Chính trị bình dân 2
Tất nhiên, không phải ai cũng tán đồng việc dành ưu tiên cho
thiểu số thiệt thòi, vì thế vấn đề này vẫn có thể gây tranh
cãi và chia
rẽ. Khi đó, hoặc khi vị đại diện của nhóm thiểu số kia cũng
quá yếu
kém về năng lực để có thể bảo vệ quyền lợi của nhóm mình, có
thể
tạo một cơ chế để ông/bà ta không tham gia tiến trình ra quyết
định nữa, nhưng vẫn được tham vấn đầy đủ và thậm chí giữ vai
trò
cố vấn. Như đã nói, điều quan trọng để thực thi dân chủ là
làm sao
để, dù đa số thắng thiểu số, nhưng tất cả các nhóm thiểu số đều
có
đại diện do họ bầu ra, đều có tiếng nói, và được bảo vệ thích
hợp.
Chương III
BỐN CỘT TRỤ CỦA DÂN CHỦ
Đến đây chúng ta đã nắm được định nghĩa dân chủ, hay là đã
thống nhất với nhau về cách hiểu thế nào là một nền dân chủ.
Về
căn bản, đó là một hình thức tổ chức chính quyền hay một hệ
thống quản trị đất nước thoả mãn những nguyên tắc nhất định –
kể ra cũng khá nhiều nguyên tắc. Bạn thử tính sơ sơ xem: đa đảng,
bầu cử tự do và công bằng, tư pháp độc lập, truyền thông tự
do,
quốc gia có chủ quyền bền vững, mọi công dân đều bình đẳng về
quyền chính trị...
Dài dòng quá chăng? Do đó, bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu một
cách cụ thể, chi tiết hơn, về những nguyên tắc chính mà một
hình
thức tổ chức chính quyền hay quản trị nào đó phải đạt được để
có
thể được gọi là “dân chủ”. Tính ra thì nhiều nhưng một cách
cô
đọng, ngắn gọn nhất thì chỉ có hai nguyên tắc chính phải bảo
đảm:
1. Toàn dân kiểm soát chính quyền một cách thường xuyên,
liên tục;
2. Mọi công dân đều bình đẳng về quyền chính trị.
Bạn có thể tự đặt câu hỏi và tự trả lời luôn:
- Hỏi: Một xã hội, muốn toàn dân kiểm soát chính quyền một
cách thường xuyên, liên tục, và mọi công dân đều bình đẳng về
quyền
chính trị, thì phải làm thế nào, phải xây dựng, bảo vệ và
phát triển
những cơ chế gì?
108 | Phạm Đoan Trang
- Đáp: Tất nhiên là sẽ cần đa nguyên, đa đảng, bầu cử tự do
và
công bằng...
- Hỏi: Thế muốn có đa nguyên, đa đảng, bầu cử tự do và công
bằng thì phải làm sao?
- Đáp: Tất nhiên là cần phi chính trị hoá giáo dục, báo chí tự
do
(để có đa nguyên), bảo đảm quyền tự do hiệp hội, tự do tụ tập,
tự
do ngôn luận, tự do biểu đạt (để có đa đảng và đa nguyên). Rồi
thì
cần nhà nước pháp trị, tư pháp độc lập để mọi công dân đều
bình
đẳng trước pháp luật...
Tóm lại, từ hai nguyên tắc căn bản trên đây, ta sẽ đi tới nhiều
nguyên tắc nhỏ hơn để thực hiện dân chủ, giống như đi từ hai
gốc
đại thụ lớn để đến các cành, các nhánh cây vậy.
Nhân bàn chuyện dân chủ, chúng ta cũng nên tìm hiểu thêm về
một “thuật ngữ” chính trị có vẻ gần với dân chủ và vẫn thường
được hiểu theo cách đánh đồng với dân chủ, đó là tự do.
SỰ KHÁC NHAU GIỮA DÂN CHỦ VÀ TỰ DO
Để hiểu rõ về tự do như một khái niệm triết học quan trọng, mời
bạn xem kỹ phần “tự do” trong Chương II, “Chủ nghĩa tự do”, của
Phần IV, “Các chủ nghĩa”. Ở đây, nói đúng hơn là chúng ta sẽ
chỉ
tìm hiểu sự khác nhau giữa xã hội dân chủ và xã hội tự do.
Dân chủ, như Philippe C. Schmitter và Terry Lynn Karl định
nghĩa, là “một hệ thống quản trị đất nước, trong đó, nhà cầm
quyền
phải chịu trách nhiệm – về tất cả các hoạt động của họ thuộc
địa
hạt công cộng – trước công dân, và công dân thực thi điều đó
một
cách gián tiếp thông qua, hay là nhờ có sự cạnh tranh và hợp
tác
giữa những người đại diện cho họ, do họ bầu ra”.
Còn tự do (bạn sẽ tìm hiểu kỹ ở Phần IV), có thể được hiểu sơ
sơ là việc một cá nhân thoát khỏi quyền lực, sự cưỡng ép, của
kẻ
khác. Trong quan hệ với một xã hội hay một nhà nước, tự do được
hiểu là việc cá nhân thoát khỏi quyền lực tùy tiện (và thường
là tàn
bạo) của nhà nước hoặc của những nhóm lợi ích lớn mạnh khủng
khiếp, mafia, khủng bố.
Chính trị bình dân | 109
Bạn có thể thấy định nghĩa dân chủ trên đây của Philippe C.
Schmitter và Terry Lynn Karl, cũng như định nghĩa của Austin
Ranney, không có từ “tự do” nào. Hay nói cách khác, hai khái
niệm
dân chủ và tự do không đồng nhất.
Trên thế giới, không thiếu gì ví dụ về những nền dân chủ thiếu
tự do, chẳng hạn Ấn Độ – nơi có chế độ đa đảng, bầu cử thường
xuyên, báo chí độc lập – nhưng xã hội phân chia đẳng cấp nặng
nề,
những người thuộc tầng lớp đáy bị vùi dập và không có cơ hội
vươn lên các tầng lớp trên để thay đổi số phận của mình, nạn
cưỡng
hiếp và bạo hành phụ nữ lan tràn... Châu Mỹ Latin cũng đa đảng,
bầu cử thường xuyên, nhưng câu chuyện cầu thủ người Colombia,
Andrés Escobar, bị bắn chết chỉ vài ngày sau khi đá bóng phản
lưới
nhà trong Cúp Bóng đá Thế giới ở Mỹ (World Cup 1994), và vô
vàn
ví dụ tương tự, luôn khiến người ta kinh hãi về sự lộng hành
của
các băng nhóm tội phạm ở nước Mỹ Latin điển hình này.
Ở gần chúng ta hơn là Philippines, mang danh là nền dân chủ
lâu đời nhất Đông Nam Á nhưng chưa bao giờ được ca ngợi như
một xứ sở tự do, bởi rất nhiều vấn đề: Khoảng cách giàu nghèo
quá
lớn, với tầng lớp tinh hoa giàu có, tham lam, gia đình trị,
và tầng
lớp dân nghèo bị bần cùng đến mạt hạng; quyền lực chính trị
và
kinh tế tập trung vào một số dòng họ khuynh đảo cả chính quyền;
tội ác tràn lan và vấn nạn tội ác không bị trừng phạt
(impunity) 1
;
và nhiều điều khác.
Nói gọn lại, tồn tại những nền dân chủ mà trong đó, nhân
quyền, quyền tự do của mỗi người dân không được bảo đảm; và
đó
là những nền dân chủ không tự do.
1. Impunity, tạm dịch là “tội ác không bị trừng phạt”, là một
thuật ngữ trong luật quốc tế,
có nghĩa là việc nhà nước không điều tra, bắt, truy tố, xét xử
những kẻ gây tội ác, vì nhiều
lý do thuộc về nhà nước như: đồng lõa, bao che với thủ phạm;
kém năng lực; vô trách
nhiệm; toà án không độc lập, v.v.
110 | Phạm Đoan Trang
DÂN CHỦ TỰ DO
Do đó, lý tưởng của những người cổ súy dân chủ không nên chỉ
là
khái niệm dân chủ chung chung, mà là hướng đến xây dựng một
nền dân chủ tự do cho đất nước.
Ngược với các ví dụ mà ta vừa nhắc đến ở trên như Ấn Độ,
Colombia và Philippines, nhiều nước phương Tây lại tự do trước
khi có dân chủ (theo David Beetham và Kevin Boyle). Đó là bởi
vì
họ có một bản hiến pháp tự do, thành văn hoặc không thành
văn,
trước cả khi các đảng phái ra đời và lại càng trước khi có bầu
cử
phổ thông đầu phiếu. Những bản hiến pháp đó có các điểm chung
là: Cơ quan hành pháp, tức chính phủ, phải nằm dưới luật
pháp,
luật ấy phải được phê chuẩn bởi một quốc hội dân cử; cá nhân
được bảo đảm các quyền tự do như quyền hưởng tiến trình tố tụng
đúng chuẩn mực, quyền tự do ngôn luận, tự do tụ tập và đi lại;
cơ
quan tư pháp có đủ sự độc lập trước cả lập pháp lẫn hành pháp
để
có thể bảo vệ pháp luật và các quyền tự do đó. Tóm lại, ở những
quốc gia ấy, xã hội đã có truyền thống tôn trọng quyền tự do
của
mỗi cá nhân trước khi nền dân chủ được thiết lập.
Ngược lại, các nền dân chủ có đủ cả chế độ phổ thông đầu
phiếu lẫn hệ thống đảng phái phát triển, mà không có truyền
thống tự do hay một bản hiến pháp tự do từ trước, đều bấp
bênh,
không ổn vững.
BỐN THÀNH TỐ CỦA NỀN DÂN CHỦ TỰ DO
Có bốn nguyên tắc, mà ta có thể coi chúng như bốn thành tố
chính,
bốn cột trụ của một nền dân chủ tự do, sau đây: 1
1. Bầu cử tự do và công bằng;
2. Chính quyền chịu trách nhiệm giải trình;
3. Nhân quyền được thực thi, được tôn trọng và bảo vệ;
1. “Introducing Democracy: 80 Questions and Answers”, David
Beetham & Kevin Boyle,
UNESCO Publishing, 2nd edition, 2005.
Chính trị bình dân | 111
4. Xã hội dân sự phát triển.
Lưu ý rằng bốn thành tố này đều quan trọng như nhau, cách
đánh số trên đây không phản ánh thứ tự của chúng về mức độ
quan trọng. Bốn thành tố cũng có tác động qua lại, liên hệ chặt
chẽ
với nhau. Hiểu đơn giản, ngôi nhà mang tên dân chủ tự do được
dựng trên bốn cây cột lớn, buộc chặt vào nhau; thiếu chỉ một
trong
bốn cột thì nhà nghiêng ngả và có thể sập bất cứ lúc nào, hoặc
có
thể chỉ yên vị là một nền dân chủ không tự do.
Muốn xây và giữ gìn ngôi nhà chung – nền dân chủ tự do, bạn
phải xây dựng và bảo vệ được cả bốn cột trụ này.
Cột trụ thứ nhất: Bầu cử tự do và công bằng
Cuốn sách này dành cả một chương (Chương IV, Phần V) để nói
về bầu cử và nguyên tắc “tự do, công bằng” của bầu cử, mời bạn
tham khảo.
Cột trụ thứ hai: Chính quyền chịu trách nhiệm giải trình
Nói về dân chủ, có một khái niệm rất phổ biến gần đây trong
ngôn
ngữ chính trị, mà Việt Nam chưa có cách dịch chuẩn, đó là
“accountability”, tiếng Việt tạm dịch là “trách nhiệm giải
trình”.
Cách dịch này chưa chuẩn, vì từ “giải trình” mang nghĩa quá hẹp
so
với trách nhiệm mà nhà nước hay cơ quan công quyền phải lãnh
nhận trước người dân. Ngoài ra, “trách nhiệm giải trình” là một
danh từ, và nếu dịch như vậy, chúng ta không có tiếng Việt
tương
ứng để thể hiện tính từ, động từ liên quan đến khái niệm này.
Trong khuôn khổ cuốn sách, tạm chấp nhận dịch
“accountability”
là trách nhiệm giải trình, thì ta có thể định nghĩa nó như
sau: Nghĩa
vụ của nhà nước, của cơ quan nhà nước, quan chức, công chức,
công an phải báo cáo đầy đủ với người dân, phản hồi khiếu nại,
giải
thích, làm rõ, minh bạch và chịu hoàn toàn trách nhiệm trước
người
dân về mọi hoạt động chính trị và hành vi ứng xử của mình.
Bạn thấy đấy, nhà nước, cơ quan nhà nước không chỉ phải giải
trình (báo cáo đầy đủ, phản hồi khiếu nại, giải thích, làm
rõ, minh
112 | Phạm Đoan Trang
bạch) mà còn phải chịu hoàn toàn trách nhiệm, bao gồm cả chế
tài,
hình phạt, trước người dân. Nếu chỉ có “phản hồi khiếu nại”,
“giải
thích”, mà không phải chịu trách nhiệm gì khác, không có nguy
cơ
bị xử lý kỷ luật, trừng phạt gì, thì cách ứng xử của chính
quyền với
dân khi ấy sẽ chẳng khác gì cấp trên với cấp dưới, người lớn
với trẻ
con: Đây này, tao giải thích đường lối, chính sách, chủ
trương cho
mày đây này, hiểu chưa? Không hiểu là tại mày ngu dốt nhé.
Do đó, khái niệm gọi là “trách nhiệm giải trình” nhất thiết
phải
bao gồm cả những trách nhiệm lớn hơn, ngoài việc giải trình.
Chúng ta cũng có thể chia nhỏ trách nhiệm giải trình theo một
cách khác, thành trách nhiệm giải trình trên ba khía cạnh:
pháp lý,
chính trị và tài chính.
- Khía cạnh pháp lý: Tất cả các quan chức, cán bộ nhà nước đều
chịu trách nhiệm giải trình trước toà án.
- Khía cạnh chính trị: Tất cả các cơ quan công quyền không
qua
bầu cử (hành chính, công an, quân đội) đều phải chịu trách
nhiệm
giải trình trước cơ quan hành pháp (chính phủ). Cơ quan hành
pháp phải chịu trách nhiệm giải trình trước cơ quan lập pháp
(quốc
hội) và công chúng. Quốc hội phải chịu trách nhiệm giải trình
trước cử tri.
- Khía cạnh tài chính: Chính quyền chịu trách nhiệm giải
trình
trước công chúng, gồm cả báo chí, và cơ quan chuyên môn về việc
chi tiêu tiền thuế của dân. Cơ quan chuyên môn ở đây là cơ
quan
tổng kiểm toán, chịu trách nhiệm giải trình trước quốc hội
nhưng
độc lập trong việc thanh kiểm tra, theo dõi, giám sát một
cách
chuyên nghiệp, chi tiết chi tiêu của chính quyền, chủ yếu là
của
chính phủ.
Cột trụ thứ ba: Nhân quyền được thực thi, tôn trọng và bảo vệ
Nhân quyền, hay quyền con người, không phải là những quyền mà
một người kiếm hay xin được, được ban cho hay được kế thừa từ
người khác.
Chính trị bình dân | 113
Nhân quyền là một tập hợp những quyền tự nhiên, những
quyền cố hữu, cơ bản mà một cá nhân nghiễm nhiên được hưởng
và được bảo vệ bởi vì cá nhân đó là con người. Nói cách khác,
sinh
ra làm người, tức là có nhân quyền.
Tại sao việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền lại quan trọng? Đó
là bởi vì, nhân quyền và những quyền tự do cơ bản, nếu được
tôn
trọng, bảo vệ, thúc đẩy, sẽ giúp chúng ta phát triển đầy đủ
và có
nhiều cơ hội để mưu cầu hạnh phúc nhất. Một xã hội cũng chỉ
có
thể công bằng và tự do khi nhân quyền được tôn trọng và thực
thi
đầy đủ. Còn về phía nhà nước, sự chối bỏ, thậm chí vi phạm
nhân
quyền trên diện rộng (như ở Việt Nam thời cộng sản) thường sẽ
kéo theo bạo lực, và sẽ chỉ gieo mầm mống cho xung đột, tạo
ra bất
ổn chính trị-xã hội.
Dân Việt có quan niệm sướng khổ tại trời, đời người ta hạnh
phúc hay bất hạnh là do trời thương hay trời đày, nói cách
khác, là
do số mệnh. Nên mới có người làm lụng vất vả suốt đời mà vẫn
nghèo, chẳng may dính vòng lao lý hay phải ra cửa quan thì sạt
nghiệp. Lại có những kẻ là “con ông cháu cha”, nên cả đời
giàu sang,
may mắn, quyền thế.
Người viết thì tin rằng, nếu chúng ta sống trong một xã hội
nơi
nhân quyền được bảo đảm, thì có thể nói tất cả chúng ta đều
đã
được tạo những điều kiện căn bản nhất, bình đẳng nhất, để mưu
cầu hạnh phúc; và khi đó, chỉ cần là những người lương thiện,
chăm chỉ, chúng ta cũng có thể thành đạt, chứ không cần phải
có
trí tuệ siêu việt, học vấn tốt, địa vị con ông cháu cha hay bất
kỳ một
may mắn đặc biệt nào khác. Xã hội tốt là xã hội bảo đảm nhân
quyền căn bản cho mọi người dân, để cho mỗi người có thể phát
triển đầy đủ chỉ với nỗ lực của bản thân; yếu tố số mệnh được
loại
bỏ đáng kể.
Cột trụ thứ tư: Xã hội dân sự phát triển
Mời bạn xem Chương VI, “Xã hội dân sự”, thuộc Phần V, “Tương
tác chính trị”.
114 | Phạm Đoan Trang
* * *
Trên đây là bốn thành tố của một nền dân chủ tự do. Như tác
giả đã viết ở Lời nói đầu, “nhân quyền, tự do, dân chủ chưa
bao giờ
là các khái niệm phức tạp, nhạy cảm hay đáng sợ. Chúng là những
điều đơn giản và căn bản đến mức mọi người dân thường ở các
xã
hội dân chủ đều nắm được, ít nhất là cảm nhận được chúng. Và
chính nhờ thế, họ bảo vệ được nền dân chủ của nước mình.
Đối với người dân Việt Nam, nhiệm vụ còn nặng nề hơn: Chúng
ta phải đấu tranh để mang đến dân chủ, và sau đó phải tiếp tục
đấu
tranh để bảo vệ và củng cố nền dân chủ non trẻ đó”.
Khi đấu tranh để xây dựng và rồi bảo vệ nền dân chủ tự do,
các
bạn hãy nhớ đến bốn thành tố này, để thiết lập, bảo vệ và
phát triển
chúng. Các bạn cũng có thể coi chúng như bốn tiêu chí để bạn
đánh giá xem một xã hội nào đó, như Việt Nam, đã đạt được nền
dân chủ tự do hay chưa.
Chương IV
DÂN CHỦ TRỰC TIẾP VÀ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN
Dân chủ là hình thức tổ chức chính quyền với các nguyên tắc
chung như nêu trên. Tuy nhiên, cũng có nhiều kiểu chế độ dân
chủ, và nhiều cách phân loại dân chủ. Một trong các cách phổ
biến
là phân loại dân chủ theo tính đại diện. Theo đó, dân chủ được
chia
thành hai loại: trực tiếp và gián tiếp, tức đại diện.
DÂN CHỦ TRỰC TIẾP
Một cách chung nhất, dân chủ trực tiếp là “một hệ thống cho
phép
tất cả các bên tham gia đều có tiếng nói trong quá trình ra
quyết
định, thông qua việc tự mình bỏ phiếu, về bất kỳ vấn đề gì được
đưa ra”. 1
Khi nói về thể chế, dân chủ trực tiếp là chế độ dân chủ mà
trong
đó:
- Công dân tham gia trực tiếp, liên tục, và không qua trung
gian,
vào tiến trình ra quyết định tối cao.
- Ranh giới giữa tầng lớp cai trị và tầng lớp bị trị bị xóa bỏ.
- Ranh giới giữa chính quyền và xã hội dân sự bị xóa nhòa.
Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ đơn giản, sơ khai nhất.
Nó ra đời ở thành bang Athens (Hy Lạp cổ đại). Ngày nay, nó vẫn
được áp dụng mỗi khi tất cả công dân đều trực tiếp tham gia
cho ý
1. “Introduction to Public Policy”, Charles Wheelan, 1st
edition, 2011, trang 182
116 | Phạm Đoan Trang
kiến về một vấn đề nào đó của quốc gia; ấy là khi diễn ra
trưng cầu
dân ý.
Dân chủ trực tiếp ra đời từ thành bang Athens (Hy Lạp cổ)
Ưu điểm của dân chủ trực tiếp: Đây là hình thức dân chủ thuần
khiết nhất: Mọi thành viên của cộng đồng, xin nhấn mạnh là mọi
thành viên, đều có quyền ra quyết định. Tất cả đều được trình
bày
quan điểm và lợi ích mà không phải thông qua chính trị gia
hay
đảng phái, tổ chức nào. Ai ai cũng được tiếp cận thông tin,
có thông
tin và có cơ hội hiểu biết.
Nhược điểm của dân chủ trực tiếp thì chắc bạn đọc có thể thấy
ngay: Nó quá lý tưởng, và với quy mô dân số như ở các quốc
gia
hiện nay thì dân chủ trực tiếp trở thành không tưởng.
DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN
Dân chủ đại diện là dân chủ gián tiếp, tức ngược với dân chủ
trực
tiếp nói trên. Sự tham gia của công dân vào việc ra quyết định
là
không thường xuyên, không liên tục, bị giới hạn vào hoạt động
bỏ
phiếu theo nhiệm kỳ (ví dụ hai năm một lần) để bầu ra người đại
diện cho họ.
Ưu điểm của dân chủ đại diện: Nó khắc phục được tính bất khả
thi, không tưởng của dân chủ trực tiếp trong những cộng đồng
dân
Chính trị bình dân | 117
số lớn. Ngoài ra, dân chủ đại diện còn có các ưu điểm như: giải
phóng dân thường khỏi gánh nặng ra quyết định, tạo phân công
lao động trong chính trị; đặt việc cai trị vào tay những người
chuyên
trách, có thể có kinh nghiệm và chuyên môn hơn.
Nhược điểm của dân chủ đại diện: Bạn hẳn đã thấy ngay dân
chủ đại diện không thể nào thuần khiết như dân chủ trực tiếp,
và
nó chỉ có hiệu quả khi người đại diện được bầu ra thật sự là
đại diện
của dân, nhờ một cơ chế sàng lọc chính xác và tiến trình bầu
cử
công bằng, tự do. (Xem Chương IV về bầu cử, thuộc Phần V,
“Tương tác chính trị”).
Chương V
LỢI ÍCH VÀ MẶT TRÁI CỦA DÂN CHỦ
Dân chủ mang đến một loạt những cơ chế, những kênh khác
nhau để người ta thể hiện quan điểm, theo đuổi lợi ích và mưu
cầu
hạnh phúc, thông qua hội nhóm/ tổ chức/ phe phái/ đảng phái,
với
tư cách cá nhân cũng như tập thể...
Dân chủ tạo điều kiện cho sự ra đời những chính sách công tốt.
Ở đây, các bạn lưu ý là bất kỳ chính sách nào, dù mục đích tốt
đẹp
đến đâu, cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến một hoặc một số
nhóm người trong xã hội. Tuy thế, dân chủ sẽ làm giảm nguy cơ
ra
đời những chính sách gây hại cho số đông dân chúng, và nếu
thiểu
số có chịu thiệt hại thì thiệt hại đó cũng không quá lớn.
Dân chủ tất nhiên gây tranh cãi, nhưng một nền dân chủ không
đòi hỏi tất cả mọi người phải đồng ý với nhau về tất cả các vấn
đề;
nó chỉ đòi hỏi mọi người đồng ý với nhau về cơ chế ra quyết định
đối với các vấn đề công cộng. Nói cách khác, nó không cần tất
cả
mọi người phải đồng ý với nhau về kết quả của cuộc chơi, mà
chỉ
đòi hỏi mọi người cùng chấp nhận luật chơi. Nếu vẫn còn có những
nhóm phải bất mãn với một luật chơi bị áp đặt, điều đó chứng
tỏ
dân chủ vẫn chưa được đảm bảo, chưa được thực thi.
Tuy nhiên, có lẽ cách tốt hơn để bạn thấy các lợi ích về dân
chủ
là để bạn tìm hiểu về hai chế độ đối nghịch với nó: toàn trị
và độc
đoán.
120 | Phạm Đoan Trang
CHẾ ĐỘ TOÀN TRỊ 1
Chế độ toàn trị là một hệ thống chính trị trong đó ách cai trị
bao
trùm lên tất cả, toàn bộ, các mặt của đời sống (hiểu nôm na
là toàn
trị nghĩa là cai trị toàn bộ); ách cai trị đó được xác lập với
việc áp
đặt một ý thức hệ bao trùm và sự tàn bạo, hà khắc, gây sợ
hãi.
Chế độ toàn trị khác với chế độ chuyên quyền và chế độ độc
đoán ở chỗ nó tìm kiếm “toàn bộ quyền lực”, “quyền lực tuyệt
đối”
thông qua việc chính trị hóa mọi khía cạnh của đời sống xã hội
và
cá nhân. Còn chế độ chuyên quyền và chế độ độc đoán có mục
tiêu
khiêm tốn hơn, là chỉ nắm độc quyền về quyền lực chính trị,
thường
là bằng cách loại quần chúng ra khỏi chính trị.
Chế độ toàn trị thẳng thừng xóa bỏ xã hội dân sự: tiêu diệt
cái
cá nhân, cái riêng, của tư nhân. Đôi khi chế độ toàn trị được
xác
định nhờ có “hội chứng sáu điểm” như sau 2
:
1. Có một ý thức hệ chính thức;
2. Nhà nước độc đảng, có khi bị cai quản bởi một nhà lãnh đạo
hùng mạnh, toàn năng;
3. Một hệ thống cảnh sát giám sát, gây sợ hãi;
4. Độc quyền các phương tiện truyền thông đại chúng;
5. Độc quyền các phương tiện vũ trang;
6. Nhà nước kiểm soát tất cả các khía cạnh của đời sống kinh
tế.
CHẾ ĐỘ ĐỘC ĐOÁN 3
Chế độ độc đoán đi theo một chủ nghĩa cho rằng, và thực thi,
quyền lực dội từ trên xuống, trong đó, quyền lực được thực
thi bất
kể có được sự tán thành chung hay không. Chế độ độc đoán, vì
thế,
nhấn mạnh việc quyền lực phải bao trùm lên tự do cá nhân.
1. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Prentice Hall,
trang 29.
2. Austin Ranney dẫn lại từ “Totalitarian Dictatorship and
Autocracy”, Carl J. Friedrich &
Zbigniew Brzezinski, 2nd edition, Harvard University Press.
3. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Prentice Hall,
trang 38.
Chính trị bình dân | 121
Tuy nhiên, chế độ độc đoán thường được phân biệt với chế độ
toàn trị. Việc thực thi quyền lực từ trên xuống có liên hệ với
chế độ
quân chủ chuyên chế, độc tài truyền thống, và hầu hết các chế
độ
quân sự đều xoay quanh việc đàn áp phe đối lập cũng như tự do
chính trị, thay vì theo đuổi một mục tiêu cực đoan hơn, là
xóa bỏ
sự tách biệt giữa nhà nước và xã hội dân sự. Do đó, các chế độ
độc
đoán có thể dung tha một số đáng kể các quyền tự do kinh tế,
tôn
giáo và các quyền tự do khác.
