Thứ Năm, 11 tháng 12, 2025

Chính trị bình dân 2 XXXXX

Chính trị bình dân 2

Tất nhiên, không phải ai cũng tán đồng việc dành ưu tiên cho

thiểu số thiệt thòi, vì thế vấn đề này vẫn có thể gây tranh cãi và chia

rẽ. Khi đó, hoặc khi vị đại diện của nhóm thiểu số kia cũng quá yếu

kém về năng lực để có thể bảo vệ quyền lợi của nhóm mình, có thể

tạo một cơ chế để ông/bà ta không tham gia tiến trình ra quyết

định nữa, nhưng vẫn được tham vấn đầy đủ và thậm chí giữ vai trò

cố vấn. Như đã nói, điều quan trọng để thực thi dân chủ là làm sao

để, dù đa số thắng thiểu số, nhưng tất cả các nhóm thiểu số đều có

đại diện do họ bầu ra, đều có tiếng nói, và được bảo vệ thích hợp.

 

Chương III

 

BỐN CỘT TRỤ CỦA DÂN CHỦ

 

Đến đây chúng ta đã nắm được định nghĩa dân chủ, hay là đã

thống nhất với nhau về cách hiểu thế nào là một nền dân chủ. Về

căn bản, đó là một hình thức tổ chức chính quyền hay một hệ

thống quản trị đất nước thoả mãn những nguyên tắc nhất định –

kể ra cũng khá nhiều nguyên tắc. Bạn thử tính sơ sơ xem: đa đảng,

bầu cử tự do và công bằng, tư pháp độc lập, truyền thông tự do,

quốc gia có chủ quyền bền vững, mọi công dân đều bình đẳng về

quyền chính trị...

Dài dòng quá chăng? Do đó, bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu một

cách cụ thể, chi tiết hơn, về những nguyên tắc chính mà một hình

thức tổ chức chính quyền hay quản trị nào đó phải đạt được để có

thể được gọi là “dân chủ”. Tính ra thì nhiều nhưng một cách cô

đọng, ngắn gọn nhất thì chỉ có hai nguyên tắc chính phải bảo đảm:

1. Toàn dân kiểm soát chính quyền một cách thường xuyên,

liên tục;

2. Mọi công dân đều bình đẳng về quyền chính trị.

Bạn có thể tự đặt câu hỏi và tự trả lời luôn:

- Hỏi: Một xã hội, muốn toàn dân kiểm soát chính quyền một

cách thường xuyên, liên tục, và mọi công dân đều bình đẳng về quyền

chính trị, thì phải làm thế nào, phải xây dựng, bảo vệ và phát triển

những cơ chế gì?

 

108 | Phạm Đoan Trang

- Đáp: Tất nhiên là sẽ cần đa nguyên, đa đảng, bầu cử tự do và

công bằng...

- Hỏi: Thế muốn có đa nguyên, đa đảng, bầu cử tự do và công

bằng thì phải làm sao?

- Đáp: Tất nhiên là cần phi chính trị hoá giáo dục, báo chí tự do

(để có đa nguyên), bảo đảm quyền tự do hiệp hội, tự do tụ tập, tự

do ngôn luận, tự do biểu đạt (để có đa đảng và đa nguyên). Rồi thì

cần nhà nước pháp trị, tư pháp độc lập để mọi công dân đều bình

đẳng trước pháp luật...

Tóm lại, từ hai nguyên tắc căn bản trên đây, ta sẽ đi tới nhiều

nguyên tắc nhỏ hơn để thực hiện dân chủ, giống như đi từ hai gốc

đại thụ lớn để đến các cành, các nhánh cây vậy.

Nhân bàn chuyện dân chủ, chúng ta cũng nên tìm hiểu thêm về

một “thuật ngữ” chính trị có vẻ gần với dân chủ và vẫn thường

được hiểu theo cách đánh đồng với dân chủ, đó là tự do.

SỰ KHÁC NHAU GIỮA DÂN CHỦ VÀ TỰ DO

Để hiểu rõ về tự do như một khái niệm triết học quan trọng, mời

bạn xem kỹ phần “tự do” trong Chương II, “Chủ nghĩa tự do”, của

Phần IV, “Các chủ nghĩa”. Ở đây, nói đúng hơn là chúng ta sẽ chỉ

tìm hiểu sự khác nhau giữa xã hội dân chủ và xã hội tự do.

Dân chủ, như Philippe C. Schmitter và Terry Lynn Karl định

nghĩa, là “một hệ thống quản trị đất nước, trong đó, nhà cầm quyền

phải chịu trách nhiệm – về tất cả các hoạt động của họ thuộc địa

hạt công cộng – trước công dân, và công dân thực thi điều đó một

cách gián tiếp thông qua, hay là nhờ có sự cạnh tranh và hợp tác

giữa những người đại diện cho họ, do họ bầu ra”.

Còn tự do (bạn sẽ tìm hiểu kỹ ở Phần IV), có thể được hiểu sơ

sơ là việc một cá nhân thoát khỏi quyền lực, sự cưỡng ép, của kẻ

khác. Trong quan hệ với một xã hội hay một nhà nước, tự do được

hiểu là việc cá nhân thoát khỏi quyền lực tùy tiện (và thường là tàn

bạo) của nhà nước hoặc của những nhóm lợi ích lớn mạnh khủng

khiếp, mafia, khủng bố.

 

Chính trị bình dân | 109

Bạn có thể thấy định nghĩa dân chủ trên đây của Philippe C.

Schmitter và Terry Lynn Karl, cũng như định nghĩa của Austin

Ranney, không có từ “tự do” nào. Hay nói cách khác, hai khái niệm

dân chủ và tự do không đồng nhất.

Trên thế giới, không thiếu gì ví dụ về những nền dân chủ thiếu

tự do, chẳng hạn Ấn Độ – nơi có chế độ đa đảng, bầu cử thường

xuyên, báo chí độc lập – nhưng xã hội phân chia đẳng cấp nặng nề,

những người thuộc tầng lớp đáy bị vùi dập và không có cơ hội

vươn lên các tầng lớp trên để thay đổi số phận của mình, nạn cưỡng

hiếp và bạo hành phụ nữ lan tràn... Châu Mỹ Latin cũng đa đảng,

bầu cử thường xuyên, nhưng câu chuyện cầu thủ người Colombia,

Andrés Escobar, bị bắn chết chỉ vài ngày sau khi đá bóng phản lưới

nhà trong Cúp Bóng đá Thế giới ở Mỹ (World Cup 1994), và vô vàn

ví dụ tương tự, luôn khiến người ta kinh hãi về sự lộng hành của

các băng nhóm tội phạm ở nước Mỹ Latin điển hình này.

Ở gần chúng ta hơn là Philippines, mang danh là nền dân chủ

lâu đời nhất Đông Nam Á nhưng chưa bao giờ được ca ngợi như

một xứ sở tự do, bởi rất nhiều vấn đề: Khoảng cách giàu nghèo quá

lớn, với tầng lớp tinh hoa giàu có, tham lam, gia đình trị, và tầng

lớp dân nghèo bị bần cùng đến mạt hạng; quyền lực chính trị và

kinh tế tập trung vào một số dòng họ khuynh đảo cả chính quyền;

tội ác tràn lan và vấn nạn tội ác không bị trừng phạt (impunity) 1

;

 

và nhiều điều khác.

Nói gọn lại, tồn tại những nền dân chủ mà trong đó, nhân

quyền, quyền tự do của mỗi người dân không được bảo đảm; và đó

là những nền dân chủ không tự do.

 

1. Impunity, tạm dịch là “tội ác không bị trừng phạt”, là một thuật ngữ trong luật quốc tế,

có nghĩa là việc nhà nước không điều tra, bắt, truy tố, xét xử những kẻ gây tội ác, vì nhiều

lý do thuộc về nhà nước như: đồng lõa, bao che với thủ phạm; kém năng lực; vô trách

nhiệm; toà án không độc lập, v.v.

 

110 | Phạm Đoan Trang

DÂN CHỦ TỰ DO

Do đó, lý tưởng của những người cổ súy dân chủ không nên chỉ là

khái niệm dân chủ chung chung, mà là hướng đến xây dựng một

nền dân chủ tự do cho đất nước.

Ngược với các ví dụ mà ta vừa nhắc đến ở trên như Ấn Độ,

Colombia và Philippines, nhiều nước phương Tây lại tự do trước

khi có dân chủ (theo David Beetham và Kevin Boyle). Đó là bởi vì

họ có một bản hiến pháp tự do, thành văn hoặc không thành văn,

trước cả khi các đảng phái ra đời và lại càng trước khi có bầu cử

phổ thông đầu phiếu. Những bản hiến pháp đó có các điểm chung

là: Cơ quan hành pháp, tức chính phủ, phải nằm dưới luật pháp,

luật ấy phải được phê chuẩn bởi một quốc hội dân cử; cá nhân

được bảo đảm các quyền tự do như quyền hưởng tiến trình tố tụng

đúng chuẩn mực, quyền tự do ngôn luận, tự do tụ tập và đi lại; cơ

quan tư pháp có đủ sự độc lập trước cả lập pháp lẫn hành pháp để

có thể bảo vệ pháp luật và các quyền tự do đó. Tóm lại, ở những

quốc gia ấy, xã hội đã có truyền thống tôn trọng quyền tự do của

mỗi cá nhân trước khi nền dân chủ được thiết lập.

Ngược lại, các nền dân chủ có đủ cả chế độ phổ thông đầu

phiếu lẫn hệ thống đảng phái phát triển, mà không có truyền

thống tự do hay một bản hiến pháp tự do từ trước, đều bấp bênh,

không ổn vững.

BỐN THÀNH TỐ CỦA NỀN DÂN CHỦ TỰ DO

Có bốn nguyên tắc, mà ta có thể coi chúng như bốn thành tố chính,

bốn cột trụ của một nền dân chủ tự do, sau đây: 1

1. Bầu cử tự do và công bằng;

2. Chính quyền chịu trách nhiệm giải trình;

3. Nhân quyền được thực thi, được tôn trọng và bảo vệ;

1. “Introducing Democracy: 80 Questions and Answers”, David Beetham & Kevin Boyle,

UNESCO Publishing, 2nd edition, 2005.

 

Chính trị bình dân | 111

 

4. Xã hội dân sự phát triển.

Lưu ý rằng bốn thành tố này đều quan trọng như nhau, cách

đánh số trên đây không phản ánh thứ tự của chúng về mức độ

quan trọng. Bốn thành tố cũng có tác động qua lại, liên hệ chặt chẽ

với nhau. Hiểu đơn giản, ngôi nhà mang tên dân chủ tự do được

dựng trên bốn cây cột lớn, buộc chặt vào nhau; thiếu chỉ một trong

bốn cột thì nhà nghiêng ngả và có thể sập bất cứ lúc nào, hoặc có

thể chỉ yên vị là một nền dân chủ không tự do.

Muốn xây và giữ gìn ngôi nhà chung – nền dân chủ tự do, bạn

phải xây dựng và bảo vệ được cả bốn cột trụ này.

Cột trụ thứ nhất: Bầu cử tự do và công bằng

Cuốn sách này dành cả một chương (Chương IV, Phần V) để nói

về bầu cử và nguyên tắc “tự do, công bằng” của bầu cử, mời bạn

tham khảo.

Cột trụ thứ hai: Chính quyền chịu trách nhiệm giải trình

Nói về dân chủ, có một khái niệm rất phổ biến gần đây trong ngôn

ngữ chính trị, mà Việt Nam chưa có cách dịch chuẩn, đó là

“accountability”, tiếng Việt tạm dịch là “trách nhiệm giải trình”.

Cách dịch này chưa chuẩn, vì từ “giải trình” mang nghĩa quá hẹp so

với trách nhiệm mà nhà nước hay cơ quan công quyền phải lãnh

nhận trước người dân. Ngoài ra, “trách nhiệm giải trình” là một

danh từ, và nếu dịch như vậy, chúng ta không có tiếng Việt tương

ứng để thể hiện tính từ, động từ liên quan đến khái niệm này.

Trong khuôn khổ cuốn sách, tạm chấp nhận dịch “accountability”

là trách nhiệm giải trình, thì ta có thể định nghĩa nó như sau: Nghĩa

vụ của nhà nước, của cơ quan nhà nước, quan chức, công chức,

công an phải báo cáo đầy đủ với người dân, phản hồi khiếu nại, giải

thích, làm rõ, minh bạch và chịu hoàn toàn trách nhiệm trước người

dân về mọi hoạt động chính trị và hành vi ứng xử của mình.

Bạn thấy đấy, nhà nước, cơ quan nhà nước không chỉ phải giải

trình (báo cáo đầy đủ, phản hồi khiếu nại, giải thích, làm rõ, minh

 

112 | Phạm Đoan Trang

bạch) mà còn phải chịu hoàn toàn trách nhiệm, bao gồm cả chế tài,

hình phạt, trước người dân. Nếu chỉ có “phản hồi khiếu nại”, “giải

thích”, mà không phải chịu trách nhiệm gì khác, không có nguy cơ

bị xử lý kỷ luật, trừng phạt gì, thì cách ứng xử của chính quyền với

dân khi ấy sẽ chẳng khác gì cấp trên với cấp dưới, người lớn với trẻ

con: Đây này, tao giải thích đường lối, chính sách, chủ trương cho

mày đây này, hiểu chưa? Không hiểu là tại mày ngu dốt nhé.

Do đó, khái niệm gọi là “trách nhiệm giải trình” nhất thiết phải

bao gồm cả những trách nhiệm lớn hơn, ngoài việc giải trình.

Chúng ta cũng có thể chia nhỏ trách nhiệm giải trình theo một

cách khác, thành trách nhiệm giải trình trên ba khía cạnh: pháp lý,

chính trị và tài chính.

- Khía cạnh pháp lý: Tất cả các quan chức, cán bộ nhà nước đều

chịu trách nhiệm giải trình trước toà án.

- Khía cạnh chính trị: Tất cả các cơ quan công quyền không qua

bầu cử (hành chính, công an, quân đội) đều phải chịu trách nhiệm

giải trình trước cơ quan hành pháp (chính phủ). Cơ quan hành

pháp phải chịu trách nhiệm giải trình trước cơ quan lập pháp (quốc

hội) và công chúng. Quốc hội phải chịu trách nhiệm giải trình

trước cử tri.

- Khía cạnh tài chính: Chính quyền chịu trách nhiệm giải trình

trước công chúng, gồm cả báo chí, và cơ quan chuyên môn về việc

chi tiêu tiền thuế của dân. Cơ quan chuyên môn ở đây là cơ quan

tổng kiểm toán, chịu trách nhiệm giải trình trước quốc hội nhưng

độc lập trong việc thanh kiểm tra, theo dõi, giám sát một cách

chuyên nghiệp, chi tiết chi tiêu của chính quyền, chủ yếu là của

chính phủ.

Cột trụ thứ ba: Nhân quyền được thực thi, tôn trọng và bảo vệ

Nhân quyền, hay quyền con người, không phải là những quyền mà

một người kiếm hay xin được, được ban cho hay được kế thừa từ

người khác.

 

Chính trị bình dân | 113

Nhân quyền là một tập hợp những quyền tự nhiên, những

quyền cố hữu, cơ bản mà một cá nhân nghiễm nhiên được hưởng

và được bảo vệ bởi vì cá nhân đó là con người. Nói cách khác, sinh

ra làm người, tức là có nhân quyền.

Tại sao việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền lại quan trọng? Đó

là bởi vì, nhân quyền và những quyền tự do cơ bản, nếu được tôn

trọng, bảo vệ, thúc đẩy, sẽ giúp chúng ta phát triển đầy đủ và có

nhiều cơ hội để mưu cầu hạnh phúc nhất. Một xã hội cũng chỉ có

thể công bằng và tự do khi nhân quyền được tôn trọng và thực thi

đầy đủ. Còn về phía nhà nước, sự chối bỏ, thậm chí vi phạm nhân

quyền trên diện rộng (như ở Việt Nam thời cộng sản) thường sẽ

kéo theo bạo lực, và sẽ chỉ gieo mầm mống cho xung đột, tạo ra bất

ổn chính trị-xã hội.

Dân Việt có quan niệm sướng khổ tại trời, đời người ta hạnh

phúc hay bất hạnh là do trời thương hay trời đày, nói cách khác, là

do số mệnh. Nên mới có người làm lụng vất vả suốt đời mà vẫn

nghèo, chẳng may dính vòng lao lý hay phải ra cửa quan thì sạt

nghiệp. Lại có những kẻ là “con ông cháu cha”, nên cả đời giàu sang,

may mắn, quyền thế.

Người viết thì tin rằng, nếu chúng ta sống trong một xã hội nơi

nhân quyền được bảo đảm, thì có thể nói tất cả chúng ta đều đã

được tạo những điều kiện căn bản nhất, bình đẳng nhất, để mưu

cầu hạnh phúc; và khi đó, chỉ cần là những người lương thiện,

chăm chỉ, chúng ta cũng có thể thành đạt, chứ không cần phải có

trí tuệ siêu việt, học vấn tốt, địa vị con ông cháu cha hay bất kỳ một

may mắn đặc biệt nào khác. Xã hội tốt là xã hội bảo đảm nhân

quyền căn bản cho mọi người dân, để cho mỗi người có thể phát

triển đầy đủ chỉ với nỗ lực của bản thân; yếu tố số mệnh được loại

bỏ đáng kể.

Cột trụ thứ tư: Xã hội dân sự phát triển

Mời bạn xem Chương VI, “Xã hội dân sự”, thuộc Phần V, “Tương

tác chính trị”.

 

114 | Phạm Đoan Trang

 

* * *

 

Trên đây là bốn thành tố của một nền dân chủ tự do. Như tác

giả đã viết ở Lời nói đầu, “nhân quyền, tự do, dân chủ chưa bao giờ

là các khái niệm phức tạp, nhạy cảm hay đáng sợ. Chúng là những

điều đơn giản và căn bản đến mức mọi người dân thường ở các xã

hội dân chủ đều nắm được, ít nhất là cảm nhận được chúng. Và

chính nhờ thế, họ bảo vệ được nền dân chủ của nước mình.

Đối với người dân Việt Nam, nhiệm vụ còn nặng nề hơn: Chúng

ta phải đấu tranh để mang đến dân chủ, và sau đó phải tiếp tục đấu

tranh để bảo vệ và củng cố nền dân chủ non trẻ đó”.

Khi đấu tranh để xây dựng và rồi bảo vệ nền dân chủ tự do, các

bạn hãy nhớ đến bốn thành tố này, để thiết lập, bảo vệ và phát triển

chúng. Các bạn cũng có thể coi chúng như bốn tiêu chí để bạn

đánh giá xem một xã hội nào đó, như Việt Nam, đã đạt được nền

dân chủ tự do hay chưa.

 

Chương IV

 

DÂN CHỦ TRỰC TIẾP VÀ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN

 

Dân chủ là hình thức tổ chức chính quyền với các nguyên tắc

chung như nêu trên. Tuy nhiên, cũng có nhiều kiểu chế độ dân

chủ, và nhiều cách phân loại dân chủ. Một trong các cách phổ biến

là phân loại dân chủ theo tính đại diện. Theo đó, dân chủ được chia

thành hai loại: trực tiếp và gián tiếp, tức đại diện.

DÂN CHỦ TRỰC TIẾP

Một cách chung nhất, dân chủ trực tiếp là “một hệ thống cho phép

tất cả các bên tham gia đều có tiếng nói trong quá trình ra quyết

định, thông qua việc tự mình bỏ phiếu, về bất kỳ vấn đề gì được

đưa ra”. 1

Khi nói về thể chế, dân chủ trực tiếp là chế độ dân chủ mà trong

đó:

- Công dân tham gia trực tiếp, liên tục, và không qua trung gian,

vào tiến trình ra quyết định tối cao.

- Ranh giới giữa tầng lớp cai trị và tầng lớp bị trị bị xóa bỏ.

- Ranh giới giữa chính quyền và xã hội dân sự bị xóa nhòa.

Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ đơn giản, sơ khai nhất.

Nó ra đời ở thành bang Athens (Hy Lạp cổ đại). Ngày nay, nó vẫn

được áp dụng mỗi khi tất cả công dân đều trực tiếp tham gia cho ý

1. “Introduction to Public Policy”, Charles Wheelan, 1st edition, 2011, trang 182

 

116 | Phạm Đoan Trang

kiến về một vấn đề nào đó của quốc gia; ấy là khi diễn ra trưng cầu

dân ý.

 

Dân chủ trực tiếp ra đời từ thành bang Athens (Hy Lạp cổ)

Ưu điểm của dân chủ trực tiếp: Đây là hình thức dân chủ thuần

khiết nhất: Mọi thành viên của cộng đồng, xin nhấn mạnh là mọi

thành viên, đều có quyền ra quyết định. Tất cả đều được trình bày

quan điểm và lợi ích mà không phải thông qua chính trị gia hay

đảng phái, tổ chức nào. Ai ai cũng được tiếp cận thông tin, có thông

tin và có cơ hội hiểu biết.

Nhược điểm của dân chủ trực tiếp thì chắc bạn đọc có thể thấy

ngay: Nó quá lý tưởng, và với quy mô dân số như ở các quốc gia

hiện nay thì dân chủ trực tiếp trở thành không tưởng.

DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN

Dân chủ đại diện là dân chủ gián tiếp, tức ngược với dân chủ trực

tiếp nói trên. Sự tham gia của công dân vào việc ra quyết định là

không thường xuyên, không liên tục, bị giới hạn vào hoạt động bỏ

phiếu theo nhiệm kỳ (ví dụ hai năm một lần) để bầu ra người đại

diện cho họ.

Ưu điểm của dân chủ đại diện: Nó khắc phục được tính bất khả

thi, không tưởng của dân chủ trực tiếp trong những cộng đồng dân

 

Chính trị bình dân | 117

số lớn. Ngoài ra, dân chủ đại diện còn có các ưu điểm như: giải

phóng dân thường khỏi gánh nặng ra quyết định, tạo phân công

lao động trong chính trị; đặt việc cai trị vào tay những người chuyên

trách, có thể có kinh nghiệm và chuyên môn hơn.

Nhược điểm của dân chủ đại diện: Bạn hẳn đã thấy ngay dân

chủ đại diện không thể nào thuần khiết như dân chủ trực tiếp, và

nó chỉ có hiệu quả khi người đại diện được bầu ra thật sự là đại diện

của dân, nhờ một cơ chế sàng lọc chính xác và tiến trình bầu cử

công bằng, tự do. (Xem Chương IV về bầu cử, thuộc Phần V,

“Tương tác chính trị”).

 

Chương V

 

LỢI ÍCH VÀ MẶT TRÁI CỦA DÂN CHỦ

 

Dân chủ mang đến một loạt những cơ chế, những kênh khác

nhau để người ta thể hiện quan điểm, theo đuổi lợi ích và mưu cầu

hạnh phúc, thông qua hội nhóm/ tổ chức/ phe phái/ đảng phái, với

tư cách cá nhân cũng như tập thể...

Dân chủ tạo điều kiện cho sự ra đời những chính sách công tốt.

Ở đây, các bạn lưu ý là bất kỳ chính sách nào, dù mục đích tốt đẹp

đến đâu, cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến một hoặc một số

nhóm người trong xã hội. Tuy thế, dân chủ sẽ làm giảm nguy cơ ra

đời những chính sách gây hại cho số đông dân chúng, và nếu thiểu

số có chịu thiệt hại thì thiệt hại đó cũng không quá lớn.

Dân chủ tất nhiên gây tranh cãi, nhưng một nền dân chủ không

đòi hỏi tất cả mọi người phải đồng ý với nhau về tất cả các vấn đề;

nó chỉ đòi hỏi mọi người đồng ý với nhau về cơ chế ra quyết định

đối với các vấn đề công cộng. Nói cách khác, nó không cần tất cả

mọi người phải đồng ý với nhau về kết quả của cuộc chơi, mà chỉ

đòi hỏi mọi người cùng chấp nhận luật chơi. Nếu vẫn còn có những

nhóm phải bất mãn với một luật chơi bị áp đặt, điều đó chứng tỏ

dân chủ vẫn chưa được đảm bảo, chưa được thực thi.

Tuy nhiên, có lẽ cách tốt hơn để bạn thấy các lợi ích về dân chủ

là để bạn tìm hiểu về hai chế độ đối nghịch với nó: toàn trị và độc

đoán.

 

120 | Phạm Đoan Trang

CHẾ ĐỘ TOÀN TRỊ 1

Chế độ toàn trị là một hệ thống chính trị trong đó ách cai trị bao

trùm lên tất cả, toàn bộ, các mặt của đời sống (hiểu nôm na là toàn

trị nghĩa là cai trị toàn bộ); ách cai trị đó được xác lập với việc áp

đặt một ý thức hệ bao trùm và sự tàn bạo, hà khắc, gây sợ hãi.

Chế độ toàn trị khác với chế độ chuyên quyền và chế độ độc

đoán ở chỗ nó tìm kiếm “toàn bộ quyền lực”, “quyền lực tuyệt đối”

thông qua việc chính trị hóa mọi khía cạnh của đời sống xã hội và

cá nhân. Còn chế độ chuyên quyền và chế độ độc đoán có mục tiêu

khiêm tốn hơn, là chỉ nắm độc quyền về quyền lực chính trị, thường

là bằng cách loại quần chúng ra khỏi chính trị.

Chế độ toàn trị thẳng thừng xóa bỏ xã hội dân sự: tiêu diệt cái

cá nhân, cái riêng, của tư nhân. Đôi khi chế độ toàn trị được xác

định nhờ có “hội chứng sáu điểm” như sau 2

:

1. Có một ý thức hệ chính thức;

2. Nhà nước độc đảng, có khi bị cai quản bởi một nhà lãnh đạo

hùng mạnh, toàn năng;

3. Một hệ thống cảnh sát giám sát, gây sợ hãi;

4. Độc quyền các phương tiện truyền thông đại chúng;

5. Độc quyền các phương tiện vũ trang;

6. Nhà nước kiểm soát tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế.

CHẾ ĐỘ ĐỘC ĐOÁN 3

Chế độ độc đoán đi theo một chủ nghĩa cho rằng, và thực thi,

quyền lực dội từ trên xuống, trong đó, quyền lực được thực thi bất

kể có được sự tán thành chung hay không. Chế độ độc đoán, vì thế,

nhấn mạnh việc quyền lực phải bao trùm lên tự do cá nhân.

1. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Prentice Hall, trang 29.

2. Austin Ranney dẫn lại từ “Totalitarian Dictatorship and Autocracy”, Carl J. Friedrich &

Zbigniew Brzezinski, 2nd edition, Harvard University Press.

3. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Prentice Hall, trang 38.

 

Chính trị bình dân | 121

Tuy nhiên, chế độ độc đoán thường được phân biệt với chế độ

toàn trị. Việc thực thi quyền lực từ trên xuống có liên hệ với chế độ

quân chủ chuyên chế, độc tài truyền thống, và hầu hết các chế độ

quân sự đều xoay quanh việc đàn áp phe đối lập cũng như tự do

chính trị, thay vì theo đuổi một mục tiêu cực đoan hơn, là xóa bỏ

sự tách biệt giữa nhà nước và xã hội dân sự. Do đó, các chế độ độc

đoán có thể dung tha một số đáng kể các quyền tự do kinh tế, tôn

giáo và các quyền tự do khác.

