Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2025

Đôi bờ sông tuyến - Ngày ấy, bây giờ

Đôi bờ sông tuyến
Ngày ấy, bây giờ…

Nhà văn Văn Xương hiện sống và viết tại Quảng Trị – nơi anh sinh ra và lớn lên từ đó. Bạn đọc rộng rãi cả nước biết đến Văn Xương qua những tập truyện ngắn xuất bản khoàng hơn chục năm trở lại đây: Hoa gạo đỏ bên sông; Hồn trầm; Lỗ thủng; Những chặng bay ký ức; Thượng nguồn…
Các tác phẩm của anh viết về cuộc chiến những năm chống Mỹ và thời hậu chiến, phần lớn về chính quê hương Quảng Trị. Những vết thương chiến tranh tại vùng đất Quảng Trị đau thương và kiên dũng vẫn chưa khép lại hoàn toàn. Còn đó những bom đạn trong lòng đất. Còn đó những người lính ngã xuống chưa tìm được mộ, hài cốt. Còn đó những nghèo, khó. Còn đó những chia lìa phân tán lòng người chưa dễ gì vượt qua… Tất cả đã được nhà văn quán xuyến, đặt vào trang viết với nhiều thân phận, cảnh huống khác nhau. Mỗi truyện ngắn của Văn Xương có thể được hình dung như những mảnh ghép của hiện thực chiến tranh và hậu chiến.
Lần này, Văn Xương tìm đến thể loại tiểu thuyết. Có phải anh nghĩ đến ưu thế của tiểu thuyết, một thể loại so với truyện ngắn có dung lượng lớn hơn, bối cảnh xã hội, không gian – thời gian dài rộng hơn, số lượng nhân vật nhiều hơn, có đất để dụng công cấu trúc thỏa sức hơn, và nhất là gợi lên những khả năng của thực tại khả dĩ hơn? Không thỏa mãn ở những “mảnh ghép” truyện ngắn, Văn Xương muốn dựng lên một bức tranh dài rộng về cuộc chiến và hậu chiến của đất và người Quảng Trị trên nền cảnh đôi bờ sông Bến Hải và Thạch Hãn.
Nhà văn đã lựa chọn một bối cảnh lớn trong đó có các chuỗi biến cố: Hiệp định Genève 1954; công cuộc cải cách ruộng đất và những di họa của nó ở phía Bắc, cuộc chia cắt chiến tuyến và cuộc ly tán dân chúng Bắc – Nam; chiến thắng năm 1975; thực trạng hòa giải, hòa hợp và đoàn tụ… Trên cái nền sự kiện long trời lở đất đó là số phận của một gia đình gồm đôi vợ chồng và bốn người con: Bố bị quy oan, tù tội rồi chết trong tù; chị cả tên Thanh lấy chồng sống đời dân thường bình dị; anh hai tên Minh đi bộ đội quân giải phóng, sĩ quan; anh ba là Quang học trường sĩ quan Đà Lạt, làm chỉ huy quân đội VNCH; em gái út Giang sống đời bình dị bị mắc kẹt giữa mâu thuẫn ý thức hệ của hai người anh.
Một ghi nhận đầu tiên về tác phẩm đó là nhà văn đã tập trung khắc họa những mâu thuẫn phức tạp giữa những lớp người khác nhau ở trong dân làng, trong cán bộ thôn xã, trong môi trường quân đội, và đỉnh cao là trong một gia đình. Sự phức tạp, éo le của cuộc sống đã đẩy từng số phận vào những tình cảnh trớ trêu, nhiều oan khiên, nhiều bất hạnh. Đặc biệt, sự khốc liệt của cuộc chiến gây nên biết bao thảm cảnh, cái chết tang thương, những thương bệnh binh, cuộc sống đói nghèo trong thời bình, những ám ảnh cuộc chiến, những xung đột ý thức hệ không dễ gì cởi bỏ ngay được.