* * *
NHỮNG MẶT TRÁI CỦA DÂN CHỦ 1
Nền độc tài của đa số
Đến đây chúng ta đã biết một trong các nguyên tắc của dân chủ
là
“thiểu số phải theo đa số”. Chúng ta cũng biết một thực tế
là, bất kỳ
chính sách công nào được ban hành, cho dù bản chất nó có tiến
bộ
đến đâu, thì cũng sẽ có người bất mãn với nó.
Vậy, sẽ ra sao nếu có một thiểu số thường xuyên, liên tục phải
chịu thua đa số, và vì thế thường xuyên, liên tục bất mãn?
(ví dụ:
người đồng tính, người dân tộc thiểu số...). Khi điều đó xảy
ra, mâu
thuẫn có thể tích tụ và nếu không có cơ chế giải quyết thì
xung đột
sẽ là không tránh khỏi.
Đám đông có thể sai
Một trong các nguyên tắc của dân chủ là “thiểu số phải theo
đa số”.
Vấn đề là không phải đa số lúc nào cũng đúng. Trong lịch sử,
có vô
vàn ví dụ về cái sai của đám đông, mà một trong các ví dụ
kinh điển
nhất là câu chuyện nhà bác học Galileo đối đầu với hệ thống
nhà
thờ và giáo lý ở châu Âu thời Trung cổ. Chỉ một mình Galileo
nói
1. “Political Philosophy - A Complete Introduction”, Phil
Parvin & Clare Chambers,
McGraw-Hill Companies, Inc., 2012.
122 | Phạm Đoan Trang
rằng trái đất quay xung quanh mặt trời, và ông đúng, còn đám
đông thì sai.
Khi thực hiện dân chủ, thiểu số theo đa số, mà đa số lại sai,
thì
có nghĩa là dân chủ đã không đồng hành cùng chân lý, công lý.
Cho
nên trong nhiều trường hợp, muốn theo đuổi công lý, phải hy
sinh
dân chủ (không theo số đông nữa), và ngược lại, muốn thực thi
dân chủ thì phải chấp nhận bỏ qua công lý. Người ta gọi đây
là mâu
thuẫn giữa công lý và dân chủ.
Vai trò của chuyên gia
Đến đây chúng ta đều đã biết một trong các nguyên tắc của dân
chủ là “tất cả mọi người đều có khả năng ảnh hưởng tới chính
sách
như nhau”. Tuy nhiên, trong thực tế đời sống, gần như tất cả
các
lĩnh vực đều cần phải có tiếng nói của chuyên gia trong lĩnh
vực đó;
chuyên gia mới là người quyết định những vấn đề quan trọng
trong
lĩnh vực đó.
Và vì thế, ta thấy ở đây một mâu thuẫn nữa: mâu thuẫn giữa
dân
chủ và vai trò của chuyên gia. Rõ ràng, nếu chuyên gia là người
có
tiếng nói quyết định, thì nguyên tắc “tất cả mọi người đều có
khả
năng ảnh hưởng tới chính sách như nhau” là không thể thực hiện.
Mâu thuẫn này thể hiện rất rõ trong chính trị và chính sách
công: Dân chủ cho mọi người dân quyền lên tiếng trong quá
trình
ra quyết định, làm chính sách, và thế là dường như mọi việc
trên
đời đều cần và đều có chuyên gia, chỉ trừ việc quản trị, điều
hành
đất nước. Có nhiều vấn đề, “chuyên gia” đóng góp ý kiến nhiều
đến
mức cuối cùng không ai nghe ai cả, ví dụ như những vụ chặt hạ
hàng loạt cây xanh ở Hà Nội vì mục tiêu phát triển đô thị.
Nhiều khi mất thì giờ và không hiệu quả
Nguyên tắc của dân chủ là tất cả mọi người đều được tham vấn,
được có ý kiến trong quá trình hoạch định chính sách. Hậu quả
của
việc này là quá trình ra quyết định không thể không kéo dài. Ở
một
nền dân chủ nổi tiếng là Mỹ, rất thường xuyên xảy ra tình trạng
gọi
Chính trị bình dân | 123
là “thế bế tắc về chính sách”, khi mà không một chính sách
nào
được ban hành để giải quyết một vấn đề chung nào đó, bởi lẽ
tranh
cãi, phản biện, vận động chính sách quá nhiều và không bên
nào
thắng để có thể dứt điểm.
TRONG NGẮN HẠN, DÂN CHỦ KHÔNG HỨA HẸN NHIỀU
ĐIỀU NHƯ BẠN TƯỞNG 1
Ở Việt Nam dưới thời cộng sản, nhiều dư luận viên hoặc những
người có tư duy kiểu dư luận viên hay hỏi vặn, đại ý: “OK, cứ
cho
là Việt Nam không dân chủ đi, và bây giờ đùng một cái đất nước
chuyển sang chế độ dân chủ đa đảng. Thế đường sá còn tắc
không,
còn rác rưởi, bụi bặm không? Thực phẩm an toàn sạch sẽ ngay
chưa? Chưa phải không? Chứng tỏ dân chủ không phải liều thuốc
thần, nhé. Cái gì cũng phải từ từ, phải có lộ trình, không phải
cứ
dân chủ là giải quyết hết các vấn đề của đất nước đâu”.
Tất nhiên là họ ngụy biện. Nhưng họ nói đúng một điểm: Dân chủ
không phải liều thuốc thần, nhất là trong ngắn hạn (dưới 1-3
năm).
Dân chủ không hứa hẹn phát triển kinh tế ngay lập tức, không
hứa hẹn hiệu quả kinh tế cao hơn: Tỷ lệ tiết kiệm, tỷ lệ đầu
tư, năng
suất lao động, trình độ học vấn, năng lực sáng tạo v.v. ở các
nước
dân chủ không chắc đã cao hơn, nhất là trong giai đoạn chuyển
giao chế độ.
Dân chủ không hứa hẹn bộ máy hành chính tốt hơn: Năng lực
làm việc của bộ máy hành chính ở chế độ dân chủ thậm chí còn
có
thể chậm hơn, tiến trình làm việc kéo dài hơn, tốn kém hơn so
với
xứ độc tài.
Khi chuyển giao sang chế độ dân chủ, giai đoạn đầu người dân
có thể còn tỏ ra bất mãn hơn, nhất là bởi vì khi đó họ đã có
quyền
tự do phản biện và phê phán, không lo bị chính quyền đàn áp.
1.Democracy: A Reader, Larry Diamond & Marc F. Plattner,
John Hopkins University Press,
2009.
124 | Phạm Đoan Trang
Dân chủ không hứa hẹn trật tự và đồng thuận: Khi người dân có
quyền tự do biểu đạt, thì sự bất mãn, chống đối các quy định,
chính
sách mới có thể còn cao hơn trong chế độ độc tài. Mâu thuẫn
trong
xã hội có thể còn cao hơn thời độc tài: Mâu thuẫn tôn giáo, sắc
tộc
nổi lên (ví dụ: Tây Nguyên đòi quyền tự trị).
Tự do kinh tế luôn chứa đựng rủi ro: Dân chủ đưa đến nền kinh
tế mở, hội nhập với thế giới, giảm thiểu chủ nghĩa bảo hộ. Điều
đó
có thể mang lại sự thịnh vượng, nhưng cũng có thể đem đến cạnh
tranh không lành mạnh, thất bại trước các công ty nước ngoài,
phá
sản, thất nghiệp v.v. Bên cạnh đó, các quyền tự do về kinh tế
(như
quyền tư hữu tài sản, quyền được bảo vệ sở hữu trí tuệ, quyền
không bị nhà nước can thiệp về kinh tế...) không chắc đã đồng
nhất
với tự do về chính trị.
Phần IV
CÁC CHỦ NGHĨA
Có câu nói rằng trong xã hội loài người, tôn giáo và chính trị
là hai
thứ gây chia rẽ nhất, và đó cũng là thứ mà người ta dễ sống
chết vì
nó nhất. Điều đó đúng, nhưng cội nguồn, cái gốc gây chia rẽ
phải
là một thứ mà cả tôn giáo và chính trị đều dựa vào, hay nói
cách
khác, nó là nền tảng lý luận của tôn giáo và chính trị. Người
ta gọi
nó là ý thức hệ, hay là chủ nghĩa.
Trong Phần IV này, các bạn sẽ tìm hiểu về một dải rộng các ý
thức
hệ, từ tự do, dân chủ xã hội, đến cộng sản và phát xít, từ chủ
nghĩa
quốc gia đến nữ quyền. Các bạn sẽ hiểu thế nào là cánh tả,
cánh
hữu, đường lối của đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ ở Mỹ khác
nhau như thế nào, và khi một ai đó tự giới thiệu: “Tôi là người
bảo
thủ”, thì điều đó hoàn toàn không có nghĩa tiêu cực.
Các bạn cũng sẽ hiểu rõ hơn một số khái niệm rất thường gặp
trong triết học chính trị, nhưng độc giả Việt Nam thì thường
mơ
hồ về chúng: tự do, bình đẳng.
Chương I
THẾ NÀO LÀ MỘT CHỦ NGHĨA?
Từ “chủ nghĩa” đồng nghĩa với “ý thức hệ”, hay “hệ tư tưởng”
(tiếng
Anh là ideology).
Trong tiếng Anh, thông thường ở cuối mỗi từ chỉ tên riêng của
mỗi ý thức hệ, có chữ “ism” (trong tiếng Pháp thì là chữ
“isme”),
ví dụ liberalism là chủ nghĩa tự do, communism là chủ nghĩa cộng
sản. Vậy nên người Việt thường dịch tất cả các từ có hậu tố
“ism”
hay “isme” thành “chủ nghĩa...” gì đó. Tuy thế, không phải từ
nào
tận cùng bằng “ism” hay “isme” cũng chỉ một chủ nghĩa. Chẳng
hạn, tiếng Anh có từ “euphemism”, nghĩa là “uyển ngữ”, “nói
giảm
nói tránh”; chúng ta không thể dịch nó thành “chủ nghĩa uyển
ngữ” được.
Tùy ngữ cảnh, ta có thể dịch một từ có hậu tố “ism” nào đó
thành học thuyết, chủ thuyết, thuyết, luận, đường lối, phương
pháp, thuật, đạo, tư tưởng, chế độ, chủ nghĩa, hay ý thức hệ.
ĐỊNH NGHĨA
Ý thức hệ là gì? Cũng giống như với các khái niệm chính trị,
dân
chủ, từ “ý thức hệ” có nhiều định nghĩa.
Đôi nét lịch sử: Khái niệm “ý thức hệ” do triết gia Pháp
Destutt
de Tracy đưa ra năm 1796 với nghĩa nguyên thủy là “môn khoa học
nghiên cứu về ý thức”, “ý thức học”. Tức là, khái niệm này
ban đầu
không liên quan đến chính trị. Có lẽ Karl Marx (Các Mác) là
người
128 | Phạm Đoan Trang
đầu tiên chính trị hóa nó; ông ta cho rằng ý thức hệ chỉ là ý
thức của
giai cấp thống trị, lừa dối giai cấp bị trị và che giấu mâu
thuẫn giai
cấp. Ông còn tỏ ra rất tự tin khi tuyên bố: “Các quan điểm
chính trị
chỉ có thể hoặc là khoa học, hoặc là mang tính ý thức hệ. Và
chủ
thuyết của ta là khoa học”. Có nghĩa là, với Marx, chủ nghĩa
Mác
không phải là chủ nghĩa, không phải là ý thức hệ, mà là một
khoa
học.
Kể từ đó, ý thức hệ trở thành một khái niệm chính trị như
ngày
nay, mất ý nghĩa ban đầu. Và nó mang nghĩa tiêu cực: Karl
Popper
cho rằng ý thức hệ là công cụ để quản lý xã hội, để bắt mọi
người
phải tuân lệnh và phục tùng. Cùng với Hannah Arendt, Karl
Popper
định nghĩa ý thức hệ là một hệ thống quan điểm khép kín, tự
cho
là độc quyền chân lý, không chấp nhận các quan điểm và niềm
tin
khác biệt.
Tuy nhiên, nếu hiểu ý thức hệ như Hannah Arendt và Karl
Popper thì chủ nghĩa tự do và các chủ nghĩa mang tính mở,
không
chấp nhận độc quyền chân lý, sẽ không phải là ý thức hệ nữa.
Ai cũng tự cho mình là khoa học
Karl Marx: Chủ nghĩa Mác là khoa
học, không phải ý thức hệ.
Karl Popper: Chủ nghĩa tự do là
khoa học, không phải ý thức hệ.
Chính trị bình dân | 129
Tóm lại, ý thức hệ là gì? Sau đây là định nghĩa về nó theo
quan
điểm hiện đại:
Ý thức hệ là một hệ thống niềm tin dẫn dắt hành động chính trị.
Cụ thể hơn nữa, ý thức hệ là một tập hợp các quan điểm, quan
niệm có liên hệ qua lại, dẫn dắt hoặc tạo cảm hứng cho các
hành
động chính trị.
Nhà khoa học chính trị Austin Ranney đưa ra một ví dụ: Trong
kinh tế học, có một quan điểm cực kỳ phổ biến và vững chắc,
là
mục đích duy nhất của mỗi cá nhân trên đời này chỉ là làm sao
để
thu lợi càng nhiều càng tốt. Và quan điểm đó là một trong một
tập
hợp các quan điểm có liên hệ qua lại với nhau một cách logic
để tạo
ra một học thuyết. Học thuyết ấy cho rằng cách tốt nhất để tổ
chức
hệ thống kinh tế là đặt hệ thống kinh tế trên nền tảng sở hữu
tư
nhân về phương tiện sản xuất, tư nhân hóa việc phân phối hàng
hóa và dịch vụ. Tập hợp các quan điểm đó cấu thành nên hệ thống
kinh tế và ý thức hệ có tên là chủ nghĩa tư bản. 1
Sự khác nhau giữa một ý thức hệ và một quan điểm hay quan
niệm là gì? Nhà khoa học chính trị Roy C. Macridis cho rằng
có
bốn tiêu chí sau đây để phân biệt chúng:
Tính tổng quát (comprehensiveness). Một ý thức hệ hoàn chỉnh
phải bao gồm những quan điểm, quan niệm về các vấn đề lớn
lao,
chẳng hạn như vị thế của con người trong vũ trụ, quan hệ của
con
người với Chúa trời, lịch sử, những mục tiêu to lớn nhất của
xã hội
và chính quyền, bản chất của con người, và những cách tốt nhất
để
đạt được các mục tiêu xã hội và chính trị lớn nhất. Những
quan
điểm, quan niệm đó phải nhất quán với nhau một cách logic, và
thường có một tổ chức lớn – ví dụ như đảng Cộng sản Liên Xô
hay
phong trào nữ quyền – trung thành với những quan điểm, quan
niệm đó và cống hiến hết mình để thực hiện chúng.
1. “Governing: An Introduction to Political Science”, 8th
edition, Prentice Hall, trang 69-70.
130 | Phạm Đoan Trang
Tính lan tỏa (pervasiveness). Tập hợp những quan điểm, quan
niệm của ý thức hệ đó phải được biết đến không chỉ từ rất lâu
mà
còn phải hình thành niềm tin chính trị và hành động chính trị
của
rất nhiều người. Chẳng hạn, mọi người đã nói đến dân chủ, chế
độ
quý tộc, chế độ chuyên quyền suốt từ thế kỷ thứ 5 trước Công
nguyên; những phong trào lớn, quy tụ hàng triệu người, đã
tranh
đấu cho các ý thức hệ đó suốt hơn 2000 năm qua.
Tính rộng khắp (extensiveness). Tập hợp những quan điểm,
quan niệm của ý thức hệ đó phải được một số lượng lớn người
chia
sẻ và phải đóng vai trò quan trọng trong chính trị của một hoặc
nhiều hơn một quốc gia.
Tính mạnh mẽ (intensiveness). Tập hợp những quan điểm,
quan niệm của ý thức hệ đó phải thu hút được một sự dấn thân
của
nhiều người theo đuổi nó, và phải gây ảnh hưởng đáng kể đến
những niềm tin và hành động chính trị của họ.
Đối chiếu với những tiêu chuẩn như trên thì hẳn bạn đã thấy,
để
một ý tưởng trở thành một ý thức hệ chẳng phải chuyện dễ dàng
gì.
Như đã nói, không phải từ nào tận cùng bằng “ism” hay “isme”
cũng chỉ một chủ nghĩa. Tùy ngữ cảnh, ta có thể dịch một từ
có hậu
tố “ism” nào đó thành học thuyết, chủ thuyết, thuyết, luận,
đường
lối, phương pháp, thuật, đạo, tư tưởng, chế độ, chủ nghĩa,
hay ý
thức hệ. Cũng vậy, không phải tư tưởng, quan điểm, quan niệm
nào cũng trở thành chủ nghĩa được. Người Việt hay “nâng tầm”
nhiều thứ lên hàng đạo, chủ nghĩa, ví dụ nói với nhau về “đạo
facebook”, “đạo thịt chó”, “chủ nghĩa độc thân”, v.v. nhưng tất
nhiên
đó là nói đùa với nhau thôi.
Nói nôm na thì một ý thức hệ, đạo, hay chủ nghĩa, có nghĩa là
một đường lối, con đường có tính tổng quát, lan tỏa, rộng khắp,
mạnh mẽ, thu hút đông đảo người đi theo.
Chính trị bình dân | 131
Theo ngôn ngữ Trung Hoa, “Đạo” có nghĩa là “con đường”. Trong
ngôn
ngữ Ấn Độ, “Yoga” cũng có nghĩa là “Đạo”, cũng lại có nghĩa
là “con
đường” nốt. Trong ngôn ngữ châu Âu, mọi thứ gì được thêm “cái
đuôi”
ism (tiếng Anh) hoặc isme (tiếng Pháp) đến cả izm (tiếng Nga)
đều thành
“con đường” cả. Tiếng nói của tất cả loài người rồi ra hết thảy
đều theo
khuôn đó: ism(e) hoặc izm sẽ thành “Đạo”. Đem một “linh hồn”
để thổi
vào hoặc gán cho một cái vật vô tri, thế là có ngay animism
(“con đường”,
vật linh, hoặc “đạo” thờ vật vô tri vì coi như vật đó có linh
hồn, sau rồi con
đường ấy được dịch cho rõ nghĩa thành chủ nghĩa vật linh). Đức
Phật
(Buddha) cùng các ông Mahomet hoặc Jesus Christ ngồi yên trên
toà
không sao, bỗng dưng có vô vàn người đi theo và gọi đó là các
ông Thánh,
thế là có ngay “con đường” (hoặc “chủ nghĩa”) Buddhism,
Christianism,
Mahometism và những cá thể người đi theo “con đường” ấy sẽ
thành (có
đạo hoặc theo chủ nghĩa) Buddhist, Christianist, Mahometist.
“Hợp lưu các dòng tâm lý học giáo dục” – Phạm Toàn,
NXB Tri Thức, 2008
Bây giờ chúng ta sẽ bàn đến một số ý thức hệ, hay chủ nghĩa,
phổ biến trong lịch sử loài người từ trước tới nay, theo
nghĩa chúng
được biết đến nhiều và được thực thi nhiều trên thế giới:
- Chủ nghĩa tự do
- Chủ nghĩa bảo tồn
- Chủ nghĩa xã hội và dân chủ xã hội
- Chủ nghĩa phát xít
- Chủ nghĩa vô chính phủ
- Chủ nghĩa môi trường
- Tôn giáo thuần túy
- Chủ nghĩa cộng đồng
- Chủ nghĩa nữ quyền
- Chủ nghĩa dân tộc
Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ tìm hiểu sơ qua về hai khái niệm
có
vẻ đang là “mốt” hiện nay: dân túy và mị dân.
Chương II
CHỦ NGHĨA TỰ DO
Chủ nghĩa tự do mà chúng ta bàn ở đây là chủ nghĩa tự do cổ
điển.
Đó là một ý thức hệ dựa trên việc tôn sùng chủ nghĩa cá nhân,
tự
do, sự bao dung và đồng thuận. Nó là sản phẩm triết học của
phương Tây thời tiền công nghiệp, được hình thành vào cuối thế
kỷ 18.
CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CHỦ NGHĨA TỰ DO 1
Nói tới chủ nghĩa tự do là người ta nói đến các yếu tố cấu
thành nên
nó, như sau: 1. Chủ nghĩa cá nhân; 2. Tự do; 3. Lý trí, sự
duy lý; 4.
Bình đẳng; 5. Tinh thần khoan dung, chấp nhận; 6. Sự đồng ý tự
nguyện (đồng thuận); 7. Hợp hiến.
1. Chủ nghĩa cá nhân
Gọi là “chủ nghĩa”, có nghĩa là nó cũng là một ý thức hệ, tức
một tập
hợp các quan điểm, quan niệm. Tôn vinh chủ nghĩa cá nhân được
coi là nguyên tắc cốt lõi của chủ nghĩa tự do, không có chủ
nghĩa cá
nhân thì không tồn tại chủ nghĩa tự do. Cụ thể, chủ nghĩa cá
nhân:
y Coi cá nhân quan trọng hơn bất kỳ tổ chức hay cộng đồng nào
(cá nhân quan trọng hơn tập thể)
y Coi con người trước hết là những cá nhân bình đẳng về giá
trị
y Cho rằng xã hội tốt đẹp là xã hội để cho mỗi cá nhân phát
1. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Palgrave
Foundations, 2007.
134 | Phạm Đoan Trang
triển bản thân, theo đuổi lợi ích riêng phù hợp với khả năng
của mình.
Đừng bao giờ quên rằng chỉ có cá chết mới trôi theo dòng.
Hình vẽ và câu nói trên đây thể hiện đúng tinh thần của chủ
nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do: Cá nhân quan trọng hơn cộng
đồng; sự độc lập của cá nhân khỏi cộng đồng là điều tốt và cần
được khuyến khích. Chủ nghĩa cá nhân không chấp nhận việc xóa
bỏ cái tôi, hòa tan cái tôi vào tập thể.
Nếu bạn là người mê điện ảnh Mỹ thì hẳn bạn sẽ thấy triết lý
này thể hiện rất rõ trong các bộ phim hành động của
Hollywood,
nơi nhân vật chính diện thường xuyên “một mình cứu cả thế giới”.
Trong quá trình làm việc tốt giải cứu thế giới ấy, anh ta
(vâng,
thường đó là nam giới – các nhà điện ảnh Hollywood vốn có tiếng
trọng nam khinh nữ) luôn mưu trí, sáng tạo và đặc biệt, rất
can
đảm, sẵn sàng chống lệnh cấp trên hoặc chống lại cả một tập
thể để
làm điều anh ta cho là đúng (và quả thật, anh ta đúng).
2. Tự do
Đây là giá trị cốt lõi của chủ nghĩa tự do. Theo triết lý của
chủ nghĩa
tự do thì tự do được đặt cao hơn cả bình đẳng và công lý. Tuy
nhiên,
chủ nghĩa tự do vẫn chấp nhận “tự do trong khuôn khổ pháp luật”
Chính trị bình dân | 135
để tự do của người này không ảnh hưởng đến tự do của người
khác.
Đến đây, một câu hỏi thuộc phạm trù triết học, triết học
chính
trị được đặt ra: Tự do là gì? Chúng ta sẽ dành ít phút để làm
rõ khái
niệm này.
Xưa nay đã có nhiều triết gia định nghĩa về tự do. Ví dụ, độc
giả
Việt Nam hẳn là đã quen thuộc với định nghĩa của Friedrich
Hegel
(1770-1831): “Tự do là cái tất yếu được nhận thức”. Nó được
đưa
hẳn vào chương trình giáo dục công dân hay có thể coi như
chương
trình triết học căn bản phổ thông trong các trường học ở Việt
Nam.
Để làm cho định nghĩa của Hegel trở nên dễ hình dung hơn,
giáo viên có thể giải thích: “Đây nhé, các em là học sinh,
nghĩa vụ
của các em là đến trường, đi học. Khi đi học thì phải làm bài
đầy
đủ, thi cử nghiêm túc. Đó là những nghĩa vụ tất yếu. Các em ý
thức
được đó là cái tất yếu thì các em sẽ học hành chăm chỉ, không
trốn
tiết, bỏ thi, và cứ làm đúng như thế là các em có tự do. Nếu
không
làm đúng như thế thì các em sẽ bị trừng phạt, tức là bị kỷ luật,
bị
thầy cô giáo và cha mẹ nhắc nhở và mất tự do. Như thế nghĩa
là tự
do là nhận thức cái tất yếu”.
Có thể bạn sẽ thấy với định nghĩa này, tự do vẫn có cái gì đó
hạn
hẹp quá, trong khuôn khổ quá. Tóm lại, nó không thỏa đáng.
Một triết gia khác, John Locke (1632-1704), đưa ra định
nghĩa:
“Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà
mình
mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào”.
Căn cứ vào định nghĩa của Locke, rõ ràng là nếu ai cũng có thể
làm bất cứ điều gì mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở
nào, thì cuối cùng tự do của người này sẽ xâm phạm và cản trở
tự
do của người kia; hay nói cách khác, tự do của người này đồng
thời
lại là sự mất tự do của người kia. Có thể nào như vậy chăng?
Định
nghĩa này xem ra cũng không thỏa đáng lắm.
Năm 1958, triết gia người Do Thái Isaiah Berlin (1909-1997),
136 | Phạm Đoan Trang
sinh tại Nga nhưng di tản sang Anh, đã có một bài giảng nổi
tiếng
nhan đề “Hai khái niệm tự do” (Two Concepts of Liberty). Ông
cho
rằng, tồn tại hai loại, hay nói đúng hơn, hai cách hiểu về tự
do: Tự
do không và Tự do có. 1
Theo Berlin, tự do không là cách hiểu chung của Thomas
Hobbes, John Locke, Friedrich von Hayek và Ludwig von Mises về
tự do, theo đó, tự do là khả năng một người có thể làm bất cứ
điều
gì mình muốn mà không chịu sự can thiệp nào từ bên ngoài. Từ
gốc trong tiếng Anh là “negative freedom”, trong đó từ
“negative”
có thể được dịch sang tiếng Việt là âm tính, phủ định, tiêu cực,
thụ
động. Tuy nhiên, tự do không hoàn toàn không mang nghĩa tiêu
cực, mà chỉ hàm ý là không có sự can thiệp từ bất cứ ai/cái
gì bên
ngoài. Hiểu như vậy thì chính tự do không mới là tự do tuyệt
đối.
Friedrich von Hayek (1899-1992) cho rằng hình thức can thiệp
phá vỡ tự do nhất là sự cưỡng chế, cưỡng ép – tức là những
hành
động có chủ ý của một/các cá nhân khác nhằm khống chế, kiểm
soát môi trường hoặc hoàn cảnh của một người nào đó, buộc người
ấy phải hành động (hoặc không hành động) không theo ý chí thống
nhất của mình mà là theo ý muốn của một/các cá nhân khác đó.
