tranh vì quyền dân sự của

người da đen ở Mỹ.

 

Bài đọc

TÒA ÁN ĐỘC LẬP 1

 

TẤT CẢ CÁC BỊ CÁO ĐỀU CÓ QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ BỞI MỘT

TÒA ÁN ĐỘC LẬP.

Tất cả các tòa án và thẩm phán đều phải độc lập với nhánh hành

pháp và lập pháp của chính quyền cũng như các bên tham gia tố

tụng. Điều này có nghĩa là cả ngành tư pháp lẫn các thẩm phán của

ngành ấy đều không được là cấp dưới của bất kỳ nhánh nào trong

nhà nước hay bên nào trong tiến trình tố tụng. Tòa án cũng phải

thật sự độc lập và độc lập một cách hiệu quả, cũng như hoàn toàn

không chịu ảnh hưởng hay áp lực nào từ các nhánh khác trong nhà

nước hay bất kỳ khu vực nào khác.

Sự độc lập của tòa án và các quan chức tư pháp phải được bảo

đảm bằng hiến pháp, luật và chính sách của quốc gia, và được tôn

trọng trên thực tế bởi chính phủ, các cơ quan nhà nước, cũng như

bởi quốc hội.

Nhánh tư pháp phải có quyền tài phán đối với tất cả các vấn đề

mang bản chất tư pháp và phải có độc quyền trong việc quyết định

một vấn đề nào đó được đưa ra lấy quyết định có thuộc thẩm quyền

của tòa án như định nghĩa của pháp luật hay không.

Không được có bất kỳ một sự can thiệp không thích đáng hoặc

không có lý do xác đáng nào vào hoạt động tư pháp. Các quyết

1. “Trial Observation Manual for Criminal Proceedings: Practitioners Guide No. 5”,

International Commission of Jurists, 2009.

 

438 | Phạm Đoan Trang

định của tòa án không bị đem ra để xem xét lại (trừ phi thông qua

cơ chế bảo hiến) hay để giảm nhẹ – trừ phi việc đó do các cơ quan

có thẩm quyền tiến hành theo luật định.

Tư pháp phải độc lập về các vấn đề trong nội bộ của ngành tư

pháp, kể cả việc chỉ định thẩm phán cho vụ án, tại cấp tòa của vị

thẩm phán ấy.

Sự độc lập của thẩm phán và tòa án có hai phương diện: cơ quan

độc lập và cá nhân độc lập. Cả hai đều đòi hỏi rằng ngành tư pháp

cũng như thẩm phán của ngành đều không phải là cấp dưới của

bất kỳ quyền lực nhà nước nào khác:

y Cơ quan độc lập, có nghĩa là thẩm phán, tòa án đều phải được

độc lập khỏi các nhánh quyền lực khác, mà một trong những yêu

cầu là thẩm phán không phải là cấp dưới, cũng không chịu trách

nhiệm trước các nhánh khác trong chính quyền, đặc biệt là hành

pháp. Điều này cũng có nghĩa, tất cả các định chế nhà nước khác

đều có nghĩa vụ phải tôn trọng và tuân theo phán quyết và quyết

định của tư pháp;

y Cá nhân độc lập, có nghĩa là thẩm phán phải được độc lập

khỏi những thành viên khác trong ngành tư pháp (cũng như ở các

nhánh quyền lực khác – ND bổ sung).

Tiến trình chỉ định cá nhân vào cơ quan tư pháp phải minh

bạch và chịu những tiêu chuẩn chọn lọc khắc nghiệt. Nói chung, sẽ

tốt hơn nếu thẩm phán được lựa chọn bởi các đồng nghiệp hoặc

bởi một cơ quan độc lập với hành pháp và lập pháp. Bất kỳ cách

chọn lựa người nào cho ngành tư pháp cũng phải bảo đảm tính độc

lập và vô tư của ngành tư pháp. Việc chỉ định, nếu do hành pháp

thực hiện hoặc thông qua phổ thông đầu phiếu để lựa chọn thẩm

phán, đều làm hỏng tính độc lập của tư pháp.

Tiêu chuẩn để chỉ định người vào cơ quan tư pháp phải là sự

phù hợp của ứng cử viên với những cơ quan như vậy, căn cứ vào

tính liêm chính, năng lực, các kỹ năng pháp lý, và được đào tạo

hoặc có trình độ phù hợp về luật pháp. Bất kỳ ai đáp ứng được

 

Chính trị bình dân | 439

những tiêu chuẩn này phải có quyền được xem xét để chọn vào cơ

quan tư pháp, không có sự phân biệt đối xử vì bất kỳ nguyên nhân

gì, chẳng hạn như sắc tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, tiếng nói,

tình dục, giới tính, khuynh hướng tình dục, bản sắc giới, quan

điểm chính trị và các quan điểm khác, tôn giáo, tín ngưỡng, tàn tật,

quốc tịch gốc hay nguồn gốc xã hội, tình trạng lúc sinh, tình trạng

kinh tế và các tình trạng khác. Tuy nhiên, có thể coi là không phân

biệt đối xử nếu nhà nước:

• Quy định một độ tuổi tối thiểu hoặc một mức kinh nghiệm

tối thiểu với các ứng viên vào cơ quan tư pháp;

• Quy định một độ tuổi tối đa hoặc tuổi nghỉ hưu, hoặc thời

gian làm nghề, cho các quan chức trong ngành tư pháp;

• Quy định rằng tuổi tối đa hoặc tuổi nghỉ hưu hoặc thời gian

làm nghề có thể khác nhau tùy theo cấp bậc của thẩm phán hoặc

các quan chức khác trong ngành tư pháp;

• Yêu cầu rằng chỉ có công dân của nước mình mới đủ tư cách

được chỉ định vào cơ quan tư pháp.

Không ai có thể được chỉ định vào cơ quan tư pháp trừ phi

người đó được đào tạo thích hợp về pháp luật hoặc có trình độ về

luật pháp, cho phép họ có thể thực hiện một cách xứng đáng chức

năng nhiệm vụ của họ.

Hoạt động của thẩm phán được đảm bảo cho tới khi họ đến

tuổi về hưu theo quy định hoặc khi nhiệm kỳ của họ kết thúc.

Độ dài của nhiệm kỳ, lương thưởng, lương hưu, các điều kiện về

an toàn thân thể và an sinh xã hội, tuổi về hưu, kỷ luật và cơ chế hỗ

trợ cùng các điều kiện khác về hoạt động của thẩm phán được quy

định và đảm bảo bởi pháp luật. Việc thăng tiến phải căn cứ vào các

yếu tố khách quan, đặc biệt là năng lực chuyên môn, tính liêm

chính và kinh nghiệm của thẩm phán.

Thẩm phán chỉ có thể bị bãi chức vì những sai phạm nghiêm

trọng về đạo đức vốn không phù hợp với cơ quan tư pháp, vì vi

 

440 | Phạm Đoan Trang

phạm kỷ luật hoặc phạm tội hình sự, hoặc vì năng lực yếu kém

khiến họ không thể hoàn thành chức năng nhiệm vụ. Ngoài ra,

thẩm phán được hưởng miễn trừ cá nhân – không bị kiện dân sự

vì những thiệt hại vật chất phát sinh từ phán quyết của họ. Trong

mọi trường hợp, thủ tục kỷ luật thẩm phán phải tuân theo các tiêu

chuẩn sau:

y Thủ tục xử lý khiếu nại đối với thẩm phán hoặc thủ tục kỷ luật

thẩm phán, liên quan đến hành xử chuyên môn của họ, phải được

quy định bởi pháp luật. Bất kỳ khiếu nại hoặc cáo buộc nào đối với

thẩm phán cũng phải được xử lý nhanh chóng và công bằng;

y Thẩm phán, nếu có khả năng bị kỷ luật, tạm đình chỉ chức vụ

hoặc bãi chức, có quyền được điều trần một cách công bằng, gồm

cả quyền được đại diện bởi một đại diện pháp lý do họ lựa chọn và

có quyền yêu cầu một cơ quan độc lập và vô tư xem xét lại bất kỳ

quyết định nào được đưa ra trong tiến trình xử lý kỷ luật, tạm đình

chỉ hoặc bãi chức thẩm phán đó;

y Thẩm phán không thể bị bãi chức hay bị trừng phạt vì những

lỗi xuất phát từ thiện ý , hay vì đã không tán thành một sự diễn giải

luật nào đó, hay chỉ vì quyết định của họ đã bị đảo ngược tại phiên

phúc thẩm, hay vì quyết định của họ bị đề nghị để cho một cơ quan

tư pháp ở cấp cao hơn xem xét lại.

 

* * *

 

VAI TRÒ CỦA CÔNG TỐ VIÊN 1

Tất cả các bị cáo đều có quyền được xét xử bởi một tòa án trong

đó công tố viên công bằng và không thiên vị.

Công tố viên phải thực thi các chức năng chuyên môn của họ một

1. “Trial Observation Manual for Criminal Proceedings: Practitioners Guide No. 5”,

International Commission of Jurists, 2009.

 

Chính trị bình dân | 441

cách vô tư và khách quan, và tránh phân biệt đối xử vì các nguyên

nhân chính trị, xã hội, tôn giáo, chủng tộc, văn hóa, khuynh hướng

tình dục hay bất kỳ nguyên nhân nào khác.

Việc thực thi một cách thích hợp các chức năng công tố đòi hỏi

tính tự chủ và độc lập trước các nhánh khác của nhà nước. Khác

với trường hợp thẩm phán, luật quốc tế không có điều khoản nào

bảo đảm tính chất “cơ quan độc lập” của bên công tố. Điều này do

một thực tế là trong một số chế độ, công tố viên do bên hành pháp

chỉ định và họ chịu trách nhiệm trước hành pháp ở một mức độ

nào đó, do đó họ có nghĩa vụ phải tuân theo những mệnh lệnh

nhất định do chính phủ đưa ra. Mặc dù một cơ quan công tố độc

lập luôn được ưa thích hơn một cơ quan công tố phải chịu trách

nhiệm trước hành pháp, nhưng trong mọi trường hợp, nhà nước

có nghĩa vụ cung cấp cơ chế bảo đảm rằng công tố viên có thể tiến

hành điều tra một cách vô tư và khách quan.

Văn phòng công tố phải tách biệt hoàn toàn khỏi các chức năng

tư pháp.

Công tố viên phải có khả năng thực thi nhiệm vụ chuyên môn

của họ mà không bị đe dọa, ngăn cản, quấy rối, không bị can thiệp

không đúng hoặc không phải chịu trách nhiệm dân sự, hình sự

hoặc các trách nhiệm khác một cách vô lý.

Công tố viên phải được giáo dục, đào tạo phù hợp và phải được

ý thức về lý tưởng cũng như về trách nhiệm đạo đức của nghề công

tố, về sự bảo vệ của hiến pháp và luật đối với quyền của nghi phạm

và nạn nhân, về quyền con người và những quyền tự do căn bản

được luật pháp quốc gia và quốc tế thừa nhận.

Công tố viên phải đóng vai trò chủ động trong tố tụng hình sự,

kể cả trong việc bắt đầu tiến hành khởi tố, và nếu được luật cho

phép hay nếu tuân theo đúng lệ thường ở nước sở tại, công tố viên

phải chủ động trong quá trình điều tra tội ác, giám sát tính hợp

pháp của công tác điều tra, giám sát việc thực thi các quyết định do

cơ quan tư pháp đưa ra, giám sát việc thực thi các chức năng khác,

như là đại diện cho lợi ích công.

 

442 | Phạm Đoan Trang

Công tố viên, theo quy định của pháp luật, phải thực thi nhiệm

vụ một cách công bằng, nhất quán và nhanh chóng, tôn trọng và

bảo vệ danh dự, nhân phẩm, và ủng hộ quyền con người; qua đó,

góp phần vào việc bảo đảm pháp trình chính đáng và bảo đảm sự

vận hành thông suốt của hệ thống tư pháp hình sự.

Khi thi hành nhiệm vụ, công tố viên phải:

y Thực hiện các chức năng của mình một cách vô tư, tránh mọi

phân biệt đối xử về chính trị, xã hội, chủng tộc, nguồn gốc dân tộc,

tôn giáo, văn hóa, tình dục, giới tính hoặc bất kỳ hình thức phân

biệt nào khác;

y Bảo vệ lợi ích công, hành động một cách khách quan, cân

nhắc thích đáng đến cương vị của nghi phạm và nạn nhân, và lưu

tâm tới tất cả các tình huống liên quan, bất kể chúng có là lợi thế

hay bất lợi cho nghi phạm;

y Bảo mật các thông tin mình có được, chỉ trừ phi việc thực thi

nhiệm vụ hay nhu cầu công lý đòi hỏi phải làm khác;

y Cân nhắc các quan điểm và những nỗi lo ngại của nạn nhân

khi mà lợi ích cá nhân của họ bị ảnh hưởng, và bảo đảm rằng nạn

nhân đã được thông báo rõ về quyền của họ.

Công tố viên không nên mở đầu hay tiếp tục tiến trình truy tố,

cũng không nên cố gắng tham gia tiến trình, khi một điều tra vô tư

cho thấy lời cáo buộc là không có cơ sở.

Công tố viên nên chú ý thích đáng đến việc truy tố những tội ác

do các quan chức chính quyền gây ra, đặc biệt tội tham nhũng, lạm

dụng quyền, vi phạm nghiêm trọng quyền con người, và các tội

khác mà luật quốc tế đã thừa nhận.

Khi công tố viên có được bằng chứng chống lại một nghi phạm

– mà họ biết và tin, dựa trên những lý do xác đáng, rằng những

bằng chứng đó có được là nhờ sử dụng những biện pháp bất hợp

pháp, cấu thành tội vi phạm thô bạo nhân quyền của nghi phạm,

đặc biệt là biện pháp tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, phi

 

Chính trị bình dân | 443

nhân tính, hạ thấp nhân phẩm, hay các hình thức vi phạm nhân

quyền khác – họ phải từ chối sử dụng những bằng chứng đó để

chống lại bất cứ ai, chỉ trừ chống lại chính những người đã sử dụng

các biện pháp như thế; hoặc họ phải thông báo như vậy cho cơ

quan tư pháp, và tiến hành tất cả các bước cần thiết để đảm bảo

rằng những kẻ chịu trách nhiệm sử dụng các biện pháp đó sẽ bị

đưa ra trước công lý.

 

* * *

 

TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGHỀ LUẬT SƯ 1

Bất kỳ ai bị cáo buộc vi phạm hình sự đều có quyền được luật sư trợ

giúp và bảo vệ. Nhà nước phải đảm bảo tính độc lập của nghề luật

sư và đảm bảo rằng các luật sư đều có thể thực hiện nhiệm vụ

chuyên môn của họ.

Trừ phi muốn tự bào chữa, các cá nhân bị cáo buộc phạm tội

đều luôn luôn phải được đại diện bởi một luật sư – người bảo đảm

rằng quyền của bị cáo được xét xử công bằng bởi một tòa án độc

lập và vô tư sẽ được tôn trọng trong suốt tiến trình tố tụng. Luật sư

phải được phép đặt câu hỏi về tính độc lập và vô tư của tòa án, và

phải cố gắng bảo đảm rằng quyền của bị cáo cũng như những bảo

đảm tư pháp dành cho bị cáo đều được tôn trọng.

Quyền được trợ giúp bởi luật sư, ngay cả khi cá nhân không thể

lo được, là một phần không thể tách rời của quyền được xét xử

công bằng mà luật quốc tế đã thừa nhận.

Thêm vào đó, luật sư đóng một vai trò quan trọng quyết định

trong việc bảo vệ quyền không bị bắt giữ tùy tiện, bằng cách chống

việc bắt giữ, chẳng hạn, bằng cách trình đơn habeas corpus [lệnh

đình việc bắt giữ - ND]. Họ cũng tư vấn và đại diện cho các nạn

1. “Trial Observation Manual for Criminal Proceedings: Practitioners Guide No. 5”,

International Commission of Jurists, 2009.

 

444 | Phạm Đoan Trang

nhân của những vụ vi phạm nhân quyền và người thân của nạn

nhân trong tiến trình tố tụng hình sự đối với kẻ bị cáo buộc là thủ

phạm của vụ vi phạm nhân quyền đó, cũng như trong tiến trình

tìm cách phục hồi cho nạn nhân.

Để việc trợ giúp pháp lý được hiệu quả thì nó phải được thực thi

độc lập.

Luật quốc tế đã thiết lập những cơ chế nhất định nhằm bảo đảm

sự độc lập của cá nhân mỗi luật sư cũng như của cả nghề luật.

Tất cả mọi người đều có quyền yêu cầu sự trợ giúp từ một luật

sư do họ chọn để bảo vệ và xác lập các quyền của họ, và bảo vệ họ

trong mọi giai đoạn tố tụng hình sự. Chính quyền phải đảm bảo

cung cấp các thủ tục hiệu quả, các cơ chế có tính phản hồi cao, để

tất cả mọi người ở trong lãnh thổ của chính quyền ấy và chịu quyền

tài phán hoặc kiểm soát hiệu quả của chính quyền ấy đều có thể

tiếp cận như nhau và hiệu quả đến các luật sư, không có bất kỳ hình

thức phân biệt nào như phân biệt dựa trên các lý do chủng tộc, màu

da, nguồn gốc dân tộc, tình dục, khuynh hướng giới tính, ngôn

ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị và các quan điểm khác, quốc

tịch gốc hoặc nguồn gốc xã hội, tài sản, tình trạng lúc sinh, tình

trạng kinh tế và các tình trạng khác.

 

Luật sư Trần Thu Nam (bên phải) và luật sư Lê Văn Luân bị côn đồ (có cả

công an) hành hung ở huyện Chương Mỹ (Hà Tây), ngày 03/11/2015.

 

Chính trị bình dân | 445

 

Các nhà nước phải bảo đảm rằng:

y Tất cả mọi người đều phải được cơ quan có thẩm quyền thông

báo ngay lập tức về quyền của họ được trợ giúp bởi một luật sư do

họ chọn – thông báo ngay khi họ bị bắt hoặc khi bị khởi tố về một

tội hình sự;

y Tất cả mọi người khi bị bắt, dù bị khởi tố hay chưa, đều có

quyền nhanh chóng được gặp luật sư, và trong bất kỳ trường hợp

nào, họ cũng phải được gặp luật sư không muộn hơn 48 tiếng kể từ

thời điểm bị bắt;

y Các cá nhân bị khởi tố về một tội hình sự đều được có luật sư

đại diện vào mọi lúc, trong suốt các khâu của tiến trình tố tụng

hình sự của tư pháp;

y Những người không có luật sư thì trong mọi trường hợp mà

công lý đòi hỏi, họ đều có quyền được có một luật sư có kinh

nghiệm và năng lực tương xứng với bản chất của tội hình sự mà họ

bị cáo buộc phạm phải, để họ được trợ giúp pháp lý một cách hiệu

quả, mà không phải trả tiền nếu như họ không có đủ tiền để trang

trải cho dịch vụ đó.

Các nhà nước cần phải đảm bảo rằng:

y Luật sư có thể thực thi tất cả các nhiệm vụ chuyên môn của họ

mà không đe dọa, ngăn cản, quấy rối, hay bị can thiệp không đúng;

y Bất cứ khi nào sự an toàn của luật sư bị đe dọa vì họ đã thực

thi nhiệm vụ của mình, thì họ phải được bảo vệ thích đáng;

y Luật sư có thể tự do đi lại và tự do tham vấn khách hàng, cả

trong nước lẫn nước ngoài;

y Luật sư không phải chịu hoặc không bị đe dọa phải chịu truy tố

hay chịu các biện pháp xử lý hành chính, kinh tế, hay các hình thức

trừng phạt khác, vì bất kỳ việc gì mà họ đã làm theo nghĩa vụ nghề

nghiệp, chuẩn mực và đạo đức nghề nghiệp đã được công nhận;

y Tất cả các giao dịch, tham vấn, tư vấn giữa luật sư và khách

hàng, trong khuôn khổ quan hệ chuyên môn của họ, đều phải được

bảo mật; và

 

446 | Phạm Đoan Trang

y Luật sư không bị đánh đồng với khách hàng hay việc làm của

khách hàng chỉ vì đã thực thi chức năng nhiệm vụ của mình.

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có trách nhiệm đảm bảo

cho luật sư được tiếp cận với thông tin và hồ sơ phù hợp mà cơ

quan đó sở hữu hay kiểm soát, trong khoảng thời gian phù hợp, để

luật sư có thể trợ giúp pháp lý một cách hữu hiệu cho khách hàng.

Việc tiếp cận đó phải được sẵn sàng vào thời gian sớm nhất có thể.

Luật sư được miễn trách nhiệm dân sự và hình sự vì những phát

biểu liên quan mà ông/bà ta đưa ra với thiện ý, bằng văn bản hoặc

bằng lời nói hoặc trong khi đang hành nghề trước cơ quan tư pháp

hoặc các cơ quan pháp luật hay hành chính khác.