* * *

 

NHỮNG MẶT TRÁI CỦA DÂN CHỦ 1

Nền độc tài của đa số

Đến đây chúng ta đã biết một trong các nguyên tắc của dân chủ là

“thiểu số phải theo đa số”. Chúng ta cũng biết một thực tế là, bất kỳ

chính sách công nào được ban hành, cho dù bản chất nó có tiến bộ

đến đâu, thì cũng sẽ có người bất mãn với nó.

Vậy, sẽ ra sao nếu có một thiểu số thường xuyên, liên tục phải

chịu thua đa số, và vì thế thường xuyên, liên tục bất mãn? (ví dụ:

người đồng tính, người dân tộc thiểu số...). Khi điều đó xảy ra, mâu

thuẫn có thể tích tụ và nếu không có cơ chế giải quyết thì xung đột

sẽ là không tránh khỏi.

Đám đông có thể sai

Một trong các nguyên tắc của dân chủ là “thiểu số phải theo đa số”.

Vấn đề là không phải đa số lúc nào cũng đúng. Trong lịch sử, có vô

vàn ví dụ về cái sai của đám đông, mà một trong các ví dụ kinh điển

nhất là câu chuyện nhà bác học Galileo đối đầu với hệ thống nhà

thờ và giáo lý ở châu Âu thời Trung cổ. Chỉ một mình Galileo nói

1. “Political Philosophy - A Complete Introduction”, Phil Parvin & Clare Chambers,

McGraw-Hill Companies, Inc., 2012.

 

122 | Phạm Đoan Trang

rằng trái đất quay xung quanh mặt trời, và ông đúng, còn đám

đông thì sai.

Khi thực hiện dân chủ, thiểu số theo đa số, mà đa số lại sai, thì

có nghĩa là dân chủ đã không đồng hành cùng chân lý, công lý. Cho

nên trong nhiều trường hợp, muốn theo đuổi công lý, phải hy sinh

dân chủ (không theo số đông nữa), và ngược lại, muốn thực thi

dân chủ thì phải chấp nhận bỏ qua công lý. Người ta gọi đây là mâu

thuẫn giữa công lý và dân chủ.

Vai trò của chuyên gia

Đến đây chúng ta đều đã biết một trong các nguyên tắc của dân

chủ là “tất cả mọi người đều có khả năng ảnh hưởng tới chính sách

như nhau”. Tuy nhiên, trong thực tế đời sống, gần như tất cả các

lĩnh vực đều cần phải có tiếng nói của chuyên gia trong lĩnh vực đó;

chuyên gia mới là người quyết định những vấn đề quan trọng trong

lĩnh vực đó.

Và vì thế, ta thấy ở đây một mâu thuẫn nữa: mâu thuẫn giữa dân

chủ và vai trò của chuyên gia. Rõ ràng, nếu chuyên gia là người có

tiếng nói quyết định, thì nguyên tắc “tất cả mọi người đều có khả

năng ảnh hưởng tới chính sách như nhau” là không thể thực hiện.

Mâu thuẫn này thể hiện rất rõ trong chính trị và chính sách

công: Dân chủ cho mọi người dân quyền lên tiếng trong quá trình

ra quyết định, làm chính sách, và thế là dường như mọi việc trên

đời đều cần và đều có chuyên gia, chỉ trừ việc quản trị, điều hành

đất nước. Có nhiều vấn đề, “chuyên gia” đóng góp ý kiến nhiều đến

mức cuối cùng không ai nghe ai cả, ví dụ như những vụ chặt hạ

hàng loạt cây xanh ở Hà Nội vì mục tiêu phát triển đô thị.

Nhiều khi mất thì giờ và không hiệu quả

Nguyên tắc của dân chủ là tất cả mọi người đều được tham vấn,

được có ý kiến trong quá trình hoạch định chính sách. Hậu quả của

việc này là quá trình ra quyết định không thể không kéo dài. Ở một

nền dân chủ nổi tiếng là Mỹ, rất thường xuyên xảy ra tình trạng gọi

 

Chính trị bình dân | 123

là “thế bế tắc về chính sách”, khi mà không một chính sách nào

được ban hành để giải quyết một vấn đề chung nào đó, bởi lẽ tranh

cãi, phản biện, vận động chính sách quá nhiều và không bên nào

thắng để có thể dứt điểm.

TRONG NGẮN HẠN, DÂN CHỦ KHÔNG HỨA HẸN NHIỀU

ĐIỀU NHƯ BẠN TƯỞNG 1

Ở Việt Nam dưới thời cộng sản, nhiều dư luận viên hoặc những

người có tư duy kiểu dư luận viên hay hỏi vặn, đại ý: “OK, cứ cho

là Việt Nam không dân chủ đi, và bây giờ đùng một cái đất nước

chuyển sang chế độ dân chủ đa đảng. Thế đường sá còn tắc không,

còn rác rưởi, bụi bặm không? Thực phẩm an toàn sạch sẽ ngay

chưa? Chưa phải không? Chứng tỏ dân chủ không phải liều thuốc

thần, nhé. Cái gì cũng phải từ từ, phải có lộ trình, không phải cứ

dân chủ là giải quyết hết các vấn đề của đất nước đâu”.

Tất nhiên là họ ngụy biện. Nhưng họ nói đúng một điểm: Dân chủ

không phải liều thuốc thần, nhất là trong ngắn hạn (dưới 1-3 năm).

Dân chủ không hứa hẹn phát triển kinh tế ngay lập tức, không

hứa hẹn hiệu quả kinh tế cao hơn: Tỷ lệ tiết kiệm, tỷ lệ đầu tư, năng

suất lao động, trình độ học vấn, năng lực sáng tạo v.v. ở các nước

dân chủ không chắc đã cao hơn, nhất là trong giai đoạn chuyển

giao chế độ.

Dân chủ không hứa hẹn bộ máy hành chính tốt hơn: Năng lực

làm việc của bộ máy hành chính ở chế độ dân chủ thậm chí còn có

thể chậm hơn, tiến trình làm việc kéo dài hơn, tốn kém hơn so với

xứ độc tài.

Khi chuyển giao sang chế độ dân chủ, giai đoạn đầu người dân

có thể còn tỏ ra bất mãn hơn, nhất là bởi vì khi đó họ đã có quyền

tự do phản biện và phê phán, không lo bị chính quyền đàn áp.

1.Democracy: A Reader, Larry Diamond & Marc F. Plattner, John Hopkins University Press,

2009.

 

124 | Phạm Đoan Trang

Dân chủ không hứa hẹn trật tự và đồng thuận: Khi người dân có

quyền tự do biểu đạt, thì sự bất mãn, chống đối các quy định, chính

sách mới có thể còn cao hơn trong chế độ độc tài. Mâu thuẫn trong

xã hội có thể còn cao hơn thời độc tài: Mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc

nổi lên (ví dụ: Tây Nguyên đòi quyền tự trị).

Tự do kinh tế luôn chứa đựng rủi ro: Dân chủ đưa đến nền kinh

tế mở, hội nhập với thế giới, giảm thiểu chủ nghĩa bảo hộ. Điều đó

có thể mang lại sự thịnh vượng, nhưng cũng có thể đem đến cạnh

tranh không lành mạnh, thất bại trước các công ty nước ngoài, phá

sản, thất nghiệp v.v. Bên cạnh đó, các quyền tự do về kinh tế (như

quyền tư hữu tài sản, quyền được bảo vệ sở hữu trí tuệ, quyền

không bị nhà nước can thiệp về kinh tế...) không chắc đã đồng nhất

với tự do về chính trị.

 

Phần IV

CÁC CHỦ NGHĨA

 

Có câu nói rằng trong xã hội loài người, tôn giáo và chính trị là hai

thứ gây chia rẽ nhất, và đó cũng là thứ mà người ta dễ sống chết vì

nó nhất. Điều đó đúng, nhưng cội nguồn, cái gốc gây chia rẽ phải

là một thứ mà cả tôn giáo và chính trị đều dựa vào, hay nói cách

khác, nó là nền tảng lý luận của tôn giáo và chính trị. Người ta gọi

nó là ý thức hệ, hay là chủ nghĩa.

Trong Phần IV này, các bạn sẽ tìm hiểu về một dải rộng các ý thức

hệ, từ tự do, dân chủ xã hội, đến cộng sản và phát xít, từ chủ nghĩa

quốc gia đến nữ quyền. Các bạn sẽ hiểu thế nào là cánh tả, cánh

hữu, đường lối của đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ ở Mỹ khác

nhau như thế nào, và khi một ai đó tự giới thiệu: “Tôi là người bảo

thủ”, thì điều đó hoàn toàn không có nghĩa tiêu cực.

Các bạn cũng sẽ hiểu rõ hơn một số khái niệm rất thường gặp

trong triết học chính trị, nhưng độc giả Việt Nam thì thường mơ

hồ về chúng: tự do, bình đẳng.

 

Chương I

 

THẾ NÀO LÀ MỘT CHỦ NGHĨA?

 

Từ “chủ nghĩa” đồng nghĩa với “ý thức hệ”, hay “hệ tư tưởng” (tiếng

Anh là ideology).

Trong tiếng Anh, thông thường ở cuối mỗi từ chỉ tên riêng của

mỗi ý thức hệ, có chữ “ism” (trong tiếng Pháp thì là chữ “isme”),

ví dụ liberalism là chủ nghĩa tự do, communism là chủ nghĩa cộng

sản. Vậy nên người Việt thường dịch tất cả các từ có hậu tố “ism”

hay “isme” thành “chủ nghĩa...” gì đó. Tuy thế, không phải từ nào

tận cùng bằng “ism” hay “isme” cũng chỉ một chủ nghĩa. Chẳng

hạn, tiếng Anh có từ “euphemism”, nghĩa là “uyển ngữ”, “nói giảm

nói tránh”; chúng ta không thể dịch nó thành “chủ nghĩa uyển

ngữ” được.

Tùy ngữ cảnh, ta có thể dịch một từ có hậu tố “ism” nào đó

thành học thuyết, chủ thuyết, thuyết, luận, đường lối, phương

pháp, thuật, đạo, tư tưởng, chế độ, chủ nghĩa, hay ý thức hệ.

ĐỊNH NGHĨA

Ý thức hệ là gì? Cũng giống như với các khái niệm chính trị, dân

chủ, từ “ý thức hệ” có nhiều định nghĩa.

Đôi nét lịch sử: Khái niệm “ý thức hệ” do triết gia Pháp Destutt

de Tracy đưa ra năm 1796 với nghĩa nguyên thủy là “môn khoa học

nghiên cứu về ý thức”, “ý thức học”. Tức là, khái niệm này ban đầu

không liên quan đến chính trị. Có lẽ Karl Marx (Các Mác) là người

 

128 | Phạm Đoan Trang

đầu tiên chính trị hóa nó; ông ta cho rằng ý thức hệ chỉ là ý thức của

giai cấp thống trị, lừa dối giai cấp bị trị và che giấu mâu thuẫn giai

cấp. Ông còn tỏ ra rất tự tin khi tuyên bố: “Các quan điểm chính trị

chỉ có thể hoặc là khoa học, hoặc là mang tính ý thức hệ. Và chủ

thuyết của ta là khoa học”. Có nghĩa là, với Marx, chủ nghĩa Mác

không phải là chủ nghĩa, không phải là ý thức hệ, mà là một khoa

học.

Kể từ đó, ý thức hệ trở thành một khái niệm chính trị như ngày

nay, mất ý nghĩa ban đầu. Và nó mang nghĩa tiêu cực: Karl Popper

cho rằng ý thức hệ là công cụ để quản lý xã hội, để bắt mọi người

phải tuân lệnh và phục tùng. Cùng với Hannah Arendt, Karl Popper

định nghĩa ý thức hệ là một hệ thống quan điểm khép kín, tự cho

là độc quyền chân lý, không chấp nhận các quan điểm và niềm tin

khác biệt.

Tuy nhiên, nếu hiểu ý thức hệ như Hannah Arendt và Karl

Popper thì chủ nghĩa tự do và các chủ nghĩa mang tính mở, không

chấp nhận độc quyền chân lý, sẽ không phải là ý thức hệ nữa.

 

Ai cũng tự cho mình là khoa học

 

Karl Marx: Chủ nghĩa Mác là khoa

học, không phải ý thức hệ.

 

Karl Popper: Chủ nghĩa tự do là

khoa học, không phải ý thức hệ.

 

Chính trị bình dân | 129

Tóm lại, ý thức hệ là gì? Sau đây là định nghĩa về nó theo quan

điểm hiện đại:

Ý thức hệ là một hệ thống niềm tin dẫn dắt hành động chính trị.

Cụ thể hơn nữa, ý thức hệ là một tập hợp các quan điểm, quan

niệm có liên hệ qua lại, dẫn dắt hoặc tạo cảm hứng cho các hành

động chính trị.

Nhà khoa học chính trị Austin Ranney đưa ra một ví dụ: Trong

kinh tế học, có một quan điểm cực kỳ phổ biến và vững chắc, là

mục đích duy nhất của mỗi cá nhân trên đời này chỉ là làm sao để

thu lợi càng nhiều càng tốt. Và quan điểm đó là một trong một tập

hợp các quan điểm có liên hệ qua lại với nhau một cách logic để tạo

ra một học thuyết. Học thuyết ấy cho rằng cách tốt nhất để tổ chức

hệ thống kinh tế là đặt hệ thống kinh tế trên nền tảng sở hữu tư

nhân về phương tiện sản xuất, tư nhân hóa việc phân phối hàng

hóa và dịch vụ. Tập hợp các quan điểm đó cấu thành nên hệ thống

kinh tế và ý thức hệ có tên là chủ nghĩa tư bản. 1

Sự khác nhau giữa một ý thức hệ và một quan điểm hay quan

niệm là gì? Nhà khoa học chính trị Roy C. Macridis cho rằng có

bốn tiêu chí sau đây để phân biệt chúng:

Tính tổng quát (comprehensiveness). Một ý thức hệ hoàn chỉnh

phải bao gồm những quan điểm, quan niệm về các vấn đề lớn lao,

chẳng hạn như vị thế của con người trong vũ trụ, quan hệ của con

người với Chúa trời, lịch sử, những mục tiêu to lớn nhất của xã hội

và chính quyền, bản chất của con người, và những cách tốt nhất để

đạt được các mục tiêu xã hội và chính trị lớn nhất. Những quan

điểm, quan niệm đó phải nhất quán với nhau một cách logic, và

thường có một tổ chức lớn – ví dụ như đảng Cộng sản Liên Xô hay

phong trào nữ quyền – trung thành với những quan điểm, quan

niệm đó và cống hiến hết mình để thực hiện chúng.

 

1. “Governing: An Introduction to Political Science”, 8th edition, Prentice Hall, trang 69-70.

 

130 | Phạm Đoan Trang

Tính lan tỏa (pervasiveness). Tập hợp những quan điểm, quan

niệm của ý thức hệ đó phải được biết đến không chỉ từ rất lâu mà

còn phải hình thành niềm tin chính trị và hành động chính trị của

rất nhiều người. Chẳng hạn, mọi người đã nói đến dân chủ, chế độ

quý tộc, chế độ chuyên quyền suốt từ thế kỷ thứ 5 trước Công

nguyên; những phong trào lớn, quy tụ hàng triệu người, đã tranh

đấu cho các ý thức hệ đó suốt hơn 2000 năm qua.

Tính rộng khắp (extensiveness). Tập hợp những quan điểm,

quan niệm của ý thức hệ đó phải được một số lượng lớn người chia

sẻ và phải đóng vai trò quan trọng trong chính trị của một hoặc

nhiều hơn một quốc gia.

Tính mạnh mẽ (intensiveness). Tập hợp những quan điểm,

quan niệm của ý thức hệ đó phải thu hút được một sự dấn thân của

nhiều người theo đuổi nó, và phải gây ảnh hưởng đáng kể đến

những niềm tin và hành động chính trị của họ.

Đối chiếu với những tiêu chuẩn như trên thì hẳn bạn đã thấy, để

một ý tưởng trở thành một ý thức hệ chẳng phải chuyện dễ dàng gì.

Như đã nói, không phải từ nào tận cùng bằng “ism” hay “isme”

cũng chỉ một chủ nghĩa. Tùy ngữ cảnh, ta có thể dịch một từ có hậu

tố “ism” nào đó thành học thuyết, chủ thuyết, thuyết, luận, đường

lối, phương pháp, thuật, đạo, tư tưởng, chế độ, chủ nghĩa, hay ý

thức hệ. Cũng vậy, không phải tư tưởng, quan điểm, quan niệm

nào cũng trở thành chủ nghĩa được. Người Việt hay “nâng tầm”

nhiều thứ lên hàng đạo, chủ nghĩa, ví dụ nói với nhau về “đạo

facebook”, “đạo thịt chó”, “chủ nghĩa độc thân”, v.v. nhưng tất nhiên

đó là nói đùa với nhau thôi.

Nói nôm na thì một ý thức hệ, đạo, hay chủ nghĩa, có nghĩa là

một đường lối, con đường có tính tổng quát, lan tỏa, rộng khắp,

mạnh mẽ, thu hút đông đảo người đi theo.

 

Chính trị bình dân | 131

 

Theo ngôn ngữ Trung Hoa, “Đạo” có nghĩa là “con đường”. Trong ngôn

ngữ Ấn Độ, “Yoga” cũng có nghĩa là “Đạo”, cũng lại có nghĩa là “con

đường” nốt. Trong ngôn ngữ châu Âu, mọi thứ gì được thêm “cái đuôi”

ism (tiếng Anh) hoặc isme (tiếng Pháp) đến cả izm (tiếng Nga) đều thành

“con đường” cả. Tiếng nói của tất cả loài người rồi ra hết thảy đều theo

khuôn đó: ism(e) hoặc izm sẽ thành “Đạo”. Đem một “linh hồn” để thổi

vào hoặc gán cho một cái vật vô tri, thế là có ngay animism (“con đường”,

vật linh, hoặc “đạo” thờ vật vô tri vì coi như vật đó có linh hồn, sau rồi con

đường ấy được dịch cho rõ nghĩa thành chủ nghĩa vật linh). Đức Phật

(Buddha) cùng các ông Mahomet hoặc Jesus Christ ngồi yên trên toà

không sao, bỗng dưng có vô vàn người đi theo và gọi đó là các ông Thánh,

thế là có ngay “con đường” (hoặc “chủ nghĩa”) Buddhism, Christianism,

Mahometism và những cá thể người đi theo “con đường” ấy sẽ thành (có

đạo hoặc theo chủ nghĩa) Buddhist, Christianist, Mahometist.

“Hợp lưu các dòng tâm lý học giáo dục” – Phạm Toàn,

NXB Tri Thức, 2008

Bây giờ chúng ta sẽ bàn đến một số ý thức hệ, hay chủ nghĩa,

phổ biến trong lịch sử loài người từ trước tới nay, theo nghĩa chúng

được biết đến nhiều và được thực thi nhiều trên thế giới:

- Chủ nghĩa tự do

- Chủ nghĩa bảo tồn

- Chủ nghĩa xã hội và dân chủ xã hội

- Chủ nghĩa phát xít

- Chủ nghĩa vô chính phủ

- Chủ nghĩa môi trường

- Tôn giáo thuần túy

- Chủ nghĩa cộng đồng

- Chủ nghĩa nữ quyền

- Chủ nghĩa dân tộc

Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ tìm hiểu sơ qua về hai khái niệm có

vẻ đang là “mốt” hiện nay: dân túy và mị dân.

 

Chương II

CHỦ NGHĨA TỰ DO

 

Chủ nghĩa tự do mà chúng ta bàn ở đây là chủ nghĩa tự do cổ điển.

Đó là một ý thức hệ dựa trên việc tôn sùng chủ nghĩa cá nhân, tự

do, sự bao dung và đồng thuận. Nó là sản phẩm triết học của

phương Tây thời tiền công nghiệp, được hình thành vào cuối thế

kỷ 18.

CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CHỦ NGHĨA TỰ DO 1

Nói tới chủ nghĩa tự do là người ta nói đến các yếu tố cấu thành nên

nó, như sau: 1. Chủ nghĩa cá nhân; 2. Tự do; 3. Lý trí, sự duy lý; 4.

Bình đẳng; 5. Tinh thần khoan dung, chấp nhận; 6. Sự đồng ý tự

nguyện (đồng thuận); 7. Hợp hiến.

1. Chủ nghĩa cá nhân

Gọi là “chủ nghĩa”, có nghĩa là nó cũng là một ý thức hệ, tức một tập

hợp các quan điểm, quan niệm. Tôn vinh chủ nghĩa cá nhân được

coi là nguyên tắc cốt lõi của chủ nghĩa tự do, không có chủ nghĩa cá

nhân thì không tồn tại chủ nghĩa tự do. Cụ thể, chủ nghĩa cá nhân:

y Coi cá nhân quan trọng hơn bất kỳ tổ chức hay cộng đồng nào

(cá nhân quan trọng hơn tập thể)

y Coi con người trước hết là những cá nhân bình đẳng về giá trị

y Cho rằng xã hội tốt đẹp là xã hội để cho mỗi cá nhân phát

1. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Palgrave Foundations, 2007.

 

134 | Phạm Đoan Trang

triển bản thân, theo đuổi lợi ích riêng phù hợp với khả năng

của mình.

 

Đừng bao giờ quên rằng chỉ có cá chết mới trôi theo dòng.

Hình vẽ và câu nói trên đây thể hiện đúng tinh thần của chủ

nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do: Cá nhân quan trọng hơn cộng

đồng; sự độc lập của cá nhân khỏi cộng đồng là điều tốt và cần

được khuyến khích. Chủ nghĩa cá nhân không chấp nhận việc xóa

bỏ cái tôi, hòa tan cái tôi vào tập thể.

Nếu bạn là người mê điện ảnh Mỹ thì hẳn bạn sẽ thấy triết lý

này thể hiện rất rõ trong các bộ phim hành động của Hollywood,

nơi nhân vật chính diện thường xuyên “một mình cứu cả thế giới”.

Trong quá trình làm việc tốt giải cứu thế giới ấy, anh ta (vâng,

thường đó là nam giới – các nhà điện ảnh Hollywood vốn có tiếng

trọng nam khinh nữ) luôn mưu trí, sáng tạo và đặc biệt, rất can

đảm, sẵn sàng chống lệnh cấp trên hoặc chống lại cả một tập thể để

làm điều anh ta cho là đúng (và quả thật, anh ta đúng).

2. Tự do

Đây là giá trị cốt lõi của chủ nghĩa tự do. Theo triết lý của chủ nghĩa

tự do thì tự do được đặt cao hơn cả bình đẳng và công lý. Tuy nhiên,

chủ nghĩa tự do vẫn chấp nhận “tự do trong khuôn khổ pháp luật”

 

Chính trị bình dân | 135

để tự do của người này không ảnh hưởng đến tự do của người

khác.

Đến đây, một câu hỏi thuộc phạm trù triết học, triết học chính

trị được đặt ra: Tự do là gì? Chúng ta sẽ dành ít phút để làm rõ khái

niệm này.

Xưa nay đã có nhiều triết gia định nghĩa về tự do. Ví dụ, độc giả

Việt Nam hẳn là đã quen thuộc với định nghĩa của Friedrich Hegel

(1770-1831): “Tự do là cái tất yếu được nhận thức”. Nó được đưa

hẳn vào chương trình giáo dục công dân hay có thể coi như chương

trình triết học căn bản phổ thông trong các trường học ở Việt Nam.

Để làm cho định nghĩa của Hegel trở nên dễ hình dung hơn,

giáo viên có thể giải thích: “Đây nhé, các em là học sinh, nghĩa vụ

của các em là đến trường, đi học. Khi đi học thì phải làm bài đầy

đủ, thi cử nghiêm túc. Đó là những nghĩa vụ tất yếu. Các em ý thức

được đó là cái tất yếu thì các em sẽ học hành chăm chỉ, không trốn

tiết, bỏ thi, và cứ làm đúng như thế là các em có tự do. Nếu không

làm đúng như thế thì các em sẽ bị trừng phạt, tức là bị kỷ luật, bị

thầy cô giáo và cha mẹ nhắc nhở và mất tự do. Như thế nghĩa là tự

do là nhận thức cái tất yếu”.

Có thể bạn sẽ thấy với định nghĩa này, tự do vẫn có cái gì đó hạn

hẹp quá, trong khuôn khổ quá. Tóm lại, nó không thỏa đáng.

Một triết gia khác, John Locke (1632-1704), đưa ra định nghĩa:

“Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình

mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào”.

Căn cứ vào định nghĩa của Locke, rõ ràng là nếu ai cũng có thể

làm bất cứ điều gì mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở

nào, thì cuối cùng tự do của người này sẽ xâm phạm và cản trở tự

do của người kia; hay nói cách khác, tự do của người này đồng thời

lại là sự mất tự do của người kia. Có thể nào như vậy chăng? Định

nghĩa này xem ra cũng không thỏa đáng lắm.

Năm 1958, triết gia người Do Thái Isaiah Berlin (1909-1997),

 

136 | Phạm Đoan Trang

sinh tại Nga nhưng di tản sang Anh, đã có một bài giảng nổi tiếng

nhan đề “Hai khái niệm tự do” (Two Concepts of Liberty). Ông cho

rằng, tồn tại hai loại, hay nói đúng hơn, hai cách hiểu về tự do: Tự

do không và Tự do có. 1

Theo Berlin, tự do không là cách hiểu chung của Thomas

Hobbes, John Locke, Friedrich von Hayek và Ludwig von Mises về

tự do, theo đó, tự do là khả năng một người có thể làm bất cứ điều

gì mình muốn mà không chịu sự can thiệp nào từ bên ngoài. Từ

gốc trong tiếng Anh là “negative freedom”, trong đó từ “negative”

có thể được dịch sang tiếng Việt là âm tính, phủ định, tiêu cực, thụ

động. Tuy nhiên, tự do không hoàn toàn không mang nghĩa tiêu

cực, mà chỉ hàm ý là không có sự can thiệp từ bất cứ ai/cái gì bên

ngoài. Hiểu như vậy thì chính tự do không mới là tự do tuyệt đối.

Friedrich von Hayek (1899-1992) cho rằng hình thức can thiệp

phá vỡ tự do nhất là sự cưỡng chế, cưỡng ép – tức là những hành

động có chủ ý của một/các cá nhân khác nhằm khống chế, kiểm

soát môi trường hoặc hoàn cảnh của một người nào đó, buộc người

ấy phải hành động (hoặc không hành động) không theo ý chí thống

nhất của mình mà là theo ý muốn của một/các cá nhân khác đó.

Định nghĩa của Hayek về sự cưỡng chế, cưỡng ép có hai điểm

quan trọng là “hành động có chủ ý” và “của cá nhân khác”. Ví dụ,

nếu bạn bị rơi xuống hang và bị kẹt trong đó, không ra được, thì như

thế không phải là mất tự do. Chỉ khi có kẻ nào đó đẩy bạn vào hang

và/hoặc nhốt bạn trong hang (có chủ ý) thì khi ấy bạn mới mất tự

do. Ngay cả nếu kẻ kia chỉ vô tình khóa bạn lại trong một căn buồng

(không chủ ý) thì cũng không thể nói bạn mất tự do được.