Định nghĩa của Hayek về sự cưỡng chế, cưỡng ép có hai điểm
quan trọng là “hành động có chủ ý” và “của cá nhân khác”. Ví
dụ,
nếu bạn bị rơi xuống hang và bị kẹt trong đó, không ra được,
thì như
thế không phải là mất tự do. Chỉ khi có kẻ nào đó đẩy bạn vào
hang
và/hoặc nhốt bạn trong hang (có chủ ý) thì khi ấy bạn mới mất
tự
do. Ngay cả nếu kẻ kia chỉ vô tình khóa bạn lại trong một căn
buồng
(không chủ ý) thì cũng không thể nói bạn mất tự do được.
Ngoài ra, nếu bạn bị cản trở hành động bởi những nguyên nhân
bên trong bạn (không phải các tác nhân bên ngoài) thì đó cũng
không phải là sự can thiệp làm mất tự do. Một người tàn tật, ốm
1. Phần diễn giải các quan niệm về tự do của Isaiah Berlin,
Friedrich von Hayek và Jean
Jacques Rousseau lấy từ “Political Philosophy - A Complete
Introduction”, Phil Parvin &
Clare Chambers, McGraw-Hill Companies, Inc., 2012.
Chính trị bình dân | 137
yếu chẳng hạn, không thể đi bộ băng qua đường nếu không có
ba-
toong hay xe lăn, thì cũng vẫn được coi là tự do: Anh/chị ta
có
quyền tự do sang đường.
Từ việc tự do không hàm ý không có sự can thiệp, có thể suy
luận rằng tự do có là thứ tự do có điều kiện. Tự do có là việc
một
người có thể và thực sự có khả năng hành động theo ý nguyện
của mình. Nói cách khác, cá nhân có tự do này khi anh/chị ta
làm chủ chính mình và có thể tự chịu trách nhiệm về hành động
của bản thân.
Nếu bạn theo thuyết “tự do có (điều
kiện)” thì người tàn tật là người không
tự do.
Nếu bạn theo thuyết “tự do không (điều
kiện)” thì người tàn tật vẫn là người tự
do, nếu không bị bất cứ sự can thiệp nào
từ bên ngoài.
Như vậy, một người tàn tật, ốm yếu, không thể đi bộ băng qua
đường dù muốn lắm, thì là người mất tự do. Anh/chị ta bị hạn
chế
tự do bởi vì không làm chủ được cơ thể mình, đôi chân của
mình.
Những người nghèo, dù được toàn quyền mua nhà ở, thức ăn nước
uống, quần áo, nhưng không có nổi tiền để mua những thứ đó dù
rất muốn, thì cũng là không có tự do. Anh/chị ta bị hạn chế tự
do
bởi vì không có đủ năng lực (tài chính) để hành động theo ý
nguyện
cá nhân.
Một triết gia đại diện cho cách hiểu này về tự do là Jean
Jacques
Rousseau (1712-1778).
Từ hai khái niệm về tự do nói trên, bạn có thể thấy: Theo
quan
điểm của những người ủng hộ tự do không, nhà nước tôn trọng tự
do của người dân là nhà nước tối thiểu, ít can thiệp nhất có
thể.
Còn đối với những người theo quan niệm về tự do có, nhà nước
tôn
trọng tự do của dân là nhà nước có những biện pháp để thúc đẩy
138 | Phạm Đoan Trang
xã hội theo hướng họ muốn, ví dụ xóa đói giảm nghèo để tăng
năng lực cho một bộ phận dân chúng, đánh thuế để điều chỉnh
thu
nhập của người giàu và chia cho người nghèo, v.v.
Isaiah Berlin cho rằng cách hiểu về tự do theo nghĩa tự do có
thật ra rất nguy hiểm vì nó gợi ý khả năng một hoặc một số
người
tự cho mình quyền phán xét xem ai đang tự do, ai đang không tự
do. Trên bình diện xã hội, nó mở đường cho việc nhà nước can
thiệp, định hướng, và kịch bản tồi tệ nhất là trở thành
chuyên chế.
3. Lý trí, sự duy lý
Chủ nghĩa tự do cho rằng mỗi cá nhân đều có khả năng ra các
quyết định duy lý có lợi cho mình. Do đó, triết lý tin rằng
con người
có thể giải quyết khác biệt thông qua tranh biện thay vì bạo
lực.
Dựa trên nền tảng chủ nghĩa tự do, các nhà kinh tế học cổ điển
và
tân cổ điển cho rằng bản chất của con người là duy lý, tự chủ
và ích
kỷ (theo đuổi tư lợi), và một cách tự nhiên, trong quá trình
con
người hành động duy lý vì lợi ích cá nhân, xã hội cũng được
hưởng
lợi và trở nên thịnh vượng.
Như vậy, từ góc nhìn của chủ nghĩa tự do, duy lý là một phẩm
chất tốt. Người duy lý là người hành động theo một cách có
lý, có
logic, thay vì cảm tính, thậm chí bản năng như con vật.
Chỉ tiếc là, duy lý được thì tốt nhưng trên thực tế người ta
lại không duy
lý. Vào những năm 1970, hai nhà tâm lý học Amos Tversky và
Daniel
Kahneman đã nghiên cứu cách não bộ xử lý thông tin, đối chiếu
với các
mô hình kinh tế, và rồi rút ra một kết luận: Khi đối diện với
tình huống bất
trắc, con người không hề hành xử duy lý, cũng chẳng bừa phứa
ngẫu
nhiên, mà là theo những quy tắc được tự hình thành từ trước,
có thể dự
đoán, và bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm và/hoặc môi trường. Ví
dụ, ai đã
từng bị bỏng khi sờ tay vào chảo nóng thì có xu hướng sẽ cẩn
thận hơn sau
này, mỗi khi cầm chảo.
Tất nhiên, kết luận của Tversky và Kahneman cũng chỉ là một
trong vô vàn
lý thuyết. Nhưng nói chung, con người không duy lý, bởi nếu
duy lý họ đã
không ồ ạt mua/bán chứng khoán, đổ xô đi rút tiền ngân hàng,
hút thuốc
lá đến khan cả cổ hay làm nhiều chuyện khác không mang lại tư
lợi cho họ.
Chính trị bình dân | 139
Thế nên các nhà tâm lý học và kinh tế học hành vi mới cho rằng
giả định
“con người duy lý” là một giả định sai; con người có xu hướng
phản ứng
với cảm xúc (yêu, ghét, phấn khích, ghen tuông, đau khổ...)
hơn và chính
vì thế họ trở thành cảm tính, phi lý trí.
Đặc biệt, trong những tình huống bất trắc, thì đám đông ai
cũng phi lý trí
cả. Đòi hỏi sự duy lý ở cộng đồng mạng, nhất là trong một bối
cảnh chính
trị rối ren, lòng dân vốn đã đầy ức chế và bức xúc, là một
đòi hỏi ngớ
ngẩn.
Duy lý là một đặc điểm tốt, có lợi cho người có nó và mọi người
xung quanh (tức là tốt cho cả cá nhân và cộng đồng). Tuy
nhiên,
dường như cái gì tốt thì hiếm, trong thực tế chúng ta khó mà
đạt
được sự duy lý luôn luôn trong suy nghĩ và hành động. Nếu học
về
kinh tế hay luật thì bạn hẳn là đã nghe nhắc đến ví dụ: Ai
cũng biết
hút thuốc lá là có hại cho sức khỏe, không hút thì có lợi
hơn, ít nhất
cũng đỡ hại hơn, và vì thế nếu suy nghĩ một cách duy lý, theo
đuổi
lợi ích riêng, thì không ai lại hút thuốc lá. Nhưng thực tế
là rất
nhiều người vẫn hút, thậm chí còn nghiện.
11:59 đêm: Tôi sắp đi ngủ...
5:30 sáng: Sao tôi lại vẫn ngồi đây,
đọc Wikipedia về lý thuyết hạt nhân
cao cấp?
Dù vậy, duy lý, có lý trí, vẫn là một đặc trưng của chủ nghĩa
tự
do.
140 | Phạm Đoan Trang
“Người duy lý thích nghi với thế giới. Người phi lý trí kiên
trì, cố gắng làm
cho thế giới thích nghi với mình. Do đó, mọi sự tiến bộ đều
trông cậy vào
người phi lý trí”.
(George Bernard Shaw)
4. Bình đẳng
Triết học chính trị đề cập tới hai khái niệm hay là hai loại
bình đẳng
khác nhau:
- Bình đẳng về cơ hội, hay là bình đẳng về đầu vào;
- Bình đẳng về kết quả, hay là bình đẳng về đầu ra.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (công bố vào ngày
4/7/1776) nêu rõ: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng”.
Chúng
ta ghi nhận tính nhân văn của nguyên tắc này, tuy nhiên, thực
tế rõ
ràng là tất cả mọi người đều sinh ra khác nhau về đủ thứ và bất
bình đẳng về nhiều thứ. Trong cuộc sống, tất cả mọi người
cũng
khác nhau và hoàn toàn có thể bất bình đẳng về trí tuệ, tài
năng,
ngoại hình, sức khỏe, quốc tịch, giai cấp, thành phần xã hội,
ý chí...
Do đó, sự bình đẳng về kết quả (về đầu ra) là không thể có.
Vì vậy,
có lẽ nên hiểu “tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng” là một
sự
khẳng định nguyên tắc bình đẳng về cơ hội (đầu vào) thì đúng
hơn.
Cá nhân người viết cho rằng nguyên tắc bình đẳng lý tưởng
nhất là tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng về nhân quyền.
Chủ nghĩa tự do gắn với tôn trọng nhân quyền và bình đẳng, và
bản thân khái niệm nhân quyền cũng dựa trên cây cột trụ có
tên
“bình đẳng”: Nhân quyền là những quyền cơ bản, phổ quát của tất
cả mọi người; tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng về nhân
quyền. Tôn trọng nhân quyền cũng có nghĩa là đòi hỏi mọi người
phải được đối xử với sự tôn trọng như nhau, ví dụ như không
thể
có chuyện “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một con trai
cũng
là có, mà 10 con gái cũng là không). Tương tự, không thể quan
niệm “nhân quyền Mỹ” thì khác với “nhân quyền Việt Nam”, người
Mỹ có thể tự do phát triển mọi năng lực bản thân còn dân Việt
Nam thì chỉ cần “có cơm ăn áo mặc” là đủ rồi.
Chính trị bình dân | 141
Chủ nghĩa tự do cổ súy nhân quyền và bình đẳng, nhưng không
phải bình đẳng chung chung.Chủ nghĩa tự do ủng hộ bình đẳng về
cơ hội, và phản đối bình đẳng về kết quả, coi đó là một sự
cào bằng.
Những người theo chủ nghĩa tự do đề cao một xã hội phát huy tối
đa năng lực, khả năng cá nhân (giải phóng cái tôi), ai có tài
thì
hưởng thành công, ai bất tài thì phải chấp nhận thất bại.
Trong
tiếng Anh, xã hội này được gọi là “meritocracy” (chưa có từ
tiếng
Việt tương ứng).
5. Tinh thần khoan dung, chấp nhận
Khoan dung là sự sẵn sàng để người khác suy nghĩ, nói và hành
động theo cách mà mình không tán thành.Chủ nghĩa tự do cổ súy
đa nguyên và tự do quan điểm, cũng có nghĩa là tính khoan
dung,
bao dung là một thuộc tính bắt buộc của nó.
6. Đồng thuận
Chủ nghĩa tự do cho rằng quyền lực và quan hệ xã hội phải dựa
trên nguyên tắc đồng thuận: tự nguyện thỏa thuận và tự nguyện
đồng ý. Xã hội vận hành trên cơ sở một khế ước được mọi người
đồng thuận. Tổ chức vận hành trên cơ sở điều lệ được mọi người
đồng thuận.
7. Hợp hiến
Hợp hiến, tuân thủ hiến pháp, hay dịch sát nghĩa từ
“constitutional”
là “mang tính chất hiến pháp”, nghĩa là mang tính chất của một
thứ
luật cơ bản, nguồn của các luật, quy định về tổ chức bộ máy
nhà
nước, quyền hạn của nhà nước, quan hệ giữa nhà nước với người
dân, và quyền của người dân (nhân quyền, dân quyền).
Nói cách khác, hợp hiến tức là cho rằng quyền lực của nhà nước
phải bị giới hạn để nhà nước không lạm quyền và do đó, đảm bảo
nhân quyền. Chủ nghĩa lập hiến (constitutionalism) là ý thức
hệ
cho rằng quyền lực của nhà nước phải bị giới hạn để nhà nước
không lạm quyền và nhờ đó đảm bảo nhân quyền
142 | Phạm Đoan Trang
Hợp hiến, theo nghĩa đó, là một trong các thành tố của chủ
nghĩa tự do. Người theo chủ nghĩa tự do quan niệm chính quyền
có nghĩa vụ đảm bảo trật tự, ổn định nhưng trên thực tế,
chính
quyền luôn có nguy cơ độc tài, chà đạp quyền con người. Do
đó,
cần phải cổ súy mô hình nhà nước nhỏ gọn, thu hẹp quyền lực
nhà
nước bằng cơ chế cân bằng quyền lực và một bản hiến pháp bảo
vệ
nhân quyền, bảo vệ người dân khỏi nhà nước.
Chương III
CHỦ NGHĨA BẢO TỒN 1
Chủ nghĩa bảo tồn ra đời vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19,
như
một sự phản ứng lại đà nổi lên của chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa
xã
hội và chủ nghĩa dân tộc. Lâu nay, người Việt vẫn gọi nó là
“chủ
nghĩa bảo thủ”, nhưng vì từ “bảo thủ” hàm ý tiêu cực (thủ cựu,
cố
chấp, không chấp nhận cái mới), nên người viết muốn chọn một
cách gọi khác, trung tính hơn, là “bảo tồn”.
Chủ nghĩa bảo tồn được cấu thành bởi các thành tố sau: 1.
Truyền thống; 2. Chủ nghĩa thực dụng, tính thực dụng; 3. Quan
điểm “con người không hoàn hảo”; 4. Tôn ti trật tự, thứ bậc;
5.
Quyền lực của lãnh đạo; 6. Tư hữu tài sản.
1. TRUYỀN THỐNG
Chủ nghĩa bảo tồn có đặc trưng là sự tôn trọng truyền thống,
phong tục tập quán và các thiết chế lâu đời. Trong quan niệm
của
người theo chủ nghĩa bảo tồn, truyền thống là trí tuệ của nhiều
thế
hệ tích lũy lại, đã được kiểm nghiệm bởi thời gian, cho nên
nó
đúng đắn, khôn ngoan, đảm bảo duy trì ổn định, trật tự xã hội,
và
vì thế cần được tôn trọng, bảo tồn.
Xin lưu ý, chủ nghĩa bảo tồn ra đời ở phương Tây, cho nên
“truyền thống” ở đây cũng là truyền thống của phương Tây,
theo
cách hiểu của người phương Tây. Nó không phải phong tục tập
1. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Palgrave
Foundations, 2007.
144 | Phạm Đoan Trang
quán và các thiết chế của các nước châu Á như Việt Nam, ví dụ,
không phải là quan niệm “ăn cây nào, rào cây ấy” hay “ăn cỗ
đi
trước, lội nước theo sau”, v.v.
Người theo chủ nghĩa bảo tồn tôn trọng truyền thống, có nghĩa
là họ đề cao sự quân tử, tinh thần quý tộc chẳng hạn. Đối với
họ, xã
hội nên được cai trị bởi các giá trị: sự thủy chung, trung
thành, và
bởi tầng lớp quý tộc, không phải bởi các công ty vì lợi nhuận.
Xã
hội phải duy trì nền tảng đạo đức, được dẫn dắt bởi truyền thống
và tôn giáo, không phải bởi thị trường tự do.
2. CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG
Chủ nghĩa thực dụng là một ý thức hệ của Mỹ hay nói đúng hơn,
của triết học Mỹ. Nó là ý thức hệ cho rằng chỉ có lý thuyết/
hành
động nào đã được thực thi và kiểm nghiệm trên thực tế, có mục
đích thực tế, và dùng được (khả dụng), mới tốt. Đối với triết
gia
theo chủ nghĩa thực dụng, ý thức, tư duy không phải là để phản
ánh hiện thực. Ý thức, tư duy là công cụ để dự đoán vấn đề,
giải
quyết vấn đề, và hành động.
Chủ nghĩa thực dụng cũng là một yếu tố cấu thành nên chủ
nghĩa
bảo tồn. Những người theo chủ nghĩa bảo tồn tin vào truyền thống,
kinh nghiệm thực tiễn, lịch sử, và theo trường phái thực dụng.
3. QUAN NIỆM “CON NGƯỜI KHÔNG HOÀN HẢO”
Chủ nghĩa bảo tồn bi quan về con người: năng lực có giới hạn,
phụ
thuộc, dựa dẫm, chỉ dám dùng cái gì đã được thử nghiệm kiểm
chứng, thích sự ổn định, an toàn, trật tự. Về mặt đạo đức,
con người
tham lam, ích kỷ, thèm khát quyền lực và danh lợi, và tội ác
sinh ra
từ mỗi con người chứ không phải từ xã hội.
Do đó, chủ nghĩa bảo tồn cổ súy nhà nước mạnh, luật pháp
nghiêm minh để đảm bảo duy trì trật tự và kiểm soát những mặt
tiêu cực tự nhiên của con người.
Chính trị bình dân | 145
4. TÔN TI TRẬT TỰ, THỨ BẬC
Chủ nghĩa bảo tồn thủ trọng tôn ti trật tự, thứ bậc trong xã
hội,
trong tổ chức. Xã hội phải có tôn ti trật tự, thứ bậc, ai
cũng biết vai
trò và trách nhiệm của mình.
Chủ nghĩa bảo tồn cho rằng mỗi người trong xã hội đều có vai
trò và trách nhiệm, nghĩa vụ đối với nhau (chủ với thợ, giáo
viên
với sinh viên, bố mẹ với con cái v.v.). Người theo chủ nghĩa
bảo tồn
luôn đề cao trách nhiệm, ví dụ, người giàu sang, may mắn phải
có
trách nhiệm với người nghèo khổ, bất hạnh.
Ở khía cạnh nhấn mạnh vào tôn ti trật tự trong xã hội và tự
do
kinh tế này, chủ nghĩa bảo tồn không đề cao sự bình đẳng như
là
một giá trị cần theo đuổi; và vì thế so với chủ nghĩa tự do
thì nó có
khuynh hướng “hữu” hơn. Những người bảo tồn được coi là đi
theo thiên hướng chính trị cánh hữu.
“Một người càng coi bình đẳng tuyệt đối giữa người với người
là một điều
kiện đáng khao khát, thì ông ta/bà ta sẽ càng ngả về phía tả
hơn trên phổ
ý thức hệ. Một người càng coi bất bình đẳng là điều không thể
tránh được,
thậm chí đáng khao khát, thì ông ta/ bà ta sẽ càng ngả về
phía hữu hơn”.*
(Roderick Stackelberg)
* “Hitler’s Germany”, Roderick Stackelberg, Routledge, 1999.
5. QUYỀN LỰC
Chủ nghĩa bảo tồn cho rằng lãnh đạo có quyền và nghĩa vụ định
hướng, dẫn dắt, hỗ trợ cấp dưới vì họ có kinh nghiệm, tài
năng,
trình độ hơn - giống như cha mẹ với con cái. Tự do phải đi
cùng
với trách nhiệm, mỗi người phải sẵn sàng chấp nhận trách nhiệm
và nghĩa vụ của mình.
6. TƯ HỮU TÀI SẢN
Chủ nghĩa bảo thủ đề cao việc sở hữu tài sản, coi đó là điều
tối quan
trọng để giúp con người được an toàn và độc lập trước chính
quyền.
Tuy nhiên, ngay cả sở hữu tài sản thì cũng phải đi liền với
trách
nhiệm, như người giàu phải có trách nhiệm với người nghèo, bởi
146 | Phạm Đoan Trang
như đã nói, tự do luôn đi cùng trách nhiệm. Người giàu có một
nghĩa vụ cao quý là phải chăm lo cho người nghèo, gồm cả công
nhân, nông dân, không để họ thất nghiệp, đói rách.
Áp dụng tư tưởng bảo tồn trong lĩnh vực kinh tế chẳng hạn,
người theo chủ nghĩa bảo tồn quan niệm: Nhà nước hạn chế can
thiệp vào nền kinh tế. Nhà nước chỉ có nghĩa vụ bảo đảm thực
thi
pháp luật, thực hiện hợp đồng. Doanh nghiệp phải được quyền tự
do về kinh tế để phát triển và tạo ra sự thịnh vượng cho xã hội.
Tuy nhiên, trong các lĩnh vực ngoài kinh tế, đặc biệt là đạo
đức
và tôn giáo, thì chủ nghĩa bảo tồn lại ủng hộ sự can thiệp của
nhà
nước. Đối với họ, nhà nước phải cổ súy hôn nhân bền vững, cổ
súy
quan hệ tình dục khác giới và chung thủy, phản đối quan hệ đồng
giới, chống nạo phá thai, cấm văn hóa phẩm đồi trụy, v.v.
Đó là lý do vì sao bạn thấy ở Mỹ, đảng Cộng hòa (đảng mà ý
thức hệ họ theo đuổi là chủ nghĩa bảo tồn) phản đối nạo phá
thai.
Ở Anh, chính đảng theo đuổi chủ nghĩa bảo tồn là đảng Bảo
thủ. Chủ nghĩa bảo tồn được gọi là Toryism trong tiếng Anh, đảng
viên đảng Bảo thủ thì được gọi là người Tory.
Đã nói tới hai ý thức hệ rất quan trọng trong triết học chính
trị,
là chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo tồn (bảo thủ), thì chúng
ta
cũng nên nói đến một đất nước, hay là một nền chính trị, nổi
tiếng
với hai chính đảng lớn theo đuổi hai ý thức hệ này và không
ngừng
cạnh tranh nhau: Mỹ, với đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa.
* * *
CHỦ NGHĨA TỰ DO VÀ CHỦ NGHĨA BẢO TỒN Ở MỸ 1
Chủ nghĩa tự do, như chúng ta đã bàn đến từ Chương II, là chủ
1. “Governing: An Introduction to Political Science”, Austin
Ranney, 8th, Prentice Hall,
2001.
Chính trị bình dân | 147
nghĩa tự do cổ điển, nghĩa là chủ nghĩa tự do theo nghĩa
nguyên
thủy của nó. Nó ra đời từ cuối thế kỷ 18, và có đặc thù là đề
cao tự
do, chủ nghĩa cá nhân, sự duy lý, bình đẳng, tinh thần khoan
dung,
đồng thuận, hợp hiến (hạn chế quyền lực nhà nước để bảo vệ
nhân
quyền), như chúng ta đã biết.
Tuy nhiên, ở Mỹ, kể từ giữa những năm 1930 dưới thời Tổng
thống Franklin Delano Roosevelt (đảng Dân chủ) và chính sách
New Deal của chính phủ Roosevelt, người ta lại nói đến chủ
nghĩa
tự do như một ý thức hệ không chỉ cổ súy tự do cá nhân mà lại
ủng
hộ cả việc nhà nước điều hành và can thiệp vào nền kinh tế để
bảo
đảm mức sống tối thiểu và công ăn việc làm cho người dân. Quá
dễ
gây lẫn lộn, phải không? Do vậy, để khỏi nhầm lẫn ý thức hệ
này
với chủ nghĩa tự do cổ điển, người ta gọi nó là chủ nghĩa tự
do hiện
đại ở Mỹ.
Những người tự do theo chính sách New Deal cho rằng tự do
thật sự phải là “tự do có”, tức là có sự can thiệp chủ động của
nhà
nước để bảo vệ người dân khỏi đói nghèo. Nhà nước không thể
không làm gì cả, phó mặc tất cả cho thị trường tự do, mà phải
là
một nhà nước phúc lợi, tức là phải đảm bảo cho mỗi công dân
những điều kiện tối thiểu để có thể sống một cuộc đời đạo đức.
Điều này khiến cho đảng Dân chủ có xu hướng “tả”. Đấy là
trong
lĩnh vực kinh tế.
Tuy nhiên, ở các lĩnh vực ngoài kinh tế, những người theo chủ
nghĩa tự do hiện đại ở Mỹ lại không ủng hộ sự can thiệp của
nhà
nước, nhất là vào các vấn đề tôn giáo và đạo đức. Ví dụ, họ
đòi hỏi
nhà nước thế tục (tách biệt chính quyền với thần quyền),
không
tán thành cầu nguyện tập thể trong các trường công, chống kiểm
duyệt văn hóa, và ủng hộ quyền nạo phá thai của phụ nữ vì coi
đó
là quyền của người phụ nữ tự quyết định những gì thuộc về cơ
thể mình.
148 | Phạm Đoan Trang
Truyền thông của hai đảng chỉ trích nhau suốt ngày.
Tranh của Dave Grandlund.
Chủ nghĩa bảo tồn ở Mỹ, ban đầu, cũng là ý thức hệ đề cao các
giá trị và thiết chế truyền thống, tôn ti trật tự và trách
nhiệm, đề
xuất xã hội cần được cai trị bởi tầng lớp quý tộc thay vì
doanh nhân
mới nổi, như chúng ta đã bàn. Tuy nhiên, kể từ những năm 1930
dưới thời Roosevelt, chủ nghĩa bảo tồn trở thành từ để chỉ ý
thức
hệ của tất cả những người chống lại chính sách New Deal của Tổng
thống Roosevelt và đảng Dân chủ. Người ta gọi nó là chủ nghĩa
bảo
tồn hiện đại ở Mỹ. Nó có hai nội dung chính:
- Ủng hộ tự do kinh tế tuyệt đối: Những người bảo tồn này cho
rằng nhà nước chỉ cần bảo đảm các nguyên tắc pháp luật hỗ trợ
và
thúc đẩy thị trường tự do, và chẳng nên can thiệp gì khác vào
nền
kinh tế. Thuế phải thấp, chỉ nên ở mức tối thiểu. Tất cả nhằm
khuyến khích tự do kinh tế. Điều này khiến cho những người bảo
tồn có xu hướng “hữu”.
- Bảo vệ, bảo tồn các giá trị truyền thống, như hôn nhân (dị
tính) và gia đình, lòng chung thủy, sự ngoan đạo, đạo đức. Những
người bảo tồn cho rằng nhà nước có quyền can thiệp để gìn giữ
các
giá trị đó, đồng thời, ủng hộ cầu nguyện tập thể trong trường
công,
Chính trị bình dân | 149
chống nạo thai, tán thành kiểm duyệt văn hóa (chẳng hạn, cấm
phim ảnh đồi trụy).
Những người theo chủ nghĩa bảo tồn ở Mỹ được cho là đã tóm
tắt quan điểm của họ lại trong 10 từ sau đây: Stronger
Defense, Free
Economy, Lower Tax, Smaller Government, Family Values. Có
nghĩa là (theo thứ tự):
Quốc phòng mạnh Thị trường
tự do Thuế thấp
Bộ máy
nhà nước
nhỏ hơn
Các giá trị
gia đình
Đảng Cộng hòa ở Mỹ là đảng theo đuổi chủ nghĩa bảo tồn hiện
đại này.
Như vậy, ở Mỹ, đảng Dân chủ (theo chủ nghĩa tự do hiện đại)
có
xu hướng “tả”, còn đảng Cộng hòa (theo chủ nghĩa bảo tồn hiện
đại) có xu hướng hữu. Tuy nhiên, không phải cứ đảng nào xưng
tên là Dân chủ thì đều có xu hướng tả. Ví dụ như ở Đức, đảng
Dân
chủ Thiên Chúa giáo (CDU) lại là đảng bảo tồn, bởi họ đề cao
tầm
quan trọng của các thiết chế trung gian như nhà thờ, công
đoàn...