Luật sư luôn luôn phải gìn giữ danh dự và phẩm giá của nghề

nghiệp của mình như thể đó là tác nhân căn bản nhất trong việc

thực thi công lý, và họ cũng luôn luôn phải tôn trọng lợi ích của

khách hàng. Luật sư có những trách nhiệm chuyên môn cơ bản,

phần lớn là liên quan đến khách hàng, bao gồm:

y Tư vấn cho khách hàng về các quyền và nghĩa vụ pháp lý của

khách, và về sự vận hành của hệ thống pháp luật ở chừng mực liên

quan đến các quyền và nghĩa vụ pháp lý của khách;

y Hỗ trợ khách hàng bằng mọi cách thích hợp, và có các hành

động pháp lý để bảo vệ lợi ích của khách hàng;

y Trợ giúp khách hàng trước tòa hay trước cơ quan hành chính,

khi cần.

Khi bảo vệ quyền của khách hàng và thúc đẩy công lý, luật sư

phải cố gắng ủng hộ nhân quyền và các quyền tự do căn bản đã

được luật quốc gia và quốc tế công nhận, và phải luôn luôn hành

động tự do và cần mẫn, theo đúng luật pháp, theo đúng những

chuẩn mực và đạo đức đã được thừa nhận của nghề luật sư.

Những cáo buộc và khiếu nại nhằm vào luật sư trong lĩnh vực

chuyên môn của họ cần phải được xử lý nhanh chóng và công bằng

 

Chính trị bình dân | 447

theo những thủ tục phù hợp. Luật sư phải có quyền được điều trần

công bằng, kể cả quyền được trợ giúp bởi một luật sư khác do họ

lựa chọn.

 

Chương V

 

CHẾ ĐỘ ĐẠI NGHỊ VÀ CHẾ ĐỘ TỔNG THỐNG

 

Khi tìm hiểu một chế độ, hay một hệ thống chính trị, một trong

những câu hỏi đầu tiên cần được đặt ra là nó theo thể chế đại nghị

hay tổng thống? Điều này có thể được xác định căn cứ vào mối

quan hệ giữa cơ quan hành pháp (chính phủ) và cơ quan lập pháp

(quốc hội, hay nghị viện) của nó.

* * *

 

CHẾ ĐỘ ĐẠI NGHỊ

Chế độ đại nghị (nghị viện chế) có ở các nước như: Anh, Đức,

Thụy Điển, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Úc, v.v. và còn nhiều

nữa. Trên thế giới hiện nay, số nước theo thể chế đại nghị đông hơn

so với theo thể chế tổng thống.

Chế độ đại nghị là hệ thống chính trị trong đó chính phủ điều

hành thông qua quốc hội, vì thế, nhánh hành pháp và lập pháp gần

như trộn lẫn (dù về mặt hình thức thì vẫn là hai nhánh tách biệt).

Nói cách khác, đặc điểm chính của chế độ đại nghị là sự hòa trộn,

hợp nhất giữa quyền lực của hành pháp và quyền lực của lập pháp.

Chính xác thì nó không phải là “tam quyền phân lập” mà là “lưỡng

quyền hợp nhất”, tức quyền lực của hành pháp và lập pháp hợp

nhất. Tư pháp thì vẫn độc lập.

Đặc điểm của chế độ đại nghị:

 

450 | Phạm Đoan Trang

y Chính phủ do quốc hội chỉ định chứ không phải do dân bầu

bằng phổ thông đầu phiếu;

y Thành viên của chính phủ được lấy từ quốc hội, thường họ

chính là lãnh đạo của đảng hoặc các đảng chiếm đa số trong quốc

hội;

y Người đứng đầu chính phủ (tức thủ tướng) cũng là thành viên

quốc hội; vì vậy, có một nguyên thủ quốc gia riêng biệt, không

thuộc hành pháp cũng không thuộc lập pháp. Đó là vua/ nữ hoàng,

hoặc tổng thống;

y Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước quốc hội;

y Chính phủ chỉ có thể vận hành nếu có được sự tín nhiệm của

quốc hội; thành viên chính phủ có thể bị quốc hội bỏ phiếu bất tín

nhiệm và bị bãi miễn (cách chức);

y Quốc hội giữ quyền lực tối cao: Nó có thể phế bỏ chính phủ.

Xin nhắc lại với các bạn rằng, với những đặc điểm đó, chế độ

đại nghị không theo nguyên tắc tam quyền phân lập.

Ở Việt Nam dưới thời cộng sản, thủ tướng và bộ trưởng đều có

thể là đại biểu quốc hội. Nhiều người chỉ trích rằng như thế là “vừa

đánh trống vừa thổi còi”, vi phạm nguyên tắc tam quyền phân lập.

Tuy nhiên, thật ra thì điều đó không sai, vì Việt Nam “có vẻ” theo

thể chế đại nghị; thành viên của chính phủ được lấy từ quốc hội.

Như ở Anh, thủ tướng (người đứng đầu nội các) cũng chính là chủ

tịch của đảng chiếm đa số trong quốc hội.

Điểm khác biệt lớn giữa CHXHCN Việt Nam và các nước dân

chủ theo chế độ đại nghị là quốc hội của họ có nhiều đảng, có phe

đa số, thiểu số, còn quốc hội CHXHCN Việt Nam thì chỉ có một

mình đảng Cộng sản. Và, cả hành pháp lẫn lập pháp Việt Nam đều

nằm dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản cầm quyền – điểm này

thì chẳng giống một nền dân chủ đại nghị hay dân chủ tổng thống

nào cả.

 

Chính trị bình dân | 451

 

Ưu điểm của chế độ đại nghị

- Chính phủ buộc phải có trách nhiệm; nếu không, có thể bị quốc

hội bỏ phiếu bất tín nhiệm.

- Chính phủ vận hành hiệu quả, nhanh chóng hơn là khi hành

pháp và lập pháp độc lập hay bất đồng.

Nhược điểm của chế độ đại nghị

- Nếu một đảng chiếm đa số trong quốc hội thì có thể sẽ kiểm soát

được cả chính phủ. Hành pháp nằm trong tay phe đa số trong quốc

hội thì việc cân bằng và đối trọng giữa hai nhánh quyền lực này

khó được đảm bảo.

- Nếu có nhiều đảng và không đảng nào đủ đa số, thì lại có nguy

cơ chính phủ yếu, dễ mất ổn định chính trị. (Ví dụ như ở Ý, có đến

59 chính phủ tồn tại trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2001).

- Hành pháp và lập pháp khó có thể bất đồng (vì vốn dĩ thành

viên cùng đảng và/hoặc kiêm nhiệm ở cả hai nhánh).

- Còn nếu có bất đồng giữa hành pháp và lập pháp thì một trong

hai nhánh phải thay đổi nhân sự hoặc quan điểm.

Anh là một nước điển hình theo chế độ đại nghị. Thủ tướng

Anh là chủ tịch của đảng chiếm đa số trong quốc hội. Ví dụ như bà

Margaret Thatcher khi làm Thủ tướng Anh cũng chính là Chủ tịch

đảng Bảo thủ. Khi bà buộc phải từ chức thủ tướng (năm 1990),

thực ra không phải vì bị chính phủ bỏ phiếu bất tín nhiệm, mà vì

ngay trước đó bà đã mà mất chức chủ tịch đảng Bảo thủ. John

Major kế nhiệm bà, trở thành Chủ tịch đảng và Thủ tướng Anh.

Những nhược điểm của chế độ đại nghị có thể được giải quyết

bằng cách: Đa đảng, và bảo đảm đảng đối lập luôn có quyền và có

thể phản biện đảng cầm quyền, ngay cả khi họ chỉ là thiểu số. Ở

trong một văn hóa chính trị dân chủ và tôn trọng đối thoại thì điều

này không phải là vấn đề lớn: Nước Mỹ chẳng hạn, có một đặc

điểm thú vị là mặc dù thực tế chỉ có hai đảng lớn thay nhau cầm

quyền (có đảng viên làm tổng thống và đứng đầu hành pháp, và/

 

452 | Phạm Đoan Trang

hoặc chiếm đa số trong quốc hội), nhưng không đảng nào lợi dụng

việc mình cầm quyền để dồn ép đảng kia quá đáng. Lý do là bởi

đảng nào cũng sợ đến hết nhiệm kỳ của mình, đảng kia giành được

quyền lực, có thể sẽ dồn ép mình để trả đũa.

Phong trào dân chủ ở Việt Nam những năm từ 2011 trở đi cũng

có một chuyện thú vị tương tự: Các tổ chức xã hội dân sự có thể ưa

hoặc không ưa nhau nhưng dù sao cũng không chống nhau quá

đáng. Họ đều ý thức được việc phải chung sống trong hòa bình,

đoàn kết để đương đầu với một kẻ thù chung là chế độ toàn trị. Và

xuất hiện hiện tượng “biểu tình ngoại giao”: Khi nhóm No-U kêu

gọi biểu tình chống Trung Quốc hoặc tổ chức thắp hương tưởng

niệm tử sĩ, liệt sĩ chống Tàu, nhóm Cây Xanh (Green Trees) sẽ phải

cố gắng tham gia, vì sợ nếu không dự thì tới khi Cây Xanh hô hào

tuần hành bảo vệ môi trường, No-U sẽ đứng ngoài cuộc.

Cái hay của dân chủ và đối thoại là như vậy.

CHẾ ĐỘ TỔNG THỐNG

Chế độ tổng thống (tổng thống chế) có ở Mỹ và các nước chịu ảnh

hưởng của Mỹ, như Mỹ Latin và Philippines. Đó là hệ thống chính

trị thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tam quyền phân lập: hành

pháp và lập pháp độc lập với nhau; hành pháp và lập pháp đều

được bầu cử độc lập.

Đặc điểm của chế độ tổng thống:

y Chính phủ và quốc hội được bầu cử độc lập với nhau;

y Thành viên chính phủ không được là thành viên quốc hội, và

ngược lại;

y Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu

cơ quan hành pháp;

y Chính phủ không phải chịu trách nhiệm trước quốc hội và

không bị quốc hội bãi miễn (trừ việc tổng thống có thể bị mất chức

vì thủ tục luận tội của quốc hội);

 

Chính trị bình dân | 453

y Tổng thống nắm quyền lực hành pháp; nội các và các bộ

trưởng phải chịu trách nhiệm trước tổng thống;

Dù ba nhánh quyền lực độc lập, nhưng chúng đều ràng buộc và

có khả năng kiểm soát lẫn nhau. Như ở Mỹ, tổng thống có quyền

phủ quyết luật do quốc hội làm ra. Quốc hội có quyền bỏ qua phủ

quyết đó nếu được 2/3 phiếu trong cả hai viện nhất trí bác bỏ. Tổng

thống có quyền chỉ định quan chức hành pháp cấp cao và chánh án

tòa tối cao, nhưng sau đó phải được thượng viện phê chuẩn.

Ưu điểm của chế độ tổng thống

- Ba nhánh quyền lực kiểm soát lẫn nhau. Không có chuyện hành

pháp lấn át lập pháp và tư pháp.

- Chống lạm quyền và độc tài, do đó, có thể bảo vệ quyền con

người.

Nhược điểm của chế độ tổng thống

Hành pháp, lập pháp nhiều khi mâu thuẫn, không thống nhất được

với nhau, dẫn đến bế tắc về chính sách. Đó là khi những người ra

các quyết định chính trị không thể nào (hoặc không muốn) thỏa

hiệp được với nhau để có được một hành động chính sách.

CHẾ ĐỘ BÁN TỔNG THỐNG

Chế độ bán tổng thống là hệ thống chính trị “lai” giữa chế độ đại

nghị và chế độ tổng thống: Ở đó, tổng thống được bầu cử riêng

(giống chế độ tổng thống), thành viên của chính phủ do tổng thống

chỉ định và quốc hội phê chuẩn, nhưng chính phủ phải chịu trách

nhiệm trước quốc hội (giống chế độ đại nghị).

Chế độ bán tổng thống có ở Pháp, Nga, Rumani, Đài Loan,

Đông Timor...

 

* * *

 

454 | Phạm Đoan Trang

Ngày nay, nguyên tắc “tam quyền phân lập” đã thay đổi ít nhiều:

Không cơ quan nào trong ba nhánh quyền lực lại chỉ thực hiện duy

nhất chức năng lập pháp, hành pháp hay tư pháp. Trên thực tế, lập

pháp có thể điều tra sai phạm của hành pháp; hành pháp có thể

soạn thảo và diễn giải luật pháp; và tư pháp có thể làm ra luật.

Về phần mình, chúng ta chỉ cần nhớ rằng không phải nền dân

chủ nào cũng thực hiện tam quyền phân lập. Chế độ đại nghị áp

dụng nguyên tắc quyền lực hợp nhất, chế độ tổng thống mới áp

dụng tam quyền phân lập. Khó nói hệ thống chính trị nào ưu việt

hơn; điều quan trọng là phải có đa đảng thực chất, có sự ràng buộc,

giám sát và kiểm soát để không đảng nào và không nhánh quyền

lực nào có thể lạm quyền, và tư pháp luôn độc lập.

 

Chương VI

BỘ MÁY HÀNH CHÍNH

 

Đến đây chúng ta sẽ bàn về một “tầng lớp” những cá nhân và cơ

quan, tổ chức không nắm quyền lực lập pháp, hành pháp hay tư

pháp nào, nhưng lại đóng vai trò như “chất bôi trơn” trong cả hệ

thống chính trị và xã hội.

Họ là những cá nhân, cơ quan, tổ chức được trả lương để làm

những công việc rất cụ thể nhằm triển khai các chính sách của ba

nhánh quyền lực trong thực tế. Họ mới thực sự là những người, cơ

quan, tổ chức mà người dân gặp gỡ, tiếp xúc, va chạm hàng ngày

– chứ không phải ngài tổng thống, ông chủ tịch nước hay bà chủ

tịch quốc hội. Và, họ không phải chính trị gia, họ không tranh cử,

không phải tìm cách giành lá phiếu của cử tri, không cần lấy lòng

người dân chúng ta, dù rõ ràng họ được trả lương từ ngân sách nhà

nước, tức là bằng tiền thuế của chúng ta.

Họ là ai vậy? Đó là các công chức và các cơ quan nhà nước làm

nên bộ máy hành chính.

* * *

 

HÀNH CHÍNH VÀ HÀNH PHÁP

Như đã nói ở Chương II, “Hành pháp”, một trong các chức năng của

hành pháp là xây dựng chính sách công và lãnh đạo, chỉ huy, giám

sát, để bảo đảm rằng chính sách đó được thực thi. Thế nên, người ta

 

456 | Phạm Đoan Trang

dễ nhầm hành pháp với hành chính, và nhầm các công chức –

những người ăn lương của chính phủ – với “quan chức”, “người nhà

nước”, nghe như thể họ ở tầng lớp trên, tầng lớp lãnh đạo.

Thực ra thì hành pháp và hành chính khác nhau. Theo Austin

Ranney, hành pháp là những cá nhân hoặc cơ quan “được bầu cử

hoặc chỉ định làm việc trong những nhiệm kỳ có giới hạn để khởi

xướng các chính sách và định hướng, hướng dẫn công việc của cơ

quan hành chính”. Còn hành chính là những cá nhân “được chỉ

định để làm công việc triển khai thực thi pháp luật, thực thi các

chính sách; nhiệm kỳ và sự thăng tiến của họ phụ thuộc vào công

trạng, thành tích chuyên môn hơn là vào những liên hệ đảng phái”.

Điểm khác biệt quan trọng là, nhân viên hành chính, hay công

chức, không phải là chính trị gia, nghĩa là họ không tìm cách gây

ảnh hưởng – tự mình hoặc thông qua đảng phái – để giành và giữ

quyền lực nhà nước. Họ không phải tranh cử và không được bầu

chọn bằng lá phiếu của cử tri. Họ chỉ là những người được chỉ

định, làm công ăn lương (cụ thể là nhận lương từ ngân sách nhà

nước), để làm các công việc rất cụ thể nhằm triển khai, thực thi

chính sách.

Việc tuyển dụng và thăng tiến của nhân viên hành chính phụ

thuộc vào thành tích chuyên môn của họ chứ không phải vào khả

năng “làm chính trị”, “gây ảnh hưởng” của họ và đảng của họ. Đó là

chưa nói đến chuyện nhân viên và cơ quan hành chính còn phải

giữ địa vị trung lập, phi đảng phái. Cũng giống như đòi hỏi đối với

tư pháp (tòa án và công tố viên), nhân viên hành chính phải thực

hiện chức năng của mình một cách tận tụy và công bằng với tất cả

mọi người, hay nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh là “cán bộ là đầy tớ

của dân”. Để làm được điều đó, môi trường công việc của họ phải

bình yên, ổn định; họ không phải chịu bất cứ sức ép chính trị nào

như mất việc, bị trừ lương, hoặc bị tống cổ ra đường khi chính

quyền thay đổi hay nội các thay đổi, đảng này lên, đảng kia xuống...

Nói chung, một nền hành chính tốt cần phải trung lập, tức là

 

Chính trị bình dân | 457

phi đảng phái, và tận tụy, công bằng với tất cả. Do vậy, ở nhiều

nước, công chức bị hạn chế hoặc không được khuyến khích tham

gia chính trị. Ở Mỹ chẳng hạn, công chức không được làm thuê cho

đảng nào, không được gây quỹ, vận động cho đảng nào.

Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Mỹ ở Việt Nam nhiệm kỳ 2015-

2017, ông David Muehlke, khi được hỏi ông ủng hộ ứng viên nào

trong các ứng viên tổng thống Mỹ, đã trả lời: “Là một công chức, tôi

không thể công khai ủng hộ đảng hay ứng viên nào được”.

Nguyên tắc là phải phi chính trị hóa nền hành chính. Tuy vậy,

trên thực tế ở CHXHCN Việt Nam, trong các cơ quan nhà nước,

công chức luôn được khuyến khích, dụ dỗ, thậm chí ép phải gia

nhập đảng Cộng sản, và tồn tại vô số các chi bộ đảng cộng sản

trong tất cả các cơ quan hành chính nhà nước, mục đích chính là

tạo ra cảm giác tâm lý về cùng một phe với đảng trong người công

chức.

Điều 94 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: Chính phủ là cơ

quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội

Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp.

CHỨC NĂNG CỦA HÀNH CHÍNH

1. Cung cấp dịch vụ

Một trong các chức năng của các cơ quan hành chính là cung cấp

dịch vụ cho người dân, miễn phí hoặc có nhận phí, lệ phí. Các dịch

vụ điển hình có thể được kể đến gồm: giáo dục, y tế, an ninh, quốc

phòng, an sinh xã hội. Ở Việt Nam, ngành bưu chính chẳng hạn,

vẫn do nhà nước quản lý và cung cấp dịch vụ.

2. Điều tiết

Một chức năng khác của các cơ quan hành chính là ra các quy định

để điều chỉnh, điều tiết hoạt động của cá nhân và tổ chức, nhất là

doanh nghiệp, để họ không làm gì có hại.

 

458 | Phạm Đoan Trang

 

Có thể có ý kiến nói rằng thay vì điều tiết, các nền kinh tế hiện đại nên

tăng cường “giải điều tiết”, nghĩa là bớt đi vai trò ra quy định và điều chỉnh

của các cơ quan hành chính, bớt đi các mệnh lệnh, quyết định hành chính

can thiệp vào thị trường. Có người cũng cho rằng xã hội hiện đại nên

hướng tới sự tự quản, tư nhân hóa triệt để, thu hẹp vai trò của nhà nước

mà lý tưởng nhất là để chủ nghĩa vô chính phủ lên ngôi.

Tuy nhiên, thực tế là xã hội càng hiện đại thì các ý kiến đó càng ít tính khả

thi; những người ủng hộ chúng chắc đều cổ súy chủ nghĩa vô chính phủ

hoặc tự do tuyệt đối trong kinh tế. Còn những người nghiên cứu chính

trị, đặc biệt là chính sách công – một mảng lớn của khoa học chính trị –

thì hẳn sẽ dễ dàng đưa ra lý do phản bác nó. Dưới đây là một lý giải vì sao

xã hội càng hiện đại, càng cần có sự điều tiết.

“Sự lan tỏa của chính sách công... chủ yếu là kết quả của hiện đại hóa.

Hiện đại hóa kéo theo sự phát triển của công nghệ, tri thức, và tiếp đó là

sự phân công lao động và chuyên môn hóa. Điều ấy khiến tất cả chúng ta

đều phụ thuộc lẫn nhau. Nhà thám hiểm có thể mở cabin mà không cần

sự trợ giúp từ bên ngoài, nhưng vận hành một thiết bị khoan hiện đại đòi

hỏi phải có chuyên môn của nhà thầu xây dựng, thợ mộc, thợ điện, thợ

hàn, thợ nề, thợ lợp nhà, v.v. Chúng ta phụ thuộc vào năng lực và tay nghề

của những người thợ mà chúng ta không đủ trình độ để đánh giá chất

lượng công việc của họ, họ được đánh giá bởi một cơ quan nhà nước.