Ngoài ra, nếu bạn bị cản trở hành động bởi những nguyên nhân

bên trong bạn (không phải các tác nhân bên ngoài) thì đó cũng

không phải là sự can thiệp làm mất tự do. Một người tàn tật, ốm

1. Phần diễn giải các quan niệm về tự do của Isaiah Berlin, Friedrich von Hayek và Jean

Jacques Rousseau lấy từ “Political Philosophy - A Complete Introduction”, Phil Parvin &

Clare Chambers, McGraw-Hill Companies, Inc., 2012.

 

Chính trị bình dân | 137

 

yếu chẳng hạn, không thể đi bộ băng qua đường nếu không có ba-

toong hay xe lăn, thì cũng vẫn được coi là tự do: Anh/chị ta có

 

quyền tự do sang đường.

Từ việc tự do không hàm ý không có sự can thiệp, có thể suy

luận rằng tự do có là thứ tự do có điều kiện. Tự do có là việc một

người có thể và thực sự có khả năng hành động theo ý nguyện

của mình. Nói cách khác, cá nhân có tự do này khi anh/chị ta

làm chủ chính mình và có thể tự chịu trách nhiệm về hành động

của bản thân.

 

Nếu bạn theo thuyết “tự do có (điều

kiện)” thì người tàn tật là người không

tự do.

Nếu bạn theo thuyết “tự do không (điều

kiện)” thì người tàn tật vẫn là người tự

do, nếu không bị bất cứ sự can thiệp nào

từ bên ngoài.

 

Như vậy, một người tàn tật, ốm yếu, không thể đi bộ băng qua

đường dù muốn lắm, thì là người mất tự do. Anh/chị ta bị hạn chế

tự do bởi vì không làm chủ được cơ thể mình, đôi chân của mình.

Những người nghèo, dù được toàn quyền mua nhà ở, thức ăn nước

uống, quần áo, nhưng không có nổi tiền để mua những thứ đó dù

rất muốn, thì cũng là không có tự do. Anh/chị ta bị hạn chế tự do

bởi vì không có đủ năng lực (tài chính) để hành động theo ý nguyện

cá nhân.

Một triết gia đại diện cho cách hiểu này về tự do là Jean Jacques

Rousseau (1712-1778).

Từ hai khái niệm về tự do nói trên, bạn có thể thấy: Theo quan

điểm của những người ủng hộ tự do không, nhà nước tôn trọng tự

do của người dân là nhà nước tối thiểu, ít can thiệp nhất có thể.

Còn đối với những người theo quan niệm về tự do có, nhà nước tôn

trọng tự do của dân là nhà nước có những biện pháp để thúc đẩy

 

138 | Phạm Đoan Trang

xã hội theo hướng họ muốn, ví dụ xóa đói giảm nghèo để tăng

năng lực cho một bộ phận dân chúng, đánh thuế để điều chỉnh thu

nhập của người giàu và chia cho người nghèo, v.v.

Isaiah Berlin cho rằng cách hiểu về tự do theo nghĩa tự do có

thật ra rất nguy hiểm vì nó gợi ý khả năng một hoặc một số người

tự cho mình quyền phán xét xem ai đang tự do, ai đang không tự

do. Trên bình diện xã hội, nó mở đường cho việc nhà nước can

thiệp, định hướng, và kịch bản tồi tệ nhất là trở thành chuyên chế.

3. Lý trí, sự duy lý

Chủ nghĩa tự do cho rằng mỗi cá nhân đều có khả năng ra các

quyết định duy lý có lợi cho mình. Do đó, triết lý tin rằng con người

có thể giải quyết khác biệt thông qua tranh biện thay vì bạo lực.

Dựa trên nền tảng chủ nghĩa tự do, các nhà kinh tế học cổ điển và

tân cổ điển cho rằng bản chất của con người là duy lý, tự chủ và ích

kỷ (theo đuổi tư lợi), và một cách tự nhiên, trong quá trình con

người hành động duy lý vì lợi ích cá nhân, xã hội cũng được hưởng

lợi và trở nên thịnh vượng.

Như vậy, từ góc nhìn của chủ nghĩa tự do, duy lý là một phẩm

chất tốt. Người duy lý là người hành động theo một cách có lý, có

logic, thay vì cảm tính, thậm chí bản năng như con vật.

Chỉ tiếc là, duy lý được thì tốt nhưng trên thực tế người ta lại không duy

lý. Vào những năm 1970, hai nhà tâm lý học Amos Tversky và Daniel

Kahneman đã nghiên cứu cách não bộ xử lý thông tin, đối chiếu với các

mô hình kinh tế, và rồi rút ra một kết luận: Khi đối diện với tình huống bất

trắc, con người không hề hành xử duy lý, cũng chẳng bừa phứa ngẫu

nhiên, mà là theo những quy tắc được tự hình thành từ trước, có thể dự

đoán, và bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm và/hoặc môi trường. Ví dụ, ai đã

từng bị bỏng khi sờ tay vào chảo nóng thì có xu hướng sẽ cẩn thận hơn sau

này, mỗi khi cầm chảo.

Tất nhiên, kết luận của Tversky và Kahneman cũng chỉ là một trong vô vàn

lý thuyết. Nhưng nói chung, con người không duy lý, bởi nếu duy lý họ đã

không ồ ạt mua/bán chứng khoán, đổ xô đi rút tiền ngân hàng, hút thuốc

lá đến khan cả cổ hay làm nhiều chuyện khác không mang lại tư lợi cho họ.

 

Chính trị bình dân | 139

 

Thế nên các nhà tâm lý học và kinh tế học hành vi mới cho rằng giả định

“con người duy lý” là một giả định sai; con người có xu hướng phản ứng

với cảm xúc (yêu, ghét, phấn khích, ghen tuông, đau khổ...) hơn và chính

vì thế họ trở thành cảm tính, phi lý trí.

Đặc biệt, trong những tình huống bất trắc, thì đám đông ai cũng phi lý trí

cả. Đòi hỏi sự duy lý ở cộng đồng mạng, nhất là trong một bối cảnh chính

trị rối ren, lòng dân vốn đã đầy ức chế và bức xúc, là một đòi hỏi ngớ

ngẩn.

Duy lý là một đặc điểm tốt, có lợi cho người có nó và mọi người

xung quanh (tức là tốt cho cả cá nhân và cộng đồng). Tuy nhiên,

dường như cái gì tốt thì hiếm, trong thực tế chúng ta khó mà đạt

được sự duy lý luôn luôn trong suy nghĩ và hành động. Nếu học về

kinh tế hay luật thì bạn hẳn là đã nghe nhắc đến ví dụ: Ai cũng biết

hút thuốc lá là có hại cho sức khỏe, không hút thì có lợi hơn, ít nhất

cũng đỡ hại hơn, và vì thế nếu suy nghĩ một cách duy lý, theo đuổi

lợi ích riêng, thì không ai lại hút thuốc lá. Nhưng thực tế là rất

nhiều người vẫn hút, thậm chí còn nghiện.

 

11:59 đêm: Tôi sắp đi ngủ...

5:30 sáng: Sao tôi lại vẫn ngồi đây,

đọc Wikipedia về lý thuyết hạt nhân

cao cấp?

 

Dù vậy, duy lý, có lý trí, vẫn là một đặc trưng của chủ nghĩa tự

do.

 

140 | Phạm Đoan Trang

 

“Người duy lý thích nghi với thế giới. Người phi lý trí kiên trì, cố gắng làm

cho thế giới thích nghi với mình. Do đó, mọi sự tiến bộ đều trông cậy vào

người phi lý trí”.

 

(George Bernard Shaw)

 

4. Bình đẳng

Triết học chính trị đề cập tới hai khái niệm hay là hai loại bình đẳng

khác nhau:

- Bình đẳng về cơ hội, hay là bình đẳng về đầu vào;

- Bình đẳng về kết quả, hay là bình đẳng về đầu ra.

Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (công bố vào ngày

4/7/1776) nêu rõ: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng”. Chúng

ta ghi nhận tính nhân văn của nguyên tắc này, tuy nhiên, thực tế rõ

ràng là tất cả mọi người đều sinh ra khác nhau về đủ thứ và bất

bình đẳng về nhiều thứ. Trong cuộc sống, tất cả mọi người cũng

khác nhau và hoàn toàn có thể bất bình đẳng về trí tuệ, tài năng,

ngoại hình, sức khỏe, quốc tịch, giai cấp, thành phần xã hội, ý chí...

Do đó, sự bình đẳng về kết quả (về đầu ra) là không thể có. Vì vậy,

có lẽ nên hiểu “tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng” là một sự

khẳng định nguyên tắc bình đẳng về cơ hội (đầu vào) thì đúng hơn.

Cá nhân người viết cho rằng nguyên tắc bình đẳng lý tưởng

nhất là tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng về nhân quyền.

Chủ nghĩa tự do gắn với tôn trọng nhân quyền và bình đẳng, và

bản thân khái niệm nhân quyền cũng dựa trên cây cột trụ có tên

“bình đẳng”: Nhân quyền là những quyền cơ bản, phổ quát của tất

cả mọi người; tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng về nhân

quyền. Tôn trọng nhân quyền cũng có nghĩa là đòi hỏi mọi người

phải được đối xử với sự tôn trọng như nhau, ví dụ như không thể

có chuyện “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một con trai cũng

là có, mà 10 con gái cũng là không). Tương tự, không thể quan

niệm “nhân quyền Mỹ” thì khác với “nhân quyền Việt Nam”, người

Mỹ có thể tự do phát triển mọi năng lực bản thân còn dân Việt

Nam thì chỉ cần “có cơm ăn áo mặc” là đủ rồi.

 

Chính trị bình dân | 141

Chủ nghĩa tự do cổ súy nhân quyền và bình đẳng, nhưng không

phải bình đẳng chung chung.Chủ nghĩa tự do ủng hộ bình đẳng về

cơ hội, và phản đối bình đẳng về kết quả, coi đó là một sự cào bằng.

Những người theo chủ nghĩa tự do đề cao một xã hội phát huy tối

đa năng lực, khả năng cá nhân (giải phóng cái tôi), ai có tài thì

hưởng thành công, ai bất tài thì phải chấp nhận thất bại. Trong

tiếng Anh, xã hội này được gọi là “meritocracy” (chưa có từ tiếng

Việt tương ứng).

5. Tinh thần khoan dung, chấp nhận

Khoan dung là sự sẵn sàng để người khác suy nghĩ, nói và hành

động theo cách mà mình không tán thành.Chủ nghĩa tự do cổ súy

đa nguyên và tự do quan điểm, cũng có nghĩa là tính khoan dung,

bao dung là một thuộc tính bắt buộc của nó.

6. Đồng thuận

Chủ nghĩa tự do cho rằng quyền lực và quan hệ xã hội phải dựa

trên nguyên tắc đồng thuận: tự nguyện thỏa thuận và tự nguyện

đồng ý. Xã hội vận hành trên cơ sở một khế ước được mọi người

đồng thuận. Tổ chức vận hành trên cơ sở điều lệ được mọi người

đồng thuận.

7. Hợp hiến

Hợp hiến, tuân thủ hiến pháp, hay dịch sát nghĩa từ “constitutional”

là “mang tính chất hiến pháp”, nghĩa là mang tính chất của một thứ

luật cơ bản, nguồn của các luật, quy định về tổ chức bộ máy nhà

nước, quyền hạn của nhà nước, quan hệ giữa nhà nước với người

dân, và quyền của người dân (nhân quyền, dân quyền).

Nói cách khác, hợp hiến tức là cho rằng quyền lực của nhà nước

phải bị giới hạn để nhà nước không lạm quyền và do đó, đảm bảo

nhân quyền. Chủ nghĩa lập hiến (constitutionalism) là ý thức hệ

cho rằng quyền lực của nhà nước phải bị giới hạn để nhà nước

không lạm quyền và nhờ đó đảm bảo nhân quyền

 

142 | Phạm Đoan Trang

Hợp hiến, theo nghĩa đó, là một trong các thành tố của chủ

nghĩa tự do. Người theo chủ nghĩa tự do quan niệm chính quyền

có nghĩa vụ đảm bảo trật tự, ổn định nhưng trên thực tế, chính

quyền luôn có nguy cơ độc tài, chà đạp quyền con người. Do đó,

cần phải cổ súy mô hình nhà nước nhỏ gọn, thu hẹp quyền lực nhà

nước bằng cơ chế cân bằng quyền lực và một bản hiến pháp bảo vệ

nhân quyền, bảo vệ người dân khỏi nhà nước.

 

Chương III

CHỦ NGHĨA BẢO TỒN 1

 

Chủ nghĩa bảo tồn ra đời vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, như

một sự phản ứng lại đà nổi lên của chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã

hội và chủ nghĩa dân tộc. Lâu nay, người Việt vẫn gọi nó là “chủ

nghĩa bảo thủ”, nhưng vì từ “bảo thủ” hàm ý tiêu cực (thủ cựu, cố

chấp, không chấp nhận cái mới), nên người viết muốn chọn một

cách gọi khác, trung tính hơn, là “bảo tồn”.

Chủ nghĩa bảo tồn được cấu thành bởi các thành tố sau: 1.

Truyền thống; 2. Chủ nghĩa thực dụng, tính thực dụng; 3. Quan

điểm “con người không hoàn hảo”; 4. Tôn ti trật tự, thứ bậc; 5.

Quyền lực của lãnh đạo; 6. Tư hữu tài sản.

1. TRUYỀN THỐNG

Chủ nghĩa bảo tồn có đặc trưng là sự tôn trọng truyền thống,

phong tục tập quán và các thiết chế lâu đời. Trong quan niệm của

người theo chủ nghĩa bảo tồn, truyền thống là trí tuệ của nhiều thế

hệ tích lũy lại, đã được kiểm nghiệm bởi thời gian, cho nên nó

đúng đắn, khôn ngoan, đảm bảo duy trì ổn định, trật tự xã hội, và

vì thế cần được tôn trọng, bảo tồn.

Xin lưu ý, chủ nghĩa bảo tồn ra đời ở phương Tây, cho nên

“truyền thống” ở đây cũng là truyền thống của phương Tây, theo

cách hiểu của người phương Tây. Nó không phải phong tục tập

1. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Palgrave Foundations, 2007.

 

144 | Phạm Đoan Trang

quán và các thiết chế của các nước châu Á như Việt Nam, ví dụ,

không phải là quan niệm “ăn cây nào, rào cây ấy” hay “ăn cỗ đi

trước, lội nước theo sau”, v.v.

Người theo chủ nghĩa bảo tồn tôn trọng truyền thống, có nghĩa

là họ đề cao sự quân tử, tinh thần quý tộc chẳng hạn. Đối với họ, xã

hội nên được cai trị bởi các giá trị: sự thủy chung, trung thành, và

bởi tầng lớp quý tộc, không phải bởi các công ty vì lợi nhuận. Xã

hội phải duy trì nền tảng đạo đức, được dẫn dắt bởi truyền thống

và tôn giáo, không phải bởi thị trường tự do.

2. CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG

Chủ nghĩa thực dụng là một ý thức hệ của Mỹ hay nói đúng hơn,

của triết học Mỹ. Nó là ý thức hệ cho rằng chỉ có lý thuyết/ hành

động nào đã được thực thi và kiểm nghiệm trên thực tế, có mục

đích thực tế, và dùng được (khả dụng), mới tốt. Đối với triết gia

theo chủ nghĩa thực dụng, ý thức, tư duy không phải là để phản

ánh hiện thực. Ý thức, tư duy là công cụ để dự đoán vấn đề, giải

quyết vấn đề, và hành động.

Chủ nghĩa thực dụng cũng là một yếu tố cấu thành nên chủ nghĩa

bảo tồn. Những người theo chủ nghĩa bảo tồn tin vào truyền thống,

kinh nghiệm thực tiễn, lịch sử, và theo trường phái thực dụng.

3. QUAN NIỆM “CON NGƯỜI KHÔNG HOÀN HẢO”

Chủ nghĩa bảo tồn bi quan về con người: năng lực có giới hạn, phụ

thuộc, dựa dẫm, chỉ dám dùng cái gì đã được thử nghiệm kiểm

chứng, thích sự ổn định, an toàn, trật tự. Về mặt đạo đức, con người

tham lam, ích kỷ, thèm khát quyền lực và danh lợi, và tội ác sinh ra

từ mỗi con người chứ không phải từ xã hội.

Do đó, chủ nghĩa bảo tồn cổ súy nhà nước mạnh, luật pháp

nghiêm minh để đảm bảo duy trì trật tự và kiểm soát những mặt

tiêu cực tự nhiên của con người.

 

Chính trị bình dân | 145

 

4. TÔN TI TRẬT TỰ, THỨ BẬC

Chủ nghĩa bảo tồn thủ trọng tôn ti trật tự, thứ bậc trong xã hội,

trong tổ chức. Xã hội phải có tôn ti trật tự, thứ bậc, ai cũng biết vai

trò và trách nhiệm của mình.

Chủ nghĩa bảo tồn cho rằng mỗi người trong xã hội đều có vai

trò và trách nhiệm, nghĩa vụ đối với nhau (chủ với thợ, giáo viên

với sinh viên, bố mẹ với con cái v.v.). Người theo chủ nghĩa bảo tồn

luôn đề cao trách nhiệm, ví dụ, người giàu sang, may mắn phải có

trách nhiệm với người nghèo khổ, bất hạnh.

Ở khía cạnh nhấn mạnh vào tôn ti trật tự trong xã hội và tự do

kinh tế này, chủ nghĩa bảo tồn không đề cao sự bình đẳng như là

một giá trị cần theo đuổi; và vì thế so với chủ nghĩa tự do thì nó có

khuynh hướng “hữu” hơn. Những người bảo tồn được coi là đi

theo thiên hướng chính trị cánh hữu.

“Một người càng coi bình đẳng tuyệt đối giữa người với người là một điều

kiện đáng khao khát, thì ông ta/bà ta sẽ càng ngả về phía tả hơn trên phổ

ý thức hệ. Một người càng coi bất bình đẳng là điều không thể tránh được,

thậm chí đáng khao khát, thì ông ta/ bà ta sẽ càng ngả về phía hữu hơn”.*

(Roderick Stackelberg)

 

* “Hitler’s Germany”, Roderick Stackelberg, Routledge, 1999.

5. QUYỀN LỰC

Chủ nghĩa bảo tồn cho rằng lãnh đạo có quyền và nghĩa vụ định

hướng, dẫn dắt, hỗ trợ cấp dưới vì họ có kinh nghiệm, tài năng,

trình độ hơn - giống như cha mẹ với con cái. Tự do phải đi cùng

với trách nhiệm, mỗi người phải sẵn sàng chấp nhận trách nhiệm

và nghĩa vụ của mình.

6. TƯ HỮU TÀI SẢN

Chủ nghĩa bảo thủ đề cao việc sở hữu tài sản, coi đó là điều tối quan

trọng để giúp con người được an toàn và độc lập trước chính quyền.

Tuy nhiên, ngay cả sở hữu tài sản thì cũng phải đi liền với trách

nhiệm, như người giàu phải có trách nhiệm với người nghèo, bởi

 

146 | Phạm Đoan Trang

như đã nói, tự do luôn đi cùng trách nhiệm. Người giàu có một

nghĩa vụ cao quý là phải chăm lo cho người nghèo, gồm cả công

nhân, nông dân, không để họ thất nghiệp, đói rách.

Áp dụng tư tưởng bảo tồn trong lĩnh vực kinh tế chẳng hạn,

người theo chủ nghĩa bảo tồn quan niệm: Nhà nước hạn chế can

thiệp vào nền kinh tế. Nhà nước chỉ có nghĩa vụ bảo đảm thực thi

pháp luật, thực hiện hợp đồng. Doanh nghiệp phải được quyền tự

do về kinh tế để phát triển và tạo ra sự thịnh vượng cho xã hội.

Tuy nhiên, trong các lĩnh vực ngoài kinh tế, đặc biệt là đạo đức

và tôn giáo, thì chủ nghĩa bảo tồn lại ủng hộ sự can thiệp của nhà

nước. Đối với họ, nhà nước phải cổ súy hôn nhân bền vững, cổ súy

quan hệ tình dục khác giới và chung thủy, phản đối quan hệ đồng

giới, chống nạo phá thai, cấm văn hóa phẩm đồi trụy, v.v.

Đó là lý do vì sao bạn thấy ở Mỹ, đảng Cộng hòa (đảng mà ý

thức hệ họ theo đuổi là chủ nghĩa bảo tồn) phản đối nạo phá thai.

Ở Anh, chính đảng theo đuổi chủ nghĩa bảo tồn là đảng Bảo

thủ. Chủ nghĩa bảo tồn được gọi là Toryism trong tiếng Anh, đảng

viên đảng Bảo thủ thì được gọi là người Tory.

Đã nói tới hai ý thức hệ rất quan trọng trong triết học chính trị,

là chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo tồn (bảo thủ), thì chúng ta

cũng nên nói đến một đất nước, hay là một nền chính trị, nổi tiếng

với hai chính đảng lớn theo đuổi hai ý thức hệ này và không ngừng

cạnh tranh nhau: Mỹ, với đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa.

 

* * *

 

CHỦ NGHĨA TỰ DO VÀ CHỦ NGHĨA BẢO TỒN Ở MỸ 1

Chủ nghĩa tự do, như chúng ta đã bàn đến từ Chương II, là chủ

1. “Governing: An Introduction to Political Science”, Austin Ranney, 8th, Prentice Hall,

2001.

 

Chính trị bình dân | 147

nghĩa tự do cổ điển, nghĩa là chủ nghĩa tự do theo nghĩa nguyên

thủy của nó. Nó ra đời từ cuối thế kỷ 18, và có đặc thù là đề cao tự

do, chủ nghĩa cá nhân, sự duy lý, bình đẳng, tinh thần khoan dung,

đồng thuận, hợp hiến (hạn chế quyền lực nhà nước để bảo vệ nhân

quyền), như chúng ta đã biết.

Tuy nhiên, ở Mỹ, kể từ giữa những năm 1930 dưới thời Tổng

thống Franklin Delano Roosevelt (đảng Dân chủ) và chính sách

New Deal của chính phủ Roosevelt, người ta lại nói đến chủ nghĩa

tự do như một ý thức hệ không chỉ cổ súy tự do cá nhân mà lại ủng

hộ cả việc nhà nước điều hành và can thiệp vào nền kinh tế để bảo

đảm mức sống tối thiểu và công ăn việc làm cho người dân. Quá dễ

gây lẫn lộn, phải không? Do vậy, để khỏi nhầm lẫn ý thức hệ này

với chủ nghĩa tự do cổ điển, người ta gọi nó là chủ nghĩa tự do hiện

đại ở Mỹ.

Những người tự do theo chính sách New Deal cho rằng tự do

thật sự phải là “tự do có”, tức là có sự can thiệp chủ động của nhà

nước để bảo vệ người dân khỏi đói nghèo. Nhà nước không thể

không làm gì cả, phó mặc tất cả cho thị trường tự do, mà phải là

một nhà nước phúc lợi, tức là phải đảm bảo cho mỗi công dân

những điều kiện tối thiểu để có thể sống một cuộc đời đạo đức.

Điều này khiến cho đảng Dân chủ có xu hướng “tả”. Đấy là trong

lĩnh vực kinh tế.

Tuy nhiên, ở các lĩnh vực ngoài kinh tế, những người theo chủ

nghĩa tự do hiện đại ở Mỹ lại không ủng hộ sự can thiệp của nhà

nước, nhất là vào các vấn đề tôn giáo và đạo đức. Ví dụ, họ đòi hỏi

nhà nước thế tục (tách biệt chính quyền với thần quyền), không

tán thành cầu nguyện tập thể trong các trường công, chống kiểm

duyệt văn hóa, và ủng hộ quyền nạo phá thai của phụ nữ vì coi đó

là quyền của người phụ nữ tự quyết định những gì thuộc về cơ

thể mình.

 

148 | Phạm Đoan Trang

 

Truyền thông của hai đảng chỉ trích nhau suốt ngày.

Tranh của Dave Grandlund.

 

Chủ nghĩa bảo tồn ở Mỹ, ban đầu, cũng là ý thức hệ đề cao các

giá trị và thiết chế truyền thống, tôn ti trật tự và trách nhiệm, đề

xuất xã hội cần được cai trị bởi tầng lớp quý tộc thay vì doanh nhân

mới nổi, như chúng ta đã bàn. Tuy nhiên, kể từ những năm 1930

dưới thời Roosevelt, chủ nghĩa bảo tồn trở thành từ để chỉ ý thức

hệ của tất cả những người chống lại chính sách New Deal của Tổng

thống Roosevelt và đảng Dân chủ. Người ta gọi nó là chủ nghĩa bảo

tồn hiện đại ở Mỹ. Nó có hai nội dung chính:

- Ủng hộ tự do kinh tế tuyệt đối: Những người bảo tồn này cho

rằng nhà nước chỉ cần bảo đảm các nguyên tắc pháp luật hỗ trợ và

thúc đẩy thị trường tự do, và chẳng nên can thiệp gì khác vào nền

kinh tế. Thuế phải thấp, chỉ nên ở mức tối thiểu. Tất cả nhằm

khuyến khích tự do kinh tế. Điều này khiến cho những người bảo

tồn có xu hướng “hữu”.

- Bảo vệ, bảo tồn các giá trị truyền thống, như hôn nhân (dị

tính) và gia đình, lòng chung thủy, sự ngoan đạo, đạo đức. Những

người bảo tồn cho rằng nhà nước có quyền can thiệp để gìn giữ các

giá trị đó, đồng thời, ủng hộ cầu nguyện tập thể trong trường công,

 

Chính trị bình dân | 149

chống nạo thai, tán thành kiểm duyệt văn hóa (chẳng hạn, cấm

phim ảnh đồi trụy).

Những người theo chủ nghĩa bảo tồn ở Mỹ được cho là đã tóm

tắt quan điểm của họ lại trong 10 từ sau đây: Stronger Defense, Free

Economy, Lower Tax, Smaller Government, Family Values. Có

nghĩa là (theo thứ tự):

Quốc phòng mạnh Thị trường

tự do Thuế thấp

Bộ máy

nhà nước

nhỏ hơn

Các giá trị

gia đình

Đảng Cộng hòa ở Mỹ là đảng theo đuổi chủ nghĩa bảo tồn hiện

đại này.

Như vậy, ở Mỹ, đảng Dân chủ (theo chủ nghĩa tự do hiện đại) có

xu hướng “tả”, còn đảng Cộng hòa (theo chủ nghĩa bảo tồn hiện

đại) có xu hướng hữu. Tuy nhiên, không phải cứ đảng nào xưng

tên là Dân chủ thì đều có xu hướng tả. Ví dụ như ở Đức, đảng Dân

chủ Thiên Chúa giáo (CDU) lại là đảng bảo tồn, bởi họ đề cao tầm

quan trọng của các thiết chế trung gian như nhà thờ, công đoàn...