Về kinh tế, CDU cổ súy kinh tế thị trường với điều kiện phát
triển
phải vì lợi ích chung, đảm bảo xã hội hòa hợp.
* * *
SAO LẠI GỌI LÀ “CÁNH TẢ”, “CÁNH HỮU”?
Trong Hán Việt, tả là trái, hữu là phải. Từ đâu mà nảy sinh
khái
niệm “cánh tả”, “cánh hữu” trong chính trị?
Nguồn gốc của chúng được cho là bắt đầu từ thời Cách mạng
Pháp. Mùa hè năm 1789, Quốc hội nước Pháp họp soạn thảo hiến
pháp. Các đại biểu bất đồng sâu sắc xoay quanh việc nên để
cho vua
Louis XVI nắm quyền lực đến đâu. Hai phe, theo hai quan điểm
chính, dần dần đứng sang hai bên trong hội trường. Phe cách
mạng, chống lại hoàng gia, đứng về bên tay trái chủ tọa, còn
phe
150 | Phạm Đoan Trang
quý tộc bảo thủ (bảo tồn), ủng hộ nền quân chủ, thì tập trung
lại
phía tay phải chủ tọa.
Về sau, báo chí bắt đầu nói về phe “tả” cấp tiến và phe “hữu”
truyền thống trong Quốc hội Pháp. Bước sang thế kỷ 19, các
nhà lập
pháp theo hai chủ nghĩa – tự do và bảo tồn – lại tiếp tục đứng
về
cánh trái và cánh phải trong cơ quan lập pháp. Cho đến giữa
thế kỷ
19, từ “tả” và “hữu” đã có mặt trong tiếng Pháp như cách gọi
tên
ngắn gọn các ý thức hệ chính trị đối lập nhau. Các đảng phái
cũng
bắt đầu tự định vị mình là “trung tả”, “trung hữu”, “cực tả”,
“cực hữu”.
Từ tiếng Pháp, khái niệm “tả” và “hữu” cũng lan dần sang tiếng
Anh và các nước nói tiếng Anh.
Người ta còn diễn tả một số ý thức hệ chính trị phổ biến, có ảnh
hưởng, lên một biểu đồ gọi là “dải ý thức hệ”, “phổ ý thức hệ”,
và
trong cái phổ đó, các chủ nghĩa có xu hướng “tả” thì nằm về
bên tay
trái, “hữu” thì về bên tay phải, như trong hình dưới đây.
Người dịch dùng từ “chế độ” ở hai khái niệm “chế độ quân chủ”
và “chế độ quốc xã” vì cách gọi này có vẻ quen thuộc với độc
giả
Việt Nam hơn, nhưng thực chất đó cũng là hai chủ nghĩa – ý thức
hệ chính trị (tiếng Anh tương ứng là monarchism và nazism).
Chương IV
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI
Những tư tưởng chủ nghĩa xã hội thai nghén từ tác phẩm Utopia
(xuất bản năm 1516 bằng tiếng Latin, tiếng Việt dịch là:
Không
tưởng) của Thomas More, thậm chí xa xưa hơn nữa, từ tác phẩm
Republic (viết bằng tiếng Hy Lạp, khoảng năm 380 trước Công
nguyên, tiếng Việt: Nền cộng hòa) của Plato.
Bản thân khái niệm chủ nghĩa xã hội thì hình thành từ đầu thế
kỷ 19, với mục tiêu nguyên thủy là xóa bỏ nền kinh tế tư bản
(dựa
trên sở hữu tư nhân và trao đổi thị trường), xây dựng xã hội
dựa
trên công hữu.
Chủ nghĩa xã hội đối lập với chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa tư bản
Một hệ thống kinh tế trong đó
phương tiện sản xuất, phân phối và
trao đổi đều là công hữu (của
chung) và do nhà nước quản lý, vận
hành.
Một hệ thống kinh tế trong đó
phương tiện sản xuất, phân phối và
trao đổi phần lớn là tư hữu (của tư
nhân) và do tư nhân quản lý, vận
hành.
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội phát triển trong thế kỷ 19 với một
sự thống nhất chung rằng chủ nghĩa tư bản, dựa trên thiết chế
sở
hữu tư nhân và người bóc lột người, là nguồn gốc của nghèo
đói và
bất công. Do đó, cách duy nhất để chống lại sự xấu xa của chủ
152 | Phạm Đoan Trang
nghĩa tư bản là để cho xã hội sở hữu chung về phương tiện sản
xuất, hệ thống phân phối và trao đổi, mà nhà nước là đại diện
quản
lý.Nhà nước có thể mua lại hoặc tịch thu “những đỉnh cao chỉ
huy”
1
của nền kinh tế và phân phối sản phẩm, dịch vụ cho các cá
nhân
tùy theo nhu cầu của mỗi cá nhân. Vị đại diện nổi bật và có ảnh
hưởng lớn nhất cho quan điểm này là Karl Marx (Các Mác).
Đến cuối thế kỷ 19 thì nổi lên trường phái cải cách chủ nghĩa
xã
hội: đưa công nhân hội nhập dần vào xã hội tư bản thông qua cải
thiện điều kiện lao động, tăng tiền công, phát triển công
đoàn và
các đảng xã hội; ủng hộ chuyển đổi từ từ, ôn hòa, hợp pháp,
sang
chủ nghĩa xã hội; ủng hộ đấu tranh nghị trường hơn là bạo lực
cách
mạng. Một đại diện của quan điểm này là Eduard Bernstein
(1850-
1932), “ông tổ” của chủ nghĩa xét lại. Ông này khẳng định:
Không
có chiến tranh giai cấp, và xã hội có thể chuyển đổi ôn hòa
sang chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xét lại
Là ý thức hệ sửa đổi, điều chỉnh lại những quan niệm nguyên
thủy của một
ý thức hệ khác, cũng có thể được coi như sự từ bỏ những
nguyên tắc ban
đầu của ý thức hệ khác đó.
Trong phong trào cộng sản quốc tế, chủ nghĩa xét lại được hiểu
là sự sửa
đổi, điều chỉnh lại những quan niệm của chủ nghĩa Mác thuần
túy.
Trong những năm 40 và 50 của thế kỷ 20, từ “xét lại” được
Stalin và những
người ủng hộ ông ta dùng để gọi những người cộng sản nào cho
rằng cần
phải ưu tiên hàng tiêu dùng hơn công nghiệp nặng, chấp nhận sự
khác biệt
giữa các dân tộc thay vì cổ súy tinh thần vô sản quốc tế,
khuyến khích cải
cách dân chủ thay vì trung thành với học thuyết Mác. Tất
nhiên, khi đó, “xét
lại” là một trọng tội và người xét lại sẽ bị nghiêm trị, bị
thanh trừng.
1. Những đỉnh cao chỉ huy (commanding heights) của nền kinh tế
là khái niệm do Lenin
sử dụng để chỉ những ngành kinh tế có thể kiểm soát và hỗ trợ
được cho các ngành khác.
Có thể hiểu chúng như những ngành “mũi nhọn” của nền kinh tế,
chẳng hạn dầu khí,
thép, điện lực... Gần đây có quan điểm cho rằng giáo dục và y
tế cũng có thể được coi là
các đỉnh cao chỉ huy mới. Ở Việt Nam, có người dịch
“commanding heights” là “cao điểm
chiến lược” để cho có sắc thái quân sự.
Chính trị bình dân | 153
Trong những năm 60 của thế kỷ 20, từ “xét lại” lại được Mao
Trạch Đông
và đảng Cộng sản Trung Quốc dùng để công kích Nikita
Khrushchev và
đảng Cộng sản Liên Xô. Ở Việt Nam thời gian đó, hàng chục người
bị quy
kết là “xét lại” đã bị các “đồng chí” cộng sản của họ, đứng đầu
là Lê Duẩn
và Lê Đức Thọ, bỏ tù không qua xét xử. Một trong những người
bị tù oan
là ông Vũ Thư Hiên – nhà văn, nhà biên kịch, nhà báo, dịch giả,
con trai
của cụ Vũ Đình Huỳnh (thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Ông
Hiên bị
tù 9 năm không án. Câu chuyện này đã được ông thuật lại trong
hồi ký
chính trị nổi tiếng Đêm giữa ban ngày.
Bước sang đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa xã hội chia thành hai khối:
- Khối cách mạng, tức là cộng sản: đi đầu là Lenin và đảng
Bolshevik của ông ta, chủ trương công hữu và kế hoạch hóa tập
trung.
- Khối cải cách, sau này trở thành dân chủ xã hội, chủ trương
tái
phân phối thông qua phúc lợi và quản lý kinh tế. Những tư tưởng
đó bắt nguồn từ tư tưởng của nhà “xét lại” Eduard Bernstein.
Bây giờ chúng ta sẽ bàn sâu hơn về các yếu tố cấu thành chủ
nghĩa xã hội, và một số hình thái chủ nghĩa xã hội trong lịch
sử
hiện đại.
CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Chủ nghĩa xã hội truyền thống (theo nghĩa nguyên thủy của nó,
hình thành vào đầu thế kỷ 19) được cấu thành bởi các yếu tố
sau:
1. Cộng đồng; 2. Tinh thần bác ái; 3. Bình đẳng xã hội; 4.
Nhu cầu;
5. Giai cấp; 6. Công hữu (sở hữu chung).
1. Cộng đồng
Chủ nghĩa xã hội đề cao cộng đồng, cho rằng mỗi cá nhân được
định hình bởi các mối quan hệ xã hội và bởi việc cá nhân đó
là
thành viên của các nhóm, các tập thể. Như Karl Marx đã nói:
“Con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”.
Chủ nghĩa tập thể quan trọng hơn chủ nghĩa cá nhân. Cái tôi
không là gì trước tập thể vĩ đại.
154 | Phạm Đoan Trang
2. Tinh thần bác ái
Người theo chủ nghĩa xã hội quan niệm: Trong cộng đồng, con
người ràng buộc với nhau bởi tình đồng chí, tình anh em, hay
nói
rộng ra là tình bác ái. Với tinh thần bác ái đó, hợp tác quan
trọng
hơn và quý hơn cạnh tranh. Hợp tác giúp con người phát triển
và
khai thác sức mạnh tập thể, trong khi cạnh tranh chỉ kích động
thù
hằn, mâu thuẫn, xung đột.
Có thể với tư duy đó, những người cộng sản Việt Nam cho
rằng sự tồn tại của ba đảng cộng sản (trước năm 1930) chỉ
chia rẽ
quần chúng, còn chế độ đa đảng chỉ dẫn đến việc các đảng
tranh
giành quyền lực và đảng nào cũng chỉ lo lợi ích của mình, bỏ
mặc
nhân dân.
3. Bình đẳng xã hội
Chủ nghĩa xã hội đề cao bình đẳng, nhưng là bình đẳng xã hội
(tức
là về đầu ra), cả xã hội đều bình đẳng như nhau. Đó là giá trị
trung
tâm, cốt lõi của chủ nghĩa xã hội. Người theo chủ nghĩa xã hội
tin
rằng bình đẳng là điều kiện thiết yếu để bảo đảm ổn định xã hội,
là
cơ sở để hợp tác, là cơ sở của các quyền pháp lý và chính trị.
4. Nhu cầu
Chủ nghĩa xã hội quan niệm rằng lợi ích vật chất phải được
phân
bổ trên cơ sở nhu cầu cá nhân chứ không căn cứ vào tài năng,
năng
lực cá nhân (hay năng suất) hoặc công việc.
5. Giai cấp
Karl Marx phân loại giai cấp tùy theo quan hệ với tư liệu sản
xuất.
Ông ta định nghĩa xã hội phân chia giai cấp là xã hội phân
chia
thành chủ sở hữu tư liệu sản xuất (tư sản) và người bán sức
lao
động (công nhân). Chủ nghĩa Mác coi công nhân là lực lượng
quyết định thay đổi xã hội, thậm chí là lực lượng tạo ra cách
mạng
vô sản, tiêu diệt giai cấp tư sản, xóa bỏ tư hữu – nguồn gốc
của
phân chia giai cấp, của tình trạng người bóc lột người và mọi
khổ
đau khác của xã hội.
Chính trị bình dân | 155
Trong khi đó, những người theo chủ nghĩa xã hội khác (không
theo phái Mác) phân loại giai cấp dựa theo thu nhập và địa vị
xã
hội. Họ cho rằng có thể được hàn gắn sự phân chia giai cấp bằng
cách xóa bỏ hoặc thu hẹp bất bình đẳng về kinh tế và xã hội.
6. Công hữu
“Công” là chung, công cộng. Công hữu, tức sở hữu chung, được
thể hiện dưới hình thức tập thể hóa hoặc quốc hữu hóa. Chủ
nghĩa
xã hội coi công hữu là cách để khai thác nguồn lực vì lợi ích
chung,
còn tư hữu, trái lại, sẽ thúc đẩy tính ích kỷ, hám lợi và dẫn
đến chia
rẽ xã hội.
Công hữu là một trong những khái niệm trung tâm của chủ
nghĩa Mác, là công cụ để xây dựng xã hội cộng sản trên thực tế.
Từ
năm 1954 ở miền Bắc, và từ năm 1975 ở cả hai miền cho đến năm
1986, nền kinh tế Việt Nam chỉ gồm hai thành phần: kinh tế
nhà
nước (đại diện bởi các xí nghiệp quốc doanh) và kinh tế tập
thể
(đại diện bởi các hợp tác xã) – là biểu hiện của việc đảng Cộng
sản
Việt Nam áp dụng chế độ công hữu đối với nền kinh tế quốc
gia.
Đây là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng khủng hoảng kinh
tế-xã hội cuối thập niên 80 thế kỷ trước ở Việt Nam, khiến đảng
Cộng sản phải tiến hành đổi mới, chấp nhận một nền kinh tế
nhiều
thành phần, nhiều chế độ sở hữu với dấu mốc là Đại hội VI
(1986).
Về bản chất, quyết định cho phép tồn tại sở hữu tư nhân trong
nền
kinh tế của đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn đi ngược lại
nguyên
tắc hàng đầu của chủ nghĩa Mác: thủ tiêu tư hữu, xóa bỏ thị
trường.
* * *
CÁC HÌNH THÁI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Đến đây chúng ta sẽ điểm qua một số hình thái chủ nghĩa xã hội
trong lịch sử hiện đại: Chủ nghĩa Mác (nguyên thủy), chủ
nghĩa
cộng sản ở Liên Xô, dân chủ xã hội, con đường thứ ba.
156 | Phạm Đoan Trang
1. Chủ nghĩa Mác (nguyên thủy)
Chủ nghĩa Mác nguyên thủy, với tư cách một học thuyết triết học
chính trị, khác với trào lưu cộng sản thế kỷ 20 trên thế giới.
Nó
được cấu thành bởi các yếu tố đặc thù sau:
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử;
- Phép biện chứng;
- Khái niệm “sự tha hóa”: Công nhân bị tách rời khỏi sản phẩm
đầu ra của sức lao động, tách rời khỏi cả quá trình lao động,
tách
rời khỏi các bạn công nhân khác và do đó, mất khả năng sáng tạo
và tương tác xã hội.
- Đấu tranh giai cấp;
- Giá trị thặng dư;
- Cách mạng vô sản;
- Chủ nghĩa cộng sản: một hệ thống kinh tế chính trị trong đó
chính quyền được vận hành bởi một đảng duy nhất, độc đoán, và
kiểm soát toàn bộ phương tiện sản xuất, trao đổi và phân phối.
2. Chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô (chính thống)
Chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô, còn gọi là chủ nghĩa cộng sản
chính
thống, là một thứ ý thức hệ pha trộn giữa chủ nghĩa Mác với
các tư
tưởng, quan điểm của Lenin và Stalin.
Lenin lý luận: Giai cấp công nhân không ý thức được về sức
mạnh của mình, nên chỉ cần cải thiện điều kiện lao động là đã
hài
lòng rồi, không nghĩ đến sứ mệnh lật đổ chủ nghĩa tư bản. Do
đó,
cần có một đảng cách mạng làm đội quân tiên phong của giai cấp
công nhân. Đó là một đảng kiểu mới, theo nghĩa là: 1. Nó
không
phải là một đảng quần chúng, mà đảng viên của nó là các nhà
cách
mạng chuyên nghiệp và dấn thân vì lý tưởng (ở đây là ý thức hệ
cộng sản). 2. Nó được tổ chức dựa trên nguyên tắc tập trung
dân
chủ (có thể tự do thảo luận nhưng phải thống nhất tuyệt đối về
hành động – xem “Nguyên tắc tập trung dân chủ” ở Chương III,
Phần V). 3. Nó có thứ bậc và kỷ luật chặt chẽ.
Chính trị bình dân | 157
Năm 1917, Lenin và đảng Bolshevik của ông ta giành được
chính quyền ở nước Nga trong một chính biến mà họ gọi là Cách
mạng Tháng Mười. Sau đó, chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô lan rộng
theo các diễn biến sau:
• Năm 1924, Lenin chết, Stalin lên thay.
• Năm 1928: Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xóa hết doanh
nghiệp tư nhân.
• Năm 1929: Tập thể hóa nông trang.
• Thập niên 1930: Tiêu diệt hết đối lập
• Từ sau năm 1945: Chủ nghĩa cộng sản kiểu Liên Xô được áp
dụng rộng khắp ở Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Đông Âu.
3. Dân chủ xã hội
Trái với tính máy móc và cuồng nhiệt ý thức hệ của chủ nghĩa
Mác
nguyên thủy và chủ nghĩa cộng sản chính thống, những người
theo
trường phái dân chủ xã hội nhân văn hơn hẳn. Đó là những người
theo các đảng xã hội ở Bắc Âu, Đức, Pháp, Mỹ (không có Anh,
vì
Công đảng Anh đã tuyên bố bỏ chủ nghĩa xã hội để theo đuổi ý
thức hệ tư bản chủ nghĩa).
Người dân chủ xã hội đề cao chủ nghĩa xã hội nhưng cũng đề
cao cả dân chủ. Họ tin rằng có thể đạt tới chế độ xã hội chủ
nghĩa
thông qua và chỉ thông qua con đường dân chủ và hòa bình, chứ
không phải bằng đấu tranh giai cấp bạo lực với một đảng cách
mạng tiên phong. Cụ thể, các đảng xã hội cạnh tranh với các đảng
khác, giành chiến thắng trong bầu cử, và sau đó, nắm chính
quyền
và điều hành đất nước một cách dân chủ, thi hành những chính
sách xã hội ôn hòa.
Người dân chủ xã hội cố gắng cân bằng giữa thị trường và nhà
nước, cá nhân và cộng đồng. Mặc dù cũng coi chủ nghĩa tư bản
là
cơ chế duy nhất để tạo ra của cải, sự thịnh vượng, nhưng họ
mong
muốn phân phối của cải theo các nguyên tắc đạo đức hơn là các
nguyên tắc thị trường. Do đó, họ chủ trương “nhân văn hóa” chế
độ tư bản thông qua sự can thiệp của nhà nước:
158 | Phạm Đoan Trang
- Chính phủ điều tiết nền kinh tế;
- Nhà nước đánh thuế để lập quỹ phúc lợi.
Đặc điểm nổi bật của ý thức hệ dân chủ xã hội là luôn luôn
quan
tâm đến những người bị thua thiệt trong xã hội, người yếu thế,
người dễ bị tổn thương. Họ cũng tin vào lòng trắc ẩn và nhân
hậu,
chủ trương bình đẳng về cơ hội (giống chủ nghĩa tự do), chủ
trương
con người phải có trách nhiệm bảo vệ và chăm sóc người khác
(giống chủ nghĩa bảo tồn).
Từ những năm 1980, chế độ dân chủ xã hội ở các nước công
nghiệp đã dần thoái trào, do thế giới có nhiều biến đổi, mà nổi
bật
là:
- Cơ cấu lao động, giai cấp đã thay đổi: Nhiều chuyên gia,
nhà
quản lý và nhân viên văn phòng hơn, ít công nhân và lao động
chân
tay hơn.
- Toàn cầu hóa mạnh mẽ hơn, ảnh hưởng tới các chính sách
kinh tế của mỗi quốc gia.
- Quốc hữu hóa và kế hoạch hóa thất bại ở nhiều ngành kinh tế,
kể cả ở nước phát triển.
- Xã hội mất lòng tin vào chủ nghĩa xã hội, quốc hữu hóa, tập
thể hóa, kế hoạch hóa...
4. Con đường thứ ba
“Con đường thứ ba” là một ý thức hệ có tham vọng thay thế cho
cả
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Ý thức hệ này quan niệm, chủ nghĩa xã hội và mọi sự can thiệp
của nhà nước theo kiểu từ trên xuống dưới, đã hết thời. Nó thừa
nhận toàn cầu hóa như một đặc điểm không thể tách rời của thế
giới hiện đại, chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành “kinh tế
tri
thức”. Nó cũng đề cao vai trò của công nghệ thông tin và kỹ
năng
cá nhân.
Chính trị bình dân | 159
Trong nền kinh tế tri thức, nhà nước đóng vai trò thiết yếu về
kinh tế và xã hội. Đó là vai trò:
- Phát triển giáo dục, đào tạo kỹ năng cho dân chúng, nâng
cao
tính cạnh tranh của nền kinh tế trên toàn cầu;
- Phát triển xã hội dân sự và các cộng đồng để hạn chế những
sức ép của chủ nghĩa tư bản và thị trường.
Những người theo trường phái Con đường thứ ba đề xướng
khái niệm “workfare state” (tạm dịch là nhà nước công lợi),
tương
phản với “welfare state” là nhà nước phúc lợi: Nhà nước hỗ trợ
tài
chính hoặc giáo dục một cách có điều kiện, ví dụ chỉ dành cho
những người đang tìm việc và có ý thức tự lập, chứ nhất định
không hỗ trợ rộng rãi, hào phóng, kiểu “chăm lo cho người dân
từ
trong nôi cho tới lúc xuống mồ”.
Ở các khía cạnh khác, họ kêu gọi cân bằng giữa quyền và trách
nhiệm, và chủ trương bình đẳng về cơ hội, ủng hộ chế độ nhân
tài
(xã hội meritocracy, như chúng ta đã biết).
Chương V
MỘT SỐ CHỦ NGHĨA KHÁC
CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT
Hẳn bạn đã từng nghe đâu đó nói, chủ nghĩa phát xít cũng như
chủ
nghĩa cộng sản, là đại họa của nhân loại. Tuy nhiên, điều thú
vị là
hai chủ nghĩa này cũng chống nhau kịch liệt. Vậy chúng có gì
chung, có gì riêng?
Chủ nghĩa phát xít nổi lên từ đầu thế kỷ 20 với hai đại diện
là
Benito Mussolini (Ý, cầm quyền từ năm 1922 đến năm 1943) và
Adolf Hitler (Đức, cầm quyền từ năm 1933 đến năm 1945).
Chủ nghĩa phát xít là một cuộc nổi loạn chống lại tất cả triết
học, tư tưởng Tây phương từ thời Cách mạng Pháp: chống chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa bảo
tồn, chủ nghĩa cộng sản. Người ta cho rằng nó ra đời vì một số
nguyên nhân như sau:
- Sự trỗi dậy của tình cảm dân tộc, của lòng tự tôn dân tộc bị
tổn
thương đối với ý và đức sau hiệp ước versailles.
- Lạm phát phi mã và khủng hoảng kinh tế;
- Bất ổn xã hội – công nhân đình công đòi tăng lương, nông
dân
mất đất...
- Sự suy yếu của nền dân chủ đại nghị – nhiều đảng phái nổi
lên,
chính phủ không ổn định...
- Nỗi sợ chủ nghĩa cộng sản, sau khi đảng Bolshevik chiếm
chính quyền ở Liên Xô (1924).
162 | Phạm Đoan Trang
Chủ nghĩa phát xít dẹp bỏ các khái niệm duy lý, tự do, bình
đẳng, bác ái, v.v. và được cấu thành bởi một loạt khái niệm
mà nó
tôn vinh, như “đấu tranh”, “lãnh tụ”, “quyền lực”, “chủ nghĩa
anh
hùng”, “chiến tranh”... Nó cổ súy hình ảnh một cộng đồng quốc
gia
thống nhất, đoàn kết, với khẩu hiệu chính “đoàn kết là sức mạnh”.
Tuy tôn vinh hình ảnh anh hùng nhưng chủ nghĩa phát xít lại
có
mâu thuẫn là với nó, cá nhân chẳng là gì, cá nhân phải hòa
mình
hoàn toàn vào cộng đồng, phải cống hiến và phụng sự thì mới
có ý
nghĩa.
Con người lý tưởng của chủ nghĩa phát xít là cá nhân được dẫn
dắt bởi nhiệm vụ, danh dự và sự hy sinh; sẵn sàng cống hiến đời
mình cho vinh quang của đất nước và dân tộc; phục tùng lãnh tụ
tối cao vô điều kiện.
Đến cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa phát xít mới, hay tân phát xít
(neo-fascism), nổi lên như một cách phản ứng với khủng hoảng
kinh tế và bất ổn chính trị sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ.
Sự khác biệt giữa phát xít Ý và phát xít Đức
Chủ nghĩa phát xít ở Ý có đặc trưng là trọng nhà nước, do đó
nó
còn được coi là chủ nghĩa trọng nhà nước, chủ nghĩa nhà nước,
trung ương tập quyền: Cho rằng sự can thiệp của nhà nước là
cách
tốt nhất để giải quyết các vấn đề chính trị, để phát triển
kinh tế-xã
hội; nhà nước là cơ chế để tổ chức các hành động tập thể và
thực
hiện các mục tiêu chung. Do đó, phục vụ nhà nước là phục vụ ý
chí
chung, phục vụ lợi ích cộng đồng – một nghĩa vụ cao cả. Cá
nhân
phải tôn sùng và tuyệt đối trung thành với nhà nước, như
Gentile
(1875-1944) đã nói: “Tất cả vì nhà nước; không có gì chống lại
nhà
nước; không có gì nằm ngoài nhà nước”.
Chủ nghĩa phát xít trọng nhà nước ở Ý thể hiện ở các chính
sách: quốc hữu hóa, tập thể hóa, nhà nước quản lý kinh tế,
xây
dựng tập đoàn nhà nước...
Chính trị bình dân | 163
Chủ nghĩa phát xít ở Đức tự nhận nó là chủ nghĩa xã hội quốc
gia, gọi tắt là quốc xã. Nó được xây dựng trên nền tảng chính
yếu là
sự phân biệt chủng tộc, gồm hai trụ cột là thuyết chủng tộc
thượng
đẳng (chủng Arya) và thuyết bài Do Thái.
* * *
CHỦ NGHĨA VÔ CHÍNH PHỦ
Chủ nghĩa vô chính phủ gắn với các yếu tố đặc trưng sau: tự
nguyện,
tự quản, không nhà nước, không phân chia thứ bậc địa vị.
Những người theo thuyết vô chính phủ chủ trương rằng luật
pháp, chính quyền và nhà nước đều là không cần thiết; quyền lực
chính trị dưới mọi hình thức, nhất là dưới hình thức nhà nước,
là
xấu xa tồi tệ. Họ cổ súy xã hội không có nhà nước, trong đó,
các cá
nhân tự do tự giải quyết mọi việc thông qua thỏa thuận và hợp
tác
tự nguyện.