Chúng ta thậm chí còn kém năng lực hơn để có thể độc lập đánh giá công

việc của các chuyên gia như bác sĩ hay luật sư. Bất kỳ khi nào có một công

nghệ mới ra đời, chúng ta lại cần một cơ quan mới ra quy định để điều

chỉnh, điều tiết nó”*.

* “American Public Policy: An Introduction”, 10th edition, Wadsworth Cengage Learning,

2010.

Có vô số lĩnh vực cần sự điều tiết, sau đây chỉ là một vài ví dụ:

- Cấp giấy phép kinh doanh những mặt hàng đặc biệt (súng, đồ

cổ...);

- Cấp chứng nhận và bảo hộ bản quyền, bằng sáng chế...;

- Chống độc quyền trong sản xuất, kinh doanh;

- Chống cạnh tranh không lành mạnh (bán phá giá, quảng cáo

bôi nhọ đối thủ, v.v.);

- Bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm;

- Ban hành quy định về dán nhãn sản phẩm hàng hóa;

 

Chính trị bình dân | 459

 

- Ban hành quy định về khám chữa bệnh;

- Ban hành quy định về phòng cháy chữa cháy, chống hỏa hoạn;

- Xác lập quy chuẩn về xây dựng;

- Xác lập quy chuẩn về an toàn giao thông đường bộ;

- v.v.

Trong điều tiết (bằng những giấy phép, quy định, quy chuẩn...),

cơ quan hành chính cũng sẽ có thêm một công việc nữa: xét xử các

tranh chấp. Tất nhiên, xét xử tranh chấp là chức năng nguyên thủy

và chính yếu của tòa án hay là của tư pháp. Tuy vậy, ở một số quốc

gia ngày nay, một số cơ quan hành chính cũng đã có thêm một

chức năng “gần như tư pháp”, như nhận đơn thư khiếu nại, tổ chức

điều trần, hòa giải, giải quyết tranh chấp.

 

Chương VII

 

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CHXHCN VIỆT NAM

 

Như đã nói ở trên, hệ thống chính trị Việt Nam “có vẻ” như đại

nghị, ở chỗ nó có một chủ tịch nước không phải là người đứng đầu

chính phủ, thành viên của chính phủ được lấy từ quốc hội và do

quốc hội chỉ định, và quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất.

Tuy thế, hệ thống chính trị Việt Nam có một đặc thù khác hẳn

các chế độ đại nghị: Nó là hệ thống độc đảng, và đảng Cộng sản

Việt Nam làm nên một trong ba thành phần chính yếu, chủ chốt

của nó.

Trên lý thuyết (do chính đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận),

hệ thống chính trị Việt Nam gồm có ba thành phần: 1. Đảng Cộng

sản Việt Nam; 2. Nhà nước; và 3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

thành viên.

Trên thực tế, quyền lực của đảng Cộng sản bao trùm lên tất cả

hệ thống chính trị.

ĐẢNG CỘNG SẢN

Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội (Điều 4

Hiến pháp 2013).

Đảng Cộng sản giữ quyền lãnh đạo nhà nước và khối xã hội dân

sự (hay “các tổ chức chính trị-xã hội” như họ đặt tên) thông qua

việc áp đặt ý thức hệ cộng sản và các đường lối, cương lĩnh, để từ

đó thể chế hóa chúng thành luật, nghị quyết, chỉ thị... Bên cạnh đó,

 

462 | Phạm Đoan Trang

đảng giữ quyền đề cử hoặc bổ nhiệm cán bộ của đảng vào các cơ

quan nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội. Tức là, đảng lãnh

đạo “toàn diện, triệt để, tuyệt đối”, bằng đường lối, nhân sự, bằng

công tác kiểm tra - thanh tra.

Hệ thống của đảng Cộng sản vận hành giống như hệ thống cấp

bậc của nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước đều có một chi bộ đảng

chịu trách nhiệm trước đảng bộ địa phương, có thể là cấp tỉnh hoặc

cấp huyện. Trong quân đội và công an, có các chi bộ hoạt động theo

đúng với điều lệ và chỉ thị của đảng Cộng sản và theo luật.

NHÀ NƯỚC

Nhà nước CHXHCN Việt Nam bao gồm các thành tố sau:

- Chủ tịch nước;

- Cơ quan hành pháp: gồm Chính phủ và ủy ban nhân dân các

cấp (các chính quyền địa phương);

- Cơ quan lập pháp: gồm Quốc hội và hội đồng nhân dân các

cấp;

- Cơ quan tư pháp: gồm hệ thống tòa án (Tòa án Nhân dân Tối

cao và các tòa án nhân dân địa phương), viện kiểm sát (Viện Kiểm

sát Nhân dân Tối cao và các viện kiểm sát nhân dân địa phương),

công an.

Cơ quan hành pháp còn bao gồm cả bốn cơ quan ngang bộ là:

Ủy ban Dân tộc; Ngân hàng Nhà nước; Thanh tra Chính phủ; Văn

phòng Chính phủ.

Ngoài ra, còn Kiểm toán Nhà nước – là một cơ quan độc lập, do

Quốc hội bầu ra, hoạt động độc lập và chỉ chịu trách nhiệm trước

pháp luật, không thuộc cơ quan nào.

Ở đây bạn sẽ thấy một điều rất kỳ lạ là công an tưởng như thuộc

nhánh hành pháp, nhưng hóa ra cũng thuộc cả nhánh tư pháp.

Trong hoạt động điều tra, tố tụng, xét xử, công an giữ vai trò hết sức

bao trùm và nổi bật. Ngược lại, không có một cơ quan độc lập nào

 

Chính trị bình dân | 463

giám sát hoạt động của công an. Không có gì lạ khi tình trạng công

an lạm quyền, sử dụng bạo lực quá đà tới mức bạo hành, rồi can

thiệp vào bản án, xảy ra thường xuyên và kéo dài hàng chục năm ở

Việt Nam.

Các bạn cũng chú ý thêm là khác với ở nhiều quốc gia khác, tại

Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước là một cơ quan ngang bộ, trực

thuộc Chính phủ. Điều đó cũng có nghĩa là Ngân hàng này không

độc lập mà chịu sự quản lý của Chính phủ.

MẶT TRẬN TỔ QUỐC

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, theo Hiến pháp, “là một liên minh

chính trị và liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, tổ chức

xã hội và các cá nhân đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội, các

dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. “Tổng

Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản

Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, và Hội Cựu Chiến binh là các tổ chức

chính trị-xã hội hợp tác với các thành viên khác của Mặt trận Tổ

quốc và thống nhất các hoạt động của Mặt trận Tổ quốc”.

Như vậy, Mặt trận Tổ quốc hoạt động như một tổ chức “xã hội

dân sự” hình thức, quản lý thống nhất các tổ chức xã hội dân sự

khác trong cả nước. Nó đóng vai trò rất quan trọng trong bầu cử

Quốc hội. (Xem Chương “Bầu cử”, thuộc Phần V, “Tương tác chính

trị”).

QUAN HỆ GIỮA CÁC THÀNH PHẦN TRONG HỆ THỐNG

CHÍNH TRỊ

1. “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”

Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ 6 của đảng Cộng sản Việt Nam (tên

gọi đầy đủ là “Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng Cộng

sản Việt Nam”, gọi tắt là “Đại hội VI”) đưa ra một “sáng kiến”. Đó là

cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, được

ấn định là “cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”.

 

464 | Phạm Đoan Trang

Suốt hàng chục năm sau đó, các cây bút lý luận chính trị của đảng

Cộng sản đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để ca ngợi và làm rõ

phương châm này, vì thật sự là nó quá khó hiểu và khó áp dụng.

- Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo “toàn diện, triệt để, tuyệt

đối”;

- Nhà nước quản lý (nhưng không lãnh đạo);

- Nhân dân làm chủ (nhưng không lãnh đạo cũng không quản

lý).

Vấn đề ở đây là, đảng Cộng sản thì có thể lãnh đạo bằng đường

lối, nhân sự, thanh tra-kiểm tra, Nhà nước thì có cả bộ máy hành

pháp, lập pháp, tư pháp, công an, quân đội, nên cũng có thể quản

lý. Còn nhân dân thì sẽ thực hiện quyền làm chủ như thế nào, nếu

không có gì trong tay?

Một số nhà lý luận có cố gắng cụ thể hóa cách để nhân dân làm

chủ, đó là thông qua các tổ chức “của nhân dân”, đó là Mặt trận Tổ

quốc và các tổ chức chính trị-xã hội. Họ coi Mặt trận Tổ quốc là tập

hợp các tầng lớp nhân dân để thể hiện quyền làm chủ của người

dân. Tuy nhiên, thực chất cả Mặt trận Tổ quốc và các thành viên

của nó đều chỉ là những tổ chức ngoại vi, những cánh tay nối dài

của đảng Cộng sản. Do vậy, bảo người dân phải thể hiện quyền làm

chủ thông qua đó thì thật khó khăn.

Nhìn chung, các nhà lý luận bảo rằng nhân dân chắc chắn là

chủ, thậm chí “nhân dân làm chủ” là yếu tố trung tâm của cơ chế

quản lý toàn xã hội nêu trên, bởi vì mọi hoạt động của Đảng và

Nhà nước đều từ nhân dân, vì nhân dân. Tuy nhiên, làm thế nào để

bảo đảm các hoạt động đó đều của dân, do dân, vì dân thì họ

thường không nói rõ, chỉ hô khẩu hiệu như vậy và khẳng định

nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào Đảng và Nhà nước.

2. Quan hệ thứ bậc

Trên thực tế, quan hệ trong đảng Cộng sản là quan hệ thứ bậc, có

cấp trên-cấp dưới rất rõ ràng. Khoản 4, Điều 9 Điều lệ đảng Cộng

 

Chính trị bình dân | 465

sản Việt Nam nêu rõ: “Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành

nghị quyết của Ðảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục

tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn

Ðảng phục tùng Ðại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành

Trung ương”.

Khoản 5, Điều 9 quy định: “Ðảng viên có ý kiến thuộc về thiểu

số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Ðại

hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị

quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Ðảng”.

Trong khi đảng viên cấp dưới có nghĩa vụ phục tùng cấp trên thì

ngược lại, cấp trên có quyền bổ nhiệm hoặc cách chức cấp dưới.

Cơ quan hành pháp duy trì một hệ thống cấp bậc trên dưới

tương tự. Thủ tướng có quyền phê chuẩn và cách chức chủ tịch

UBND cấp tỉnh, chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền phê chuẩn và

cách chức chủ tịch UBND cấp huyện... Mặt trận Tổ quốc các cấp

cũng vậy.

Cơ quan lập pháp – có thể nói là cơ quan có tính đại diện cho

dân cao nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam trên lý thuyết – thì

lại không phân định cấp trên-cấp dưới với quyền và nghĩa vụ ngặt

nghèo như hành pháp và Mặt trận Tổ quốc. Quốc hội và các hội

đồng nhân dân ở cấp cao hơn chỉ có quyền hướng dẫn và giám sát

các hội đồng nhân dân cấp dưới, chứ không có quyền bổ nhiệm

hay cách chức. Theo quy định, tất cả đều được dân bầu trực tiếp.

Cơ quan tư pháp cũng không duy trì quyền và nghĩa vụ theo

thứ bậc. Trên danh nghĩa, các cấp tòa án đều độc lập. Tòa án cấp

cao hơn có quyền bác bỏ kết luận của tòa án cấp dưới, nhưng

không có quyền bổ nhiệm, cách chức. Trên thực tế, hệ thống tòa án

ở Việt Nam không thể độc lập, một khi thẩm phán luôn phải là

đảng viên đảng Cộng sản và phải chấp hành nghị quyết của đảng,

phục tùng đa số, phục tùng cấp trên.

Công an, viện kiểm sát, và tòa án cũng thường có các cuộc họp

ba bên, gọi là họp liên cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử) để

 

466 | Phạm Đoan Trang

thống nhất tinh thần chung trước khi xét xử. Cuộc họp này định

hướng đường lối xét xử, có thể nói đây gần như là cuộc bàn bạc

định tội trước; sau đó tại tòa, hội đồng xét xử chỉ việc làm theo định

hướng đã có sẵn, hay còn gọi là theo chỉ đạo.

 

Chương VIII

QUÂN ĐỘI VÀ CÔNG AN

 

Bây giờ chúng ta sẽ đi đến thảo luận về hai lực lượng có vai trò rất

quan trọng và cũng rất phức tạp trong mọi xã hội, mọi quốc gia. Đó

là quân đội và công an.

Quân đội và công an giữ vai trò rất quan trọng, bởi vì họ liên

quan đến chủ quyền của quốc gia. Ở Chương III thuộc Phần II,

chúng ta đã nói về vấn đề chủ quyền. Một trong các yếu tố để một

quốc gia hình thành và tồn tại là chủ quyền của nhà nước, vốn gồm

hai khía cạnh: đối nội và đối ngoại. Một cách vắn tắt, có thể nói

công an bảo vệ chủ quyền đối nội, và quân đội bảo vệ chủ quyền

đối ngoại. Không có họ thì không thể giữ được chủ quyền đối nội

và đối ngoại. Cũng có nghĩa là, đó là hai lực lượng bắt buộc phải có

ở mọi quốc gia độc lập.

Tất nhiên có ngoại lệ, ví dụ như Puerto Rico không sở hữu quân

đội riêng mà hoàn toàn trông cậy vào Mỹ; song đó chỉ là thiểu số.

Bản thân Puerto Rico rất mong được trở thành bang thứ 51 của

nước Mỹ, đến mức ta phải tự hỏi liệu người dân của họ có nguyện

vọng chung sống với nhau như một quốc gia không.

Quân đội và công an cũng giữ vai trò rất phức tạp, bởi vì với sức

mạnh của họ, họ luôn luôn có thể lạm quyền, có thể bảo vệ một chế

độ cũng như lật đổ, thay thế chế độ đó. Riêng trong hoàn cảnh Việt

Nam, tính chất phức tạp càng cao hơn nữa: Họ vừa lạm quyền, vừa

bảo vệ đảng Cộng sản, lại vừa lợi dụng nền cai trị của đảng để làm

lợi cho mình.

 

468 | Phạm Đoan Trang

 

* * *

 

CHỨC NĂNG CỦA QUÂN ĐỘI VÀ CÔNG AN

1. Quân đội

Quân đội có chức năng:

- Làm công cụ để nhà nước tiến hành chiến tranh (phòng vệ,

phản công, tấn công, bành trướng - xâm lược);

- Bảo vệ chủ quyền quốc gia (quốc phòng);

- Bảo đảm trật tự trong nước. Ví dụ: bảo đảm trật tự xã hội trong

các tình huống khẩn cấp như thiên tai, địch họa; cứu hộ, cứu trợ;

trấn áp bạo động, bạo loạn, đàn áp các cuộc nổi loạn.

Chức năng “trấn áp bạo động, bạo loạn, đàn áp các cuộc nổi

loạn” này là một chức năng gây tranh cãi của quân đội, bởi vì nhiều

khi ranh giới giữa bảo đảm trật tự quốc nội và đàn áp những cuộc

nổi dậy của dân chúng chống lại nhà cầm quyền phi nghĩa là rất

mong manh.

Bạn sẽ thấy là có những trường hợp, đất nước rất cần một quân

đội mạnh để trấn áp bạo động, bảo vệ chính quyền, ví dụ như khi

quân Taliban kéo quân vào cướp chính quyền Afghanistan và áp

đặt ách thống trị tàn bạo lên đất nước này từ năm 1996 đến năm

2001. Ngược lại, trong trường hợp nhà nước độc tài và một bộ

phận dân chúng nổi dậy khởi nghĩa, mà quân đội lại thực hiện

chức năng “đàn áp bạo loạn” của họ thì đó lại là điều chúng ta

không mong muốn.

2. Công an

Chức năng của công an là bảo vệ nhân quyền của mỗi người dân,

không để người này xâm phạm nhân quyền của người kia. Ngoài

ra, công an cũng có chức năng bảo vệ trật tự trong nước, trong từng

địa phương của đất nước, thông qua việc ngăn chặn, phòng chống

tội phạm. Họ cũng có thể được huy động để bảo đảm trật tự xã hội

trong các tình huống khẩn cấp như thiên tai, địch họa.

 

Chính trị bình dân | 469

So với quân đội, công an không có chức năng “làm công cụ

chiến tranh” và “quốc phòng”. Có thể vì thế mà công an không

được vũ trang ở mức độ như quân đội: Ở nhiều quốc gia, họ chỉ là

lực lượng bán vũ trang, thậm chí có những nơi công an không

được phép sử dụng súng.

* * *

 

ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA QUÂN ĐỘI VÀ CÔNG AN

So với dân thường, quân đội và công an có những đặc thù sau đây:

1. Độc quyền sử dụng vũ khí và vũ lực

Ở bất kỳ quốc gia nào thì quân đội và công an cũng được mặc định

là hai lực lượng duy nhất trong xã hội có quyền sử dụng vũ khí và

vũ lực để cưỡng bức khi cần. Cả xã hội mặc định điều đó, hay nói

cách khác, họ có tính chính danh để sử dụng vũ khí và vũ lực.

2. Hệ thống cấp bậc và kỷ luật

Quân đội và công an được đặc thù bởi hệ thống tổ chức theo cấp

bậc trên-dưới và kỷ luật rất chặt chẽ, nghiêm khắc. Thậm chí có

quan niệm cho rằng kỷ luật làm nên sức mạnh của họ. Cấp trên

được khuyến khích quyết đoán, còn cấp dưới được khuyến khích

phục tùng – đó là phẩm chất của quân đội và công an. Chủ nghĩa

cá nhân, tự do, sáng tạo và cá tính là những thứ không được đề cao

trong đội ngũ này.

3. Can đảm, xả thân, sẵn sàng hy sinh

Xin nói rõ đây không phải là đặc điểm cố hữu của quân đội và công

an, mà là những đặc điểm được xã hội kỳ vọng, đòi hỏi ở họ, và xã

hội cũng mặc định là quân nhân và công an có những phẩm chất

cao đẹp đó. Nói cách khác, quân nhân và công an là hai nghề có

thương hiệu tự thân, cũng giống như ở Việt Nam, nhà giáo được

mặc định là nghề có đạo đức, mô phạm.

 

470 | Phạm Đoan Trang

Tuy nhiên, đặt chuyện kỳ vọng của xã hội qua một bên, thì quân

đội và công an về bản chất là hai nghề vì cộng đồng; quân đội và

công an được coi là người của cộng đồng.

Xin bạn lưu ý: Người của cộng đồng ở đây không có nghĩa là

người nổi tiếng, như ca sĩ, diễn viên, người mẫu, mà có nghĩa là

người có ảnh hưởng đến cộng đồng, thậm chí có thể làm gương và

dẫn dắt cộng đồng, và vì thế phải chịu trách nhiệm trước cộng

đồng ấy về lối sống, hành động, hành vi ứng xử của họ.

Cụ thể những ai hoặc những nghề nào là người của cộng đồng

thì không có luật pháp nào quy định, điều đó tùy thuộc văn hóa của

mỗi xã hội, mỗi cộng đồng.

Một cách chung nhất thì những người của cộng đồng có thể bao

gồm lãnh đạo chính trị, linh mục, thầy tu, sư sãi, giáo viên, nhà báo,

nhà văn, nhà hoạt động xã hội, quân nhân, cảnh sát, kể cả các chức

vụ lãnh đạo nhỏ trong cấp chính quyền địa phương như chủ tịch

xã, chủ tịch huyện, trưởng thôn.

4. Nguy cơ lạm quyền rất cao

Chính vì là hai lực lượng duy nhất trong xã hội có quyền và có tính

chính danh để sử dụng vũ khí, vũ lực, cho nên quân đội và công an

có sức mạnh, và ở họ tiềm ẩn khả năng lạm quyền rất cao.

y Quân đội có thể dựng lên một chế độ, bảo vệ chế độ, và lật đổ

chế độ ấy. Họ có thể thay thế một chính quyền dân sự bằng một

chính quyền quân sự, với các tướng lĩnh quân đội nắm giữ các chức

vụ lãnh đạo dân sự, và lập nên một chế độ quân phiệt hay là một

chính quyền quân sự.

y Công an, có thể do mức độ vũ trang kém hơn và tính chính

danh thấp hơn quân đội, thường không dựng lên một chế độ,

không lật đổ chế độ và không thay thế chế độ. Nhưng họ lại có thể

khống chế, chi phối chính quyền, can thiệp, kiểm soát tiến trình

chính sách và mọi khía cạnh của đời sống dân sự, và tạo ra một nhà

nước cảnh sát hay là một chính quyền công an trị.

 

Chính trị bình dân | 471

Ngay cả khi quân đội và công an đứng ngoài chính trị, thì nguy

cơ lạm quyền vẫn tồn tại, nhất là ở công an. Bởi vì, khác với quân

đội, hoạt động của công an gắn chặt với cộng đồng trong đời sống

thường nhật. Nếu không có cơ chế kiểm soát (ta sẽ nói về cơ chế ấy

sau, trong chương này), thì công an rất dễ bắt nạt, hà hiếp dân, đơn

giản là vì họ mạnh hơn dân và họ ở gần dân hơn quân đội.