Về kinh tế, CDU cổ súy kinh tế thị trường với điều kiện phát triển

phải vì lợi ích chung, đảm bảo xã hội hòa hợp.

* * *

SAO LẠI GỌI LÀ “CÁNH TẢ”, “CÁNH HỮU”?

Trong Hán Việt, tả là trái, hữu là phải. Từ đâu mà nảy sinh khái

niệm “cánh tả”, “cánh hữu” trong chính trị?

Nguồn gốc của chúng được cho là bắt đầu từ thời Cách mạng

Pháp. Mùa hè năm 1789, Quốc hội nước Pháp họp soạn thảo hiến

pháp. Các đại biểu bất đồng sâu sắc xoay quanh việc nên để cho vua

Louis XVI nắm quyền lực đến đâu. Hai phe, theo hai quan điểm

chính, dần dần đứng sang hai bên trong hội trường. Phe cách

mạng, chống lại hoàng gia, đứng về bên tay trái chủ tọa, còn phe

 

150 | Phạm Đoan Trang

quý tộc bảo thủ (bảo tồn), ủng hộ nền quân chủ, thì tập trung lại

phía tay phải chủ tọa.

Về sau, báo chí bắt đầu nói về phe “tả” cấp tiến và phe “hữu”

truyền thống trong Quốc hội Pháp. Bước sang thế kỷ 19, các nhà lập

pháp theo hai chủ nghĩa – tự do và bảo tồn – lại tiếp tục đứng về

cánh trái và cánh phải trong cơ quan lập pháp. Cho đến giữa thế kỷ

19, từ “tả” và “hữu” đã có mặt trong tiếng Pháp như cách gọi tên

ngắn gọn các ý thức hệ chính trị đối lập nhau. Các đảng phái cũng

bắt đầu tự định vị mình là “trung tả”, “trung hữu”, “cực tả”, “cực hữu”.

Từ tiếng Pháp, khái niệm “tả” và “hữu” cũng lan dần sang tiếng

Anh và các nước nói tiếng Anh.

Người ta còn diễn tả một số ý thức hệ chính trị phổ biến, có ảnh

hưởng, lên một biểu đồ gọi là “dải ý thức hệ”, “phổ ý thức hệ”, và

trong cái phổ đó, các chủ nghĩa có xu hướng “tả” thì nằm về bên tay

trái, “hữu” thì về bên tay phải, như trong hình dưới đây.

 

Người dịch dùng từ “chế độ” ở hai khái niệm “chế độ quân chủ”

và “chế độ quốc xã” vì cách gọi này có vẻ quen thuộc với độc giả

Việt Nam hơn, nhưng thực chất đó cũng là hai chủ nghĩa – ý thức

hệ chính trị (tiếng Anh tương ứng là monarchism và nazism).

 

Chương IV

 

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI

 

Những tư tưởng chủ nghĩa xã hội thai nghén từ tác phẩm Utopia

(xuất bản năm 1516 bằng tiếng Latin, tiếng Việt dịch là: Không

tưởng) của Thomas More, thậm chí xa xưa hơn nữa, từ tác phẩm

Republic (viết bằng tiếng Hy Lạp, khoảng năm 380 trước Công

nguyên, tiếng Việt: Nền cộng hòa) của Plato.

Bản thân khái niệm chủ nghĩa xã hội thì hình thành từ đầu thế

kỷ 19, với mục tiêu nguyên thủy là xóa bỏ nền kinh tế tư bản (dựa

trên sở hữu tư nhân và trao đổi thị trường), xây dựng xã hội dựa

trên công hữu.

 

Chủ nghĩa xã hội đối lập với chủ nghĩa tư bản

Chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa tư bản

Một hệ thống kinh tế trong đó

phương tiện sản xuất, phân phối và

trao đổi đều là công hữu (của

chung) và do nhà nước quản lý, vận

hành.

 

Một hệ thống kinh tế trong đó

phương tiện sản xuất, phân phối và

trao đổi phần lớn là tư hữu (của tư

nhân) và do tư nhân quản lý, vận

hành.

 

Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội phát triển trong thế kỷ 19 với một

sự thống nhất chung rằng chủ nghĩa tư bản, dựa trên thiết chế sở

hữu tư nhân và người bóc lột người, là nguồn gốc của nghèo đói và

bất công. Do đó, cách duy nhất để chống lại sự xấu xa của chủ

 

152 | Phạm Đoan Trang

nghĩa tư bản là để cho xã hội sở hữu chung về phương tiện sản

xuất, hệ thống phân phối và trao đổi, mà nhà nước là đại diện quản

lý.Nhà nước có thể mua lại hoặc tịch thu “những đỉnh cao chỉ huy”

1

của nền kinh tế và phân phối sản phẩm, dịch vụ cho các cá nhân

tùy theo nhu cầu của mỗi cá nhân. Vị đại diện nổi bật và có ảnh

hưởng lớn nhất cho quan điểm này là Karl Marx (Các Mác).

Đến cuối thế kỷ 19 thì nổi lên trường phái cải cách chủ nghĩa xã

hội: đưa công nhân hội nhập dần vào xã hội tư bản thông qua cải

thiện điều kiện lao động, tăng tiền công, phát triển công đoàn và

các đảng xã hội; ủng hộ chuyển đổi từ từ, ôn hòa, hợp pháp, sang

chủ nghĩa xã hội; ủng hộ đấu tranh nghị trường hơn là bạo lực cách

mạng. Một đại diện của quan điểm này là Eduard Bernstein (1850-

1932), “ông tổ” của chủ nghĩa xét lại. Ông này khẳng định: Không

có chiến tranh giai cấp, và xã hội có thể chuyển đổi ôn hòa sang chế

độ xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa xét lại

Là ý thức hệ sửa đổi, điều chỉnh lại những quan niệm nguyên thủy của một

ý thức hệ khác, cũng có thể được coi như sự từ bỏ những nguyên tắc ban

đầu của ý thức hệ khác đó.

Trong phong trào cộng sản quốc tế, chủ nghĩa xét lại được hiểu là sự sửa

đổi, điều chỉnh lại những quan niệm của chủ nghĩa Mác thuần túy.

Trong những năm 40 và 50 của thế kỷ 20, từ “xét lại” được Stalin và những

người ủng hộ ông ta dùng để gọi những người cộng sản nào cho rằng cần

phải ưu tiên hàng tiêu dùng hơn công nghiệp nặng, chấp nhận sự khác biệt

giữa các dân tộc thay vì cổ súy tinh thần vô sản quốc tế, khuyến khích cải

cách dân chủ thay vì trung thành với học thuyết Mác. Tất nhiên, khi đó, “xét

lại” là một trọng tội và người xét lại sẽ bị nghiêm trị, bị thanh trừng.

 

1. Những đỉnh cao chỉ huy (commanding heights) của nền kinh tế là khái niệm do Lenin

sử dụng để chỉ những ngành kinh tế có thể kiểm soát và hỗ trợ được cho các ngành khác.

Có thể hiểu chúng như những ngành “mũi nhọn” của nền kinh tế, chẳng hạn dầu khí,

thép, điện lực... Gần đây có quan điểm cho rằng giáo dục và y tế cũng có thể được coi là

các đỉnh cao chỉ huy mới. Ở Việt Nam, có người dịch “commanding heights” là “cao điểm

chiến lược” để cho có sắc thái quân sự.

 

Chính trị bình dân | 153

 

Trong những năm 60 của thế kỷ 20, từ “xét lại” lại được Mao Trạch Đông

và đảng Cộng sản Trung Quốc dùng để công kích Nikita Khrushchev và

đảng Cộng sản Liên Xô. Ở Việt Nam thời gian đó, hàng chục người bị quy

kết là “xét lại” đã bị các “đồng chí” cộng sản của họ, đứng đầu là Lê Duẩn

và Lê Đức Thọ, bỏ tù không qua xét xử. Một trong những người bị tù oan

là ông Vũ Thư Hiên – nhà văn, nhà biên kịch, nhà báo, dịch giả, con trai

của cụ Vũ Đình Huỳnh (thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Ông Hiên bị

tù 9 năm không án. Câu chuyện này đã được ông thuật lại trong hồi ký

chính trị nổi tiếng Đêm giữa ban ngày.

Bước sang đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa xã hội chia thành hai khối:

- Khối cách mạng, tức là cộng sản: đi đầu là Lenin và đảng

Bolshevik của ông ta, chủ trương công hữu và kế hoạch hóa tập

trung.

- Khối cải cách, sau này trở thành dân chủ xã hội, chủ trương tái

phân phối thông qua phúc lợi và quản lý kinh tế. Những tư tưởng

đó bắt nguồn từ tư tưởng của nhà “xét lại” Eduard Bernstein.

Bây giờ chúng ta sẽ bàn sâu hơn về các yếu tố cấu thành chủ

nghĩa xã hội, và một số hình thái chủ nghĩa xã hội trong lịch sử

hiện đại.

CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Chủ nghĩa xã hội truyền thống (theo nghĩa nguyên thủy của nó,

hình thành vào đầu thế kỷ 19) được cấu thành bởi các yếu tố sau:

1. Cộng đồng; 2. Tinh thần bác ái; 3. Bình đẳng xã hội; 4. Nhu cầu;

5. Giai cấp; 6. Công hữu (sở hữu chung).

1. Cộng đồng

Chủ nghĩa xã hội đề cao cộng đồng, cho rằng mỗi cá nhân được

định hình bởi các mối quan hệ xã hội và bởi việc cá nhân đó là

thành viên của các nhóm, các tập thể. Như Karl Marx đã nói: “Con

người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”.

Chủ nghĩa tập thể quan trọng hơn chủ nghĩa cá nhân. Cái tôi

không là gì trước tập thể vĩ đại.

 

154 | Phạm Đoan Trang

2. Tinh thần bác ái

Người theo chủ nghĩa xã hội quan niệm: Trong cộng đồng, con

người ràng buộc với nhau bởi tình đồng chí, tình anh em, hay nói

rộng ra là tình bác ái. Với tinh thần bác ái đó, hợp tác quan trọng

hơn và quý hơn cạnh tranh. Hợp tác giúp con người phát triển và

khai thác sức mạnh tập thể, trong khi cạnh tranh chỉ kích động thù

hằn, mâu thuẫn, xung đột.

Có thể với tư duy đó, những người cộng sản Việt Nam cho

rằng sự tồn tại của ba đảng cộng sản (trước năm 1930) chỉ chia rẽ

quần chúng, còn chế độ đa đảng chỉ dẫn đến việc các đảng tranh

giành quyền lực và đảng nào cũng chỉ lo lợi ích của mình, bỏ mặc

nhân dân.

3. Bình đẳng xã hội

Chủ nghĩa xã hội đề cao bình đẳng, nhưng là bình đẳng xã hội (tức

là về đầu ra), cả xã hội đều bình đẳng như nhau. Đó là giá trị trung

tâm, cốt lõi của chủ nghĩa xã hội. Người theo chủ nghĩa xã hội tin

rằng bình đẳng là điều kiện thiết yếu để bảo đảm ổn định xã hội, là

cơ sở để hợp tác, là cơ sở của các quyền pháp lý và chính trị.

4. Nhu cầu

Chủ nghĩa xã hội quan niệm rằng lợi ích vật chất phải được phân

bổ trên cơ sở nhu cầu cá nhân chứ không căn cứ vào tài năng, năng

lực cá nhân (hay năng suất) hoặc công việc.

5. Giai cấp

Karl Marx phân loại giai cấp tùy theo quan hệ với tư liệu sản xuất.

Ông ta định nghĩa xã hội phân chia giai cấp là xã hội phân chia

thành chủ sở hữu tư liệu sản xuất (tư sản) và người bán sức lao

động (công nhân). Chủ nghĩa Mác coi công nhân là lực lượng

quyết định thay đổi xã hội, thậm chí là lực lượng tạo ra cách mạng

vô sản, tiêu diệt giai cấp tư sản, xóa bỏ tư hữu – nguồn gốc của

phân chia giai cấp, của tình trạng người bóc lột người và mọi khổ

đau khác của xã hội.

 

Chính trị bình dân | 155

Trong khi đó, những người theo chủ nghĩa xã hội khác (không

theo phái Mác) phân loại giai cấp dựa theo thu nhập và địa vị xã

hội. Họ cho rằng có thể được hàn gắn sự phân chia giai cấp bằng

cách xóa bỏ hoặc thu hẹp bất bình đẳng về kinh tế và xã hội.

6. Công hữu

“Công” là chung, công cộng. Công hữu, tức sở hữu chung, được

thể hiện dưới hình thức tập thể hóa hoặc quốc hữu hóa. Chủ nghĩa

xã hội coi công hữu là cách để khai thác nguồn lực vì lợi ích chung,

còn tư hữu, trái lại, sẽ thúc đẩy tính ích kỷ, hám lợi và dẫn đến chia

rẽ xã hội.

Công hữu là một trong những khái niệm trung tâm của chủ

nghĩa Mác, là công cụ để xây dựng xã hội cộng sản trên thực tế. Từ

năm 1954 ở miền Bắc, và từ năm 1975 ở cả hai miền cho đến năm

1986, nền kinh tế Việt Nam chỉ gồm hai thành phần: kinh tế nhà

nước (đại diện bởi các xí nghiệp quốc doanh) và kinh tế tập thể

(đại diện bởi các hợp tác xã) – là biểu hiện của việc đảng Cộng sản

Việt Nam áp dụng chế độ công hữu đối với nền kinh tế quốc gia.

Đây là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng khủng hoảng kinh

tế-xã hội cuối thập niên 80 thế kỷ trước ở Việt Nam, khiến đảng

Cộng sản phải tiến hành đổi mới, chấp nhận một nền kinh tế nhiều

thành phần, nhiều chế độ sở hữu với dấu mốc là Đại hội VI (1986).

Về bản chất, quyết định cho phép tồn tại sở hữu tư nhân trong nền

kinh tế của đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn đi ngược lại nguyên

tắc hàng đầu của chủ nghĩa Mác: thủ tiêu tư hữu, xóa bỏ thị trường.

 

* * *

 

CÁC HÌNH THÁI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Đến đây chúng ta sẽ điểm qua một số hình thái chủ nghĩa xã hội

trong lịch sử hiện đại: Chủ nghĩa Mác (nguyên thủy), chủ nghĩa

cộng sản ở Liên Xô, dân chủ xã hội, con đường thứ ba.

 

156 | Phạm Đoan Trang

1. Chủ nghĩa Mác (nguyên thủy)

Chủ nghĩa Mác nguyên thủy, với tư cách một học thuyết triết học

chính trị, khác với trào lưu cộng sản thế kỷ 20 trên thế giới. Nó

được cấu thành bởi các yếu tố đặc thù sau:

- Chủ nghĩa duy vật lịch sử;

- Phép biện chứng;

- Khái niệm “sự tha hóa”: Công nhân bị tách rời khỏi sản phẩm

đầu ra của sức lao động, tách rời khỏi cả quá trình lao động, tách

rời khỏi các bạn công nhân khác và do đó, mất khả năng sáng tạo

và tương tác xã hội.

- Đấu tranh giai cấp;

- Giá trị thặng dư;

- Cách mạng vô sản;

- Chủ nghĩa cộng sản: một hệ thống kinh tế chính trị trong đó

chính quyền được vận hành bởi một đảng duy nhất, độc đoán, và

kiểm soát toàn bộ phương tiện sản xuất, trao đổi và phân phối.

2. Chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô (chính thống)

Chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô, còn gọi là chủ nghĩa cộng sản chính

thống, là một thứ ý thức hệ pha trộn giữa chủ nghĩa Mác với các tư

tưởng, quan điểm của Lenin và Stalin.

Lenin lý luận: Giai cấp công nhân không ý thức được về sức

mạnh của mình, nên chỉ cần cải thiện điều kiện lao động là đã hài

lòng rồi, không nghĩ đến sứ mệnh lật đổ chủ nghĩa tư bản. Do đó,

cần có một đảng cách mạng làm đội quân tiên phong của giai cấp

công nhân. Đó là một đảng kiểu mới, theo nghĩa là: 1. Nó không

phải là một đảng quần chúng, mà đảng viên của nó là các nhà cách

mạng chuyên nghiệp và dấn thân vì lý tưởng (ở đây là ý thức hệ

cộng sản). 2. Nó được tổ chức dựa trên nguyên tắc tập trung dân

chủ (có thể tự do thảo luận nhưng phải thống nhất tuyệt đối về

hành động – xem “Nguyên tắc tập trung dân chủ” ở Chương III,

Phần V). 3. Nó có thứ bậc và kỷ luật chặt chẽ.

 

Chính trị bình dân | 157

Năm 1917, Lenin và đảng Bolshevik của ông ta giành được

chính quyền ở nước Nga trong một chính biến mà họ gọi là Cách

mạng Tháng Mười. Sau đó, chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô lan rộng

theo các diễn biến sau:

• Năm 1924, Lenin chết, Stalin lên thay.

• Năm 1928: Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xóa hết doanh

nghiệp tư nhân.

• Năm 1929: Tập thể hóa nông trang.

• Thập niên 1930: Tiêu diệt hết đối lập

• Từ sau năm 1945: Chủ nghĩa cộng sản kiểu Liên Xô được áp

dụng rộng khắp ở Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Đông Âu.

3. Dân chủ xã hội

Trái với tính máy móc và cuồng nhiệt ý thức hệ của chủ nghĩa Mác

nguyên thủy và chủ nghĩa cộng sản chính thống, những người theo

trường phái dân chủ xã hội nhân văn hơn hẳn. Đó là những người

theo các đảng xã hội ở Bắc Âu, Đức, Pháp, Mỹ (không có Anh, vì

Công đảng Anh đã tuyên bố bỏ chủ nghĩa xã hội để theo đuổi ý

thức hệ tư bản chủ nghĩa).

Người dân chủ xã hội đề cao chủ nghĩa xã hội nhưng cũng đề

cao cả dân chủ. Họ tin rằng có thể đạt tới chế độ xã hội chủ nghĩa

thông qua và chỉ thông qua con đường dân chủ và hòa bình, chứ

không phải bằng đấu tranh giai cấp bạo lực với một đảng cách

mạng tiên phong. Cụ thể, các đảng xã hội cạnh tranh với các đảng

khác, giành chiến thắng trong bầu cử, và sau đó, nắm chính quyền

và điều hành đất nước một cách dân chủ, thi hành những chính

sách xã hội ôn hòa.

Người dân chủ xã hội cố gắng cân bằng giữa thị trường và nhà

nước, cá nhân và cộng đồng. Mặc dù cũng coi chủ nghĩa tư bản là

cơ chế duy nhất để tạo ra của cải, sự thịnh vượng, nhưng họ mong

muốn phân phối của cải theo các nguyên tắc đạo đức hơn là các

nguyên tắc thị trường. Do đó, họ chủ trương “nhân văn hóa” chế

độ tư bản thông qua sự can thiệp của nhà nước:

 

158 | Phạm Đoan Trang

- Chính phủ điều tiết nền kinh tế;

- Nhà nước đánh thuế để lập quỹ phúc lợi.

Đặc điểm nổi bật của ý thức hệ dân chủ xã hội là luôn luôn quan

tâm đến những người bị thua thiệt trong xã hội, người yếu thế,

người dễ bị tổn thương. Họ cũng tin vào lòng trắc ẩn và nhân hậu,

chủ trương bình đẳng về cơ hội (giống chủ nghĩa tự do), chủ trương

con người phải có trách nhiệm bảo vệ và chăm sóc người khác

(giống chủ nghĩa bảo tồn).

Từ những năm 1980, chế độ dân chủ xã hội ở các nước công

nghiệp đã dần thoái trào, do thế giới có nhiều biến đổi, mà nổi bật

là:

- Cơ cấu lao động, giai cấp đã thay đổi: Nhiều chuyên gia, nhà

quản lý và nhân viên văn phòng hơn, ít công nhân và lao động chân

tay hơn.

- Toàn cầu hóa mạnh mẽ hơn, ảnh hưởng tới các chính sách

kinh tế của mỗi quốc gia.

- Quốc hữu hóa và kế hoạch hóa thất bại ở nhiều ngành kinh tế,

kể cả ở nước phát triển.

- Xã hội mất lòng tin vào chủ nghĩa xã hội, quốc hữu hóa, tập

thể hóa, kế hoạch hóa...

4. Con đường thứ ba

“Con đường thứ ba” là một ý thức hệ có tham vọng thay thế cho cả

chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.

Ý thức hệ này quan niệm, chủ nghĩa xã hội và mọi sự can thiệp

của nhà nước theo kiểu từ trên xuống dưới, đã hết thời. Nó thừa

nhận toàn cầu hóa như một đặc điểm không thể tách rời của thế

giới hiện đại, chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành “kinh tế tri

thức”. Nó cũng đề cao vai trò của công nghệ thông tin và kỹ năng

cá nhân.

 

Chính trị bình dân | 159

Trong nền kinh tế tri thức, nhà nước đóng vai trò thiết yếu về

kinh tế và xã hội. Đó là vai trò:

- Phát triển giáo dục, đào tạo kỹ năng cho dân chúng, nâng cao

tính cạnh tranh của nền kinh tế trên toàn cầu;

- Phát triển xã hội dân sự và các cộng đồng để hạn chế những

sức ép của chủ nghĩa tư bản và thị trường.

Những người theo trường phái Con đường thứ ba đề xướng

khái niệm “workfare state” (tạm dịch là nhà nước công lợi), tương

phản với “welfare state” là nhà nước phúc lợi: Nhà nước hỗ trợ tài

chính hoặc giáo dục một cách có điều kiện, ví dụ chỉ dành cho

những người đang tìm việc và có ý thức tự lập, chứ nhất định

không hỗ trợ rộng rãi, hào phóng, kiểu “chăm lo cho người dân từ

trong nôi cho tới lúc xuống mồ”.

Ở các khía cạnh khác, họ kêu gọi cân bằng giữa quyền và trách

nhiệm, và chủ trương bình đẳng về cơ hội, ủng hộ chế độ nhân tài

(xã hội meritocracy, như chúng ta đã biết).

 

Chương V

 

MỘT SỐ CHỦ NGHĨA KHÁC

 

CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT

Hẳn bạn đã từng nghe đâu đó nói, chủ nghĩa phát xít cũng như chủ

nghĩa cộng sản, là đại họa của nhân loại. Tuy nhiên, điều thú vị là

hai chủ nghĩa này cũng chống nhau kịch liệt. Vậy chúng có gì

chung, có gì riêng?

Chủ nghĩa phát xít nổi lên từ đầu thế kỷ 20 với hai đại diện là

Benito Mussolini (Ý, cầm quyền từ năm 1922 đến năm 1943) và

Adolf Hitler (Đức, cầm quyền từ năm 1933 đến năm 1945).

Chủ nghĩa phát xít là một cuộc nổi loạn chống lại tất cả triết

học, tư tưởng Tây phương từ thời Cách mạng Pháp: chống chủ

nghĩa tư bản, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa bảo

tồn, chủ nghĩa cộng sản. Người ta cho rằng nó ra đời vì một số

nguyên nhân như sau:

- Sự trỗi dậy của tình cảm dân tộc, của lòng tự tôn dân tộc bị tổn

thương đối với ý và đức sau hiệp ước versailles.

- Lạm phát phi mã và khủng hoảng kinh tế;

- Bất ổn xã hội – công nhân đình công đòi tăng lương, nông dân

mất đất...

- Sự suy yếu của nền dân chủ đại nghị – nhiều đảng phái nổi lên,

chính phủ không ổn định...

- Nỗi sợ chủ nghĩa cộng sản, sau khi đảng Bolshevik chiếm

chính quyền ở Liên Xô (1924).

 

162 | Phạm Đoan Trang

Chủ nghĩa phát xít dẹp bỏ các khái niệm duy lý, tự do, bình

đẳng, bác ái, v.v. và được cấu thành bởi một loạt khái niệm mà nó

tôn vinh, như “đấu tranh”, “lãnh tụ”, “quyền lực”, “chủ nghĩa anh

hùng”, “chiến tranh”... Nó cổ súy hình ảnh một cộng đồng quốc gia

thống nhất, đoàn kết, với khẩu hiệu chính “đoàn kết là sức mạnh”.

Tuy tôn vinh hình ảnh anh hùng nhưng chủ nghĩa phát xít lại có

mâu thuẫn là với nó, cá nhân chẳng là gì, cá nhân phải hòa mình

hoàn toàn vào cộng đồng, phải cống hiến và phụng sự thì mới có ý

nghĩa.

Con người lý tưởng của chủ nghĩa phát xít là cá nhân được dẫn

dắt bởi nhiệm vụ, danh dự và sự hy sinh; sẵn sàng cống hiến đời

mình cho vinh quang của đất nước và dân tộc; phục tùng lãnh tụ

tối cao vô điều kiện.

Đến cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa phát xít mới, hay tân phát xít

(neo-fascism), nổi lên như một cách phản ứng với khủng hoảng

kinh tế và bất ổn chính trị sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ.

Sự khác biệt giữa phát xít Ý và phát xít Đức

Chủ nghĩa phát xít ở Ý có đặc trưng là trọng nhà nước, do đó nó

còn được coi là chủ nghĩa trọng nhà nước, chủ nghĩa nhà nước,

trung ương tập quyền: Cho rằng sự can thiệp của nhà nước là cách

tốt nhất để giải quyết các vấn đề chính trị, để phát triển kinh tế-xã

hội; nhà nước là cơ chế để tổ chức các hành động tập thể và thực

hiện các mục tiêu chung. Do đó, phục vụ nhà nước là phục vụ ý chí

chung, phục vụ lợi ích cộng đồng – một nghĩa vụ cao cả. Cá nhân

phải tôn sùng và tuyệt đối trung thành với nhà nước, như Gentile

(1875-1944) đã nói: “Tất cả vì nhà nước; không có gì chống lại nhà

nước; không có gì nằm ngoài nhà nước”.

Chủ nghĩa phát xít trọng nhà nước ở Ý thể hiện ở các chính

sách: quốc hữu hóa, tập thể hóa, nhà nước quản lý kinh tế, xây

dựng tập đoàn nhà nước...

 

Chính trị bình dân | 163

Chủ nghĩa phát xít ở Đức tự nhận nó là chủ nghĩa xã hội quốc

gia, gọi tắt là quốc xã. Nó được xây dựng trên nền tảng chính yếu là

sự phân biệt chủng tộc, gồm hai trụ cột là thuyết chủng tộc thượng

đẳng (chủng Arya) và thuyết bài Do Thái.

 

* * *

 

CHỦ NGHĨA VÔ CHÍNH PHỦ

Chủ nghĩa vô chính phủ gắn với các yếu tố đặc trưng sau: tự nguyện,

tự quản, không nhà nước, không phân chia thứ bậc địa vị.

Những người theo thuyết vô chính phủ chủ trương rằng luật

pháp, chính quyền và nhà nước đều là không cần thiết; quyền lực

chính trị dưới mọi hình thức, nhất là dưới hình thức nhà nước, là

xấu xa tồi tệ. Họ cổ súy xã hội không có nhà nước, trong đó, các cá

nhân tự do tự giải quyết mọi việc thông qua thỏa thuận và hợp tác

tự nguyện.