Như vậy, ở khía cạnh cổ súy chủ nghĩa cá nhân và tôn sùng tự
do cá nhân, chủ nghĩa vô chính phủ có phần chịu ảnh hưởng và
giống với chủ nghĩa tự do. Còn ở khía cạnh nhấn mạnh các yếu
tố
cộng đồng, hợp tác, bình đẳng, sở hữu chung, thì nó lại chịu ảnh
hưởng và giống với chủ nghĩa xã hội.
Pierre-Joseph Proudhon, một đại diện của chủ nghĩa vô chính
phủ, cổ súy chủ nghĩa tương hỗ, theo đó, các cộng đồng nhỏ của
những cá thể độc lập như nông dân, thợ thủ công, v.v. có thể
sống
tốt dựa trên trao đổi công bằng, bình đẳng, tránh xa mọi sự bất
công và bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Một đại diện khác là
Peter
Kropotkin thì cổ súy sở hữu chung, phi tập trung hóa, tự quản.
Tinh thần vô chính phủ đã lẽ đã có từ thời Trang Tử với biểu
hiện là sự thù ghét cường quyền, chống lại chính quyền. Trang
Tử
nói: “Kẻ ăn cắp vặt thì bị tống giam. Đạo tặc ăn cướp thì
thành vua
một nước”. Thế kỷ 20, danh hài Charlie Chaplin (vua hề
Sác-lô)
164 | Phạm Đoan Trang
cũng là một người vô chính phủ nổi tiếng. Ông từng phát biểu:
“Nói về chính trị thì tôi là người vô chính phủ. Tôi ghét nhà
nước,
luật lệ và xiềng xích. Tôi không thể chịu được cảnh thú vật bị
nhốt
trong chuồng. Con người phải tự do”.
Tự do cá nhân có lẽ là điểm hấp dẫn nhất của chủ nghĩa vô
chính phủ. Dù vậy, bạn biết không: Điều thú vị là so với tất
cả các ý
thức hệ khác, trên thế giới, chưa từng có một đảng phái nào
theo
chủ nghĩa vô chính phủ mà giành được chính quyền!
* * *
CHỦ NGHĨA MÔI TRƯỜNG
Chủ nghĩa môi trường chớm hình thành từ cuối thế kỷ 19 với
tinh
thần chống lại cuộc cách mạng công nghiệp đang dâng lên và
lan
rộng. Bước sang thế kỷ 20, chủ nghĩa môi trường lớn mạnh dần
trước đà phát triển của kinh tế, công nghiệp, công nghệ hạt
nhân,
mưa axit, tầng ozone bị thủng và xuất hiện hiện tượng biến đổi
khí
hậu, nóng lên toàn cầu...
Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa môi trường là sự phản đối quan
điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển. Đối với chủ
nghĩa này, con người chỉ là một phần của thiên nhiên, trái đất
là
một sinh thể (nên được gọi là mẹ thiên nhiên, mẹ trái đất).
Người
theo chủ nghĩa môi trường có xu hướng ủng hộ đạo Lão, đạo Phật,
Thiền (Zen), là những đạo cổ súy sự trở về với thiên nhiên, sống
hợp lẽ tự nhiên...
Chủ nghĩa môi trường cũng chia làm hai trường phái chính:
- Trường phái ôn hòa: Cổ súy cho các chính sách và lối sống
lành mạnh về mặt môi trường, sinh thái.
- Trường phái quyết liệt: Đặt hệ sinh thái lên trước tất cả
các
loài, kêu gọi bảo vệ hành tinh và cả nhân loại.
Chính trị bình dân | 165
* * *
TÔN GIÁO THUẦN TÚY
Tôn giáo thuần túy là ý thức hệ quan niệm rằng tồn tại một sự
thật,
hay là chân lý, căn bản cần được mặc khải, đời sống xã hội và
chính
trị cần được tổ chức trên cơ sở các nguyên tắc tôn giáo và sự
thật
hay chân lý căn bản đó. Kết quả của nó là nhà nước thần quyền
–
nơi nhà nước và nhà thờ bất khả phân. Để hiểu rõ về nó, ta có
thể
tìm hiểu một ý thức hệ đối lập với nó, là chủ nghĩa thế tục;
chủ
nghĩa này cho rằng tôn giáo không được can thiệp vào các vấn
đề
thế tục, và nỗ lực tách nhà thờ, nhà chùa... khỏi nhà nước,
tách
thần quyền khỏi chính quyền.
Tôn giáo thuần túy chia ra rất nhiều trường phái, tương ứng với
những tôn giáo hoặc giáo phái khác nhau. Ví dụ như Thiên Chúa
giáo thuần túy chủ trương chống nạo thai, vận động tổ chức cầu
nguyện tập thể trong trường học, vận động phục hồi các giá trị
gia
đình truyền thống... Do Thái thuần túy chống Palestine, chống
việc trao đất của người Do Thái cho nhà nước Palestine. Hindu
thuần túy chống thế tục hóa kiểu phương Tây, chống đạo Hồi, đạo
Sikh...
* * *
CHỦ NGHĨA CỘNG ĐỒNG
Chủ nghĩa cộng đồng nổi lên từ thập niên 1980, với hai đại diện
xuất sắc là Michael Sandel (1962- ) và Robert Putnam (1941-
). Độc
giả Việt Nam, nếu quan tâm đến triết học, hẳn đã biết đến các
bài
giảng nổi tiếng tại Đại học Harvard của Giáo sư Michael
Sandel,
được tập hợp lại trong cuốn sách “Phải trái đúng sai” hay dịch
sát
nghĩa từ tiếng Anh là “Công lý: Việc đúng nên làm” (Justice:
What’s
the right thing to do?).
166 | Phạm Đoan Trang
Chủ nghĩa cộng đồng phê phán gay gắt chủ nghĩa tự do và chủ
nghĩa cá nhân. Để hiểu tại sao lại như vậy, ta có thể tìm hiểu
bối
cảnh ra đời của nó: Vào thập niên 1980 ở các nước phương Tây,
chủ
nghĩa cá nhân đang trỗi dậy, thay thế cho chủ nghĩa tập thể.
Thị
trường tự do thay thế kế hoạch hóa nhà nước. Tự do thay thế
bình
đẳng, và nhà nước tối thiểu thay thế nhà nước trung ương hành
chính quan liêu. Hậu quả là tinh thần cộng đồng bị xói mòn khủng
khiếp trong xã hội công nghiệp.
Robert Putnam viết trong cuốn “Bowling alone: The collapse
and revival of American community” (tạm dịch: Chơi bowling
một mình: sự sụp đổ và sống lại của cộng đồng Mỹ, 2000):
“Bowling
đã làm suy yếu nền dân chủ Mỹ. Dân chủ đòi hỏi chúng ta phải
nghĩ về mình như là thành viên của một xã hội chung, chứ
không
phải như một cá nhân. Ấy thế nhưng chúng ta không chơi thể
thao,
chúng ta không đi câu lạc bộ, chúng ta không tham gia các đảng
chính trị, chúng ta không đi nhà thờ, và rất nhiều người
trong
chúng ta thậm chí không biết tên hàng xóm nhà đối diện”. “Cuối
thế kỷ 20, người Mỹ chơi bowling nhiều hơn. Nhưng nước Mỹ lại
có ít đội/ liên đoàn bowling hơn”.
Những nhận định đó đã tóm tắt đầy đủ sự sa sút của tinh thần
cộng đồng trong một xã hội phương Tây điển hình như nước Mỹ.
Ra đời trong bối cảnh xã hội đó, chủ nghĩa cộng đồng nhấn
mạnh mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Cộng đồng ấy có
thể là gia đình, trường học, là những người sống trong một diện
tích địa lý cụ thể, hay một nhóm người chia sẻ một lợi ích
chung,
hay một nhóm người chia sẻ một lịch sử chung.
Chủ nghĩa cộng đồng phê phán chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cá
nhân, cho rằng chúng làm suy yếu vốn xã hội, trong khi vốn xã
hội
là yếu tố chủ chốt để xây dựng và duy trì nền dân chủ, và là
một
trong ba yếu tố cấu thành nên sự phát triển của cá nhân. Để
phát
triển thì cá nhân cần vốn vật chất (công cụ lao động), vốn
văn hóa
hay vốn con người (giáo dục, bằng cấp), và vốn xã hội, tức mạng
Chính trị bình dân | 167
lưới quan hệ. Những người theo chủ nghĩa cộng đồng quan niệm
như vậy.
* * *
CHỦ NGHĨA NỮ QUYỀN
Chủ nghĩa nữ quyền nổi lên từ phong trào đòi quyền bỏ phiếu
cho
nữ giới lần thứ nhất (những năm 40-50 của thế kỷ 19), gọi là
“làn
sóng thứ nhất”, và tiếp tục “làn sóng thứ hai” vào những năm
60 và
70 của thế kỷ 20.
Như tên gọi của nó, chủ nghĩa nữ quyền đòi thúc đẩy vai trò
xã
hội của phụ nữ, cổ súy bình đẳng về quyền và cơ hội cho phụ nữ.
“Tôi chưa từng nghe người đàn ông nào hỏi xin lời khuyên làm
sao để kết
hợp hài hòa giữa hôn nhân và sự nghiệp”.
(Gloria Steinem, nhà nữ quyền nổi tiếng)
Tuy nhiên, dù cùng có nội dung đòi thúc đẩy vai trò xã hội của
phụ nữ và cổ súy bình đẳng, nhưng bản thân những nhà nữ quyền
rất không thống nhất. Chủ nghĩa nữ quyền chia làm ba trường
phái
khác nhau:
- Trường phái quyết liệt: Quan niệm nam giới là kẻ thù của nữ
quyền, là đối tượng áp chế nữ giới.
- Trường phái trung dung: Quan niệm phụ nữ cần được bình
đẳng về quyền và cơ hội với nam giới, và nam giới cũng góp phần
vào bình đẳng giới.
- Trường phái bảo thủ: Phụ nữ có thể được đối xử tốt hơn so với
trong quá khứ, nhưng dù gì họ vẫn luôn là “phái yếu” và do vậy
cần
được đối xử tương ứng.
* * *
Bài đọc
NẾU ĐÀN ÔNG CÓ KINH NGUYỆT 1
Gloria Steinem
Nguyễn Trung Dũng (dịch)
SỰ GIẢI PHÓNG ĐẾN TỪ CHÍNH TƯ DUY TÍCH CỰC CỦA
PHỤ NỮ
Sống ở Ấn Độ khiến tôi hiểu rằng thiểu số những người da trắng
trên thế giới đã lừa gạt chúng ta qua nhiều thế kỷ, để khiến
chúng
ta nghĩ rằng làn da trắng làm cho con người ưu việt hơn, mặc
dù
điều duy nhất nó thực sự làm là khiến cho con người trở thành
nạn
nhân của tia cực tím và bị nhiều nếp nhăn hơn.
Đọc Freud làm tôi hoài nghi về sự ghen tị dương vật (khái niệm
do nhà phân tâm học Sigmund Freud đưa ra, cho rằng phụ nữ có
mặc cảm tự xem mình như những người đàn ông khiếm khuyết vì
không có dương vật, chứ không phải như một giới tính riêng –
ND). (Chính ra) Khả năng sinh sản khiến cho khái niệm “ghen tị
1. Một trong những tiểu luận nổi tiếng của nhà nữ quyền người
Mỹ Gloria Steinem (1934
- ). Bà là người đi đầu trong phong trào đòi quyền cho phụ nữ
ở những thập niên 60-70
của thế kỷ trước. Tiểu luận này của bà có nhiều phiên bản
(?), đây là phiên bản đăng trên
tạp chí Ms. số ra tháng 10/1978. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn
Trung Dũng, đăng trên
Luật Khoa tạp chí ngày 20/10/2015, tại địa chỉ:
https://www.luatkhoa.org/2015/10/neu-
dan-ong-co-kinh-nguyet/
170 | Phạm Đoan Trang
tử cung” nghe có vẻ hợp lý hơn; và một bộ phận nằm bên ngoài
cơ
thể, không được bảo vệ, như dương vật, phải khiến đàn ông dễ
bị
tổn thương hơn.
Nhưng gần đây, nghe một phụ nữ kể lại việc hành kinh bất ngờ
(một vệt đỏ loang trên váy của cô đúng vào lúc cô đang tranh
luận
sôi động trên sân khấu nơi công cộng), tôi vẫn co rúm người lại
vì
xấu hổ. Cho đến khi cô ấy kể rằng, cuối cùng, khi được biết về
“sự
cố” qua tiếng xì xào của mọi người, cô đã nói với cử tọa –
toàn nam
giới – như sau: “Các bạn nên tự hào là đã có một người phụ nữ
hành kinh trên sân khấu của mình. Thật sự đây có lẽ là điều xảy
ra
với hội ta lần đầu tiên trong nhiều năm”.
Cử tọa cười ồ. Nhẹ cả người. Cô đã biến một chuyện tiêu cực
thành tích cực. Câu chuyện của cô hòa với Ấn Độ và Freud, và
rốt
cuộc tôi đã hiểu được sức mạnh của tư duy tích cực. Bất kỳ
cái gì
một nhóm “ưu việt” có cũng sẽ được dùng để biện minh cho tính
ưu việt của họ, và bất kỳ cái gì một nhóm “thấp kém” có cũng
sẽ bị
dùng để biện minh cho hoàn cảnh của họ. Màu da đen khiến tôi
phải nhận một công việc với mức lương thấp, vì người ta nói rằng
điều đó khiến tôi “mạnh mẽ hơn” người da trắng. Còn tất cả phụ
nữ đều làm những công việc với mức lương kém cỏi là bởi vì họ
bị
cho là “phái yếu”. Khi hỏi một cậu bé có muốn làm luật sư như
mẹ
mình không, cậu trả lời: “Ồ, không. Đó là công việc của phụ nữ”.
Logic chẳng liên quan gì đến sự áp bức.
ĐÀN ÔNG SẼ “THẦN THÁNH HÓA” KINH NGUYỆT NẾU...
Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu đột nhiên, một cách kỳ diệu, những
người
đàn ông có thể có kinh nguyệt và phụ nữ không thể?
Rõ ràng, kinh nguyệt sẽ trở thành một điều tuyệt vời, có ý
nghĩa,
nam tính.
Đàn ông sẽ khoe khoang về việc kỳ kinh kéo dài bao lâu và ra
bao nhiêu.
Chính trị bình dân | 171
Các chàng trai trẻ sẽ nói về nó như là sự khởi đầu đầy khát
khao
của tuổi trưởng thành. Quà tặng, các nghi lễ tôn giáo, bữa ăn
gia
đình, và các bữa tiệc chỉ dành cho đàn ông sẽ đánh dấu ngày
này.
Để tránh mất công mất việc hàng tháng trong đội ngũ lãnh đạo,
quốc hội sẽ tài trợ cho một học viện quốc gia về chứng đau bụng
kinh. Các bác sĩ sẽ nghiên cứu rất ít về bệnh tim, từ đó đàn
ông sẽ
được bảo vệ về mặt hormone, mà họ sẽ nghiên cứu mọi thứ, trừ
chuột rút.
Băng vệ sinh sẽ được Liên bang tài trợ và cấp phát miễn phí.
Tất
nhiên, có một số người sẽ vẫn phải trả tiền cho uy tín của
các
thương hiệu như băng vệ sinh Paul Newman, miếng độn
Muhammad Ali, John Wayne Maxi, và Joe Namath Jock Shields
màng bảo vệ - “Cho những ngày độc thân nhẹ nhàng”.
Thống kê khảo sát sẽ chỉ ra rằng đàn ông đã thi đấu tốt hơn
trong các môn thể thao và giành nhiều huy chương Olympic hơn
trong các quãng thời gian giữa kỳ kinh của họ.
Nhìn chung, các chính trị gia thuộc phe hữu và tôn giáo sẽ viện
dẫn kinh nguyệt như là bằng chứng để chỉ ra rằng chỉ đàn ông
mới
có thể phục vụ Thiên Chúa và đất nước trong chiến tranh (“Bạn
phải đổi máu lấy máu”), nắm giữ các chức vụ cao (“Liệu phụ nữ
có
thể dữ dội một cách đúng đắn hay không, khi mà họ thiếu hẳn một
chu kỳ hàng tháng được chi phối bởi Hỏa tinh?”), làm linh mục,
bộ
trưởng, là chính Thiên Chúa (“Ngài đổ máu cho tội lỗi của
chúng
tôi”), hoặc giáo sĩ Do Thái (“Do hàng tháng không có một cuộc
thanh lọc tạp chất, nên phụ nữ không được sạch sẽ”).
Tuy vậy, nam giới theo chủ nghĩa tự do và có quan điểm cực
đoan sẽ nhấn mạnh rằng phái nữ có quyền được bình đẳng, chỉ
khác biệt thôi; và điều đó có nghĩa là bất kỳ phụ nữ nào cũng
đều có
thể gia nhập hàng ngũ đàn ông nếu cô ta chịu nhìn nhận tầm
quan
trọng của các quyền liên quan đến kinh nguyệt (“Mọi thứ khác
chỉ
là một vấn đề mà thôi”) hoặc chấp nhận tự gây một vết thương
lớn
cho mình mỗi tháng (“Bạn phải đổ máu cho cách mạng”).
172 | Phạm Đoan Trang
Thanh niên đường phố chế ra tiếng lóng: “Anh ấy là một người
đàn ông ba-băng”, và đập tay chào nhau ở góc phố với những
trao
đổi như:
- Chàng trai, cậu trông thật tuyệt!
- Yeah, cậu. Tớ đang tới tháng!
Các chương trình truyền hình sẽ đề cập tới chủ đề này một
cách
cởi mở. (Những ngày hạnh phúc: Richie và Potsie cố gắng thuyết
phục Fonzie rằng ông vẫn là “The Fonz”, mặc dù ông đã mất
kinh
hai kỳ liên tiếp). Báo chí cũng vậy. (Nguy cơ cá mập biển mùa
hè đe
dọa đàn ông đang thấy tháng). Phim ảnh nữa. (Newman và
Redford
trong phim “Những người anh em máu thịt”).
Đàn ông sẽ thuyết phục phụ nữ rằng quan hệ tình dục sẽ thú vị
hơn vào “thời điểm đó trong tháng”. Người đồng tính nữ bị cho
là
sợ máu và do đó sợ chính sự sống, mặc dù có lẽ chỉ vì họ cần
một
người đàn ông có kinh nguyệt tốt.
Trường y sẽ hạn chế tuyển nữ sinh. (“Họ có thể ngất xỉu khi
nhìn thấy máu”).
Tất nhiên, giới trí thức (nam) sẽ đem đến cho ta những lý luận
đạo đức nhất và logic nhất. Nếu không có được những món quà
sinh học đó để đo chu kỳ của mặt trăng và các hành tinh, thì
làm
sao một phụ nữ có thể có được bất kỳ một thứ kỷ luật nào, vốn
đòi
hỏi cảm nhận về thời gian, không gian, toán học, hay khả năng
đo
đạc? Trong triết học và tôn giáo, phụ nữ làm sao có thể bù đắp
được
việc họ bị tách rời khỏi nhịp vũ trụ, hay là việc họ không có
được
cái chết và sự tái sinh mang ý nghĩa biểu tượng, mỗi tháng?
Thời kỳ mãn kinh sẽ được kỷ niệm như một biến cố tích cực,
thể hiện ý nghĩa là người đàn ông đã tích lũy đủ năm của sự từng
trải mang tính chu kỳ và không cần nhiều hơn nữa.
Nam giới mang tư tưởng tự do sẽ cố tỏ ra tốt bụng: Riêng việc
“những người này” (tức phụ nữ – ND) không được tạo hóa ban
cho tài năng nào để đo lường cuộc sống hoặc kết nối với vũ trụ
đã
đủ là hình phạt rồi.
Chính trị bình dân | 173
Và phụ nữ sẽ được dạy để có phản ứng như thế nào? Ta có thể
hình dung cảnh các phụ nữ truyền thống sẽ chấp thuận tất cả
các
lý luận như vậy với một thái độ khổ dâm, vẻ trung thành, và một
nụ cười. (“ERA sẽ ép các bà nội trợ phải tự làm mình bị
thương mỗi
tháng”: Phyllis Schlafly. “Máu của chồng bạn cũng thiêng
liêng như
máu của Jesus, và cũng sexy như thế”: Marabel Morgan). Các
nhà
cải cách và Queen Bees sẽ ra sức bắt chước đàn ông, và giả vờ
có
kinh hàng tháng. Tất cả các nhà nữ quyền sẽ không ngớt giảng
giải
rằng đàn ông cũng cần được giải thoát khỏi quan niệm sai lầm
về
sự hung hãn của người sao Hỏa, còn phụ nữ cần vượt thoát khỏi
sự
trói buộc của mối “ghen tị kinh nguyệt” (tức là ghen tị vì
mình
không có kinh như đàn ông – ND). Các nhà nữ quyền theo trường
phái quyết liệt sẽ phát biểu thêm rằng sự áp bức đối với những
người không có kinh nguyệt là hình mẫu cho tất cả các hình thức
áp bức khác. (“Ma cà rồng là những chiến binh chiến đấu cho tự
do
đầu tiên”). Các nhà nữ quyền với góc nhìn văn hóa sẽ xây dựng
những hình tượng nhân vật không hành kinh trong nghệ thuật và
văn học. Các nhà nữ quyền xã hội chủ nghĩa sẽ khẳng định rằng
chỉ
có dưới chế độ tư bản, đàn ông mới có thể độc quyền ra máu...
Tóm lại, nếu đàn ông có kinh nguyệt, thì những lời biện hộ
cho
quyền lực của họ có thể sẽ tiếp tục kéo dài mãi mãi.
Nếu chúng ta để cho chúng tiếp tục.
DÂN TÚY VÀ MỊ DÂN
Có vẻ như từ khi tỷ phú Donald Trump trở thành vị tổng thống
thứ
45 của nước Mỹ (từ ngày 20/01/2017), người Việt bắt đầu nghe
nói
nhiều đến từ “dân túy”.
Vậy dân túy là gì? Bạn có thể gọi nó là “chủ nghĩa dân túy”
(dịch
từ tiếng Anh: populism), nhưng có học giả cho rằng nó không đạt
tới tầm một ý thức hệ chính trị hay là chủ nghĩa, mà chỉ là một
tư
tưởng, một cách tư duy về chính trị (John B. Judis, 2016). Quả
vậy,
bởi vì nó không đạt được đủ bốn tiêu chí của một ý thức hệ,
như đã
nói ở Chương I, “Thế nào là một chủ nghĩa?”, của Phần IV này.
Dân túy là tư tưởng luôn nhấn mạnh việc ủng hộ những người
bình dân, quần chúng, trong tương quan đối lập với giới tinh
hoa
tham nhũng, bảo thủ, hủ bại. Vâng, điều quan trọng là bên cạnh
ủng hộ, cảm thông và chia sẻ với người dân (nói nôm na là “nịnh
dân”, “chiều lòng dân”) thì phải chỉ trích và chống lại giới
tinh hoa
– tức là giới thượng lưu, tài phiệt, doanh nhân, có thể có cả
trí thức,
vốn được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi trong xã hội.
Người bình dân ở đây là ai? Theo John B. Judis, “không có một
thành tố nào có thể gom chung hết được “người dân”. Họ có thể
là
những công nhân cổ xanh, người bán hàng, hoặc sinh viên đang
chịu gánh nặng nợ nần; họ cũng có thể là người nghèo hay là tầng
lớp trung lưu” 1
.
1. “Us v Them: the birth of populism”, John B. Judis, The
Guardian, 13/10/2016. Bản dịch
tiếng Việt “Ta vs. Họ: Cái nôi của chủ nghĩa dân tuý” của Vi
Yên đăng trên Luật Khoa tạp
chí ngày 31/12/2017 tại địa chỉ:
https://www.luatkhoa.org/2017/12/ta-vs-ho-cai-noi-
cua-chu-nghia-dan-tuy/
176 | Phạm Đoan Trang
Chủ nghĩa dân túy cho rằng dân nguyện, hay ý dân, là cơ sở
cao
nhất để tạo tính chính danh cho hành động chính trị. Những
chính trị gia dân túy luôn thể hiện rằng họ gắn bó mật thiết
với
người dân, họ thấu hiểu những niềm hy vọng, sở nguyện sâu xa
nhất của dân chúng, họ đáng tin cậy, còn tất cả các thiết chế
trung
gian (như xã hội dân sự, các nhóm vận động, nhóm gây áp lực)
đều không đáng tin. Tầng lớp tinh hoa bảo thủ, tham lam, hủ bại
thì phải bị lên án.
Donald Trump được coi là một tổng thống dân túy, bởi vì ngay
từ khi mới nhậm chức, ông đã muốn trục xuất những người nhập
cư không giấy tờ, như một cách chiều lòng số đông dân bản địa
Mỹ
đang sốt ruột trước làn sóng tị nạn dâng lên ở châu Âu.
Một bài viết trên tờ The Economist ngày 19/12/2016 đưa ra
thêm một số ví dụ về các biểu hiện của chủ nghĩa dân túy:
“Podemos
1
, một đảng dân túy Tây Ban Nha, muốn cho người nhập cư quyền
bầu cử. Geert Wilders, chính trị gia dân túy người Hà Lan, muốn
xóa bỏ các đạo luật cấm phát ngôn gây thù hận
(hate-speech)...
Evo Morales, tổng thống dân túy của Bolivia, đã mở rộng quyền
trồng coca của nông dân thổ dân. Rodrigo Duterte, tổng thống
dân
túy của Philippines, đã ra lệnh cho lực lượng cảnh sát tiêu
diệt
những người bị nghi ngờ là buôn bán ma túy” 2
.
Trong suốt chiều dài tổn tại của nó, nền chính trị cộng sản
không có truyền thống quan chức thể hiện mình gắn bó mật thiết
với người dân. Do không có cạnh tranh chính trị trong chế độ
độc
đảng, lá phiếu của dân chẳng có ý nghĩa gì, cho nên các cán bộ
cộng
sản không chịu sức ép phải lấy lòng dân; họ chỉ cần được lòng
cấp
trên. Trong đời sống sinh hoạt thường ngày, thậm chí họ còn
phải
giữ khoảng cách, càng xa dân, càng kín đáo, quan trọng và bí
hiểm
1. Podemos, tiếng Tây Ban Nha nghĩa là: Chúng ta (chúng tôi)
có thể.
2. “What is populism?”, bản dịch tiếng Việt “Chủ nghĩa dân
tuý là gì?” của Lê Thị Hồng
Loan, Lê Hồng Hiệp biên tập, đăng trên Nghiên cứu Quốc tế
ngày 04/01/2017 tại địa chỉ:
http://nghiencuuquocte.org/2017/01/04/chu-nghia-dan-tuy-la-gi/
Chính trị bình dân | 177
trước dân càng tốt. Vậy nên nhìn chung, tư tưởng dân túy
không
phổ biến ở nền chính trị cộng sản. Cá biệt có ông Hồ Chí Minh
và
một số đồng chí cộng sản thời kỳ đầu của ông có thể tỏ ra
mình
giản dị, gần gũi, gắn bó mật thiết với người dân... song họ
chỉ là
một số ít cá nhân và không xác lập được một truyền thống dân
túy.