CHẾ ĐỘ QUÂN PHIỆT VÀ CHẾ ĐỘ CÔNG AN TRỊ

Đặc trưng của chế độ quân phiệt hay là nhà nước quân sự là:

y Tướng lĩnh quân đội nắm giữ các chức vụ lãnh đạo của nhà

nước – những chức vụ mà lẽ ra là thuần túy dân sự.

y Quân đội kiểm soát tiến trình chính sách.

y Chủ nghĩa quân phiệt trở thành ý thức hệ bao trùm: Quốc

phòng, quân sự phải mạnh thì đất nước mới hùng cường; chiến

tranh là một công cụ chính sách chính đáng và hiệu quả; quân

nhân được tôn vinh và được hưởng đặc quyền, đặc lợi; tinh thần

yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, kỷ luật nhà binh, sự phục tùng,

cống hiến, xả thân được ngợi ca.

y Luật nhà binh, tòa án quân sự được tăng cường và áp đặt rộng

rãi; thiết quân luật có thể được áp dụng thường xuyên và kéo dài.

Đất nước bị quân sự hóa (có thể đến mức độ như đang trong thời

chiến).

y Các quyền tự do dân sự bị bóp nghẹt.

Để lấy ví dụ về nhà nước quân phiệt, có thể kể đến: Chile dưới

thời Pinochet, Myanmar từ 1962 đến khi cải cách dân chủ, Libya

dưới thời đại tá Gaddafi.

Đặc trưng của chế độ công an trị hay nhà nước cảnh sát là:

y Lực lượng công an phát triển rất hùng mạnh về quân số.

y Công an được hưởng đặc quyền đặc lợi, hoạt động ngoài sự

giới hạn của luật pháp, có thể nói là đứng trên luật pháp.

 

472 | Phạm Đoan Trang

y Công an nắm quyền lực hành pháp không giới hạn, không bị

kiểm soát, và có thể sử dụng tùy tiện, không phải chịu trách nhiệm

giải trình trước bất kỳ lực lượng nào khác trong xã hội (công chúng,

báo chí, quốc hội hay tòa án).

y Công an can thiệp và kiểm soát tiến trình chính sách.

y Công an can thiệp và kiểm soát mọi khía cạnh của đời sống

dân sự, bằng các biện pháp nghiệp vụ như theo dõi, nghe lén, quay

phim trộm, quay phim công khai.

y Các quyền tự do dân sự bị bóp nghẹt.

Ví dụ về các nhà nước cảnh sát, có thể kể đến Đông Đức cũ

(CHDC Đức), và chính Việt Nam thời cộng sản (CHXHCN Việt

Nam).

Các bạn chú ý điểm giống nhau lớn giữa chúng là ở cả hai loại

xã hội này, các quyền tự do dân sự đều bị bóp nghẹt. Đó là những

nhân quyền mà người dân có trong quan hệ của họ với nhà nước,

tức là các nhân quyền để bảo vệ người dân khỏi sự can thiệp tùy

tiện của nhà nước, ví dụ: tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và lương

tâm, tự do đi lại, tự do tụ tập, tự do hiệp hội.

Khi quyền lực được tập trung cao độ vào một người hoặc một

nhóm người ở cương vị lãnh đạo, và các quyền tự do dân sự bị siết

chặt, quốc gia có thể đã trở thành độc tài quân sự hoặc độc tài công

an trị. (Xem “hội chứng sáu điểm” của chế độ toàn trị ở Phần III,

“Dân chủ”).

 

* * *

 

KIỂM SOÁT QUÂN ĐỘI

Do quân đội sở hữu vũ khí và sức mạnh như chúng ta đã biết, nên

kiểm soát quân đội trở thành một vấn đề trong mọi nền chính trị.

Ở các nước trên thế giới lâu nay, có hai cách chính để kiểm soát

 

Chính trị bình dân | 473

quân đội: 1. Sử dụng cách tiếp cận tự do (liberal approach); 2. Sử

dụng cách tiếp cận theo kiểu thâm nhập (penetration approach).

1. Cách tiếp cận tự do

Với cách tiếp cận này, hiến pháp và luật pháp của một quốc gia phải

bảo đảm rằng quân đội hoàn toàn giữ tính trung lập, phi chính trị

hay là nằm ngoài chính trị, và hệ thống quân đội phải nằm dưới sự

lãnh đạo của chính quyền dân sự. Họ phải trung thành với quốc

gia, theo nghĩa là trung thành với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền đối

ngoại của đất nước, trung thành với nhân dân và hiến pháp. Nhưng

không có nghĩa là trung thành với bất kỳ một đảng phái, chính

quyền, nội các nào.

Trung lập, như đã định nghĩa ở Chương IV (“Tư pháp”) của

Phần VI này, là phi đảng phái, không ủng hộ hay chống lại đảng

phái hay ý thức hệ nào. Phi chính trị, tức là không tìm cách gây

ảnh hưởng đến tiến trình chính sách, không giữ và không tranh

giành quyền lực nhà nước. Quân đội phải nằm dưới sự lãnh đạo

của chính quyền dân sự, thậm chí ngay cả trong lĩnh vực quốc

phòng – cùng lắm thì tướng lĩnh quân đội chỉ có thể đóng vai trò

cố vấn, tư vấn cho quan chức dân sự thôi chứ không có tiếng nói

quyết định.

Xin bạn lưu ý rằng những nguyên tắc này có thể thay đổi trong

thời chiến, tức là khi đất nước thật sự trong tình trạng chiến tranh.

Tuy nhiên, việc xác định và tuyên bố tình trạng chiến tranh cũng là

của chính quyền dân sự. Không thể có chuyện tướng lĩnh quân đội

đột nhiên tuyên bố đặt đất nước vào tình trạng chiến tranh, áp đặt

thiết quân luật và thay đổi mọi nguyên tắc trên.

Sở dĩ đây được gọi là “cách tiếp cận tự do” bởi vì nó được sử

dụng bởi các nước theo chế độ dân chủ tự do, ví dụ Mỹ và Tây Âu.

Từ “tự do” ở đây không hề hàm ý là quân đội được tự do, mà ngược

lại: Quân đội phải tuyệt đối phi chính trị, không được can thiệp vào

chính sách.

 

474 | Phạm Đoan Trang

2. Cách tiếp cận theo kiểu thâm nhập

Cách tiếp cận này hoàn toàn ngược lại với cách tiếp cận tự do: Thay

vì giữ quân đội trong tình trạng tuyệt đối phi chính trị thì ngược lại,

chính quyền (dân sự) chính trị hóa quân đội triệt để, theo hướng

để cho ý thức hệ và đảng cầm quyền “thâm nhập” toàn diện vào

quân đội. Thay vì trung thành với chủ quyền quốc gia, nhân dân và

hiến pháp, thì quân đội trung thành với đảng cầm quyền và ý thức

hệ của nó. Lòng trung thành này có được nhờ áp dụng đồng bộ

một loạt biện pháp: 1. Dành đặc quyền đặc lợi cho quân đội, đặc

biệt là tầng lớp lãnh đạo; 2. Tuyên truyền dữ dội về ý thức hệ của

đảng cầm quyền; 3. Trừng phạt, trừ khử, tiêu diệt các phần tử bất

tuân phục, song song với việc tưởng thưởng các quân nhân trung

thành, nhiệt thành về ý thức hệ.

Hẳn bạn đã biết cách tiếp cận này được áp dụng ở đâu: Các

nước độc tài, độc đảng, đặc biệt là các quốc gia cộng sản như Liên

Xô, Đông Đức cũ, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, và Việt Nam. Tại

các nước cộng sản này, một mạng lưới chi bộ đảng được lập nên

trong quân đội và vận hành song song với quân đội, lãnh đạo toàn

diện quân đội. (Các bạn có để ý đến những nhân vật được gọi là

“chính ủy”, “chính trị viên” trong quân đội?).

Những tướng lĩnh cao cấp, ngoài việc được hưởng quyền lợi vật

chất to lớn, còn có thể can thiệp vào tiến trình chính sách và/hoặc

giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền dân sự. Đổi lại,

quân đội đương nhiên là trung thành với đảng và đường lối của

đảng, và một lòng bảo vệ đảng cầm quyền.

Ở Việt Nam, so với công an, quân đội có được thiện cảm lớn

hơn nhiều từ dân chúng, do thừa hưởng hình ảnh đẹp của “anh bộ

đội cụ Hồ” trong cuộc chiến tranh vệ quốc, do tuyên truyền, và do

thực tế là tình trạng công an lạm quyền, bạo hành dân quá nghiêm

trọng. Vì lẽ đó, nhiều người vẫn nghĩ về khả năng quân đội đảo

chính, lật đổ chế độ toàn trị độc đảng để dân chủ hóa đất nước. Tuy

nhiên, có lẽ họ không để ý tới một thực tế là đảo chính quân sự rất

 

Chính trị bình dân | 475

ít xảy ra ở các nước cộng sản – nơi quân đội và chính quyền “thâm

nhập” nhau quá sâu sắc.

KIỂM SOÁT CÔNG AN

Cơ chế kiểm soát công an cũng tương tự như với quân đội, có hai

cách cơ bản nói trên. Tuy nhiên, do đặc thù của nghề công an là gắn

bó chặt chẽ với cộng đồng hơn quân đội, khả năng họ lạm quyền,

bạo hành dân cao hơn hẳn quân đội và vì thế, sự kiểm soát đối với

họ cũng phải chặt chẽ hơn.

Ở các nước theo chế độ dân chủ tự do, công an, ngoài việc trung

lập, phi chính trị và nằm dưới sự lãnh đạo của chính quyền dân sự,

còn phải chịu trách nhiệm giải trình và minh bạch rất ngặt nghèo

trước chính quyền, trước các lãnh đạo dân cử, trước quốc hội đại

diện của dân, trước báo chí và trước công luận.

Vấn đề đặt ra là: Ai, và làm thế nào để buộc công an phải chịu

trách nhiệm giải trình và minh bạch đây?

Giải pháp căn bản nhất là một nhà nước pháp trị (còn gọi là nhà

nước pháp quyền), một hệ thống tư pháp độc lập, quyền lực của

các cơ quan dân cử như quốc hội, và báo chí tự do.

Ngoài ra, những chuyên gia về nhân quyền trên thế giới khuyến

nghị rằng, ở nhiều nước, trong tình trạng công an lạm quyền mà

các thiết chế khác (quốc hội, tòa án, báo chí) chưa đủ mạnh để

kiểm soát nó, thì chính quyền có thể thành lập một cơ quan độc lập

để giám sát và điều tra hoạt động của công an. Song song với đó, là

việc đào tạo mạnh mẽ về nhân quyền, tự do, dân chủ cho công an

để họ ý thức được về chức năng, nhiệm vụ, nghĩa vụ của mình.

 

Bài đọc

 

NGHỀ CÔNG AN TRONG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ 1

 

THEO CHUẨN NHÂN QUYỀN:

Công an phải bảo vệ sự an toàn của cộng đồng và quyền của tất cả

mọi người.

Công an phải là một cơ quan độc lập trong nhánh hành pháp,

chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo của tòa án và bị ràng buộc bởi các mệnh

lệnh của tòa án.

Mọi cơ quan hành pháp đều phải đại diện cho toàn thể cộng

đồng, phải minh bạch và chịu trách nhiệm trước toàn thể cộng

đồng.

Tất cả quan chức/ cán bộ công an đều thuộc về cộng đồng và có

nghĩa vụ phục vụ cộng đồng.

Tất cả công an phải thực thi chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ

như những đầy tớ tận tụy, không thiên vị, của toàn thể cộng đồng.

Bất kỳ công an nào cũng không được phép tham gia trực tiếp

vào hoạt động chính trị.

Bất kỳ công an nào cũng không thể được lệnh hoặc bị ép buộc

phải thực thi chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ hay huy động

nguồn lực công an để hỗ trợ hay phá hoại bất kỳ đảng phái/ nhóm

lợi ích nào cũng như thành viên của đảng phái/ nhóm lợi ích đó.

1. “Human Rights Standards and Practice for the Police”, Professional Training Series No.

5/ Add. 3, Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights, 2004.

 

478 | Phạm Đoan Trang

Công an có nghĩa vụ bảo vệ quyền của tất cả các đảng phái, cá

nhân và tổ chức, cũng như bảo vệ tất cả các đảng phái, cá nhân và

tổ chức đó, một cách bình đẳng, không gây sợ hãi, không tạo đặc

quyền đặc lợi.

Trong việc thực thi các quyền và quyền tự do của mình, tất cả

mọi người đều chỉ phải chịu những giới hạn do luật pháp quy định.

Những giới hạn đối với việc thực thi các quyền và quyền tự do

chỉ có thể là những giới hạn cần thiết để công nhận và tôn trọng

quyền của người khác và để đáp ứng các đòi hỏi bắt buộc về đạo

đức, trật tự công cộng cũng như lợi ích chung trong một xã hội

dân chủ.

Mọi người đều có quyền tham gia vào việc quản trị đất nước

mình, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua những đại diện

do họ tự do lựa chọn.

Ý chí của nhân dân được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ

và trung thực với phổ thông đầu phiếu, mọi lá phiếu đều bình

đẳng.

Mọi người đều có quyền tự do quan điểm, tự do biểu đạt, tự do

tụ tập và tự do hiệp hội.

TẤT CẢ CÔNG AN ĐỀU PHẢI:

Giữ tính độc lập về chính trị và tính công bằng, vô tư, ở mọi lúc

mọi nơi.

Thực thi tất cả nhiệm vụ một cách công bằng, vô tư, và không

phân biệt đối xử về sắc tộc, chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo

hay chính kiến.

Bảo vệ và tôn trọng nhân quyền của tất cả mọi người, gồm cả

những quyền thiết yếu trong chính trị.

Giữ gìn và bảo vệ trật tự xã hội sao cho nền chính trị dân chủ có

thể vận hành một cách hợp hiến và hợp pháp.

 

Chính trị bình dân | 479

 

LÃNH ĐẠO CÔNG AN PHẢI:

Đảm bảo rằng mọi chính sách và đường lối của ngành công an đều

trên tinh thần tôn trọng dân chủ.

Có biện pháp để xác định nhu cầu của cộng đồng và đáp ứng

các nhu cầu đó.

Đảm bảo rằng cơ quan công an thực sự là đại diện cho toàn thể

cộng đồng, thông qua việc tuyển dụng công bằng và không phân

biệt đối xử, cũng như thông qua các chính sách và thực thi chính

sách công bằng và không phân biệt đối xử.

Đảm bảo rằng các thủ tục, quy trình tuyển dụng cũng như các

nội dung đào tạo, huấn luyện đều được xây dựng nhằm tuyển dụng

những nhân viên công an có tinh thần sẵn sàng và có năng lực đáp

ứng mọi yêu cầu của nghề công an trong một thể chế dân chủ.

 

* * *

 

SỬ DỤNG VŨ LỰC VÀ VŨ KHÍ TRONG NGÀNH CÔNG AN 1

Việc sử dụng vũ lực

Mọi người đều có quyền sống, quyền được an toàn, quyền không

bị tra tấn hay phải chịu các cách đối xử và trừng phạt tàn nhẫn, vô

nhân đạo, xúc phạm nhân phẩm.

Luôn luôn phải sử dụng các biện pháp phi bạo lực trước tiên.

Chỉ được sử dụng vũ lực khi cực kỳ cần thiết.

Chỉ được sử dụng vũ lực cho các mục đích hành pháp đúng luật.

Không có ngoại lệ hay cách giải thích nào cho việc sử dụng vũ

lực bất hợp pháp.

 

1. “International Human Rights Standards for Law Enforcement – A Pocket Book on

Human Rights for the Police”, United Nations High Commissioner for Human Rights.

 

480 | Phạm Đoan Trang

Việc sử dụng vũ lực phải luôn tương xứng với các mục tiêu hợp

pháp.

Sử dụng vũ lực luôn phải có sự kiềm chế.

Phải giảm thiểu thiệt hại vật chất và thương vong.

Luôn phải có một loạt phương tiện khác nhau cho việc sử dụng

vũ lực.

Tất cả các nhân viên công quyền đều phải được huấn luyện về

các phương tiện khác nhau cho việc sử dụng vũ lực.

Tất cả các nhân viên công quyền đều phải được huấn luyện về

các biện pháp hành pháp phi bạo lực.

Trách nhiệm giải trình trong việc sử dụng vũ lực và vũ khí

Tất cả các trường hợp sử dụng vũ lực hoặc vũ khí đều phải được

báo cáo đến các cán bộ, nhân viên cấp cao và có sự phê duyệt từ họ.

Các cán bộ, nhân viên cấp cao phải chịu trách nhiệm về những

hoạt động của công an theo mệnh lệnh của họ, nếu như quan chức

cấp cao đó đã biết hoặc lẽ ra đã phải biết về những hành vi lạm

quyền, mà lại không có hành động cụ thể nào.

Cán bộ, nhân viên từ chối tuân theo những mệnh lệnh vi phạm

pháp luật sẽ được miễn trách.

Cán bộ, nhân viên lạm quyền không thể nại lý do tuân lệnh cấp

trên để được miễn trừ trách nhiệm.

Các tình huống cho phép dùng vũ khí

Chỉ được sử dụng vũ khí trong các tình huống cực đoan.

Chỉ được sử dụng vũ khí để tự vệ hoặc để bảo vệ người khác

khỏi nguy cơ sắp bị giết hoặc bị thương nặng, hoặc

để ngăn chặn một tội ác đặc biệt nghiêm trọng, kéo theo nguy

cơ đe dọa mạng sống, hoặc

để bắt giữ hoặc ngăn chặn việc bỏ trốn của một cá nhân đang

gây ra một mối đe dọa hoặc đang chống lại các nỗ lực ngăn chặn

mối đe dọa đó, và

 

Chính trị bình dân | 481

Trong mọi trường hợp, chỉ là khi các biện pháp ít cực đoan hơn

đã trở thành không đủ.

Việc cố ý sử dụng vũ lực và vũ khí chỉ được cho phép khi đó là

việc thật sự không thể tránh khỏi để có thể bảo vệ sinh mạng con

người.

 

Bài đọc

 

NGUYÊN TẮC “DÂN QUẢN QUÂN” VÀ VẤN ĐỀ TƯỚNG

LĨNH NẮM QUYỀN CƠ QUAN DÂN SỰ VIỆT NAM 1

Nguyễn Quốc Tấn Trung

 

Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung, sau khi trở thành Phó bí thư

Đảng bộ Hà Nội, đang được giới thiệu nắm giữ chức Chủ tịch Ủy

ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. Nếu chưa xét đến thành tựu, kỹ

năng quản lý kinh tế, xã hội hay các cáo buộc lạm quyền đang ngày

càng gia tăng nhắm đến giới công an tại Hà Nội trong khoảng thời

gian gần đây, quy trình tổ chức nhân sự nói riêng cũng đã làm quan

ngại một bộ phận người dân thủ đô khi chúng ta đang đi vào con

đường của một chính phủ lai quân sự, bỏ qua một trong những

nguyên tắc quản lý nhà nước cơ bản của một quốc gia hiện đại:

“dân quản quân”.

CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM – QUÂN ĐỘI “ĐỐI NỘI”

Đến đây có lẽ sẽ có người bắt đầu nghi ngờ về tính liên kết của bài

viết bởi tướng Chung thuộc ngành công an, không phải thành viên

quân đội.

Dù vậy, ít người chú ý rằng Việt Nam là một trong những số ít

1. Bài đăng trên Luật Khoa Tạp Chí ngày 16/11/2015 tại địa chỉ: http://luatkhoa.

 

org/2015/11/nguyen-tac-dan-quan-quan-va-van-de-tuong-linh-nam-quyen-co-quan-

dan-su-viet-nam/

 

484 | Phạm Đoan Trang

quốc gia phong tướng cho các vị trí lãnh đạo công an, những vị trí

mà đáng lẽ ra chỉ nên là một công chức bình thường thuộc ngạch

quản lý của Bộ Tư pháp.

Tính chất này kèm với việc duy trì một bộ riêng biệt – Bộ Công

an, có quyền hạn và nguồn nhân lực khổng lồ, trở thành một đặc

sản không thể thiếu trong bộ máy bạo lực của Nhà nước Việt Nam,

song song với quân đội nhân dân.

Nói cách khác, việc các vị trí quản lý của cơ quan công an mang

danh hàm tướng không hẳn chỉ là vấn đề “tâm tư”, mà thể hiện

đúng vai trò và tầm ảnh hưởng của họ đối với các cơ quan quyền

lực nhà nước, vốn không kém cạnh gì so với tổ chức quân đội. Vì

vậy, dù còn nhiều tranh cãi, người viết cho rằng vẫn có đủ cơ sở để

xem hệ thống công an nhân dân tại Việt Nam tương tự như một tổ

chức quân đội “đối nội”. Đây cũng là căn cứ để người viết cân nhắc

phân tích nguyên tắc “dân quản quân” trong thực trạng hiện nay.