Như vậy, ở khía cạnh cổ súy chủ nghĩa cá nhân và tôn sùng tự

do cá nhân, chủ nghĩa vô chính phủ có phần chịu ảnh hưởng và

giống với chủ nghĩa tự do. Còn ở khía cạnh nhấn mạnh các yếu tố

cộng đồng, hợp tác, bình đẳng, sở hữu chung, thì nó lại chịu ảnh

hưởng và giống với chủ nghĩa xã hội.

Pierre-Joseph Proudhon, một đại diện của chủ nghĩa vô chính

phủ, cổ súy chủ nghĩa tương hỗ, theo đó, các cộng đồng nhỏ của

những cá thể độc lập như nông dân, thợ thủ công, v.v. có thể sống

tốt dựa trên trao đổi công bằng, bình đẳng, tránh xa mọi sự bất

công và bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Một đại diện khác là Peter

Kropotkin thì cổ súy sở hữu chung, phi tập trung hóa, tự quản.

Tinh thần vô chính phủ đã lẽ đã có từ thời Trang Tử với biểu

hiện là sự thù ghét cường quyền, chống lại chính quyền. Trang Tử

nói: “Kẻ ăn cắp vặt thì bị tống giam. Đạo tặc ăn cướp thì thành vua

một nước”. Thế kỷ 20, danh hài Charlie Chaplin (vua hề Sác-lô)

 

164 | Phạm Đoan Trang

cũng là một người vô chính phủ nổi tiếng. Ông từng phát biểu:

“Nói về chính trị thì tôi là người vô chính phủ. Tôi ghét nhà nước,

luật lệ và xiềng xích. Tôi không thể chịu được cảnh thú vật bị nhốt

trong chuồng. Con người phải tự do”.

Tự do cá nhân có lẽ là điểm hấp dẫn nhất của chủ nghĩa vô

chính phủ. Dù vậy, bạn biết không: Điều thú vị là so với tất cả các ý

thức hệ khác, trên thế giới, chưa từng có một đảng phái nào theo

chủ nghĩa vô chính phủ mà giành được chính quyền!

 

* * *

 

CHỦ NGHĨA MÔI TRƯỜNG

Chủ nghĩa môi trường chớm hình thành từ cuối thế kỷ 19 với tinh

thần chống lại cuộc cách mạng công nghiệp đang dâng lên và lan

rộng. Bước sang thế kỷ 20, chủ nghĩa môi trường lớn mạnh dần

trước đà phát triển của kinh tế, công nghiệp, công nghệ hạt nhân,

mưa axit, tầng ozone bị thủng và xuất hiện hiện tượng biến đổi khí

hậu, nóng lên toàn cầu...

Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa môi trường là sự phản đối quan

điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển. Đối với chủ

nghĩa này, con người chỉ là một phần của thiên nhiên, trái đất là

một sinh thể (nên được gọi là mẹ thiên nhiên, mẹ trái đất). Người

theo chủ nghĩa môi trường có xu hướng ủng hộ đạo Lão, đạo Phật,

Thiền (Zen), là những đạo cổ súy sự trở về với thiên nhiên, sống

hợp lẽ tự nhiên...

Chủ nghĩa môi trường cũng chia làm hai trường phái chính:

- Trường phái ôn hòa: Cổ súy cho các chính sách và lối sống

lành mạnh về mặt môi trường, sinh thái.

- Trường phái quyết liệt: Đặt hệ sinh thái lên trước tất cả các

loài, kêu gọi bảo vệ hành tinh và cả nhân loại.

 

Chính trị bình dân | 165

 

* * *

TÔN GIÁO THUẦN TÚY

Tôn giáo thuần túy là ý thức hệ quan niệm rằng tồn tại một sự thật,

hay là chân lý, căn bản cần được mặc khải, đời sống xã hội và chính

trị cần được tổ chức trên cơ sở các nguyên tắc tôn giáo và sự thật

hay chân lý căn bản đó. Kết quả của nó là nhà nước thần quyền –

nơi nhà nước và nhà thờ bất khả phân. Để hiểu rõ về nó, ta có thể

tìm hiểu một ý thức hệ đối lập với nó, là chủ nghĩa thế tục; chủ

nghĩa này cho rằng tôn giáo không được can thiệp vào các vấn đề

thế tục, và nỗ lực tách nhà thờ, nhà chùa... khỏi nhà nước, tách

thần quyền khỏi chính quyền.

Tôn giáo thuần túy chia ra rất nhiều trường phái, tương ứng với

những tôn giáo hoặc giáo phái khác nhau. Ví dụ như Thiên Chúa

giáo thuần túy chủ trương chống nạo thai, vận động tổ chức cầu

nguyện tập thể trong trường học, vận động phục hồi các giá trị gia

đình truyền thống... Do Thái thuần túy chống Palestine, chống

việc trao đất của người Do Thái cho nhà nước Palestine. Hindu

thuần túy chống thế tục hóa kiểu phương Tây, chống đạo Hồi, đạo

Sikh...

 

* * *

 

CHỦ NGHĨA CỘNG ĐỒNG

Chủ nghĩa cộng đồng nổi lên từ thập niên 1980, với hai đại diện

xuất sắc là Michael Sandel (1962- ) và Robert Putnam (1941- ). Độc

giả Việt Nam, nếu quan tâm đến triết học, hẳn đã biết đến các bài

giảng nổi tiếng tại Đại học Harvard của Giáo sư Michael Sandel,

được tập hợp lại trong cuốn sách “Phải trái đúng sai” hay dịch sát

nghĩa từ tiếng Anh là “Công lý: Việc đúng nên làm” (Justice: What’s

the right thing to do?).

 

166 | Phạm Đoan Trang

Chủ nghĩa cộng đồng phê phán gay gắt chủ nghĩa tự do và chủ

nghĩa cá nhân. Để hiểu tại sao lại như vậy, ta có thể tìm hiểu bối

cảnh ra đời của nó: Vào thập niên 1980 ở các nước phương Tây, chủ

nghĩa cá nhân đang trỗi dậy, thay thế cho chủ nghĩa tập thể. Thị

trường tự do thay thế kế hoạch hóa nhà nước. Tự do thay thế bình

đẳng, và nhà nước tối thiểu thay thế nhà nước trung ương hành

chính quan liêu. Hậu quả là tinh thần cộng đồng bị xói mòn khủng

khiếp trong xã hội công nghiệp.

Robert Putnam viết trong cuốn “Bowling alone: The collapse

and revival of American community” (tạm dịch: Chơi bowling

một mình: sự sụp đổ và sống lại của cộng đồng Mỹ, 2000): “Bowling

đã làm suy yếu nền dân chủ Mỹ. Dân chủ đòi hỏi chúng ta phải

nghĩ về mình như là thành viên của một xã hội chung, chứ không

phải như một cá nhân. Ấy thế nhưng chúng ta không chơi thể thao,

chúng ta không đi câu lạc bộ, chúng ta không tham gia các đảng

chính trị, chúng ta không đi nhà thờ, và rất nhiều người trong

chúng ta thậm chí không biết tên hàng xóm nhà đối diện”. “Cuối

thế kỷ 20, người Mỹ chơi bowling nhiều hơn. Nhưng nước Mỹ lại

có ít đội/ liên đoàn bowling hơn”.

Những nhận định đó đã tóm tắt đầy đủ sự sa sút của tinh thần

cộng đồng trong một xã hội phương Tây điển hình như nước Mỹ.

Ra đời trong bối cảnh xã hội đó, chủ nghĩa cộng đồng nhấn

mạnh mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Cộng đồng ấy có

thể là gia đình, trường học, là những người sống trong một diện

tích địa lý cụ thể, hay một nhóm người chia sẻ một lợi ích chung,

hay một nhóm người chia sẻ một lịch sử chung.

Chủ nghĩa cộng đồng phê phán chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cá

nhân, cho rằng chúng làm suy yếu vốn xã hội, trong khi vốn xã hội

là yếu tố chủ chốt để xây dựng và duy trì nền dân chủ, và là một

trong ba yếu tố cấu thành nên sự phát triển của cá nhân. Để phát

triển thì cá nhân cần vốn vật chất (công cụ lao động), vốn văn hóa

hay vốn con người (giáo dục, bằng cấp), và vốn xã hội, tức mạng

 

Chính trị bình dân | 167

lưới quan hệ. Những người theo chủ nghĩa cộng đồng quan niệm

như vậy.

 

* * *

 

CHỦ NGHĨA NỮ QUYỀN

Chủ nghĩa nữ quyền nổi lên từ phong trào đòi quyền bỏ phiếu cho

nữ giới lần thứ nhất (những năm 40-50 của thế kỷ 19), gọi là “làn

sóng thứ nhất”, và tiếp tục “làn sóng thứ hai” vào những năm 60 và

70 của thế kỷ 20.

Như tên gọi của nó, chủ nghĩa nữ quyền đòi thúc đẩy vai trò xã

hội của phụ nữ, cổ súy bình đẳng về quyền và cơ hội cho phụ nữ.

“Tôi chưa từng nghe người đàn ông nào hỏi xin lời khuyên làm sao để kết

hợp hài hòa giữa hôn nhân và sự nghiệp”.

 

(Gloria Steinem, nhà nữ quyền nổi tiếng)

Tuy nhiên, dù cùng có nội dung đòi thúc đẩy vai trò xã hội của

phụ nữ và cổ súy bình đẳng, nhưng bản thân những nhà nữ quyền

rất không thống nhất. Chủ nghĩa nữ quyền chia làm ba trường phái

khác nhau:

- Trường phái quyết liệt: Quan niệm nam giới là kẻ thù của nữ

quyền, là đối tượng áp chế nữ giới.

- Trường phái trung dung: Quan niệm phụ nữ cần được bình

đẳng về quyền và cơ hội với nam giới, và nam giới cũng góp phần

vào bình đẳng giới.

- Trường phái bảo thủ: Phụ nữ có thể được đối xử tốt hơn so với

trong quá khứ, nhưng dù gì họ vẫn luôn là “phái yếu” và do vậy cần

được đối xử tương ứng.

* * *

 

Bài đọc

 

NẾU ĐÀN ÔNG CÓ KINH NGUYỆT 1

 

Gloria Steinem

Nguyễn Trung Dũng (dịch)

 

SỰ GIẢI PHÓNG ĐẾN TỪ CHÍNH TƯ DUY TÍCH CỰC CỦA

PHỤ NỮ

Sống ở Ấn Độ khiến tôi hiểu rằng thiểu số những người da trắng

trên thế giới đã lừa gạt chúng ta qua nhiều thế kỷ, để khiến chúng

ta nghĩ rằng làn da trắng làm cho con người ưu việt hơn, mặc dù

điều duy nhất nó thực sự làm là khiến cho con người trở thành nạn

nhân của tia cực tím và bị nhiều nếp nhăn hơn.

Đọc Freud làm tôi hoài nghi về sự ghen tị dương vật (khái niệm

do nhà phân tâm học Sigmund Freud đưa ra, cho rằng phụ nữ có

mặc cảm tự xem mình như những người đàn ông khiếm khuyết vì

không có dương vật, chứ không phải như một giới tính riêng –

ND). (Chính ra) Khả năng sinh sản khiến cho khái niệm “ghen tị

1. Một trong những tiểu luận nổi tiếng của nhà nữ quyền người Mỹ Gloria Steinem (1934

- ). Bà là người đi đầu trong phong trào đòi quyền cho phụ nữ ở những thập niên 60-70

của thế kỷ trước. Tiểu luận này của bà có nhiều phiên bản (?), đây là phiên bản đăng trên

tạp chí Ms. số ra tháng 10/1978. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Trung Dũng, đăng trên

 

Luật Khoa tạp chí ngày 20/10/2015, tại địa chỉ: https://www.luatkhoa.org/2015/10/neu-

dan-ong-co-kinh-nguyet/

 

170 | Phạm Đoan Trang

tử cung” nghe có vẻ hợp lý hơn; và một bộ phận nằm bên ngoài cơ

thể, không được bảo vệ, như dương vật, phải khiến đàn ông dễ bị

tổn thương hơn.

Nhưng gần đây, nghe một phụ nữ kể lại việc hành kinh bất ngờ

(một vệt đỏ loang trên váy của cô đúng vào lúc cô đang tranh luận

sôi động trên sân khấu nơi công cộng), tôi vẫn co rúm người lại vì

xấu hổ. Cho đến khi cô ấy kể rằng, cuối cùng, khi được biết về “sự

cố” qua tiếng xì xào của mọi người, cô đã nói với cử tọa – toàn nam

giới – như sau: “Các bạn nên tự hào là đã có một người phụ nữ

hành kinh trên sân khấu của mình. Thật sự đây có lẽ là điều xảy ra

với hội ta lần đầu tiên trong nhiều năm”.

Cử tọa cười ồ. Nhẹ cả người. Cô đã biến một chuyện tiêu cực

thành tích cực. Câu chuyện của cô hòa với Ấn Độ và Freud, và rốt

cuộc tôi đã hiểu được sức mạnh của tư duy tích cực. Bất kỳ cái gì

một nhóm “ưu việt” có cũng sẽ được dùng để biện minh cho tính

ưu việt của họ, và bất kỳ cái gì một nhóm “thấp kém” có cũng sẽ bị

dùng để biện minh cho hoàn cảnh của họ. Màu da đen khiến tôi

phải nhận một công việc với mức lương thấp, vì người ta nói rằng

điều đó khiến tôi “mạnh mẽ hơn” người da trắng. Còn tất cả phụ

nữ đều làm những công việc với mức lương kém cỏi là bởi vì họ bị

cho là “phái yếu”. Khi hỏi một cậu bé có muốn làm luật sư như mẹ

mình không, cậu trả lời: “Ồ, không. Đó là công việc của phụ nữ”.

Logic chẳng liên quan gì đến sự áp bức.

ĐÀN ÔNG SẼ “THẦN THÁNH HÓA” KINH NGUYỆT NẾU...

Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu đột nhiên, một cách kỳ diệu, những người

đàn ông có thể có kinh nguyệt và phụ nữ không thể?

Rõ ràng, kinh nguyệt sẽ trở thành một điều tuyệt vời, có ý nghĩa,

nam tính.

Đàn ông sẽ khoe khoang về việc kỳ kinh kéo dài bao lâu và ra

bao nhiêu.

 

Chính trị bình dân | 171

Các chàng trai trẻ sẽ nói về nó như là sự khởi đầu đầy khát khao

của tuổi trưởng thành. Quà tặng, các nghi lễ tôn giáo, bữa ăn gia

đình, và các bữa tiệc chỉ dành cho đàn ông sẽ đánh dấu ngày này.

Để tránh mất công mất việc hàng tháng trong đội ngũ lãnh đạo,

quốc hội sẽ tài trợ cho một học viện quốc gia về chứng đau bụng

kinh. Các bác sĩ sẽ nghiên cứu rất ít về bệnh tim, từ đó đàn ông sẽ

được bảo vệ về mặt hormone, mà họ sẽ nghiên cứu mọi thứ, trừ

chuột rút.

Băng vệ sinh sẽ được Liên bang tài trợ và cấp phát miễn phí. Tất

nhiên, có một số người sẽ vẫn phải trả tiền cho uy tín của các

thương hiệu như băng vệ sinh Paul Newman, miếng độn

Muhammad Ali, John Wayne Maxi, và Joe Namath Jock Shields

màng bảo vệ - “Cho những ngày độc thân nhẹ nhàng”.

Thống kê khảo sát sẽ chỉ ra rằng đàn ông đã thi đấu tốt hơn

trong các môn thể thao và giành nhiều huy chương Olympic hơn

trong các quãng thời gian giữa kỳ kinh của họ.

Nhìn chung, các chính trị gia thuộc phe hữu và tôn giáo sẽ viện

dẫn kinh nguyệt như là bằng chứng để chỉ ra rằng chỉ đàn ông mới

có thể phục vụ Thiên Chúa và đất nước trong chiến tranh (“Bạn

phải đổi máu lấy máu”), nắm giữ các chức vụ cao (“Liệu phụ nữ có

thể dữ dội một cách đúng đắn hay không, khi mà họ thiếu hẳn một

chu kỳ hàng tháng được chi phối bởi Hỏa tinh?”), làm linh mục, bộ

trưởng, là chính Thiên Chúa (“Ngài đổ máu cho tội lỗi của chúng

tôi”), hoặc giáo sĩ Do Thái (“Do hàng tháng không có một cuộc

thanh lọc tạp chất, nên phụ nữ không được sạch sẽ”).

Tuy vậy, nam giới theo chủ nghĩa tự do và có quan điểm cực

đoan sẽ nhấn mạnh rằng phái nữ có quyền được bình đẳng, chỉ

khác biệt thôi; và điều đó có nghĩa là bất kỳ phụ nữ nào cũng đều có

thể gia nhập hàng ngũ đàn ông nếu cô ta chịu nhìn nhận tầm quan

trọng của các quyền liên quan đến kinh nguyệt (“Mọi thứ khác chỉ

là một vấn đề mà thôi”) hoặc chấp nhận tự gây một vết thương lớn

cho mình mỗi tháng (“Bạn phải đổ máu cho cách mạng”).

 

172 | Phạm Đoan Trang

Thanh niên đường phố chế ra tiếng lóng: “Anh ấy là một người

đàn ông ba-băng”, và đập tay chào nhau ở góc phố với những trao

đổi như:

- Chàng trai, cậu trông thật tuyệt!

- Yeah, cậu. Tớ đang tới tháng!

Các chương trình truyền hình sẽ đề cập tới chủ đề này một cách

cởi mở. (Những ngày hạnh phúc: Richie và Potsie cố gắng thuyết

phục Fonzie rằng ông vẫn là “The Fonz”, mặc dù ông đã mất kinh

hai kỳ liên tiếp). Báo chí cũng vậy. (Nguy cơ cá mập biển mùa hè đe

dọa đàn ông đang thấy tháng). Phim ảnh nữa. (Newman và Redford

trong phim “Những người anh em máu thịt”).

Đàn ông sẽ thuyết phục phụ nữ rằng quan hệ tình dục sẽ thú vị

hơn vào “thời điểm đó trong tháng”. Người đồng tính nữ bị cho là

sợ máu và do đó sợ chính sự sống, mặc dù có lẽ chỉ vì họ cần một

người đàn ông có kinh nguyệt tốt.

Trường y sẽ hạn chế tuyển nữ sinh. (“Họ có thể ngất xỉu khi

nhìn thấy máu”).

Tất nhiên, giới trí thức (nam) sẽ đem đến cho ta những lý luận

đạo đức nhất và logic nhất. Nếu không có được những món quà

sinh học đó để đo chu kỳ của mặt trăng và các hành tinh, thì làm

sao một phụ nữ có thể có được bất kỳ một thứ kỷ luật nào, vốn đòi

hỏi cảm nhận về thời gian, không gian, toán học, hay khả năng đo

đạc? Trong triết học và tôn giáo, phụ nữ làm sao có thể bù đắp được

việc họ bị tách rời khỏi nhịp vũ trụ, hay là việc họ không có được

cái chết và sự tái sinh mang ý nghĩa biểu tượng, mỗi tháng?

Thời kỳ mãn kinh sẽ được kỷ niệm như một biến cố tích cực,

thể hiện ý nghĩa là người đàn ông đã tích lũy đủ năm của sự từng

trải mang tính chu kỳ và không cần nhiều hơn nữa.

Nam giới mang tư tưởng tự do sẽ cố tỏ ra tốt bụng: Riêng việc

“những người này” (tức phụ nữ – ND) không được tạo hóa ban

cho tài năng nào để đo lường cuộc sống hoặc kết nối với vũ trụ đã

đủ là hình phạt rồi.

 

Chính trị bình dân | 173

Và phụ nữ sẽ được dạy để có phản ứng như thế nào? Ta có thể

hình dung cảnh các phụ nữ truyền thống sẽ chấp thuận tất cả các

lý luận như vậy với một thái độ khổ dâm, vẻ trung thành, và một

nụ cười. (“ERA sẽ ép các bà nội trợ phải tự làm mình bị thương mỗi

tháng”: Phyllis Schlafly. “Máu của chồng bạn cũng thiêng liêng như

máu của Jesus, và cũng sexy như thế”: Marabel Morgan). Các nhà

cải cách và Queen Bees sẽ ra sức bắt chước đàn ông, và giả vờ có

kinh hàng tháng. Tất cả các nhà nữ quyền sẽ không ngớt giảng giải

rằng đàn ông cũng cần được giải thoát khỏi quan niệm sai lầm về

sự hung hãn của người sao Hỏa, còn phụ nữ cần vượt thoát khỏi sự

trói buộc của mối “ghen tị kinh nguyệt” (tức là ghen tị vì mình

không có kinh như đàn ông – ND). Các nhà nữ quyền theo trường

phái quyết liệt sẽ phát biểu thêm rằng sự áp bức đối với những

người không có kinh nguyệt là hình mẫu cho tất cả các hình thức

áp bức khác. (“Ma cà rồng là những chiến binh chiến đấu cho tự do

đầu tiên”). Các nhà nữ quyền với góc nhìn văn hóa sẽ xây dựng

những hình tượng nhân vật không hành kinh trong nghệ thuật và

văn học. Các nhà nữ quyền xã hội chủ nghĩa sẽ khẳng định rằng chỉ

có dưới chế độ tư bản, đàn ông mới có thể độc quyền ra máu...

Tóm lại, nếu đàn ông có kinh nguyệt, thì những lời biện hộ cho

quyền lực của họ có thể sẽ tiếp tục kéo dài mãi mãi.

Nếu chúng ta để cho chúng tiếp tục.

 

DÂN TÚY VÀ MỊ DÂN

 

Có vẻ như từ khi tỷ phú Donald Trump trở thành vị tổng thống thứ

45 của nước Mỹ (từ ngày 20/01/2017), người Việt bắt đầu nghe nói

nhiều đến từ “dân túy”.

Vậy dân túy là gì? Bạn có thể gọi nó là “chủ nghĩa dân túy” (dịch

từ tiếng Anh: populism), nhưng có học giả cho rằng nó không đạt

tới tầm một ý thức hệ chính trị hay là chủ nghĩa, mà chỉ là một tư

tưởng, một cách tư duy về chính trị (John B. Judis, 2016). Quả vậy,

bởi vì nó không đạt được đủ bốn tiêu chí của một ý thức hệ, như đã

nói ở Chương I, “Thế nào là một chủ nghĩa?”, của Phần IV này.

Dân túy là tư tưởng luôn nhấn mạnh việc ủng hộ những người

bình dân, quần chúng, trong tương quan đối lập với giới tinh hoa

tham nhũng, bảo thủ, hủ bại. Vâng, điều quan trọng là bên cạnh

ủng hộ, cảm thông và chia sẻ với người dân (nói nôm na là “nịnh

dân”, “chiều lòng dân”) thì phải chỉ trích và chống lại giới tinh hoa

– tức là giới thượng lưu, tài phiệt, doanh nhân, có thể có cả trí thức,

vốn được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi trong xã hội.

Người bình dân ở đây là ai? Theo John B. Judis, “không có một

thành tố nào có thể gom chung hết được “người dân”. Họ có thể là

những công nhân cổ xanh, người bán hàng, hoặc sinh viên đang

chịu gánh nặng nợ nần; họ cũng có thể là người nghèo hay là tầng

lớp trung lưu” 1

.

 

1. “Us v Them: the birth of populism”, John B. Judis, The Guardian, 13/10/2016. Bản dịch

tiếng Việt “Ta vs. Họ: Cái nôi của chủ nghĩa dân tuý” của Vi Yên đăng trên Luật Khoa tạp

 

chí ngày 31/12/2017 tại địa chỉ: https://www.luatkhoa.org/2017/12/ta-vs-ho-cai-noi-

cua-chu-nghia-dan-tuy/

 

176 | Phạm Đoan Trang

Chủ nghĩa dân túy cho rằng dân nguyện, hay ý dân, là cơ sở cao

nhất để tạo tính chính danh cho hành động chính trị. Những

chính trị gia dân túy luôn thể hiện rằng họ gắn bó mật thiết với

người dân, họ thấu hiểu những niềm hy vọng, sở nguyện sâu xa

nhất của dân chúng, họ đáng tin cậy, còn tất cả các thiết chế trung

gian (như xã hội dân sự, các nhóm vận động, nhóm gây áp lực)

đều không đáng tin. Tầng lớp tinh hoa bảo thủ, tham lam, hủ bại

thì phải bị lên án.

Donald Trump được coi là một tổng thống dân túy, bởi vì ngay

từ khi mới nhậm chức, ông đã muốn trục xuất những người nhập

cư không giấy tờ, như một cách chiều lòng số đông dân bản địa Mỹ

đang sốt ruột trước làn sóng tị nạn dâng lên ở châu Âu.

Một bài viết trên tờ The Economist ngày 19/12/2016 đưa ra

thêm một số ví dụ về các biểu hiện của chủ nghĩa dân túy: “Podemos

1

, một đảng dân túy Tây Ban Nha, muốn cho người nhập cư quyền

bầu cử. Geert Wilders, chính trị gia dân túy người Hà Lan, muốn

xóa bỏ các đạo luật cấm phát ngôn gây thù hận (hate-speech)...

Evo Morales, tổng thống dân túy của Bolivia, đã mở rộng quyền

trồng coca của nông dân thổ dân. Rodrigo Duterte, tổng thống dân

túy của Philippines, đã ra lệnh cho lực lượng cảnh sát tiêu diệt

những người bị nghi ngờ là buôn bán ma túy” 2

.

 

Trong suốt chiều dài tổn tại của nó, nền chính trị cộng sản

không có truyền thống quan chức thể hiện mình gắn bó mật thiết

với người dân. Do không có cạnh tranh chính trị trong chế độ độc

đảng, lá phiếu của dân chẳng có ý nghĩa gì, cho nên các cán bộ cộng

sản không chịu sức ép phải lấy lòng dân; họ chỉ cần được lòng cấp

trên. Trong đời sống sinh hoạt thường ngày, thậm chí họ còn phải

giữ khoảng cách, càng xa dân, càng kín đáo, quan trọng và bí hiểm

1. Podemos, tiếng Tây Ban Nha nghĩa là: Chúng ta (chúng tôi) có thể.

2. “What is populism?”, bản dịch tiếng Việt “Chủ nghĩa dân tuý là gì?” của Lê Thị Hồng

Loan, Lê Hồng Hiệp biên tập, đăng trên Nghiên cứu Quốc tế ngày 04/01/2017 tại địa chỉ:

http://nghiencuuquocte.org/2017/01/04/chu-nghia-dan-tuy-la-gi/

 

Chính trị bình dân | 177

trước dân càng tốt. Vậy nên nhìn chung, tư tưởng dân túy không

phổ biến ở nền chính trị cộng sản. Cá biệt có ông Hồ Chí Minh và

một số đồng chí cộng sản thời kỳ đầu của ông có thể tỏ ra mình

giản dị, gần gũi, gắn bó mật thiết với người dân... song họ chỉ là

một số ít cá nhân và không xác lập được một truyền thống dân túy.