Nhất là, sự mờ ảo, bí hiểm ở họ vẫn trội hơn sự bình dị, gần
dân.
Từ khi Internet vào Việt Nam (tháng 11/1997) và nhất là từ
khi
mạng xã hội nở rộ ở Việt Nam (khởi đầu là Yahoo! 360 blog vào
năm 2005), chính khách cộng sản bắt đầu nhận thấy nhu cầu phải
thể hiện mình hòa đồng, bình dị, gần dân, hiểu tâm tư, nói
ngôn
ngữ của dân và đặc biệt là hành động khẩn trương, quyết đoán
để
kịp thời đáp ứng nguyện vọng của dân. Chúng ta có thể “điểm mặt”
ngay ở đây vài quan chức dân túy điển hình: Nguyễn Bá Thanh 1
,
Đinh La Thăng 2
, Vũ Đức Đam 3
...
Nguyễn Bá Thanh sinh thời được ca ngợi như một chính khách
năng động, thẳng thắn, đầy quyết tâm phát triển địa phương.
Ông
cũng rất chịu khó chăm sóc quan hệ với giới nhà báo (chính thống),
luôn tỏ ra hào hiệp và cởi mở với báo chí nên hầu hết các nhà
báo
từng tiếp xúc, làm việc với Nguyễn Bá Thanh đều yêu quý “anh
Thanh” lắm. Nhiều giai thoại về ông được truyền tụng để ca ngợi,
như chuyện ông được mời đi xem bóng đá mà lúc hưng phấn quá,
nhảy cả xuống sân chỉ đạo. Ông còn nổi tiếng vì câu nói thể
hiện
1. Nguyễn Bá Thanh (1953-2015): Chính khách Việt Nam thời cộng
sản. Chức vụ nổi bật
là Bí thư Thành ủy Đà Nẵng (2003-2013), Chủ tịch UBND Đà Nẵng
(1997-2003). Sinh thời
ông được một số đông dân chúng, nhất là dân Đà Nẵng, mến mộ
và ca ngợi hết lời vì có
quyết tâm và có công phát triển Đà Nẵng thành một đô thị có sức
hút về đầu tư, “thành
phố đáng sống”. Những sai phạm, tham nhũng và đặc biệt là vi
phạm nhân quyền trong
thời kỳ ông tại nhiệm nói chung đều bị ỉm đi, sau khi Bá
Thanh mất mới được đưa ra.
2. Đinh La Thăng (1960- ): Chính khách Việt Nam thời cộng sản.
Chức vụ nổi bật là: Ủy viên
Bộ Chính trị khóa XII (27/01/2016 - 07/5/2017), Bí thư Thành ủy
TP.HCM (05/02/2016 -
10/5/2017), Bộ trưởng Giao thông Vận tải (03/8/2011 -
08/4/2016). Bị loại khỏi Bộ Chính
trị khóa XII và cách chức Bí thư Thành ủy TP.HCM vào ngày
07/5/2017, bị khởi tố và bắt
tạm giam vào ngày 08/12/2017 và chỉ một tháng sau là ra tòa,
bị kết án 30 năm tù.
3. Vũ Đức Đam (1963- ): Chính khách Việt Nam thời cộng sản.
Chức vụ nổi bật là Phó thủ
tướng Chính phủ (nhiệm kỳ 2016-2021).
178 | Phạm Đoan Trang
quyết tâm chống tham nhũng cao độ: “Sắp tới tôi sẽ rà một số
cái,
cho hốt liền, không nói nhiều” (phát biểu tại Hội nghị Quản
lý đầu
tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước do UBND TP Đà
Nẵng tổ chức ngày 10/01/2013).
Đinh La Thăng cũng vẽ nên hình ảnh một lãnh đạo trẻ trung,
năng động, quyết đoán. Ở tư cách Bộ trưởng Giao thông Vận tải,
ông nói thông điệp của ngành là “hành động và hành động”. Ông
tham gia đá bóng, chơi đàn, hát hò cùng “anh em cấp dưới”, rất
cởi
mở thân thiết với giới báo chí (chính thống) và được lòng nhiều
nhà báo. Những hình ảnh Đinh La Thăng ôm đàn guitar hát đồng
ca hoặc đang cuốc đất trồng cây, lội ao vớt bèo, thường được
báo
chí hăng hái ghi lại và lan truyền trên mạng.
Vũ Đức Đam cũng rất chịu khó xây dựng hình ảnh cá nhân.
Hậu cảnh của phóng sự ảnh nổi tiếng “Bất ngờ gặp Phó Thủ tướng
Vũ Đức
Đam một mình khoác balô khảo sát Sơn Trà” (27/5/2017).
Ảnh không rõ nguồn.
Một khái niệm khá gần với chủ nghĩa dân túy ở nghĩa “nịnh
dân”, “chiều lòng dân” (nhưng thật ra là phi dân chủ, vì dẹp
bỏ hết
Chính trị bình dân | 179
các thiết chế trung gian như xã hội dân sự) là mị dân. Mị dân
là việc
một chính trị gia lợi dụng thành kiến và sự kém hiểu biết của
dân
chúng (dân trí thấp) để kích động tình cảm, sự cảm tính ở họ
mà
làm lu mờ đi những lập luận duy lý, có lý trí. Các chính trị
gia mị
dân thường cổ súy những hành động tức thời, kể cả bạo lực, để
giải
quyết khủng hoảng; họ kêu gọi, kích động dân chúng hành động
mạnh mẽ, kể cả dùng bạo lực, đồng thời lên án những người ôn
hòa, chừng mực là yếu kém, không quyết đoán, không trung
thành.
Tất nhiên, chính trị gia mị dân thường có tài hùng biện, và họ
luôn
sẵn sàng tận dụng tài đó của mình để làm mê hoặc, lôi kéo, dẫn
dụ
quần chúng.
Năm 1838, James Fenimore Cooper đưa ra bốn đặc điểm xác
định một chính trị gia mị dân, như sau:
1. Tự xây dựng hình ảnh mình như một người bình dị, gần dân,
đối lập với tầng lớp tinh hoa thượng lưu xa dân và ở trên
dân;
2. Kích động bản năng và cảm xúc của quần chúng;
3. Khai thác, lợi dụng những phản ứng bản năng, những cảm
xúc của quần chúng để làm lợi cho mình;
4. Phá vỡ hoặc ít nhất là đe dọa những thiết chế dân chủ đã
được xác lập, những quy tắc hành xử của chính trị gia vốn đã
được
ngầm mặc định.
Các bạn lưu ý đặc điểm thứ tư ở trên đây: Điều xấu và nguy
hiểm ở kẻ mị dân là hắn tuy luôn tỏ ra chiều ý người dân
nhưng
thực chất lại phá hoại dân chủ, phá vỡ các nguyên tắc của dân
chủ,
ví dụ nguyên tắc tư pháp độc lập hay bảo đảm tự do báo chí.
Ngoài
ra, trong việc lôi kéo, dẫn dụ quần chúng, hắn cũng khôn khéo
tạo
ra cái vỏ giản dị, dân dã, kể cả khi điều đó trái ngược với
những
quy tắc hành xử thông thường của chính trị gia. Chẳng hạn như
sẵn sàng mặc đồ gụ, đi dép cao su, thay vì vận complet thắt
cravat.
Hay là nói năng thật bỗ bã, kiểu “hốt liền, không nói nhiều”.
Hoặc
lướt mạng xã hội, chơi facebook, twitter liên tục để giao lưu
với
người dân.
180 | Phạm Đoan Trang
Lịch sử ghi nhận một số chính trị gia mị dân nổi tiếng: Adolf
Hitler, Benito Mussolini. Và nếu căn cứ vào bốn đặc điểm nói
trên
để xác định một lãnh đạo mị dân thì hẳn bạn sẽ nhận ra nhiều
gương mặt quen: Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Putin...
Dân túy và mị dân là hai khái niệm rất gần gũi, có nhiều điểm
chung. Thứ nhất, các chính trị gia dân túy hay mị dân đều tỏ
ra
bình dị, gần dân, chiều lòng dân. Thứ hai, cả hai đều phớt lờ
sự tồn
tại của những thiết chế trung gian – xã hội dân sự – nằm
ngoài
chính quyền và giúp cân bằng, điều hòa mối quan hệ giữa chính
quyền (thống trị) và người dân (bị trị). Vì lý do đó, họ rất
dễ tiến
đến ngưỡng trở thành phi dân chủ, thậm chí độc tài.
Điểm khác biệt giữa dân túy và mị dân là người dân túy có thể
thực lòng muốn chiều theo ý dân, muốn lấy lòng quần chúng
trên
cơ sở có hướng đến phục vụ số đông bình dân thật. Còn kẻ mị
dân
thì đơn thuần là cơ hội chính trị, đạo đức giả, chỉ muốn thao
túng
tình cảm và lợi dụng dân vì tư lợi.
Cũng cần nói rõ rằng, việc tỏ ra gần dân, chiều lòng dân, và
lôi
kéo, dẫn dụ quần chúng nếu có thể, là điều mà chính trị gia
nào
cũng muốn làm, cho dù ở thể chế nào. Như chúng ta đã xác định
ngay từ Chương I, “Định nghĩa chính trị”, của Phần I, chính
trị là
việc gây ảnh hưởng lên những người khác, là nghệ thuật vận động.
Vì vậy, có thể nói trong mỗi chính khách, mỗi nhà lãnh đạo
chính
trị hay mỗi quan chức đều ẩn chứa tư tưởng dân túy và thói mị
dân,
dù ít dù nhiều. Vấn đề là mức độ dân túy, mị dân của họ, cũng
như
mức độ họ tôn trọng và tuân thủ hiến pháp, nhà nước pháp quyền,
nhân quyền và dân chủ, mức độ họ thực sự làm lợi hoặc gây hại
cho người dân và xã hội.
* * *
Chính trị bình dân | 181
CHỦ NGHĨA DÂN TỘC VÀ LÒNG YÊU NƯỚC
1. Chủ nghĩa dân tộc
Đến đây chúng ta sẽ bàn về một ý thức hệ được nhắc tới rất
nhiều
ở Việt Nam những năm vừa qua – tạm coi là những năm đầu của
thời toàn cầu hóa: Chủ nghĩa dân tộc (nationalism), hay còn
được
dịch sang tiếng Việt là chủ nghĩa quốc gia.
Trong tiếng Việt lâu nay, nhiều người vẫn dùng từ “dân tộc” để
chỉ một sắc tộc, như dân tộc Kinh, dân tộc Mường, dân tộc
Ê-đê...
cho nên nếu dịch nationalism là chủ nghĩa dân tộc thì có thể
khiến
mọi người hiểu sai bản chất của khái niệm này – một khái niệm
vốn gắn với quốc gia chứ không phải với sắc tộc. Tuy vậy, do
cách
dịch đó đã tồn tại quá lâu, nên ở đây, chúng ta cũng đành chấp
nhận dùng cụm từ “chủ nghĩa dân tộc”.
Chủ nghĩa dân tộc, theo nghĩa nguyên thủy của nó, là sự gắn
bó,
về mặt tâm lý, của người dân với một quốc gia cụ thể, dựa
trên một
lịch sử chung, ngôn ngữ chung, văn học chung, văn hóa chung,
và
một ước nguyện chung là giành được và/hoặc duy trì được độc lập
chính trị.
Việc chia sẻ “một ước nguyện chung là giành được và/hoặc duy
trì được độc lập chính trị” là thuộc tính cực kỳ quan trọng của
chủ
nghĩa dân tộc, bởi nếu không có nó, sẽ không có quốc gia nào
tồn
tại trong tâm khảm những con người có thể được gọi là “dân” của
một quốc gia. Ngôn ngữ không phải yếu tố quyết định. Trên thế
giới, không thiếu gì quốc gia đa ngôn ngữ. Ví dụ Thụy Sĩ có bốn
thứ
tiếng chính thức là Đức, Pháp, Ý, Romansh, nhưng không trở
thành bốn quốc gia, bởi vì các thành viên của cộng đồng lớn
Thụy
Sĩ đều coi cộng đồng lớn của mình là một quốc gia – tức là họ
đều
chia sẻ ước nguyện chung là duy trì độc lập chính trị.
Từ thế kỷ 20 trở về trước, đặc biệt trong thời phong kiến, chủ
nghĩa dân tộc được coi là một phẩm chất tốt đẹp. Trung thành
với
quốc gia là lòng trung thành cao cả nhất, hơn cả với tôn
giáo, gia
182 | Phạm Đoan Trang
đình, chủng tộc hay giai cấp. Ngay cả trong nửa đầu thế kỷ 20
với
sự nổi lên của làn sóng cộng sản, chủ nghĩa cộng sản quốc tế
và chủ
nghĩa phát xít dẫn đến hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc,
người ta vẫn chiến đấu vì một ý thức hệ bao trùm là chủ nghĩa
dân
tộc, hơn là vì chủ nghĩa cộng sản hay vì dân chủ tự do. Nói
cách
khác, trong các cuộc chiến tranh ấy, bên tham chiến là các quốc
gia
chứ không phải tôn giáo, giai cấp, hay chủng tộc.
Ở những nước phương Tây tự do, kính yêu lãnh tụ không phải
là một phẩm chất tốt đẹp. Nhưng gắn bó và trung thành với quốc
gia thì ở đâu, Đông hay Tây, cũng đều được coi là phẩm hạnh.
Đó
là quan niệm của thời trước.
Tuy thế, từ cuối thế kỷ 20, khi làn sóng toàn cầu hóa bắt đầu
dâng lên, thì nhiều nước đã nghĩ lại về khái niệm chủ nghĩa
dân
tộc, chủ nghĩa quốc gia. Người dân ở các nước phương Tây – vốn
cởi mở hơn và hòa nhập vào thế giới toàn cầu hóa nhanh chóng
hơn phương Đông – cho rằng chủ nghĩa dân tộc đã trở nên lỗi
thời,
lạc hậu, và có hại trong thế giới hiện đại. Đầu óc dân tộc chủ
nghĩa
hẹp hòi cản trở một quốc gia hội nhập, chung sống hòa bình và
hợp
tác với các nước khác. Sớm muộn nó sẽ tạo ra sự cực đoan, tự
cô
lập, và gây mâu thuẫn, xung đột, bạo lực.
Ở Việt Nam, dân chúng vẫn giữ thói quen mang cờ (càng to
càng đẹp) vào sân vận động xem bóng đá trong những trận quốc
tế có đội tuyển Việt Nam tham dự. Ở Anh, nếu bạn vác một lá
quốc kỳ to vào sân bóng, rất có thể người ta sẽ nhìn bạn như
nhìn
một kẻ lập dị, cực đoan. Từ “nationalist” – người theo chủ
nghĩa
dân tộc, người quốc gia – ngày nay đã có hàm ý tiêu cực trong
tiếng Anh.
Tuy vậy, tại Trung Quốc, Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc vẫn được
đề cao và được coi là động lực để gắn kết toàn dân vì những mục
tiêu chung.
Chính trị bình dân | 183
2. Lòng yêu nước
Ở trên đã nói, mặc dù ở Mỹ và châu Âu, chủ nghĩa dân tộc đã
mang
hàm ý tiêu cực (hẹp hòi, cực đoan), nhưng tại Trung Quốc, Việt
Nam, chủ nghĩa dân tộc vẫn được đề cao và được coi là động lực
để
gắn kết toàn dân vì những mục tiêu chung. Và, ở hai nơi này,
nó lại
được gọi một cách phổ biến là “lòng yêu nước”, “tình yêu đất
nước”,
chứ không gọi là “chủ nghĩa dân tộc”. Ví dụ như người ta hay
nói
“đóng thuế là yêu nước”, chứ không ai nói “đóng thuế là vì chủ
nghĩa dân tộc”. Tương tự, trong những cuộc biểu tình chống
Tàu ở
Việt Nam, người biểu tình cũng nói rằng họ xuống đường vì yêu
nước chứ không phải vì chủ nghĩa dân tộc.
Từ đây, nảy sinh một sự nhầm lẫn, hỗn loạn tương đối giữa hai
khái niệm: chủ nghĩa dân tộc và lòng yêu nước (hay có thể gọi
là
chủ nghĩa ái quốc).
Để cho rõ ràng, người viết đề xuất rằng chúng ta có thể định
nghĩa hai chủ nghĩa này như sau:
y Lòng yêu nước, hay chủ nghĩa ái quốc: sự gắn bó, về mặt tâm
lý, của người dân với một quốc gia cụ thể, dựa trên một lịch
sử
chung, ngôn ngữ chung, văn học chung, văn hóa chung, và một
ước nguyện chung là giành được và/hoặc duy trì được độc lập
chính trị (chính là nghĩa nguyên thủy của khái niệm chủ nghĩa
dân tộc). Trong chừng mực ôn hòa, lòng yêu nước là một phẩm
chất tốt đẹp.
y Chủ nghĩa dân tộc, hay chủ nghĩa quốc gia: Là lòng yêu nước
được đẩy tới mức cực đoan, trở thành tâm lý sùng bái và tự
hào thái
quá về đất nước mình, và coi quốc gia là cộng đồng chính trị
quan
trọng nhất trong mọi loại tổ chức chính trị. Với ý nghĩa đó,
nó đã
mang hàm ý tiêu cực. Nếu đi tới mức coi đất nước mình là
trung
tâm của thế giới, ưu việt hơn toàn bộ phần còn lại của thế giới,
thì
nó trở thành chủ nghĩa sô-vanh, kiêu ngạo, hung hãn và hiếu
chiến.
184 | Phạm Đoan Trang
Lòng yêu nước Chủ nghĩa dân tộc
Xuất phát từ tiếng Latin “patria”,
nghĩa là quê hương.
Là tình cảm gắn bó với một đất
nước, không nhất thiết yêu hay
tự hào.
Xuất phát từ chữ “nation”, nghĩa là
quốc gia.
Là ý thức hệ cho rằng quốc gia là
trung tâm của việc tổ chức chính trị,
đi kèm với sự tự hào và sùng bái đất
nước mình.
Cuối cùng, cho dù là lòng yêu nước hay chủ nghĩa dân tộc, thì
tình cảm gắn bó, trung thành với đất nước rất dễ bị các chính
quyền
lợi dụng để đoàn kết dân chúng vào những mục tiêu chung, nhiều
khi chẳng tốt đẹp gì, ví dụ như tham gia chiến tranh, chém giết
sinh
mạng con người.
Bài đọc
TINH THẦN YÊU NƯỚC 1
Nguyễn Dân (facebooker Ếch Ao)
Một công ty du lịch ngưng bán tour đi Trung Quốc, những
“avatar”
(hình đại diện) mang hình bản đồ Tổ quốc, những bạn trẻ xuống
đường tuần hành thể hiện tinh thần yêu nước... Họ, những con
người Việt Nam đang thể hiện tinh thần yêu nước.
Tinh thần yêu nước – thật khó để có một định nghĩa rõ ràng của
cụm từ này, nhưng trong những tuần qua, có lẽ đây lại là cụm
từ lại
được “cảm” nhiều nhất “nhờ” một loạt hành động xâm phạm chủ
quyền biển đảo của Trung Quốc. Có thể thấy tinh thần ấy ở khắp
nơi. Những bài báo với những lời yêu thương đất nước, những lời
căm phẫn trước sự xâm phạm của ngoại bang trên các phương tiện
truyền thông. Những “status” (trạng thái), những dòng
“comment”
(bình luận) bày tỏ suy nghĩ về chủ quyền đất nước trên
facebook,
những diễn đàn mạng. Từ ảo ra ngoài đời thật, những bạn trẻ
“chào” nhau bằng những câu chuyện về tình hình đất nước. Những
bài hát, câu khẩu hiệu khẳng định chủ quyền đất nước. Đâu đó
bắt
đầu đã xuất hiện những câu “nếu đất nước có chiến tranh...”
và thật
không khó để đoán câu trả lời hầu hết là “có” kèm một cái gật
đầu
quả quyết. Vậy chúng ta có bao giờ tự đặt câu hỏi cho chính
mình:
Thế nào là tình yêu nước?
1. Trích từ tuyển tập “Thế hệ F”, NXB Liên Mạng, 2012.
186 | Phạm Đoan Trang
Nếu chúng ta đã từng khâm phục ý chí của người Nhật, tinh
thần sắt đá của người Hàn, ý thức công dân của phương Tây...
và
chúng ta gọi đó là tinh thần yêu nước, thì thời gian này
chúng ta đã
có thể nhìn lại chính mình để tự vấn rằng mình đã thể hiện
lòng
yêu nước như thế nào?
Lòng yêu nước không phải chỉ những lời hô hào, những hành
động bột phát mà bắt đầu từ những việc tưởng như nhỏ nhặt
xung
quanh chúng ta.
Lòng yêu nước ấy có lẽ nào lại có ở những người chen lấn khi
xếp hàng, ở những người đầu trần vượt đèn đỏ, ở những người
vô
tư xả rác lên con đường họ đi hàng ngày?
Liệu có tin không những người nói sẽ xả thân cho đất nước
nhưng lại sẵn sàng ẩu đả với chính đồng bào mình chỉ vì một
va
chạm nhỏ trên đường?
Có tin không những người sẽ cầm súng ra trận nhưng lại không
biết quý trọng tính mạng chính bản thân và những người xung
quanh khi phóng xe bạt mạng trên phố?
Không, lòng yêu nước trước nhất là yêu lấy chính bản thân
mình, yêu những điều tốt đẹp trong cuộc sống, yêu ngôi nhà
chúng
ta đang ở, yêu những người thân thuộc xung quanh và yêu cả
những gì chúng ta đón nhận hàng ngày. Nếu chúng ta thật sự
yêu
nước thì hãy thể hiện tinh thần ấy trong từng ngày, từng giờ
trong
mỗi máu thịt của chúng ta qua từng hành động, suy nghĩ.
Nếu chúng ta thực sự lo lắng về chủ quyền biển đảo thì đừng
đắm chìm trong những game online, cho những buổi cafe tán gẫu
vô bổ mà hãy bớt chút thời giờ để đọc thêm sách báo, học hỏi
thêm
kiến thức, lấy lý luận làm vũ khí giành lại tấc đất quê
hương.
Nếu chúng ta đau xót cho những ngư dân bị tàu lạ bắt giữ đòi
tiền chuộc thì hãy khoan mua một chiếc áo đẹp, đừng vội cho một
cuộc chơi mà hãy nghĩ đến những khó khăn của những người
đang cầm súng ngoài hải đảo.
Chính trị bình dân | 187
Nếu chúng ta uất ức trước những chiếc tàu “lạ” xâm chiếm lãnh
hải, ỷ thế mạnh ức hiếp chúng ta thì chúng ta hãy biết xấu hổ
khi đi
sai luật, biết nhẫn nhịn trước những cuộc cãi vã, những va chạm
nhỏ với chính đồng bào của mình.
Hãy thấy rằng vẫn còn nhiều công trình tiền tỉ nhưng kém chất
lượng do bị rút ruột mà nếu dùng số tiền đó có thể cải thiện
đời
sống của những đồng bào nghèo.
Hãy thấy rằng những con đường lún sụt, nhiều ổ gà đã tiêu tốn
chúng ta biết bao nhiêu xăng dầu mà có thể dùng cho xe tăng,
tàu
thủy.
Chúng ta có bao giờ để ý nếu tắt một chiếc đèn sáng sẽ góp phần
tiết kiệm điện để không phải bị thiếu hụt nên phải mua ở nước
ngoài, chúng ta đã làm được chưa?
Những việc đó chẳng phải là tinh thần yêu nước sao?
Và chúng ta bắt đầu lòng yêu nước bằng những việc đơn giản
nhất như thế.
Nào, hãy lên đường!
“Việt Nam chúng ta đó!”. Ảnh và lời bình: Nguyễn Dân (Ếch
Ao).
Chụp tại biển Đại Lãnh (Nha Trang) năm 2011.
Bài đọc
YÊU NƯỚC LÀ GÌ? 1
Nguyễn Trần Quyên Quyên
Mình 33 tuổi và mình chả biết yêu nước là gì.
Hồi tầm lớp 6, lớp 7 gì đó, mình hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, con thấy mình đâu có yêu nước. Tại sao phải yêu nước?
- Con có yêu nước mà con không biết. Bây giờ, khi xem Việt
Nam đá banh với một đội nước khác, con muốn Việt Nam thắng
hay thua?
- Thắng chớ!
- Đó là yêu nước.
Mình nhớ lúc đó cũng còn mơ hồ với khái niệm này lắm. Nó
gần giống với một sự bênh vực tự nhiên đến mức không thể giải
thích được. Hết.
Đến năm mình 24-25 tuổi, hôm ấy trời mưa như trút. Từ cái lan
can sau lưng tòa nhà mình làm truyền thông, nhìn ra phía khu
vườn, mình bứt rứt vì cái kế hoạch của mình gặp vô vàn khó
khăn
tại Việt Nam, trong khi các bạn mình đang làm rất tốt tại một
quốc
gia khác.
1. Bài viết trên facebook cá nhân của tác giả, đăng ngày
02/6/2017.
190 | Phạm Đoan Trang
Nhìn mưa chảy xối xả trên mấy cái tán lá. Cứ đứng thừ người
ra. Mình hỏi Chúa: Tại sao không để con sinh ra ở một đất nước
khác? Tại sao bắt con làm người Việt?
Một tuần lễ sau đó, mình có cuộc gặp với một người chị trong
nhóm. Chị này tham gia dự án từ khi còn du học bên Pháp. Sau
thời gian này, người ta giữ chị ở lại. Chị từ chối. Mình còn
nhớ
nguyên văn chị nói với mình:
“Chị nói với họ rằng: Ơn gọi của chị là làm người Việt Nam.
Nên chị sẽ về Việt Nam. Nếu có dự án ở Việt Nam, chị sẽ tham
gia”.
Lúc này mình mới phát hiện ra: “Bị bắt làm người Việt Nam”
còn có một tên gọi là “ơn gọi làm người Việt Nam”. Và khi
mình có
cái cảm giác ghét làm người Việt, ghét nước Việt Nam, tức là,
phải
tồn tại cái gọi là yêu nước Việt Nam mà mình chưa tìm ra được.
Cho đến giờ này, mình cũng chưa hiểu được như thế nào là yêu
nước. Nhưng những hành động và suy nghĩ của mình, hình như
nó là cái gì đó giống như yêu một cách tự nhiên: Sinh ra là
yêu rồi
và không cần định nghĩa hay sao ấy... và mình list ra đây những
điều mà mình cho là biểu hiện của lòng yêu nước, có thể quan
sát
được, và “chẩn đoán” được là bạn có yêu nước.
Nếu bạn có giống mình, hãy mạnh dạn gọi nó là yêu nước.
1. Khi xem Việt Nam đá banh, mình muốn Việt Nam thắng
cuộc.
2. Thích nghe tiếng Việt và thoải mái nhất khi nghe nói tiếng
Việt trong tất cả các thứ tiếng.
3. Mong là mình mau hết ho để có thể ăn hết bốn hũ mắm
người ta cho còn đang để dành trong tủ lạnh. Thèm mắm kinh
khiếp.
4. Rất tự hào khi nói với cái bà ngoài chợ là: Ê, em người Việt
Nam, đừng có nói thách với em.
5. Thèm ăn mít và sầu riêng.
6. Thích nghe mấy bài mẹ hát ru. Hồi trước còn thích nghe
chèo.