VÌ SAO “DÂN QUẢN QUÂN” QUAN TRỌNG?

Dân quản quân, hiểu theo nghĩa đơn giản là một nguyên tắc trong

quân sự học và khoa học chính trị, giao quyền quyết định tối cao

các vấn đề chiến lược, trật tự xã hội và an ninh quốc gia trong tay

của các lãnh đạo chính trị dân sự mà không phải là các thủ lĩnh

quân đội chuyên nghiệp. Thực tiễn chứng minh trong trường hợp

ngược lại, tức quân đội kiểm soát chính phủ, thông thường sẽ tạo

ra chế độ quân phiệt hoặc độc tài quân sự. Trong một trường hợp

khác, nếu cơ quan quyền lực dân sự không thể kiểm soát quân đội,

chúng ta lại có tình trạng “quốc gia trong quốc gia”.

Câu hỏi làm thế nào để kiểm soát những cá nhân sở hữu kỹ

năng, chiến thuật và quyền lực tối thượng, vốn có thể đàn áp và

cưỡng chế vật lý các chủ thể còn lại luôn là bài toán căn bản trong

tiến trình quản trị nhà nước của lịch sử nhân loại.

Các bậc vua chúa trong thời kỳ phong kiến cũng như một số

nhà nước còn tồn tại hiện nay ưa thích phương pháp xóa mờ ranh

 

Chính trị bình dân | 485

giới giữa hai nhánh quyền lực dân sự và quân sự, đồng nghĩa với

việc họ là người nắm toàn quyền kiểm soát của cả hai nhánh. Cách

làm này thật sự không khác biệt mấy so với thể chế độc tài quân sự

bởi nếu cần thiết, cá nhân nắm quyền vẫn sẽ sử dụng quyền lực

quân sự như là công cụ đắc lực nhất nhằm kiểm soát các biến động

về dân sự, có thể bao gồm xử lý yêu sách của công dân, thuế, các

tranh chấp dân sự thông thường hay quan trọng nhất, bảo vệ quyền

lực dân sự tối cao của mình.

Đặc điểm dễ nhận biết của thể chế này là những người thống trị

quyền lực dân sự không có sự chính danh từ ý nguyện của nhân

dân (như thông qua bầu cử) mà từ các cơ sở khác như thần quyền,

huyết thống, hay lý thuyết chính trị. Vì lý do đó, nắm giữ cả hai

nhánh là chìa khóa để bảo vệ lợi ích và sự cầm quyền lâu dài của họ.

Ngược lại, sự quản chế đúng nghĩa của chức danh dân sự, được

bầu chọn bởi nhân dân, đối với hệ thống quân sự là nền tảng cơ

bản để một thể chế dân chủ có thể tồn tại. Vì sao lại có quan niệm

như vậy?

1. Sự kiểm soát dân sự trước tiên cho phép chính phủ một quốc

gia đánh giá và kiểm soát những giá trị và mục đích của mình căn

cứ vào nguyện vọng và niềm tin phổ biến của nhân dân hơn là kỳ

vọng vào các lựa chọn của giới lãnh đạo quân sự, vốn chỉ tập trung

vào trật tự nội bộ và an ninh biên giới.

Ví dụ cụ thể cho đặc điểm này là việc pháp luật của một quốc gia

cho phép biểu tình.

Theo đánh giá ngắn hạn, biểu tình diện rộng khó lòng có bất kỳ

tác dụng tích cực nào ngoài sự hỗn loạn nhất thời, đốt cháy thời

gian lao động một cách vô nghĩa và ảnh hưởng lớn đến nguồn thu

kinh tế của xã hội. Vì vậy, giới quân sự sẽ có cách quản lý cấm đoán,

triệt tiêu và dập tắt ngay lập tức.

Trong khi đó, các chức danh dân sự được nhân dân bầu chọn,

thấu hiểu quan điểm, niềm tin của quần chúng nhân dân và quan

trọng hơn, họ được sống trong một môi trường tin rằng sự hỗn

 

486 | Phạm Đoan Trang

loạn nhất thời đó cần thiết để chính phủ có thể biết được công dân

của họ đang muốn điều gì, là cơ sở của cải cách và hoàn thiện bộ

máy nhà nước.

2. Tổ chức quân đội (hay các tập hợp bạo lực tương tự) dù cực

kỳ cần thiết và quan trọng, lại là mô hình tổ chức thiếu dân chủ

nhất trong kinh nghiệm lịch sử quản lý nhà nước. Điều này trái

ngược với bản chất tự nhiên tự do cá nhân và tự do dân sự của con

người. Vì quân đội được lập ra để bảo vệ các bản chất tự do đó, sự

kiểm soát phải thuận chiều.

3. Quân đội mang tính chất ủy quyền. Trong khi đó xã hội là sự

hợp tác và đồng thuận.

Nói cách khác, dù ở quy mô quốc gia hay cộng đồng, sự tồn tại

của một chính quyền dựa trên sự ủy quyền của các cá nhân trong

xã hội, tự nguyện từ bỏ một phần quyền lợi của mình nhằm duy trì

sự ổn định và khả năng phát triển của xã hội đó. Quân đội cũng

không nằm ngoài phạm vi này. Trường hợp những người đứng đầu

quân đội không hề được ủy quyền từ bất kỳ cơ quan dân sự hay

đồng thuận xã hội nào khác, tức là họ tự giao cho mình quyền được

thay mặt dân chúng, bước đầu tiên của thể chế độc tài.

Lý thuyết này chắc chắn không thừa khi nó hoàn toàn có thể

ảnh hưởng đến vận mệnh thế giới mà ví dụ cụ thể là xung đột nổi

tiếng Truman - MacArthur vào những năm 1950 trong kỷ nguyên

bom nguyên tử.

Trong chiến tranh Triều Tiên và các cuộc chiến tranh Hoa Kỳ

phát động chống lại phong trào cộng sản cùng thời điểm, vị tướng

huyền thoại MacArthur luôn mong muốn sử dụng bom nguyên tử

như một chiến thuật chiến tranh đơn giản, hiệu quả, hoàn thành

nhiệm vụ mà vẫn bảo đảm được tính mạng của quân nhân dưới

trướng ông. Nguyên tắc “dân quản quân” trong pháp luật Hoa Kỳ,

may mắn thay, giúp quan chức dân sự kịp thời ngăn cản vì lo ngại

sự bùng nổ của một cuộc thế chiến và chạy đua vũ trang mới.

Tướng MacArthur sau đó nhanh chóng phải từ bỏ vị trí chỉ huy

chiến trường và trở về Hoa Kỳ.

 

Chính trị bình dân | 487

HOA KỲ: KHÔNG ĐƯỢC DÁN BIỂU TƯỢNG ĐẢNG PHÁI TRÊN

XE CÁ NHÂN – VƯƠNG QUỐC ANH: KHÔNG ĐƯỢC BÌNH

LUẬN CHÍNH TRỊ

Một câu hỏi mà nhiều người có thể đặt ra là “Điều gì xảy ra nếu quá

trình dân chủ lựa chọn một ra một vị tướng đương nhiệm trở

thành quan chức dân sự?” và liệu cấm cản có vi phạm quyền tự do

bầu cử của dân chúng. Câu trả lời là có, nhưng đó là điều cần thiết;

bởi khả năng của việc lạm dụng bạo lực để khống chế và kiểm soát

hệ thống bầu cử là quá cao, như cách mà chính quyền Thái Lan hay

Myanmar vẫn đang sử dụng. Cách tốt nhất là ngăn chặn cơ hội xảy

ra vấn đề ngay từ đầu như một số quốc gia đã làm, bảo đảm rằng

quá trình bổ nhiệm, chỉ định chỉ đi một hướng từ dân sự sang quân

sự mà không có chiều ngược lại.

Với pháp luật Hoa Kỳ, hiển nhiên sản phẩm nền tảng là bản hiến

pháp dân sự. Theo đó, Tổng thống Hoa Kỳ, thống chế tối cao của

lực lượng quân đội, là một chức danh được nhân dân bầu cử rộng

rãi mỗi bốn năm một lần. Quyền lực quân sự đồng thời cũng được

chia tách giữa Tổng thống và Nghị viện.

Không dừng lại, các văn bản dưới hiến pháp còn quy định

những vấn đề cụ thể hơn với chỉ thị 1344.10 của Bộ Quốc phòng

Hoa Kỳ làm nòng cốt (DOD Directive 1344.10). Chỉ thị này hướng

đến việc kiểm soát việc tham gia chính trị các quân nhân thuộc

biên chế quân đội Hoa Kỳ vào mọi cấp chính quyền dân sự.

Trong đó, thành viên quân đội không thể:

- Là ứng cử viên hay nắm giữ bất kỳ chức vụ nào trong bộ máy

dân sự.

- Đăng tải, cho phép đăng tải hoặc có bất kỳ tác động nào khác

dẫn đến việc đăng tải bài viết của hoặc nhân danh mình nhằm lôi

kéo phiếu bầu cho hoặc chống lại một đảng phái, ứng cử viên

chính trị.

- Phát biểu trước quần chúng nhằm kêu gọi ủng hộ cho một

đảng phái, ứng cử viên chính trị.

 

488 | Phạm Đoan Trang

- Tham gia vào bất kỳ chương trình phát thanh, truyền hình,

chương trình truyền thông khác, với tư cách người ủng hộ cho một

đảng phái hoặc ứng cử viên chính trị.

- Bán vé (hoặc tham gia tích cực) vào quảng bá các sự kiện gây

quỹ chính trị.

- Tham gia vào bất kỳ buổi tuần hành ủng hộ chính trị nào.

- Phục vụ như thành viên chính thức hoặc được liệt kê như nhà

tài trợ cho một câu lạc bộ hoặc đảng phái chính trị.

- Trưng bày, dán dấu hiệu, tranh cổ động, biểu tượng của một

đảng phái chính trị lên phương tiện di chuyển riêng tư

- ...

Tương tự, tại Vương quốc Anh, sự tham gia của quân đội vào

các vấn đề chính trị không phải là một thái độ được cho phép, đôi

khi được xem là làm hại đến thanh danh Hoàng gia.

Các tiêu chuẩn và quy tắc ứng xử của lực lượng vũ trang Vương

quốc Anh được ghi nhận rõ trong Điều lệ Nữ hoàng (trong đó có

các văn bản riêng biệt dành cho Lục quân, Hải quân và Không

quân), bao gồm:

- Nghiêm cấm các thành viên quân đội nắm giữ các vị trí hoạt

động tích cực trong các tổ chức chính trị; đồng thời cũng hạn chế

chặt chẽ việc bổ nhiệm vào các vị trí này trong và sau thời gian

quân ngũ.

- Quân nhân không được phép bình luận hoặc đóng góp vào

các cuộc tham luận công liên quan đến bất kỳ chủ đề chính trị gây

tranh cãi nào.

- ...

Văn hóa nói chung của hầu hết các quốc gia đều coi trọng và

vinh danh những người lính. Điều này không nên đồng nghĩa với

việc các tướng lĩnh có thể tham gia một cách tự do vào các hoạt

động chính trị dân sự.

 

Chính trị bình dân | 489

Dưới cơ chế quản lý đơn nhất và mệnh lệnh, quân đội luôn có

khả năng trở thành công cụ để bảo vệ nền độc tài toàn trị, thậm chí

chính nó trở thành người kế thừa của nền độc tài đó. Ở một góc

nhìn khác, một quân đội lớn hơn cần thiết, thực hiện các nhiệm vụ

hoặc công việc nằm ngoài phạm vị bảo vệ quốc gia (như hành

chính, kinh tế...) luôn tiềm ẩn rủi ro sự thoát ly, lộng quyền và

thách thức của quân đội so với các thể chế dân sự.

 

Phụ lục

 

KỸ THUẬT TUYÊN TRUYỀN

 

Các học giả đã xác định được rất nhiều kỹ thuật được sử dụng làm

chuẩn mực trong tuyên truyền và thuyết phục.

Tấn công cá nhân - Ad hominem

Một cụm từ tiếng Latin, có nghĩa là tấn công vào đối thủ của

mình thay vì tấn công quan điểm mà đối thủ đưa ra.

Lặp đi lặp lại - Ad nauseam

Kỹ thuật này đòi hỏi phải lặp đi lặp lại không ngừng một quan

điểm, một ý kiến nào đó. Một ý tưởng, đặc biệt là một khẩu hiệu

đơn giản, nếu được lặp đi lặp lại đủ nhiều lần, có thể sẽ bắt đầu

được coi là sự thật.

Kỹ thuật này có hiệu quả nhất khi báo chí bị giới hạn hoặc bị

kiểm soát bởi các nhà tuyên truyền.

Viện dẫn thẩm quyền - Appeal to authority

Trích dẫn những người nổi tiếng để ủng hộ cho một lập trường,

ý kiến, lập luận, hoặc hành động của mình.

Gây sợ hãi - Appeal to fear

Tạo ảnh hưởng bằng cách gieo rắc nỗi lo sợ và hốt hoảng trong

dân chúng, chẳng hạn như Joseph Goebbels khai thác thuyết

“Nước Đức phải chết!” của Theodore Kaufman để tuyên bố rằng

quân Đồng minh có ý đồ tiêu diệt dân tộc Đức.

 

492 | Phạm Đoan Trang

Sử dụng thành kiến - Appeal to prejudice

Dùng những ngôn từ gài bẫy hoặc đánh vào cảm xúc để gắn giá

trị hoặc sự tốt đẹp về đạo đức với việc tin tưởng vào quan điểm

được tuyên truyền.

Vận động tham gia đoàn diễu hành - Bandwagon

Tạo một đoàn diễu hành và vinh danh “chiến thắng tất yếu”

nhằm thuyết phục người nghe tham gia và hành động, bởi vì “tất cả

mọi người khác đều đang tham gia và hành động”.

- Chiến thắng tất yếu: Mời những người chưa tham gia đoàn

diễu hành cùng hòa vào những người đã tham gia và đang trên

đường đi tới chiến thắng. Những người đã tham gia hay ít nhất có

dự một phần trong đoàn diễu hành thì được đảm bảo rằng đấy là

hành động tuyệt vời nhất của họ. Ví dụ: Tuyên bố “Cuộc tranh luận

thế là đã chấm dứt. 97% các nhà khoa học nhất trí rằng...”.

- Tham gia đám đông: Kỹ thuật này củng cố một nguyện vọng

tự nhiên của con người là được đứng bên thắng cuộc. Sử dụng kỹ

thuật này để thuyết phục người nghe rằng chương trình của mình

là biểu hiện của một phong trào quần chúng rất mạnh, không thể

cưỡng nổi và quần chúng sẽ đạt được lợi ích lớn nhất khi tham gia.

Đêm trước cuộc bầu cử, đảng có thể tổ chức một chương trình

truyền hình vui vẻ, ví dụ, lấy tên là “Đoàn lữ nhạc”, rồi mời ứng

viên của đảng mình, các đảng viên, các ủng hộ viên, cảm tình viên,

các ngôi sao showbiz, v.v. đến tham dự. Tại đây, điểm nhấn của

chương trình sẽ là màn thông báo với các khán giả xem truyền

hình rằng đa số lãnh đạo trong địa phương đã tham gia “đoàn lữ

nhạc” để ủng hộ các ứng viên của đảng này.

Bằng cách đó, sẽ thuyết phục được các cử tri còn đang do dự.

Dùng người đẹp - Beautiful people

Kiểu tuyên truyền sử dụng người nổi tiếng hoặc những người

quyến rũ, hạnh phúc. Điều này hàm ý rằng nếu mọi người mua

một sản phẩm hay đi theo một ý thức hệ nào đó, họ cũng sẽ hạnh

 

Chính trị bình dân | 493

phúc hoặc thành công như thế. (Kỹ thuật này được sử dụng nhiều

trong quảng cáo sản phẩm hơn là cho mục đích chính trị).

Nói dối trắng trợn - Big Lie

Lặp đi lặp lại việc giải thích một chuỗi sự kiện nhằm biện minh

cho hành động sau đó. Việc mô tả những sự kiện đó cũng có vài

yếu tố sự thật, và những khái quát hóa mang tính “nói dối trắng

trợn” rồi sẽ hòa tan vào và cuối cùng thế chỗ cách hiểu đúng đắn

của công chúng về các sự kiện ngầm ẩn. Sau Thế chiến I, cách giải

thích về thất bại, cho rằng nó xuất phát từ việc bị “người Đức đâm

dao sau lưng”, đã trở thành một lý lẽ biện hộ cho việc phe phát xít

tái quân sự hóa và trả thù.

Ngụy biện Đen- Trắng - Black-and-White fallacy

Chỉ đưa ra có hai lựa chọn, trong đó, sản phẩm hoặc ý tưởng

được tuyên truyền sẽ là lựa chọn tốt hơn. Ví dụ: “Hoặc anh theo

chúng tôi, hoặc chống chúng tôi”.

Lượm đào hay là chọn lọc sự thật - Cherry picking (fallacy) or

Selective truth

Richard Crossman, Phó Giám đốc Phòng Chiến tranh Tâm lý

Anh quốc (PWD) trong Thế chiến II, từng nói: “Trong tuyên

truyền, sự thật rất có lợi... Nếu nghĩ nhà tuyên truyền xuất sắc chỉ

là một kẻ nói dối chuyên nghiệp thì sai hoàn toàn. Nhà tuyên

truyền xuất sắc là người nói thật, hay là nói có chọn lọc những sự

thật cần thiết cho mục đích của ông ta, và nói theo một cách làm

cho người tiếp nhận không hề nghĩ là mình đang bị tuyên truyền...

[...] Nghệ thuật tuyên truyền không phải là nói dối, mà thay vì thế,

phải lựa chọn các sự thật mình cần và công bố, pha trộn nó với một

số điều mà người nghe muốn nghe”.

Điều kiện hóa cổ điển - Classical conditioning

Tất cả các động vật có xương sống, gồm cả con người, đều phản

ứng với điều kiện hóa cổ điển. Tức là, nếu đối tượng A luôn luôn

có mặt khi đối tượng B hiện diện và đối tượng B gây ra một phản

 

494 | Phạm Đoan Trang

ứng vật lý/ thể chất (ví dụ: kinh tởm, khoan khoái...), thì, nếu chúng

ta thấy đối tượng A khi đối tượng B không có mặt, chúng ta sẽ có

cùng những cảm giác đó.

Đây là giải thích khoa học của các hành vi lặp đi lặp lại hay thói

quen. Ví dụ: Từ nhỏ, một người đã được nhắc nhở đánh răng mỗi

buổi sáng, cho đến khi trở thành thói quen cứ sáng thức dậy là đi

đánh răng, nếu không sẽ cảm thấy khó chịu.

Không hòa hợp về nhận thức - Cognitive dissonance

Con người luôn muốn thống nhất, nhất quán. Giả sử một người

đi thăm dò ý kiến (làm poll) nhận thấy rằng một nhóm người nào

đó ghét ứng viên thượng nghị sĩ nhưng lại yêu diễn viên điện ảnh

A. Người làm poll này bèn mướn A ca tụng ứng viên nọ để thay đổi

suy nghĩ của dư luận, bởi vì mọi người không thể chịu nổi sự không

thống nhất. Họ buộc phải: hoặc là ghét diễn viên A, hoặc là thích

ứng viên thượng nghị sĩ đó.

Người thường - Common man

Dùng hình ảnh những “con người bình dị” hay “người thường”

để thuyết phục người nghe rằng quan điểm của nhà tuyên truyền

phản ánh lương tri, lẽ phải thông thường của dân chúng. Việc này

nhằm giành sự tin cậy, tin tưởng của người nghe, thông qua việc

trao đổi, trò chuyện, giao tiếp với họ bằng hình thức và phong cách

chung của đối tượng đó.

Các nhà tuyên truyền sẽ dùng ngôn ngữ bình dân, phong cách

bình dị (và che phủ thông điệp của mình bằng lối giao tiếp/ truyền

thông trực diện, có cả nghe cả nhìn), cố gắng làm sao để đồng nhất

quan điểm của mình với quan điểm của một người bình thường.

Ví dụ rất phổ biến của kỹ thuật tuyên truyền này là khi một

chính khách, thường là khi tranh cử để được tái đắc cử, sẽ xuất hiện

ở sân sau nhà hay là trong cửa hàng để làm những việc lặt vặt

thường ngày. Hình ảnh đó rất hấp dẫn những người dân bình

thường nói chung.

 

Chính trị bình dân | 495

Bằng kỹ thuật sử dụng hình ảnh “người thường”, nhà tuyên

truyền có thể giành được sự tin cậy của người dân - những người

căm ghét hoặc không tin vào ngôn ngữ ngoại giao, ngôn từ có

nhiều tiếng nước ngoài, ngôn ngữ hàn lâm của giới trí thức, hoặc

các phong cách như thế.

Ví dụ khác: Một chính trị gia khi nói trước đám đông cử tọa là

người ở các bang phía nam Hoa Kỳ có thể dùng những từ như

“Y’all” (you all - tất cả các bạn) và các từ thông tục khác để tạo ra

cảm giác ông ta thuộc về cộng đồng đó.