Nhất là, sự mờ ảo, bí hiểm ở họ vẫn trội hơn sự bình dị, gần dân.

Từ khi Internet vào Việt Nam (tháng 11/1997) và nhất là từ khi

mạng xã hội nở rộ ở Việt Nam (khởi đầu là Yahoo! 360 blog vào

năm 2005), chính khách cộng sản bắt đầu nhận thấy nhu cầu phải

thể hiện mình hòa đồng, bình dị, gần dân, hiểu tâm tư, nói ngôn

ngữ của dân và đặc biệt là hành động khẩn trương, quyết đoán để

kịp thời đáp ứng nguyện vọng của dân. Chúng ta có thể “điểm mặt”

ngay ở đây vài quan chức dân túy điển hình: Nguyễn Bá Thanh 1

,

 

Đinh La Thăng 2

 

, Vũ Đức Đam 3

...

 

Nguyễn Bá Thanh sinh thời được ca ngợi như một chính khách

năng động, thẳng thắn, đầy quyết tâm phát triển địa phương. Ông

cũng rất chịu khó chăm sóc quan hệ với giới nhà báo (chính thống),

luôn tỏ ra hào hiệp và cởi mở với báo chí nên hầu hết các nhà báo

từng tiếp xúc, làm việc với Nguyễn Bá Thanh đều yêu quý “anh

Thanh” lắm. Nhiều giai thoại về ông được truyền tụng để ca ngợi,

như chuyện ông được mời đi xem bóng đá mà lúc hưng phấn quá,

nhảy cả xuống sân chỉ đạo. Ông còn nổi tiếng vì câu nói thể hiện

1. Nguyễn Bá Thanh (1953-2015): Chính khách Việt Nam thời cộng sản. Chức vụ nổi bật

là Bí thư Thành ủy Đà Nẵng (2003-2013), Chủ tịch UBND Đà Nẵng (1997-2003). Sinh thời

ông được một số đông dân chúng, nhất là dân Đà Nẵng, mến mộ và ca ngợi hết lời vì có

quyết tâm và có công phát triển Đà Nẵng thành một đô thị có sức hút về đầu tư, “thành

phố đáng sống”. Những sai phạm, tham nhũng và đặc biệt là vi phạm nhân quyền trong

thời kỳ ông tại nhiệm nói chung đều bị ỉm đi, sau khi Bá Thanh mất mới được đưa ra.

2. Đinh La Thăng (1960- ): Chính khách Việt Nam thời cộng sản. Chức vụ nổi bật là: Ủy viên

Bộ Chính trị khóa XII (27/01/2016 - 07/5/2017), Bí thư Thành ủy TP.HCM (05/02/2016 -

10/5/2017), Bộ trưởng Giao thông Vận tải (03/8/2011 - 08/4/2016). Bị loại khỏi Bộ Chính

trị khóa XII và cách chức Bí thư Thành ủy TP.HCM vào ngày 07/5/2017, bị khởi tố và bắt

tạm giam vào ngày 08/12/2017 và chỉ một tháng sau là ra tòa, bị kết án 30 năm tù.

3. Vũ Đức Đam (1963- ): Chính khách Việt Nam thời cộng sản. Chức vụ nổi bật là Phó thủ

tướng Chính phủ (nhiệm kỳ 2016-2021).

 

178 | Phạm Đoan Trang

quyết tâm chống tham nhũng cao độ: “Sắp tới tôi sẽ rà một số cái,

cho hốt liền, không nói nhiều” (phát biểu tại Hội nghị Quản lý đầu

tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước do UBND TP Đà

Nẵng tổ chức ngày 10/01/2013).

Đinh La Thăng cũng vẽ nên hình ảnh một lãnh đạo trẻ trung,

năng động, quyết đoán. Ở tư cách Bộ trưởng Giao thông Vận tải,

ông nói thông điệp của ngành là “hành động và hành động”. Ông

tham gia đá bóng, chơi đàn, hát hò cùng “anh em cấp dưới”, rất cởi

mở thân thiết với giới báo chí (chính thống) và được lòng nhiều

nhà báo. Những hình ảnh Đinh La Thăng ôm đàn guitar hát đồng

ca hoặc đang cuốc đất trồng cây, lội ao vớt bèo, thường được báo

chí hăng hái ghi lại và lan truyền trên mạng.

Vũ Đức Đam cũng rất chịu khó xây dựng hình ảnh cá nhân.

 

Hậu cảnh của phóng sự ảnh nổi tiếng “Bất ngờ gặp Phó Thủ tướng Vũ Đức

Đam một mình khoác balô khảo sát Sơn Trà” (27/5/2017).

 

Ảnh không rõ nguồn.

 

Một khái niệm khá gần với chủ nghĩa dân túy ở nghĩa “nịnh

dân”, “chiều lòng dân” (nhưng thật ra là phi dân chủ, vì dẹp bỏ hết

 

Chính trị bình dân | 179

các thiết chế trung gian như xã hội dân sự) là mị dân. Mị dân là việc

một chính trị gia lợi dụng thành kiến và sự kém hiểu biết của dân

chúng (dân trí thấp) để kích động tình cảm, sự cảm tính ở họ mà

làm lu mờ đi những lập luận duy lý, có lý trí. Các chính trị gia mị

dân thường cổ súy những hành động tức thời, kể cả bạo lực, để giải

quyết khủng hoảng; họ kêu gọi, kích động dân chúng hành động

mạnh mẽ, kể cả dùng bạo lực, đồng thời lên án những người ôn

hòa, chừng mực là yếu kém, không quyết đoán, không trung thành.

Tất nhiên, chính trị gia mị dân thường có tài hùng biện, và họ luôn

sẵn sàng tận dụng tài đó của mình để làm mê hoặc, lôi kéo, dẫn dụ

quần chúng.

Năm 1838, James Fenimore Cooper đưa ra bốn đặc điểm xác

định một chính trị gia mị dân, như sau:

1. Tự xây dựng hình ảnh mình như một người bình dị, gần dân,

đối lập với tầng lớp tinh hoa thượng lưu xa dân và ở trên dân;

2. Kích động bản năng và cảm xúc của quần chúng;

3. Khai thác, lợi dụng những phản ứng bản năng, những cảm

xúc của quần chúng để làm lợi cho mình;

4. Phá vỡ hoặc ít nhất là đe dọa những thiết chế dân chủ đã

được xác lập, những quy tắc hành xử của chính trị gia vốn đã được

ngầm mặc định.

Các bạn lưu ý đặc điểm thứ tư ở trên đây: Điều xấu và nguy

hiểm ở kẻ mị dân là hắn tuy luôn tỏ ra chiều ý người dân nhưng

thực chất lại phá hoại dân chủ, phá vỡ các nguyên tắc của dân chủ,

ví dụ nguyên tắc tư pháp độc lập hay bảo đảm tự do báo chí. Ngoài

ra, trong việc lôi kéo, dẫn dụ quần chúng, hắn cũng khôn khéo tạo

ra cái vỏ giản dị, dân dã, kể cả khi điều đó trái ngược với những

quy tắc hành xử thông thường của chính trị gia. Chẳng hạn như

sẵn sàng mặc đồ gụ, đi dép cao su, thay vì vận complet thắt cravat.

Hay là nói năng thật bỗ bã, kiểu “hốt liền, không nói nhiều”. Hoặc

lướt mạng xã hội, chơi facebook, twitter liên tục để giao lưu với

người dân.

 

180 | Phạm Đoan Trang

Lịch sử ghi nhận một số chính trị gia mị dân nổi tiếng: Adolf

Hitler, Benito Mussolini. Và nếu căn cứ vào bốn đặc điểm nói trên

để xác định một lãnh đạo mị dân thì hẳn bạn sẽ nhận ra nhiều

gương mặt quen: Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Putin...

Dân túy và mị dân là hai khái niệm rất gần gũi, có nhiều điểm

chung. Thứ nhất, các chính trị gia dân túy hay mị dân đều tỏ ra

bình dị, gần dân, chiều lòng dân. Thứ hai, cả hai đều phớt lờ sự tồn

tại của những thiết chế trung gian – xã hội dân sự – nằm ngoài

chính quyền và giúp cân bằng, điều hòa mối quan hệ giữa chính

quyền (thống trị) và người dân (bị trị). Vì lý do đó, họ rất dễ tiến

đến ngưỡng trở thành phi dân chủ, thậm chí độc tài.

Điểm khác biệt giữa dân túy và mị dân là người dân túy có thể

thực lòng muốn chiều theo ý dân, muốn lấy lòng quần chúng trên

cơ sở có hướng đến phục vụ số đông bình dân thật. Còn kẻ mị dân

thì đơn thuần là cơ hội chính trị, đạo đức giả, chỉ muốn thao túng

tình cảm và lợi dụng dân vì tư lợi.

Cũng cần nói rõ rằng, việc tỏ ra gần dân, chiều lòng dân, và lôi

kéo, dẫn dụ quần chúng nếu có thể, là điều mà chính trị gia nào

cũng muốn làm, cho dù ở thể chế nào. Như chúng ta đã xác định

ngay từ Chương I, “Định nghĩa chính trị”, của Phần I, chính trị là

việc gây ảnh hưởng lên những người khác, là nghệ thuật vận động.

Vì vậy, có thể nói trong mỗi chính khách, mỗi nhà lãnh đạo chính

trị hay mỗi quan chức đều ẩn chứa tư tưởng dân túy và thói mị dân,

dù ít dù nhiều. Vấn đề là mức độ dân túy, mị dân của họ, cũng như

mức độ họ tôn trọng và tuân thủ hiến pháp, nhà nước pháp quyền,

nhân quyền và dân chủ, mức độ họ thực sự làm lợi hoặc gây hại

cho người dân và xã hội.

 

* * *

 

Chính trị bình dân | 181

 

CHỦ NGHĨA DÂN TỘC VÀ LÒNG YÊU NƯỚC

1. Chủ nghĩa dân tộc

Đến đây chúng ta sẽ bàn về một ý thức hệ được nhắc tới rất nhiều

ở Việt Nam những năm vừa qua – tạm coi là những năm đầu của

thời toàn cầu hóa: Chủ nghĩa dân tộc (nationalism), hay còn được

dịch sang tiếng Việt là chủ nghĩa quốc gia.

Trong tiếng Việt lâu nay, nhiều người vẫn dùng từ “dân tộc” để

chỉ một sắc tộc, như dân tộc Kinh, dân tộc Mường, dân tộc Ê-đê...

cho nên nếu dịch nationalism là chủ nghĩa dân tộc thì có thể khiến

mọi người hiểu sai bản chất của khái niệm này – một khái niệm

vốn gắn với quốc gia chứ không phải với sắc tộc. Tuy vậy, do cách

dịch đó đã tồn tại quá lâu, nên ở đây, chúng ta cũng đành chấp

nhận dùng cụm từ “chủ nghĩa dân tộc”.

Chủ nghĩa dân tộc, theo nghĩa nguyên thủy của nó, là sự gắn bó,

về mặt tâm lý, của người dân với một quốc gia cụ thể, dựa trên một

lịch sử chung, ngôn ngữ chung, văn học chung, văn hóa chung, và

một ước nguyện chung là giành được và/hoặc duy trì được độc lập

chính trị.

Việc chia sẻ “một ước nguyện chung là giành được và/hoặc duy

trì được độc lập chính trị” là thuộc tính cực kỳ quan trọng của chủ

nghĩa dân tộc, bởi nếu không có nó, sẽ không có quốc gia nào tồn

tại trong tâm khảm những con người có thể được gọi là “dân” của

một quốc gia. Ngôn ngữ không phải yếu tố quyết định. Trên thế

giới, không thiếu gì quốc gia đa ngôn ngữ. Ví dụ Thụy Sĩ có bốn thứ

tiếng chính thức là Đức, Pháp, Ý, Romansh, nhưng không trở

thành bốn quốc gia, bởi vì các thành viên của cộng đồng lớn Thụy

Sĩ đều coi cộng đồng lớn của mình là một quốc gia – tức là họ đều

chia sẻ ước nguyện chung là duy trì độc lập chính trị.

Từ thế kỷ 20 trở về trước, đặc biệt trong thời phong kiến, chủ

nghĩa dân tộc được coi là một phẩm chất tốt đẹp. Trung thành với

quốc gia là lòng trung thành cao cả nhất, hơn cả với tôn giáo, gia

 

182 | Phạm Đoan Trang

đình, chủng tộc hay giai cấp. Ngay cả trong nửa đầu thế kỷ 20 với

sự nổi lên của làn sóng cộng sản, chủ nghĩa cộng sản quốc tế và chủ

nghĩa phát xít dẫn đến hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc,

người ta vẫn chiến đấu vì một ý thức hệ bao trùm là chủ nghĩa dân

tộc, hơn là vì chủ nghĩa cộng sản hay vì dân chủ tự do. Nói cách

khác, trong các cuộc chiến tranh ấy, bên tham chiến là các quốc gia

chứ không phải tôn giáo, giai cấp, hay chủng tộc.

Ở những nước phương Tây tự do, kính yêu lãnh tụ không phải

là một phẩm chất tốt đẹp. Nhưng gắn bó và trung thành với quốc

gia thì ở đâu, Đông hay Tây, cũng đều được coi là phẩm hạnh. Đó

là quan niệm của thời trước.

Tuy thế, từ cuối thế kỷ 20, khi làn sóng toàn cầu hóa bắt đầu

dâng lên, thì nhiều nước đã nghĩ lại về khái niệm chủ nghĩa dân

tộc, chủ nghĩa quốc gia. Người dân ở các nước phương Tây – vốn

cởi mở hơn và hòa nhập vào thế giới toàn cầu hóa nhanh chóng

hơn phương Đông – cho rằng chủ nghĩa dân tộc đã trở nên lỗi thời,

lạc hậu, và có hại trong thế giới hiện đại. Đầu óc dân tộc chủ nghĩa

hẹp hòi cản trở một quốc gia hội nhập, chung sống hòa bình và hợp

tác với các nước khác. Sớm muộn nó sẽ tạo ra sự cực đoan, tự cô

lập, và gây mâu thuẫn, xung đột, bạo lực.

Ở Việt Nam, dân chúng vẫn giữ thói quen mang cờ (càng to

càng đẹp) vào sân vận động xem bóng đá trong những trận quốc

tế có đội tuyển Việt Nam tham dự. Ở Anh, nếu bạn vác một lá

quốc kỳ to vào sân bóng, rất có thể người ta sẽ nhìn bạn như nhìn

một kẻ lập dị, cực đoan. Từ “nationalist” – người theo chủ nghĩa

dân tộc, người quốc gia – ngày nay đã có hàm ý tiêu cực trong

tiếng Anh.

Tuy vậy, tại Trung Quốc, Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc vẫn được

đề cao và được coi là động lực để gắn kết toàn dân vì những mục

tiêu chung.

 

Chính trị bình dân | 183

 

2. Lòng yêu nước

Ở trên đã nói, mặc dù ở Mỹ và châu Âu, chủ nghĩa dân tộc đã mang

hàm ý tiêu cực (hẹp hòi, cực đoan), nhưng tại Trung Quốc, Việt

Nam, chủ nghĩa dân tộc vẫn được đề cao và được coi là động lực để

gắn kết toàn dân vì những mục tiêu chung. Và, ở hai nơi này, nó lại

được gọi một cách phổ biến là “lòng yêu nước”, “tình yêu đất nước”,

chứ không gọi là “chủ nghĩa dân tộc”. Ví dụ như người ta hay nói

“đóng thuế là yêu nước”, chứ không ai nói “đóng thuế là vì chủ

nghĩa dân tộc”. Tương tự, trong những cuộc biểu tình chống Tàu ở

Việt Nam, người biểu tình cũng nói rằng họ xuống đường vì yêu

nước chứ không phải vì chủ nghĩa dân tộc.

Từ đây, nảy sinh một sự nhầm lẫn, hỗn loạn tương đối giữa hai

khái niệm: chủ nghĩa dân tộc và lòng yêu nước (hay có thể gọi là

chủ nghĩa ái quốc).

Để cho rõ ràng, người viết đề xuất rằng chúng ta có thể định

nghĩa hai chủ nghĩa này như sau:

y Lòng yêu nước, hay chủ nghĩa ái quốc: sự gắn bó, về mặt tâm

lý, của người dân với một quốc gia cụ thể, dựa trên một lịch sử

chung, ngôn ngữ chung, văn học chung, văn hóa chung, và một

ước nguyện chung là giành được và/hoặc duy trì được độc lập

chính trị (chính là nghĩa nguyên thủy của khái niệm chủ nghĩa

dân tộc). Trong chừng mực ôn hòa, lòng yêu nước là một phẩm

chất tốt đẹp.

y Chủ nghĩa dân tộc, hay chủ nghĩa quốc gia: Là lòng yêu nước

được đẩy tới mức cực đoan, trở thành tâm lý sùng bái và tự hào thái

quá về đất nước mình, và coi quốc gia là cộng đồng chính trị quan

trọng nhất trong mọi loại tổ chức chính trị. Với ý nghĩa đó, nó đã

mang hàm ý tiêu cực. Nếu đi tới mức coi đất nước mình là trung

tâm của thế giới, ưu việt hơn toàn bộ phần còn lại của thế giới, thì

nó trở thành chủ nghĩa sô-vanh, kiêu ngạo, hung hãn và hiếu chiến.

 

184 | Phạm Đoan Trang

 

Lòng yêu nước Chủ nghĩa dân tộc

 

Xuất phát từ tiếng Latin “patria”,

nghĩa là quê hương.

Là tình cảm gắn bó với một đất

nước, không nhất thiết yêu hay

tự hào.

 

Xuất phát từ chữ “nation”, nghĩa là

quốc gia.

Là ý thức hệ cho rằng quốc gia là

trung tâm của việc tổ chức chính trị,

đi kèm với sự tự hào và sùng bái đất

nước mình.

 

Cuối cùng, cho dù là lòng yêu nước hay chủ nghĩa dân tộc, thì

tình cảm gắn bó, trung thành với đất nước rất dễ bị các chính quyền

lợi dụng để đoàn kết dân chúng vào những mục tiêu chung, nhiều

khi chẳng tốt đẹp gì, ví dụ như tham gia chiến tranh, chém giết sinh

mạng con người.

 

Bài đọc

TINH THẦN YÊU NƯỚC 1

 

Nguyễn Dân (facebooker Ếch Ao)

 

Một công ty du lịch ngưng bán tour đi Trung Quốc, những “avatar”

(hình đại diện) mang hình bản đồ Tổ quốc, những bạn trẻ xuống

đường tuần hành thể hiện tinh thần yêu nước... Họ, những con

người Việt Nam đang thể hiện tinh thần yêu nước.

Tinh thần yêu nước – thật khó để có một định nghĩa rõ ràng của

cụm từ này, nhưng trong những tuần qua, có lẽ đây lại là cụm từ lại

được “cảm” nhiều nhất “nhờ” một loạt hành động xâm phạm chủ

quyền biển đảo của Trung Quốc. Có thể thấy tinh thần ấy ở khắp

nơi. Những bài báo với những lời yêu thương đất nước, những lời

căm phẫn trước sự xâm phạm của ngoại bang trên các phương tiện

truyền thông. Những “status” (trạng thái), những dòng “comment”

(bình luận) bày tỏ suy nghĩ về chủ quyền đất nước trên facebook,

những diễn đàn mạng. Từ ảo ra ngoài đời thật, những bạn trẻ

“chào” nhau bằng những câu chuyện về tình hình đất nước. Những

bài hát, câu khẩu hiệu khẳng định chủ quyền đất nước. Đâu đó bắt

đầu đã xuất hiện những câu “nếu đất nước có chiến tranh...” và thật

không khó để đoán câu trả lời hầu hết là “có” kèm một cái gật đầu

quả quyết. Vậy chúng ta có bao giờ tự đặt câu hỏi cho chính mình:

Thế nào là tình yêu nước?

1. Trích từ tuyển tập “Thế hệ F”, NXB Liên Mạng, 2012.

 

186 | Phạm Đoan Trang

Nếu chúng ta đã từng khâm phục ý chí của người Nhật, tinh

thần sắt đá của người Hàn, ý thức công dân của phương Tây... và

chúng ta gọi đó là tinh thần yêu nước, thì thời gian này chúng ta đã

có thể nhìn lại chính mình để tự vấn rằng mình đã thể hiện lòng

yêu nước như thế nào?

Lòng yêu nước không phải chỉ những lời hô hào, những hành

động bột phát mà bắt đầu từ những việc tưởng như nhỏ nhặt xung

quanh chúng ta.

Lòng yêu nước ấy có lẽ nào lại có ở những người chen lấn khi

xếp hàng, ở những người đầu trần vượt đèn đỏ, ở những người vô

tư xả rác lên con đường họ đi hàng ngày?

Liệu có tin không những người nói sẽ xả thân cho đất nước

nhưng lại sẵn sàng ẩu đả với chính đồng bào mình chỉ vì một va

chạm nhỏ trên đường?

Có tin không những người sẽ cầm súng ra trận nhưng lại không

biết quý trọng tính mạng chính bản thân và những người xung

quanh khi phóng xe bạt mạng trên phố?

Không, lòng yêu nước trước nhất là yêu lấy chính bản thân

mình, yêu những điều tốt đẹp trong cuộc sống, yêu ngôi nhà chúng

ta đang ở, yêu những người thân thuộc xung quanh và yêu cả

những gì chúng ta đón nhận hàng ngày. Nếu chúng ta thật sự yêu

nước thì hãy thể hiện tinh thần ấy trong từng ngày, từng giờ trong

mỗi máu thịt của chúng ta qua từng hành động, suy nghĩ.

Nếu chúng ta thực sự lo lắng về chủ quyền biển đảo thì đừng

đắm chìm trong những game online, cho những buổi cafe tán gẫu

vô bổ mà hãy bớt chút thời giờ để đọc thêm sách báo, học hỏi thêm

kiến thức, lấy lý luận làm vũ khí giành lại tấc đất quê hương.

Nếu chúng ta đau xót cho những ngư dân bị tàu lạ bắt giữ đòi

tiền chuộc thì hãy khoan mua một chiếc áo đẹp, đừng vội cho một

cuộc chơi mà hãy nghĩ đến những khó khăn của những người

đang cầm súng ngoài hải đảo.

 

Chính trị bình dân | 187

Nếu chúng ta uất ức trước những chiếc tàu “lạ” xâm chiếm lãnh

hải, ỷ thế mạnh ức hiếp chúng ta thì chúng ta hãy biết xấu hổ khi đi

sai luật, biết nhẫn nhịn trước những cuộc cãi vã, những va chạm

nhỏ với chính đồng bào của mình.

Hãy thấy rằng vẫn còn nhiều công trình tiền tỉ nhưng kém chất

lượng do bị rút ruột mà nếu dùng số tiền đó có thể cải thiện đời

sống của những đồng bào nghèo.

Hãy thấy rằng những con đường lún sụt, nhiều ổ gà đã tiêu tốn

chúng ta biết bao nhiêu xăng dầu mà có thể dùng cho xe tăng, tàu

thủy.

Chúng ta có bao giờ để ý nếu tắt một chiếc đèn sáng sẽ góp phần

tiết kiệm điện để không phải bị thiếu hụt nên phải mua ở nước

ngoài, chúng ta đã làm được chưa?

Những việc đó chẳng phải là tinh thần yêu nước sao?

Và chúng ta bắt đầu lòng yêu nước bằng những việc đơn giản

nhất như thế.

Nào, hãy lên đường!

 

“Việt Nam chúng ta đó!”. Ảnh và lời bình: Nguyễn Dân (Ếch Ao).

Chụp tại biển Đại Lãnh (Nha Trang) năm 2011.

 

Bài đọc

YÊU NƯỚC LÀ GÌ? 1

 

Nguyễn Trần Quyên Quyên

 

Mình 33 tuổi và mình chả biết yêu nước là gì.

Hồi tầm lớp 6, lớp 7 gì đó, mình hỏi mẹ:

- Mẹ ơi, con thấy mình đâu có yêu nước. Tại sao phải yêu nước?

- Con có yêu nước mà con không biết. Bây giờ, khi xem Việt

Nam đá banh với một đội nước khác, con muốn Việt Nam thắng

hay thua?

- Thắng chớ!

- Đó là yêu nước.

Mình nhớ lúc đó cũng còn mơ hồ với khái niệm này lắm. Nó

gần giống với một sự bênh vực tự nhiên đến mức không thể giải

thích được. Hết.

Đến năm mình 24-25 tuổi, hôm ấy trời mưa như trút. Từ cái lan

can sau lưng tòa nhà mình làm truyền thông, nhìn ra phía khu

vườn, mình bứt rứt vì cái kế hoạch của mình gặp vô vàn khó khăn

tại Việt Nam, trong khi các bạn mình đang làm rất tốt tại một quốc

gia khác.

 

1. Bài viết trên facebook cá nhân của tác giả, đăng ngày 02/6/2017.

 

190 | Phạm Đoan Trang

Nhìn mưa chảy xối xả trên mấy cái tán lá. Cứ đứng thừ người

ra. Mình hỏi Chúa: Tại sao không để con sinh ra ở một đất nước

khác? Tại sao bắt con làm người Việt?

Một tuần lễ sau đó, mình có cuộc gặp với một người chị trong

nhóm. Chị này tham gia dự án từ khi còn du học bên Pháp. Sau

thời gian này, người ta giữ chị ở lại. Chị từ chối. Mình còn nhớ

nguyên văn chị nói với mình:

“Chị nói với họ rằng: Ơn gọi của chị là làm người Việt Nam.

Nên chị sẽ về Việt Nam. Nếu có dự án ở Việt Nam, chị sẽ tham gia”.

Lúc này mình mới phát hiện ra: “Bị bắt làm người Việt Nam”

còn có một tên gọi là “ơn gọi làm người Việt Nam”. Và khi mình có

cái cảm giác ghét làm người Việt, ghét nước Việt Nam, tức là, phải

tồn tại cái gọi là yêu nước Việt Nam mà mình chưa tìm ra được.

Cho đến giờ này, mình cũng chưa hiểu được như thế nào là yêu

nước. Nhưng những hành động và suy nghĩ của mình, hình như

nó là cái gì đó giống như yêu một cách tự nhiên: Sinh ra là yêu rồi

và không cần định nghĩa hay sao ấy... và mình list ra đây những

điều mà mình cho là biểu hiện của lòng yêu nước, có thể quan sát

được, và “chẩn đoán” được là bạn có yêu nước.

Nếu bạn có giống mình, hãy mạnh dạn gọi nó là yêu nước.

1. Khi xem Việt Nam đá banh, mình muốn Việt Nam thắng

cuộc.

2. Thích nghe tiếng Việt và thoải mái nhất khi nghe nói tiếng

Việt trong tất cả các thứ tiếng.

3. Mong là mình mau hết ho để có thể ăn hết bốn hũ mắm

người ta cho còn đang để dành trong tủ lạnh. Thèm mắm kinh

khiếp.

4. Rất tự hào khi nói với cái bà ngoài chợ là: Ê, em người Việt

Nam, đừng có nói thách với em.