Điểm ghi nhận thứ hai rất đáng trân trọng: nhà văn đã đặt ra vấn đề hòa giải hòa hợp giữa những người trong làng trong nước, trong gia đình với nhau vốn trước kia thuộc hai chiến tuyến. Đây là điều mà trên cấp độ đường lối, chúng ta đã có từ lâu; nhưng trên cấp độ thực tiễn vẫn đang còn rất phức tạp. Trong gia đình, dòng họ, trong làng xóm, bạn bè… vẫn còn nhiều trường hợp chưa hóa giải được hận thù. Về phần sau của tác phẩm, nhà văn Văn Xương đã cho hai anh em Minh và Quang từ chỗ xung đột, đề phòng dần dần biết cảm thông, thương nhau, và tiến tới hòa giải. “Ngôi nhà bom”, hình ảnh cuối cùng được dụng công miêu tả ở phần cuối truyện như một biểu tượng nói về công cuộc hòa giải và hòa hợp đó. Bắt đầu từ mỗi anh em, gia đình, bè bạn, quê hương, người trong nước thật lòng hướng về hòa giải, hòa bình thì mới hy vọng giải quyết được mối quan hệ cấp quốc gia: Bắc –  Nam, bên này bên kia, trong nước và hải ngoại… Vấn đề này đã trở thành trục lõi xuyên suốt tác phẩm, được nhà văn giải quyết một cách thuyết phục.
Hình ảnh con “sông tuyến” được nhà văn dụng công, đẩy lên, chắp cánh cũng đã trở thành một biểu tượng. Nó là nỗi chia cắt Bắc Nam. Nó là sự chia lìa, ly tán của lòng người. Nó phân chia thế giới theo tinh thần phân tuyến ta – địch. Nó chất chứa sự tàn khốc chết chóc của cuộc chiến. Và cuối cùng, con sông tuyến ấy đã được nối liền, trở lại hiền hòa, xanh mát, thơ mộng, biểu trưng cho hòa bình. Từ dòng sông máu, dòng sông phân ly nay trở thành dòng sông đoàn tụ, yêu thương.
Nhà văn Văn Xương là người hiểu kỹ và sống sâu với hiện thực cuộc chiến cùng bối cảnh xã hội mà vùng đất lửa Quảng Trị đã trải qua. Chủ đề hòa giải và hòa hợp hậu chiến đã được ông thể hiện ít nhiều trong một số truyện ngắn. Nay, tiểu thuyết “Sông tuyến” như một sự tiếp tục với một quy mô và chiều sâu mới. Ông trao cho các nhân vật nói về câu chuyện của đời mình trong mối liên hệ ràng rịt với các nhân vật khác, với các mối quan hệ xã hội đa dạng, với quê hương, Tổ quốc. Nhờ vậy, cuộc sống được miêu tả tự bật lên ý nghĩa. Xét theo nghĩa đó, tác giả đã quản lý khá tốt nhân vật của mình, mỗi nhân vật là một đời sống, một số phận sinh động, gây ấn tượng cho người đọc.
Trước đây, ngay trong cuộc chiến hoặc những năm đầu hòa bình đã có một số tác phẩm văn chương, bộ phim, vở kịch, ca khúc viết về vùng đất chiến tuyến Quảng Trị này. Ở đó, các tác giả tập trung thể hiện sự khốc liệt của chiến tranh, lòng quả cảm và kiên trung của quân và dân ta đánh giặc, tội ác ngút trời của kẻ thù. Nay, tiến thêm một bước nữa, các tác giả đã không dừng ở hiện thực cuộc chiến, phóng chiếu cái nhìn vào hiện thực hậu chiến, nỗi đau chia cắt lòng người, đặt ra vấn đề hòa hợp và hòa giải dân tộc. Trên tinh thần đó, tiểu thuyết “Sông tuyến” của nhà văn Văn Xương là một nỗ lực cảm động đóng góp vào nền văn xuôi hậu chiến Việt Nam hiện đại.
13/9/2025
Văn Giá
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Công chúng với tiếp nhận văn học trong thời đại công nghệ số

Công chúng với tiếp nhận văn học trong thời đại công nghệ số Sự phát triển công nghệ số mang tính đột phá trong cuộc Cách mạng công nghiệp...