Sùng bái cá nhân - Cult of personality

Sùng bái cá nhân xuất hiện khi một cá nhân sử dụng truyền

thông đại chúng để tạo ra một hình ảnh anh hùng và lý tưởng trước

công chúng, thường là thông qua nịnh bợ, tâng bốc và tôn vinh

không cần hỏi. Sau đó, cá nhân “anh hùng” đó sẽ cổ súy những lập

trường/ quan điểm mà nhà tuyên truyền muốn thúc đẩy. Ví dụ,

nhà tuyên truyền hiện đại thuê các cá nhân nổi tiếng để phổ biến ý

tưởng và/hoặc sản phẩm của mình.

Biến đối phương thành ác quỷ - Demonizing the enemy

Làm cho các cá nhân thuộc quốc gia đối lập, thuộc sắc dân khác,

hay là những người ủng hộ quan điểm đối lập với mình, trở thành

không còn là người nữa, vô giá trị, hoặc vô đạo đức, thông qua việc

sử dụng những cách dùng từ sai hoặc có hàm ý buộc tội (sai). Ví dụ:

Từ “gooks” - nghĩa là “da vàng” - được dùng trong thời Chiến tranh

Việt Nam để chỉ những người lính thuộc Mặt trận Quốc gia Giải

phóng Miền Nam Việt Nam, tức Việt Cộng, hay “VC”.

Coi đối phương như không phải là người nữa cũng đồng nghĩa

với biến đối phương thành ác quỷ, cái sau thường là một nhánh

nhỏ của cái trước.

Dictat

Kỹ thuật này hướng tới đơn giản hóa quá trình ra quyết định,

bằng cách sử dụng các hình ảnh và ngôn từ để nói với người nghe

 

496 | Phạm Đoan Trang

chính xác là cần hành động như thế nào, xóa bỏ mọi lựa chọn khả

dĩ khác. Có thể sử dụng các nhân vật quyền lực để ra lệnh - điều

này giống như ở kỹ thuật “Viện dẫn thẩm quyền” đã nói ở trên,

nhưng không nhất thiết. Hình Chú Sam với câu nói “Tôi cần các

anh” là ví dụ của việc sử dụng kỹ thuật Dictat.

Tung tin sai lệch - Disinformation

Là tạo ra hoặc xóa bỏ thông tin khỏi các lưu trữ công cộng,

nhằm mục đích đưa đến sự ghi chép sai lệch về một sự kiện hoặc

hành động của một cá nhân hay tổ chức, gồm cả việc ngụy tạo triệt

để những hình ảnh, phim, chương trình phát thanh-truyền hình,

file ghi âm... cũng như các tài liệu văn bản.

Kỹ thuật “đập cửa vào mặt” - Door-in-the-face technique

Được dùng để làm tăng mức độ chấp nhận ở một người nào đó.

Ví dụ, nếu người bán hàng muốn bán một sản phẩm với giá 100

USD nhưng công chúng chỉ sẵn sàng trả có 50 USD, thì đầu tiên

người bán hàng đó rao bán sản phẩm với mức giá cao hơn (chẳng

hạn, 200 USD), và sau đó giảm giá xuống còn 100 USD để làm cho

nó giống như một cái giá phải chăng.

Nói giảm nói tránh, nói khéo – Euphemism

Nói giảm nói tránh, nói khéo, hay uyển ngữ, là những từ ngữ

hay thành ngữ nói chung là vô thưởng vô phạt, được sử dụng để

thay thế những ngôn từ có thể bị coi là thô lỗi, xúc phạm, hay hàm

ý không hay.

Khoái lạc - Euphoria

Sử dụng một sự kiện có khả năng tạo ra niềm vui, hạnh phúc,

hứng khởi, hoặc sử dụng một sự kiện thú vị để làm người nghe lên

tinh thần. Có thể tạo ra sự phấn khởi đó bằng cách tuyên bố một

ngày nghỉ, hạ giá các xa xỉ phẩm, hoặc tổ chức diễu binh với ban

nhạc và các thông điệp yêu nước.

Phóng đại - Exaggeration

Phóng đại (ngoa dụ) xuất hiện khi các khía cạnh quan trọng

 

Chính trị bình dân | 497

nhất của một thông báo là đúng sự thật, nhưng chỉ đúng ở chừng

mực nào đó thôi. Kỹ thuật này còn được gọi là “tán thêm vào sự

thật” hay là làm cho cái gì đó trở nên hoành tráng hơn, ý nghĩa hơn,

thật hơn, sống động hơn thực tế. Nói rằng một người ăn được 20

cái nem trong bữa tiệc, trong khi thực ra người đó chỉ ăn 7-8 cái

nem, là một hành vi phóng đại.

Sợ hãi, bất trắc, và nghi ngờ - Fear, uncertainty, and doubt

Nỗ lực gây ảnh hưởng đến quan niệm của công chúng bằng

cách phát tán các thông tin tiêu cực, lờ mờ không đáng tin cậy/sai

lệch, nhằm phá hoại sự tín nhiệm của công chúng.

Vẫy cờ - Flag-waving

Cố gắng bao biện cho một hành động, lấy lý do là làm như thế

sẽ khiến cho mọi người yêu nước hơn; hay nói cách khác việc đó sẽ

có lợi cho tổ chức/ đất nước, hay cho một quan niệm. Tình cảm

yêu nước mà kỹ thuật này tạo ra có thể không nhất thiết làm giảm

hoặc xóa bỏ hoàn toàn khả năng kiểm tra vấn đề một cách lý tính,

duy lý.

Đặt dần chân vào cửa - Foot-in-the-door technique

Kỹ thuật này thường được các nhà tuyển dụng hoặc giới bán

hàng sử dụng. Ví dụ, người khác giới đi đến bên nạn nhân và trao

một bông hoa hay một món quà nhỏ cho nạn nhân. Nạn nhân cảm

ơn và thế là họ đã mắc một món nợ tâm lý với thủ phạm. Cuối

cùng, thủ phạm sẽ hỏi xin một ân huệ còn lớn hơn thế (chẳng hạn

xin tài trợ thiện nguyện hoặc mua một cái gì đó còn đắt hơn gấp

nhiều lần). Cái khế ước xã hội bất thành văn giữa nạn nhân và thủ

phạm khiến cho nạn nhân cảm thấy có một nghĩa vụ đáp lại bằng

cách đồng ý gia ân hoặc bỏ tiền mua một món quà đắt hơn nhiều.

Đóng khung, định hình, tạo khuôn - Framing (trong khoa

học xã hội)

Đóng khung là việc tạo ra một hiện tượng xã hội, thường là

bằng truyền thông đại chúng, bằng các phong trào chính trị hoặc

 

498 | Phạm Đoan Trang

phong trào xã hội, bằng các nhà lãnh đạo chính trị, hoặc các diễn

viên và các tổ chức khác. Đó là một quá trình tất yếu: tác động một

cách có chọn lọc lên nhận thức của cá nhân về ý nghĩa được gán

cho các từ ngữ.

Các chuyên gia cho rằng, khi ta lý giải một sự việc nào đó, cách

ta hiểu về nó sẽ phụ thuộc vào “cái khung” mà ta gắn với nó. Ví dụ,

khi một người có hành vi nhắm rồi mở rất nhanh một con mắt với

ta, thì nếu gắn hành vi đó với cái khung “vật lý/ sinh lý”, ta sẽ hiểu

rằng đó chỉ là một phản ứng tự nhiên của cơ thể. Còn nếu gắn nó

với cái khung xã hội, ta sẽ cho rằng người ấy đang nháy mắt với ta,

có thể là đang đùa vui. Tất nhiên, chúng ta không đi theo thứ tự

nhìn sự việc - gắn nó vào một cái khung - lý giải; mà là ngược lại,

chúng ta áp đặt sẵn một cái khung vào mọi sự vật, hiện tượng, và

chúng ta chỉ biết được là mình đã bị đóng khung sẵn như thế khi

có ai đó hoặc cái gì đó buộc ta phải thay thế cái khung này bằng cái

khung khác.

Những cái tổng quát lấp lánh - Glittering generalities

Đó là những từ ngữ dễ nghe, cuốn hút, được áp dụng cho sản

phẩm hay ý tưởng, nhưng chẳng đưa ra được lý lẽ hay phân tích cụ

thể nào. Kỹ thuật này còn được gọi là “hiệu ứng PT Barnum”. Ví dụ

như slogan quảng cáo: Ford có một ý tưởng còn tuyệt vời hơn.

Phạm tội tập thể - Guilt by association or Reductio ad

Hitlerum

Kỹ thuật này được dùng để thuyết phục những người phản đối/

không tán thành một hành động hay ý tưởng, bằng cách gợi ý rằng

ý tưởng đó rất phổ biến/ được ưa thích bởi những nhóm mà họ

ghét, sợ, khinh bỉ. Do đó, nếu một nhóm ủng hộ một chính sách

nào đó lại bị dẫn dắt để tin rằng những người bị căm ghét, những

người gây rối/ chống phá, hoặc đáng khinh cũng ủng hộ chính sách

đó, thì khi ấy, các thành viên của nhóm ủng hộ có thể quyết định

thay đổi lập trường ban đầu của họ. Đây là một hình thức logic tồi,

trong đó, A được cho là bao gồm X, và B cũng được cho là bao gồm

X, do đó A = B.

 

Chính trị bình dân | 499

 

Một nửa sự thật

Nửa sự thật là một phát biểu lừa dối nhưng có chứa đựng yếu tố

sự thật. Về hình thức, nó có vài dạng: phát biểu có thể đúng một

phần, phát biểu có thể đúng hoàn toàn nhưng chỉ là một phần của

toàn bộ sự thật, hoặc phát biểu có thể sử dụng một vài yếu tố lừa

dối, ví dụ như sử dụng cú pháp (dấu chấm câu) không đúng, hay

đa nghĩa, đặc biệt nếu ý đồ là để lừa, để trốn tránh, để buộc tội, hay

diễn giải sai sự thật.

Sự mơ hồ có chủ đích - Intentional vagueness

Những cái tổng quát được nêu ra một cách mơ hồ cố ý, sao cho

đối tượng có thể tự tìm cách diễn giải cho mình. Ý đồ là tác động

tới người nghe bằng cách sử dụng những cụm từ không được định

nghĩa, và không phân tích ý nghĩa của chúng cũng như không xác

quyết tính hợp lý hay khả năng ứng dụng chúng.

Chủ đích ở đây là khiến cho người ta phải tự rút ra diễn giải

riêng của mình thay vì tiếp nhận một ý kiến được trình bày rõ ràng.

Trong việc cố gắng “luận giải, làm rõ” nội dung được tuyên truyền,

người nghe sẽ bỏ qua việc đánh giá các ý kiến được trình bày. Ý

nghĩa, logic, tính hợp lý và khả năng ứng dụng có thể vẫn được

xem xét.

Dán nhãn - Labeling

Uyển ngữ (nói khéo) được dùng khi nhà tuyên truyền muốn

làm tăng chất lượng, độ tin cậy, hay sự chấp nhận từ phía người

nghe đối với một lý tưởng cụ thể nào đó. Còn thô ngữ (nói phũ)

được dùng khi chủ đích của nhà tuyên truyền là làm mất tín nhiệm,

là làm giảm chất lượng, độ tin cậy, hoặc hạ thấp phẩm chất của đối

phương. Bằng việc tạo ra một cái nhãn, bằng việc xếp loại, phân

loại người dân, sẽ dễ dàng hơn nhiều để nhà tuyên truyền lôi những

nhóm dân lớn hơn ra làm đối tượng, làm gương, bởi vì khi làm thế,

ông ta có thể nâng người ta lên hoặc bôi nhọ người ta mà không

thực sự phạm vào tội phỉ báng (bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm)

theo quy định của pháp luật.

 

500 | Phạm Đoan Trang

Dán nhãn có thể được xem như một nhánh của kỹ thuật “Phạm

tội tập thể”, cũng là một dạng ngụy biện khác.

Biên độ chấp nhận - Latitudes of acceptance

Nếu thông điệp của một người nào đó nằm ngoài khả năng

chấp nhận của một cá nhân và/hoặc nhóm, thì hầu hết các kỹ thuật

tuyên truyền sẽ tạo ra sự phản kháng về mặt tâm lý (nếu chỉ nghe ý

kiến đó không thôi thì sẽ làm thông điệp thậm chí còn khó chấp

nhận hơn).

Có hai kỹ thuật để mở rộng biên độ chấp nhận. Một là, người đó

có thể đưa ra một quan điểm thậm chí còn cực đoan hơn, khiến

cho các quan điểm ôn hòa hơn sẽ trở nên dường như dễ nghe hơn.

Điều này tương tự như kỹ thuật “Đập cửa vào mặt”. Hoặc, hai là,

người đó có thể điều chỉnh quan điểm của mình cho ôn hòa hơn,

lọt vào trong biên độ chấp nhận được, và sau đó, dần dần tiến chậm

đến quan điểm mà trước đó bị phản ứng.

Ngôn từ gài bẫy/ cài cắm - Loaded language

Sử dụng những từ, ngữ có hàm ý cảm xúc mạnh để gây ảnh

hưởng lên người nghe. Ví dụ, dùng từ “cải cách” thay vì một từ

trung tính hơn là “thay đổi”.

Bom tình - Love bombing

Sử dụng kỹ thuật này để tuyển lựa các thành viên tham gia một

tín ngưỡng hay một ý thức hệ (chủ nghĩa), bằng cách làm cho một

nhóm cá nhân cắt mọi ủng hộ xã hội hiện có của họ dành cho một

người nào đó, và thay thế hoàn toàn sự ủng hộ đó bằng các thành

viên của nhóm - các thành viên đó sẽ dội bom người đó bằng thật

nhiều tình cảm yêu mến, nhằm nỗ lực cách ly người đó khỏi niềm

tin và hệ thống giá trị trước đấy của anh ta. Xem thêm Mileu

control (Kiểm soát hoàn cảnh).

Dối trá, lừa đảo - Lying and deception

Dối trá, lừa đảo có thể là cơ sở của rất nhiều kỹ thuật tuyên

truyền, gồm “Tấn công cá nhân”, “Nói dối trắng trợn”, “Bôi nhọ”,

 

Chính trị bình dân | 501

“Đập cửa vào mặt”, “Một nửa sự thật”, “Gọi tên”, hoặc bất kỳ kỹ

thuật nào khác dựa trên sự giả trá hoặc lừa dối. Ví dụ, nhiều chính

khách đã bị phát hiện thường xuyên nói phét hoặc bẻ cong sự thật.

Quản lý báo chí - Managing the news

Theo Adolf Hitler, “kỹ thuật tuyên truyền thông minh nhất

cũng sẽ không đạt thành công nếu không luôn luôn ghi khắc trong

đầu một nguyên tắc căn bản - phải giới hạn nội dung lại trong một

vài điểm chính yếu và nhắc đi nhắc lại chúng”. Ý tưởng này thống

nhất với nguyên tắc “Điều kiện hóa kinh điển” cũng như nguyên

tắc “Tiếp tục thông điệp mãi”.

Kiểm soát hoàn cảnh - Milieu control

Cố gắng kiểm soát môi trường xã hội và các ý tưởng, thông qua

việc sử dụng áp lực xã hội.

Giảm thiểu - Minimisation

Giảm thiểu là kỹ thuật ngược lại với phóng đại. Nó là một kiểu

lừa dối trong đó nhà tuyên truyền hợp lý hóa sự phủ nhận, trong

những tình huống mà không thể nào phủ nhận hoàn toàn được.

Gọi tên - Name-calling

Các nhà tuyên truyền dùng kỹ thuật gọi tên để gây sợ hãi, thù

hận, và kích động thành kiến ở người nghe, nhằm mục đích làm

cho các tên xấu sẽ khiến người nghe hình thành quan điểm tiêu

cực về một nhóm hoặc một tập hợp những niềm tin/ ý tưởng mà

nhà tuyên truyền muốn người nghe phải lên án.

Phương pháp này nhằm đưa đến những kết luận về một vấn đề

mà không có sự kiểm chứng công bằng sự thật. Do đó, Gọi tên là

một thứ ngụy biện thế chỗ cho những lập luận duy lý, có căn cứ,

bác bỏ các quan điểm và niềm tin chỉ dựa trên sự đúng sai của

chúng.

Ví dụ: Dân Làm Báo gọi chính quyền Việt Nam là “tà quyền cộng

sản”, “vẹm nô”, “cộng nô”. Còn báo chí quốc doanh gọi chính quyền

Việt Nam là “Đảng và Nhà nước”.

 

502 | Phạm Đoan Trang

Làm ngu người nghe, cố ý mơ hồ và gây rối trí - Obfuscation,

intentional vagueness, confusion

Những cái tổng quát được nêu ra một cách mơ hồ cố ý, sao cho

người nghe có thể tự tìm cách diễn giải cho mình. Ý đồ là tác động

tới người nghe bằng cách sử dụng những cụm từ không được định

nghĩa, và không phân tích ý nghĩa của chúng cũng như không xác

quyết tính hợp lý hay khả năng ứng dụng chúng.

Chủ đích ở đây là khiến cho người ta phải tự rút ra diễn giải

riêng của mình thay vì tiếp nhận một ý kiến được trình bày rõ ràng.

Trong việc cố gắng “luận giải, làm rõ” nội dung được tuyên truyền,

người nghe sẽ bỏ qua việc đánh giá các ý kiến được trình bày. Ý

nghĩa, logic, tính hợp lý và khả năng ứng dụng có thể vẫn được

xem xét.

Điều kiện hóa qua quan sát - Operant conditioning

Điều kiện hóa qua quan sát hàm ý việc học thông qua bắt chước.

Ví dụ, nhìn một người quyến rũ mua một sản phẩm nào đó hay có

một quan điểm như thế nào đó, sẽ khiến một cá nhân mua sản

phẩm đó hay có cùng quan điểm đó luôn. Điều kiện hóa qua quan

sát là nguyên tắc ẩn dưới các kỹ thuật Lặp đi lặp lại (Ad Nauseam),

Khẩu hiệu và các chiến dịch PR lặp đi lặp lại khác.

Đơn giản hóa thái quá - Oversimplification

Sử dụng những kết luận tổng quát được ưa thích, nhằm đưa ra

các câu trả lời thật giản đơn cho các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế

hoặc quân sự vốn rất phức tạp.

Hoa păng-xê độc nhất vô nhị - Pensée unique

Ra sức giảm thiểu các tranh luận, bằng cách sử dụng từ ngữ

hoặc lập luận đơn giản hóa thái quá, ví dụ: Không có khả năng nào

thay cho chiến tranh cả.

Tách câu trích dẫn khỏi bối cảnh của nó - Quotes out of

Context

Việc biên tập lại các câu trích dẫn một cách có chọn lọc có thể

 

Chính trị bình dân | 503

làm thay đổi ý nghĩa của chúng. Các phim tài liệu về chính trị

nhằm mục đích làm mất tín nhiệm của đối thủ hoặc quan điểm

chính trị đối lập thường sử dụng kỹ thuật này.

Hợp lý hóa - Rationalization

Các cá nhân hay nhóm có thể sử dụng những điều tổng quát

được ưa thích để hợp lý hóa các hành động hay niềm tin còn bị

nghi ngờ. Thường là nên dùng những cụm từ mơ hồ và dễ nghe để

biện hộ cho các hành động hay niềm tin đó.

Cá trích đỏ (đánh tráo chủ đề) - Red herring

Trình bày các dữ liệu hoặc vấn đề mà, mặc dù đáng chú ý nhưng

hoàn toàn không thích hợp với chủ đề/ lập luận đang bàn, và sau

đó tuyên bố rằng những dữ liệu hoặc vấn đề đó là có giá trị.

Nhắc lại - Repetition

Tức là việc nhắc lại một biểu tượng hoặc slogan cụ thể nào đó,

để cho người nghe phải nhớ nó. Kỹ thuật này có thể thể hiện dưới

dạng một điệp từ/ điệp ngữ, hoặc một hình ảnh được đặt trên gần

như tất cả mọi nơi trong bức tranh/ quang cảnh. Nó bao gồm cả

việc sử dụng những từ ngữ, hình ảnh hoặc các nội dung khác thuộc

về tiềm thức, trong một sản phẩm tuyên truyền.

Con dê tế thần - Scapegoating

Đổ hết mọi sự chỉ trích lên một cá nhân hay một nhóm, nhờ đó

làm giảm tội lỗi của các bên chịu trách nhiệm và/hoặc đánh lạc

hướng, làm dư luận mất sự chú ý đến việc giải quyết vấn đề đang bị

chỉ trích.

Khẩu hiệu - Slogans

Khẩu hiệu là một cụm từ ngắn gọn, mạnh mẽ, có thể bao gồm

cả hành vi dán nhãn và rập khuôn. Mặc dù khẩu hiệu có thể được

dùng để bày tỏ sự ủng hộ đối với những quan điểm hợp lý, nhưng

trên thực tế, chúng có xu hướng chỉ để đánh vào cảm xúc.

Những người chỉ trích việc Mỹ đem quân vào chiếm Iraq đã sử

dụng khẩu hiệu “Đổi máu lấy dầu” để ngụ ý rằng việc xâm lược và

 

504 | Phạm Đoan Trang

những tổn thất về con người (mà Mỹ gây ra) là nhằm tiếp cận

những giếng dầu của Iraq. Mặt khác, những người ủng hộ lại nói

rằng Mỹ nên tiếp tục chiến đấu ở Iraq, và họ dùng khẩu hiệu “cắt

giảm và tháo chạy”, hàm ý rút quân là hèn, là yếu.

Tương tự, tên gọi của các chiến dịch quân sự, ví dụ “tự do lâu

dài” (“enduring freedom”) hay “sự nghiệp công bình” (“just cause”)

cũng có thể được coi là khẩu hiệu, được thiết kế nhằm tác động lên

con người.

Rập khuôn, hay “Gọi tên” hay “Dán nhãn” - Stereotyping or

Name Calling or Labeling

Kỹ thuật này nhằm kích động thành kiến ở người nghe, bằng

cách dán nhãn lên đối tượng của chiến dịch tuyên truyền, coi đó

như cái gì mà người nghe sợ hãi, căm ghét, kinh tởm, hoặc cảm

thấy không thể ưa nổi. Chẳng hạn, đưa tin về một nước khác hay

một nhóm xã hội nào đó, có thể tập trung vào những đặc điểm rập

khuôn mà người đọc đã định trước, mặc dù những đặc điểm đó

không đại diện cho cả quốc gia hay nhóm xã hội đó; việc đưa tin

thường tập trung vào các giai thoại.

Vận dụng kỹ thuật này trong tranh ảnh cổ động tuyên truyền,

gồm cả poster chiến tranh, họa sĩ thường khắc họa hình ảnh kẻ thù

với những đặc điểm về nhân chủng sai lệch.

Người rơm - Straw man

Ngụy biện người rơm là một kiểu ngụy biện dựa vào việc diễn

giải sai quan điểm của đối thủ. “Tấn công người rơm” tức là tạo ra

huyễn tưởng rằng mình đã bác bỏ một luận điểm bằng cách thay

thế nó bằng một luận điểm nhìn bề ngoài có vẻ tương tự (“người

rơm”), sau đó bác bỏ nó, mà thậm chí chưa hề thực sự bác bỏ quan

điểm ban đầu của đối thủ.

Chứng thực - Testimonial

Chứng thực là những trích dẫn, đặt trong hoặc đặt ra ngoài bối

cảnh, đặc biệt nhằm ủng hộ hoặc bác bỏ một chính sách/ hành

 

Chính trị bình dân | 505

động/ chương trình/ cá nhân cụ thể nào đó. Khai thác uy tín hoặc

vai trò (chuyên gia, nhân vật công chúng được kính trọng, v.v.) của

cá nhân đưa ra những phát biểu ấy.

Sự chứng thực sẽ áp đặt hình phạt/ sự khen ngợi chính thức của

cá nhân được kính trọng hay bên có thẩm quyền đó lên thông điệp

tuyên truyền. Điều này nhằm khiến cho người nghe tự đồng nhất

mình với bên có thẩm quyền hoặc chấp nhận các quan điểm và

niềm tin của bên có thẩm quyền, coi đó như quan điểm và niềm tin

của mình. Xem thêm “trích dẫn có hại” (damaging quotation).

Bên thứ ba - Third party technique

Kỹ thuật này vận hành dựa trên nguyên tắc: Con người sẵn sàng

chấp nhận một lập luận/ lý lẽ từ một nguồn tin có vẻ độc lập, hơn

là từ ai đó liên quan. Nó là một chiến dịch marketing được sử dụng

rộng rãi bởi các công ty PR, theo đó, những thông điệp có mưu

tính từ trước sẽ được đặt vào miệng “giới truyền thông, báo chí”.

Kỹ thuật bên thứ ba này có thể có rất nhiều hình thức thể hiện,

từ việc thuê nhà báo đưa tin về tổ chức theo hướng có lợi cho tổ

chức, đến việc sử dụng các nhà khoa học trong tổ chức để trình bày

những phát hiện tưởng như khách quan của họ cho công chúng.

Xem thêm: Quyền lực mềm.

Sáo ngữ “khỏi nghĩ” - Thought-terminating cliché

Là những thành ngữ, tục ngữ, những cụm từ được sử dụng

rộng rãi, đôi khi được coi như trí khôn của nhân dân, dùng để dẹp

hết sự không hòa hợp về nhận thức.

Chuyển giao - Transfer

Còn được gọi là “liên hệ, liên kết, liên tưởng”, một kỹ thuật

chuyển những phẩm chất tích cực hoặc đặc điểm tiêu cực (hay

những lời khen ngợi hoặc chỉ trích) ở một người, một tổ chức/

thực thể, một sự vật sự việc, một giá trị, sang đối tượng khác để

khiến đối tượng khác đó dễ được chấp nhận hơn, hoặc để làm mất

độ tin cậy của nó.

 

506 | Phạm Đoan Trang

Kỹ thuật này tạo ra một phản ứng về mặt tình cảm, mà phản

ứng này sẽ kích thích người nghe, khiến họ đồng nhất mình với các

bên có thẩm quyền đã được công nhận. Nó thường có tính thị giác

rất cao, thường sử dụng những biểu tượng (chẳng hạn như biểu

tượng chữ thập ngoặc của nước Đức quốc xã, ban đầu nó vốn là

biểu tượng của sức khỏe và sự thịnh vượng) đè lên các hình ảnh thị

giác khác.

Giả định ngầm - Unstated assumption

Kỹ thuật này được dùng khi nội dung tuyên truyền có thể sẽ tỏ

ra ít độ tin cậy hơn nếu được nêu ra một cách rõ ràng. Do đó, thay

vì thế, nội dung tuyên truyền sẽ liên tục được giả định hoặc ám chỉ/

ngụ ý ngầm.

Những từ cao đẹp - Virtue words

Đó là những từ nằm trong hệ thống giá trị của người nghe, có

khả năng tạo ra một hình ảnh tích cực khi chúng được gắn với một

cá nhân hay một vấn đề nào đó, có khả năng tạo ra những tình cảm

tốt đẹp như: yêu mến, cảm thông, tôn trọng, quý trọng, tình anh

em..

Hòa bình, hy vọng, hạnh phúc, an toàn, lãnh đạo sáng suốt, tự do,

công lý, chân lý, sự thật, v.v. là những từ cao đẹp. Nhiều người coi

ngoan đạo là một phẩm chất, khiến cho mọi sự liên hệ đến phẩm

chất này đều rất có lợi và hiệu quả. Xem thêm “Chuyển giao”

(transfer).

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1.“Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Palgrave

Foundations, 2007.

2.“Governing: An Introduction to Political Science”, Austin

Ranney, 8th edition, Prentice Hall, 2001

3.“Political Philosophy - A Complete Introduction”, Phil

Parvin & Clare Chambers, McGraw-Hill Companies, Inc.,

2012

4.“Democracy: A Reader”, Larry Diamond & Marc F. Plattner,

John Hopkins University Press, 2009

5.“The Future of Freedom: Illiberal Democracy at Home and

Abroad”, Fareed Zakaria, 1st edition, W. W. Norton &

Company, 2007

6.“Public Policy: Politics, Analysis, and Alternatives”, Kraft &

Furlong, 3rd edition, CQ Press, 2009

7.“Introduction to Public Policy”, Charles Wheelan, 1st edition,

W. W. Norton & Company, 2011

8.“Society: Understanding the Basics”, John J. Macionis, 8th

edition, Prentice Hall, 2006

9.“Political science”, Government of Tamilnadu, India, 2003

10.“Fundamentals of Political Science”, the Philippines, 2013

11.“Trial Observation Manual for Criminal Proceedings:

Practitioners Guide No. 5”, International Commission of

Jurists (ICJ), 2009

 

508 | Phạm Đoan Trang

12.“Introducing Democracy: 80 Questions and Answers”,

David Beetham & Kevin Boyle, UNESCO Publishing, 2nd

edition, 2005.

 

TỪ ĐIỂN THUẬT NGỮ

 

Accountability: trách nhiệm giải trình. Nghĩa vụ của nhà nước,

của cơ quan nhà nước, quan chức, công chức, công an phải báo cáo

đầy đủ với người dân, phản hồi khiếu nại, giải thích, làm rõ, minh

bạch và chịu trách nhiệm trước người dân về mọi hoạt động chính

trị và hành vi ứng xử của mình.

Activist: nhà hoạt động

Legal activist: nhà hoạt động pháp lý

Administration: 1. chính quyền; 2. sự quản lý

Administrative: hành chính (tính từ)

Administrative machinery: bộ máy hành chính

Administrator: nhân viên hành chính (như civil servant,

bureaucrat)

Adversarial system: hệ thống tranh tụng, hệ thống đối nghịch.

Hệ thống luật pháp theo thể thức tranh tụng.

Advocacy: sự vận động

Advocacy T-shirt: áo phông vận động

International advocacy: vận động quốc tế

Agenda: chương trình nghị sự

Amendment: đề xuất sửa đổi một đạo luật; tu chính án

Anarchism: chủ nghĩa vô chính phủ

Anarchist: người theo thuyết vô chính phủ

Apathy: sự vô cảm

 

510 | Phạm Đoan Trang

Apathetic: vô cảm (tính từ)

Arbitrary: tùy tiện, thích làm gì thì làm (tính từ)

Arbitrary detention/ arrest: bắt giữ tùy tiện, là hành vi bắt

giữ người mà không có chứng cứ về việc người đó phạm tội,

và/hoặc hành vi bắt giữ người được tiến hành không bảo

đảm trình tự, thủ tục pháp lý, ví dụ bắt người mà không có

lệnh bắt.

Assembly: 1. sự tụ tập; 2. hội đồng

Peaceful assembly: cuộc tụ tập ôn hòa

National assembly: quốc hội

Authority: quyền lực (như power)

State authority: quyền lực nhà nước

Traditional authority: quyền lực có được do truyền thống

để lại

Charisma authority: quyền lực có được do có cá nhân kiệt

xuất thu hút lòng người

Rational-legal authority: quyền lực có được một cách hợp

pháp, hợp lý

Autocracy: chế độ chuyên quyền

Authoritarianism: chế độ độc đoán

Ballot: lá phiếu; sự bỏ phiếu

Banner: băng-rôn

Bicameral: lưỡng viện (tính từ)

Bicameral assembly/ legislature: quốc hội lưỡng viện

Bill: dự thảo luật, dự luật

Boycott: tẩy chay (động từ)

Bureaucrat: công chức (như administrator, civil servant)

Bureaucracy: hệ thống hành chính, hệ thống quan liêu (hàm ý

tiêu cực)

 

Chính trị bình dân | 511

 

Cabinet: nội các

Campaign: chiến dịch

Social campaign/ movement: phong trào xã hội

Caste: đẳng cấp

Caste system: chế độ đẳng cấp

Censor: kiểm duyệt (động từ)

Censorship: sự kiểm duyệt, chế độ kiểm duyệt

Centralization: tập trung hóa

Centralism: chế độ tập quyền trung ương; chế độ tập trung

Democratic centralism: nguyên tắc tập trung dân chủ

Citizenry: toàn thể các công dân của một quốc gia hay một lãnh

thổ

Civil servant: công chức (như administrator, bureaucrat)

Civil society: xã hội dân sự

Civil society actor(s): chủ thể hoạt động xã hội dân sự

Civil society organization (CSO): tổ chức xã hội dân sự

Unregistered CSO: tổ chức xã hội dân sự không đăng ký

Civil society space/ sphere: không gian xã hội dân sự

Chief of State: người đứng đầu nhà nước, nguyên thủ quốc gia

Collective action: hành động tập thể

Communication: truyền tải thông tin, truyền thông

Political communication: truyền thông chính trị

Communism: chủ nghĩa cộng sản

Orthodox communism: chủ nghĩa cộng sản chính thống

(xuất phát ở Liên Xô)

Communitarianism: chủ nghĩa cộng đồng

Community: cộng đồng

Community-based organization (CBO): tổ chức cộng đồng

 

512 | Phạm Đoan Trang

Congress: 1. Đại hội; 2. Quốc hội (Mỹ...)

Congressman/ Congresswoman: dân biểu/ nữ dân biểu (ở Mỹ)

Consent (tính từ), consensus (danh từ): đồng thuận, với sự tự

nguyện thỏa thuận và tự nguyện đồng ý

Conservatism: chủ nghĩa bảo tồn (hay chủ nghĩa bảo thủ)

Constituency: đơn vị bầu cử, khu vực bầu cử

Constituent: cử tri (như voter)

Constitutional: hợp hiến, lập hiến, mang tính chất của một

hiến pháp (tính từ)

Constitutionalism: chủ nghĩa lập hiến, chủ nghĩa hợp hiến

Corporatism: chủ nghĩa nghiệp đoàn. Việc các tập đoàn lớn,

các nhóm lợi ích lớn kiểm soát, chi phối cả nhà nước

Corruption: tham nhũng

Macro corruption: đại án tham nhũng, tham nhũng lớn

Petty corruption: tham nhũng vặt

Country: đất nước

Court: tòa án

Constitutional court: tòa án hiến pháp; tòa bảo hiến

High court: tòa án cấp cao

Supreme court: tòa án tối cao; tối cao pháp viện

Debate: tranh luận

Social debate: thảo luận trên toàn xã hội, phản biện xã hội

Decentralization: phi tập trung hóa

Demagogy: sự mị dân, thói mị dân

Democracy: dân chủ

Direct democracy: dân chủ trực tiếp

Representational democracy: dân chủ đại diện

Demonstrate: biểu tình (động từ)

 

Chính trị bình dân | 513

 

Demonstration: cuộc biểu tình (danh từ)

Development: phát triển

Development project: dự án phát triển

Dictatorship: chế độ độc tài, ách độc tài

Dictatorship of the proletariat: chuyên chính vô sản. Một

nhà nước trong đó giai cấp vô sản, tức là công nhân, kiểm

soát quyền lực chính trị.

Dictator: nhà độc tài

Discrimination: sự phân biệt đối xử

Doctrine: học thuyết

Dogmatic: giáo điều (tính từ)

Dualism: thuyết nhị nguyên

Election: bầu cử

Free and fair election: bầu cử tự do và công bằng

Elite: tinh hoa (danh từ, tính từ)

The intellectual elite: giới trí thức tinh hoa

Environmentalism: chủ nghĩa môi trường

Equality: bình đẳng

Equality of opportunity: bình đẳng về cơ hội, đầu vào

Equality of outcome: bình đẳng về kết quả, đầu ra

Ethnicity: sắc tộc, sắc dân

Ethnic minority: dân tộc thiểu số

Ethnic cleansing: thanh lọc sắc tộc

Evaluation: đánh giá

Evolution: chuyển hóa, sự thay đổi từ từ

Executive: điều hành, hành pháp (tính từ)

Executive branch: nhánh hành pháp

Fascism: chủ nghĩa phát xít, chế độ phát xít

 

514 | Phạm Đoan Trang

Feminism: chủ nghĩa nữ quyền

Filibuster: thủ tục cản trở việc thông qua một đạo luật ở nghị viện

Fragmented: chia rẽ (tính từ)

Freedom: tự do, quyền tự do (cũng freedom right)

Negative freedom: tự do không (điều kiện)

Positive freedom: tự do có (điều kiện)

Freedom of (peaceful) assembly: quyền tự do tụ tập (ôn hòa)

Freedom of association: quyền tự do hiệp hội

Freedom of expression: quyền tự do biểu đạt

Freedom of creative expression: quyền tự do sáng tác

Front: mặt trận

The Vietnamese Fatherland Front: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Fundamentalism: chủ nghĩa tôn giáo thuần túy

Fusion of power: quyền lực hợp nhất

Gerrymandering: sự sắp xếp gian lận về khu vực bỏ phiếu để

giành phần thắng trong bầu cử

Globalization: toàn cầu hóa

Government-organized non-governmental organization

(GONGO): tổ chức phi chính phủ do chính phủ điều hành (tức là

tổ chức phi chính phủ giả, do chính quyền lập nên để phục vụ lợi

ích của mình và diễn trò dân chủ với cộng đồng quốc tế)

Governance: điều hành (đất nước)

Govern: cai trị, điều hành (động từ)

Government: 1. chính quyền; 2. chính phủ

Head of Government: người đứng đầu chính phủ, thủ tướng.

Hearing: buổi điều trần

Hierarchy: hệ thống cấp bậc, thứ bậc, tôn ti (danh từ)

House of representative: hạ viện

 

Chính trị bình dân | 515

 

Human rights: nhân quyền, quyền con người

Human rights defender: người bảo vệ nhân quyền

Human rights violation(s): vi phạm nhân quyền

Idea: quan điểm, quan niệm

Ideology: chủ nghĩa, ý thức hệ, hệ tư tưởng

Impeachment: cơ chế luận tội (tổng thống, chánh án) trong

chính trị Mỹ; sự luận tội

Individualism: chủ nghĩa cá nhân

Injustice: sự bất công

Inquisitorial system: hệ thống thẩm vấn, hệ thống điều tra. Hệ

thống pháp luật theo thể thức điều tra.

Institution: thiết chế, thể chế, định chế

Intergovernmental organization (IGO): tổ chức liên chính

phủ

Interest(s): lợi ích

Interventionism: chủ nghĩa can thiệp. Việc nhà nước ra các

chính sách để điều tiết hay quản lý đời sống kinh tế, hay nói rộng

ra là chính sách can dự, can thiệp nói chung của nhà nước.

Issue: vấn đề (danh từ); phát hành, ban hành (động từ)

Journalism: nghề báo

Citizen journalism: báo chí công dân

Judicial review: cơ chế bảo hiến. Cơ chế đánh giá lại một đạo

luật xem có vi hiến hay không, nếu vi hiến thì nó sẽ bị tuyên vô

hiệu.

Judiciary: tư pháp (tính từ)

Judiciary branch: nhánh tư pháp

Judiciary system: hệ thống tư pháp

Justice: công lý

Administer justice: thực thi công lý (động từ)

 

516 | Phạm Đoan Trang

Miscarriage of justice: oan sai, án oan

Legitimacy: tính chính danh (danh từ)

Legitimate: chính danh, chính đáng, phải đạo (tính từ)

Performance legitimacy: tính chính danh có được nhờ đạt

thành tựu về kinh tế và/hoặc đạo đức, cộng với năng lực bảo

vệ chủ quyền quốc gia.

Legislation: đạo luật

Legislative: lập pháp (tính từ)

Legislative branch: nhánh lập pháp

Legislative process: tiến trình lập pháp

Legislature: cơ quan lập pháp

Liberal: tự do, khai phóng, rộng rãi, hào phóng, không định

kiến (tính từ)

Liberalism: chủ nghĩa tự do

Classical liberalism: chủ nghĩa tự do cổ điển

Modern American liberalism: chủ nghĩa tự do hiện đại ở Mỹ

Liberty: tự do (danh từ)

Litigation: khiếu kiện, hoạt động kiện tụng

Lobby: vận động hành lang

Lobbyist: nhà vận động, người vận động hành lang chuyên

nghiệp

Majority: đa số

Leader of the majority: lãnh đạo phe đa số

Tyranny of the majority; majority rule: ách độc tài của số

đông; đa số đánh bại thiểu số

Marxism: chủ nghĩa Mác

Mass: quần chúng

Mass organization: tổ chức quần chúng

Mechanism: cơ chế

 

Chính trị bình dân | 517

United Nations human rights mechanism(s): (các) cơ chế

bảo vệ nhân quyền của Liên Hợp Quốc

Media: giới truyền thông, các phương tiện truyền thông

Independent/ alternative media: truyền thông độc lập

Internet media: truyền thông Internet

Mainstream media: truyền thông chính thống

Mass media: truyền thông đại chúng

Social media network: mạng truyền thông xã hội

Meritocracy: chế độ nhân tài. Một xã hội hoặc một thể chế

trong đó người ta có được quyền lực và/hoặc tiền bạc của cải là do

có tài.

Military: quân đội

Military rule: quân phiệt

Minority: thiểu số

Miscarriage(s) of justice: oan sai

Victims of miscarriage of justice: dân oan

Monism: thuyết nhất nguyên

Movement: phong trào

Social movement: phong trào xã hội

Nation: quốc gia

Nationalism: chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa dân tộc

Nepotism: gia đình trị

Neutral: trung lập (tính từ)

Neutrality: tính trung lập, sự trung lập (danh từ)

Nomination: đề cử, tiến cử

Self-nomination: sự tự ứng cử, hành động tự ứng cử

Non-governmental organization (NGO): tổ chức phi chính phủ

 

518 | Phạm Đoan Trang

International non-governmental organization (INGO): tổ

chức phi chính phủ quốc tế

Obligation: nghĩa vụ

Political obligation: nghĩa vụ chính trị

Opinion: ý kiến, quan niệm, quan điểm

Public opinion: công luận

Public opinion shaper: người định hướng dư luận (có thể là

một trong các cách dịch từ “dư luận viên”)

Key opinion leader (KOL): người chủ chốt định hình công luận

Parliamentary system: chế độ đại nghị, nghị viện chế

Partisan: tính bè phái (tính từ)

Partisanship: tính bè phái, chủ nghĩa bè phái, đầu óc bè phái

(danh từ)

Party: đảng, đảng phái. Một nhóm có tổ chức, gồm các cá nhân

nhất trí với nhau về một hoặc một số nguyên tắc chính trị chung

(một ý thức hệ hay một chính sách v.v.) và cùng nhau hoạt động để

giành và giữ quyền lãnh đạo, nhằm phục vụ lợi ích quốc gia và

hưởng lợi từ việc có được quyền lãnh đạo đó.