5. Thèm ăn mít và sầu riêng.

6. Thích nghe mấy bài mẹ hát ru. Hồi trước còn thích nghe chèo.

 

Chính trị bình dân | 191

7. Tự trong thâm tâm, rất muốn lấy một người Việt để có thể

trao đổi tất cả những gì mình muốn bằng thứ tiếng mà mình cảm

nhận và diễn đạt tốt nhất.

8. Thích nhìn mấy tập thơ hồi xưa người ta đóng thành từ

những tép giấy, buộc bằng sợi chỉ đỏ, tặng nhau: “Rằng xưa có gã

từ quan, lên non tìm động hoa vàng ngủ say”.

9. Ngồi đoán sắp có mưa nhờ mấy con chuồn chuồn rồi đọc cái

câu phịa quen thuộc: Chuồn chuồn bay thấp thì cao, bay cao thì

thấp, bay vừa thì thôi.

10. Thích ngửi mùi phân bò với rơm rạ. Cái mùi này độc đáo

lắm. Đi ra khỏi thành phố, về gần quê mới ngửi được.

11. Mỗi lần nhớ cảnh trung thu đi rước đèn mà năm nào cũng

mưa là lăn ra cười.

12. Mỗi lần có bạn bè nước ngoài kêu kể về nước bà cho tui nghe

đi là thao thao bất tuyệt cứ như thể biết hết nước Việt Nam rồi í.

13. Thích nụ cười của mấy người sống ở miền Tây Bắc lẫn Tây

Nguyên. Người ta đẹp lạ lùng.

14. Thích nghe người miền Tây nói chuyện. Mèn đéc ơi là nó

thật thà dễ thương.

15. Rất bi quan khi người ta hỏi đến chính quyền cộng sản Việt

Nam.

16. Khi xem mấy cảnh Trung Quốc bắn người đánh cá Việt

Nam, xem thấy người dân bị cắt cổ sau khi ra khỏi đồn công an, hay

khi đọc lá thư bên dưới của thầy Hoàng 1

 

là nước mắt cứ muốn ứa

 

ra đi kèm căm giận.

 

1. Vào tháng 5/2017, thầy giáo Phạm Minh Hoàng, thành viên đảng Việt Tân, cư ngụ ở Sài

Gòn, bị Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Trần Đại Quang ký lệnh hủy bỏ quốc tịch Việt

Nam. Ông Hoàng là người có hai quốc tịch: Việt Nam và Pháp. Việc tước quốc tịch Việt

Nam đồng nghĩa với trục xuất ông khỏi đây. Ông Hoàng đã viết nhiều tâm thư gửi cộng

đồng để kêu cứu và chia sẻ tình cảm của mình đối với Việt Nam. Chiều tối ngày 23/6/2017,

ông Hoàng bị công an TP.HCM ập vào nhà bắt mang đi để trục xuất sang Pháp.

 

192 | Phạm Đoan Trang

17. Muốn làm một điều gì đó, nhỏ cũng được, để thay đổi điều

15 và 16, để bảo vệ 14 điều ở trên.

18... 19... Còn gì nữa không?

 

Cầu Long Biên (Hà Nội) nhìn từ bãi giữa sông Hồng.

Ảnh: Nguyễn Dân (Ếch Ao), năm 2011.

 

Ý THỨC HỆ CÓ CẦN THIẾT KHÔNG?

 

Trên đây chúng ta đã vừa bàn đến một số ý thức hệ, hay chủ nghĩa,

phổ biến trong lịch sử loài người từ trước tới nay, theo nghĩa chúng

được biết đến nhiều và được thực thi nhiều trên thế giới.

- Chủ nghĩa tự do

- Chủ nghĩa bảo tồn

- Chủ nghĩa xã hội và dân chủ xã hội

- Chủ nghĩa phát xít

- Chủ nghĩa vô chính phủ

- Chủ nghĩa môi trường

- Tôn giáo thuần túy

- Chủ nghĩa cộng đồng

- Chủ nghĩa nữ quyền

- Chủ nghĩa dân tộc.

(Chúng ta cũng đã tìm hiểu sơ qua về tư tưởng dân túy và thói

mị dân, song dân túy và mị dân không được tính là hai ý thức hệ).

Xin các bạn lưu ý rằng trên đây chưa phải là tất cả trong hàng

trăm ý thức hệ chính trị đã từng và đang tồn tại trong lịch sử nhân

loại. Chúng chỉ là những chủ nghĩa được biết tới nhiều và thực thi

nhiều nhất.

Câu hỏi đặt ra tới lúc này, có lẽ sẽ là: Vậy, suy cho cùng, ý thức

hệ có cần thiết không? Một đảng chính trị, một cộng đồng, một xã

hội, một quốc gia, có nhất thiết phải đi theo một ý thức hệ nào đó?

 

194 | Phạm Đoan Trang

Có nhiều triết gia chính trị sẽ bảo là không. Daniel Bell nói

không cần ý thức hệ nữa, bởi “Các đảng chính trị ở phương Tây

cạnh tranh bằng những hứa hẹn về phát triển kinh tế và sung túc

về vật chất” (1960). Quan điểm này hẳn cũng giống điều nhiều

người Việt Nam từng nói, mà bạn cũng đã nghe, rằng chủ nghĩa gì

cũng được (ý là không nhất thiết phải theo đường lối Mác-Lê),

miễn là nước giàu, dân sướng.

Francis Fukuyama, triết gia nổi tiếng, cho rằng lịch sử loài người

đã “cáo chung” với ý thức hệ cuối cùng, duy nhất còn tồn tại là chế

độ dân chủ tự do. (Các bạn có thể tìm đọc cuốn “The end of history

and the last man”, tạm dịch là “Sự cáo chung của lịch sử và con

người cuối cùng”, 1989).

Anthony Giddens thì nói: “Cánh tả, cánh hữu gì cũng không

cần thiết nữa khi mà xã hội ngày càng toàn cầu hóa, truyền thống

ngày càng suy yếu, con người ngày càng thích độc lập nhưng cũng

hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn” (1994).

Thật khó nói ý thức hệ có còn cần thiết nữa hay không. Nhưng

có hai sự thật mà chúng ta buộc phải thừa nhận, là: 1. Con người

vẫn không ngừng tư duy, và các tư tưởng mới, các ý thức hệ mới

vẫn có thể tiếp tục ra đời. 2. Chủ nghĩa nào cũng có đội ngũ người

ủng hộ nó và chống đối nó. Có nghĩa là chủ nghĩa nào cũng có khía

cạnh tốt đẹp và khía cạnh tồi tệ của nó, và sự ra đời của nó cũng

phù hợp với hoàn cảnh xã hội đương thời, nghĩa là có lý do. Cuối

cùng, chỉ có thực tế mới cho thấy việc áp dụng chủ nghĩa nào là

đúng đắn hơn hoặc mang tính phá hoại, hủy diệt hơn. (Có phải tác

giả đang viết như một người theo chủ nghĩa thực dụng không?)

 

Phần V

TƯƠNG TÁC CHÍNH TRỊ

 

Đến đây bạn đã biết chính trị về bản chất là những hoạt động nhằm

thuyết phục, vận động hay cưỡng ép (những) người khác nhằm

một mục đích nào đó, chẳng hạn nhằm tạo ra một sự thay đổi. Mức

độ cao của hoạt động chính trị là nhằm thay đổi chính sách, mà cao

nhất là thay đổi xã hội.

Trong Phần V này, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu về các hoạt động chính

trị phổ biến nhất và có sức mạnh lớn nhất trong việc thay đổi xã

hội. Đây sẽ là một phần rất dài, các bạn có thể đọc tuần tự từ đầu

đến cuối, hoặc chọn riêng chương về hoạt động mà bạn yêu thích

hoặc quan tâm nhất để đọc. Một cách khái quát, nội dung của Phần

V sẽ bám theo các hoạt động như sau:

y Thay đổi xã hội: cách mạng và chuyển hóa

y Làm truyền thông: công luận, truyền thông chính trị, và tuyên truyền

y Hoạt động đảng phái: đảng và hệ thống đảng

y Bầu cử

y Tổ chức và nhóm lợi ích

y Hoạt động xã hội dân sự

y Phong trào xã hội

 

Chương I

THAY ĐỔI XÃ HỘI

 

Thay đổi xã hội 1

 

là sự biến đổi các thiết chế văn hóa và xã hội theo

thời gian. Nó thường là kết quả của nhiều nguyên nhân:

Công nghệ, khoa học kỹ thuật: Có những phát minh, sáng chế

đã làm thay đổi cả một nền văn hóa và xã hội. Ví dụ như kính đeo

mắt, đồng hồ cơ giới, máy in...

“Sự sáng chế ra kính đeo mắt đã kéo dài hơn gấp đôi tuổi lao

động của những thợ thủ công lành nghề, đặc biệt là những người

làm những công việc tinh vi: những người chuyên việc sao chép

(có một vai trò quyết định trước khi phát minh ra máy in), và

những người đọc, những người thợ làm dụng cụ và công cụ, những

người thợ dệt chuyên dệt những hoa văn tỉ mỉ, những người chuyên

chế tạo những sản phẩm tinh xảo bằng kim loại”.

“... Kính mắt khuyến khích sự phát minh những dụng cụ tinh

vi, thực sự đã đẩy châu Âu tiến theo một hướng mà người ta không

thấy ở một nơi nào khác. Người Hồi giáo biết cái dụng cụ để đo độ

cao của mặt trời và các vì sao khác, nhưng họ chỉ biết có thế. Người

châu Âu tiếp tục phát minh ra những chiếc đồng hồ đo, những

thước trắc vi, những máy cắt bánh xe tinh vi – cả một hệ thống

công cụ gắn với đo lường và kiểm tra chính xác. Do đó, họ đã đặt

cơ sở cho những máy móc có khớp nối được làm bằng nhiều bộ

1. “Society: Understanding the Basics”, John J. Macionis, 8th edition, Prentice Hall.

 

198 | Phạm Đoan Trang

phận lắp vào nhau. Lao động tinh vi: Trong các nền văn minh khác,

khi làm công việc này thì người ta làm bằng cách tập luyện lâu dài

cho thành thói quen. Kỹ năng là ở đôi bàn tay, chứ không phải ở đôi

mắt gắn liền với công cụ. Họ đã thực hiện được những kết quả thật

là xuất sắc, nhưng không có cái nào giống cái nào; còn châu Âu thì

đã chuyển theo hướng tái tạo bản sao – sản xuất hàng mẻ rồi bán

hàng loạt. Hơn nữa, việc biết được chiếc thấu kính là một trường

hợp để tiến xa hơn nữa về quang học... Châu Âu đã được hưởng

đặc quyền về những thấu kính điều chỉnh trong vòng từ 3 đến 400

năm. Thực tế là những chiếc thấu kính đó đã làm tăng gấp đôi lực

lượng lao động thủ công lành nghề, và còn hơn gấp đôi nếu người

ta tính cả giá trị của kinh nghiệm”. 1

 

Đồng hồ cát thì đẹp nhưng không bao giờ có thể chính xác tuyệt đối và trở

thành công cụ để làm chuẩn chung được. Đồng hồ cơ giới đã làm điều đó.

Mâu thuẫn, căng thẳng và xung đột: Karl Marx gọi đó là đấu

tranh giai cấp, xem nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã

hội. Một thế kỷ sau Marx, người ta cho rằng nếu chỉ là “đấu tranh

giai cấp” thì quá đơn sơ, đơn giản; đúng hơn thì phải nói: Mâu

1. “The Wealth and Poverty of Nations: Why Some are So Rich and Some So Poor”, David

S. Landes. Bản dịch tiếng Việt “Sự giàu và nghèo của các dân tộc” của NXB Thống Kê.

 

Chính trị bình dân | 199

thuẫn xã hội nảy sinh từ sự bất bình đẳng (không chỉ trong vấn đề

giai cấp mà cả bất bình đẳng sắc tộc và giới tính nữa) sẽ đưa đến

thay đổi xã hội.

Tư duy, quan niệm: Theo Max Weber, nguồn gốc của nhiều

thay đổi xã hội chính là suy nghĩ, quan niệm. Ví dụ, những người

có sự hấp dẫn, lôi cuốn như Martin Luther King có thể đưa ra

những thông điệp mà đôi khi làm thay đổi thế giới.

Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của tư duy bằng việc kể rằng

niềm tin tôn giáo ở thời kỳ đầu của đạo Tin Lành đã mở đường

như thế nào cho sự lan truyền, lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản

công nghiệp. Với ông, việc chủ nghĩa tư bản công nghiệp phát triển

mạnh chủ yếu ở Tây Âu, nơi nền đạo đức Tin Lành rất phát triển,

là bằng chứng cho thấy tư duy có sức mạnh tạo ra sự thay đổi. 1

Nhân khẩu học: Thay đổi về dân số cũng có thể đưa đến thay

đổi xã hội. Ví dụ như việc tỷ lệ sinh gia tăng sau chiến tranh, tốc độ

đô thị hóa nhanh hơn, việc đất nước bước vào thời kỳ dân số vàng,

hay khi dân số già đi... tất cả đều có thể đưa đến thay đổi về tâm lý

xã hội, văn hóa xã hội, thói quen tiêu dùng, v.v.

Biến động chính trị: Những dạng thay đổi xã hội xuất phát từ

các nguyên nhân nêu trên thì thường là không có kế hoạch, không

được ai định liệu trước, và nói chung là không cá nhân hay tổ chức

nào chủ ý tạo ra thay đổi. Nhưng biến động chính trị thì ngược lại,

thường là kết quả của những nỗ lực thật sự, có chủ đích.

Con người nói chung thường tập hợp lại với nhau để hình thành nên

những phong trào xã hội – một hoạt động có tổ chức nhằm khuyến khích

hoặc chống lại sự thay đổi xã hội. Lịch sử nước Mỹ tràn ngập các phong

trào xã hội, từ thời kỳ thực dân và chiến đấu để giành độc lập, đến việc các

tổ chức ngày nay ủng hộ hay phản đối nạo thai, quyền của người đồng

tính, và án tử hình.*

* “Society: Understanding the Basics”, John J. Macionis, 8th edition, Prentice Hall.

 

1. Xem “Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản”, Max Weber, bản dịch

của Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang, NXB Tri Thức, 2008.

 

200 | Phạm Đoan Trang

Bây giờ, với Phần V này, chúng ta sẽ tập trung vào những thay

đổi xã hội bắt nguồn từ biến động chính trị.

* * *

CÁCH MẠNG VÀ CHUYỂN HÓA

Ở Chương II, Phần II, các bạn đã biết khái niệm tính chính danh,

đó là “niềm tin phổ biến của các thành viên trong một xã hội rằng

quyền lực của chính quyền hay đảng cầm quyền là đúng, chính

đáng, hợp lý, hợp pháp, và vì thế dân chúng phải phục tùng”.

Khi nào niềm tin đó suy giảm, tức là tính chính danh của chính

quyền sa sút. Khi nào tình trạng suy giảm niềm tin của người dân

vào bộ máy quản lý, lãnh đạo và cả thể chế đến mức sâu sắc, thì đó

là khi xảy ra khủng hoảng tính chính danh. Khi khủng hoảng này

xuống tới đáy, thì chỉ có hai kịch bản: Hoặc là chính quyền thẳng

tay khủng bố, đàn áp, tiêu diệt mọi sự phản kháng, biến đất nước

thành nhà tù (chính quyền, tức phe chống lại sự thay đổi, thắng);

hoặc là hệ thống chính trị, đất nước, xã hội sẽ thay đổi (phe cổ súy

thay đổi thắng).

Sự thay đổi cũng chỉ có một trong hai xu hướng: phát triển hoặc

suy thoái, tức là tốt lên hoặc xấu đi.

Và cho dù theo xu hướng nào, tốt lên hay xấu đi, thì sự thay đổi

cũng chỉ diễn ra dưới một trong hai hình thức: cách mạng hoặc

chuyển hóa.

Cách mạng

Cách mạng trong chính trị là một cuộc nổi dậy của số đông, gắn

với những hành động tập thể của quần chúng.Có thể có bạo lực, và

khả năng cao là có, tuy không nhất thiết. Cách mạng mang lại một

sự thay đổi căn bản, hoàn toàn hệ thống chính trị chỉ trong một thời

gian ngắn, cắt đứt với quá khứ (và thường là một cách bạo lực), chứ

không phải chỉ thay đổi chính sách hay thay thế người cầm quyền.

 

Chính trị bình dân | 201

Các bạn lưu ý là đây chỉ là định nghĩa về cách mạng trong địa

hạt chính trị. Chúng ta cũng có cách mạng trong các lĩnh vực khác

như khoa học kỹ thuật, công nghệ, nghệ thuật... Có thể định nghĩa

chung rằng, cách mạng là một sự thay đổi toàn diện, tận gốc rễ,

trong một thời gian ngắn.

 

Bức tranh nổi tiếng về cuộc cách mạng tháng 7/1830 ở Pháp:

Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân. Tác giả: họa sĩ Eugène Delacroix.

 

Những người theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội có xu

hướng ưa thích cách mạng vì nó quyết liệt và nhanh gọn. Người

theo chủ nghĩa bảo tồn thì không muốn cách mạng mà thích sự

chuyển hóa hơn.

Cũng cần phân biệt cách mạng với đảo chính và bạo động. Đảo

chính là việc một nhóm, mà thường là một phe cánh trong chính

quyền, hoặc công an, quân đội nổi dậy lật đổ, cướp chính quyền, có

bạo lực, có vũ trang. Còn bạo động là một cuộc nổi dậy (khởi

nghĩa) của quần chúng, có bạo lực, có thể có vũ trang. Cả hai hình

thức thay đổi này – đảo chính và bạo động – nếu thành công thì

đều chỉ thay đổi chính sách hoặc thay thế nhà cầm quyền, chứ

không mang lại thay đổi căn bản như cách mạng. Cách mạng, về

bản chất, là phải đem đến sự thay đổi căn bản. Ta thường hay nói

“một sự thay đổi mang tính cách mạng” là vì thế.

 

202 | Phạm Đoan Trang

Đảo chính và bạo động, nếu thất bại, thì đương nhiên hậu quả

sẽ là đàn áp và trừng phạt nhằm vào những người tiến hành.

Người tiến hành Tính chất Kết quả

 

Cách mạng Quần chúng

 

Có thể có

bạo lực.

 

Thay đổi đột ngột,

toàn diện thể chế.

Không thất bại. (Nếu

thất bại thì không

thay đổi được và

không gọi là cách

mạng).

 

Đảo chính Một phe trong

 

chính quyền Có bạo lực

 

Chỉ thay đổi chính

sách hoặc nhà cầm

quyền. Nếu thất bại

thì bị đàn áp.

 

Bạo động Quần chúng Có bạo lực

 

Chỉ thay đổi chính

sách hoặc nhà cầm

quyền. Nếu thất bại

thì bị đàn áp.

 

Chuyển hóa

Chuyển hóa trong chính trị là sự thay đổi có hình thức một cuộc

cải cách, diễn ra dần dần, thay đổi từng phần hệ thống chính trị và

xã hội. Sự thay đổi ấy đi theo một quá trình liên tục, kèm với việc

tái cơ cấu (tái cấu trúc) thể chế hay tổ chức, thay vì xóa bỏ hay thay

thế luôn cả thể chế hay tổ chức.

Chuyển hóa là khái niệm được những người theo chủ nghĩa

bảo tồn ưa thích, do họ có xu hướng ủng hộ truyền thống, nêu cao

tinh thần trách nhiệm, v.v. (xem Chương III, Phần IV). Lập luận

phổ biến nhất của những người bảo tồn, khi họ phản đối cách

mạng và ủng hộ chuyển hóa (họ hay dùng từ “cải cách” hoặc “đổi

mới”), là cách mạng tạo ra sự đứt gãy và đổ vỡ trong xã hội, làm

thiệt hại cho người dân mà chẳng nhà cách mạng nào chịu trách

nhiệm hay bù đắp cho người dân được, trong khi với chuyển hóa

 

Chính trị bình dân | 203

thì sự thay đổi diễn ra một cách chậm rãi hơn, tránh được những

tổn thất quá sức chịu đựng của xã hội.

Khác biệt chủ yếu giữa cách mạng và chuyển hóa là: Cách mạng

là sự thay đổi đột ngột, căn bản, toàn diện, còn chuyển hóa là sự

thay đổi chậm, từng phần.

Những kịch bản thay đổi ở Việt Nam theo hướng dân chủ hóa

 

Cách mạng

 

Biểu tình lớn và kéo dài (có thể kéo theo đình công, bãi

thị, bãi khóa trên diện rộng), có bạo lực và đổ máu, làm

tê liệt, đảo lộn đời sống thường nhật, tạo sức ép buộc

đảng Cộng sản cầm quyền phải nhượng bộ, đầu hàng.

 

Bạo động

 

Một bộ phận quần chúng ở một địa phương nào đó nổi

dậy chống chính quyền. Khởi nghĩa lan rộng, tạo sức ép

buộc chính quyền địa phương, rồi tới chính quyền trung

ương (của đảng Cộng sản) phải nhượng bộ, đầu hàng.

Đảo chính Một phe nhóm nào đó trong nội bộ đảng Cộng sản cầm

 

quyền nổi dậy lật đổ chính quyền.

 

Chuyển hóa

1

Chính quyền của

đảng Cộng sản tự

đổi mới, tự cải

cách (thay đổi từ

bên trong và từ

bên trên).

(*)

 

2

Một hoặc một số

đảng đối lập nổi

lên, đủ sức mạnh

thu hút quần

chúng và gây sức

ép buộc đảng

cầm quyền phải

nhượng bộ.

3

Xã hội dân sự

phát triển

mạnh, kéo

theo các

phong trào xã

hội rộng lớn,

đủ sức mạnh

gây sức ép

buộc đảng

cầm quyền

phải nhượng

bộ.

 

(*) Đề cập tới kịch bản “chính quyền của đảng Cộng sản tự đổi

mới” (hộp đánh số 1 ở trong bảng trên) để dân chủ hóa đất nước,

có nhiều ý kiến nói thêm đến các khả năng sau:

a) Đảng Cộng sản đồng ý tổ chức tổng tuyển cử, và tham gia

tranh cử một cách bình đẳng với các đảng phái khác. Người dân

 

204 | Phạm Đoan Trang

Việt Nam trong và ngoài nước được tự do bầu ra quốc hội mới, đa

đảng và thực sự đại diện cho dân. Từ đó, sẽ có hiến pháp mới và thể

chế mới theo hướng dân chủ, tự do. Đây là kịch bản tích cực nhất.

b) Đảng Cộng sản tự chia nhỏ thành một số đảng theo đuổi các

đường lối (ý thức hệ) khác nhau, các đảng này cùng tham gia tranh

cử vào quốc hội và thúc đẩy cải cách theo hướng dân chủ, tự do.

Đây cũng là một kịch bản tích cực.

c) Đảng Cộng sản giả vờ thay đổi: tự đổi tên 1

 

, tự chia nhỏ thành

một vài đảng (nhưng thực chất vẫn là các tổ chức thuộc sở hữu và

chịu sự quản lý của đảng), để diễn một màn kịch thay đổi ôn hòa,

ví dụ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử trong đó đảng vẫn chi phối

tiến trình và kiểm soát kết quả, nên cuối cùng vẫn chiến thắng.

d) Đảng Cộng sản tự tổ chức lực lượng đối lập giả – gồm một

hoặc một vài đảng phái hoặc tổ chức thuộc sở hữu và chịu sự quản

lý của đảng – để khi cần thì diễn màn kịch thay đổi ôn hòa.

Trong các kịch bản trên, (c) và (d) là hai kịch bản trong đó đảng

Cộng sản chỉ diễn màn kịch thay đổi, kết quả sẽ là “bình mới rượu

cũ”, tức là chỉ có hình thức bên ngoài thì có vẻ mới, còn nội dung,

bản chất bên trong vẫn y như cũ, không có gì thay đổi. Do đó, thiết

nghĩ cũng không nên xếp (c) và (d) vào bảng trên, danh sách

“những kịch bản thay đổi ở Việt Nam theo hướng dân chủ hóa”.

Trong các chương tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu các hoạt động

chính trị xoay quanh đảng phái và xã hội dân sự (hộp 2 và 3 trong

bảng trên). Trong đó, có một hoạt động mà đã làm chính trị thì

không thể thiếu, và bản thân nó cũng là một hình thức hoạt động

chính trị mà chúng ta đã đề cập đến từ Phần I: làm truyền thông.

 

1. Trong lịch sử hoạt động của mình, đảng Cộng sản Việt Nam từng có thời gian tự đổi tên

để trá hình: Ngày 11/11/1945, đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, lấy tên

gọi mới là Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Mục đích của việc làm này là

để che giấu sự liên hệ giữa những người cộng sản với nhà nước mới thành lập.

 

Chương II

 

LÀM TRUYỀN THÔNG: CÔNG LUẬN, TRUYỀN THÔNG

 

CHÍNH TRỊ, VÀ TUYÊN TRUYỀN

 

Ở Chương II, Phần I, bạn đã được biết truyền thông, hiểu đơn giản

là “truyền tải thông tin”, là việc một cá nhân/tổ chức truyền tải

thông tin (dưới các hình thức ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh, tín

hiệu) cho một/các cá nhân/tổ chức khác biết. Còn truyền thông đại

chúng là truyền tải thông tin đến một lượng lớn khán/thính/độc

giả nhưng không tiếp xúc trực tiếp với họ.

Truyền thông đóng một vai trò khổng lồ trong thúc đẩy thay đổi

xã hội: Tất cả các cuộc cách mạng chính trị đều có truyền thông

chiếm đến một nửa vai trò, và có lẽ còn hơn thế nữa, trong thời đại

Internet ngày nay.

Trong mọi mâu thuẫn, xung đột xã hội, phe nào nắm được

truyền thông, khả năng phe đó thắng sẽ cao hơn, và ngược lại.

Ngay cả trong đời sống thường nhật của xã hội, truyền thông

vẫn đóng vai trò quan trọng sống còn đối với chính quyền. Sự thực

là những gì chúng ta hiểu về chính trị, chính sách công... không

phải đến từ các chính trị gia, mà từ những gì chúng ta nghe, xem

hay đọc được trên báo, đài, Internet... Chế độ dân chủ đương

nhiên cần truyền thông để thực hiện nghĩa vụ minh bạch trước

người dân. Nhưng bạn tin không, chế độ độc tài cũng cần truyền

thông không kém, để mị dân, tỏ ra dân chủ, nhằm củng cố tính

chính danh (tức niềm tin của dân chúng).

 

206 | Phạm Đoan Trang

Có thể nói không quá rằng truyền thông nằm ở trung tâm của hoạt

động chính trị, nó gắn chặt với tất cả các hoạt động chính trị khác.

 

* * *

 

CÔNG LUẬN

Nói tới truyền thông đại chúng thì phải nói tới đối tượng mà nó

hướng tới: đại chúng. Và nói tới truyền thông chính trị thì phải nói

tới đối tượng mà nó vừa tác động, định hướng, lại vừa chịu tác

động ngược lại: công luận. Truyền thông đóng vai trò khổng lồ,

trung tâm của hoạt động chính trị trong cả xã hội dân chủ cũng

như độc tài, thì công luận cũng vậy, cũng quan trọng cả dưới chế

độ dân chủ lẫn độc tài.