Chính trị bình dân | 191
7. Tự trong thâm tâm, rất muốn lấy một người Việt để có thể
trao đổi tất cả những gì mình muốn bằng thứ tiếng mà mình cảm
nhận và diễn đạt tốt nhất.
8. Thích nhìn mấy tập thơ hồi xưa người ta đóng thành từ
những tép giấy, buộc bằng sợi chỉ đỏ, tặng nhau: “Rằng xưa có
gã
từ quan, lên non tìm động hoa vàng ngủ say”.
9. Ngồi đoán sắp có mưa nhờ mấy con chuồn chuồn rồi đọc cái
câu phịa quen thuộc: Chuồn chuồn bay thấp thì cao, bay cao
thì
thấp, bay vừa thì thôi.
10. Thích ngửi mùi phân bò với rơm rạ. Cái mùi này độc đáo
lắm. Đi ra khỏi thành phố, về gần quê mới ngửi được.
11. Mỗi lần nhớ cảnh trung thu đi rước đèn mà năm nào cũng
mưa là lăn ra cười.
12. Mỗi lần có bạn bè nước ngoài kêu kể về nước bà cho tui
nghe
đi là thao thao bất tuyệt cứ như thể biết hết nước Việt Nam rồi
í.
13. Thích nụ cười của mấy người sống ở miền Tây Bắc lẫn Tây
Nguyên. Người ta đẹp lạ lùng.
14. Thích nghe người miền Tây nói chuyện. Mèn đéc ơi là nó
thật thà dễ thương.
15. Rất bi quan khi người ta hỏi đến chính quyền cộng sản Việt
Nam.
16. Khi xem mấy cảnh Trung Quốc bắn người đánh cá Việt
Nam, xem thấy người dân bị cắt cổ sau khi ra khỏi đồn công
an, hay
khi đọc lá thư bên dưới của thầy Hoàng 1
là nước mắt cứ muốn ứa
ra đi kèm căm giận.
1. Vào tháng 5/2017, thầy giáo Phạm Minh Hoàng, thành viên đảng
Việt Tân, cư ngụ ở Sài
Gòn, bị Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Trần Đại Quang ký lệnh
hủy bỏ quốc tịch Việt
Nam. Ông Hoàng là người có hai quốc tịch: Việt Nam và Pháp.
Việc tước quốc tịch Việt
Nam đồng nghĩa với trục xuất ông khỏi đây. Ông Hoàng đã viết
nhiều tâm thư gửi cộng
đồng để kêu cứu và chia sẻ tình cảm của mình đối với Việt
Nam. Chiều tối ngày 23/6/2017,
ông Hoàng bị công an TP.HCM ập vào nhà bắt mang đi để trục xuất
sang Pháp.
192 | Phạm Đoan Trang
17. Muốn làm một điều gì đó, nhỏ cũng được, để thay đổi điều
15 và 16, để bảo vệ 14 điều ở trên.
18... 19... Còn gì nữa không?
Cầu Long Biên (Hà Nội) nhìn từ bãi giữa sông Hồng.
Ảnh: Nguyễn Dân (Ếch Ao), năm 2011.
Ý THỨC HỆ CÓ CẦN THIẾT KHÔNG?
Trên đây chúng ta đã vừa bàn đến một số ý thức hệ, hay chủ
nghĩa,
phổ biến trong lịch sử loài người từ trước tới nay, theo
nghĩa chúng
được biết đến nhiều và được thực thi nhiều trên thế giới.
- Chủ nghĩa tự do
- Chủ nghĩa bảo tồn
- Chủ nghĩa xã hội và dân chủ xã hội
- Chủ nghĩa phát xít
- Chủ nghĩa vô chính phủ
- Chủ nghĩa môi trường
- Tôn giáo thuần túy
- Chủ nghĩa cộng đồng
- Chủ nghĩa nữ quyền
- Chủ nghĩa dân tộc.
(Chúng ta cũng đã tìm hiểu sơ qua về tư tưởng dân túy và thói
mị dân, song dân túy và mị dân không được tính là hai ý thức
hệ).
Xin các bạn lưu ý rằng trên đây chưa phải là tất cả trong
hàng
trăm ý thức hệ chính trị đã từng và đang tồn tại trong lịch sử
nhân
loại. Chúng chỉ là những chủ nghĩa được biết tới nhiều và thực
thi
nhiều nhất.
Câu hỏi đặt ra tới lúc này, có lẽ sẽ là: Vậy, suy cho cùng, ý
thức
hệ có cần thiết không? Một đảng chính trị, một cộng đồng, một
xã
hội, một quốc gia, có nhất thiết phải đi theo một ý thức hệ
nào đó?
194 | Phạm Đoan Trang
Có nhiều triết gia chính trị sẽ bảo là không. Daniel Bell nói
không cần ý thức hệ nữa, bởi “Các đảng chính trị ở phương Tây
cạnh tranh bằng những hứa hẹn về phát triển kinh tế và sung
túc
về vật chất” (1960). Quan điểm này hẳn cũng giống điều nhiều
người Việt Nam từng nói, mà bạn cũng đã nghe, rằng chủ nghĩa
gì
cũng được (ý là không nhất thiết phải theo đường lối Mác-Lê),
miễn là nước giàu, dân sướng.
Francis Fukuyama, triết gia nổi tiếng, cho rằng lịch sử loài
người
đã “cáo chung” với ý thức hệ cuối cùng, duy nhất còn tồn tại
là chế
độ dân chủ tự do. (Các bạn có thể tìm đọc cuốn “The end of
history
and the last man”, tạm dịch là “Sự cáo chung của lịch sử và
con
người cuối cùng”, 1989).
Anthony Giddens thì nói: “Cánh tả, cánh hữu gì cũng không
cần thiết nữa khi mà xã hội ngày càng toàn cầu hóa, truyền thống
ngày càng suy yếu, con người ngày càng thích độc lập nhưng
cũng
hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn” (1994).
Thật khó nói ý thức hệ có còn cần thiết nữa hay không. Nhưng
có hai sự thật mà chúng ta buộc phải thừa nhận, là: 1. Con
người
vẫn không ngừng tư duy, và các tư tưởng mới, các ý thức hệ mới
vẫn có thể tiếp tục ra đời. 2. Chủ nghĩa nào cũng có đội ngũ
người
ủng hộ nó và chống đối nó. Có nghĩa là chủ nghĩa nào cũng có
khía
cạnh tốt đẹp và khía cạnh tồi tệ của nó, và sự ra đời của nó
cũng
phù hợp với hoàn cảnh xã hội đương thời, nghĩa là có lý do.
Cuối
cùng, chỉ có thực tế mới cho thấy việc áp dụng chủ nghĩa nào
là
đúng đắn hơn hoặc mang tính phá hoại, hủy diệt hơn. (Có phải
tác
giả đang viết như một người theo chủ nghĩa thực dụng không?)
Phần V
TƯƠNG TÁC CHÍNH TRỊ
Đến đây bạn đã biết chính trị về bản chất là những hoạt động
nhằm
thuyết phục, vận động hay cưỡng ép (những) người khác nhằm
một mục đích nào đó, chẳng hạn nhằm tạo ra một sự thay đổi. Mức
độ cao của hoạt động chính trị là nhằm thay đổi chính sách,
mà cao
nhất là thay đổi xã hội.
Trong Phần V này, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu về các hoạt động
chính
trị phổ biến nhất và có sức mạnh lớn nhất trong việc thay đổi
xã
hội. Đây sẽ là một phần rất dài, các bạn có thể đọc tuần tự từ
đầu
đến cuối, hoặc chọn riêng chương về hoạt động mà bạn yêu
thích
hoặc quan tâm nhất để đọc. Một cách khái quát, nội dung của
Phần
V sẽ bám theo các hoạt động như sau:
y Thay đổi xã hội: cách mạng và chuyển hóa
y Làm truyền thông: công luận, truyền thông chính trị, và
tuyên truyền
y Hoạt động đảng phái: đảng và hệ thống đảng
y Bầu cử
y Tổ chức và nhóm lợi ích
y Hoạt động xã hội dân sự
y Phong trào xã hội
Chương I
THAY ĐỔI XÃ HỘI
Thay đổi xã hội 1
là sự biến đổi các thiết chế văn hóa và xã hội theo
thời gian. Nó thường là kết quả của nhiều nguyên nhân:
Công nghệ, khoa học kỹ thuật: Có những phát minh, sáng chế
đã làm thay đổi cả một nền văn hóa và xã hội. Ví dụ như kính
đeo
mắt, đồng hồ cơ giới, máy in...
“Sự sáng chế ra kính đeo mắt đã kéo dài hơn gấp đôi tuổi lao
động của những thợ thủ công lành nghề, đặc biệt là những người
làm những công việc tinh vi: những người chuyên việc sao chép
(có một vai trò quyết định trước khi phát minh ra máy in), và
những người đọc, những người thợ làm dụng cụ và công cụ, những
người thợ dệt chuyên dệt những hoa văn tỉ mỉ, những người
chuyên
chế tạo những sản phẩm tinh xảo bằng kim loại”.
“... Kính mắt khuyến khích sự phát minh những dụng cụ tinh
vi, thực sự đã đẩy châu Âu tiến theo một hướng mà người ta
không
thấy ở một nơi nào khác. Người Hồi giáo biết cái dụng cụ để
đo độ
cao của mặt trời và các vì sao khác, nhưng họ chỉ biết có thế.
Người
châu Âu tiếp tục phát minh ra những chiếc đồng hồ đo, những
thước trắc vi, những máy cắt bánh xe tinh vi – cả một hệ thống
công cụ gắn với đo lường và kiểm tra chính xác. Do đó, họ đã
đặt
cơ sở cho những máy móc có khớp nối được làm bằng nhiều bộ
1. “Society: Understanding the Basics”, John J. Macionis, 8th
edition, Prentice Hall.
198 | Phạm Đoan Trang
phận lắp vào nhau. Lao động tinh vi: Trong các nền văn minh
khác,
khi làm công việc này thì người ta làm bằng cách tập luyện
lâu dài
cho thành thói quen. Kỹ năng là ở đôi bàn tay, chứ không phải
ở đôi
mắt gắn liền với công cụ. Họ đã thực hiện được những kết quả
thật
là xuất sắc, nhưng không có cái nào giống cái nào; còn châu
Âu thì
đã chuyển theo hướng tái tạo bản sao – sản xuất hàng mẻ rồi
bán
hàng loạt. Hơn nữa, việc biết được chiếc thấu kính là một trường
hợp để tiến xa hơn nữa về quang học... Châu Âu đã được hưởng
đặc quyền về những thấu kính điều chỉnh trong vòng từ 3 đến
400
năm. Thực tế là những chiếc thấu kính đó đã làm tăng gấp đôi
lực
lượng lao động thủ công lành nghề, và còn hơn gấp đôi nếu người
ta tính cả giá trị của kinh nghiệm”. 1
Đồng hồ cát thì đẹp nhưng không bao giờ có thể chính xác tuyệt
đối và trở
thành công cụ để làm chuẩn chung được. Đồng hồ cơ giới đã làm
điều đó.
Mâu thuẫn, căng thẳng và xung đột: Karl Marx gọi đó là đấu
tranh giai cấp, xem nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của
xã
hội. Một thế kỷ sau Marx, người ta cho rằng nếu chỉ là “đấu
tranh
giai cấp” thì quá đơn sơ, đơn giản; đúng hơn thì phải nói:
Mâu
1. “The Wealth and Poverty of Nations: Why Some are So Rich
and Some So Poor”, David
S. Landes. Bản dịch tiếng Việt “Sự giàu và nghèo của các dân
tộc” của NXB Thống Kê.
Chính trị bình dân | 199
thuẫn xã hội nảy sinh từ sự bất bình đẳng (không chỉ trong vấn
đề
giai cấp mà cả bất bình đẳng sắc tộc và giới tính nữa) sẽ đưa
đến
thay đổi xã hội.
Tư duy, quan niệm: Theo Max Weber, nguồn gốc của nhiều
thay đổi xã hội chính là suy nghĩ, quan niệm. Ví dụ, những
người
có sự hấp dẫn, lôi cuốn như Martin Luther King có thể đưa ra
những thông điệp mà đôi khi làm thay đổi thế giới.
Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của tư duy bằng việc kể rằng
niềm tin tôn giáo ở thời kỳ đầu của đạo Tin Lành đã mở đường
như thế nào cho sự lan truyền, lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản
công nghiệp. Với ông, việc chủ nghĩa tư bản công nghiệp phát
triển
mạnh chủ yếu ở Tây Âu, nơi nền đạo đức Tin Lành rất phát triển,
là bằng chứng cho thấy tư duy có sức mạnh tạo ra sự thay đổi.
1
Nhân khẩu học: Thay đổi về dân số cũng có thể đưa đến thay
đổi xã hội. Ví dụ như việc tỷ lệ sinh gia tăng sau chiến
tranh, tốc độ
đô thị hóa nhanh hơn, việc đất nước bước vào thời kỳ dân số
vàng,
hay khi dân số già đi... tất cả đều có thể đưa đến thay đổi về
tâm lý
xã hội, văn hóa xã hội, thói quen tiêu dùng, v.v.
Biến động chính trị: Những dạng thay đổi xã hội xuất phát từ
các nguyên nhân nêu trên thì thường là không có kế hoạch,
không
được ai định liệu trước, và nói chung là không cá nhân hay tổ
chức
nào chủ ý tạo ra thay đổi. Nhưng biến động chính trị thì ngược
lại,
thường là kết quả của những nỗ lực thật sự, có chủ đích.
Con người nói chung thường tập hợp lại với nhau để hình thành
nên
những phong trào xã hội – một hoạt động có tổ chức nhằm khuyến
khích
hoặc chống lại sự thay đổi xã hội. Lịch sử nước Mỹ tràn ngập
các phong
trào xã hội, từ thời kỳ thực dân và chiến đấu để giành độc lập,
đến việc các
tổ chức ngày nay ủng hộ hay phản đối nạo thai, quyền của người
đồng
tính, và án tử hình.*
* “Society: Understanding the Basics”, John J. Macionis, 8th
edition, Prentice Hall.
1. Xem “Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản”,
Max Weber, bản dịch
của Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu
Quang, NXB Tri Thức, 2008.
200 | Phạm Đoan Trang
Bây giờ, với Phần V này, chúng ta sẽ tập trung vào những thay
đổi xã hội bắt nguồn từ biến động chính trị.
* * *
CÁCH MẠNG VÀ CHUYỂN HÓA
Ở Chương II, Phần II, các bạn đã biết khái niệm tính chính
danh,
đó là “niềm tin phổ biến của các thành viên trong một xã hội
rằng
quyền lực của chính quyền hay đảng cầm quyền là đúng, chính
đáng, hợp lý, hợp pháp, và vì thế dân chúng phải phục tùng”.
Khi nào niềm tin đó suy giảm, tức là tính chính danh của
chính
quyền sa sút. Khi nào tình trạng suy giảm niềm tin của người
dân
vào bộ máy quản lý, lãnh đạo và cả thể chế đến mức sâu sắc,
thì đó
là khi xảy ra khủng hoảng tính chính danh. Khi khủng hoảng
này
xuống tới đáy, thì chỉ có hai kịch bản: Hoặc là chính quyền
thẳng
tay khủng bố, đàn áp, tiêu diệt mọi sự phản kháng, biến đất
nước
thành nhà tù (chính quyền, tức phe chống lại sự thay đổi, thắng);
hoặc là hệ thống chính trị, đất nước, xã hội sẽ thay đổi (phe
cổ súy
thay đổi thắng).
Sự thay đổi cũng chỉ có một trong hai xu hướng: phát triển hoặc
suy thoái, tức là tốt lên hoặc xấu đi.
Và cho dù theo xu hướng nào, tốt lên hay xấu đi, thì sự thay
đổi
cũng chỉ diễn ra dưới một trong hai hình thức: cách mạng hoặc
chuyển hóa.
Cách mạng
Cách mạng trong chính trị là một cuộc nổi dậy của số đông, gắn
với những hành động tập thể của quần chúng.Có thể có bạo lực,
và
khả năng cao là có, tuy không nhất thiết. Cách mạng mang lại
một
sự thay đổi căn bản, hoàn toàn hệ thống chính trị chỉ trong một
thời
gian ngắn, cắt đứt với quá khứ (và thường là một cách bạo lực),
chứ
không phải chỉ thay đổi chính sách hay thay thế người cầm quyền.
Chính trị bình dân | 201
Các bạn lưu ý là đây chỉ là định nghĩa về cách mạng trong địa
hạt chính trị. Chúng ta cũng có cách mạng trong các lĩnh vực
khác
như khoa học kỹ thuật, công nghệ, nghệ thuật... Có thể định
nghĩa
chung rằng, cách mạng là một sự thay đổi toàn diện, tận gốc rễ,
trong một thời gian ngắn.
Bức tranh nổi tiếng về cuộc cách mạng tháng 7/1830 ở Pháp:
Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân. Tác giả: họa sĩ Eugène
Delacroix.
Những người theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội có xu
hướng ưa thích cách mạng vì nó quyết liệt và nhanh gọn. Người
theo chủ nghĩa bảo tồn thì không muốn cách mạng mà thích sự
chuyển hóa hơn.
Cũng cần phân biệt cách mạng với đảo chính và bạo động. Đảo
chính là việc một nhóm, mà thường là một phe cánh trong chính
quyền, hoặc công an, quân đội nổi dậy lật đổ, cướp chính quyền,
có
bạo lực, có vũ trang. Còn bạo động là một cuộc nổi dậy (khởi
nghĩa) của quần chúng, có bạo lực, có thể có vũ trang. Cả hai
hình
thức thay đổi này – đảo chính và bạo động – nếu thành công
thì
đều chỉ thay đổi chính sách hoặc thay thế nhà cầm quyền, chứ
không mang lại thay đổi căn bản như cách mạng. Cách mạng, về
bản chất, là phải đem đến sự thay đổi căn bản. Ta thường hay
nói
“một sự thay đổi mang tính cách mạng” là vì thế.
202 | Phạm Đoan Trang
Đảo chính và bạo động, nếu thất bại, thì đương nhiên hậu quả
sẽ là đàn áp và trừng phạt nhằm vào những người tiến hành.
Người tiến hành Tính chất Kết quả
Cách mạng Quần chúng
Có thể có
bạo lực.
Thay đổi đột ngột,
toàn diện thể chế.
Không thất bại. (Nếu
thất bại thì không
thay đổi được và
không gọi là cách
mạng).
Đảo chính Một phe trong
chính quyền Có bạo lực
Chỉ thay đổi chính
sách hoặc nhà cầm
quyền. Nếu thất bại
thì bị đàn áp.
Bạo động Quần chúng Có bạo lực
Chỉ thay đổi chính
sách hoặc nhà cầm
quyền. Nếu thất bại
thì bị đàn áp.
Chuyển hóa
Chuyển hóa trong chính trị là sự thay đổi có hình thức một cuộc
cải cách, diễn ra dần dần, thay đổi từng phần hệ thống chính
trị và
xã hội. Sự thay đổi ấy đi theo một quá trình liên tục, kèm với
việc
tái cơ cấu (tái cấu trúc) thể chế hay tổ chức, thay vì xóa bỏ
hay thay
thế luôn cả thể chế hay tổ chức.
Chuyển hóa là khái niệm được những người theo chủ nghĩa
bảo tồn ưa thích, do họ có xu hướng ủng hộ truyền thống, nêu
cao
tinh thần trách nhiệm, v.v. (xem Chương III, Phần IV). Lập luận
phổ biến nhất của những người bảo tồn, khi họ phản đối cách
mạng và ủng hộ chuyển hóa (họ hay dùng từ “cải cách” hoặc “đổi
mới”), là cách mạng tạo ra sự đứt gãy và đổ vỡ trong xã hội,
làm
thiệt hại cho người dân mà chẳng nhà cách mạng nào chịu trách
nhiệm hay bù đắp cho người dân được, trong khi với chuyển hóa
Chính trị bình dân | 203
thì sự thay đổi diễn ra một cách chậm rãi hơn, tránh được những
tổn thất quá sức chịu đựng của xã hội.
Khác biệt chủ yếu giữa cách mạng và chuyển hóa là: Cách mạng
là sự thay đổi đột ngột, căn bản, toàn diện, còn chuyển hóa
là sự
thay đổi chậm, từng phần.
Những kịch bản thay đổi ở Việt Nam theo hướng dân chủ hóa
Cách mạng
Biểu tình lớn và kéo dài (có thể kéo theo đình công, bãi
thị, bãi khóa trên diện rộng), có bạo lực và đổ máu, làm
tê liệt, đảo lộn đời sống thường nhật, tạo sức ép buộc
đảng Cộng sản cầm quyền phải nhượng bộ, đầu hàng.
Bạo động
Một bộ phận quần chúng ở một địa phương nào đó nổi
dậy chống chính quyền. Khởi nghĩa lan rộng, tạo sức ép
buộc chính quyền địa phương, rồi tới chính quyền trung
ương (của đảng Cộng sản) phải nhượng bộ, đầu hàng.
Đảo chính Một phe nhóm nào đó trong nội bộ đảng Cộng sản cầm
quyền nổi dậy lật đổ chính quyền.
Chuyển hóa
1
Chính quyền của
đảng Cộng sản tự
đổi mới, tự cải
cách (thay đổi từ
bên trong và từ
bên trên).
(*)
2
Một hoặc một số
đảng đối lập nổi
lên, đủ sức mạnh
thu hút quần
chúng và gây sức
ép buộc đảng
cầm quyền phải
nhượng bộ.
3
Xã hội dân sự
phát triển
mạnh, kéo
theo các
phong trào xã
hội rộng lớn,
đủ sức mạnh
gây sức ép
buộc đảng
cầm quyền
phải nhượng
bộ.
(*) Đề cập tới kịch bản “chính quyền của đảng Cộng sản tự đổi
mới” (hộp đánh số 1 ở trong bảng trên) để dân chủ hóa đất nước,
có nhiều ý kiến nói thêm đến các khả năng sau:
a) Đảng Cộng sản đồng ý tổ chức tổng tuyển cử, và tham gia
tranh cử một cách bình đẳng với các đảng phái khác. Người dân
204 | Phạm Đoan Trang
Việt Nam trong và ngoài nước được tự do bầu ra quốc hội mới,
đa
đảng và thực sự đại diện cho dân. Từ đó, sẽ có hiến pháp mới
và thể
chế mới theo hướng dân chủ, tự do. Đây là kịch bản tích cực
nhất.
b) Đảng Cộng sản tự chia nhỏ thành một số đảng theo đuổi các
đường lối (ý thức hệ) khác nhau, các đảng này cùng tham gia
tranh
cử vào quốc hội và thúc đẩy cải cách theo hướng dân chủ, tự
do.
Đây cũng là một kịch bản tích cực.
c) Đảng Cộng sản giả vờ thay đổi: tự đổi tên 1
, tự chia nhỏ thành
một vài đảng (nhưng thực chất vẫn là các tổ chức thuộc sở hữu
và
chịu sự quản lý của đảng), để diễn một màn kịch thay đổi ôn
hòa,
ví dụ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử trong đó đảng vẫn chi phối
tiến trình và kiểm soát kết quả, nên cuối cùng vẫn chiến thắng.
d) Đảng Cộng sản tự tổ chức lực lượng đối lập giả – gồm một
hoặc một vài đảng phái hoặc tổ chức thuộc sở hữu và chịu sự
quản
lý của đảng – để khi cần thì diễn màn kịch thay đổi ôn hòa.
Trong các kịch bản trên, (c) và (d) là hai kịch bản trong đó
đảng
Cộng sản chỉ diễn màn kịch thay đổi, kết quả sẽ là “bình mới
rượu
cũ”, tức là chỉ có hình thức bên ngoài thì có vẻ mới, còn nội
dung,
bản chất bên trong vẫn y như cũ, không có gì thay đổi. Do đó,
thiết
nghĩ cũng không nên xếp (c) và (d) vào bảng trên, danh sách
“những kịch bản thay đổi ở Việt Nam theo hướng dân chủ hóa”.
Trong các chương tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu các hoạt động
chính trị xoay quanh đảng phái và xã hội dân sự (hộp 2 và 3
trong
bảng trên). Trong đó, có một hoạt động mà đã làm chính trị
thì
không thể thiếu, và bản thân nó cũng là một hình thức hoạt động
chính trị mà chúng ta đã đề cập đến từ Phần I: làm truyền
thông.
1. Trong lịch sử hoạt động của mình, đảng Cộng sản Việt Nam từng
có thời gian tự đổi tên
để trá hình: Ngày 11/11/1945, đảng Cộng sản Đông Dương tuyên
bố tự giải tán, lấy tên
gọi mới là Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Mục
đích của việc làm này là
để che giấu sự liên hệ giữa những người cộng sản với nhà nước
mới thành lập.
Chương II
LÀM TRUYỀN THÔNG: CÔNG LUẬN, TRUYỀN THÔNG
CHÍNH TRỊ, VÀ TUYÊN TRUYỀN
Ở Chương II, Phần I, bạn đã được biết truyền thông, hiểu đơn
giản
là “truyền tải thông tin”, là việc một cá nhân/tổ chức truyền
tải
thông tin (dưới các hình thức ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh,
tín
hiệu) cho một/các cá nhân/tổ chức khác biết. Còn truyền thông
đại
chúng là truyền tải thông tin đến một lượng lớn khán/thính/độc
giả nhưng không tiếp xúc trực tiếp với họ.
Truyền thông đóng một vai trò khổng lồ trong thúc đẩy thay đổi
xã hội: Tất cả các cuộc cách mạng chính trị đều có truyền
thông
chiếm đến một nửa vai trò, và có lẽ còn hơn thế nữa, trong thời
đại
Internet ngày nay.
Trong mọi mâu thuẫn, xung đột xã hội, phe nào nắm được
truyền thông, khả năng phe đó thắng sẽ cao hơn, và ngược lại.
Ngay cả trong đời sống thường nhật của xã hội, truyền thông
vẫn đóng vai trò quan trọng sống còn đối với chính quyền. Sự
thực
là những gì chúng ta hiểu về chính trị, chính sách công...
không
phải đến từ các chính trị gia, mà từ những gì chúng ta nghe,
xem
hay đọc được trên báo, đài, Internet... Chế độ dân chủ đương
nhiên cần truyền thông để thực hiện nghĩa vụ minh bạch trước
người dân. Nhưng bạn tin không, chế độ độc tài cũng cần truyền
thông không kém, để mị dân, tỏ ra dân chủ, nhằm củng cố tính
chính danh (tức niềm tin của dân chúng).
206 | Phạm Đoan Trang
Có thể nói không quá rằng truyền thông nằm ở trung tâm của hoạt
động chính trị, nó gắn chặt với tất cả các hoạt động chính trị
khác.
* * *
CÔNG LUẬN
Nói tới truyền thông đại chúng thì phải nói tới đối tượng mà
nó
hướng tới: đại chúng. Và nói tới truyền thông chính trị thì
phải nói
tới đối tượng mà nó vừa tác động, định hướng, lại vừa chịu
tác
động ngược lại: công luận. Truyền thông đóng vai trò khổng lồ,
trung tâm của hoạt động chính trị trong cả xã hội dân chủ
cũng
như độc tài, thì công luận cũng vậy, cũng quan trọng cả dưới
chế
độ dân chủ lẫn độc tài.