Patriotism: lòng yêu nước, chủ nghĩa ái quốc

Petition: kiến nghị (động từ, danh từ)

Picket: biểu tình đứng hoặc ngồi

Pluralism: thuyết đa nguyên

Policy: chính sách

Policy advocacy: vận động chính sách

Policy grid: thế bế tắc về chính sách

Policy making: làm chính sách, hoạch định chính sách

Policy process: tiến trình chính sách

Poll: cuộc khảo sát lấy ý kiến bằng cách bỏ phiếu

Power: quyền lực (như authority)

 

Chính trị bình dân | 519

 

Populism: dân túy

Presidential system: chế độ tổng thống, tổng thống chế

Press: báo chí, báo giới

Pressure: áp lực (danh từ, động từ)

Pressure group: nhóm gây áp lực, nhóm vận động

Prisoner of conscience: tù nhân lương tâm. Người bị tù chỉ vì

đã thực thi một cách ôn hòa quyền tự do biểu đạt của họ, và không

sử dụng bạo lực hay cổ súy bạo lực, hận thù.

Private: riêng, riêng tư, tư nhân, của riêng

Private sphere: không gian riêng, không gian tư

Pragmatism: chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa thực tiễn, chủ

nghĩa hành động

Problem: vấn đề, nan đề

Public problem/ issue: vấn đề chung của cộng đồng, xã hội

Process: tiến trình, quá trình

Due process: tiến trình hợp lý; (trong luật) đúng trình tự,

thủ tục do pháp luật quy định, đúng chuẩn mực tố tụng,

pháp trình chính đáng

Proceedings: tố tụng, thủ tục tố tụng, tiến trình tố tụng

Criminal proceedings: tố tụng hình sự

Propaganda: tuyên truyền, tuyên giáo (hàm nghĩa tiêu cực)

Propagandist: nhà tuyên truyền, tuyên giáo

Public: công, công cộng, của chung

Public debt: nợ công

Public opinion: công luận

Public order: trật tự công cộng

Public sphere: không gian công cộng

Purging: thanh trừng

Rational: duy lý, hợp lý (tính từ)

 

520 | Phạm Đoan Trang

Reactionary: chống lại sự tiến bộ, chống lại cách mạng (tức là

phản động, trái nghĩa với cách mạng)

Reform: cải cách

Reign: trị vì (động từ)

Representation: đại diện

Geographical representation: đại diện theo khu vực địa lý

Proportional representation: đại diện theo tỷ lệ

Repression: sự trấn áp

Restriction: sự hạn chế, ngăn trở

Restriction of freedom rights: sự hạn chế các quyền tự do

Revisionism: chủ nghĩa xét lại

Revolution: cách mạng

Revolutionary: nhà cách mạng, người làm cách mạng

Right: quyền

Civil and political rights: các quyền dân sự và chính trị

Economic and cultural rights: các quyền kinh tế và văn hóa

Rule: nền cai trị, sự cai trị

Rule of law: pháp trị, pháp quyền. Mọi người đều bình đẳng

trước pháp luật, xã hội thượng tôn pháp luật.

Rule by law: ỷ pháp trị quốc. Dùng luật pháp để tiện cho việc

cai trị dân còn giai cấp thống trị thì ngồi trên luật pháp,

hưởng đặc quyền đặc lợi.

Samizdat: (phong trào) tự xuất bản, xuất bản chui

Secular: thế tục (tính từ)

Semi-presidential system: chế độ bán tổng thống

Senate: thượng viện

Senator: thượng nghị sĩ

Separation of power: tam quyền phân lập

 

Chính trị bình dân | 521

 

Sit-in: tọa kháng, biểu tình ngồi

Slogan: khẩu hiệu

Socialism: chủ nghĩa xã hội

Social democracy: dân chủ xã hội

Social mobilization: lưu động xã hội

Sovereignty: chủ quyền, quyền quyết định tối cao

State: 1. nhà nước; 2. quốc gia

Police state: nhà nước công an trị, nhà nước cảnh sát

Statism: chủ nghĩa nhà nước, chủ nghĩa trọng nhà nước, thuyết

trung ương tập quyền

Strike: đình công (động từ, danh từ)

Hunger strike: tuyệt thực (danh từ)

Supporter: người ủng hộ, cảm tình viên

Suppression: sự đàn áp (danh từ)

Suppress: đàn áp (động từ)

Survey: khảo sát (động từ), cuộc khảo sát (danh từ)

Sympathy: thiện cảm, tình cảm, sự cảm thông (danh từ)

Sympathizer: người ủng hộ, cảm tình viên

Territory: lãnh thổ

Terrorism: sự khủng bố, chủ nghĩa khủng bố

White terrorism: khủng bố trắng.

Red terrorism: khủng bố đỏ

Think-tank: viện nghiên cứu chiến lược, viện tư tưởng

Tolerance: tinh thần khoan dung, bao dung, chấp nhận

Totalitarianism: chế độ toàn trị

Tradition: truyền thống

Transparency: sự minh bạch

Unfair: bất công, không công bằng (tính từ)

 

522 | Phạm Đoan Trang

Unicameral: một viện (tính từ)

Unicameral assembly/ legislature: quốc hội một viện

Unjust: bất công (tính từ)

Veto: sự phủ quyết, quyền phủ quyết

Violence: bạo lực (danh từ); violent (tính từ)

Non-violent resistance: đấu tranh, phản kháng phi bạo lực

Vote: bỏ phiếu (động từ), lá phiếu (danh từ)

Vote counting: đếm phiếu, kiểm phiếu

Welfare: phúc lợi

Welfare state: nhà nước phúc lợi

Workfare state: nhà nước công lợi

Wrongdoing: sai phạm

 

Bảo hiến 351

Bầu cử 8, 101, 110, 111, 195,

247, 248, 250, 251, 252, 253,

256, 264, 269, 273, 274, 277,

280, 281, 394, 463

Bình đẳng 93, 133, 140, 153,

154, 430

 

Chính danh 72, 74

Chính phủ 40, 50, 61, 158, 177,

277, 294, 295, 325, 360, 363,

366, 381, 398, 402, 405, 410,

412, 413, 414, 415, 416, 422,

423, 450, 451, 452, 457, 462, 463

Chính quyền 7, 21, 59, 65, 69,

70, 78, 84, 110, 111, 112, 203,

227, 265, 306, 444

Chủ nghĩa 8, 108, 128, 131, 133,

134, 138, 140, 141, 143, 144,

145, 146, 148, 151, 152, 153,

154, 155, 156, 157, 161, 162,

 

163, 164, 165, 166, 167, 176,

181, 183, 184, 193, 194, 204,

392, 422, 457, 469, 471

bảo tồn (bảo thủ) 22, 146

cộng đồng 14, 18, 26, 27, 29,

31, 32, 33, 35, 40, 49, 57, 58,

74, 83, 87, 92, 95, 96, 102,

103, 104, 116, 131, 133, 134,

139, 153, 154, 157, 159, 162,

163, 165, 166, 167, 181, 183,

191, 193, 207, 212, 221, 306,

307, 310, 311, 313, 314, 315,

321, 323, 325, 327, 330, 335,

347, 353, 370, 417, 428, 433,

470, 471, 475, 477, 479, 486,

495, 511, 514, 519

cộng sản 17, 48, 50, 58, 60,

72, 73, 74, 75, 76, 79, 81, 84,

93, 101, 103, 104, 113, 123,

125, 127, 152, 153, 154, 155,

156, 157, 161, 162, 176, 177,

182, 191, 204, 211, 214, 216,

231, 233, 234, 236, 238, 240,

241, 243, 249, 254, 255, 256,

 

ĐỀ MỤC TRA CỨU

 

524 | Phạm Đoan Trang

257, 259, 264, 268, 271, 287,

295, 315, 316, 319, 351, 352,

353, 354, 355, 356, 370, 379,

389, 393, 394, 416, 418, 421,

422, 435, 450, 457, 461, 472,

474, 475, 486, 501, 511

dân chủ xã hội 8, 125, 131,

153, 155, 157, 158, 193, 367,

521

dân tộc 22, 32, 52, 63, 72, 73,

74, 75, 85, 86, 87, 121, 131,

143, 152, 161, 162, 181, 182,

183, 184, 193, 198, 211, 239,

274, 309, 310, 315, 333, 359,

360, 363, 370, 373, 374, 379,

393, 398, 411, 420, 439, 442,

444, 463, 491, 513, 517

môi trường 46, 63, 80, 131,

138, 164, 193, 220, 221, 227,

250, 290, 292, 308, 309, 310,

311, 321, 322, 338, 340, 412,

425, 429, 452, 456, 485, 501,

513, 529

nữ quyền 125, 129, 131, 167,

169, 173, 193, 292, 514

phát xít 22, 72, 125, 131, 161,

162, 163, 182, 193, 421, 493,

513

quốc gia 27, 31, 33, 38, 44,

45, 59, 61, 65, 69, 70, 75, 76,

77, 83, 85, 86, 100, 107, 110,

116, 125, 130, 155, 158, 162,

 

163, 171, 181, 182, 183, 184,

189, 193, 220, 226, 228, 230,

231, 245, 263, 268, 271, 294,

311, 318, 321, 322, 323, 324,

347, 348, 349, 350, 374, 377,

378, 379, 381, 388, 389, 401,

405, 406, 407, 412, 415, 418,

419, 420, 421, 426, 432, 433,

437, 441, 446, 450, 452, 459,

463, 467, 468, 469, 472, 473,

474, 483, 484, 485, 486, 487,

488, 489, 495, 504, 511, 516,

517, 518, 521

thực dụng 143, 144, 194,

428, 519

tôn giáo thuần túy 514

tự do 8, 11, 13, 14, 18, 21, 22,

29, 39, 46, 52, 59, 60, 61, 62,

74, 76, 77, 93, 95, 107, 108,

109, 110, 111, 113, 114, 117,

120, 121, 123, 124, 125, 127,

128, 131, 133, 134, 135, 136,

137, 138, 140, 141, 142, 143,

144, 145, 146, 147, 148, 149,

150, 156, 158, 161, 162, 163,

164, 166, 171, 172, 173, 179,

182, 193, 194, 201, 204, 208,

226, 227, 228, 236, 245, 248,

249, 252, 253, 254, 255, 256,

257, 258, 259, 264, 266, 273,

275, 276, 277, 280, 289, 290,

291, 297, 300, 309, 311, 316,

 

Chính trị bình dân | 525

 

318, 321, 322, 324, 325, 328,

330, 334, 335, 348, 351, 354,

356, 357, 361, 363, 370, 404,

405, 432, 441, 445, 446, 458,

469, 471, 472, 473, 474, 475,

478, 486, 487, 488, 504, 506,

513, 514, 516, 519, 520

vô chính phủ 131, 163, 164,

193, 348, 458, 509

xã hội 8, 9, 13, 14, 15, 18, 22,

25, 26, 27, 29, 30, 31, 32, 33,

34, 35, 40, 41, 43, 44, 48, 50,

51, 52, 61, 62, 63, 65, 69, 70,

71, 72, 73, 74, 75, 76, 77, 79,

80, 84, 94, 95, 96, 102, 103,

104, 107, 108, 109, 110, 113,

114, 115, 119, 120, 121, 124,

125, 128, 129, 131, 133, 138,

140, 141, 143, 144, 145, 146,

148, 149, 151, 152, 153, 154,

155, 156, 157, 158, 159, 161,

162, 163, 165, 166, 167, 173,

175, 176, 177, 179, 180, 193,

194, 195, 197, 198, 199, 200,

201, 202, 203, 204, 205, 206,

208, 209, 210, 212, 215, 216,

217, 218, 219, 225, 226, 228,

232, 233, 239, 244, 245, 246,

248, 251, 254, 255, 256, 257,

259, 266, 269, 273, 274, 289,

290, 291, 292, 294, 296, 299,

300, 302, 303, 305, 306, 307,

 

308, 309, 310, 311, 312, 313,

314, 315, 317, 318, 319, 320,

324, 329, 333, 334, 335, 337,

338, 339, 340, 341, 342, 343,

351, 353, 354, 355, 356, 357,

360, 362, 366, 367, 368, 373,

379, 390, 392, 404, 405, 411,

412, 416, 417, 426, 433, 435,

439, 441, 442, 444, 452, 455,

457, 458, 461, 462, 463, 464,

467, 468, 469, 470, 472, 478,

483, 484, 485, 486, 497, 498,

500, 501, 502, 504, 511, 512,

517, 519, 520, 521

xét lại 72, 152, 153, 322, 325,

381, 387, 425, 438, 440, 520

Chủ quyền 85

Công lý 165

Dân chủ 7, 8, 21, 22, 27, 40, 41,

60, 75, 91, 94, 100, 108, 110, 115,

116, 119, 122, 123, 124, 125,

146, 147, 148, 149, 157, 166,

236, 237, 247, 248, 264, 302,

303, 312, 313, 316, 335, 379,

389, 420, 421, 426, 428, 472

dân chủ đại diện 8, 92, 116,

117, 291, 512

dân chủ trực tiếp 92, 96,

115, 116, 117, 512

 

526 | Phạm Đoan Trang

Đại diện 96, 99, 102, 104, 251,

260, 362, 377, 379, 415

Độc tài 287

 

Hiến pháp 9, 226, 233, 249, 254,

255, 269, 280, 287, 288, 318, 345,

347, 349, 350, 351, 352, 353,

359, 360, 361, 362, 363, 364,

365, 366, 367, 368, 369, 370,

371, 372, 373, 374, 375, 379,

382, 392, 393, 402, 407, 418,

419, 421, 422, 435, 457, 461, 463

 

Lãnh thổ 84

 

Mạng Lưới Blogger Việt Nam

27, 39, 40, 41

 

Ngụy biện 493, 504

Nguyên thủ quốc gia 418, 419

Nhân quyền 39, 40, 57, 92, 110,

112, 113, 140, 294, 309, 323, 384

Nhà nước 7, 26, 31, 35, 39, 41,

45, 77, 83, 84, 85, 86, 120, 146,

147, 152, 158, 159, 216, 226,

227, 228, 242, 266, 285, 313,

315, 348, 357, 366, 367, 368,

370, 372, 373, 392, 393, 398,

414, 416, 417, 419, 443, 461,

462, 463, 464, 484, 501

 

Quốc gia 43, 277, 298, 384, 426,

429, 430, 495

Quyền 69, 91, 93, 143, 145, 216,

239, 240, 241, 256, 368, 374,

386, 405, 443, 487, 505

 

Truyền thông 42, 148, 205, 206,

210, 211, 212, 213, 215, 223,

224, 271, 330, 368, 423, 429, 430

Tự do 8, 124, 133, 134, 135, 145,

164, 166, 201, 227, 241, 252,

259, 297, 302, 316, 374, 405

Tuyên bố 258 39, 55, 56, 57

Tuyên truyền 81–533, 214–533,

217–533, 218–533, 474–533

Xã hội dân sự 9–533, 96–533,

111–533, 113–533, 203–533,

248–533, 305–533, 307–533,

308–533, 309–533, 312–533,

313–533, 316–533, 318–533,

319–533

 

Ý thức hệ 8–533, 127–533,

129–533, 158–533

 

EXECUTIVE SUMMARY

 

Forewords

Acknowledgements

How to use this book

Part I. What is politics?

y Chapter I. Definitions of politics

y Chapter II. Political activities

y Chapter III. Political science as a subject

Part II. The state

y Chapter I. Definitions of the state

y Chapter II. Legitimacy

y Chapter III. The state

Part III. Democracy

y Chapter I. Definitions of democracy

y Chapter II. Representation

y Chapter III. The four pillars of a democracy

y Chapter IV. Direct and representational democracies

y Chapter V. The defects of democracy

Part IV. Ideologies

y Chapter I. What is an ideology?

y Chapter II. Liberalism

y Chapter III. Conservatism

 

528 | Phạm Đoan Trang

y Chapter IV. Socialism

y Chapter IV. Other widely-known ideologies

y Are ideologies needed, after all?

Part V. Political interaction

y Chapter I. How a society changes

y Chapter II. Public opinion, political communication, and

propaganda

y Chapter III. Parties and party systems

y Chapter IV. Election

y Chapter V. Personal organizations and interest groups

y Chapter VI. Civil society

y Chapter VII. Social movements

Part VI. Machinery of government

y Chapter I. Constitutions and the law

y Chapter II. The legislative branch

y Chapter III. The executive branch

y Chapter IV. The judiciary branch

y Chapter V. The administrative machinery

y Chapter VI. Parliamentary and presidential system.

y Chapter VII. The political system in communist Vietnam

y Chương VIII. The military and the police

Part I, “What is politics?”, provides readers with some of the

most important definitions of politics, which is very useful for you

in understanding what political activities are.

Part II, “The state”, introduces to Vietnamese readers the core

subject matter of political science.

Part III, “Democracy”, focuses on one of the most controversial

topics among the Vietnamese whenever they talk about politics.

Part IV, “Ideologies”, refers to some strong ideologies that the

 

Chính trị bình dân | 529

Vietnamese to some extent have heard of: liberalism, conservatism,

socialism, fascism, nationalism, etc. On discussing nationalism, the

chapter also mentions patriotism, which has at times been an

elusive notion for the Vietnamese.

Part V, “Political interaction”, is all about political activities

widely undertaken in most societies, including Vietnam: political

communication, propaganda, the politics of parties, the politics of

civil society, mass revolution, voting and elections, etc. This chapter

also briefly introduces a range of different ways to make a political

and social change.

Part VI, “Machinery of the government”, introduces to the

readers the most common organization of state authority in the

world. Particularly it provides knowledge of the administrative

system and the roles and functions of the two forces whose authority

keeps controversial under communist rule: the military and the

police.

 

VỀ TÁC GIẢ

 

Phạm Đoan Trang, sinh năm 1978 tại Hà Nội, là một nhà báo,

nhà hoạt động dân chủ ở Việt Nam. Tốt nghiệp chuyên ngành kinh

tế, Đại học Ngoại thương Hà Nội, Đoan Trang đã làm việc trong

lĩnh vực truyền thông (báo chí, truyền hình, xuất bản) từ tháng

11/2000. Cô từng là phóng viên, biên tập viên ở nhiều tờ báo tiếng

Việt lớn như VnExpress, VietNamNet, Tuần Việt Nam, Pháp luật

TP.HCM, Luật Khoa tạp chí, trang mạng tiếng Anh Vietnam Right

Now và The Vietnamese.

Sau một khóa học 10 tháng ở Mỹ về chính sách công, tháng

1/2015 Đoan Trang trở về nước và từ đó trở thành một nhà hoạt

động, đấu tranh cho dân chủ-nhân quyền ở Việt Nam.

Phạm Đoan Trang cũng là tác giả, đồng tác giả của các cuốn

sách “Việt Nam và tranh chấp Biển Đông” (NXB Tri Thức, 2012),

“Căn bản về truyền thông và báo chí” (2014), “Anh Ba Sàm” (NXB

Trẻ Hà Nội, 2016), “Từ Facebook xuống đường” (NXB Hoàng Sa,

2016), báo cáo “Toàn cảnh thảm họa môi trường biển Việt Nam”

(Green Trees, 2016)...

 

ABOUT THE AUTHOR

 

Pham Doan Trang, born in Hanoi in 1978, is a journalist and

democracy activist in Vietnam. After graduating in international

economics from the Hanoi Foreign Trade University in November

2000, she started to work in the realm of communication and mass

media, including printed media, TV production, and publishing.

She used to work for major Vietnamese media agencies such as the

VnExpress, VietNamNet, Vietnam Week, HCMC Legal Daily,

Journal of Jurisprudence, and the English websites Vietnam Right

Now and The Vietnamese.

She took a ten-month course on public policy in the United

States and returned to Vietnam in January 2015. Since then, she has

been working as an activist advocating democracy and human

rights in the country.

She is the author and co-author of many books, among which

were “Vietnam and the Southeast Asian Sea Dispute” (2012), “The

Beauty of Politics” (2013), “Basic Journalism and Communication”

(2014), “Anh Ba Sam” (2016), “From Facebook down to the Street”

(2016), “An Overview of the Marine Life Disaster in Vietnam”.

(2016).

29/8/2018

Phạm Đoan Trang

Theo https://luatkhoa.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 XXXXXX

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP   Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ máy nhà nước. Thực thể này...