Nhà khoa học chính trị Mỹ Valdimer Orlando Key viết trong

cuốn sách nổi tiếng của ông năm 1961, “Public Opinion and

American Democracy” (Công luận và nền dân chủ Mỹ), như sau:

“Các chính quyền luôn quan tâm đến ý kiến của công dân, cho

dù chỉ để có cớ trấn áp nỗi bất mãn. Sự tò mò, lo lắng dai dẳng của

kẻ cai trị về việc người bị trị nói gì về chúng và hành động của

chúng, luôn còn ghi trong lịch sử của ngành mật vụ. Các biện pháp

để thỏa mãn sự tò mò đó thông qua điều tra ý kiến công luận mới

chỉ là một khía cạnh của khủng bố và trấn áp về chính trị; chúng

còn có thể mở đường cho những chính sách khủng bố và trấn áp

được tính toán để biến sự bất mãn thành sự phục tùng vui vẻ.

Ngay cả trong những chế độ ít dân chủ nhất, ý kiến công luận

vẫn có thể ảnh hưởng đến đường lối hoặc tiến độ của chính sách.

Cho dù một chính quyền nào đó có thể đứng vững nhờ ách độc tài,

nhưng để trụ được lâu, nó cũng cần có sự ủng hộ hào phóng của

một số lượng đáng kể người dân”. 1

1. “Governing: An Introduction to Political Science” (Sđd.), Austin Ranney dẫn lại của V. O.

Key.

 

Chính trị bình dân | 207

Cho nên chúng ta cần bỏ một quan niệm sai lầm là chỉ có chính

quyền dân chủ mới cần biết đến công luận, còn độc tài thì luôn bỏ

ngoài tai mọi ý kiến của dân. Thực tế là ở chế độ nào, chính quyền

cũng cần hiểu và nắm được công luận.

 

Một biểu hiện của tâm lý thù ghét và chống Nhật Bản điên cuồng

 

tại Trung Quốc.

 

Công luận là gì? Valdimer Orlando Key định nghĩa: “Công luận

bao gồm tất cả những ý kiến, quan điểm của các cá nhân, mà chính

quyền cho rằng cần phải lưu tâm đến”. Nói cách khác, công luận là

tổng hợp tất cả các quan điểm cá nhân về một vấn đề nào đó, mà

chính quyền nhận thức được và cân nhắc đến trong quá trình ra

quyết định, hoạch định chính sách. 1

 

Có nghĩa là, nếu không được

chính quyền biết tới và cân nhắc, thì những quan điểm cá nhân đó

không tạo thành công luận.

Cũng cần lưu ý rằng, công luận là một khái niệm rất linh hoạt,

co giãn:

- Không phải tất cả các thành viên của cộng đồng đều quan tâm

đến tất cả các vấn đề của cộng đồng.

1. Austin Ranney dẫn lại của V. O. Key.

 

208 | Phạm Đoan Trang

- Mọi vấn đề đều có thể gây ra những quan điểm khác nhau, bao

gồm cả việc chẳng có quan điểm gì. Cho nên, trong các cuộc khảo

sát, thăm dò dư luận, thường có phương án trả lời: “Không biết”,

hoặc “Không quan tâm”.

- Bản thân quan điểm, lập trường cũng là thứ có thể thay đổi

liên tục. Do đó, công luận có thể thay đổi, trước thế này sau thế

khác, không nhất quán.

- Đồng thời với tính linh hoạt, hay thay đổi, công luận lại cũng

rất bảo thủ. Nói đúng hơn, trong các vấn đề chính sách, công luận

có thể dễ dàng thay đổi nếu tác động của truyền thông chính trị đủ

lớn; nhưng liên quan đến tư tưởng, ý thức hệ, thì công luận rất khó

thay đổi. Đa số thường chậm tiến về tư tưởng, khó chấp nhận cái

mới. Các quan niệm cũ kỹ, lạc hậu, khổ nỗi luôn chiếm đa số, ý

tưởng mới bao giờ cũng là của thiểu số.

Nói đến công luận đối với một vấn đề nào đó, ta cần quan tâm

đến các khía cạnh: 1. Thái độ, lập trường (quan tâm và cho đó là

việc quan trọng, hay thờ ơ, coi nhẹ? Nếu quan tâm thì ủng hộ, phản

đối, hay ba phải?); 2. Mức độ, cường độ, tức là sức mạnh của quan

điểm (quan tâm ở mức độ mạnh hay yếu, quyết liệt hay vừa phải?);

3. Tính ổn định (quan điểm có dễ thay đổi theo thời gian không?).

Tất nhiên là cả ba khía cạnh này đều quan trọng như nhau.

Quan sát và nghiên cứu về công luận trong những xã hội dân

chủ tự do như Mỹ và châu Âu, các chuyên gia rút ra một kết luận

thú vị: Rất nhiều khi, các nhóm nhỏ nhưng quyết liệt, mạnh mẽ, lại

chiến thắng các nhóm đối thủ tuy lớn nhưng thờ ơ, không đủ quyết

liệt. Người Mỹ có một câu nổi tiếng: “Đôi khi, những kẻ thất bại

kêu gào to hơn người chiến thắng ca hát”. 1

 

Điều này nói lên tầm

quan trọng của khía cạnh số 2, “cường độ”. Chính trị gia và quan

chức không chỉ cần biết dân chúng nghĩ gì, thích gì, ghét gì (khía

cạnh 1), mà còn cần phải biết họ thích hay ghét mạnh mẽ đến đâu

(khía cạnh 2).

1. Nguyên văn tiếng Anh: “Sometimes, the losers cry more loudly than the winners sing”.

 

Chính trị bình dân | 209

 

Tổng thống Mỹ Barack Obama tiếp xúc trực tiếp với dân.

 

Và cũng không chỉ chính trị gia và quan chức cần nắm bắt được

công luận, mà cả những người hoạt động chính trị dưới các hình

thức vận động, tham gia phong trào xã hội, làm truyền thông...

cũng bắt buộc phải hiểu tầm quan trọng của công luận và ba khía

cạnh của nó. Chúng ta lấy một ví dụ:

Giả sử Việt Nam tổ chức bầu cử với hai đảng cạnh tranh là Cộng

sản và Cộng hòa.

Nếu 60% dân số ủng hộ Cộng sản, 40% ủng hộ Cộng hòa, và tất

cả đều nhiệt tình bỏ phiếu, thì kết quả là đảng Cộng sản thắng 3:2.

Nếu 60% dân số ủng hộ đảng Cộng sản, 40% ủng hộ Cộng hòa,

nhưng chỉ một nửa số cử tri ủng hộ đảng Cộng sản bỏ phiếu, số

còn lại thờ ơ, trong khi tất cả “fan” của Cộng hòa đều nhiệt tình đi

bầu: Cộng hòa thắng 4:3.

Được công luận yêu thích, ủng hộ không chưa đủ, mà còn phải

được họ yêu thích và ủng hộ một cách mạnh mẽ, thực chất nữa. Và

bạn hãy nhớ đến cái thực tế mà lịch sử đã ghi nhận: Trong vận

động chính sách, nhóm nhỏ nhưng tranh đấu quyết liệt, mạnh mẽ,

có thể chiến thắng các nhóm đối thủ tuy lớn nhưng thờ ơ, không

đủ quan tâm.

 

210 | Phạm Đoan Trang

 

Làm thế nào để “đo” công luận?

Thông qua lá phiếu của cử tri;

Thông qua các tổ chức xã hội dân sự;

Thông qua tiếp xúc trực tiếp với người dân;

Thông qua các cuộc khảo sát, thăm dò ý kiến, điều tra xã hội học;

Thông qua báo chí (báo, tạp chí, truyền hình, phát thanh, báo điện tử, họa

báo, báo ảnh);

Thông qua mạng xã hội (blog, facebook, twitter...)

v.v.

Chắc hẳn còn rất nhiều cách, điều quan trọng là ta có sẵn sàng tìm hiểu

không mà thôi.

Từ khi cầm quyền, đảng Cộng sản Việt Nam, tuy cũng rất quan tâm và

muốn nắm được công luận (cũng giống như mọi chính quyền khác trên

thế giới), nhưng họ có tâm lý chỉ chấp nhận những điều họ thích nghe,

những sự thật có lợi cho họ. Từ đó, nảy sinh một hệ thống báo chí-tuyên

truyền và một đội ngũ tham mưu chỉ có nhiệm vụ “minh họa đường lối”,

tức là làm sao để thiết kế nên những “sự thật” vừa ý đảng. Phản biện xã

hội bị bóp nghẹt, bất đồng chính kiến bị tiêu diệt.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ TẠO RA VÀ/HOẶC ĐỊNH HƯỚNG CÔNG LUẬN?

Có hai cách chính để tạo ra và/hoặc định hướng công luận, là sử

dụng truyền thông và giáo dục.

Xin nhắc lại: Truyền thông, hiểu đơn giản là “truyền tải thông

tin”, là việc một cá nhân/tổ chức truyền tải thông tin (dưới các hình

thức ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh, tín hiệu) cho một/các cá nhân/

tổ chức khác biết. Còn truyền thông đại chúng là truyền tải thông

tin đến một lượng lớn khán/thính/độc giả nhưng không tiếp xúc

trực tiếp với họ.

Như vậy, truyền thông có rất nhiều hình thức. Âm nhạc, sân

khấu, điện ảnh cũng là truyền thông. Tuy nhiên, một cách cụ thể

hơn, khi nói tới việc sử dụng truyền thông để tạo ra và/hoặc định

hướng công luận, bạn đừng quên: vận động trực tiếp, báo chí,

xuất bản, quảng cáo, và tuyên truyền. Chúng ta sẽ nói nhiều hơn

về truyền thông với mục đích này, ở phần sau, về truyền thông

chính trị.

 

Chính trị bình dân | 211

Bên cạnh truyền thông, cũng có thể thông qua giáo dục để tạo ra

và/hoặc định hướng công luận. Đảng Cộng sản Việt Nam có “sáng

kiến” kết hợp tuyên truyền và giáo dục thành “tuyên giáo”, và đó là

một nghề ở Việt Nam dưới chế độ cộng sản.

* * *

TRUYỀN THÔNG CHÍNH TRỊ

Đến đây, khi đã biết được tầm quan trọng của công luận, chúng

ta sẽ bàn về truyền thông chính trị, một khái niệm rộng hơn tuyên

truyền.

Truyền thông chính trị chỉ đơn giản là truyền thông trong lĩnh

vực chính trị, truyền thông nhằm mục đích chính trị. Bây giờ

chúng ta sẽ phân tích sâu hơn về các thành tố của truyền thông

chính trị.

1. Người truyền tải thông tin (người truyền thông)

Trong truyền thông chính trị, người truyền thông là bất kỳ người

hoặc nhóm nào hành động để gây ảnh hưởng đến chính sách. Chủ

thể này bao gồm: chính trị gia (chính khách), đảng phái, các nhóm,

hội, tổ chức, các cơ quan nhà nước.

2. Thông điệp chính trị

Có thể được truyền tải dưới dạng ngôn ngữ, biểu tượng, hình ảnh,

cử chỉ, v.v. thông qua đó người làm truyền thông truyền tải một ý

nào đó đến đối tượng mục tiêu. Ví dụ như “Độc lập dân tộc” và

“Ruộng đất dân cày” là thông điệp chính trị của Việt Minh đến đối

tượng làm cách mạng tiềm năng (chủ yếu là nông dân) trong giai

đoạn Việt Minh xây dựng lực lượng, những năm 1930-1931.

3. Phương tiện truyền tải thông tin

Có vô cùng nhiều cách truyền tải thông tin. Tìm ra một, một số,

hoặc càng nhiều càng tốt phương tiện để truyền tải thông điệp

 

212 | Phạm Đoan Trang

chính trị, là việc người truyền thông phải nghĩ ra và nỗ lực thực

hiện. Có một số phương tiện phổ biến như:

- Báo chí (báo, tạp chí, truyền hình, phát thanh, báo điện tử, họa

báo, báo ảnh);

- Xuất bản (tài liệu, sách, tờ rơi, ấn phẩm các loại);

- Truyền thông Internet: mạng xã hội, blog...;

- Các hình thức quảng cáo;

- Loa phóng thanh (kể cả loa phường, loa xã);

- Email (thường là spam);

- Hội thảo, hội nghị, tập huấn;

- Biểu tình;

- Cờ, biểu ngữ, bảng hiệu, bảng thông báo... (có thể nằm trong

hoạt động biểu tình hoặc tách riêng);

- Gạch đá, cà chua, trứng thối... (có thể nằm trong hoạt động

biểu tình hoặc tách riêng);

- Trò chuyện trực tiếp; và bạn đừng quên một cách quan trọng

dưới đây:

- Rò rỉ thông tin.

Trong lịch sử thế giới và chắc chắn là cả Việt Nam, rất nhiều

thông điệp chính trị đã được tung ra bằng con đường bí mật truyền

miệng, rò rỉ một cách cố ý. (Tất nhiên là cố ý rồi, bởi đã gọi là truyền

thông thì phải là hoạt động có chủ ý chứ không phải vô tâm, lỡ

miệng). Người truyền thông chủ ý rò rỉ thông tin đó đến phóng

viên, nhà báo, và trong thời của mạng xã hội thì họ rỉ tai các blogger,

facebooker nổi tiếng, có ảnh hưởng tới cộng đồng.

Trong lịch sử Việt Nam, từng có một phương tiện truyền tải thông điệp

chính trị rất độc đáo. Đó là trong trường hợp trong kháng chiến chống

quân Minh, Nguyễn Trãi cho người phết mật ong lên lá cây với dòng chữ

“Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi là vua, Nguyễn Trãi là bề

tôi). Kiến ăn mật dọc theo dòng chữ này trên lá, và khi lá khô cuốn theo

dòng nước về xuôi, dân chúng bắt được sẽ tin rằng phong trào Lam Sơn

được Trời ủng hộ, Lê Lợi trước sau gì cũng thành vua vì đó là ý Trời.

 

Chính trị bình dân | 213

 

4. Người tiếp nhận

Đó là bất kỳ ai biết tới thông tin, thông điệp từ người làm truyền

thông chính trị. Việc tiếp nhận có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp,

song khả năng bị ảnh hưởng tới đâu là phụ thuộc vào:

- Kiến thức, trình độ;

- Mức độ quan tâm;

- Văn hóa chính trị.

5. Phản ứng

Truyền thông chính trị có thể:

- Tạo ra hoặc làm tăng thêm sự hài lòng, ủng hộ;

- Tạo ra hoặc làm tăng thêm sự thù địch, bất mãn; hoặc

- Chẳng tạo ra phản ứng gì ở người tiếp nhận.

Trường hợp thứ ba được coi là thất bại. Trường hợp một và hai

được coi là thành công, tùy theo mục đích của người truyền thông

là gì và có đạt được không. Cụ thể hơn, truyền thông chính trị

thành công nếu nó tạo ra được ở người tiếp nhận những phản ứng

sau đây:

- Bắt đầu nghĩ tới vấn đề: Trước kia người ta chưa từng nghĩ tới

vấn đề, bây giờ thì bắt đầu nghĩ.

- Thay đổi: Trước kia người ta nghĩ khác, bây giờ đã thay đổi.

- Củng cố: Trước kia người ta chưa ủng hộ hay phản đối mạnh,

bây giờ ủng hộ hay phản đối mạnh.

- Hành động: Trước kia người ta chẳng làm gì, bây giờ người ta

chủ động làm điều gì đó.

Truyền thông chính trị là một lĩnh vực rộng lớn trong chính trị.

Và khi nói tới truyền thông chính trị, chúng ta không thể không

bàn tới một mảng của nó – vốn được coi như “tà đạo” vì gắn chặt

với ngụy biện, dối trá và lợi dụng đối tượng tiếp nhận: tuyên truyền.

 

214 | Phạm Đoan Trang

 

* * *

 

TUYÊN TRUYỀN

Tuyên truyền là việc đưa ra những thông tin có chọn lọc, có nội

dung thiên vị, không công bằng, sai lệch, bóp méo để tác động tới

một đối tượng nào đó, nhằm phát tán và/hoặc đẩy mạnh một quan

điểm chính trị nào đó. Tuyên truyền cũng là một hình thức truyền

thông, một nhánh của truyền thông chính trị.

Về từ nguyên, tuyên truyền tiếng Anh là propaganda, một từ có

gốc Latin. Khái niệm này khởi thủy xuất phát từ nhà thờ Công giáo

ở Rome vào năm 1622 và chỉ mang nghĩa trung tính là truyền giáo.

Tuy nhiên từ những năm 1790 (thập niên cuối cùng của thế kỷ 18),

nó bắt đầu được thế tục hóa, và từ giữa thế kỷ 19 thì được sử dụng

trong chính trị và mang nghĩa tiêu cực.

Sở dĩ bị coi là tiêu cực, bởi người làm tuyên truyền sử dụng

những thông tin thiên vị, không công bằng, thậm chí sai lệch, méo

mó, hoặc trình bày thông tin một cách có chọn lọc (ví dụ: chỉ kể

những gì tích cực, xóa bỏ thông tin tiêu cực), hoặc truyền đạt làm

sao để kích động cảm xúc thay vì khuyến khích người ta suy nghĩ

có lý trí. Mục đích của tuyên truyền luôn là để nhào nặn công

chúng (đối tượng của tuyên truyền) và tận dụng, lợi dụng họ cho

các tư lợi chính trị.

Đó là những việc không lương thiện.

Chiến tranh Lạnh đã hết, Liên Xô và khối Đông Âu cộng sản –

những xứ sở vàng của tuyên truyền – đã sụp đổ, nhưng từ

“propaganda” ngày nay vẫn giữ nghĩa xấu, tiêu cực. Có lẽ vì thế mà

sau nhiều năm dùng nhầm tên, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

ở Việt Nam đã phải sửa tên tiếng Anh của họ từ “Academy of

Journalism and Propaganda” thành “Academy of Journalism and

Communication”, báo chí và truyền thông.

 

Chính trị bình dân | 215

Phương tiện tuyên truyền: Có một số phương tiện trùng với

các phương tiện truyền thông chính trị, ví dụ:

- Báo chí (báo, tạp chí, truyền hình, phát thanh, báo điện tử, họa

báo, báo ảnh);

- Xuất bản (tài liệu, sách, tờ rơi, ấn phẩm các loại);

- Truyền thông Internet: mạng xã hội, blog...;

- Loa phóng thanh (kể cả loa phường, loa xã);

- Tuần hành, mít tinh;

- Cờ, biểu ngữ, bảng hiệu, bảng thông báo... (có thể nằm trong

hoạt động tuần hành, mít tinh, hoặc tách riêng).

Nhưng tuyên truyền còn sử dụng cả nhiều phương tiện tinh vi

hơn rất nhiều:

- Dùng người, nhất là người đẹp, người nổi tiếng;

- Dùng vật, đồ vật (tượng, phù điêu, huy hiệu);

- Dùng hình ảnh (nhiếp ảnh, các thể loại phim);

- Dùng hội họa (tranh, bích họa, tem...);

- Dùng âm nhạc;

- v.v.

Kỹ thuật tuyên truyền: Bản chất của tuyên truyền là tung tin có

chọn lọc, sai lệch, bóp méo, cho nên về kỹ thuật, nó buộc phải gắn

với dối trá và ngụy biện. Có rất nhiều kỹ thuật, hay là thủ đoạn

tuyên truyền, ví dụ như: sử dụng những hình ảnh, những biểu

tượng, hoặc từ ngữ gây cảm xúc; bóp méo có chọn lọc; đánh lạc

hướng (đánh tráo chủ đề); tung tin đồn; nói dối trắng trợn, v.v.

(Xem phần Phụ lục để biết các kỹ thuật tuyên truyền căn bản).

Ngoài ra, điều rõ ràng là hiệu quả của tuyên truyền không chỉ

phụ thuộc vào kỹ thuật tuyên truyền mà còn vào diện phủ sóng của

phương tiện truyền thông đại chúng được sử dụng vào tuyên

truyền. Một thực tế hiển nhiên là cá nhân hay tổ chức nào càng

nắm được nhiều kênh truyền thông thì càng dễ tuyên truyền hơn.

 

216 | Phạm Đoan Trang

Đó là lý do khiến cuộc chiến truyền thông của những người

ủng hộ dân chủ - nhân quyền ở Việt Nam với đảng Cộng sản trở

nên không cân sức, phần thắng rất nhiều khi thuộc về đảng Cộng

sản. Bởi đảng này sở hữu và kiểm soát toàn bộ hệ thống phương

tiện truyền thông đại chúng (gồm hàng nghìn cơ quan báo đài,

trong đó riêng VTV đã có thể phủ sóng tới tận quần đảo Trường

Sa, Hoàng Sa), trong khi “lề trái” chỉ mạnh ở facebook và blog.

Kiểm soát và định hướng báo chí ở chế độ độc tài

Kiểm duyệt kỹ thông tin và lập luận trước khi công bố ra cho giới truyền

thông.

Kiểm soát các nguồn tin để đảm bảo là chỉ “quan điểm chính thức”, “quan

điểm chính thống” mới được công bố và có giá trị. Ví dụ như ở Việt Nam

dưới thời cộng sản, công an cũng như rất nhiều người dân đều quan

niệm rằng chỉ có thông tin do “báo đài nhà nước” đưa là đáng tin cậy,

còn tin tức lấy trên mạng Internet là vô giá trị, không đáng tin.

Bí mật tung tin từ nguồn ẩn danh, rò rỉ thông tin. Một trong các ví dụ

kinh điển ở nước Việt Nam cộng sản là trang Chân Dung Quyền Lực, ra

đời tháng 12/2014. Ngày 15/1/2015, tròn một tháng xuất hiện, trang này

đạt 24 triệu lượt truy cập.

Chỉ cung cấp thông tin cho các cơ quan truyền thông thân tín và ủng hộ

mình. Ở Việt Nam thời cộng sản, tất cả các tờ báo chính trị-xã hội đều

nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của đảng Cộng sản, nhưng trong đó có 6

cơ quan báo chí được ưu đãi đặc biệt: Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền

hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, báo Nhân Dân, báo Quân đội

Nhân dân, báo Công an Nhân dân. Có nhiều sự kiện của “Đảng và Nhà

nước”, chỉ những cơ quan báo chí này mới được tham dự.

Cung cấp thông tin thật trễ, sát nút, để khiến báo chí không còn đủ thời

gian kiểm chứng, phe đối lập không kịp phân tích phản biện.

Tung tin khác (ví dụ tin xấu...) vào lúc các sự kiện quan trọng đang chiếm

sóng trên truyền thông. Ví dụ: Những người thạo tin ở Việt Nam nhận

thấy rằng cứ mỗi lần dư luận xôn sao về một vụ việc xã hội nào đó thì

giới showbiz lại có chuyện gây chú ý, chẳng hạn như người mẫu, “nữ

hoàng đồ lót” Ngọc Trinh lên báo với câu nói nổi tiếng “Yêu mà không

có tiền thì cạp đất mà ăn à?” đúng lúc vừa nổ ra vụ cưỡng chế đất đai đầy

tai tiếng ở Văn Giang (Hưng Yên).

 

Chính trị bình dân | 217

 

Về sau, chuyện giới showbiz với những “sao lộ hàng”, “hot girl lộ vòng 1

khủng”... bão hoà, không thu hút được đông đảo tầng lớp độc giả, khán

giả nữa (dù có thể vẫn thu hút được đáng kể “bạn đọc tuổi teen”), tuyên

giáo Việt Nam bắt đầu khéo léo hướng báo chí chuyển sang các đề tài

khác, sử dụng những nhân vật khác ngoài giới showbiz, gồm cả những

quan chức, cán bộ cấp thấp, cho ra những phát ngôn ngớ ngẩn và những

chính sách quái đản, để dư luận ồn ào lên chửi bới, công kích mà quên

mất những vấn đề thời sự chính trị nóng bỏng và đáng quan tâm hơn

thế nhiều. Ta có thể lấy ví dụ như vụ tháng 3/2017, Cục Nghệ thuật Biểu

diễn đột nhiên đưa ca khúc “Con đường xưa em đi” vào danh sách nhạc

phẩm cấm lưu hành (vốn dĩ nó đã bị cấm từ lâu trước đó). Hay chuyện

cuối năm 2017, Giáo sư Bùi Hiền công bố bảng chữ cái tiếng Việt cải

cách – kết quả một công trình nghiên cứu kéo dài 20 năm của ông ta.

Giới hạn của tuyên truyền: Mặc dù tuyên truyền là một lĩnh

vực truyền thông đầy thủ đoạn và rất có ảnh hưởng, nhưng sức

mạnh của nó không phải là vô hạn. Tuyên truyền sẽ bị hạn chế bởi

các yếu tố sau:

1. Luật pháp: Nếu là một xã hội dân chủ với nền luật pháp công

bằng, thì luật pháp sẽ bảo vệ nhân quyền, trong đó có quyền của

người dân không bị bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

2. Dân trí: Người dân càng có tư duy phản biện và tinh thần duy

lý (trọng lý lẽ, lý trí hơn trọng tình) thì càng khó bị dẫn dụ, dắt mũi,

định hướng.

Các nhà nghiên cứu đã công bố một điều thú vị là người ít đọc

sách dễ bị tuyên truyền hơn người đọc nhiều sách; người không có

quan điểm hoặc quan điểm không mạnh sẽ dễ bị tuyên truyền hơn

người đã có sẵn quan điểm.

3. Những định kiến, quan niệm ăn sâu: Tuyên truyền rất khó

thay đổi những định kiến, những quan niệm đã bắt rễ quá sâu

trong xã hội. Ví dụ như chúng ta không thể tuyên truyền để toàn

thể xã hội nghĩ rằng người ốm hạnh phúc hơn người khỏe.

Thông thường, tuyên truyền về các vấn đề vốn bị người dân coi là

không quan trọng lắm, thì sẽ hiệu quả hơn tuyên truyền về các vấn

đề được coi là quan trọng. Vấn đề người dân càng ít quan tâm, ít biết,

 

218 | Phạm Đoan Trang

thì càng dễ tuyên truyền. Chẳng hạn, nếu phần đông dân chúng vốn

không để ý tới việc hút thuốc lá nơi công cộng, thì tuyên truyền về

luật chống thuốc lá có khả năng cao là thành công, mà biểu hiện là

không ai phản đối và luật sẽ được thông qua nhanh chóng.

Đến đây, hẳn bạn đã thấy: Tuyên truyền là một mảng của truyền

thông chính trị, và nó là một thứ “tà đạo” của truyền thông chính

trị. Còn truyền thông là một loại hoạt động không thể thiếu trong

chính trị; hoạt động chính trị nào cũng phải gắn chặt với nó, dù là

cách mạng hay chuyển hóa, dù là đảng phái hay xã hội dân sự.

Ở Chương III, chúng ta sẽ tiếp tục với hai lĩnh vực hoạt động

chính trị cực kỳ có ảnh hưởng và mang tính “chính trị” cao độ: hoạt

động đảng phái và xã hội dân sự.

29/8/2018

Phạm Đoan Trang

Theo https://luatkhoa.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 XXXXXX

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP   Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ máy nhà nước. Thực thể này...