Nhà khoa học chính trị Mỹ Valdimer Orlando Key viết trong
cuốn sách nổi tiếng của ông năm 1961, “Public Opinion and
American Democracy” (Công luận và nền dân chủ Mỹ), như sau:
“Các chính quyền luôn quan tâm đến ý kiến của công dân, cho
dù chỉ để có cớ trấn áp nỗi bất mãn. Sự tò mò, lo lắng dai dẳng
của
kẻ cai trị về việc người bị trị nói gì về chúng và hành động
của
chúng, luôn còn ghi trong lịch sử của ngành mật vụ. Các biện
pháp
để thỏa mãn sự tò mò đó thông qua điều tra ý kiến công luận mới
chỉ là một khía cạnh của khủng bố và trấn áp về chính trị;
chúng
còn có thể mở đường cho những chính sách khủng bố và trấn áp
được tính toán để biến sự bất mãn thành sự phục tùng vui vẻ.
Ngay cả trong những chế độ ít dân chủ nhất, ý kiến công luận
vẫn có thể ảnh hưởng đến đường lối hoặc tiến độ của chính
sách.
Cho dù một chính quyền nào đó có thể đứng vững nhờ ách độc
tài,
nhưng để trụ được lâu, nó cũng cần có sự ủng hộ hào phóng của
một số lượng đáng kể người dân”. 1
1. “Governing: An Introduction to Political Science” (Sđd.),
Austin Ranney dẫn lại của V. O.
Key.
Chính trị bình dân | 207
Cho nên chúng ta cần bỏ một quan niệm sai lầm là chỉ có chính
quyền dân chủ mới cần biết đến công luận, còn độc tài thì
luôn bỏ
ngoài tai mọi ý kiến của dân. Thực tế là ở chế độ nào, chính
quyền
cũng cần hiểu và nắm được công luận.
Một biểu hiện của tâm lý thù ghét và chống Nhật Bản điên cuồng
tại Trung Quốc.
Công luận là gì? Valdimer Orlando Key định nghĩa: “Công luận
bao gồm tất cả những ý kiến, quan điểm của các cá nhân, mà
chính
quyền cho rằng cần phải lưu tâm đến”. Nói cách khác, công luận
là
tổng hợp tất cả các quan điểm cá nhân về một vấn đề nào đó,
mà
chính quyền nhận thức được và cân nhắc đến trong quá trình ra
quyết định, hoạch định chính sách. 1
Có nghĩa là, nếu không được
chính quyền biết tới và cân nhắc, thì những quan điểm cá nhân
đó
không tạo thành công luận.
Cũng cần lưu ý rằng, công luận là một khái niệm rất linh hoạt,
co giãn:
- Không phải tất cả các thành viên của cộng đồng đều quan tâm
đến tất cả các vấn đề của cộng đồng.
1. Austin Ranney dẫn lại của V. O. Key.
208 | Phạm Đoan Trang
- Mọi vấn đề đều có thể gây ra những quan điểm khác nhau, bao
gồm cả việc chẳng có quan điểm gì. Cho nên, trong các cuộc khảo
sát, thăm dò dư luận, thường có phương án trả lời: “Không biết”,
hoặc “Không quan tâm”.
- Bản thân quan điểm, lập trường cũng là thứ có thể thay đổi
liên tục. Do đó, công luận có thể thay đổi, trước thế này sau
thế
khác, không nhất quán.
- Đồng thời với tính linh hoạt, hay thay đổi, công luận lại
cũng
rất bảo thủ. Nói đúng hơn, trong các vấn đề chính sách, công
luận
có thể dễ dàng thay đổi nếu tác động của truyền thông chính
trị đủ
lớn; nhưng liên quan đến tư tưởng, ý thức hệ, thì công luận rất
khó
thay đổi. Đa số thường chậm tiến về tư tưởng, khó chấp nhận
cái
mới. Các quan niệm cũ kỹ, lạc hậu, khổ nỗi luôn chiếm đa số,
ý
tưởng mới bao giờ cũng là của thiểu số.
Nói đến công luận đối với một vấn đề nào đó, ta cần quan tâm
đến các khía cạnh: 1. Thái độ, lập trường (quan tâm và cho đó
là
việc quan trọng, hay thờ ơ, coi nhẹ? Nếu quan tâm thì ủng hộ,
phản
đối, hay ba phải?); 2. Mức độ, cường độ, tức là sức mạnh của
quan
điểm (quan tâm ở mức độ mạnh hay yếu, quyết liệt hay vừa phải?);
3. Tính ổn định (quan điểm có dễ thay đổi theo thời gian
không?).
Tất nhiên là cả ba khía cạnh này đều quan trọng như nhau.
Quan sát và nghiên cứu về công luận trong những xã hội dân
chủ tự do như Mỹ và châu Âu, các chuyên gia rút ra một kết luận
thú vị: Rất nhiều khi, các nhóm nhỏ nhưng quyết liệt, mạnh mẽ,
lại
chiến thắng các nhóm đối thủ tuy lớn nhưng thờ ơ, không đủ
quyết
liệt. Người Mỹ có một câu nổi tiếng: “Đôi khi, những kẻ thất
bại
kêu gào to hơn người chiến thắng ca hát”. 1
Điều này nói lên tầm
quan trọng của khía cạnh số 2, “cường độ”. Chính trị gia và
quan
chức không chỉ cần biết dân chúng nghĩ gì, thích gì, ghét gì
(khía
cạnh 1), mà còn cần phải biết họ thích hay ghét mạnh mẽ đến
đâu
(khía cạnh 2).
1. Nguyên văn tiếng Anh: “Sometimes, the losers cry more
loudly than the winners sing”.
Chính trị bình dân | 209
Tổng thống Mỹ Barack Obama tiếp xúc trực tiếp với dân.
Và cũng không chỉ chính trị gia và quan chức cần nắm bắt được
công luận, mà cả những người hoạt động chính trị dưới các
hình
thức vận động, tham gia phong trào xã hội, làm truyền
thông...
cũng bắt buộc phải hiểu tầm quan trọng của công luận và ba
khía
cạnh của nó. Chúng ta lấy một ví dụ:
Giả sử Việt Nam tổ chức bầu cử với hai đảng cạnh tranh là Cộng
sản và Cộng hòa.
Nếu 60% dân số ủng hộ Cộng sản, 40% ủng hộ Cộng hòa, và tất
cả đều nhiệt tình bỏ phiếu, thì kết quả là đảng Cộng sản thắng
3:2.
Nếu 60% dân số ủng hộ đảng Cộng sản, 40% ủng hộ Cộng hòa,
nhưng chỉ một nửa số cử tri ủng hộ đảng Cộng sản bỏ phiếu, số
còn lại thờ ơ, trong khi tất cả “fan” của Cộng hòa đều nhiệt
tình đi
bầu: Cộng hòa thắng 4:3.
Được công luận yêu thích, ủng hộ không chưa đủ, mà còn phải
được họ yêu thích và ủng hộ một cách mạnh mẽ, thực chất nữa.
Và
bạn hãy nhớ đến cái thực tế mà lịch sử đã ghi nhận: Trong vận
động chính sách, nhóm nhỏ nhưng tranh đấu quyết liệt, mạnh mẽ,
có thể chiến thắng các nhóm đối thủ tuy lớn nhưng thờ ơ,
không
đủ quan tâm.
210 | Phạm Đoan Trang
Làm thế nào để “đo” công luận?
Thông qua lá phiếu của cử tri;
Thông qua các tổ chức xã hội dân sự;
Thông qua tiếp xúc trực tiếp với người dân;
Thông qua các cuộc khảo sát, thăm dò ý kiến, điều tra xã hội
học;
Thông qua báo chí (báo, tạp chí, truyền hình, phát thanh, báo
điện tử, họa
báo, báo ảnh);
Thông qua mạng xã hội (blog, facebook, twitter...)
v.v.
Chắc hẳn còn rất nhiều cách, điều quan trọng là ta có sẵn
sàng tìm hiểu
không mà thôi.
Từ khi cầm quyền, đảng Cộng sản Việt Nam, tuy cũng rất quan
tâm và
muốn nắm được công luận (cũng giống như mọi chính quyền khác
trên
thế giới), nhưng họ có tâm lý chỉ chấp nhận những điều họ
thích nghe,
những sự thật có lợi cho họ. Từ đó, nảy sinh một hệ thống báo
chí-tuyên
truyền và một đội ngũ tham mưu chỉ có nhiệm vụ “minh họa đường
lối”,
tức là làm sao để thiết kế nên những “sự thật” vừa ý đảng. Phản
biện xã
hội bị bóp nghẹt, bất đồng chính kiến bị tiêu diệt.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ TẠO RA VÀ/HOẶC ĐỊNH HƯỚNG CÔNG LUẬN?
Có hai cách chính để tạo ra và/hoặc định hướng công luận, là
sử
dụng truyền thông và giáo dục.
Xin nhắc lại: Truyền thông, hiểu đơn giản là “truyền tải
thông
tin”, là việc một cá nhân/tổ chức truyền tải thông tin (dưới
các hình
thức ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh, tín hiệu) cho một/các cá
nhân/
tổ chức khác biết. Còn truyền thông đại chúng là truyền tải
thông
tin đến một lượng lớn khán/thính/độc giả nhưng không tiếp xúc
trực tiếp với họ.
Như vậy, truyền thông có rất nhiều hình thức. Âm nhạc, sân
khấu, điện ảnh cũng là truyền thông. Tuy nhiên, một cách cụ
thể
hơn, khi nói tới việc sử dụng truyền thông để tạo ra và/hoặc
định
hướng công luận, bạn đừng quên: vận động trực tiếp, báo chí,
xuất bản, quảng cáo, và tuyên truyền. Chúng ta sẽ nói nhiều
hơn
về truyền thông với mục đích này, ở phần sau, về truyền thông
chính trị.
Chính trị bình dân | 211
Bên cạnh truyền thông, cũng có thể thông qua giáo dục để tạo
ra
và/hoặc định hướng công luận. Đảng Cộng sản Việt Nam có “sáng
kiến” kết hợp tuyên truyền và giáo dục thành “tuyên giáo”, và
đó là
một nghề ở Việt Nam dưới chế độ cộng sản.
* * *
TRUYỀN THÔNG CHÍNH TRỊ
Đến đây, khi đã biết được tầm quan trọng của công luận, chúng
ta sẽ bàn về truyền thông chính trị, một khái niệm rộng hơn
tuyên
truyền.
Truyền thông chính trị chỉ đơn giản là truyền thông trong
lĩnh
vực chính trị, truyền thông nhằm mục đích chính trị. Bây giờ
chúng ta sẽ phân tích sâu hơn về các thành tố của truyền
thông
chính trị.
1. Người truyền tải thông tin (người truyền thông)
Trong truyền thông chính trị, người truyền thông là bất kỳ
người
hoặc nhóm nào hành động để gây ảnh hưởng đến chính sách. Chủ
thể này bao gồm: chính trị gia (chính khách), đảng phái, các
nhóm,
hội, tổ chức, các cơ quan nhà nước.
2. Thông điệp chính trị
Có thể được truyền tải dưới dạng ngôn ngữ, biểu tượng, hình ảnh,
cử chỉ, v.v. thông qua đó người làm truyền thông truyền tải một
ý
nào đó đến đối tượng mục tiêu. Ví dụ như “Độc lập dân tộc” và
“Ruộng đất dân cày” là thông điệp chính trị của Việt Minh đến
đối
tượng làm cách mạng tiềm năng (chủ yếu là nông dân) trong
giai
đoạn Việt Minh xây dựng lực lượng, những năm 1930-1931.
3. Phương tiện truyền tải thông tin
Có vô cùng nhiều cách truyền tải thông tin. Tìm ra một, một số,
hoặc càng nhiều càng tốt phương tiện để truyền tải thông điệp
212 | Phạm Đoan Trang
chính trị, là việc người truyền thông phải nghĩ ra và nỗ lực
thực
hiện. Có một số phương tiện phổ biến như:
- Báo chí (báo, tạp chí, truyền hình, phát thanh, báo điện tử,
họa
báo, báo ảnh);
- Xuất bản (tài liệu, sách, tờ rơi, ấn phẩm các loại);
- Truyền thông Internet: mạng xã hội, blog...;
- Các hình thức quảng cáo;
- Loa phóng thanh (kể cả loa phường, loa xã);
- Email (thường là spam);
- Hội thảo, hội nghị, tập huấn;
- Biểu tình;
- Cờ, biểu ngữ, bảng hiệu, bảng thông báo... (có thể nằm
trong
hoạt động biểu tình hoặc tách riêng);
- Gạch đá, cà chua, trứng thối... (có thể nằm trong hoạt động
biểu tình hoặc tách riêng);
- Trò chuyện trực tiếp; và bạn đừng quên một cách quan trọng
dưới đây:
- Rò rỉ thông tin.
Trong lịch sử thế giới và chắc chắn là cả Việt Nam, rất nhiều
thông điệp chính trị đã được tung ra bằng con đường bí mật
truyền
miệng, rò rỉ một cách cố ý. (Tất nhiên là cố ý rồi, bởi đã gọi
là truyền
thông thì phải là hoạt động có chủ ý chứ không phải vô tâm, lỡ
miệng). Người truyền thông chủ ý rò rỉ thông tin đó đến phóng
viên, nhà báo, và trong thời của mạng xã hội thì họ rỉ tai
các blogger,
facebooker nổi tiếng, có ảnh hưởng tới cộng đồng.
Trong lịch sử Việt Nam, từng có một phương tiện truyền tải
thông điệp
chính trị rất độc đáo. Đó là trong trường hợp trong kháng chiến
chống
quân Minh, Nguyễn Trãi cho người phết mật ong lên lá cây với
dòng chữ
“Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi là vua, Nguyễn
Trãi là bề
tôi). Kiến ăn mật dọc theo dòng chữ này trên lá, và khi lá
khô cuốn theo
dòng nước về xuôi, dân chúng bắt được sẽ tin rằng phong trào
Lam Sơn
được Trời ủng hộ, Lê Lợi trước sau gì cũng thành vua vì đó là
ý Trời.
Chính trị bình dân | 213
4. Người tiếp nhận
Đó là bất kỳ ai biết tới thông tin, thông điệp từ người làm
truyền
thông chính trị. Việc tiếp nhận có thể là trực tiếp hoặc gián
tiếp,
song khả năng bị ảnh hưởng tới đâu là phụ thuộc vào:
- Kiến thức, trình độ;
- Mức độ quan tâm;
- Văn hóa chính trị.
5. Phản ứng
Truyền thông chính trị có thể:
- Tạo ra hoặc làm tăng thêm sự hài lòng, ủng hộ;
- Tạo ra hoặc làm tăng thêm sự thù địch, bất mãn; hoặc
- Chẳng tạo ra phản ứng gì ở người tiếp nhận.
Trường hợp thứ ba được coi là thất bại. Trường hợp một và hai
được coi là thành công, tùy theo mục đích của người truyền
thông
là gì và có đạt được không. Cụ thể hơn, truyền thông chính trị
thành công nếu nó tạo ra được ở người tiếp nhận những phản ứng
sau đây:
- Bắt đầu nghĩ tới vấn đề: Trước kia người ta chưa từng nghĩ
tới
vấn đề, bây giờ thì bắt đầu nghĩ.
- Thay đổi: Trước kia người ta nghĩ khác, bây giờ đã thay đổi.
- Củng cố: Trước kia người ta chưa ủng hộ hay phản đối mạnh,
bây giờ ủng hộ hay phản đối mạnh.
- Hành động: Trước kia người ta chẳng làm gì, bây giờ người
ta
chủ động làm điều gì đó.
Truyền thông chính trị là một lĩnh vực rộng lớn trong chính
trị.
Và khi nói tới truyền thông chính trị, chúng ta không thể
không
bàn tới một mảng của nó – vốn được coi như “tà đạo” vì gắn chặt
với ngụy biện, dối trá và lợi dụng đối tượng tiếp nhận: tuyên
truyền.
214 | Phạm Đoan Trang
* * *
TUYÊN TRUYỀN
Tuyên truyền là việc đưa ra những thông tin có chọn lọc, có nội
dung thiên vị, không công bằng, sai lệch, bóp méo để tác động
tới
một đối tượng nào đó, nhằm phát tán và/hoặc đẩy mạnh một quan
điểm chính trị nào đó. Tuyên truyền cũng là một hình thức
truyền
thông, một nhánh của truyền thông chính trị.
Về từ nguyên, tuyên truyền tiếng Anh là propaganda, một từ có
gốc Latin. Khái niệm này khởi thủy xuất phát từ nhà thờ Công
giáo
ở Rome vào năm 1622 và chỉ mang nghĩa trung tính là truyền
giáo.
Tuy nhiên từ những năm 1790 (thập niên cuối cùng của thế kỷ
18),
nó bắt đầu được thế tục hóa, và từ giữa thế kỷ 19 thì được sử
dụng
trong chính trị và mang nghĩa tiêu cực.
Sở dĩ bị coi là tiêu cực, bởi người làm tuyên truyền sử dụng
những thông tin thiên vị, không công bằng, thậm chí sai lệch,
méo
mó, hoặc trình bày thông tin một cách có chọn lọc (ví dụ: chỉ
kể
những gì tích cực, xóa bỏ thông tin tiêu cực), hoặc truyền đạt
làm
sao để kích động cảm xúc thay vì khuyến khích người ta suy
nghĩ
có lý trí. Mục đích của tuyên truyền luôn là để nhào nặn công
chúng (đối tượng của tuyên truyền) và tận dụng, lợi dụng họ
cho
các tư lợi chính trị.
Đó là những việc không lương thiện.
Chiến tranh Lạnh đã hết, Liên Xô và khối Đông Âu cộng sản –
những xứ sở vàng của tuyên truyền – đã sụp đổ, nhưng từ
“propaganda” ngày nay vẫn giữ nghĩa xấu, tiêu cực. Có lẽ vì
thế mà
sau nhiều năm dùng nhầm tên, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
ở Việt Nam đã phải sửa tên tiếng Anh của họ từ “Academy of
Journalism and Propaganda” thành “Academy of Journalism and
Communication”, báo chí và truyền thông.
Chính trị bình dân | 215
Phương tiện tuyên truyền: Có một số phương tiện trùng với
các phương tiện truyền thông chính trị, ví dụ:
- Báo chí (báo, tạp chí, truyền hình, phát thanh, báo điện tử,
họa
báo, báo ảnh);
- Xuất bản (tài liệu, sách, tờ rơi, ấn phẩm các loại);
- Truyền thông Internet: mạng xã hội, blog...;
- Loa phóng thanh (kể cả loa phường, loa xã);
- Tuần hành, mít tinh;
- Cờ, biểu ngữ, bảng hiệu, bảng thông báo... (có thể nằm
trong
hoạt động tuần hành, mít tinh, hoặc tách riêng).
Nhưng tuyên truyền còn sử dụng cả nhiều phương tiện tinh vi
hơn rất nhiều:
- Dùng người, nhất là người đẹp, người nổi tiếng;
- Dùng vật, đồ vật (tượng, phù điêu, huy hiệu);
- Dùng hình ảnh (nhiếp ảnh, các thể loại phim);
- Dùng hội họa (tranh, bích họa, tem...);
- Dùng âm nhạc;
- v.v.
Kỹ thuật tuyên truyền: Bản chất của tuyên truyền là tung tin
có
chọn lọc, sai lệch, bóp méo, cho nên về kỹ thuật, nó buộc phải
gắn
với dối trá và ngụy biện. Có rất nhiều kỹ thuật, hay là thủ
đoạn
tuyên truyền, ví dụ như: sử dụng những hình ảnh, những biểu
tượng, hoặc từ ngữ gây cảm xúc; bóp méo có chọn lọc; đánh lạc
hướng (đánh tráo chủ đề); tung tin đồn; nói dối trắng trợn,
v.v.
(Xem phần Phụ lục để biết các kỹ thuật tuyên truyền căn bản).
Ngoài ra, điều rõ ràng là hiệu quả của tuyên truyền không chỉ
phụ thuộc vào kỹ thuật tuyên truyền mà còn vào diện phủ sóng
của
phương tiện truyền thông đại chúng được sử dụng vào tuyên
truyền. Một thực tế hiển nhiên là cá nhân hay tổ chức nào
càng
nắm được nhiều kênh truyền thông thì càng dễ tuyên truyền
hơn.
216 | Phạm Đoan Trang
Đó là lý do khiến cuộc chiến truyền thông của những người
ủng hộ dân chủ - nhân quyền ở Việt Nam với đảng Cộng sản trở
nên không cân sức, phần thắng rất nhiều khi thuộc về đảng Cộng
sản. Bởi đảng này sở hữu và kiểm soát toàn bộ hệ thống phương
tiện truyền thông đại chúng (gồm hàng nghìn cơ quan báo đài,
trong đó riêng VTV đã có thể phủ sóng tới tận quần đảo Trường
Sa, Hoàng Sa), trong khi “lề trái” chỉ mạnh ở facebook và
blog.
Kiểm soát và định hướng báo chí ở chế độ độc tài
Kiểm duyệt kỹ thông tin và lập luận trước khi công bố ra cho
giới truyền
thông.
Kiểm soát các nguồn tin để đảm bảo là chỉ “quan điểm chính thức”,
“quan
điểm chính thống” mới được công bố và có giá trị. Ví dụ như ở
Việt Nam
dưới thời cộng sản, công an cũng như rất nhiều người dân đều
quan
niệm rằng chỉ có thông tin do “báo đài nhà nước” đưa là đáng
tin cậy,
còn tin tức lấy trên mạng Internet là vô giá trị, không đáng
tin.
Bí mật tung tin từ nguồn ẩn danh, rò rỉ thông tin. Một trong
các ví dụ
kinh điển ở nước Việt Nam cộng sản là trang Chân Dung Quyền Lực,
ra
đời tháng 12/2014. Ngày 15/1/2015, tròn một tháng xuất hiện,
trang này
đạt 24 triệu lượt truy cập.
Chỉ cung cấp thông tin cho các cơ quan truyền thông thân tín
và ủng hộ
mình. Ở Việt Nam thời cộng sản, tất cả các tờ báo chính trị-xã
hội đều
nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của đảng Cộng sản, nhưng trong
đó có 6
cơ quan báo chí được ưu đãi đặc biệt: Thông tấn xã Việt Nam,
Đài Truyền
hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, báo Nhân Dân, báo Quân
đội
Nhân dân, báo Công an Nhân dân. Có nhiều sự kiện của “Đảng và
Nhà
nước”, chỉ những cơ quan báo chí này mới được tham dự.
Cung cấp thông tin thật trễ, sát nút, để khiến báo chí không
còn đủ thời
gian kiểm chứng, phe đối lập không kịp phân tích phản biện.
Tung tin khác (ví dụ tin xấu...) vào lúc các sự kiện quan trọng
đang chiếm
sóng trên truyền thông. Ví dụ: Những người thạo tin ở Việt
Nam nhận
thấy rằng cứ mỗi lần dư luận xôn sao về một vụ việc xã hội
nào đó thì
giới showbiz lại có chuyện gây chú ý, chẳng hạn như người mẫu,
“nữ
hoàng đồ lót” Ngọc Trinh lên báo với câu nói nổi tiếng “Yêu
mà không
có tiền thì cạp đất mà ăn à?” đúng lúc vừa nổ ra vụ cưỡng chế
đất đai đầy
tai tiếng ở Văn Giang (Hưng Yên).
Chính trị bình dân | 217
Về sau, chuyện giới showbiz với những “sao lộ hàng”, “hot
girl lộ vòng 1
khủng”... bão hoà, không thu hút được đông đảo tầng lớp độc
giả, khán
giả nữa (dù có thể vẫn thu hút được đáng kể “bạn đọc tuổi
teen”), tuyên
giáo Việt Nam bắt đầu khéo léo hướng báo chí chuyển sang các
đề tài
khác, sử dụng những nhân vật khác ngoài giới showbiz, gồm cả
những
quan chức, cán bộ cấp thấp, cho ra những phát ngôn ngớ ngẩn
và những
chính sách quái đản, để dư luận ồn ào lên chửi bới, công kích
mà quên
mất những vấn đề thời sự chính trị nóng bỏng và đáng quan tâm
hơn
thế nhiều. Ta có thể lấy ví dụ như vụ tháng 3/2017, Cục Nghệ
thuật Biểu
diễn đột nhiên đưa ca khúc “Con đường xưa em đi” vào danh
sách nhạc
phẩm cấm lưu hành (vốn dĩ nó đã bị cấm từ lâu trước đó). Hay
chuyện
cuối năm 2017, Giáo sư Bùi Hiền công bố bảng chữ cái tiếng Việt
cải
cách – kết quả một công trình nghiên cứu kéo dài 20 năm của
ông ta.
Giới hạn của tuyên truyền: Mặc dù tuyên truyền là một lĩnh
vực truyền thông đầy thủ đoạn và rất có ảnh hưởng, nhưng sức
mạnh của nó không phải là vô hạn. Tuyên truyền sẽ bị hạn chế
bởi
các yếu tố sau:
1. Luật pháp: Nếu là một xã hội dân chủ với nền luật pháp
công
bằng, thì luật pháp sẽ bảo vệ nhân quyền, trong đó có quyền của
người dân không bị bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
2. Dân trí: Người dân càng có tư duy phản biện và tinh thần
duy
lý (trọng lý lẽ, lý trí hơn trọng tình) thì càng khó bị dẫn dụ,
dắt mũi,
định hướng.
Các nhà nghiên cứu đã công bố một điều thú vị là người ít đọc
sách dễ bị tuyên truyền hơn người đọc nhiều sách; người không
có
quan điểm hoặc quan điểm không mạnh sẽ dễ bị tuyên truyền hơn
người đã có sẵn quan điểm.
3. Những định kiến, quan niệm ăn sâu: Tuyên truyền rất khó
thay đổi những định kiến, những quan niệm đã bắt rễ quá sâu
trong xã hội. Ví dụ như chúng ta không thể tuyên truyền để
toàn
thể xã hội nghĩ rằng người ốm hạnh phúc hơn người khỏe.
Thông thường, tuyên truyền về các vấn đề vốn bị người dân coi
là
không quan trọng lắm, thì sẽ hiệu quả hơn tuyên truyền về các
vấn
đề được coi là quan trọng. Vấn đề người dân càng ít quan tâm,
ít biết,
218 | Phạm Đoan Trang
thì càng dễ tuyên truyền. Chẳng hạn, nếu phần đông dân chúng
vốn
không để ý tới việc hút thuốc lá nơi công cộng, thì tuyên
truyền về
luật chống thuốc lá có khả năng cao là thành công, mà biểu hiện
là
không ai phản đối và luật sẽ được thông qua nhanh chóng.
Đến đây, hẳn bạn đã thấy: Tuyên truyền là một mảng của truyền
thông chính trị, và nó là một thứ “tà đạo” của truyền thông
chính
trị. Còn truyền thông là một loại hoạt động không thể thiếu
trong
chính trị; hoạt động chính trị nào cũng phải gắn chặt với nó,
dù là
cách mạng hay chuyển hóa, dù là đảng phái hay xã hội dân sự.
Ở Chương III, chúng ta sẽ tiếp tục với hai lĩnh vực hoạt động
chính trị cực kỳ có ảnh hưởng và mang tính “chính trị” cao độ:
hoạt
động đảng phái và xã hội dân sự.
29/8/2018
Phạm Đoan Trang
Theo https://luatkhoa.com/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét