Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2025

Tôi phải sống 100000

Tôi phải sống 1

Bút ký
Kính Dâng Lên Mẹ Việt Nam
Với tâm tình Vọng Cố Hương
Để tưởng nhớ

Hương Hồn Cha Má
Để nhớ ơn Sinh Thành Dưỡng Dục

Anh Linh các người anh
Đặng Văn Tiếp
Trịnh Tiếu
Lâm Thành Văn
Để nhớ thời gian trong trại tù Thanh Cẩm
Vong Linh người em
Đỗ Thanh Bình (Bình Thanh)
Để nhớ tình anh em kết nghĩa trong tù

Những người đã nằm xuống
trong cuộc chiến tương tàn trên quê hương.
Để chia sẻ quãng đời bất hạnh




Lạy Chúa! Xin cho lời con nguyện cầu.
Tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa”
TỰA
Tháng 6 năm nay (2003), từ Tân Tây Lan, linh mục Nguyễn Hữu Lễ gọi điện thoại và ngỏ ý muốn tôi viết lời tựa cho cuốn bút ký “Tôi phải sống" mà ông vừa hoàn tất. Tôi nhận lời không một chút đắn đo vì coi đó là một vinh dự. Tác phẩm này, từ lâu tôi vẫn mong được đọc vì chính bản thân tôi cũng muốn làm một công việc tương tự nhưng không gặp điều kiện thuận lợi để thực hiện.
Sau khi nhận bản thảo, tôi lao vào đọc cuốn bút ký một cách mê say, không ngừng nghỉ. Trải dài trên hơn 400 trang giấy, tác phẩm này được chia thành 11 chương. Mỗi chương gồm một số bài viết có vóc dáng như những bài luận văn được trau chuốt tận tình để quảng bá những dòng suy nghĩ cần phổ biến. Dọc theo chiều dài của tập bút ký, những tình cảnh éo le và những trạng huống hiểm nghèo, bi đát, trong các trại tù cộng sản đã được tác giả thuật lại sống động và trung thực, với một văn phong nhẹ nhàng và tự nhiên như hơi thở. Mặc dầu không phải là một pho truyện trinh thám nhưng người đọc luôn luôn ở trong trạng thái nôn nóng vì muốn biết tác giả viết gì thêm trong những trang kế tiếp. Các liều lượng hỉ, nộ, ai, lạc được phân bổ hài hòa và sử dụng một cách cân nhắc để tránh cho nội dung tác phẩm sự nhàm chán thường gặp.
Lược qua những dòng viết tâm tình ta được biết tác giả sinh ra và lớn lên tại một vùng quê thuộc tỉnh Vĩnh Long. Gia đình theo đạo Công Giáo và cư ngụ trong vòng đai của ngôi thánh đường nhỏ trong làng có tên là nhà thờ Bưng Trường. Ngày tác giả mở mắt chào đời là ngày đất nước đang bị chiến tranh tàn phá. Tiếng bom đạn và những xác chết trôi sông, đối với tác giả cũng như đối với các bạn cùng lứa tuổi, là những âm thanh và cảnh tượng quen thuộc hàng ngày. Kiếp sống lầm than, cơ cực và hoàn toàn thiếu an ninh của người dân thôn dã đã làm mủi lòng người thanh niên mới lớn giàu lòng bác ái. Ta hãy đọc những dòng viết sau đây của tác giả khi ông chuẩn bị bước vào đời. “Tôi nghĩ tới con đường làm linh mục năm tôi 20 tuổi sau khi học xong ban trung học. “Cái nhìn của tôi về hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ... đã ảnh hưởng tới sự lựa chọn của tôi. Tôi quyết định chọn đời linh mục vì tôi biết trong cương vị đó tôi sẽ phục vụ người dân thấp cổ bé miệng hữu hiệu hơn.” ( trang 51 ).
 
Thụ phong linh mục năm 1970, lúc vừa tròn 27 tuổi, tác giả hăng say làm công việc cứu nhân độ thế, nhưng không may, chưa được bao lâu, thì họa cộng sản đổ sập xuống miền Nam, và chính bản thân ông cũng bị cuốn vào vòng lao lý như hàng triệu người công dân vô tội khác của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Sau ngày 30 tháng Tư đen của năm định mệnh 1975, ông lê gót chân, hết nhà tù này đến trại giam khác, từ Nam chí Bắc, để chịu kiếp đọa đầy mà những người cộng sản Việt Nam đã nhẫn tâm áp dụng đối với đồng bào ruột thịt, trong ý đồ vừa trả thù vừa tránh hậu họa sau này cho cái chế độ sâu dân mọt nước. Tắm máu đã không xẩy ra sau khi miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm bằng võ lực, nhưng những gì mà độc giả cảm nhận sau khi đọc cuốn bút ký của linh mục Nguyễn Hữu Lễ, sẽ còn ghê tởm, thâm độc và ác nghiệt gấp triệu lần.
Một phần bút ký “Tôi Phải Sống" tả lại cái khung cảnh hãi hùng của 13 năm tù cộng sản. Vì phải tiếp giáp hàng ngày với thần chết trong suốt quãng đời cơ cực ấy nên tác giả đã xuống quyết tâm phải tồn tại để làm nhân chứng sống cho một giai đoạn cực kỳ thảm thương của đất nước và thay đổi quan điểm sai lầm của một phần dân tộc về một thứ chủ nghĩa ngoại lai đã lỗi thời và đã đi vào sọt rác của lịch sử.
Những chương trong bút ký liên quan đến hệ thống trại tù của cộng sản Việt Nam đã được tác giả ghi lại với một bút pháp tuyệt vời, với một mức độ chính xác chưa từng thấy và với một tấm lòng tha thứ, bao dung hiếm có ngay cả đối với những người rắp tâm tiêu diệt bản thân mình. Đọc tác phẩm này, nếu độc giả không phải là người mau nước mắt thì cũng sẽ rùng mình ghê sợ và xót thương cho số phận của những con người Việt Nam bị chính đồng bào mình đầy đọa xuống đáy tầng của địa ngục trần gian. Mức độ độc ác và tàn nhẫn không thua kém gì những “holocaust" Đức Quốc Xã dành cho người Do Thái trong Thế Chiến thứ hai.
Chế độ tù trong xã hội cộng sản Việt Nam là sản phẩm của một chính sách hủy diệt dấu tay kinh tởm ngoài sức tưởng tượng của con người. Với một thời gian giam giữ vô hạn định giữa bốn bức tường kiên cố của các trại tù hôi hám thiết lập tại những nơi thâm sơn cùng cốc, chính sách này đã biến con người thành con vật. Bằng phép thuật khủng bố tư tưởng nó đã tạo nên những tên phản thầy phản Chúa, phản lại lý tưởng mình theo đuổi. Bằng chủ trương "bỏ đói" nó đã đưa dẫn tù nhân tới chỗ giết nhau chỉ vì một miếng cơm hay mẫu bánh. Thậm chí nó đã thúc đẩy con người nghĩ cả đến việc ăn thịt đồng cảnh để sống còn. Tác giả Nguyễn Hữu Lễ đã thuật lại những "chuyện khó tin nhưng có thật" đó với những giọt nước mắt chảy ngược vào tim vì chính ông là nạn nhân của những hiện tượng kinh hoàng vừa nói. Mặc dù vậy sau khi xếp sách lại chúng ta mới cảm nhận được hết sự chan hòa với tâm tình yêu mến quê hương và dân tộc của một Linh mục tù nhân, chứng nhân và là nạn nhân của bao nhiêu tình cảnh đau thương. Tác giả kết luận: “Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn sáng của bình minh dân tộc”.
"Xã hội tù’” của CSVN là hình ảnh thu hẹp của một xã hội lớn hơn: xã hội Việt Nam sau ngày 30 tháng tư đen tối. Mười ba năm dài đằng đẵng, với thiên chức của một vị linh mục, tác giả đã thành công trong việc cảm hóa và cải tà quy chính rất nhiều đối tượng đã mất hết tính người vì chính sách trại giam của cộng sản. Mong rằng tác giả cũng sẽ thành công một lần thứ hai khi trở lại đời sống bình thường, cho đúng với ước nguyện của ông lúc ban đầu, cho dân tộc được hưởng không khí tự do và cho tổ quốc có điều kiện vươn lên cùng nhân loại văn minh.
 
Maryland ngày 20 tháng 6 năm 2003
Nguyễn Cao Quyền
 

*
 
Lời Cảm Tạ
 
Tập Bút Ký “Tôi Phải Sống” được thành hình do công sức và sự khuyến khích của nhiều người. Về phần tôi, khi dòng chữ cuối cùng trong sách được viết xong, tôi ngồi đọc lại và thấy mình thật liều lĩnh!
Trước tiên vì tôi chưa hề viết lách bao giờ! Nhớ lại lúc vừa lớn lên tôi rất thích viết văn. Có lần tôi đọc một câu chuyện tác giả viết về cảnh trên chuyến xe lam từ Sài Gòn lên Gò Vấp, đoạn đường quãng nửa giờ xe, nhưng tác giả viết gần 10 trang giấy. Tôi đọc phát mê và thán phục óc tưởng tượng phong phú của các văn sĩ. Tưởng viết văn không có gì khó, tôi chợt muốn làm văn sĩ nên lấy giấy bút ra và thử viết một đoạn văn tả cảnh ngồi xe. Tôi chọn đoạn đường dài hơn từ Vĩnh Long lên Sài Gòn với khoảng 3 tiếng đồng hồ. Sau bao nhiêu cố gắng, tôi chỉ viết được không đầy trang giấy. Muốn viết thêm cũng chẳng biết viết gì!
Khi ra khỏi tù tôi đã 46 tuổi và có nhiều chuyện trong đầu. Lúc qua New Zealand hai năm sau đó, tôi thử ngồi viết lại những gì đã xảy ra trong tù. Lần này tôi viết được. Không những dài hơn đoạn văn năm xưa mà còn hết trang này qua trang khác. Nhưng đây không phải là óc tưởng tượng của nhà văn, mà là công việc của trí nhớ. Bắt đầu từ năm 1996, tôi ngồi viết lại một phần trang sử đau thương của cuộc đời.
Tuy nhiên, thú thật mà nói, dù trí nhớ tôi nhả mực qua dòng chữ với trang này qua trang khác, tôi cũng cảm thấy mình làm công việc này một cách khó khăn và nặng nề như con bò kéo chiếc xe có bánh vuông đang lên dốc!
Trở ngại trước tiên vì tôi là người miền Nam, viết sai chính tả quá nhiều, dấu hỏi ra dấu ngã và dấu ngã thành dấu hỏi. Lúc đầu viết tay, vì chữ xấu nên nhiều lúc viết xong đọc lại có chỗ tôi không hiểu mình đã viết gì! Loay hoay làm sao cải thiện việc viết lách cho có hiệu quả, tôi bèn nghĩ tới loại máy đánh chữ có dấu tiếng Việt mà khi còn ở Việt Nam tôi thường dùng. Tiện dịp có người bạn về thăm quê hương, tôi nhờ mua. Anh bạn mang qua cái máy đánh chữ có dấu tiếng Việt đã cũ. Tôi dùng một thời gian và thấy khó khăn nặng nề quá, đành xếp xó và định lúc nào rảnh sẽ đưa tới tặng lại cho viện bảo tàng. Tôi biết họ sẽ rất mừng vì của này hiếm! Không còn lựa chọn nào khác tôi đành phải nghĩ tới computer. Của đáng tội! Từ thuở tấm bé cho tới khi qua định cư ở New Zealand lúc đã gần 50 tuổi đời, tôi chưa có dịp sờ qua cái computer, mặc dù đã thấy qua.
Cũng may cho tôi! Lúc bấy giờ tôi có người bạn đạo Tin Lành rất giỏi về computer là anh Nguyễn Văn Tư, tôi tới gặp và xin anh giúp làm quen với cách sử dụng máy. Anh Tư đã tận tình hướng dẫn tôi ngay buổi trưa hôm đó. Tôi ngồi xuống trước máy, anh đứng ngay sau lưng bảo tôi cầm “con chuột”, tôi đưa tay phải ra tóm lấy nó! Nhưng con chuột bằng nhựa màu trắng đục này lúc nào cũng chực vuột ra khỏi tay tôi để thoát thân! Tôi bặm môi ghì thật chặt làm anh Tư kêu:“ Ấy, ấy!Linh mục đừng ghì con chuột chặt quá, nhẹ tay thôi và từ từ đẩy cho mũi tên trên màn ảnh di chuyển theo!” Lúc đó tôi thầm nghĩ: “Bắt chuột vốn là nghề của mình, ngày còn nhỏ ở ruộng đồng mình đã bắt không biết bao nhiêu là chuột. Nhưng chuột thật hình như dễ bắt hơn con chuột nhựa này!” Trước lúc ra về, anh Tư có viết cho tôi một cẩm nang. Nhưng về nhà được mấy hôm lại quên ngay. Chữ của thầy tôi trả cho thầy.
Vì có nhu cầu viết lách, tôi bèn ghi tên học computer lớp đêm dành cho người lớn, mỗi tuần 2 lần. Tôi chăm chỉ học trong 2 tháng với ông thầy người Anh. Vào lớp nghe tiếng Anh còn vất vả, thì nói gì tới việc học computer bằng tiếng Anh! Nên sau hai tháng miệt mài, tôi chỉ còn nhớ được cái computer tôi học tên là “Apple”, nghĩa là “Quả táo”! Một lần nữa, chữ của thầy tôi trả lại cho thầy. Sau đó tôi quên đi computer một thời gian và tiếp tục viết tay phần đầu tập Bút Ký. Có hiểu được sự khó khăn của tôi mới biết sự đóng góp quý báu và hỗ trợ tích cực của một số người trong việc này.
Một dịp may khác lại đến với tôi. Số là có đôi vợ chồng trẻ là Hoàng-Tú dọn tới ở gần tôi, cả hai là chuyên viên điện toán. Tôi mua máy và đôi bạn trẻ tới nhà chỉ dẫn tận tình. Nhờ đó tôi bắt đầu biết sử dụng computer để viết. Cũng từ đó và sau này tôi được sự hướng dẫn về kỹ thuật computer, Internet của ông Lê Quang Long, chủ tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Auckland và của người bạn Phật Giáo ở Úc là anh Lê Thiện Phúc. Riêng hai người con tinh thần của tôi là vợ chồng Nguyễn Dương-Ngọc Yến, lúc đó ở San José, am tường trong ngành báo chí và phát thanh, hiện đang điều hành lớp Hán-Việt trên Internet đã giúp tôi về nhiều mặt trong tập sách này. Vừa rồi tôi rất vui khi Dương-Yến và con gái lớn là cháu Thùy Dương giúp dịch tập Bút ký này sang tiếng Anh.
Tôi đặc biệt ghi nhận sự đóng góp của hai người bạn tù trại Thanh Cẩm là anh Nguyễn Cần (Lữ Giang) và anh Nguyễn Cao Quyền. Cả hai anh, cũng như nhiều bạn tù khác đã khuyến khích tôi lo hoàn thành tập Bút Ký. Anh Nguyễn Cần đã đọc và sửa giúp một phần bản thảo ngay từ lúc đầu và anh Nguyễn Cao Quyền nhận viết Lời Giới Thiệu cho tập sách.
Công việc bị gián đoạn trong mấy năm tôi làm việc ở Mỹ và các nước khác. Có một dạo, lúc tôi còn làm việc bên Mỹ, chị Trịnh Tiếu (Phi Nga) ở Sacramento đã chịu khó giúp tôi sắp xếp thứ tự các bài, các trang và sửa lỗi chính tả. Năm 2001 trước khi tôi trở lại New Zealand, cô em gái Như Lan ở Virginia giúp tôi đọc lại các bài mới viết, góp ý kiến và luôn nhắc tôi lo hoàn thành những gì tôi đã bắt đầu từ lâu. Khi tôi trở lại New Zealand, may mắn có sự tiếp tay của một người bạn Linh mục là cha Peter Hoàng. Nhờ đó cuốn sách này được hoàn thành.
Cha Hoàng, một Linh mục trẻ, đẹp trai, sống bên Úc đã lâu và mới chịu chức Linh mục được 3 năm. Cha qua làm việc tại một giáo xứ ở Auckland gần tôi. Ngoài đức tính hiền hòa, vui vẻ và tận tình được mọi người quý mến, cha Hoàng còn là người thông minh, giỏi văn chương, rành về ngôn ngữ Việt Nam và nhất là giỏi về computer, mặc dù chỉ tự “mò” thôi chứ không được “qua trường lớp” như tôi! Nói tóm lại, cái yếu của tôi lại là cái mạnh của cha Hoàng. Từ đó cha Hoàng giúp tôi sửa bản thảo, lời văn, câu cú và nhất là lỗi chính tả, trong khi ý trong sách vẫn được giữ nguyên. Vì ở gần nhau nên rất thuận tiện trao đổi ý kiến và chúng tôi làm việc tận lực trong vòng 2 tháng để kịp hoàn thành tập Bút Ký trong năm nay, vì năm sau cha Hoàng trở về Úc. Nếu không có công sức cha Hoàng, chắc chắn tập Bút Ký chưa có thể thành hình được lúc này. Cha Hoàng còn khuyến khích tôi rất nhiều trong việc xuất bản cuốn sách. Một hôm, trong buổi gặp gỡ nhiều người và có cả tôi, cha “phấn khởi” tuyên bố một câu làm mọi người cười nắc nẻ: “Các chuyện cha Lễ viết hay lắm, đọc xong chỉ muốn... ở tù!”
  Có lần cha Hoàng thúc giục tôi:
- Cha lo in cuốn sách đi, chắc chắn sẽ có nhiều người đọc. Con đọc từ đầu tới cuối thấy rất hay.
  Tôi cười đáp lại:
- Thế có cần ghi thêm hàng chữ “Money back guaranteed” ở bìa sau không?
   Cha Hoàng la lên:
-Ối giời ơi! Làm gì tệ thế hả cha!
Ngoài những đóng góp đó, còn có sự khuyến khích của rất nhiều người.  Trước tiên là trong gia đình của  anh Đặng Văn Tiếp, là người anh kết nghĩa của tôi đã chết trong tù. Đặc biệt nhất là sự khuyến khích và hỗ trợ của chị Hoàng Thị Huyền Thanh ở Pháp là hôn thê của anh Tiếp và anh Đặng Văn Thụ ở Maryland là em kế của anh Tiếp. Khi tìm gặp được nhau, chị Huyền Thanh và anh Thụ nhận tôi là người em. Sau đó là sự khuyến khích của anh chị em, bạn bè thân hữu thuộc nhiều giới khác nhau mà tôi chỉ có thể ghi lại một vài người ở đây. Ngay từ đầu có hai người em họ tôi là vợ chồng Phương-Dung ở Hershey, các bạn tù như Dương Văn Lợi và chị Germaine ở Paris, Nguyễn Tiến Đạt ở San Barnadino, Trần Nhật Kim ở Virginia, Nguyễn Tôn Tính ở San José, Phạm Hùng Thọ ở Sydney...và các người bạn như anh Đinh Hùng Cường ở Virginia, cô Hồ Bạch Lan ở Toronto, cô Trần Thị Kim Loan, và người bạn học từ nhỏ là Anh Nguyễn Hữu Trà ở Virginia... Các anh chị Phùng Văn Tuệ ở Santa Ana, chị Hoàng Thị Bích Đào và anh chị Bác sĩ Trần Văn Cảo ở San José...
Về sau này các người bạn như anh chị Võ Đại Tôn ở Santa Ana, Nguyễn Văn Tấn ở Toronto, Bác sĩ Đỗ Văn Hội ở Orlando, anh Châu Hoài ở Dallas... và nhiều bạn bè thân hữu khác. Riêng anh Trần Văn Ngà, chủ nhiệm báo Tiếng Vang ở Sacramento và chị Kiều Mỹ Duyên có chương trình phát thanh và truyền hình ở Santa Ana không ngừng khuyến khích và sẽ tiếp tay giới thiệu quảng bá tập Bút Ký. Ngoài ra hai người bạn là anh chị bác sĩ Nguyễn Huỳnh Anh ở Sacramento lúc nào cũng hỏi tôi: “Chừng nào Cậu bảy xong cuốn sách?” Lúc ở Mỹ cũng như khi về đây rồi tôi vẫn “bị” hỏi như thế! Anh chị Huỳnh Anh-Liễu luôn khuyến khích và giúp tôi về nhiều mặt. Hai người bạn nghệ sĩ là anh Vũ Hối ở Maryland và cô Tina Thanh Hương ở Sacramento đã làm sẵn con dấu tặng tôi dùng trong ngày... ra mắt sách! Mặc dù bản thảo còn đang dở dang!
Tuy nhiên còn một việc nặng nề cụ thể khác là in ấn và làm sao chuyển sách tới tay bạn đọc. Tôi nghĩ tới người bạn thân là anh Trần Quốc Bảo ở California, người đã khuyến khích tôi rất nhiều trong việc này. Tôi gọi anh Bảo trình bày khó khăn và nhờ anh giúp. Anh Bảo trả lời “Cha Lễ ơi! Vì cha ở xa quá, nên con sẽ giúp cha. Cha cứ yên tâm đi vì con coi việc của cha cũng như việc của con”. Chắc tôi không cần viết gì thêm về anh Bảo, vì câu nói ngắn gọn đó đã nói lên tất cả. Có điều tôi hơi ngắc ngứ là anh Bảo vẫn dùng lối xưng hô theo tước vị tôn giáo đó làm tôi thấy khó, vì anh là người bạn, vả lại anh là một tín đồ Phật giáo. Tôi tin chắc là anh chị Bảo và hai cháu Hương, Kiếm hiểu được lòng quý mến của tôi. Tôi ghi nhận sự tận tình của anh Võ Triều Sơn, Thầy Nguyễn Văn Chọn, anh Nguyễn Hữu Lợi, hai cháu Trí và Ngọc ở Sydney giúp rà soát từng hàng của bản thảo trước khi gởi tới nhà in và các người bạn là anh Trần Phong ở Colorado giúp trình bày bìa sách.
Đặc biệt tôi ghi nhận sự quan tâm, khuyến khích góp ý kiến để sửa bản thảo và giúp đỡ phương tiện in ấn của hai người con tinh thần tôi là vợ chồng Huỳnh Kim-Trầm Minh Phụng tại Auckland.
Có người hỏi tôi về tựa đề “Tôi Phải Sống” của tập Bút ký. Tôi trả lời, bạn sẽ hiểu khi đọc bài số 10 trong tập sách này.
Để giúp bạn đọc dễ dàng theo dõi, tôi chia tập Bút Ký này ra làm 3 phần.
Phần Một:  Cuộc Đời và Bóng Đen
Phần Hai :  Chiếc Lá Giữa Dòng
Phần Ba  :  Tự Do và Hy Vọng.
Ngoài hai bài Vào Chuyện và Cuối Chuyện sẽ có 12 bài gồm những câu chuyện liên kết nhau theo thứ tự thời gian, sau cùng là Phần Phụ Trương và hình ảnh. Mặc dù là từng bài riêng biệt nhưng được xếp theo thứ tự có chủ ý, vì vậy xin bạn đọc hãy khoan phê phán và chưa có ý kiến vội trước khi đọc xong hàng cuối cùng của phần Phụ Trương.
Cũng có mấy người bạn giúp tôi một vài chi tiết về con số, ngày, tháng, địa danh... mà đã quá lâu tôi không còn nhớ rõ. Dù sao sách này cũng còn nhiều thiếu sót, tôi mong sự cảm thông của bạn đọc và ước mong giúp tôi bổ túc. Đa số những người tôi nhắc tới trong tập Bút Ký này hiện đang sống tại Mỹ, Việt Nam, Pháp, Úc, Đan Mạch, Canada, New Caledonia, Anh Quốc, Đức ,Ý, Bỉ, Hòa Lan, New Zealand... Phần đông tôi đã có dịp gặp lại hoặc điện thoại thăm hỏi hay tiếp xúc qua thư từ, một số người có hình ảnh trong tập Bút Ký này. Dĩ nhiên, có một số người đã nằm xuống, xin bạn hãy dừng lại một phút để tưởng nhớ và cầu nguyện cho họ được siêu thoát.
Đôi lời chân tình tôi xin gởi tới các ân nhân, thân nhân, anh em bạn bè và thân hữu. Tôi nhớ từng người nhưng không thể nào kể hết ra đây, xin các bạn hiểu cho tôi điều đó. Chính vì sự đóng góp của quá nhiều người về nhiều mặt nên tôi xin gọi tập Bút Ký“Tôi Phải Sống” này là “cuốn sách của chúng ta.”
Với lòng quý mến và biết ơn sâu xa của tôi.
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
 
 
 

*


Thay Lời Tựa
 
 
 
Bạn đọc thân mến,
Tôi vui mừng biết bao khi được gửi tới bạn món quà mà bạn đang cầm trong tay. Đối với tôi, đây là một món quà rất quý vì là kết quả sự đóng góp công sức và sự khuyến khích của nhiều người. Từ nhiều năm qua tôi đã ngồi lựa chọn lại những chất liệu đa dạng cho cuốn sách. Trước tiên là hồi tưởng các sự kiện xảy ra và sau đó đã phải khổ tâm nhớ lại từng xác người chết, sự đánh đập tra tấn cùm kẹp dã man, sự hận thù, lòng dạ phản trắc hòa lẫn với lòng nhân đạo, tình yêu thương, sự thân ái. Tôi nhớ tới màu đen ghê rợn trong đáy địa ngục, pha lẫn với màu hồng của tình người. Những yếu tố này và bao nhiêu điều tương phản khác đã xảy ra cho chính bản thân tôi và nhiều người khác mà tôi đã chứng kiến trong một thời gian khá dài kết tinh thành những dòng chữ trong các trang sách này.       
Những sự kiện và hình ảnh tôi ghi lại một cách trung thực trong Bút Ký này nhiều khi rất thương tâm. Tôi viết lên không phải để oán trách cuộc đời và con người, nhưng muốn dùng các sự việc đó như một bài học của lịch sử, để nhiều người nhất là thế hệ trẻ mai sau biết được quá khứ và tránh không trở lại vết xe cũ.
Mục đích tập Bút Ký này để làm món quà gửi tới toàn thể đồng bào Việt Nam. Số tiền tượng trưng nào đó được ghi ở bìa sách chẳng qua là để giúp phương tiện in ấn, chuyên chở, phân phối v.v... để trao tập Bút Ký này tận tay bạn đọc. Và đó cũng là phương tiện duy nhất giúp tôi làm lộ phí để từ New Zealand tôi có thể tới thăm bà con và đồng hương trong dịp ra mắt cuốn sách.
Một chuyện rất riêng tư nhưng tôi cũng xin được lạm dụng vài hàng ở đây. Tôi coi tập Bút Ký này là món quà trân quý mà tôi kính cẩn gửi tới bạn trong dịp tôi “thọ” 60 tuổi! Tôi tuổi Quý Mùi, tuổi con Dê. Ông bà mình thường nói: “Nam Nhâm Nữ Quý”. Vì câu nói đó nên có lúc tôi ngồi nghĩ quẩn:“Giá mà mình sinh sớm một năm, năm Nhâm Ngọ, hoặc năm Quý Mùi cũng được nhưng nếu là Nữ, chắc đời mình sẽ sướng hơn! Nhưng đã muộn rồi!” 
Thân ái chào và mời bạn theo dõi câu chuyện.
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
Phần Một
Cuộc Đời và Bóng Đen
 
 
Vào Chuyện
 
Chiếc xe ca đông nghẹt hành khách dừng lại ở một trạm trên đường phố chánh của thủ đô Hà Nội bên cạnh một công viên. Nhiều hành khách chen nhau bước xuống xe. Nhóm chúng tôi gồm ba người tù vừa được tha sáng hôm nay từ trại Nam Hà, cũng bước xuống. Trong nhóm có thầy Kỳ, một chủng sinh ở miền Bắc làm hướng dẫn viên, còn anh Nguyễn Đức Khuân và tôi là dân miền Nam bị đưa ra Bắc ở tù, và cả hai mới đặt chân xuống đất Hà Nội lần đầu nên chỉ biết rảo bước theo sau thầy Kỳ.
Khi vừa đi được một đoạn, tôi bị choáng ngộp bởi sự thay đổi khung cảnh quá nhanh. Mới sáng nay tôi còn ở trại tù Nam Hà vắng lặng và buồn thảm, thế mà xế trưa đã có mặt trên con đường chánh của thủ đô Hà Nội ồn ào náo nhiệt, đầy xe cộ và người đi lại. Tuy Hà Nội không có nhiều xe ô-tô như Sài Gòn trước kia, đa số là xe máy và xe đạp, nhưng cảnh xe cộ lưu thông tới lui tấp nập cũng làm tôi choáng ngợp. Trong 11 năm tù tại miền Bắc, có bốn lần tôi cũng có dịp đi ngang qua Hà Nội, nhưng toàn là về đêm và bị còng tay trên các chuyến xe di chuyển tù từ trại này tới trại khác. Lần đầu tiên khi tôi bị đưa ra Bắc vào tháng Tư năm 1977 trên tàu Sông Hương, lên bến Hải Phòng và từ đó đi xe ca ngang qua Hà Nội để vào trại Nam Hà. Lần thứ hai trong đêm Giáng Sinh 1977, khi nhóm 20 người chúng tôi từ trại Nam Hà bị đưa lên Cổng Trời cũng đi qua Hà Nội trong đêm. Tám tháng sau, từ trại Cổng Trời chuyển về trại Thanh Cẩm, chúng tôi ghé qua trại Văn Hòa ở ngoại thành Hà Nội để nghỉ qua đêm. Lần cuối cùng, khi nhóm tù chính trị miền Nam và mười người tù Trung Quốc còn sót lại ở trại Thanh Cẩm chuyển về trại Nam Hà cũng đi ngang qua Hà Nội khi phố đã lên đèn. Lần này tôi mới chính thức đặt chân tới Hà Nội giữa buổi xế trưa nắng ấm trong tâm trạng của một người tự do. Tôi dùng hai chữ “tự do” với một sự dè dặt, vì ít ra trong người tôi cũng có mảnh giấy ra trại được đóng dấu và ký tên hẳn hoi. Mảnh giấy, dấu ấn tự do của 13 năm tù đang được tôi cẩn thận nhét vào cái túi may bên trong áo phía trước ngực và cài lại bằng 2 lần kim băng. Tôi không thể nào để tờ giấy màu nâu bằng chất liệu giấy rất kém này mất đi được. Đó là tờ giấy duy nhất hợp pháp mà tôi có được sau một thời gian rất dài, ngoài ra tôi chẳng có một thứ giấy tờ gì trong người. Tờ giấy ra trại này để chứng minh cho mọi người biết tôi là ai, và dĩ nhiên là để tránh rắc rối trong lúc tôi vừa mới chân ướt chân ráo bước ra khỏi nhà tù và đang có ý định là sẽ lưu lại thăm viếng miền Bắc một thời gian chừng hai tuần lễ trước khi xuôi tàu về Nam.

Chiếc Nôi Dân Tộc
Tôi lên tiếng gọi và nói thầy Kỳ cho ngồi nghỉ một chút vì thấy trong người hơi mệt. Chúng tôi rẽ vào bên chiếc ghế công viên ngay đó ngồi chân, vừa nhìn cảnh nhộn nhịp của giao thông trên đường phố thủ đô. Lúc ngồi tựa lưng vào thành ghế đá công viên, tôi có dịp để ý quan sát người dân Hà Nội, người ngồi xe cũng như khách bộ hành trên đường phố. Điều tôi ghi nhận đầu tiên là dân chúng Hà Nội ăn mặc rất giản dị, không màu mè chải chuốt. Đa số mặc quần đen áo trắng, đàn ông cũng như đàn bà. Phần đông cúi đầu lầm lũi bước đi như những người mang tâm trạng chán chường, mệt mỏi. Họ thường đi lẻ loi một mình, có khi sánh bước từng nhóm vài ba người, nhưng rồi cũng mạnh ai người ấy đi, ít khi thấy họ cười nói đùa cợt như hình ảnh quen thuộc của hè phố Sài Gòn mà tôi đã xa lìa hơn chục năm qua. Tôi đoán hầu hết những người đang đi xe gắn máy hoặc xe đạp là giới công nhân qua cách ăn mặc giản dị của họ. Đàn ông phần nhiều đội mũ cối và phụ nữ đầu đội nón lá. Một chi tiết lý thú mà tôi thấy lúc bấy giờ là gần như tất cả các cô gái Hà Nội đều thon thả, mảnh mai và hơi nhỏ người. Tự nhiên tôi liên tưởng tới chiếc áo dài Việt Nam và nghĩ là trời sinh ra người con gái Việt Nam, nhất là gái Hà Nội là để mặc áo dài!
Một lúc sau bắt đầu quen mắt, tôi cảm thấy dễ chịu, đứng dậy xốc ba-lô lên vai và theo thầy Kỳ dẫn lối tới Nhà Chung (Miền Bắc gọi Tòa Giám Mục là Nhà Chung) Hà Nội. Tôi đã nghe nói nhiều về Hà Nội với 36 Phố Phường. Những bài hát truyền cảm, những câu thơ trữ tình tả cảnh “nên thơ” của Hà Nội. Nhưng hôm nay, lần đầu tiên tôi đang sống với Hà Nội bằng chính đôi mắt và con người tự do của tôi. Hà Nội đẹp lắm! Một nét đẹp cổ kính và chất phác nhưng thâm trầm. Ngay từ giây phút đầu thấy Hà Nội, tôi như bị “tiếng sét ái tình” làm mê mẩn hồn. Tôi say mê Hà Nội như chàng trai mới lớn lần đầu tiên nhìn thấy bóng dáng kiều diễm của người con gái trong mộng và rồi “yêu” nàng! Hà Nội không lộng lẫy kiêu sa, nhưng mang vẻ trinh nguyên của chiếc nôi dân tộc. Tôi yêu nét đẹp cổ kính của Hà Nội kể từ giây phút đầu tiên đó.
Thầy Kỳ đi đầu, mặc bộ quần áo màu xanh trại phát với túi xách trên vai, Khuân mang ba-lô đội nón vải bước theo sau. Nhìn hai người bạn đang hăng hái bước đi trước mặt, tự nhiên tôi buồn cười khi nghĩ tới hình ảnh của nhóm bộ ba tướng sĩ tượng này. Hai anh bạn ăn mặc kỳ dị quá khiến tôi nghĩ có lẽ người khác nhìn tôi cũng nói như vậy. Chúng tôi thật chẳng giống ai, nhất là thầy Kỳ! Ai nào lại mặc bộ quần áo tù đi nghênh ngang giữa thủ đô văn hiến như thế nhỉ? Dường như ai nhìn vào cũng biết đây là ba anh tù vừa mới được tha về. Biết đâu có người còn nghĩ đây là ba anh tù vượt ngục khi thấy thầy Kỳ mặc bộ quần áo tù với chiếc áo trấn thủ che ngoài để lấp con dấu “Cải Tạo” đóng sau lưng không chừng! Tự nhiên tôi đâm ra băn khoăn xen lẫn một chút khó chịu. Cái ông thầy Kỳ này thật là “kỳ”! Ai lại đi ăn mặc như thế bao giờ! Không lẽ chẳng còn bộ đồ nào khác hơn hay sao? Ăn mặc như thế nhỡ có ai nghi ngờ thì lại rắc rối to. Mặc dù hơi khó chịu nhưng khi thấy thầy Kỳ bỗng dưng hớn hở và cho biết là sắp tới nơi, hồn tôi như hòa vào niềm vui và quên đi nỗi băn khoăn về thầy.
Thầy Kỳ lúc đó đã ngoài 40, có lẽ cũng xấp xỉ tuổi tôi. Người nhỏ thó và nước da ngăm đen, mặt có nhiều tàn nhang và mụn trứng cá, cộng với mấy chiếc răng cửa bị gãy một phần trên trông thầy càng bệ rạc hơn! Tuy nhiên, thầy Kỳ là người tốt tính. Lối sống vui vẻ và đức tính khiêm tốn làm tăng thêm nét dễ thương nơi thầy. Vì lý tưởng đi tu mà thầy bị bắt vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần. Thầy Kỳ chung lớp với một số Linh mục ở miền Bắc. Số thầy lận đận tù mãi, bằng không cũng trở thành Linh mục từ lâu. Thầy Kỳ quen biết hầu hết các tu sĩ miền Bắc, từ đức Hồng Y trở xuống. Trong Nhà Chung Hà Nội này có hai bạn học cùng lớp với thầy Kỳ làm phòng bộ (quản gia) cho đức Hồng Y. Lúc này, khi rảo bước theo thầy Kỳ, tôi có cảm tưởng như đang bước theo sau một "Thiên thần" hộ mệnh.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.01.2007 12:39:57 bởi sóng trăng >
#2 
sóng trăng 14.01.2007 04:00:30 (permalink)
.
 
Nhà Chung Hà Nội
Vừa tới ngõ rẽ vào Nhà Chung, tôi cảm thấy hơi bồn chồn khi sắp sửa được gặp vị Hồng Y mà tôi chưa từng bao giờ gặp. Bất ngờ có một người đàn ông nhỏ thó quãng ngoài 50 xuất hiện. Ông từ một ngõ sát cạnh hàng rào Nhà Chung bước ra chặn chúng tôi lại và hỏi:
- Cho tôi hỏi, có phải các anh mới đi tàu hỏa xuống à?
Tôi rất nhạy trước cảnh này và biết ngay người đàn ông đó là ai. Thầy Kỳ chưa kịp trả lời, tôi bình thản lên tiếng:
- Chúng tôi không đi tàu hỏa, nhưng tại sao bác hỏi thế?
- Tôi đi đón người nhà từ miền Nam ra, và trông các anh có vẻ người miền Nam nên tôi hỏi thăm.
Thấy người công-an chìm này có vẻ trâng tráo, tôi vặn hỏi ngay:
- Có phải bác nghi chúng tôi là tù vượt ngục không?
Người lạ mặt tỏ ra bối rối sau câu hỏi đó. Mặt ông ta khác đi và yên lặng. Thì ra tôi đoán đúng, người ngoài thấy chúng tôi biết ngay là tù. Hơn nữa, thấy cách ăn mặc của thầy Kỳ họ có quyền nghi thêm hai chữ “vượt ngục”. Tôi nói tiếp:
- Bác lầm rồi, chúng tôi là tù nhưng không phải vượt ngục mà mới được tha về từ trại Nam Hà sáng hôm nay.
Người công-an chìm này không chịu thua:
- Thế các anh định về đâu?
- Dĩ nhiên là tôi về Nam, nhưng chưa về ngay hôm nay.
- Các anh định ở đâu trong lúc này?
- Ở đây, trong Nhà Chung này!
Vừa nói tôi vừa chỉ vào Tòa Giám Mục Hà Nội. Nói xong câu đó, chúng tôi bỏ đi vào, để mặc cho người đàn ông lạ mặt đứng trố mắt nhìn theo.
Tòa Giám mục Hà Nội, hay thường được gọi là Nhà Chung Hà Nội, là một khu vực khá rộng với nhiều dãy nhà ngang dọc, nhưng tòa nhà chánh, là nhà hai tầng khá dài nằm thẳng góc với đường cái. Cách tòa nhà chánh này một đỗi là tháp của Nhà thờ Chính tòa có cây Thánh Giá vươn cao. Từ cổng đi vào là sân khá rộng và dài sâu mãi vào bên trong. Khu vực này với cây to bóng mát và các tòa nhà lâu năm trông thật cổ kính. Lúc vừa bước vào khuôn viên Nhà Chung Hà Nội, tôi tưởng như mình đang đi vào một khu bảo tàng, được gìn giữ cẩn thận và trang nghiêm.
Thầy Kỳ dẫn chúng tôi đi sâu mãi vào gần cuối mới có bậc thềm bước vào khu nhà phía tay phải. Lúc đó khoảng hai giờ chiều, có lẽ là giờ nghỉ nên cả khu nhà yên tịnh và vắng vẻ, chẳng thấy bóng dáng ai. Thầy Kỳ đã quen biết nơi này nên đi vào trong như người nhà. Anh Khuân và tôi đặt ba lô xuống bậc thềm xi măng ngồi nghỉ mệt. Một lúc sau thầy Kỳ trở ra với một người đàn ông cao lớn và trắng trẻo, tóc húi kiểu đầu đinh tức là có mái bằng trên đỉnh đầu. Người này mặc áo sơ mi trắng ngắn tay, quần tây đen, áo bỏ ngoài quần và chân mang xăng-đan. Toàn diện con người anh toát ra sự sạch sẽ và gọn gàng của một con người làm việc văn phòng, ít khi có dịp tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Hình ảnh này tương phản với thầy Kỳ nhỏ thó, đen đủi và bệ rạc trong bộ đồ tù đang cười nói bước đi bên cạnh. Anh Khuân và tôi đứng lên khi hai người ra tới nơi.
Thầy Kỳ giới thiệu:
- Thưa cha, đây là thầy Trác, bạn cùng lớp của con và là người giúp phòng bộ của đức Hồng Y.
Tôi đưa tay ra bắt tay thầy Trác, trong lúc thầy nói:
- Con được thầy Kỳ cho biết có cha và anh ghé Nhà Chung. Con xin chào. Mời cha và anh vào.
Thầy Trác đưa cả 3 vào phòng ăn, vừa đi vừa nói:
- Giờ này đức Hồng Y chưa xuống văn phòng. Cha và hai anh ngồi uống nước và tạm nghỉ, chốc con lên trình với ngài. Nói xong thầy Trác bước ra.
Phòng ăn này khá lớn có kê một bàn dài chính giữa và hai bàn tròn cách đó một quảng, có những chiếc ghế đai xếp chung quanh bàn. Trong một góc nhà và cạnh vách có bộ xa-lông và mấy chiếc bàn nhỏ để sách báo. Chỗ nào cũng sạch sẽ tươm tất. Một lúc sau thầy Trác trở lại, tôi vẫn ngồi yên đọc báo. Tôi ngạc nhiên khi thầy bước tới và chào tôi lần nữa:
- Chào cha, có phải cha Lễ không ạ?
Tôi ngạc nhiên vì lúc nãy đã giới thiệu rồi, sao thầy còn hỏi nữa?! Tôi ú ớ đáp lại:
- Vâng... vâng...
Chưa nói hết câu thì thầy Kỳ cười lên tiếng:
- Thưa cha, đây là thầy Trạc, em sinh đôi của thầy Trác lúc nãy!
- À, ra thế!
Tôi chợt phá lên cười mà không dằn được, mặc dù biết cười như thế là không phải. Để khỏa lấp chỗ hớ của mình, tôi liền chống chế bằng một câu thân thiện:
- Trời ơi! Hai anh em giống nhau quá, tôi nhận không ra!
Thầy Trạc vui vẻ đáp:
- Không phải một mình cha lầm đâu, có nhiều người lầm hai anh em con. Chúng con giống nhau quá hả cha?
Chúng tôi lại được trận cười thoải mái sau câu nói đó. Hai anh em đã giống nhau mà lại ăn mặc như nhau nữa thì có trời mới biết ai là Trác và ai là Trạc! Lúc đó tự nhiên tôi liên tưởng tới hai nhân vật sinh đôi Dupond và Dupont trong bộ truyện bằng tranh “Tintin et Milou” của Paul Hergé, nhưng tôi không dám nói ra. Sau khi chúng tôi ngồi nói chuyện vui vẻ, chợt thầy hỏi:
- Trước khi vào Nhà Chung, cha và các anh có gặp ai hỏi thăm gì không?
Tôi nói có, và kể lại câu chuyện gặp người đàn ông ngoài cổng. Thầy chia sẻ:
- Thế đó cha ơi! Ngoài này nó vậy đấy! Con kiến cũng chui không lọt đừng nói chi con người. Mà này cha và anh có giấy tờ gì đưa con đi trình. Đồn công an ngay cổng vào Nhà Chung đó cha!
Chúng tôi móc túi lấy giấy tờ. Khi thấy tôi lần túi trong túi ngoài và qua hai lần kim băng móc mảnh giấy ra trại, thầy Trạc nhìn tôi mỉm cười làm tôi xấu hổ. Lúc ấy tôi có cảm tưởng mình giống như một bà nhà quê, giấu mấy đồng tiền lẻ sâu vào ruột tượng moi mãi không ra. Tôi cười và nói cho đỡ ngượng:
- Cẩn tắc vô ưu thầy ạ!
- Phải thế chứ cha! Bọn móc túi Hà Nội này nó ranh lắm!
Nhất là lúc đi tàu hay đi xe, cha và các anh phải cẩn thận đấy. Bọn chúng nhanh như sóc ấy!
Câu nói của thầy Trạc làm tôi đỡ ngượng. Thầy cầm lên đọc khá kỹ các mảnh giấy trong tay. Tôi biết là ngoài lý do để đi trình giấy, những người có trách nhiệm trong Nhà Chung cũng phải biết chắc những ai bước vào khu nhà này. Mặc dù có sự giới thiệu coi như bảo đảm của thầy Kỳ, nhưng người ngợm của tôi lúc bấy giờ rất dễ cho người lạ nghi là Linh mục “dỏm”!
Sau đó thầy bước ra và dặn tôi ngồi nghỉ để thầy đi dọn phòng cho chúng tôi. Thầy nói thêm là giờ này đức Hồng Y còn trong nhà nguyện, tới ba giờ sẽ vào văn phòng làm việc và tiếp khách.
Một lúc sau thầy trở lại bước vào nhà ăn, nhưng tôi không biết là Trác hay Trạc! Thầy mời tôi lên phòng, trong khi Kỳ và Khuân ngồi chờ thầy trở lại để đưa qua khu vực nhà khách dành cho các thầy. Tôi nghĩ giá mà ba anh em chúng tôi được ở chung một nhà thì vui hơn, nhưng nhập gia phải tùy tục. Lúc đi cạnh nhau tôi vẫn chưa biết người nầy là Trác hay Trạc! Tôi mỉm cười với ý nghĩ, giá mà một ông bị cận thị mang kính thì dễ phân biệt biết mấy!
Tôi được đưa vào một phòng khách trên lầu rất sạch sẽ, rộng rãi và đủ tiện nghi. Giường trải chiếu hoa và có quạt trần. Phòng mở cửa nhìn xuống sân từ đường cái đi vào và đối diện bên kia là nhà Văn Hóa.
Tôi đặt chiếc ba lô hành trang duy nhất xuống ghế và bước vào nhà tắm để rửa mặt. Sau khi lau người bằng chiếc khăn mặt trắng và thơm tho, tôi bước ra và tới ngả lưng nằm dài trên giường có chiếc gối trắng tinh, dang rộng tay chân trong tư thế thoải mái lần đầu sau 13 năm cuộc đời gió bụi. Vừa nằm xuống tôi buột miệng nói thành lời: “Ôi! Đời đáng sống làm sao!”. Cái cảm giác đang tự do và làm chủ hoàn toàn một căn phòng, cho dù chỉ là một phòng khách của Nhà Chung Hà Nội và chỉ ở tạm một vài ngày đã làm tôi lâng lâng hạnh phúc và nhận chân ra sự thay đổi đột ngột trong cuộc đời. Tôi nằm yên nhắm mắt và cố tận hưởng giây phút hiếm hoi này, chẳng suy nghĩ gì thêm. Một lúc sau có tiếng gõ cửa và thầy phòng bộ bước vào. Tôi vẫn không biết là Trác hay Trạc, chỉ lên tiếng “chào thầy!” Thầy nói đã trình đức Hồng Y, Ngài mừng lắm và hẹn ba giờ rưỡi thầy đưa chúng tôi lên gặp đức Hồng Y.

nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2007 04:02:46 bởi sóng trăng >
#3 
sóng trăng 14.01.2007 04:04:34 (permalink)
.
 
Hồng Y Trịnh Văn Căn

Từ trước tới giờ tôi chỉ nghe tên và xem thấy hình, nhưng chưa bao giờ có dịp gặp đức Hồng Y Trịnh Văn Căn. Do đó, tôi hơi bồn chồn khi cùng với hai người anh em kia bước theo thầy phòng bộ trong hành lang khá rộng dẫn tới phòng của vị chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Phòng này nằm ở khoảng giữa lầu hai trong tòa nhà chánh của Nhà Chung Hà Nội. Tới nơi, thầy phòng bộ bước lui để ba anh em tôi vào.
Khi nghe tiếng gõ cửa, đức Hồng Y bước ra tận nơi đón chúng tôi. Hồng Y Trịnh Văn Căn, một người khá cao lớn, tuổi ngoài 60, nước da hồng hào, tóc bạc trắng, trên môi nở nụ cười tươi và dáng vẻ rất phúc hậu. Ngài mặc áo dòng đen có viền đỏ như các Giám mục vẫn mặc, cổ “côn” trắng chỉnh tề và chân mang giày da đen. Vừa thấy ngài, tôi lên tiếng: “Thưa đức Hồng Y, con là cha Lễ, thuộc giáo phận Vĩnh Long, cùng với thầy Kỳ và anh Khuân, chúng con xin chào đức Hồng Y.” Ngài tươi cười đưa tay phải ra, tôi bắt tay vừa định quỳ gối hôn nhẫn thì Ngài đỡ tôi dậy, kéo vào lòng và quàng tay trái ôm tôi khá lâu vừa nói: “Cha Lễ! Nghe tin cha về tôi mừng lắm. Tạ ơn Chúa! Tạ ơn Chúa!” Thái độ của đức Hồng Y Trịnh Văn Căn làm tôi vô cùng cảm động. Sau đó ngài bắt tay Kỳ và Khuân, và để cho hai người quỳ hôn nhẫn. Tôi giới thiệu Khuân là một giáo dân, còn thầy Kỳ thì Ngài đã biết. Đức Hồng Y đưa tay mời ba anh em tôi vào phòng. Tôi đi đầu, theo sau là thầy Kỳ và anh Khuân. Ngài tiếp chúng tôi rất niềm nở, cùng chúng tôi ngồi ở bộ ghế xa-lông giữa căn phòng rất rộng, đơn sơ và ngăn nắp.
Khi bắt đầu câu chuyện, tôi cám ơn đức Hồng Y đã gửi quà cho các Linh mục trong tù và khi các cha về hết thì gửi cho tôi. Ngài nói có nhờ cha Mai lo việc đó vì Ngài nghĩ là các cha trong miền Nam xa xôi quá. Ở đây Ngài làm được gì để an ủi các Linh mục trong lúc tù đày thì Ngài cố gắng làm. Trong câu chuyện Ngài cũng nhắc tới Đức cha Nguyễn Văn Thuận đang bị giam lỏng ở Giang Xá và Ngài vẫn nhờ cha Mai lo gửi quà, nhưng lần vừa rồi quà bị trả lại khiến Ngài lo lắng không biết tình trạng Đức cha Thuận bây giờ ra sao.
Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn có giọng nói ấm, đơn sơ và truyền cảm. Ngài hỏi tôi về những Linh mục còn lại trong tù, cách thức thăm nuôi làm sao, đời sống tinh thần các Linh mục và giáo dân trong tù thế nào. Ngài hỏi chuyện cả ba người nhưng nhiều nhất là tôi. Tôi nói số Linh mục miền Nam ra Bắc từ hơn 10 năm qua thì tôi là người ra về cuối cùng. Nhưng Linh mục miền Bắc mới bị vào tù sau này thì còn lại ba người là cha Thi, cha Vĩnh thuộc Giáo phận Bùi Chu và cha Hiểu thuộc Giáo phận Bắc Ninh. Có trường hợp cha Nguyễn Văn Lý và cha Lê Văn Nghiêm thuộc Tổng Giáo phận Huế mới bị bắt hai năm cũng còn ở trại Nam Hà. Như vậy còn lại 5 Linh mục trong trại tù Nam Hà. Khi tôi nói các chi tiết này, đức Hồng Y đứng lên bước lại bàn lấy quyển sổ và bảo tôi nhắc lại để Ngài ghi.
Sau đó Ngài hỏi chừng nào chúng tôi về Nam và chương trình những ngày tới ra sao. Tôi cho biết là anh Khuân sẽ về trước còn tôi sẽ lưu lại miền Bắc nửa tháng . Trước tiên tôi sẽ đi Bắc Ninh thăm Đức cha Phạm Đình Tụng là Giám mục Bắc Ninh và sẽ nhờ người hướng dẫn tới thăm gia đình cha Hiểu ở xứ Ngô Khê trong giáo phận này. Cha Hiểu sống chung một đội với tôi trong trại Nam Hà, khi tôi ra về thì cha Hiểu còn ở lại đó. Thời gian còn lại tôi sẽ đi một vài nơi để có dịp đi thăm viếng và ghi nhận tất cả những gì có thể ghi được, nhất là về tình trạng Giáo hội Công Giáo trong các giáo phận miền Bắc sau mấy chục năm dưới chế độ cộng-sản, để sau này nếu có dịp tôi sẽ viết lại những gì tôi đã thấy và tìm hiểu. Đức Hồng y rất tán thành ý định của tôi và ngài nói: “Cha cứ đi, nếu cần giới thiệu tới chỗ nào tôi sẽ giới thiệu. Hãy coi Nhà Chung này là nhà của cha. Bất cứ lúc nào cha trở lại cũng được, và nếu cần gì cứ bảo với hai thầy phòng bộ.” Ngài quay sang hỏi anh Khuân về gia đình, vợ con và việc làm ăn sinh sống trong thời gian chồng đi tù.
Đức Hồng Y tiếp chúng tôi quãng nửa tiếng đồng hồ. Sau đó, chúng tôi đứng lên xin cáo lui để ngài làm việc. Trước lúc chúng tôi ra khỏi phòng, ngài dặn chúng tôi sang thăm và chào Đức cha phụ tá là Giám mục Nguyễn Văn Sang. Tôi trả lời là đã nhờ thầy phòng bộ thông báo và chúng tôi sẽ tới chào, ngay sau khi thăm đức Hồng Y.
Tôi bước ra khỏi phòng đức Hồng Y Trịnh Văn Căn với sự cảm xúc và lòng kính mến sâu xa. Tôi rất mừng và hãnh diện về Giáo hội Công Giáo Việt Nam có được người lãnh đạo nhân từ, đầy lòng bác ái và quan tâm tới từng hoàn cảnh của mỗi người như thế.

Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#4 
sóng trăng 14.01.2007 04:06:44 (permalink)
.
Vị Giám Mục Phụ Tá

Chúng tôi đi xuống trở lại ngang nhà ăn và qua dãy nhà kế bên để tới phòng Giám mục Nguyễn Văn Sang nằm ngay ở đầu nhà. Tôi cũng chỉ nghe nói tới Giám mục Nguyễn Văn Sang, nhưng chưa gặp bao giờ. Lúc còn trong tù tôi nghe Linh mục Lê Đức Triệu, tức nhạc sĩ Hoài Đức, cũng là người gốc Giáo phận Hà Nội kể chuyện. Năm 1954, Ngài đã di cư vào Nam rồi, nhưng sau đó lại trở lộn ra Bắc, không hiểu vì lý do gì. Nghe như thế tôi đã có sự khâm phục tinh thần của Giám mục Nguyễn Văn Sang chấp nhận trở lại miền Bắc dưới chế độ cộng-sản, trong khi một số đông giáo sĩ đã di cư vào Nam. Sau đó cha Sang được chọn làm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội một vài năm gì đó trước khi chúng tôi tới thăm.
Chúng tôi gõ cửa khi Giám mục Sang đang ngồi tại bàn làm việc và lên tiếng mời chúng tôi vào. Ngài vẫn ngồi yên tại chỗ khi ba anh em chúng tôi bước vào. Tôi lên tiếng khi thấy ngài:
- Chào Đức cha, con là cha Lễ ở Vĩnh Long cùng với hai anh em, thầy Kỳ và anh Khuân là một giáo dân ở miền Nam. Chúng con vừa mới ra khỏi tù hôm nay và tới chào Đức cha.
Giám mục Sang vẫn ngồi yên sau bàn làm việc, ngẩng đầu lên và quay ngang nhìn nhóm chúng tôi:
-Thế à, cám ơn, cám ơn! Mấy anh em ngồi đi.
Vừa nói vị chức sắc tôn giáo ngoài 50 tuổi này chỉ tay về hàng ghế đai sát trong vách, đối diện với bàn làm việc rất bề bộn của Ngài. Tôi vừa ngồi xuống vừa quan sát rất nhanh Giám mục Sang. Giám mục Nguyễn Văn Sang đáng người hơi thấp, da mặt bóng láng, mập béo và trắng trẻo. Tướng mạo Ngài biểu hiện một sự sung mãn khá toàn diện. Ngài mặc áo dòng đen, không có cổ trắng, vì Ngài không đứng lên nên tôi không biết mang giày dép gì. Phòng làm việc của Giám mục Sang khá nhỏ, chỉ bằng phân nữa phòng Đức Hồng Y. Trong phòng bề bộn những sách vở và đồ đạc nằm vô trật tự, ngổn ngang. Sự tương phản quá bất ngờ trong thái độ đón tiếp giữa Hồng Y Trịnh Văn Căn và Giám mục Nguyễn Văn Sang tôi sượng sùng.
Thấy bầu khí quá tẻ nhạt, tôi cố ý kéo dài việc xê dịch ghế và xoay đi sửa lại mấy lần trước khi ngồi yên, ra điều tôi chưa sẵn sàng để bắt đầu câu chuyện mà tôi đoán biết trước là sẽ rất nhạt nhẽo. Nhưng cuối cùng rồi tôi và hai anh bạn cũng đã ngồi yên đối diện với vị Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội. Ngài ngồi khoanh hai tay lại chống lên mặt bàn, cổ rụt xuống làm đôi vai nhô cao. Trong cách ngồi này tôi thấy hình dạng ngài trở nên thấp bé trong căn phòng bé nhỏ và bề bộn của ngài. Giám mục Sang ngồi yên nhìn chúng tôi không nói không rằng, gây cho tôi cảm tưởng là chúng tôi xuất hiện không đúng lúc. Trong giây phút đó tôi không biết tâm trạng thầy Kỳ và Khuân ra sao. Tôi đoán là họ cũng thấy đớ ra và thừa thãi như tâm trạng của tôi, nhưng dù sao họ cũng nhẹ nhàng hơn vì tôi là người phải đóng vai trò đại diện ăn nói. Trong một giây, tôi tự nói với mình:“Trời! Nếu biết như thế này thì vào đây để mà làm gì?!”
Thấy tình thế kỳ dị quá, không lẽ cứ ngồi đây mà nhìn nhau cho tới giờ cơm chiều, tôi bèn hỏi một câu thừa thãi và rất ư là vô duyên:
- Đức cha có khỏe không ạ?
Vị chức sắc tôn giáo có thân hình tròn trịa ngồi yên một chút mới bắt đầu nói như rên:
- Mới đi nghỉ mát ở Đồ Sơn về hôm qua, nghe sao trong người không được khỏe, có lẽ nắng ngoài đó to quá!
Tôi không biết Giám mục Sang nói những lời nói giọng rè rè đó với chúng tôi hay tự than thở với chính mình. Dù vậy tôi buộc lòng phải hỏi thêm cho có chuyện nói:
-Thế Đức cha mới đi tắm biển Đồ Sơn về à?
- Mình mới về hôm qua.
- Con nghe nói Địa phận Hải Phòng có nhà nghỉ mát ở Đồ Sơn, có phải Đức cha ra đó không?
- Đâu có! Mình ở nhà nghỉ mát chính phủ. Mình đi là bên Mặt Trận Tổ Quốc tổ chức mời mình đi mà!
Sau đó Giám mục Sang độc thoại một thôi một hồi về cuộc du hí vừa rồi, ăn làm sao, ở làm sao trong nhà khách chính phủ. Ngài ngon đà kể dài dòng về việc đó mà không một chút thương hại cho 6 cái lỗ tai của 3 tên tù khốn khổ mới được tha ra khỏi nhà tù sáng nay và tới chào ngài. Chúng tôi tới đây không có ý để nghe chuyện du hí Đồ Sơn của vị Giám mục. Sau đó không biết tại sao và vào lúc nào ngài lại chuyển đề tài qua xe đạp Peugeot của Pháp. Vị Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội lại độc thoại một tràng về tính “ưu việt” của loại xe đạp này vì có người bên Pháp, hình như nói là cha Thiết, mới gởi về cho ngài 10 chiếc.
Lúc đó tôi đã muốn kiếu từ nhưng không biết làm sao. Tôi mong cho có tiếng gõ cửa hay tiếng động gì để Giám mục Sang cắt đứt câu chuyện về xe đạp Peugeot, nhưng vẫn không có tiếng gõ cửa tôi mong đợi. Được một lúc, có thể vì nhận thấy chúng tôi không phải thuộc loại thính giả tốt, Giám mục Sang bèn ban cho chúng tôi một ân huệ. Đang nói nửa chừng, ngài vụt ngừng lại nhìn đồng hồ tay và nói: “Tôi phải có cái hẹn”. Câu nói ngắn gọn đó đã giải thoát cho cả hai phía. Phía ba anh em tôi khỏi phải tiếp tục ngồi nghe những chuyện chúng tôi không muốn nghe, và phía ngài cũng khỏi phải tiếp tục ngồi đối diện với 3 người khách bất đắc dĩ trên trời rơi xuống. Ba anh em tôi đứng lên rời khỏi phòng Giám mục Sang và đi nhanh như bị ma đuổi, trong lúc ngài vẫn ngồi tại bàn ngoái đầu ra cửa nhìn theo.
Lúc đi ngang nhà ăn, tôi coi đồng hồ, thấy đã 4 giờ 15, như vậy Giám mục Sang đã mất cho chúng tôi 15 phút, và tôi cũng thấy mình đã đánh mất chừng ấy thời gian một cách vô nghĩa! Tôi cảm thấy một nỗi chán chường làm nặng trĩu tâm can khi cả ba anh em yên lặng bước đi bên nhau trong hành lang cổ kính của Nhà Chung Hà Nội, được coi là con tim của Giáo hội Miền Bắc này. Thấy còn sớm, vì mãi 6 giờ chiều mới tới giờ ăn, tôi muốn lên phòng nằm nghỉ chốc lát nên tạm chia tay anh em lên buồng. Thầy Kỳ dặn với theo: “Cha nhớ xuống nhà cơm trước năm mười phút, đừng để đức Hồng Y đợi, thầy Trạc dặn con như vậy, vì đức Hồng Y không bao giờ đọc kinh ăn cơm trước lúc có mặt đầy đủ mọi người.”
Tôi lần theo cầu thang lên phòng. Vừa bước vào tôi thấy trên bàn có cái phong bì màu trắng đề tên tôi. Mở phong bì ra thấy có một số tiền, kèm theo mảnh giấy nhỏ với huy hiệu của Đức Hồng Y nằm bên góc trái, ghi mấy chữ: “Cha Lễ, cầm ít tiền tiêu. Sau cơm chiều, mời cha đi bách bộ trên sân thượng. TVC.” Đọc xong tôi đưa tờ giấy lên môi hôn. Ý tôi muốn hôn lên bàn tay của người viết mấy hàng chữ đó. Thì ra Đức Hồng Y đã chu đáo và quan tâm tới người khác hơn tôi tưởng. Số tiền ngài cho tương đương với một vé xe lửa từ Hà Nội vô Sài Gòn. Sau đó tôi được biết thầy Kỳ và Khuân cũng nhận được quà của đức Hồng Y.

Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#5 
sóng trăng 14.01.2007 04:10:53 (permalink)
.
 
Nét Truyền Thống

Còn 10 phút nữa tới 6 giờ, tôi đã có mặt ở phòng ăn. Lúc sắp bước vào phòng tôi cứ ngỡ là mình tới sớm, nhưng khi vào phòng đã thấy khá đông các cha các thầy, những người tôi chưa được gặp. Thầy Kỳ cũng đang đứng đó, cười cười nói nói với những người chung quanh. Khi thấy tôi bước vào, thầy Kỳ làm công việc giới thiệu tôi với những người khác. Có khoảng chừng 10 người vừa Linh mục vừa các thầy. Một vài Linh mục rất lớn tuổi. Đa số các cha đều mặc áo chùng thâm, các thầy mặc đồ bình thường. Tôi bắt tay và chào hỏi làm quen với từng người. Khi gần tới 6 giờ, có thêm mấy người nữa bước vào.
Lúc đó tôi có ý tìm Khuân nhưng không thấy đâu. Tôi e ngại anh tới nhà cơm muộn sẽ rất bất tiện nên hỏi Kỳ, vì hai người ở chung khu nhà bên kia. Hỏi ra mới biết vì là giáo dân nên Khuân không được ngồi ăn chung với các Linh mục và các thầy, phải ngồi ăn riêng một mình một mâm dưới nhà bếp, mặc dù thức ăn y như nhau. Sự hiểu biết này làm tôi ngạc nhiên và nhận rõ hơn sự cổ kính của Nhà Chung Hà Nội ngay trong các chi tiết nhỏ như thế đó. Việc ba anh em chúng tôi được chia làm hai khu vực nhà khách khác nhau đã làm tôi ngạc nhiên rồi; bây giờ tới việc “giai cấp” trong phòng ăn lại càng làm tôi lạ lùng hơn, nhất là trong khi nhà ăn còn thừa rất nhiều chỗ.
Chừng vài phút trước 6 giờ, tất cả đứng vào chỗ của mình chờ đợi. Có khoảng năm Linh mục đứng vào sau các ghế đai của chiếc bàn dài đủ chỗ cho mười người, còn các thầy đứng vào hai bàn tròn kế bên. Tôi được xếp ngồi trên, phía tay trái của đức Hồng Y, vì mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng tôi chịu chức trước, các cha khác tuy già nhưng chịu chức sau nên ngồi dưới. Đúng 6 giờ đức Hồng Y từ trên lầu đi xuống và bước thẳng vào chỗ của Ngài giữa đầu bàn phía trong cùng. Sau khi đứng vào chỗ, Ngài chưa bắt đầu đọc kinh ăn cơm vì còn một chỗ trống bên tay phải của ngài mà tôi biết là chỗ của Đức cha Sang. Tất cả đứng chờ, kể cả đức Hồng Y cũng đứng yên tại chỗ và cúi đầu chờ đợi trong yên lặng. Tôi có cảm tưởng thời gian lúc đó qua đi rất chậm.
Chừng vài phút sau, tôi nghe tiếng dép lẹp xẹp trong hành lang từ đầu nhà phía bên cánh trái đi lại. Tiếng dép càng lúc càng rõ hơn. Khi gần tới, tôi nghe tiếng bước chân khá vội vã như của người đang cố đi nhanh kẻo nhỡ chuyến tàu. Mọi người đứng yên chờ đợi và chắc hẳn ai cũng biết chủ nhân của những tiếng dép lẹp xẹp đó là ai. Giám mục Sang bước vào nhà cơm với vẻ nhanh nhẹn khác thường, đầu hơi cúi xuống và đi thẳng tới và đứng vào chỗ bên tay phải của Đức Hồng Y. Vị Hồng Y nhân từ ngước mắt lên nhìn khắp lượt như để chắc chắn là không còn thiếu ai, lúc đó Ngài mới bắt đầu. Trước khi làm dấu đọc kinh, đức Hồng Y lên tiếng thay mặt cho tất cả mọi người trong Nhà Chung Hà Nội, chào mừng tôi và thầy Kỳ cùng với anh Khuân vừa được ra khỏi tù sáng hôm nay và Ngài nói Nhà Chung Hà Nội rất vui khi được chúng tôi ghé thăm. Thái độ này của vị Hồng Y càng làm tôi cảm động và biết ơn.
Trong khi đọc kinh, đứng bên này nhìn qua người đối diện tôi thấy được toàn diện con người Giám mục Sang lần đầu tiên. Trông ngài thấp và bé nhỏ hơn tôi tưởng. Nhất là lúc đứng cạnh bên Hồng y Trịnh Văn Căn, trông giống như một đôi đũa lệch.

Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#6 
sóng trăng 14.01.2007 04:13:02 (permalink)
.
 
Vết Tích Thời Gian

Sau bữa ăn, tôi bước theo đức Hồng Y lên sân thượng của tòa nhà lớn. Sân thượng này rất rộng, có lẽ to hơn sân quần vợt, lát bằng gạch tàu, loại gạch màu đỏ, hình vuông mỗi cạnh chừng 4 tấc bằng đất nung. Trời mùa hè nên giờ đó còn sáng, đức Hồng Y và tôi sánh vai đi bách bộ. Trong lúc đi ngài kể tôi nghe hoàn cảnh Giáo hội miền Bắc và hỏi thăm về gia đình, cha mẹ anh chị em tôi. Ngài quan tâm đặc biệt tới cuộc sống các Linh mục trong tù, và hỏi tôi nhiều điều về thời gian tôi các Linh mục bị cầm tù. Đang đi, bất chợt ngài quay lại hỏi:
- Cha Lễ có để ý thấy cái gì khác lạ trên sân thượng này không?
Tôi ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ đó, và đưa mắt nhìn quanh khắp lượt chẳng thấy gì lạ nên nói:
- Con chẳng thấy gì lạ cả!
Ngài mỉm cười, từ tốn :
- Cha phải nhìn ra xa tới cuối sân mới nhận ra được. Nhìn xuống chân không thấy đâu!
Theo sự gợi ý của ngài tôi nhìn ra xa tới cuối sân. Chợt tôi để ý thấy một đường vòng hình quả trám khổng lồ nằm giáp bề mặt sân thượng. Con đường này có màu vàng nhạt khác với màu gạch lát trên sân như có ai mài rửa chà xát lên đó. Tôi nheo mắt đáp:
- Con thấy hình như có hình vòng tròn ai vẽ trên sân gạch.
Đức Hồng Y mĩm cười một cách đau khổ, sau đó giọng Ngài trầm xuống:
- Như thế là cha đã nhận ra rồi. Đó không phải là đường vẽ nhưng là đường mòn trên gạch. Đó cũng là dấu tích của đức cố Hồng Y Trịnh Như Khuê còn lưu lại. Trong hơn hai mươi năm bị quản chế, đức cố Hồng Y đã đi bách bộ trên sân thượng này. Vì đi bộ nhiều năm nên những bước chân của Ngài đã tạo thành đường mòn hình quả trám như cha thấy.
Nghe câu chuyện này tôi bồi hồi xúc động và quá thương cho hoàn cảnh đức Hồng Y tiên khởi của Việt Nam và cho Giáo hội Công Giáo miền Bắc lúc bấy giờ. Lần đó tôi được có dịp nói chuyện tâm tình và thân mật với Hồng Y Trịnh Văn Căn, một người mà tôi rất kính mến.
Đêm đó, sau khi đọc kinh tối chung trong nhà nguyện, tôi ghé vào thăm cha Sinh là cha Bí thư Tòa Tổng Giám mục Hà Nội. Phòng cha Sinh cách văn phòng đức Hồng Y không xa. Cha Sinh lúc đó còn trẻ, quãng chừng vừa ngoài 30, trắng trẻo đẹp trai. Trong lúc đang ngồi chơi uống nước và quan sát nơi ăn chốn ở của vị Linh mục trẻ này, tôi lắc đầu nghĩ thầm: “Ngay cái thời cực thịnh của tôi và các Linh mục miền Nam trước kia, phòng ốc nơi tôi ở cũng không bằng một góc nhỏ của phòng cha Sinh”. Từ trước tôi vẫn có cảm nghĩ là các Linh mục miền Bắc sống nghèo nàn và thiếu thốn. Điều này có thể đúng đối với các Linh mục ở miền quê, nhưng không đúng chút nào với vị Linh mục trẻ giữ chức vụ quan trọng sống giữa Thủ đô Hà Nội này.

Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#7 
sóng trăng 15.01.2007 01:48:37 (permalink)
.
 
Cuốn Phim Quay Chậm

Sau khi thăm cha Sinh, tôi trở lên phòng. Lúc đó tuy đã muộn nhưng tôi chưa thấy buồn ngủ. Một phần vì tâm trạng choáng ngộp trước khung cảnh mới, phần khác trưa nay trước giờ cơm chiều tôi có nằm nghỉ được chút ít.
Trời về đêm nghe vắng lặng, tôi ra hành lang tựa vào lan can nhìn qua bên kia đường. Không biết hôm đó có dịp gì mà có đông người tụ họp trong khuôn viên nhà Văn Hóa, đa số là giới trẻ. Có ban nhạc sống và nhiều đôi ra khoảng sân trống khiêu vũ khi có tiếng nhạc. Lớp trẻ tụ tập khá đông nhưng không ồn ào. Khi nhạc trổi lên, từng cặp bước ra sân khiêu vũ, hết nhạc lại về chỗ ngồi yên chờ bản nhạc khác. Tôi đứng coi mà có cảm tưởng đây là những người máy đang giải trí. Tôi không cảm nhận được “sức sống” trong đám đông khiêu vũ và có cảm tưởng là tay chân họ nhịp bước theo điệu nhạc, nhưng sao chẳng có “hồn”! Tự nhiên tôi cảm thấy thương cho lớp trẻ này. Họ vui chơi nhảy nhót theo mốt thời trang, nhưng tâm hồn như đang mang một nỗi u hoài khó tả.
Quay trở vào phòng, ngồi yên trên ghế một lúc như để xác định hiện tại và nhớ lại giờ này đêm qua diễn ra cảnh chia tay đầy nước mắt trong buồng giam ở trại Nam Hà. Tôi không muốn nghĩ tiếp, nên lấy giấy ngồi viết vài thư ngắn cho chị Hai tôi và những người thân ở miền Nam báo tin tôi được về, nhưng còn ở lại miền Bắc một thời gian. Nhìn đồng hồ trên tường đã gần 10 giờ đêm, tôi tắt đèn và lên giường nằm.
Căn phòng vẫn mờ ánh sáng vàng nhẹ phản chiếu của đèn đường. Thỉnh thoảng cơn gió nhẹ làm cựa mình những nhành cây đang yên giấc. Tôi nhắm nghiền mắt lại và hồi tưởng những năm tháng qua. Đời người như một giấc chiêm bao. Mới đó mà đã mười mấy năm qua đi rồi, mười mấy năm buồn vui lẫn lộn trong kiếp sống của một Linh mục tù nhân. Tôi nhớ lại một buổi chiều nào, tôi từ giã mẹ già gạt nước mắt ra đi, nay má tôi đã chết mười một năm rồi nhưng chưa lần nào tôi được nhìn thấy mộ của má. Nhớ tới đây hai hàng nước mắt tôi chảy dài xuống gối và cổ họng tôi nghẹn cứng lại.
Tôi nhớ lại chuyến xe lô Minh Chánh của một buổi chiều tắt nắng năm xưa trên quãng đường quốc lộ 4, từ Ngã Ba Trung Lương đi Sài Gòn. Chiếc xe đã đưa tôi vào ngã rẽ cuộc đời. Lúc đó, ngồi trên xe trong tâm trạng rối bời, tôi tự nhủ: “Từ đây, mình bước vào một tương lai vô định. Chẳng biết cuộc đời rồi sẽ ra sao. Nhưng nếu định mệnh an bài và mình còn sống, chắc hẳn mình sẽ viết lại vở kịch đường đời mà mình trải qua, và chiếc xe lô Minh Chánh hôm nay sẽ là màn đầu.”

Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#8 
sóng trăng 16.01.2007 02:07:01 (permalink)


 
Chương 1
Bước Ngoặt Cuộc Đời

Từ giã Thạnh, anh bạn Linh mục thân nhất, tôi bước lên chiếc xe lô Minh Chánh tại ngã ba Trung Lương để lên Sài Gòn. Lúc bấy giờ trời đã về chiều.
Chiếc xe hôm đó chật như nêm. Hành khách phần đông là các chị em bạn hàng ngồi chen lẫn với các bao bị, túi cói căng phồng, cố nhét vào chỗ nào đó trong xe mà người ta có thể nhét được. Tôi được xếp ngồi chen vào giữa anh tài xế và một người đàn ông đứng tuổi, vì tôi chẳng có hành lý gì ngoài cái túi đeo vai chỉ nặng chừng hơn ký-lô. Trong vị trí đó, có lẽ tôi là hành khách chiếm ít khoảng trống nhất trên chuyến xe có giá vé đồng hạng này.
Chiếc xe tôi đang đi là loại xe Hoa Kỳ hình dáng rườm rà, to và dài như một con kình ngư bằng sắt. Hai cái đèn trước đầu xe như đôi mắt thật lớn và đuôi là cặp đèn lái rườm rà vểnh lên cao. Không kể băng tài xế, xe còn hai băng ngang phía sau, và một khoảng trống khá rộng dùng để chở hàng hóa và cuối xe là cái bửng cao độ 50 phân chặn ngang. Kiểu xe của thập niên 60 này được tung ra thị trường có lẽ để nhắm vào nhu cầu của các gia đình đông người. Tuy nhiên, khi qua tới Việt Nam xe đã được cải biến lại cho phù hợp để chuyên chở hành khách nên được gọi là xe 'lô', bởi chữ 'location' trong tiếng Pháp.
Loại xe lô này đưa rước khách trên những tuyến đường ngắn, trên dưới trăm cây số, để nhắm vào những người cần đi gấp. Xe chạy rất nhanh so với xe đò bình thường. Mặc dù giá vé đắt hơn xe lớn và trên xe phải chen lấn chật chội, nhưng xe lô rất tiện dụng và đúng giờ nên lúc nào cũng đông khách. Thông thường xe có đủ chỗ cho tám người, kể cả tài xế, nhưng khi biến thành xe lô, có thể “nhét” tới 15 người hoặc hơn nữa. Riêng khoảng trống phía sau, có thể chứa năm sáu người ngồi bệt xuống sàn xe quay mặt tứ phía. Khi cần, cái bửng ở cuối xe cũng được hạ xuống để có thể chở thêm vài ba người ngồi nhìn ngược về phía sau. Nói tóm lại, hễ còn chỗ trống là cứ nhét, càng nhiều người càng tốt, có khi người này ngồi lên đùi người khác cũng không ai lấy thế làm phiền. Có điều hay là, khi xe đã chật ních cả người lẫn hành lý, nhưng hễ có khách đón, xe vẫn ngừng và còn đủ chỗ cho khách mới. Tôi phục tài thu xếp và miệng mồm khéo nói của mấy anh tài xế xe lô. Hầu như anh nào cũng trẻ trung vui tính, lúc nào cũng cười tươi khi xếp chỗ kèm theo câu nói:“Chịu khó ngồi chật chút nghe bà con, sắp tới nơi rồi!” Và lúc nào câu nói ấy cũng có hiệu nghiệm. Đoàn xe lô Minh Chánh hoạt động song song với những hãng xe đò lớn khác trên tuyến đường Sài Gòn - Mỹ Tho, và cách mười phút là có một chuyến rời bến, trong khi xe lớn phải đợi tới nửa giờ hoặc hơn.
Trên quốc lộ 4 nối liền Sài Gòn và các tỉnh miền Tây vào buổi chiều tà này, đường bắt đầu vắng, xe cộ thưa thớt, nên xe tôi chạy rất nhanh. Ngồi yên trên xe một lúc, sự mệt nhọc và chán chường choáng ngộp, như biến tôi thành người mộng du. Tôi lặng nhìn về phía trước, cảnh vật vùn vụt chạy ngược chiều khi chiếc xe cứ ngon trớn nuốt ngắn đoạn đường. Tôi nhìn nhưng dường như chẳng thấy gì và cũng chẳng buồn để ý tới tiếng cười nói ồn ào từ phía sau. Bất thần, tôi có cảm giác lừ đừ như người vừa uống ly rượu mạnh, nên tựa đầu vào thành ghế, xoay người tìm tư thế thoải mái, trong cái hốc nhỏ xíu giữa hai con người. Tôi nhắm mắt và cố gạt những ý tưởng vụn vặt rối bời đang lẩn quẩn trong đầu, nhưng nào có quên được dễ dàng. Quá khứ lại vồ lấy tôi. Những tháng ngày về làm nhiệm vụ Linh mục trong tỉnh Bến Tre chưa được bao lâu, nhưng sao có quá nhiều việc xảy ra, và dường như từ chuyện lớn tới chuyện nhỏ đều góp phần dẫn đưa tôi đến bước đường này.
Câu chuyện giữa anh tài xế và các cô các bà phía sau càng lúc càng náo nhiệt. Họ cười nói huyên thuyên, nhưng tôi chẳng chú ý nghe được chuyện gì ra chuyện gì. Người đàn ông ngồi cạnh tôi phía ngoài có dáng khắc khổ, gương mặt sạm nắng, ra dáng một người nông dân hơn là người làm việc trong bàn giấy. Nhận xét này làm tôi cảm thấy dễ chịu, vì thời buổi bấy giờ tôi rất dè dặt khi phải tiếp xúc với người lạ, nhất là những người nào có vẻ “cán bộ” thì càng phải giữ kẽ nhiều hơn. Người đàn ông này, không có vẻ gì là cán bộ và cũng tỏ ra không hào hứng góp chuyện với anh tài xế và bà con ở phía sau. Tôi ngồi lặng yên, mơ màng nhớ lại những ngày tháng qua...
Gần một năm trước đây, tôi được bổ nhiệm về làm cha sở họ đạo La Mã, thuộc huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre. Vùng này, trước kia có tên là Bàu Dơi, một nơi nghèo nàn, dân cư thưa thớt. Tới đầu thập niên 50, ở đây có xảy ra hiện tượng Đức Mẹ hiện ra, khiến nơi vắng vẻ này được nhiều người biết tới và dần dần trở nên một trung tâm hành hương khá sầm uất, sau đó được nâng lên thành giáo xứ. Theo lời kể lại, một hôm có người đàn bà đi mò cá dưới sông, nhặt được một khung ảnh cỡ lớn nhưng không còn thấy hình ảnh gì. Có lẽ khung ảnh này chìm dưới nước đã lâu. Người có được khung ảnh cũng chẳng biết làm gì với nó, nên đưa về nhà, chèn vào vách lá che mưa che gió.
Một hôm, tình cờ một người có đạo trong vùng tới chơi và thấy khung ảnh, nghĩ trước kia có thể là ảnh thờ phượng nên xin về để trên bàn thờ trong gia đình. Thời đó trong vùng có chiến tranh. Ngày nọ có cuộc hành quân trên sông của binh lính Pháp. Tàu Pháp bắn súng lớn, súng nhỏ, làm hư hại và sập nhiều nhà cửa của dân chúng. Trong cơn lửa đạn, gia đình có khung ảnh lo sợ vội chui xuống dưới bàn thờ nấp và cầu nguyện xin Chúa và Đức Mẹ che chở. Điều rất ngạc nhiên, là sau khi êm tiếng súng, người nhà bò ra và nhìn lên bàn thờ thì thấy khung ảnh mờ đục trước kia đã lộ ra hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp một cách khá tỏ tường! Sự kiện đó được trình cho giáo quyền đến chứng nhận và lập biên bản. Tin lành đồn ra, và càng ngày càng có nhiều người tin tưởng tới kính viếng và cầu nguyện với Đức Mẹ.
Dĩ nhiên giáo quyền không chính thức công nhận, nhưng cũng không ngăn cấm lòng sùng kính của giáo dân. Có rất nhiều người tới đây kính viếng, cầu xin và được ơn. Chứng tích này còn lưu lại trong các bia đá “Tạ Ơn” gắn khá nhiều trong nhà thờ. Vùng Bàu Dơi hẻo lánh trước kia, nay đã trở thành một trung tâm hành hương thu hút nhiều người từ phương xa tới kính viếng. Đường sá được sửa sang và một số dân các nơi khác về đây sinh sống. Tới năm 1953, khách hành hương dâng cúng tiền xây một ngôi nhà thờ, tuy nhỏ nhưng rất khang trang, có cả các dãy nhà cho khách hành hương tạm trú. Nơi này được Giám mục Ngô Đình Thục nâng lên thành họ đạo, tiếng miền Bắc là giáo xứ, lấy tên là họ đạo La Mã để kính nhớ giáo đô Rôma.
Năm 1960 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) ra đời, đã tạo nên một giai đoạn mới trong lịch sử chính trị Miền Nam. Tình trạng an ninh người dân được hưởng những năm đầu của Chánh quyền Ngô Đình Diệm dần dần giảm đi, theo nhịp độ hoạt động và sự lớn mạnh của MTGPMN. Riêng tỉnh Bến Tre, có tên là “Quê Hương Đồng Khởi”, nơi mà MTGPMN hoạt động mạnh mẽ, làm cho tình hình càng ngày càng căng thẳng hơn.
Những năm tiếp theo, cuộc giao tranh Quốc - Cộng càng lúc càng leo thang và bành trướng tới nhiều nơi, đặc biệt trong tỉnh Bến Tre nói chung và tại họ đạo La Mã này nói riêng. Trong tình thế đó, một số đông giáo dân trong họ đạo đã tản cư lánh nạn. Khách hành hương cũng thưa thớt, và họ đạo dần dần trở nên tiêu điều. Vì giáo dân tản cư lánh nạn gần hết, nên năm 1961 cha sở họ La Mã cũng rút đi, chỉ còn mấy Dì phước dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn và một số rất ít giáo dân ở lại trông coi nhà thờ và vườn tược. Từ đó, cha sở họ đạo Cái Bông, cách đó 6 cây số, lên xuống dâng lễ và phụ trách mặt tinh thần cho giáo dân. Ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp mà giáo dân các nơi thường về kính viếng cũng được đưa về nhà thờ Cái Bông cho an toàn hơn. Chiến tranh càng ngày càng leo thang.
Trong thời chiến, Nhà thờ La Mã trở thành nơi trú ẩn và dung thân cho cán bộ cộng-sản trong vùng. Ai cũng biết phía quốc-gia không bắn phá hoặc giội bom các cơ sở tôn giáo, nên các nơi đó là điểm trú ẩn an toàn cho dân chúng và cán bộ khi có cuộc hành quân. Để cho danh chính ngôn thuận, một số cán bộ MTGPMN cỡ lớn trong vùng, đã xin chịu phép Rửa tội và nấp dưới bóng áo dòng của các Linh mục và các Dì phước, để che mắt cơ quan an ninh phía quốc-gia. Nếu không tránh được mà phải bị bắt, thì cũng chính các Linh mục và các Dì phước là những người họ chạy tới trước tiên. Tình trạng này kéo dài trong nhiều năm đã tạo nên sự gắn bó khá mật thiết giữa các Linh mục, các Dì phước với các cán bộ của MTGPMN trong vùng. Cho tới ngày 30 tháng Tư năm 1975, miền Nam rơi vào tay cộng-sản. Lúc bấy giờ, tôi đang phục vụ tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long.
Đối với rất nhiều người, ngày 30 tháng Tư năm 1975 là một cuộc đổi đời. Cá nhân tôi cũng nhận thấy rỏ điều đó. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến tranh bom đạn đã chấm dứt, nên ở khắp nơi, người dân tản cư lánh nạn trong thời kỳ chiến tranh, bắt đầu thu xếp trở về sinh sống nơi quê xưa chốn cũ. Tại họ đạo La Mã cũng vậy, số giáo dân tản cư lánh nạn trong thời kỳ chiến tranh nay cũng lần lượt quay về. Trong một thời gian ngắn, số giáo dân trở nên càng lúc càng đông, nên có nhu cầu cần một Linh mục phụ trách. Tôi được đức Giám mục Nguyễn Văn Mầu, Giám mục Vĩnh Long chỉ định vào nhiệm vụ cha sở họ đạo này.
Lúc bấy giờ, tình thế đã hoàn toàn thay đổi. Những cán bộ cộng sản nằm vùng đã từng núp bóng các Linh mục và các Dì phước trước đây, bây giờ là những kẻ chiến thắng và một vài người trong số đó đang nắm quyền ở địa phương này. Lúc tôi tới, họ đạo còn có hai Dì phước thuộc dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn, và một Ban quí chức, tiếng miền Bắc gọi là Hội đồng Giáo xứ, mà đa số trong đó là những cán bộ hoặc gia đình cán bộ. Tôi là người từ tỉnh khác mới đổi về và là một gương mặt mới, hoàn toàn xa lạ với tất cả mọi người trong giáo xứ và trong vùng. Mặc dù cố gắng tối đa để sống hòa đồng với mọi người, nhưng dần dần tôi cũng trở thành người bị nghi kỵ và bị chú ý theo dõi, ngay cả trong số những người gần gũi nhất với tôi trong họ đạo.
Đàng khác, trong cương vị một cha sở, tôi không thể im lặng trước một thứ tà thuyết vô thần và thái độ chống báng tôn giáo một cách quá trắng trợn của một số người trong chánh quyền địa phương. Tôi cũng không thể làm ngơ trước sự can thiệp vào nội bộ tôn giáo và áp bức tôn giáo một cách ngang ngược của hạng người đang bị lên cơn sốt thời cuộc. Họ đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ và uất ức cho những người thất thế vì thời cuộc đổi thay. Những kinh nghiệm đau lòng của buổi giao thời này tôi không bao giờ quên. Trong bối cảnh đó, tôi có gặp khó khăn và áp lực từ nhiều phía và nhiều người cũng không phải là chuyện khó hiểu.
 
 
Vùng bóng đen
 
Lúc bấy giờ vì thời cuộc đổi thay và cuộc sống có nhiều áp lực từ mọi phía nên tôi rất buồn phiền. Trong vai trò một cha sở, một mặt tôi lo chỉnh đốn lại đời sống của họ đạo sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá, mặt khác tôi phải thường xuyên đương đầu với những vấn đề do một chính quyền vô thần luôn chống báng và tìm hết mọi cách để triệt hạ tôn giáo gây nên. Trong tình thế đó, tôi đã cố sống nhẫn nhục chờ cho cơn sốt thời cuộc qua đi, để tôi có thể sống yên thân để phục vụ dân chúng trong vùng nói chung, và cách riêng là giáo dân trong họ đạo thuộc về trách nhiệm của tôi.
Trong cuộc sống bình dị của một Linh mục trong xứ đạo nhà quê,  thực ra chẳng bận rộn gì nhiều. Hàng ngày tôi làm lễ vào buổi chiều, vì sáng ngày dân chúng còn bận đi làm ruộng hay làm cá. Tôi dành phần lớn thời giờ trong ngày đi thăm viếng giáo dân và bà con trong vùng nói chung, không phân biệt tôn giáo. Tôi không thể tổ chức các lớp học giáo lý, vì nhà nước cấm, nhưng dạy giáo lý dưới hình thức những lần tập trung trẻ con và thanh niên tới giúp “tăng gia sản xuất”, bằng việc trồng rau, trồng khoai mì, trồng mía... chung quanh nhà thờ. Ngoài các việc bổn phận trong họ đạo, lúc rảnh rỗi tôi tìm cách giải sầu bằng hai cách: câu cá và học đàn Vọng Cổ.
Tôi mê câu cá ngay từ nhỏ, bởi tôi được sinh ra và lớn lên ở ruộng đồng có nhiều sông rạch và tôm cá ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cái “máu” câu cá nó đã nằm sẳn trong huyết quản tôi từ những năm còn thơ ấu, còn chạy nhảy tung tăng ở ruộng đồng nhà quê. Sau này khi lớn lên rồi cũng vậy. Ngay cả sau khi đã làm Linh mục rồi, mỗi khi có dịp cầm cần câu trong tay ngồi bên bờ sông là tôi quên hết sự đời. Nếu được ngồi trên chiếc thuyền đang thả neo giữa dòng sông rộng mênh mông mà câu cá thì không còn gì thú vị hơn.
Vùng La Mã nơi tôi ở lúc đó là vùng nước lợ, còn gọi là nước "pha chè”, không mặn mà cũng không ngọt hẳn, vì là nhánh sông sát gần ngay biển. Khúc sông này có rất nhiều tôm cá, nhất là cá ngát là loại cá không vảy và có ba gai, hai cái ở hai bên mang và một ở giữa lưng. Nếu ai vô ý bị cá ngát đâm phải thì chỉ còn nước ngồi đó mà kêu trời. Có lần chính tôi là một nạn nhân bị gai cá ngát đâm vào ngón tay, nọc độc trong gai cá hành tôi đau nhức không chịu thấu và lên cơn sốt suốt một ngày. Cánh tay bị cá đâm sưng to lên gần bằng bắp đùi! Mặc dù vậy, khi cánh tay vừa hết sưng là tôi lại xuống sông câu cá. Có những lần câu được rất nhiều cá tôi phải mang tới cho giáo dân và bà con trong vùng. Nói chung, câu cá là thú giải trí thanh tao và vô thưởng vô phạt, dù vậy có lần tôi suýt bị rắc rối to vì câu cá.
Một hôm tôi đang ngồi trên chiếc tam bản, tiếng miền Bắc gọi là thuyền, thả neo dưới bến nhà thờ để câu cá. Bổng từ xa có một người lạ mặt, đội mũ tai bèo khăn rằn quấn cổ, chèo chiếc xuồng nhỏ hướng về phía tôi. Cách ăn mặc “mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ” là cái mốt thời thượng lúc bấy giờ. Nhìn thấy hình ảnh đó thôi, cũng đủ cho tôi biết, hoặc đoán biết người đó là ai, và trong lòng tôi bắt đầu nghi ngại. Tới nơi anh ta cập ghe vào hỏi tôi:
- Anh là ai và ngồi làm gì ở đây?
Tôi lấy làm lạ vì câu hỏi đó, nhưng cũng trả lời:
- Tôi là cha sở nhà thờ La Mã, tôi đang câu cá.
Người lạ mặt hỏi tiếp, giọng thắc mắc:
- Anh câu cá, mà cần câu anh đâu?
Tôi ngạc nhiên quá, hay anh này muốn giỡn chơi. Nhưng cách anh ta nói rất nghiêm túc, vả lại anh này là người tôi mới gặp lần đầu thì làm gì có chuyện đùa giỡn. Tôi trả lời :
- Anh hỏi gì vậy, thì tôi đang cầm cần câu đây anh không thấy à?
Người lạ mặt lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn trừng trừng vào cần câu máy tôi đang cầm trong tay, anh chỉ cần câu và hỏi:
-Cái loại máy có cần ăn-ten và ''dây trời'' này, có kêu được máy bay B52 không?
Tôi ném cần câu lên thuyền ngạc nhiên kêu lên:
- Anh nói cái gì? Cái gì mà có... B52 trong này?
Anh ta đứng lặng thinh tỏ vẻ nghi ngờ, làm tôi biết ngay là anh ta chưa bao giờ có dịp trông thấy cái mà người ta gọi là “cần câu máy”.  Gọi là “câu máy” nhưng thực ra nó chỉ là cái trục, để quấn dây cước vào và thả dây cước ra bên trong những cái khoen bằng sắt chạy dài theo cần câu khá dài, bằng chất nhựa dẻo, để thả xuống sông câu cá. Biết như vậy tôi vội quay nhanh dây cước lên, chỉ cho anh thấy ở cuối đầu dây có cục chì và lưỡi câu, móc vào lưng con tôm đang quơ râu quơ càng dùng làm mồi câu cá ngát! Chừng đó anh mới tin là cái mà tôi đang cầm trong tay không phải là cây ăn-ten của một loại máy truyền tin hiện đại với “dây trời” có thể gọi... B52! Cũng may là anh hỏi trực tiếp tôi, nếu anh âm thầm báo cáo loại... máy này lên cấp trên và nói tôi có dụng cụ gọi pháo dài bay B52 chắc là đời tôi đã khốn nạn sớm hơn rồi!
Thú giải trí thứ hai của tôi là học đàn Vọng Cổ. Lúc đó ở gần nhà thờ có một thanh niên ngoại giáo mù mắt tên là Tám Chánh. Tuy không có đạo nhưng anh hay tới nhà thờ chơi. Anh Tám Chánh có biệt tài đàn Vọng Cổ rất hay và anh dạy cho nhiều người, nhưng chỉ dạy văn nghệ thôi chứ không lấy tiền. Tôi thường mời anh tới nhà xứ chơi để đàn hát và  dạy tôi đánh đàn cổ nhạc, lâu ngày rồi hai người thân nhau. Tám Chánh rất vui tánh, thích tìm hiểu và hỏi tôi về nhiều chuyện, từ chính trị, tôn giáo, xã hội. Tôi rất thương người bạn chẳng may bị mù lòa này. Tôi nghe kể lại, lúc còn nhỏ cho tới lúc 3 tuổi, anh Tám Chánh là đứa trẻ bình thường như bao nhiêu trẻ con khác cho tới lúc anh bị đau mắt. Lúc đó sự hiểu biết về y học của dân chúng trong vùng này còn thô sơ. Không hiểu tại sao có người bày với gia đình anh lấy cựa gà trống mài ra hoà với nước và nhỏ vào mắt sẽ khỏi bệnh. Không ngờ sau khi nhỏ vào mắt, chẳng những không khỏi bệnh mà chất nước ấy còn làm nổ tung cả hai tròng con mắt của anh. Bây giờ trên mặt anh chỉ còn lại hai cái hố sâu hoắm, thay vì hai tròng con mắt, và mí mắt anh lúc nào cũng nháy liên hồi. Nghe qua chuyện đó tôi càng thương anh nhiều hơn.
Nhớ có lần anh hỏi một câu làm tôi quá cảm động. Lúc đó tôi có nuôi một con chó Bắc Kinh nhỏ, tên là chó His. Lần nào tới chơi anh Tám Chánh cũng ôm nựng chó His vì nó rất hiền và dễ thương, có lần vừa vuốt lưng no, anh hỏi tôi:
- Chó His màu gì hả cha?
Tôi đáp:
- Màu trắng có đốm  màu vàng.
Anh suy nghĩ một lúc hỏi tiếp
- Màu vàng là thế nào hả cha?
Bỗng nhiên tôi tấy tắt nghẹn ở cổ khi thương cho hoàn cảnh người bạn tật nguyền không thấy được màu sắc là vẽ đẹp của cuộc đời. Thấy tôi yên lặng anh hỏi tiếp.
- Cha, nói cho con nghe đi, màu vàng ra sao hả cha?
Tôi cố trả lời tiếng được tiếng mất.
- Tôi không giải thích được anh Tám ạ!
Vừa nói tôi vừa chớp nhanh mí mắt.
Tình bạn chúng tôi càng ngày càng sâu đậm và anh Chánh tận tình chỉ dạy tôi các “ngón” đàn, tức là kỹ thuật chơi đàn Vọng Cổ. Có lần trong một buổi tật dượt, tôi hỏi anh:
-Anh Tám này, sao tiếng đàn của anh nghe não nề, hay quá là hay, còn tôi đánh đàn như cứ nghe rầm rầm như tiếng vỗ thùng thiếc, tập hoài hổng được?
Anh Tám trả lời một câu làm tôi nín lặng:
- Muốn có tiếng đàn như con, cha phải móc hai mắt của cha liệng đi.
Thì ra người bạn mù của tôi đã gửi hết tâm tư u buồn của kiếp người bất hạnh vào tiếng đàn của mình. Anh có sáng tác ra 6 câu Vọng Cổ, có tên là “Chuyện đời tôi”, diển tả tâm trạng u buồn trong kiếp sống lặng lẽ âm thầm của anh. Mỗi lần ngồi nghe anh vừa đàn vừa hát bản Vọng Cổ đó, tôi xúc động vô cùng.
 
Nhưng anh chỉ ca bản đó ở chỗ riêng tư và không bao giờ ca khi có đông người, cho dù yêu cầu cách mấy anh cũng không nhận lời.
Có những lần tôi tới nhà thăm anh, trong lúc mọi người đi vắng, anh Tám Chánh ngồi đánh đàn một mình các say sưa không biết có tôi đứng bên. Lúc đó tôi bất giác nói một mình: "Anh Tám nói đúng, người có đôi mắt sáng không thể nào có được tiếng đàn này!”
Tôi rất thích thể điệu âm nhạc Vọng Cổ, và sau này tôi cũng biết đa số các người miền Nam cũng đều thích như tôi. Nhất là khi anh Tám Chánh đã dạy tôi đánh đàn vọng cổ và chơi được chút ít thì càng say mê hơn.  Nhớ lại thời gian đó có đôi ba lần tôi cũng phải đi đào đất làm thủy lợi chung với bà con trong vùng. Vì đi đào thủy lợi khá xa trong mấy ngày liền nên chúng tôi mang theo gạo để nấu cơm. Ban ngày đào đất, chiều lại, tôi và một số thanh niên tập trung tại sân nhà một người dân nào đó trong vùng để nấu ăn và sau đó ngồi quây quần nhau đàn hát cổ nhạc trước lúc đi ngủ. Nếu đêm đó có trăng nữa thì càng nên thơ! Khổ nỗi, tôi thích Vọng Cổ mà lại không biết hát, mặc dù vậy nghe những người hát Vọng Cổ thật mùi có chỗ làm tôi rưng rưng nước mắt. Có mấy người chọc tôi là “mít ướt”, nghĩa là dễ khóc, nhưng không hiểu sao khi nghe một vài bài Vọng Cổ thương tâm tôi không cầm lòng được.
Lúc tôi mới về họ đạo La Mã, là lúc mà cơn sốt thời cuộc lên cao ngất từng mây. Có những con người bị sơn sốt thời cuộc hành căng quá không chịu nổi, họ phải làm hết mọi cách để chứng tỏ mình là người "cách mạng”. Thậm chí có kẻ tìm cách triệt hạ người khác, mà họ cho là “không cách mạng”, để chứng tỏ mình là người “cách mạng”.  Có lần, tôi đi xe gắn máy từ Bến Tre về họ đạo, khi gần tới nhà bị mấy anh du kích “cách mạng”chặn lại trên đường. Một anh mặt mày đen đúa, mang súng AK, đội mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ, bước tới giật lấy cái mũ lưỡi trai tôi đang đội ném xuống đất, giận dữ quát:
- Tới lúc này mà anh còn đội kết của thằng Kỳ à?
Tôi chẳng hiểu anh ta muốn nói gì, nên hỏi lại:
- Anh nói gì tôi không hiểu, đây là kết của tôi mua chứ của thằng Kỳ nào?
Anh du kích bực mình, chỉ vào mặt tôi đe dọa:
- Đây là loại kết đồi trụy của thằng Nguyễn Cao Kỳ nó đội anh hiểu chưa? Bộ anh muốn bắt chước thằng Kỳ hả?
Tôi chợt hiểu ra vì ông Nguyễn Cao Kỳ có lần đội kết đen giống như vậy, nên cái loại kết đó đương nhiên trở thành đồi trụy! Tôi chẳng hỏi thêm gì, chỉ đứng yên một cách ngán ngẩm và chịu trận cho anh du kích mắng nhiếc một hồi và cho tôi đi. Lúc nổ máy xe chạy đi rồi, tôi mới mỉm cười nghĩ thầm là mất cái kết đen, tôi vẫn còn may mắn. Nếu anh “cách mạng” lúc nãy nói cái quần tôi đang mặc là quần của...‘‘thằng Kỳ”, chắc là hôm đó tôi  gặp chuyện ngượng ngùng chết người! 
        Nhưng sự đời, hể cái gì lên quá cao rồi cũng có lúc cũng phải xẹp xuống. Cơn sốt thời cuộc trong vùng La Mã này cũng theo quy luật đó. Sau đó không lâu, trong xã phát động đợt học tập “đóng nghĩa vụ”, và tất cả mọi người ai có vườn có ruộng đều phải tới học tập. Họ đạo cũng có mấy công đất vườn trồng dừa, nên tôi cũng phải có mặt. Điều tôi ghi nhận rất rỏ là cơn sốt thời cuộc đã làm cho nhiều người trở thành điên lọan mấy tháng trước đây đột nhiên trở thành cơn giá băng sau đợt học tập đóng nghĩa vụ này.
      Đợt học tập để bắt người dân đóng thuế, nhưng được gọi cái tên đẹp là “đóng nghĩa vụ’’ này, được tổ chức ngay trong một lớp của trường học họ đạo của tôi. Có mấy cán bộ cấp tỉnh xuống giúp cho chánh quyền địa phương, dạy cho người dân biết cách đóng “nghĩa vụ” thế nào cho nó tốt.
     Sau đợt học tập, với nhiều bài thuyết giảng tràng giang đại hải, mỗi gia đình có ruộng có vườn được “cách mạng” ban chỉ tiêu đóng thuế cắt cổ. Một chỉ tiêu đóng thuế nặng chưa từng thấy. Ngay cả trong chế độ mà người ta gọi là “Mỹ Ngụy” cũng chưa bao giờ bà con trong vùng này phải đóng thuế vườn thuế ruộng với chỉ tiêu cắt cổ như thế.
     Cơn sốt thời cuộc trong vùng tôi, ngày hôm đó, vụt xẹp đi như bánh xe bơm cứng, bị cán phải đinh. Nhiều gia đình cách mạng quá phẫn uất, chửi rủa tùm lum vì cái chỉ tiêu “đóng nghĩa vụ” chóng mặt vừa mới được cách mạng ưu ái ban cho. Có mấy bà “mẹ chiến sĩ ” đã lớn tuổi, miệng nhai trầu bõm bẽm, ăn nói rất bạo mồm bạo miệng. Vì bực quá chịu không nỗi nên chửi thẳng, theo cái kiểu người ta thường ví:“trâu già không sợ dao phay”. Có bà phùng mang, trợn má đứng chửi giữa đám đông ai nghe thì nghe:“Đéo mẹ chúng bây! Nếu tao biết nông nỗi này thì  ngày trước tao đấm đách có thèm mà chứa chấp tụi bây trong nhà tao.”! Sau đó tôi biết, bà con bực thì chửi cho hả hơi còn “nghĩa vụ” thì vẫn phải đóng đủ. Vì đóng thuế không đủ “cách mạng” sẽ có biện pháp khác, và không ai muốn rơi vào biện pháp đó, cho dù là những “gia đình cách mạng”, hoặc những người vẫn nghĩ là mình có công với cách mạng!
Tình trạng giữa tôi và chánh quyền địa phương càng ngày càng trở nên căng thẳng. Do đó, tôi biết sự có mặt của tôi lúc bấy giờ là một chướng ngại và là cái gai trong con mắt của nhiều người, ngay cả những người có mặt trong họ đạo trước tôi. Sau gần một năm, tôi cảm thấy không thể sống và làm việc hữu hiệu tại giáo xứ.  Hơn nữa, má tôi đang đau ốm nặng, nên tôi trình bày hoàn cảnh với Giám mục và được chấp thuận cho tôi được ra khỏi họ đạo. Tôi được lệnh bàn giao họ đạo lại cho cha Quang, cha sở họ đạo Cái Bông để về nhà quê lo lắng cho mẹ già. Cha Quang đã từng phụ trách họ đạo này trước khi cộng sản chiếm miền Nam, cha Quang là anh của cha Thạnh, người bạn Linh mục thân nhất của tôi, lúc bấy giờ đang làm cha sở họ đạo Quới Sơn cũng thuộc tỉnh Bến Tre.
Thạnh và tôi cùng tuổi. Chúng tôi chơi thân ngay từ những năm còn học ở Tiểu Chủng-viện Vĩnh Long. Năm 1963 chúng tôi lên Sài Gòn và học chung lớp trong bảy năm tại Đại Chủng viện Thánh Giuse, số 6 đường Cường Để. Đại Chủng viện Thánh Giuse là chủng viện miền, đào tạo linh mục cho 7 địa phận miền Nam, vì lúc bấy giờ các địa phận, tiếng miền Bắc là giáo phận, chưa có Đại Chủng-viện riêng. Sau khi mãn khóa, Thạnh và tôi cùng được thụ phong Linh mục vào năm 1970, và cả hai về làm việc tại địa phận Vĩnh Long vì chúng tôi thuộc về địa phận này.
Về địa dư, địa phận Vĩnh Long bao gồm bốn tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và Sa Đéc với khoảng trên dưới 150.000 giáo dân. Thạnh được bổ nhiệm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long, còn tôi làm phó xứ Sa Đéc, cách nhau độ 20 cây số. Thỉnh thoảng chúng tôi tới lui thăm nhau và tình bạn càng thêm thắm thiết. Tuy là đôi bạn thân, nhưng cuộc đời của Thạnh và tôi rất khác biệt nhau. Thạnh có cuộc sống trầm lặng, tánh tình hòa dịu và vóc dáng ốm yếu. Tuy thế cuộc đời ưu đãi anh về nhiều phương diện. Sau hai năm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa, Thạnh được bổ nhiệm làm cha sở họ đạo Quới Sơn, gần cầu bắc Rạch Miễu, trong tỉnh Bến Tre vào đầu năm 1973. Khi cộng-sản chiếm miền Nam, Thạnh vẫn đang ở đó. Tôi nghĩ là Thạnh sẽ còn ở Quới Sơn lâu dài, vì từ ngày chiếm được miền Nam, nhà nước cộng-sản đã trắng trợn can thiệp vào nội bộ các tôn giáo, không cho các Giám mục được quyền thuyên chuyển các Linh mục. Muốn đổi một Linh mục nào phải có sự đồng ý của chánh quyền, nói chung là ai đang ở đâu cứ ở đó.
Phần tôi khác hẳn với Thạnh, cuộc sống tôi đầy thăng trầm và nhiều biến động. Đúng là số kiếp của mỗi con người. Dù ai không muốn tin cũng phải tin rằng ở trên đời mỗi người đều có một cái số mà văn hào Nguyễn Du đã nói lên từ lâu:
“Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.”
Điều thật trớ trêu, sau khi bàn giao họ đạo cha cha Quang xong, chánh quyền sở tại, xã Hiệp Hưng, lại không cấp cho tôi giấy đi đường. Họ không cho tôi rời khỏi xã, lấy lý do là sau khi bầu cử Quốc Hội khóa 6, là Quốc Hội chung cho cả nước, có lệnh không cho ai rời khỏi địa điểm cư trú. Tôi hiểu ngay việc gì sẽ xảy ra cho tôi sau lời giải thích này và tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Hôm sau, tôi trở lại Ủy ban Nhân dân xã Hiệp Hưng để xin giấy đi đường một lần nữa để về quê thăm má tôi đang đau nặng. Qua thái độ cứng rắn quyết liệt của tôi, họ đã buộc lòng phải cấp cho tôi giấp phép đi đường chỉ có hiệu lực trong 3 ngày.
Quê tôi ở tỉnh Vĩnh Long, cách Bến Tre hơn trăm cây số và phải qua 2 lần bắc, tiếng miền Bắc gọi là phà, bắc Rạch Miễu nối liền hai tỉnh Bến Tre - Mỹ Tho và bắc Mỹ Thuận trên đường từ Sài Gòn xuống các tỉnh miền Tây.
 
 
Vùng kỷ niệm
 
Ngày tôi rời giáo xứ ra đi, sau khi từ giả mọi người, ngồi trên xe gắn máy trên con đường từ họ đạo La Mã lên tỉnh Bến Tre trong ánh nắng ban mai, lòng tôi buồn vô hạn. Lúc đó tôi tự hỏi không biết mình có còn có dịp trở lại con đường này nữa hay không. Mặc dù trước kia vùng này xa lạ đối với tôi nhưng trong gần một năm qua kể từ khi về làm cha sở họ La Mã, tôi đã đi lại nhiều lần trên con đường đá sỏi loang lổ này để về thăm quê hay ghé qua thăm Thạnh, và con đường đã trở nên quen thuộc lúc nào tôi cũng chẳng hay. Chừng từ giã ra đi mới thấy thương thấy nhớ.
Khi còn cách tỉnh chừng 6 cây số tôi phải đưa xe xuống chiếc xuồng máy chở qua sông Chẹt Sậy là một nhánh sông khá lớn nước chảy mạnh như thác vì chỗ này gần sông cái. Trước đây có cây cầu sắt bắt ngang qua sông, nhưng trong thời chiến tranh, những cây cầu được bắt ngang sông này ít khi nào thọ quá vài năm. Vừa bắt cầu lên đã bị Việt cộng phá hoại hoặc giật mìn cho sập đi. Có khi cầu bắt chưa xong cũng đã bị giật sập. Đây là cây cầu nằm trên con đường huyết mạch nối liền tỉnh Bến Tre và các quận Giồng Trôm, Ba Tri, Mõ Cày và Thạnh Phú nằm  phía sát bờ biển. Vì thế một bên cố gắng xây dựng trong lúc bên kia ra sức phá hoại thì không có gì là khó hiểu. Phía Quốc Gia cố gắng giữ cách gì cũng không lại. Việt cộng phá hoại cầu bằng nhiều cách khác nhau, có những cách rất tinh vi ngoạn mục như trong lần họ phá cây cầu này không lâu trước ngày mất miền Nam.
Tôi nghe kể lại, vì phía Quốc gia biết là cây cầu huyết mạch này trước sau gì rồi cũng sẽ bị giật sập nên vào những năm sau này đã tăng cường thêm lính canh gác bảo vệ cây cầu chiến lược này rất cẩn mật ngày đêm. Có cả biện pháp đề phòng người nhái lén đặt mìn dưới mặt nước và cả cách ngăn chặn thả mìn trôi theo các dề lục bình, bằng cách đóng hàng rào cản chung quanh chân cầu sắt. Nhờ có hàng rào cản này nên không một ghe thuyền, hoặc người nhái hay dề lục bình nào có thể đụng chạm được chân cầu. Nhờ đó một thời gian khá lâu cây cầu này được yên thân và dân chúng trong vùng đi lại thuận tiện thoải mái.
 
Nhưng ở đời hễ vỏ quít dày thì có móng tay nhọn.
Những đầu óc linh hoạt của người cộng sản đã nghĩ ra kế sách phá cầu ngoạn mục làm phía Quốc gia bó tay, có thấy trước cũng không làm cách gì chặn được chỉ còn nước ngồi đó mà kêu trời. Số là vùng Bến Tre có rất nhiều dừa và khi nước ròng thì sông Chẹt Sậy chảy vun vút như thác đổ ra sông cái. Những kẻ phá hoại lợi dụng điều kiện đo và khai dụng sức mạnh của nước. Trước tiên họ đốn thật nhiều cây dừa to và dài, kết thành bè và cất giấu một nơi trong các vùng họ kiểm soát. Chờ đúng con nước ròng chảy xiết họ cắt dây neo bè. Một chiếc bè dừa khổng lồ đến hàng trăm cây bó lại xuôi dòng nước vùn vụt lao xuống càng lúc càng nhanh. Khi những người lính canh trông thấy cái bè dừa khổng lồ lù lù hiện ra vội la hoảng lên báo động. Nhưng lúc bấy giờ chỉ có trời mới có thể cứu được số phận của cây cầu đáng thương bằng thép lạnh đang đứng gồng mình chờ chết.
Tất cả lính canh nghe báo động túa ra xả súng lớn súng nhỏ bắn vào chiếc bè dừa. Nhưng chỉ bắn cho sướng tay vì lâu ngày không có dịp bắn, còn chiếc bè dừa khổng lồ vẫn cứ làm công việc của nó là đang âm thầm tiến tới mục tiêu với tốc độ khủng khiếp của... bè dừa! Khi chiếc bè dừa chạm hàng rào cản chung quanh chân cầu, phát ra một âm thanh êm dịu kéo dài giống như tiếng người ta bóp vụn mảnh bánh đa vừa nướng xong trong lòng bàn tay. Sau đó chiếc bè dừa cõng theo trên lưng, một phần thân thể của người bạn bằng thép dài ngoằn, lặng lờ tiến ra vùng nước mênh mông của dòng Cửu Long muôn đời vẫn chảy! Chiếc cầu sắt vô tri vô giác từ đó đã yên phận, có khổ chăng là cuộc sống của người dân trong vùng, trong đó có tôi.
 
 
Chuyến đò ngang
 
Ra khỏi tỉnh Bến Tre tôi theo con đường ra bến bắc Rạch Miễu(tiếng miền Bắc gọi là “phà”), cách tỉnh lỵ chừng 10 cây số và vùng này có tên là Cầu Bắc. Khi dẫn xe gắn máy theo đoàn người lầm lũi bước lên bắc để qua tỉnh Mỷ Tho, cảm giác chia ly lại dâng lên trong lòng tôi mãnh liệt hơn. Bắc Rạch Miễu này tôi đã đi qua lại nhiều lần và ghi nhận khá nhiều hình ảnh khó quên. Nhớ lại lần đầu tiên tôi được qua bắc này khi còn nhỏ, tôi không nhớ năm nào, lúc đó họ đạo Mai Phốp có tổ chức cuộc hành hương kính viếng Đức Mẹ La Mã. Lần đó tôi theo chị tôi và một số đông giáo dân họ đạo nhà quê đi hành hương, tới một nơi mà không ngờ là sau này tôi về đó làm cha sở. 
Lần đó đoàn xe chúng tôi qua bắc Rạch Miễu lúc trời vừa sáng. Tôi không nhớ được gì nhiều vì tôi còn quá nhỏ, ngoại trừ hình ảnh mấy chiếc tàu chìm cách đó không xa. Có chiếc giơ ống khói, có chiếc giơ những chiếc cột lên cao khỏi mặt nước. Tôi chưa bao giờ được thấy qua chiếc tàu chìm, nên hình ảnh đó ghi thật đậm nét trong trí nhớ của tôi cho tới mãi về sau này. Lúc đó người lớn nói cho tôi biết là tàu Pháp bị Nhật bỏ bom chìm. Tôi nghe để mà nghe, nhưng tôi chẳng hề biết Pháp, Nhật là ai và tại sao họ lại bỏ bom nhau. Cho tới năm 1961, lúc đã 18 tuổi, tôi qua Mỹ Tho học trường Rạng Đông một thời gian. Chiều chiều tôi hay thả bộ ra bến tàu không xa bến bắc Mỹ Tho bao nhiêu, coi người ta câu cá và nhìn lại những chiếc tàu chìm vẫn còn nằm yên đưa ống khói lên trời đang thi gan cùng tuế nguyệt. Mỗi lần nhìn thấy hình ảnh này tôi lại nhớ chuyến bắc năm xưa đã đưa thằng bé nhà quê là chính tôi qua con sông  này, để đi hành hương kính Đức Mẹ La Mã.
Sau này lớn lên khi tôi trở lại vùng này với ý thức đầy đủ và nhìn sự việc ra sự việc, tôi ghi nhận thêm nhiều hình ảnh mới lạ về cái bắc Rạch Miễu này. Trước tiên, chiếc bắc đưa xe qua sông bây giờ là loại lớn và chạy nhanh hơn, có hai tầng, có ghế băng ngồi hẳn hoi, sạch sẽ và khang trang. Hình ảnh mới lạ thứ hai là cảnh người ta buôn bán rất nhộn nhịp, có người bán cà rem, trái cây, bánh mì dồn thịt, thức ăn đủ loại. Lại có nhiều nhiều người ăn xin hoạt động ráo riết kêu gọi sự hảo tâm của hành khách.
Phần nhiều những người ăn xin là những người mù, một ít người có tật chân hoặc cụt tay, cụt chân mà tôi đoán họ là những thương phế binh. Có người đi phải có đứa bé dẫn đường, nhưng cũng có người đi một mình. Phần nhiều họ ôm đàn và hát đủ loại nhạc, nhưng phần đông họ hát Vọng Cổ là thể loại âm nhạc phổ biến và dễ đi vào tâm hồn người dân miền Nam, nhất là những người ở vùng quê như tôi. Có người còn trang bị cả loại máy khuếch đại âm thanh loại cầm tay để cho tiếng hát vang xa và hay hơn. Hoạt động của họ tạo nên cảnh sinh hoạt tưng bừng náo nhiệt lúc chiếc bắc đang chạy ngang sông.
Vì có dịp qua lại nhiều nên tôi đã quen thuộc với cảnh này và nhất là tôi biết mặt hầu hết những người ăn xin và lần nào tôi cũng chuẩn bị một số tiền lẻ để giúp cho những người bất hạnh đó. Tuy số tiền không nhiều nhưng tôi vẫn cảm thấy thiếu sót mỗi khi có người tới xin mà tôi không có chút gì đặt vào tay họ. Mặc dù vậy tôi vẫn chú ý tới một người đàn ông mù mắt trạc ngoài 30 tuổi, có lẽ anh bị mù sau khi bị đậu mùa vì mặt anh có nhiều vết sẹo của chứng bệnh quái ác này.
Anh có lối ca Vọng Cổ rất hay và truyền cảm qua một máy khuếch đại âm thanh rất cũ kỹ nhưng tiếng kêu còn tốt.  Có một em bé gái độ chừng 9 hoặc10 tuổi, hay lớn hơn một chút đi trước cột sợi dây ngang người rồi cột vào thắt lưng cho anh đi theo vì lúc nào hai tay anh cũng bận đánh đàn ghi-ta. Cô bé này lúc nào cũng lạnh lùng và câm lặng như người bằng sáp, cứ lững thững bước đi dẫn người đàn ông theo sau, không bao giờ thấy em biểu lộ một nét gì khác biệt dù vui hay buồn trên khuôn mặt lọ lem mà tôi nghĩ là em cố ý để như vậy.
Tôi không biết em bé đó là gì của người đàn ông, nhưng cách cô bé lúc nào cũng thản nhiên và gương mặt không lúc nào bày tỏ cảm xúc đó tôi nghĩ chắc em đã chịu đựng cuộc sống bất hạnh này lâu ngày rồi nên trở thành chai lì. Nghĩ như vậy tôi càng thương em bé này nhiều hơn. Và dĩ nhiên lần nào tôi cũng dành một số tiền lẻ khá hơn cho người hành khất và em bé này. Ngoài sự thương cảm của tôi về hoàn cảnh hai người, tôi còn rất thích các bài ca Vọng Cổ của anh nữa. Có mấy lần đang nghe anh hát dở dang một bản Vọng Cổ thấm thía mà đã tới nơi, làm tôi tiếc rẻ và cảm thấy sao hôm nay chiếc bắc này chạy quá nhanh.
Lúc đó khung cảnh trên bắc rất ồn ào. Hình như hôm nay khách đi đường nhiều hơn mọi ngày, đa số là những người đàn bà tay xách túi cói căng phồng và nặng trĩu. Chung quanh tôi người ta cười nói huyên thuyên. Tiếng những người rao bán hàng rong nghe lanh lảnh, tiếng những người ăn xin ca hát có đệm nhạc điếc tai, cùng với tiếng máy của chiếc bắc đang chạy. Tất cả các loại âm thanh đó trộn lẫn vào nhau làm thành một bản hợp tấu quá ồn ào lấn át tiếng hát trong máy khuếch âm của người hành khất mù và em bé gái đang tiến dần tới chỗ tôi đang ngồi.
Nãy giờ, tôi chỉ mong anh tới, một phần vì tôi đã quen gặp anh trên bắc này, phần khác, hôm nay tâm trạng tôi quá buồn và muốn được thưởng thức một điệu Vọng Cổ của anh với làn hơi mà tôi rất mến chuộng. Tôi thủ sẵn số tiền lẻ nhiều gấp đôi cho anh vì tôi muốn giúp anh một lần cuối, không biết tôi còn có dịp quay lại trên chiếc bắc với người hành khất với em bé gái dẩn đường quen thuộc nầy nữa hay không.
Chợt tôi nghe từ xa vọng lại một giọng hát gì rất lạ và chói tai, không phải là những bài Vọng Cổ truyền cảm tôi vẫn nghe anh hát trước giờ. Tôi ngạc nhiên, lắng tai nghe và thất kinh khi nghe một giọng oang oang từ chiếc máy khuếch âm mở to hết cỡ của anh, một câu hát Vọng Cổ làm tôi sửng sốt: “Có phải cuộc chiến tranh... ơơ này, là do bọn Mỹ... ơ ngụy... ơ gây ra... ơờ ơ ờ ơ...”.  Tôi đột nhiên nổi giận khi nghe câu Vọng Cổ sặc mùi chính trị đó. Tôi thả tay ra bỏ lại hết số tiền vào túi, đứng bật dậy như một cái máy, vội bước ra xa để khỏi phải nghe thêm những gì mà người nghệ sĩ mù tiếp tục gân cổ lên gào thét. Vừa bước đi tôi vừa rủa tầm: “Cái anh chàng dại dột, ngu ơi là ngu, ăn xin không lo ăn xin còn ở đó mà cách mạng!”
Quá thất vọng và cảm thấy bực bội, tôi lần bước xuống tầng dưới và đi dần ra phía trước mũi chiếc bắc, nơi không có mái che. Tôi cúi người khoanh tay tì lên lan can và nhìn ra xa với tâm trạng buồn phiền và bực tức. Một nỗi bực bội đột nhiên chụp lấy tôi mà tôi không kịp có thì giờ suy nghĩ tại sao mình buồn phiền và bực tức như vậy.
Lúc này, chiếc bắc đang chạy ngang Cồn Phụng, chỗ Ông Đạo Dừa làm căn cứ Thánh Địa với nhiều hình thức kiến trúc lạ mắt, đủ các loại màu sắc mà một thời đã thu hút nhiều người hiếu kỳ tới đây. Bây giờ cơ ngơi vẫn còn đó nhưng nghe nói hình như Ông Đạo Dừa, tức kỹ sư Nguyễn Thành Nam, không còn ở đó nữa. Tôi nghe nói là cộng sản đã bắt ông, nhưng thực hư thế nào tôi không biết rõ, chỉ biết là từ ngày cộng sản chiếm miền Nam, Cồn Phụng trở nên hoang vắng.
Tôi buồn và có cảm giác người ta đã làm nhục nghệ thuật Vọng Cổ tinh hoa của một bộ môn nghệ thuật mà tôi yêu thích. Tôi nghe kể lại, loại âm nhạc này ra đời mấy chục năm về trước bắt đầu bằng bản nhạc có tên là “Dạ Cổ Hoài Lang” của nghệ sĩ Sáu Lầu. Bản nhạc theo thể loại âm nhạc đặc biệt này ngay lúc đầu đã được nhiều người ưa thích. Về sau điệu nhạc ấy được gọi trại đi là “Vọng Cổ “ chủ yếu là dùng diễn tả tâm trạng yêu thương chan chứa tình cảm của người dân miền Nam. Nhạc Vọng Cổ đã phát triển mạnh một thời ở miền Nam với những đoàn hát Cải Lương nổi tiếng, đã làm thành nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của miền Nam. Bộ môn Vọng Cổ cũng giúp cho một số nghệ sĩ có tên tuổi sống với thời gian như Út Trà Ôn, Hữu Phước, Hùng Cường, Út Bạch Lan,  Hương Lan, Thành Được, Chí Tâm ...và nhiều tên tuổi khác. Bây giờ khi thời cuộc đổi thay, người ta bắt thể loại âm nhạc này phục vụ cho một thứ chính trị rẻ tiền, loại chính trị nay còn mai mất. Lối ca Vọng Cổ được ra đời không phải để làm công việc đó. Nó là loại âm nhạc mang lại tình yêu thương sưởi ấm tình dân tộc nhưng bây giờ người ta dùng nó để cổ võ cho sự hận thù giữa người với người. Tôi cảm thấy đau đớn khi một phần trong sự nghiệp văn hóa của dân tộc bị những kẻ mù quáng vì tham vọng chính trị lạm dụng và xúc phạm.
 
Những giá trị tinh thần
 
Trong cơn tức bực đó, tôi liên tưởng tới sự kiện khi cộng sản chiếm được miền Nam, họ đã vội áp đặt lên đầu lên cổ người dân miền Nam một cách thô bạo qua việc đổi tên thành phố Sài Gòn thân yêu trong tim người dân miền Nam bằng một cái tên sặc mùi chính trị, mà trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, có biết bao nhiêu người miền Nam phải giật nẩy người khi nghe tới cái tên đó! Những con người chính trị trong một cơn say chiến thắng nào đó, đã nhẫn tâm dày vò tâm tư thầm kín của người dân phía thua trận, bằng cách cướp đi những giá trị tinh thần mà họ yêu thương ấp ủ.
Có những thứ thuộc về giá trị tinh thần của dân tộc mà không một thể chế chính trị nào có thể cướp đi được. Tôi mường tượng ra, nếu trong một tương lai xa gần nào đó, khi chủ nghĩa cộng sản không còn ngự trị trên quê hương tôi, nếu chẳng may có một thể chế chính trị mê muội nào tiếp theo sau, lại đem đổi tên Hà Nội thân yêu trong lòng tôi thành ra thành phố Nguyễn Văn A hoặc thành phố Nguyễn Văn B... thì còn gì là giá trị tinh thần của Chiếc Nôi Dân Tộc? Lúc đó, sẽ có biết bao nhiêu người Việt Nam đau buồn và cảm thấy bị xúc phạm, và chắc chắn là có tôi trong số những người đó. Tôi vẫn luôn xác tín rằng thể chế chính trị nào rồi cũng sẽ qua đi, chỉ có dân tộc là trường tồn.
Còn chuyện khác nữa, tôi nhớ khi người cộng sản vừa cướp được chính quyền ở miền Nam, họ lại cướp đi luôn... chiếc áo dài của người phụ nữ Việt Nam! Tội nghiệp cho chiếc áo dài thướt tha là nét duyên dáng truyền thống của dân tộc. Nó được thành hình qua hàng ngàn năm của lịch sử và văn hóa để tô điểm cho nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam, bây giờ, lại bị những con người Việt Nam chỉ biết nhắm vào giá trị nhất thời của chính trị lôi nó ra hành quyết! Chiếc áo dài tha thướt, biểu tượng cho nét độc đáo của văn hóa Việt Nam, nói lên tính chất dịu hiền của người con gái Việt Nam đó, nó đâu có tội tình gì? Nó đâu có phản động? Nó đâu có là “tàn dư của Mỹ Ngụy”? Nó đâu có dự phần vào những hoạt động "phản cách mạng”?! Vậy tại sao người ta lại cố tình bức tử nó?
Tôi ước mong những người nào đã làm công việc phản văn hóa đó, đọc được những dòng này và cảm thương cho tâm trạng đau buồn của tôi khi phải nhìn các cô giáo, các nữ sinh, các nữ công chức từ sau tháng 4 năm 1975, mặc những chiếc áo ngắn cũn cỡn trên người lúc đi dạy, đi học, đi làm... Tôi thật đau lòng xót dạ khi nhìn cảnh đó và càng đau xót hơn nữa cho số phận dân tộc tôi bị những thế lực chính trị nhất thời làm khổ đủ mọi cách. Chừng nào dân tộc tôi mới thoát được cảnh này? Chừng nào dân tộc tôi mới có được những nhà chính trị có đủ tầm vóc và khôn ngoan để tiếp nối nhau xây đắp cho tinh thần và văn hóa của dân tộc?
Tôi đau lòng khi nhớ lại ngay trong miền Nam trước kia cũng đã xảy ra các chuyện như vậy. Lúc đó, ở miền Nam sau một cuộc đảo chánh, hoặc cuộc chỉnh lý và một chính phủ mới lên cầm quyền là vội phá bỏ hết những gì thuộc về ”chế độc cũ”! Bất cứ thứ gì thuộc về chế độ cũ cũng sai, cũng trái, chỉ có “chế độ mới”là đúng là đẹp! Nhưng điều buồn cười nhất là người ta lại quên đi bất cứ “chế độ mới” nào rồi cũng sẽ trở thành “chế độ cũ” trong tiến trình hướng về tương lai của dân tộc. Chế độ chính trị chỉ là chiếc áo mặc bên ngoài, còn thân thể dân tộc sẽ phát triển và tăng trưởng không ngừng! Vì thế, ở mỗi giai đoạn của lịch sử, thân thể dân tộc sẽ có một chiếc áo mới vừa tầm, vừa khổ. Những chiếc áo cũ và chật chội sẽ được cởi ra, xếp vào ngăn kéo của lịch sử.
Nhắc tới vấn đề này, tự nhiên tôi chực mỉm cười khi nhớ lại một khẩu hiệu, không hiểu con người nào đã có can đảm viết ra và cho phổ biến sau khi người cộng sản chiếm miền Nam: “Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa !”. Câu này sai tự căn bản! Từ lâu nay, tôi không thấy ai có ý kiến gì về khẩu hiệu này, tôi nghĩ một phần người dân muốn được yên thân, phần khác, có lẽ ai cũng biết câu nói đó quá tồi, không đáng để bình phẩm. Trong cơn sốt thời cuộc, vì say men chiến thắng, có người đã “phát biểu” đại câu đó và không cần lý luận rằng, nếu khẩu hiệu đó là đúng thì trước khi có xã hội chủ nghĩa hẳn là người Việt Nam không có ai yêu nước? Và nhất là sau khi xã hội chủ nghĩa qua đi rồi thì người dân Việt Nam muốn yêu nước, phải yêu cái gì? Người nói lên câu đó, chẳng khác chi một anh thợ may tồi, vì thiếu vải đã may một chiếc áo quá chật. Để giải quyết vấn đề, anh ta đã xẻo thịt, cắt tay người mặc áo, làm sao nhét cho vừa chiếc áo anh đã may! Thật là hài hước! Thật là một thứ trò hề chính trị rẽ tiền.
 
 
Việt Nam đau thương
 
Trong lúc đứng cúi người, khoanh tay đặt lên thành ống sắt làm rào cản trên chiếc bắc, nhìn xuống đám bọt nước dưới lườn bị hất tung lên rồi tan biến vào dòng nước đầy phù sa đỏ ngầu của dòng Tiền Giang. Hết đợt bọt sóng này tới đợt khác, nối tiếp nhau nhảy múa bên thành sắt của chiếc bắc làm tôi nhớ tới sự biến thiên của thời cuộc. Tôi tự hỏi, những bọt sóng bắn tung tóe nhảy chồm lên mặt nước trông thật đẹp mắt đó, khi chiếc bắc lướt qua rồi, nó sẽ đi về đâu? Nếu không có chiếc bắc này chạy qua, thì đời sống của những bọt nước đó sẽ là gì? Tự nhiên, tôi hình dung chiếc bắc này như con quái vật khổng lồ bằng thép lạnh, từ đâu chồm tới,  đang quấy động, cắt xén và làm xáo trộn cuộc sống yên hàn của những chiếc bọt nước đang bình thản ngủ yên trong lòng sông dịu hiền.
Từ suy nghĩ mông lung đó, tôi nhớ tới hoàn cảnh dân tộc Việt Nam của tôi. Với bản chất hiền hòa và siêng năng cần mẫn, một nhóm người khởi nguồn từ châu thổ sông Hồng ở miền Bắc, qua bao thế hệ nối tiếp, đã đổ mồ hôi và công sức lấn dần về phương Nam, trên dải đất hình cong chữ S, chạy dài hơn hai ngàn cây số, cặp theo bờ biển Đông. Đó là hình thể nước tôi, trên đó, dân tộc tôi quây quần bên nhau và đầy tràn sức sống. Mồ hôi do công sức cần cù của bao thế hệ dân tộc đi trước đã đổ ra, như dòng nước Cửu Long mang theo phù sa bồi đắp cho ruộng đồng trở nên phì nhiêu màu mỡ. Nhưng dân tộc hiếu hòa đó, qua bao nhiêu giai đoạn của lịch sử, đã nhiều lần bị xáo trộn, vỡ tung như con tàu sắt đang chà đạp, cắt xén, phá vỡ sự yên hàn của dòng nước chảy ngược dưới chân tôi lúc này.
Từ ngày vừa có trí khôn, tôi đã chứng kiến chiến tranh kéo theo biết bao nhiêu cảnh khổ nạn cho dân tộc tôi. Cho tới lúc này, sau hơn ba mươi năm, tôi chưa lúc nào thấy dân tộc tôi được hạnh phúc. Vừa Pháp đô hộ, vừa Nhật chiếm đóng, cộng thêm với sự hà khắc của các thế lực chính trị ở các phe, nạn cường hào ác bá và ngay cả một số giáo sĩ cũng lợi dụng uy quyền tôn giáo và dựa thế chính quyền để đè đầu, cỡi cổ dân chúng. Nhưng nặng nề nhất vẫn là chiến tranh, là bom đạn, là nhà tan cửa nát, là tản cư, là máu đổ thịt rơi... Những người trực tiếp tham gia cuộc chiến ở các phe đối nghịch không nói làm gì. Còn biết bao thường dân vô tội, người già cả và trẻ thơ cũng đã chết oan. Bom đạn vô tình không chừa, không tránh một ai.
Người nằm xuống đã yên phận hoàn thành kiếp sống, một số đông nạn nhân sống sót chịu cảnh tật nguyền, phải kéo lê cuộc sống bên lề xã hội cho đến mãn đời. Tôi thương biết bao cho những thương phế binh của cả hai phe lâm chiến. Cuộc chiến tương tàn đã cướp đi một phần thân thể và khả năng con người của họ. Vì sinh ra vào thời tao loạn, họ bị bắt buộc phải trở thành chiếc máy giết người mà một số đông trong họ không biết lý do tại sao. Rồi một viên đạn, một mảnh bom vô tình cắm vào thân thể, đã biến họ thành chiếc máy hư và bị vất vào xó của xã hội. Từ đó, họ bị mọi người lãng quên. Thậm chí còn bị khinh dể vì thân thể họ tật nguyền, mất khả năng về nhiều phương diện. Có người mất luôn khả năng tự nuôi sống mình, phải trông cậy vào lòng nhân đạo của người khác trong kiếp sống của một người hành khất ăn xin độ nhật, trên bắc, trên bến xe, trước cửa chợ và các nơi dễ tìm gặp lòng nhân đạo như cửa nhà chùa, nhà thờ!
Cũng giống như dòng sông, có những lúc bị tàu thuyền khuấy động, cá nhân tôi cũng như một bọt biển phù du. Từ ngày còn bé, lúc vừa có trí khôn, tôi đã sống với chiến tranh, với chém giết, với tiếng bom đạn, và đặc biệt là với những xác người chết. Có người bị chặt đầu, có xác bị mổ bụng thả trôi sông. Vừa biết nhận diện cuộc đời, tôi đã thấy người ngoại quốc, da trắng có, da đen có, họ đi rảo ruông một cách nghênh ngang và hách dịch trên quê hương tôi. Có điều tôi ghi nhận rất sớm là không hiểu tại làm sao người Việt Nam của tôi lại có những người lúc nào cũng rình mò tìm cách giết nhau, và họ giết nhau để làm gì? Họ giết nhau để được ích lợi gì? Những thắc mắc đó tôi không thể nào giải đáp được, cho tới khi lớn khôn, tôi hiểu là người Việt của tôi giết nhau, chủ yếu chỉ vì bất đồng tư tưởng chính trị, mỗi người theo một chủ thuyết khác nhau. Thậm chí, còn có thảm cảnh ngay trong một gia đình, anh em giết nhau, cha con tiêu diệt nhau, chỉ vì tôn thờ khác chủ nghĩa.
Nhưng phải đợi tới khi có đủ sự hiểu biết về thời cuộc, tôi mới ghi nhận được hết sự tác hại của những con tàu quái vật, quậy tung dòng nước êm đềm của dòng sông dân tộc Việt Nam. Lúc tôi hiểu biết cuộc đời là lúc đất nước và dân tộc tôi bị chia  cắt làm đôi ở vĩ tuyến 17 thành hai miền Bắc và Nam, lấy sông Bến Hải làm ranh giới. Miền Bắc tôn thờ chủ nghĩa cộng sản, miền Nam theo chủ nghĩa tự do, và cứ thế, người ta lao đầu vào giết nhau một cách điên cuồng, không khoan nhượng!
Điều vô cùng đau đớn hơn, là người Việt Nam tôi không ai đủ khả năng để nghĩ ra các loại chủ thuyết đó. Có người đi vay mượn được ở xứ nào rồi mang về nhà cho dân tộc dùng và coi đó như là một sự phát hiện vĩ đại. Tập đoàn những kẻ đi vay mượn này, sau khi cướp được chính quyền, có thế lực trong tay, họ bắt tất cả dân tộc Việt Nam phải chấp nhận và tôn thờ chủ thuyết có cái tên rất lạ tai. Ai cưỡng lại hoặc tỏ ra không phù hợp với chủ thuyết đó là đồng nghĩa với tội không yêu nước! Và kẻ nào không yêu nước, sẽ không đáng sống và không có quyền sống!
Điều đau lòng hơn nữa là những ông chủ cho vay mượn loại chủ thuyết đó lại rất đại lượng. Họ sẵn sàng cho mượn khá nhiều thứ. Trước tiên, họ cho mượn một cẩm nang nhì nhằng những lý luận khó hiểu để giải tích công dụng của chủ thuyết như là một thần dược vĩ đại nhất của trí tuệ con người có thể nghĩ ra để đưa nhân loại tới một  tương lai huy hoàng. Mặt đất sẽ trở thành một thứ thiên đường hạ giới khi chủ thuyết đó ngự trị hoàn toàn trên các dân tộc. Khi đó, con người sẽ sống trong thế giới đại đồng, làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu, không bao giờ có cảnh người bóc lột người. Cửa nhà không cần khóa, của rơi ngoài đường không ai nhặt. Vì tính cách ưu việt của chủ thuyết đó, nên nhân loại bắt buộc phải đạt cho bằng được mục tiêu. Thế hệ này chưa được thì các thế hệ nối tiếp phải hoàn thành. Nếu cần thì hy sinh đời bố củng cố đời con. Và người ta đã làm như vậy.
 
 
Cuộc cờ người
 
Đồng thời với phần chữ nghĩa và lý luận, các ông chủ hào hiệp kia còn cho mượn luôn bom, đạn, súng ống, đạn dược, xe tăng, máy bay, tàu chiến, hỏa tiễn, tiền bạc và tất cả những gì có thể cho mượn được, kể cả người,để dân tộc Việt Nam có đủ phương tiện giết nhau, giết càng nhiều càng tốt. Khi hai bên đã đồng cân, đồng sức thì cuộc cờ giao đấu bắt đầu.  Võ đài là mảnh đất hình cong chữ S quê hương tôi.
Những người có quyền thế chơi cờ không cần có mặt tại chiến trường. Họ ngồi ở tận đâu đâu để điều khiển những quân cờ người qua phương tiện thông tin hiện đại. Trong các tay chhoi cờ, có những người cao to, tóc hoe mũi nhọn, ngồi tận bên kia bờ đại dương, trong căn phòng có cờ nhiều sao và sọc, trong tòa nhà sơn màu trắng gọi là Bạch Cung. Có những người thấp lùn, mặc áo cổ cao, ngồi trong căn phòng đàng sau Thiên An Môn, cách Hà Nội không xa. Có những người ngồi tận xứ Moscow giá lạnh, trong căn phòng chưng đầy cờ đỏ búa liềm. Những tay chơi cờ người này vừa uống sâm-banh, miệng ngậm xì-gà, vừa đấu trí trong cuộc cờ người. Những năm tháng kéo dài trong cuộc chiến trên quê hương tôi đã chứng tỏ họ là những tay chơi cờ có máu lạnh. Họ thí quân không tiếc tay, một phần vì thích cảm giác mạnh, phần khác, vì họ biết dân tộc Việt Nam của tôi có tỷ lệ sinh sản khá cao!
Những năm đó cũng là cơ hội ngàn năm một thuở cho những kỹ sư chế tạo vũ khí ở các nước mang ra thí nghiệm trên mảnh đất quê hương của tôi. Đau đớn thay! Dân tộc tôi chưa có khả năng làm được một viên đạn, cho dù là viên đạn bằng chì để bắn chim. Thế mà thân thể Mẹ Việt Nam của tôi, từ mấy chục năm qua, đã hứng chịu không biết là bao nhiêu trăm ngàn, bao nhiêu triệu tấn bom đạn đủ loại và đủ các nhãn hiệu của ngoại bang!
Thực ra, các cường quốc có dại gì mà không mang ra dùng thử các loại vũ khí mới ở một đất nước xa xôi là vùng oanh kích tự do và vô tội vạ như xứ sở của tôi. Người ta đã dùng thịt, máu và mạng sống của đồng bào tôi để trắc nghiệm và đo lường tầm sát hại của các loại vũ khí mới. Bom đạn đó, chất độc hóa học màu da cam đó, cho dù có giết chết hàng ngàn, hoặc hàng chục, hàng trăm ngàn hoặc hàng triệu đồng bào tôi trong lúc này và gây hậu quả tàn khốc, tật nguyền dị dạng cho nhiều thế hệ dân tộc tôi về sau, chưa chắc đã làm họ quan tâm cho bằng sự kiện con chó trong nhà họ vô ý  ăn hóc phải xương! Tôi đau lòng chảy nước mắt ra và cổ họng tôi bị tắt nghẹn khi nhắc tới chuyện này.
Trong khi đó, về phía những người Việt Nam với nhau, tình cảnh cũng chẳng khá gì hơn. Bom đạn ngoại bang là những vật vô tri vô giác và rất vô tình đã giết hại đồng bào mình đã đành, nhưng đau đớn hơn nữa là nạn người Việt giết người Việt không gớm tay. Khi bị “con ma” chủ nghĩa ngoại lai ám, nhiều người Việt Nam đã trở thành những con ác thú cho đến đổi cắt cổ nhau, mổ bụng nhau, ăn gan, uống máu nhau, vợ chồng đấu tố nhau, con cái đấu tố cha mẹ!
Thậm chí, người ta dùng xác chết để làm quà tặng nhau trong dịp đặc biệt mỗi năm như ngày 19 tháng 5, là ngày sinh của ông Hồ Chí Minh. Ngày đó, ở miền Nam, không biết là bao nhiêu những vụ giật mìn xe đò, xe lam  giết hại thường dân vô tội để làm quà sinh nhật cho ông. Tôi không nghĩ là ông Hồ Chí Minh thực sự muốn những loại quà cáp đầy máu me và xác chết dân lành này, nhưng những kẻ điên cuồng dưới trướng ông đã làm như vậy. Tôi nhớ lại mà lợm giọng những lần đi xe ngang qua những đống sắt vụn cong queo còn lại của các xe đò hoặc xe lam bị Việt cộng giật mìn, còn nặng mùi thối tha của thịt người mấy ngày sau đó. Tôi phải lấy khăn tay bịt mũi vì mùi thối của xương thịt đồng bào tôi bị chính đồng bào tôi giết ngay trên quê hương của tôi.
Để đạt tới mục đích làm sao cho chủ nghĩa ngoại lai được toàn trị, người ta không từ chối một hành động ác nhân thất đức nào. Kể cả việc chà đạp lên truyền thống thiêng liêng nhất của dân tộc. Tôi phải đau lòng nhớ lại cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 của Việt cộng nhằm chiếm các tỉnh miền Nam. Tôi không có can đảm nhắc lại những hậu quả ghê rợn, tan hoang của thảm cảnh Tết Mậu Thân. Tôi không dám nhớ lại hình ảnh của hàng chục ngàn thường dân vô tội bị trói tay dính chùm bằng dây điện và chôn sống tại cố đô Huế. Hình ảnh đó quá sức chịu đựng của tôi. Ai cũng biết là làm gì có nhân đạo trong chiến tranh, nên việc chôn sống người và cảnh nhà tan cửa nát cũng là hậu quả tự nhiên của cuộc chiến tương tàn trên quê hương, tôi không muốn nói chuyện đó.
Tôi chỉ muốn nói rằng, những người Việt Nam chủ trương cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đó, đã chà đạp lên ngày thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam  là ngày TẾT, tôi xin được viết bằng chữ hoa in đậm. Họ đã biến ngày TẾT của Dân Tộc thành ra ngày ĐẠI TANG  của Dân Tộc. Trong lịch sử mấy ngàn năm của Dân Tộc Việt Nam, ngày TẾT được người Việt Nam coi là ngày thiêng, ngày ĐẠI PHÚC của Dân Tộc. Chỉ có TẾT MẬU THÂN 1968, có những kẻ vô tâm đã biến nó thành ĐẠI HỌA của Dân Tộc.   Lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ dành cho những con người nàyï sự  phán quyết cuối cùng.
Tôi muốn dùng chính máu trong tim tôi để viết lên câu này:
“TÔI CẦU MONG TẾT MẬU THÂN 1968 LÀ TRƯỜNG HỢP ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM. TÔI CẦU MONG TỪ NAY VÀ QUA MUÔN THẾ HỆ VỀ SAU, DÂN TỘC TÔI PHẢI TÔN TRỌNG NGÀY TẾT LÀ NGÀY THIÊNG LIÊNG, LÀ NGÀY ĐẠI PHÚC CỦA DÂN TỘC. TÔI MONG DÂN TỘC TÔI ĐỦ SÁNG SUỐT ĐỂ NHẬN BIẾT RẰNG , THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ NÀO RỒI CŨNG SẼ QUA ĐI, CHỈ CÓ DÂN TỘC LÀ TRƯỜNG TỒN"
Tôi khẳng định, bất cứ một chế độ nào chà đạp lên hồn thiêng sông núi và giá trị cổ truyền của Dân Tộc, thì không bao giờ có thể mang lại cái gì tốt đẹp cho Dân Tộc được. Loại chế độ đó là kẻ thù của Dân Tộc. Bao lâu loại chế độ phi dân tộc đó còn tồn tại là bấy lâu Dân Tộc còn điêu linh tan nát.
       Từ suy nghĩ này tôi quay ra bực anh chàng ăn xin lúc nãy. Sao anh lại nhẹ dạ chạy theo sự phù du của chính trị để nhai lại những câu hát rẻ tiền mà đánh mất sự quý mến của bao nhiêu người đã từng nghe anh hát và giúp đỡ anh trên chiếc bắc này trong nhiều năm qua. Tôi đứng lặng yên, nhìn dòng nước mênh mong của dòng Tiền Giang, chép miệng nói một mình: “Cơn sốt thời cuộc lúc này đang dâng cao quá, không biết bao giờ nó mới giảm nhiệt độ.” Và cũng vì cơn sốt thời cuộc đó mà bây giờ tôi  phải đứng đây, và chưa biết chuyện gì đang chờ đợi tôi trước mắt.
Tỉnh cơn mê
 
Đứng nhìn trời, nhìn nước một lúc, tôi cảm thấy đỡ căng thẳng, mùi nước sông và làn gió nhẹ mang theo hơi nước lạnh làm tôi cảm thấy dễ chịu. Tôi ngửa mặt lên trời, hít một hơi dài cho làn khí trong lành ngập tràn hai buồng phổi, và lui lại lần theo cầu thang leo lên từng trên và ngồi nơi một ghế ngay cạnh đó, định bụng là để chốc nữa xuống cho dễ. Lúc đó tôi tự nhủ: “Phải bình tĩnh trước những biến động, rồi cái gì cũng sẽ qua đi, nhưng phải có thời gian cho mỗi việc”. Tôi nhớ lại thời gian ở họ đạo La Mã, lúc đầu, cơn sốt thời cuộc cũng bốc lên như sóng cồn, nhưng sau một thời gian ngắn cũng xẹp đi. Nghĩ như vậy nên tôi thấy yên tâm và tự nhiên thương anh chàng ăn xin lúc nãy đã hát bài Vọng Cổ “cách mạng”. Tôi nghĩ rằng, chắc anh ta không cố ý chạy theo thời cuộc, nhưng biết đâu loại bài hát có lời lẽ như vậy sẽ giúp anh kiếm ăn dễ hơn trong lúc này.
Ngồi một chốc tôi đã thấy hàng quán phía cầu bắc Mỹ Tho dần dần hiện lên rõ nét.
Hành khách bắt đầu nhốn nháo và đứng lên khi chiếc bắc giảm tốc độ và chuẩn bị vào bến. Vừa định bước nhanh xuống tầng dưới để lấy xe Honda lên bờ, tôi chợt nhớ ra có điều gì mình chưa làm. Thì ra, tôi nhớ tới số tiền định cho người ăn xin có em bé gái dẩn dường, nhưng lúc nãy vì bực mình, tôi đã bỏ lại vào túi. Tôi phải đến cho anh trước khi lên bờ.
Lúc này, luồng hành khách đông đảo chen nhau đang nhốn nháo bắt đầu dồn về phía đầu cầu thang, trong khi tôi len ngược trở lại về phía người ăn xin và cô bé đang ngồi ủ rũ trên một chiếc băng trống ở gần đầu kia. Anh ta chỉ hát và xin tiền trong lúc bắc đang chạy, còn lúc này không còn ai để ý tới anh, tới giọng hát của anh cũng như hoàn cảnh của anh. Tôi bước tới nhìn hai người và cảm thấy thương tâm, nhất là khi nhìn vào chiếc rá nhỏ đan bằng mây cô bé đang cầm trong tay để xin tiền, tôi thấy nó rỗng tuếch, chỉ lèo tèo vài tiền lẻ. Tôi vội cho tay vào túi quần vơ hết số tiền lẻ lúc nãy đặt vào chiếc rá.
Cô bé lọ lem ngoái đầu lại trợn tròn đôi mắt to và đen ngước nhìn tôi thật lâu. Lần đầu tiên, tôi thấy cô bé biểu lộ thái độ ngạc nhiên trên mặt. Tôi biết không phải em ngạc nhiên về số tiền khá lớn mà tôi vừa đặt vào chiếc rá, mà có lẽ ngạc nhiên vì tại sao lại có ông khách phá lệ cho tiền trong lúc bắc đang cập bến như thế này. Tôi cảm thấy chưa yên tâm, và bằng một thái độ chuộc lỗi, tôi đứng lại, lần tay móc bóp ở túi quần sau, lấy ra một số tiền giấy khá lớn và đứng tại chỗ đếm. Tôi vô ý đứng chặn giữa lối đi hẹp của hành khách đang hối hả tiến tới cầu thang. Một bà khá lớn tuổi và mập mạp bị cản đường bất ngờ, dùng cùi chỏ hẩy tôi sang một bên, miệng càu nhàu: “Cái ông này vô duyên, tự dưng đứng cản đường người ta!”. Tôi vội né sang một bên, ném vội số tiền vào rá của em bé rồi bước theo đoàn người, vừa đi vừa cười thầm:“ Mình vô duyên thật, tự dưng lại đứng cản đường người ta!”
 
 
Thành phố Mỹ Tho
 
Hành khách đi phà đông hơn tôi tưởng, lúc nãy tôi thấy họ ngồi đầy cả hai tầng của chiếc bắc, lúc này tôi thấy càng đông hơn. Đoàn người từ cầu bắc bước lên đông như trẩy hội. Tôi biết đa số trong đó là những người buôn bán vì trên tay người nào cũng có giỏ xách căng phồng mà tôi không biết họ đựng gì bên trong. Điều tôi biết rõ là lúc bấy giờ, có rất nhiều người đi buôn đủ các loại mặt hàng. Thứ gì cũng có thể bán và mua được. Nhất là thuốc tây, vải vóc và các loại đồ dùng trong nhà. Lúc tôi còn ở họ đạo La Mã, có mấy bà, mấy cô trong họ đạo cũng đi buôn bán kiểu này và họ kể tôi nghe một ngàn lẻ một chuyện về “mặt trận” đi buôn trong những tháng đầu sau khi cộng sản vào miền Nam. Họ kể về mánh khóe những con buôn qua mặt các trạm kiểm soát, rồi trạm kiểm soát gài bẫy bắt con buôn. Rồi con buôn tìm cách lòi tiền để được thả ra, rồi công an tìm “mánh” bắt họ lại để tiếp tục làm tiền. Thôi thì hàng trăm hàng ngàn loại mánh khóe, ai có ngón nào đưa ra sử dụng ngón đó.
Có lúc, tôi buồn cười nghĩ quẩn, có lẽ nhờ có thời thế này mà dân tộc Việt Nam tự nhiên lại ‘‘khôn’’ ra, vì lúc nào đầu óc cũng làm việc và làm việc không ngừng để tìm cách lừa đảo, mánh mung, dối gạt, phỉnh phờ và  nói dối. Không dối gạt nhau thì không có thể nào sống được! Nếu định luật về sự tiến hóa có cơ sở thì dân tộc Việt Nam, nếu không có sự thay đổi nào khác hơn, càng về lâu về dài, sẽ phát triển đến mức tối đa đầu óc gian manh lừa đảo do tích lũy di truyền của thế hệ này để lại cho con cháu. Càng nghĩ, tôi càng đau lòng cho số phận không may của dân tộc tôi đã phải rơi vào một giai đoạn lịch sử đen tối, trong đó, người ngay thẳng và lương thiện không có chỗ để sống.
Sau khi lên bờ, thấy còn sớm, tôi cỡi Honda đi một vòng thành phố Mỹ Tho, nơi mà tôi đã một thời đi học ở đây. Tôi lượn xe  xuống cầu tàu, ngang vườn hoa Lạc Hồng, bọc qua đường Trưng Trắc ở bờ sông, chạy  qua cầu sắt quay mà ngày còn đi học tôi hay đi qua. Thành phố Mỹ Tho cũng không đổi khác nhiều sau một năm dưới chế độ mới. Chỉ có khác là bộ mặt thành phố bây giờ đượm vẻ u buồn và dân chúng đang bước đi đầu cúi gầm âm thầm lặng lẽ. Khi rảo qua các phố, tôi để ý thấy một số tên đường và trường học đã được đổi tên mới, những cái tên rất lạ tai như  Trừ Văn Thố, Mai Thị Non, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi... Cái thiếu sót của tôi là lu bu nhiều chuyện quá nên chưa có giờ tìm đọc tiểu sử các vị anh hùng có tên lạ tai này để biết sự nghiệp họ đã đóng góp cho dân tộc Việt Nam như thế nào hầu bày tỏ lòng tôn kính với họ cho đúng mức.
Khi chạy xe trên đường Hùng Vương ngang qua trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, tôi sực nhớ lại cũng nơi này, năm 1961 lúc tôi học ở Mỹ Tho, có lần tôi suýt bị mật vụ của Bác sĩ Trần Kim Tuyến hốt lên xe bít bùng trong một buổi sáng tôi cùng anh bạn tới đây tìm một vị giáo sư. Không ngờ, hôm đó học sinh trong trường rải truyền đơn chống chính phủ Ngô Đình Diệm, và vị giáo sư mà người bạn tôi muốn tìm hình như có dính líu vào. Người bạn tôi bị bắt, tôi may mắn thoát được, vội về nhà cuốn gói chuồn ngay về Vĩnh Long.
Hơn một tháng sau, tôi mới dám trở lại Mỹ Tho, tìm gặp lại người bạn bị bắt lần đó. Tội nghiệp anh bạn, nước da anh xanh xao như tàu lá chuối và không đứng dậy nổi vì bị tra tấn quá nhiều sau 15 ngày bị nhốt ở Ty cảnh sát Định Tường. Thời đó, mật vụ của ông Ngô Đình Nhu do Bác sĩ Trần Kim Tuyến đứng đầu ra sức ruồng bắt và tra tấn những người chống chế độ gia đình trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Hình ảnh những chiếc xe bít bùng cùng với những người công an chìm  đi lảng vảng trong các trường học, làm bọn học sinh chúng tôi khiếp đảm.
 
 
Đường xưa lối cũ
 
Rời thành phố Mỹ Tho, tôi theo con đường tráng nhựa hai bên có những vườn mận sai trái dẫn ra ngã ba Trung Lương. Loại quả mộng nước, to cỡ như trứng gà, có vị vừa chua vừa ngọt, bên trong có mấy hạt bằng đầu ngón tay út, người Bắc gọi là quả roi, người Nam chúng tôi gọi là trái mận. Vùng này mận ngon có tiếng, chẳng những nhờ giống đặc biệt mà còn nhờ vào phong thổ của vùng đất bồi sông Tiền Giang nữa. Các hành khách trên xe, khi có dịp dừng lại một nơi nào gần đây, cũng thường mua một ít mận Trung Lương để thưởng thức hương vị của đặc sản vùng này.
Chạy không bao lâu đã tới ngã ba Trung Lương, nằm trên Quốc lộ 4, nối liền Sài Gòn với các tỉnh miền Tây trù phú của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tôi rẽ trái về hướng Vĩnh Long, gia đình tôi ở một làng quê thuộc quận Vũng Liêm trong tỉnh này.
Lúc này nắng đã lên cao, tôi đưa tay trái lên kéo quai chiếc nón ny-lon trên đầu cho thật chặt để khỏi bay. Đi xe gắn máy mà đội loại nón này khá bất tiện vì  rất dễ bị gió giật tung về phía sau, nhưng vì thời cuộc mà tôi phải dùng nó. Trước kia, khi đi xe gắn máy, tôi thường đội mũ lưỡi trai, rất gọn nhẹ, ôm sát vào đầu và không cần có quai dưới cằm. Mũ lưỡi trai vừa che được gió khỏi tạt vào mặt, vừa tránh được ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào mắt. Nhưng từ hôm tôi bị mấy anh du kích chận lại trên đường từ Bến Tre về giáo xứ La Mã, mạt sát tôi một hồi rồi giật cái kết “đồi trụy của thằng Kỳ” ném xuống đất, từ đó, tôi không còn đội loại kết "đồi trụy" nầy nữa, vì tôi không muốn những việc rắc rối không cần thiết xảy ra, trong khi cuộc đời tôi trong giai đoạn này tự nó đã có nhiều rắc rối với những người có quyền thế trong chế độ mới này.
Đoạn đường tráng nhựa trên Quốc lộ 4 này tôi đã đi lại nhiều lần, và đã ghi lại trong tôi rất nhiều kỷ niệm về nó. Nhớ lại mới vài năm trước đây, công binh Mỹ làm lại con đường nối liền Sài Gòn và các tỉnh miền Tây nầy, rất đẹp và rộng rãi. Một hãng thầu Mỹ có tên RMK-BRJ mà tôi cũng không biết viết tắt của những chữ gì, cũng đã xây dựng lại hai cây cầu quan trọng trên tuyến đường này là cầu Bến Lức và cầu Long An, trên đoạn đường từ Sài Gòn xuống ngã ba Trung Lương.
Từ một năm qua, khi về làm cha sở họ La Mã, tôi cũng có dịp đi lại trên đoạn đường này khá nhiều lần, nhưng không chú ý lắm về tình trạng của nó. Lần này, sau khi bánh xe bị sụp một ổ gà lớn, tôi giật mình và chợt nhận ra con đường bây giờ đã xuống cấp khá nặng. Thỉnh thoảng, có mấy ổ gà sâu trên mặt đường tráng nhựa, vài chỗ bị sụp lún xuống, tạo nên nhiều đường nứt, chỗ dài, chỗ ngắn, báo hiệu tình trạng hư hại nặng nề tiếp theo nếu không kịp thời tu bổ.  Sở dĩ con đường này bị sụp, một phần vì ở đây là vùng đất ruộng, được ủi lên để đắp làm móng làm đường, nên chân không chắc chắn như vùng đồi núi. Hơn nữa, trong thời chiến tranh, các loại xe tăng và xe có dây xích sắt chạy tự do trên lộ đã cày tróc nhựa trên mặt đường tại khá nhiều nơi. Theo tôi nhớ, từ ngày công binh Mỹ làm đường tới nay quảng 6 hay 7 năm rồi, nhưng chưa có lần nào con đường được tu bổ hoặc có dấu hiệu là sẽ được tu bổ.
Đoạn đường 150 cây số từ Sài Gòn tới Vĩnh Long có ba địa điểm đáng chú ý mà không một hành khách nào không biết qua, đó là cầu Bến Lức, cầu Long An và bắc Mỹ Thuận. Cũng từ các địa điểm đó lại có tình trạng “kẹt cầu” và “kẹt bắc”.
Việc kẹt bắc thì khỏi phải nói, vì đây là con đường huyết mạch nối liền Sài Gòn với các tỉnh miền đồng bằng sông Cửu Long, xe cộ và người đi lại lúc nào cũng tấp nập, nên hệ thống bắc đưa xe qua con sông rất rộng là Mỹ Thuận, luôn luôn là một vấn đề nan giải và đầy trở ngại. Ngoài bắc Mỹ Thuận ra, còn những bắc khác sau khi qua khỏi tỉnh Vĩnh Long, như bắc Cần Thơ nối Vĩnh Long- Cần Thơ, bắc Vàm Cống nối Sa Đéc-Long Xuyên, và bắc Cao Lãnh đi từ Sa Đéc qua Kiến Phong, Cao Lãnh.
Riêng hai chữ “kẹt cầu”, có từ thời hai cây cầu sắt do người Pháp xây là cầu Bến Lức và cầu Long An. Hai cây cầu này có lối kiến trúc giống nhau, nhưng cầu Bến Lức dài hơn cầu Long An khá nhiều. Thời đó, cầu hẹp và yếu nên chỉ cho xe chạy một chiều. Vì xe bên nầy chạy thì bên kia phải dừng lại chờ, nên có tình trạng kẹt cầu. Kẹt cầu và kẹt bắc có nhiều bất tiện cho hành khách, nhưng lại có lợi cho nhiều người dân trong vùng, nhờ đó, họ có thể bán thức ăn, hoa quả... Những người ăn xin cũng kiếm sống được nhờ tình trạng ứ đọng giao thông này.
Riêng ở hai bên bờ của bắc Mỹ Thuận, cách Vĩnh Long 9 cây số, hàng quán rất sầm uất và nhiều người tới đây lập làng, làm ăn phát đạt, có người trở nên giàu có nhờ vào tình trạng kẹt bắc ở đó. Đây cũng là một triết lý về sự “tương đối” của cuộc đời, cái bất tiện của người này lại là cái may cho người khác! Cảnh kẹt cầu ở Long An và Bến Lức cũng giúp cho một số người buôn bán và ăn xin, nhưng không phát đạt lắm vì xe kẹt không lâu, chừng nửa tiếng là cùng, nên chỉ kịp buôn bán thổ sản gọn nhẹ như khóm, mận, mí ghim, hoặc thức ăn đơn giản như bánh mì thịt, cơm dĩa, nem chua....
 
 
Chuyện một chiếc cầu
 
Vì lượng lưu thông quá lớn của xe cộ, hàng hóa và người trên Quốc lộ 4 này, nên mỗi khi gặp trở ngại lưu thông thì đúng là một thứ tai họa như thời gian cầu Bến Lức bị Việt cộng giật mìn phá sập. Trong những lần về quê, tôi phải đi qua đây và có dịp chứng kiến “tai họa” này của dân chúng đi đường. Lúc bình thường, khi cây cầu sắt dài nhất trên Quốc lộ 4 này còn đứng vững, đã có tình trạng kẹt cầu rồi, nói chi lúc nó bị giật sập xuống!
Cầu Bến Lức đứng vững để làm chức năng phục vụ xe cộ và hành khách đã lâu lắm rồi. Hình ảnh chiếc cầu sắt có lối kiến trúc chằng chịt và có hai móng cao thật hùng vĩ, từ xa người ta đã nhìn thấy hình ảnh oai hùng của nó vươn trên bầu trời xanh. Nhưng sau khi bị Việt cộng giật sập mất một nhịp ở đoạn giữa, từ xa nhìn tới, thấy cây cầu trở nên rất thảm hại!  Ngày trước nó đẹp đẽ bao nhiêu thì lúc này trông nó xấu xa, kỳ dị giống như hàm răng sún của một người khổng lồ đang nhe ra, mất đi hai chiếc răng cửa! Nhưng tôi không có ý bàn về thẩm mỹ ở đây, tôi muốn nói chuyện khác, chuyện về cảnh khốn nạn mà đồng bào tôi phải gánh chịu do hậu quả gây ra bởi cây cầu Bến Lức bị Việt cộng giật sập lúc đó.
Sau khi một bàn tay xương xẩu, có các móng tay dài bên trong đầy đất cát như những cái đầu người nhỏ tí đang đội nón đen đó, ấn nhẹ cái chốt. Một tiếng nổ long trời lở đất vang lên từ một nơi cách đó khá xa. Tiếng nổ này là kết quả của bao nhiêu chất xám của những cái đầu tuy nhỏ nhưng tinh ranh, đã mày mò nghiên cứu  trong một thời gian khá lâu. Tiếng nổ ấy đã gây ra hai hậu quả rất thảm hại. Tác hại thứ nhất và trước mắt về phần vật chất, là một nhịp của cây cầu sắt rơi xuống, chìm sâu dưới đáy sông Bến Lức nước đang chảy thật xiết.
Tác hại thứ hai là về con người, tuy lúc nổ chỉ thiệt hại vài nhân mạng một số nhỏ những người lính canh cầu, nhưng tiếng nổ đó đã gây ra một vết thương quá lớn trong đời sống của đồng bào, nhất là những đồng bào ở miền Tây. Từ sau tiếng nổ của Việt cộng phá cầu đó, cuộc sống người dân trong vùng và sinh hoạt của họ từ đó về sau đã trở thành những “tiếng nổ phụ” tiếp liền theo.
Cảnh tượng cầu Bến Lức sau đó, giống như cảnh một đám tang vĩ đại kéo dài hàng tháng trời. Ngày nào cũng có hàng mấy trăm chiếc xe đủ loại cùng với hàng chục ngàn người đứng lố nhố ở hai bên bờ sông như đưa đám tang chiếc cầu chôn xuống lòng sông sâu nước chảy. Cái khác ở đây là những người đưa đám ma này, không mặc đồ đen và âm thầm cúi đầu cầu kinh như  thường thấy ở các đám tang khác. Ngược lại, đám đông hàng chục ngàn người này lại ăn mặc đủ loại màu sắc, tay xách nách mang, bồng con, bế cháu và di chuyển không ngừng! Họ không yên lặng như các đám tang khác mà ồn ào, náo nhiệt như cảnh chợ trời. Tiếng người gọi nhau ơi ới, tiếng trẻ con kêu khóc, tiếng gà vịt kêu cạp cạp từ các giỏ đan sơ sài bằng những thanh tre họ mang trên vai, cộng với những tiếng kêu trời xen vào với loại ngôn ngữ họ dùng để bày tỏ sự bực tức những kẻ phá hoại chiếc cầu. Những ngôn ngữ đó, tôi nghĩ là tốt hơn không nên ghi lại ở đây!
Một lần nọ, tôi qua Bến Lức trong một cơn mưa lớn. Nước mưa làm cho con đường dẫn tới bờ sông trở nên bùn sình, ngập lên tới mắt cá chân. Có vài chiếc xe chở khách đang trở đầu bị lún bánh, cố rướn lên làm bùn non bắn tung tóe vào đoàn người rất đông đang tấp nập đi về hướng bờ sông. Dọc hai bên bờ sông Bến Lức nước đang chảy xiết, cây cỏ đã bị giẫm nát, lẫn vào với bùn sình lầy lội. Người ta chen lấn nhau, tranh giành nhau để leo lên những chiếc xuồng máy của dân chúng đang chờ sẵn để đưa qua bờ bên kia với giá cắt cổ. Cảnh tượng này trông như một đoàn quân chiến bại đang cố chen lấn để trèo lên những chiếc thuyền  chạy ra biển thoát thân.
 
 
Tuổi thơ thời chiến
 
 Trong cảnh nhốn nháo đó, tôi chợt nghe tiếng khóc thét của một em bé gái chừng 5,6 tuổi, đang ngồi bệt xuống trên một vũng bùn của con đường mòn còn cách bờ sông một quãng khá xa. Tôi không biết em bé đó mặc đồ gì, chỉ biết là em bị ướt như con chuột lội nước và bùn đất bám đầy từ đầu tới chân em, chỉ chừa ra hai con mắt cũng đang ướt đẫm. Em bé khóc thất thanh trong lúc người đàn bà còn trẻ mà tôi biết là mẹ em cũng mình ướt như chuột lột, trên tay đang bế một đứa bé trai chừng hai tuổi cũng đang khóc thét, một tay bà mẹ kéo cô bé đứng dậy đi. Nhưng có lẽ em không còn sức để bước đi nữa, nên đánh liều ngồi bệt xuống bùn rồi muốn ra sao thì ra.
Người đàn bà trẻ kéo con lên không được nên bực mình, cúi người đặt cái giỏ xách trên vai xuống mặt đất bùn sình. Trong giỏ có hai con vịt đang ló đầu ra cũng đang kêu thất thanh cạp... cạp... cạp... Người mẹ giận tát em bé gái đang ngồi bệt trong bùn một tát tai và giật mạnh cánh tay bé xíu của em bắt đứng dậy đi! Cô bé bị đòn càng khóc tợn hơn và nhất định ngồi lỳ không chịu đứng lên, làm người mẹ càng tức thêm, nên giật tay cô bé rất mạnh làm tôi tưởng cánh tay nhỏ xíu đó sẽ bị sứt ra và rời khỏi thân hình dính đầy bùn đất của em. Bên cạnh đó, đoàn người vẫn bước đi một cách vội vã hướng về bờ sông dưới cơn mưa tầm tã.
Tôi đang dẫn xe gắn máy đi lẫn lộn trong đoàn người. Nhờ có khoác áo mưa nên người tôi không bị ướt, nhưng nước mưa táp vào mặt làm mờ cả đôi kính và thỉnh thoảng tôi phải gỡ ra lau vào lần áo khô bên trong. Nhìn cảnh bé gái đang giằng co với mẹ, tự nhiên tôi thương em. Tôi biết là không phải em không muốn đi, nhưng vì đường sá lầy lội, mưa to quá và em đã bị té nhiều lần, nên không còn sức để bước nữa. Càng bị mẹ đánh và kéo lên, em càng bày tỏ sự phản kháng mãnh liệt và quyết tâm ngồi lỳ xuống đất đầy bùn sình như một vũng trâu nằm.
Theo hành động của trực giác, tôi vội chống chân xe xuống bên vệ đường, chỗ có đất cứng, và bước tới bên hai mẹ con cô bé lúc này đang giằng co nhau dữ dội, không ai chịu thua ai. Tôi vừa đi vừa lần cởi nút áo mưa trên cùng, để lộ chiếc cổ áo trắng của y phục giáo sĩ tôi đang mặc. Tôi bước tới, chuẩn bị cúi xuống bồng em bé lên, vừa nói với bà mẹ:
- Chắc là cháu mệt lắm, để tôi giúp chị một tay lo cho cháu.
Người đàn bà trẻ, mặt đầy nước nôi, tóc trết lại từng lọn nhỏ, bùn văng lấp tới đầu gối, chợt nhìn tôi, mở to mắt ngạc nhiên không nói gì. Tôi hiểu chị đang lo lắng, nên nói tiếp:
- Chị đừng lo, tôi là một Linh mục, thấy chị quá bận rộn với hai cháu bé  nên tôi muốn giúp chị một tay.
Nghe tôi tự giới thiệu là một Linh mục, chị bèn nhìn vào cổ áo tôi cố ý để hở. Nét mặt chị dịu lại sau cái nhìn đó, chị bày tỏ sự yên tâm qua câu nói:
- Con cám ơn cha! Cháu bé bước đi không nổi cha ạ!
Tôi vừa bồng cô bé lên, vừa nói lời trấn an:
- Nín đi con, đừng khóc nữa, chú giúp cho con.
Lúc đầu, cô bé tỏ vẻ sợ người lạ, nhưng nhìn thái độ của mẹ đang đứng kế bên, cô bé yên tâm để cho tôi bế lên. Tôi ôm lấy thân hình đầy bùn đất và đang run bần bật của cô bé. Tôi cố ý ôm sát vào lòng cho cháu đỡ lạnh và bước lại chiếc xe Honda đang dựng gần bên, trước cặp mắt quan sát chăm chú của người mẹ. Tôi đặt em ngồi trên bình xăng xe, bảo em nắm thật chặt tay lái xe kẻo ngã và tôi quàng tay qua bên kia, giữ em ngồi yên, rồi hạ chân xe xuống, dẫn đi bên cạnh người mẹ trẻ đang ẵm bé trai và đeo cái giỏ có hai con vịt đang kêu cạp cạp. Tôi không biết mấy tiếng kêu này của loài vật có bày tỏ sự bất mãn nào như tiếng rủa sả của loài người trước cảnh khổ cực này hay không!
Cô bé lúc này đã nín khóc, nhưng mặt em nước vẫn chảy dài, cả nước mưa lẫn nước mắt, tự nhiên tôi thương cô bé hết sức, thương cho số phận trẻ thơ sinh ra trong thời chiến. Chừng ấy tuổi đầu đã nếm mùi gian khổ của người dân trong đất nước đang có những người lớn gầm gừ chực giết nhau và tìm hết mọi cách để làm khổ nhau. Có lẽ em cũng cảm thấy yên tâm khi có linh cảm là tôi không làm gì hại em, nhưng giúp em vượt qua được quãng đường lầy lội dẫn xuống bờ sông. Quãng đường này, đối với người lớn đã là dài và khó khăn, nói gì tới đôi chân bé nhỏ của em bé 6 tuổi, nhất là giữa cơn mưa tầm tã như  thế này.
Tôi chợt mỉm cười, nhớ lại lúc nãy, người đàn bà trẻ gọi tôi bằng tiếng “cha", thực ra tôi chưa phải là Linh mục, tôi còn đang là một chủng sinh và phải một hoặc hai năm nữa, tôi mới có thể thụ phong Linh mục, nhưng chủng sinh đại chủng viện và Linh mục cùng có sắc phục như nhau, nên khi tôi tự giới thiệu là Linh mục, chị ta gọi tôi là cha. Tôi nghĩ cũng chẳng cần phải đính chánh làm gì trong hoàn cảnh này. Thì giờ đâu mà đứng đó giải thích thế nào là một chủng sinh Đại chủng viện, thế nào là một Linh mục và họ khác nhau ra sao! Điều cần nhất là chị tin tưởng để tôi có thể giúp chị và cháu bé là được rồi.
Vừa đun xe, tôi vừa cúi xuống sát bên tai cô bé hỏi:
- Con có lạnh không?
Cô bé quay lên nhìn tôi bằng đôi mắt thiên thần, không trả lời, nhưng gật đầu khá sâu.
Không hiểu tại sao, cái gật đầu của em làm nước mắt tôi tự nhiên tràn ra hòa lẫn với nước mưa chảy dài xuống ngực. Tôi để cho hai dòng nước mắt rơi tự nhiên và cúi đầu yên lặng đun xe trong lúc một em bé xa lạ đang ngồi trên bình xăng, thân hình bé nhỏ đầy bùn đất của em đang run nhẹ trong vòng tay che chở của tôi. Người mẹ trẻ bước đi kế bên tôi một cách vất vả với đứa bé trên tay và cái giỏ có 2 con vịt trên vai. Thỉnh thoảng chị xốc nách lại đứa con trai ẵm trên tay. Cháu bé lúc này đã hết khóc và cả hai con vịt cũng không còn kêu nữa. Có lẽ lúc nãy, em bé trên tay và hai con vịt cũng lên tiếng phụ họa với cô bé ngồi trên bùn, bây giờ cô nín thì  phía kia cũng yên, một phần chắc cũng nhờ cơn mưa lúc này đã nhẹ hạt dần.


Xuống tới bờ sông, vì chiếc ghe nhỏ đã có sẵn mấy người, chỉ có thể chở thêm vài người nữa, không còn chỗ cho xe gắn máy của tôi. Tôi dựng xe xuống để đưa em bé lên thuyền máy với mẹ em. Nhưng đất mềm quá không dựng chân xe được. Sau một vài lần không dựng được xe, tôi phải nhờ một người đàn ông giữ xe giùm, rồi ẵm cháu gái xuống ghe đặt ngồi bên mẹ em. Người đàn bà nở nụ cười thật tươi:“Con cám ơn cha!”. Tôi không đáp lại và cũng không đính chánh. Tôi đưa tay vuốt tóc cô bé và nói: “Con đi cho ngoan, đừng khóc nữa”. Vừa nói tôi vừa lùi trở lên bờ trong khi cô bé nhìn tôi, gật đầu, giống như lúc nãy khi tôi hỏi em “con có lạnh không?”.
Khi chiếc ghe có gắn máy đuôi tôm  tách ra khỏi bờ sông, người đàn bà và em bé gái vẫy tay chào tôi và chị cũng cầm tay cháu bé trai đưa lên vẫy theo trong tay chị. Tự nhiên, tôi cảm thấy một chút mất mát khi phải chia tay với những con người xa lạ này. Tôi đứng tần ngần trên bờ, đợi chuyến sau và nhớ lời chị nói: "con cám ơn cha." Thực ra, tôi phải cám ơn chị và cháu bé mới đúng vì cuộc gặp gỡ bất ngờ này cho tôi hiểu rõ hơn về hoàn cảnh đồng bào tôi trong thời chiến tranh và nhờ đó, tôi thương cho số phận đồng bào tôi nhiều hơn.
Từ đó, tôi không bao giờ gặp lại người đàn bà và hai em bé đó nữa. Thực ra, cho dù có gặp lại, chúng tôi cũng chẳng nhận ra nhau vì trong lần gặp nhau ở cầu Bến Lức đó, đâu có ai nhận rõ được gương mặt của ai! Riêng hai cháu bé lúc đó còn quá nhỏ và cô chị thì lại bùn đất bám đầy người, lại càng khó nhận ra hơn.
Ngồi trên xe gắn máy chạy ngon trớn, vừa suy nghĩ miên man, không mấy chốc tôi đã gần tới bắc Mỹ Thuận, cửa ngõ vào tỉnh Vĩnh Long. Tôi nhớ lại, con đường này trước khi người Mỹ tới Việt Nam là con đường nhỏ, hai bên toàn là cây cỏ và có nhiều đoạn dài không trải nhựa. Dù vậy, lúc đó nó cũng là “xa lộ công danh”, vì dưới thời ông Ngô Đình Diệm làm Tổng Thống, có biết bao nhiêu ông bà, tai to, mặt lớn, đã theo con đường này đổ dồn về Vĩnh Long để chầu Giám mục Ngô Đình Thục, là anh của Tổng Thống, và cả vị Linh mục trẻ, rất uy quyền, là Nguyễn Văn Tự, làm Giám Đốc Trung Tâm Nhân Vị lúc bấy giờ!
   
Tình cảnh gia đình
Sau khi qua bắc Mỹ Thuận, nhìn đồng hồ hãy còn sớm nên tôi ghé vào nhà người bạn ở Vĩnh Long. Một phần để thăm gia đình người bạn, hơn nữa tôi cũng có việc khá quan trọng cần gặp anh để bàn qua. Lâu ngày bạn bè mới có dịp gặp lại nên ngồi chuyện trò khá lâu và gia đình người bạn mời tôi ở nán lại dùng cơm. Từ Vĩnh Long về nhà tôi chỉ còn hơn 30 cây số. Cơm nước xong tôi từ giã gia đình người bạn, chạy Honda theo tỉnh lộ về hướng Trà Vinh. Gia đình tôi nằm ở một làng quê tên là Hiếu Phụng trên con lộ này, giữa hai tỉnh Vĩnh Long và trà Vinh.
Tôi cố ý chạy xe chậm một chút để hưởng bầu khí mát lạnh trên con lộ vắng người trong buổi chiều tà. Khi tôi về tới nhà thì trời đã chạng vạng tối, lòng tôi se lại khi nhìn thấy tình cảnh gia đình thật bi đát. Cha tôi mới mất mấy tháng trước. Tôi bồi hồi xúc động khi đứng thắp nén hương trước di ảnh của cha tôi trên bàn thờ, và nhớ lại vài tháng trước đây, khi tôi vừa dọn qua họ đạo La Mã không bao lâu thì cha tôi trở bệnh nặng. Người nhà sang báo tin, tôi xin giấy đi đường về ngay trong đêm. Vì cha tôi đã đau yếu nhiều từ mấy tháng trước, nên trong nhà các anh chị tôi thay nhau canh thức để săn sóc.  Đêm đó tôi nằm trên chiếc võng cạnh giường cha tôi, để canh thức thay cho các anh chị đã mệt mõi vì thức đêm.

Tới gần sáng, chiếc mền của cha bị rơi xuống đất, tôi nhặt lên và nhẹ nhàng đắp cho cha, nhưng cha tôi giật mình thức giấc và hỏi tôi về hồi nào. Rồi trong một lúc rất tỉnh táo như người khỏe mạnh, cha bảo tôi đỡ cho ngồi dậy tựa lưng vào thành giường. Tôi vô cùng mừng rỡ vì tưởng là cha tôi đã hồi phục lại sau cơn bệnh nặng. Sau đó cha tôi hỏi tôi về các việc bên họ đạo và dạy bảo tôi:” Con Làm linh mục thì phải biết thương bổn đạo của mình và lo lắng cho họ. Con hãy nhớ, đừng bao giờ chúc dữ cho ai, nhưng luôn luôn phải chúc lành cho mọi người.” Tôi vâng dạ và hứa tuân giữ lời cha dạy. Sau đó cha muốn ăn một ít cháo, mà lâu lắm rồi cha tôi không ăn được.
Đêm sau cha tôi mất.
Thì ra vì thiếu kinh nghiệm nên tôi không biết hiện tượng gọi là “hồi dương”, là khi người bệnh lâu ngày tự nhiên có lúc trở nên bình thường như người khõe mạnh, là dấu hiệu sắp chết. Đêm qua thấy cha tỉnh táo tôi rất mừng, nhưng thật sựï dó là lúc hồi dương. Sau này mới biết trong lúc hồi dương ngắn ngủi đó, cha tôi đã dùng sự minh mẫn cuối cùng của cuộc đời, để trối lại cho tôi những lời dạy bảo mà tôi luôn ghi nhớ, và cố gắng gìn giữ suốt đời.
Từ ngày cha tôi mất đi, má tôi càng suy yếu hơn, thường là nằm  một chỗ,  lúc đi tới lui trong nhà phải chống gậy. Lúc này ruộng đất gia đình do công khó cha tôi khai khẩn đất hoang để lại, bị tịch thu gần hết, nhà cửa rách nát tiêu điều. Một anh tôi vừa mới trình diện đi “cải tạo” theo diện sĩ quan, một anh khác kế tôi trước kia là Thượng sĩ Hải Quân, có nhà cửa trong khu gia binh ở Thị Nghè, nay rã ngũ phải bỏ tất cả, ra đi mình không dẫn vợ con về quê cất chòi lá ở tạm ngay bên cạnh nhà tôi. Cộng-sản chiếm miền Nam chưa được bao lâu, nhưng họ đã ‘‘giải phóng” gia đình tôi gần như toàn diện!
Trong hoàn cảnh này tôi chỉ muốn ở lại phụng dưỡng mẹ già một thời gian, vì tôi biết là má tôi không còn sống được bao lâu nữa. Trong khi đó, tôi vẫn nghe ngóng theo dõi tin tức từ phía họ đạo ở Bến Tre. Tới ngày thứ tư, có người thân tín qua cho hay, chánh quyền xã Hiệp Hưng đã ra lệnh truy nã tôi vì rời xã quá thời hạn. Người này còn khuyên tôi đừng bao giờ quay trở lại, vì khi trở về sẽ bị bắt ngay. Tôi bắt đầu cảm thấy đang đi dần vào ngã rẽ và nghĩ là tôi phải ra đi. Dù chưa biết là sẽ đi về đâu, nhưng tôi phải đi khỏi nhà vì không muốn má tôi chứng kiến những tình huống tệ hại sẽ xảy ra.
Ngay hôm đó, tôi nhờ người liên lạc với cha Thạnh, lúc đó đang về thăm nhà tại họ đạo Mặc Bắc thuộc tỉnh Trà Vinh. Tôi dặn Thạnh ghé qua nhà gặp tôi, trên đường về giáo xứ Quới Sơn của anh. Vừa nhận được lời nhắn của tôi, Thạnh vội vàng lên ngay, mặc dù anh chưa định trở về Bến Tre hôm đó. Gia đình tôi tiếp Thạnh rất niềm nở vì Thạnh là người bạn thân của tôi và thường ghé thăm má tôi và chị Hai. Mọi người coi Thạnh như một thành phần trong gia đình và mỗi khi Thạnh ghé nhà là một dịp vui, trong những bữa cơm có Thạnh lúc nào trong nhà tôi cũng rân ran tiếng cười.
Trong lúc chị hai tôi giết gà làm cơm, tôi kéo Thạnh ra góc sân để nói cho anh biết về hoàn cảnh của tôi. Từ nhiều tháng qua, Thạnh là người duy nhất tôi giải bày hết mọi tình huống xảy ra ở họ đạo La Mã và cũng chính Thạnh đã rất nhiều lần tới chơi để hỗ trợ tinh thần tôi trong giai đoạn tôi gặp nhiều khó khăn đó.
 
Hoàn cảnh tôi thì Thạnh không còn lạ gì nhưng hôm nay nghe tôi kể lại diễn tiến câu chuyện đã đi vào ngõ bí, Thạnh buồn rầu hỏi:
- Mầy định đi luôn không quay trở lại nữa à?
Chúng tôi vẫn gọi nhau “mầy tao” theo cách gọi thân mật của bạn bè người miền Nam. Tôi lắc đầu nói:
- Mầy tính coi, tao quay lại đâu nữa bây giờ? Họ đạo thì tao đã bàn giao cho ông Quang rồi, còn ở nhà này thì tao không có hộ khẩu, vài ngày nữa họ cũng sẽ qua tìm tao thôi. Ở sao được mà ở?

Thạnh nghe qua biết là câu chuyện nghiêm trọng lắm. Anh trầm ngâm không nói năng gì. Trong lúc suy tư, Thạnh lần túi móc bao thuốc lá “Sài Gòn Giải Phóng” ra, rút hờ cho tôi một điếu, anh gắn một điếu vào môi và bật lửa bao diêm. Lúc đang mồi thuốc cho tôi Thạnh hỏi:
- Bác Năm và chị hai biết chuyện này chưa?
Tôi rít một hơi thuốc thơm, ngước mặt lên nhả khói lắc đầu:
- Chưa, tao không dám nói với má và chị hai. Má thì đang đau yếu quá, còn chị hai, có nói thì chị cũng thêm lo, ích lợi gì! Tao chỉ nói chuyện này với mầy. Tao quên nói, hôm từ Bến Tre về tao có ghé qua nhà Khánh ở Vĩnh Long nhờ làm giúp tao tờ giấy đi đường giả, biết đâu có lúc sẽ dùng tới.
Thạnh vốn là người ít va chạm và không quen xoay xở trước nghịch cảnh, nên chỉ nghe tôi mà không có ý kiến gì. Thực ra tôi cũng không mong gì nơi Thạnh, tôi chỉ cần có người bạn hiểu hoàn cảnh tôi trong lúc này. Mọi việc sắp tới tôi đã tạm có kế hoạch trong đầu và tôi nhờ Thạnh một việc khác. Thạnh trầm ngâm hỏi:
- Việc này tao cũng chẳng biết tính sao. Mầy nghĩ tao có thể làm được gì để giúp mầy trong lúc này không?
Tôi cảm động vì câu hỏi của người bạn thân, mặc dù tôi biết là Thạnh không thể làm gì được để giúp tôi, nhưng tôi cố ý gặp Thạnh vì một chuyện khác. Tôi nói thẳng ý mình:
- Tao nghĩ là chưa cần mầy giúp gì trong lúc này, nhưng điều quan trọng tao muốn gặp mầy hôm nay là khi tao đi rồi, tao muốn nhờ mầy thay tao thỉnh thoảng về thăm má. Má đang yếu quá tao sợ má không sống lâu. Nếu khi má mãn phần mà không có tao thì mầy thay tao lo an táng và dâng Lễ cho má. Tao chỉ mong có vậy thôi, mầy hứa đi cho tao yên lòng.
Nghe tôi nói thế, Thạnh lộ vẽ xúc động trông thấy. Anh không lên tiếng nhưng quay mặt đi nhìn ra phía bờ lộ và khẻ gật đầu. Tôi nắm lấy bàn tay người bạn thân Linh mục bóp mạnh thay cho lời cám ơn. Cùng lúc đó có tiếng chị hai gọi từ hàng hiên nhà: “Hai chú Đực Mẫm vô ăn cơm nè! Làm gì mà đứng rù rì ngoài đó?”
Chi hai vẫn gọi tôi các trìu mến là “Đực Mẫm”, đó là tên con trâu đực trong bầy trâu của gia đình ngày tôi còn nhỏ đi chăn trâu. Hồi nhỏ tôi mập mạp tròn trịa giống như con trâu đực Mẫm, và chị hai cứ thế mà gọi tôi là “thằng Đực Mẫm”.  Lúc đầu tôi cự nự không chịu cái tên đó, nhưng dần dần rồi cũng quen. Về sau này lớn lên, khi tôi đã làm Linh mục rồi, chị vẫn gọi tôi bằng cái tên thân thương đó trong chỗ riêng tư ở gia đình. Vì Thạnh là bạn thân của tôi và chị coi Thạnh như người em nên chị cũng gọi Thạnh là “Đực Mẫm” luôn cho tiện, mặc dù Thạnh gầy ốm không giống con Đực Mẫm thật chút nào. Cả hai chúng tôi rất thích cái tên ấy. Có nhiều lần viết thư cho chị, tôi ký tên là “Đực Mẫm!”
Trong lúc ngồi ăn chúng tôi cố giữ vẻ tự nhiên như không có gì xảy ra, mặc dù trong lòng tôi nghĩ có thể đây là bữa ăn cuối cùng tôi còn ngồi ăn chung mâm với má tôi, và có thể là với tất cả mọi người trong gia đình.
Sau bữa ăn, tôi nhặt một ít đồ đạc cho vào cái túi xách bằng ny lon màu đỏ. Tôi từ giã mẹ già và chị ra đi, nói là đi Sài Gòn  ít hôm  rồi sẽ trở lại. Tôi ngồi trên xe gắn máy của Thạnh, rời nhà ra đi thẳng, không dám quay đầu lại từ giã mẹ già. Lúc ấy mặt trời đã xế về Tây. Tôi cỡi xe Honda, Thạnh ngồi phía sau, chúng tôi yên lặng không ai nói câu gì trên đoạn đường hai cây số gồ ghề đá sỏi từ nhà tôi ra lộ cái. Ra tới ngã ba dẫn vào tỉnh lộ, tôi rẽ về phía trái và trực chỉ về hướng Vĩnh Long, để rồi từ đó sẽ lên Bắc Mỹ Thuận theo quốc lộ 4 đi Sài Gòn. Đó là lần cuối cùng mẹ con thấy nhau trên cõi đời.
 
Xa rời điểm tựa
 

Khi tới ngã ba Trung Lương thì trời đã xế chiều. Ngã ba Trung Lương với nhiều hàng quán, nơi tôi vừa đi qua mấy ngày trước, là nơi quốc lộ 4 rẽ vào hai tỉnh Mỹ Tho và Bến Tre. Chúng tôi vào một quán nước ngồi nói chuyện một lúc. Sau khi rời quán và cùng đứng chờ xe trước giờ chia tay, gương mặt Thạnh lộ vẻ u buồn và cả hai không ai nói với ai một lời.  Khi có chiếc xe lô từ xa chạy tới, Thạnh một tay giơ lên đón xe, trong lúc tay kia cho vào túi quần vơ số tiền giấy, có tờ đã nhàu nát, ấn tất cả vào tay tôi và nói bằng giọng đứt quãng xúc động: “Mầy cầm lấy, tao biết mầy sẽ cần. Đi bình yên gặp nhiều may mắn, khi nào có dịp nhớ liên lạc về tao. Thôi mầy đi!”. Sau câu nói, Thạnh quay nhanh và đi lại chiếc xe gắn máy đang dựng trước cửa quán, quên cả bắt tay từ giã tôi và cũng chẳng cần nghe tôi nói. Tôi hiểu Thạnh quay đi để che giấu sự xúc động. Tôi nhét mớ tiền vào túi quần, bước vội lên xe vừa thắng gấp bên lề, tôi nhìn Thạnh nói lời từ giã: “Mầy ở lại mạnh giỏi, cầu nguyện cho tao. Nếu còn sống, sẽ có ngày gặp lại.” Tôi bước lên xe như một người máy!
Đây là lần đầu tiên tôi ra đi nhưng chẳng có một nơi đến cố định, thật ra lúc bấy giờ tôi cũng chẳng biết mình sẽ ở đâu và làm gì sau khi tới Sài Gòn. Tôi nghĩ thầm là mình đang cất bước vào ngả rẽ của cuộc đời. Tự nhiên tôi có cảm giác nhẹ nhàng và sảng khoái của người vừa trút bỏ một gánh nặng. Tôi hoàn toàn tự do, không còn bị ràng buộc bởi trách nhiệm như trước đây. Từ đây, tôi có thể đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ chuyện gì và có thể lăn xả vào bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống. Nhưng rõ rệt hơn vẫn là tâm trạng bất an. Tôi bỗng thấy mình giống như con thú bị săn đuổi phải chạy ra khỏi khu rừng âm u là nơi trú ẩn an toàn và đang phơi mình trên một quãng đồng trống có nhiều thợ săn và cạm bẫy vây quanh. Tôi cũng biết là mình có thể lãnh nhận cái chết bất cứ lúc nào và bằng kiểu gì! Nói tóm lại, tất cả đều có thể, kể từ lúc tôi bước chân lên xe và bỏ tất cả quá khứ lại phía sau, một quá khứ nhiều biến động của 33 năm cuộc đời, trong đó có sáu năm là Linh mục. Tôi bất giác tự nghĩ thầm: “Từ nay cuộc đời tôi đi vào nơi vô định! Hôm nay là ngày đầu tiên, hãy ghi nhớ lấy. Cuộc đời rồi sẽ ra sao trong thời gian tới? Hãy cố gắng ghi nhớ từng ngày, từng sự việc và nếu sau này còn sống, phải viết lại như một vở kịch mà đây là màn đầu”.
 
 
Bước thời gian
 
Lúc tôi đang ngồi nhắm nghiền mắt tựa đầu vào thành ghế khá cao của xe lô Minh Chánh, bất chợt những hình ảnh xa xưa từ thủa ấu thơ lại hiện về và nhảy múa  trước mặt tôi.
Tôi sinh ra và lớn lên trong thời kỳ chiến tranh ở vùng quê thuộc tỉnh Vĩnh Long, miền đồng bằng sông Cửu Long. Cha má tôi làm nghề nông và có năm người con, một gái đầu và bốn trai tiếp theo mà tôi là con út trong nhà. Chị cả tôi, trong Nam gọi là chị Hai, lớn hơn tôi mười lăm tuổi. Vì là con gái lớn trong gia đình nên chị tôi rất vất vả lo lắng việc nhà cửa và chăm lo cho các em, nhất là tôi. Do đó, tôi rất thương và gần gũi với chị mà tôi coi như một người mẹ thứ hai.
      Gia đình tôi theo đạo Công giáo tới tôi là đời thứ ba và sống trong một khu vực đông người có đạo quây quần chung quanh ngôi thánh đường trong làng, có tên là Nhà thờ Bưng Trường. Lúc đó họ đạo Bưng Trường này chỉ là họ nhỏ nên không có Linh mục coi sóc và trực thuộc vào họ đạo Mai Phốp cách đó 4 cây số. Trung tâm thế giới tuổi ấu thơ của tôi là ngôi Nhà thờ này cùng với những buổi đọc kinh, những dịp lễ, những lần bọn trẻ con chúng tôi quét dọn và làm cỏ chung quanh Nhà thờ. Phía bên ngoài đầu nhà thờ có một đống đá xanh thật to nằm dưới gốc cây xoài lão trơ nhiều cành khô. Có lẽ đống đá xanh này còn dư lại sau khi xây nhà thờ và được chất vào đấy xem chừng đã lâu nên cỏ mọc um tùm chung quanh. Bên cạnh đó có đám ngải thật cao và nhiều hoa. Tôi thường cắt những hoa ngải to và rất thơm này đem chưng trên bàn thờ Đức Mẹ. Mùi thơm của hoa ngải làm tôi nhớ mãi. Sau này khi lớn lên, bất cứ nơi nào vô tình có mùi hoa ngải là tôi lại nhớ đến những bông hoa ngải tôi chưng trên bàn thờ Đức Mẹ năm xưa.
Trong thế giới của tuổi ấu thơ, tôi cũng còn ghi đậm nét hình ảnh của các Nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn sống trong ngôi nhà nhỏ bên cạnh nhà thờ. Chúng tôi gọi các Nữ tu rất dễ thương và đầy hy sinh này là các Dì. Nếu lớn tuổi thì chúng tôi gọi là Bà. Lúc nào cũng chỉ có hai Dì ở trong ngôi nhà đó để coi sóc nhà thờ và dạy học cho bọn trẻ con chúng tôi. Vừa dạy đọc dạy viết, vừa dạy giáo lý và các việc đạo hạnh. Tôi thấy cha má tôi và những người lớn tuổi khác trong vùng rất thương và kính trọng các vị Nữ tu này. Còn bọn trẻ chúng tôi thì khỏi phải nói, vừa thương lại vừa sợ các Dì. Các Dì thương trẻ con, hay cho chúng tôi bánh kẹo, nhưng cũng hay cho ăn đòn. Nếu có lỗi, các Dì bắt xòe bàn tay ra và dùng thước kẻ khẻ vào đó. Con gái ít khi bị đòn nhưng bọn con trai, nhất là tôi thì gần như không ngày nào là không được “ăn” vài cây thước kẻ vào lòng bàn tay. Thật đúng với câu: “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò!”
Khi vừa đủ trí khôn, tôi đã bắt đầu quen với tiếng súng tiếng bom và hình ảnh của chiến tranh. Những hình ảnh tôi ghi nhận đầu đời, trong đó có những người lính Pháp phần đông là da trắng, cũng có một số ít da đen mà người ta gọi là Tây trắng, Tây đen. Tiếng họ nói tôi không hiểu, tôi cũng chẳng biết họ là ai và tại sao lại có mặt ở đây. Nói tóm lại, tôi chẳng biết gì về người Pháp lúc bấy giờ, chỉ biết là họ cao lớn, mắt xanh, mũi nhọn và họ có uy quyền hơn người Việt Nam. Tôi rất sợ mỗi khi trông thấy họ, nhưng tôi sợ Tây đen hơn Tây trắng.
Tôi cũng có nghe biết rất sớm hai tiếng Việt Minh và tôi cũng sợ họ không kém gì sợ Tây trắng Tây đen. Lúc đó, tôi chưa đủ trí khôn nên không biết gì về tình hình đất nước, chỉ biết là đang có chiến tranh, có tiếng súng, có người chết. Tôi thấy có khá nhiều xác chết trôi sông nhưng không biết họ là ai, và ai đã giết chết họ. Bọn trẻ chúng tôi thường gọi nhau chạy xuống bến sông phía sau nhà thờ để coi những xác chết trôi qua mà chúng tôi gọi là “thằng chổng”. Tại sao gọi những xác chết trôi sông là “thằng chổng” thì tôi không biết. Có lẽ vì những xác người đó hầu hết  đều úp mặt xuống và chổng mông lên trời nên chúng tôi gọi là thằng chổng. Suốt tuổi ấu thơ tôi đã thấy rất nhiều “thằng chổng” trôi ra trôi vào theo con nước trên dòng sông, ruồi nhặng bu quanh hàng đàn. Có xác trôi riêng, có xác trôi lẫn lộn với những dề lục bình trên sông. Thỉnh thoảng lại có những xác chết trôi không đầu. Nhiều lần tôi thấy những xác bị trói hai tay về phía sau. Có xác mặc áo, có xác cởi trần. Đủ hình, đủ kiểu và đủ dạng xác chết trôi. Ánh nắng mặt trời làm những xác người chết này bị cháy nám đen.
Có lần “thằng chổng” tấp vào ngay dưới bến nhà thờ. Bọn trẻ con chúng tôi ùa chạy ra coi. Thậm chí có đứa lấy đất ném! Những lần như thế chỉ có bọn con trai ra bờ sông coi, còn con gái nhát đảm chẳng đứa nào dám ló mặt. Khi biết bọn tôi nghịch, Dì phước la rầy bắt chúng tôi trở vào và gọi những người lớn giúp đẩy xác chết ra xa cho trôi theo dòng sông. Sau đó Dì bắt chúng tôi vào nhà thờ và dạy cho biết là không được nghịch ngợm đối với các người đã chết như vậy, nhưng phải biết thương và cầu nguyện cho linh hồn những người bất hạnh đó.
Ngoài ngôi Nhà thờ ra, tôi chỉ còn thấy được hai thứ khác bằng gạch đá. Đó là cái cầu cống ngay sau nhà các Dì và cái ống bộng rất to, được đặt ngang dưới mặt đất của con lộ đá cách đó không xa. Ống bộng này, có lẽ tới hơn thước đường kính dùng để dẫn nước từ đập nhà thờ vào con kinh phía trong và đưa nước lên cánh đồng. Nó được đúc bằng loại đá trứng, tức là loại đá tròn nhẵn màu trắng đục và nhỏ như trứng chim cút. Sở dĩ tôi nhớ cái ống bộng này vì bọn trẻ con thường tới đó tắm và ngồi trên ống bộng chơi mỗi khi nước cạn. Khi nước đầy chúng tôi không dám xuống vì lúc nước ròng chảy ra sông rất mạnh. Nước rút vào ống bộng tạo thành một lỗ tròn xoay tít, kéo các dề lục bình chìm xuống và chui ngang qua ống cống ra phía bên kia. Có khi từ lỗ nước xoáy đó còn phát ra tiếng hú làm cho lũ trẻ nghe thấy mà kinh hồn.
Chị Hai tôi vẫn cấm tôi không được bén mảng tới cái cống đó lúc nước lên. Chị còn bảo là bên trong cái ống bộng đó có một vỉ sắt chặn ngay khoảng giữa, và đứa trẻ nào bị ống bộng hút vào sẽ bị kẹt chết ngộp trong đó. Điều chị nói làm lũ trẻ sợ. Để tìm hiểu, có những lần tôi ném những dề lục bình bên này thì thấy ống cống hút vào và nhả ra bên kia, như vậy làm sao có cái vỉ sắt chặn bên trong được! Mặc dù đã thí nghiệm như thế nhưng tôi vẫn tin vào lời chị tôi nói. Cho tới một hôm nước ròng cạn và cái ống bọng to tướng đó nằm bên trên mặt nước, tôi tò mò bước xuống nhìn vào và thấy bên trong cái ống bộng trống rỗng từ bên này qua bên kia. Lúc đó tôi mới biết là chị tôi nói vậy để dọa đám trẻ con đừng có bén mảng tới chỗ sông sâu nước chảy này.
Còn cái cầu cống sau nhà Dì phước là cây cầu bằng xi măng bắc qua mảnh vườn trồng rất nhiều xoài của nhà dòng. Cầu cống này được xây khá cao theo hình vòm cung để các xuồng ghe có thể chui qua được. Dưới chân cống có những vòng bằng sắt nhô ra và bọn trẻ con hay bám vào các thanh sắt đó khi tắm. Chỗ này lúc nào cũng đầy nước nhưng không chảy mạnh và không nguy hiểm như ở miệng ống bộng dưới lộ đá.
Con lộ đá rộng băng ngang trước cửa nhà thờ và chạy dài ra đường liên tỉnh cách đó hai cây số. Từ lộ đá xuống tới bờ sông chừng vài trăm thước là khu vực có nhà cửa. Bên kia lộ là cánh đồng. Có nơi đã được khai phá cấy lúa nhưng rất nhiều chỗ còn bỏ hoang, cỏ lát và lau sậy mọc um tùm. Tôi không nhớ thấy xe hơi chạy trên con lộ đó, mặc dù có thể chạy một lúc hai chiếc xe cũng được. Tuy nhiên tôi nhớ có lính Tây và lính ta đi từng tốp khá đông dọc theo lộ. Tôi nghe nói là họ đi “ba-trui”,  nhưng tôi không hiểu đi “ba-trui” là đi đâu và tại sao ở nhà không ở mà lại đi “ba-trui” làm gì! Những lần có người đi “ba-trui” như vậy, các Dì phước thường giữ trẻ con lại trong nhà thờ, không cho chạy chơi ngoài lộ đá như chúng tôi vẫn thường chơi lúc tan học hay trong giờ nghỉ xả hơi giữa các giờ học.
Dọc theo hai bên vệ đường có trồng nhiều cây cách quãng khá đều nhau,  mà người ta gọi là cây “dái ngựa”! Đây là loại cây to và cao, cành lá xum xuê, gốc cây cỡ bằng vòng tay ôm của người lớn. Cây có những trái màu xám to như cái bắp chuối, phình ở đầu và tóp lại phía cuối. Có lẽ vì cái hình dạng của trái cây trông giống như cái “dái ngựa” nên người ta dùng đặt tên cho cây đó, mặc dù tôi cũng chưa bao giờ thấy “dái ngựa” thực sự nó ra làm sao! Trái có vỏ rất cứng, đập ra bên trong có nhiều hạt to bằng hạt mít nhưng không ăn được. Bọn trẻ con  không đứa nào có thể trèo lên cây này, nhưng mấy anh lớn thì leo lên được và thỉnh thoảng bẻ trái ném xuống cho chúng tôi nghịch. Có những quả to gần bằng cái đầu của tôi lúc bấy giờ.
 
 
Ơn sinh thành dưỡng dục
 
Trong những năm đầu đời này chỉ có hai nơi mà tôi còn nhớ được nhiều kỷ niệm. Đó là trong gia đình tôi và ngôi Nhà Thờ. Với các anh trai, tôi không nhớ được nhiều kỷ niệm, nhưng riêng chị Hai là người để lại trong tôi nhiều tình thương và kỷ niệm nhất. Cha tôi là người nghiêm nghị, rất đạo đức và có cuộc sống gương mẫu cho anh chị em chúng tôi. Má tôi ốm yếu và nghe nói là bị trận đau gần chết sau khi sanh tôi. Nghe như vậy tôi càng thương má nhiều hơn. Đối với cha má tôi, việc đọc kinh tối sớm trong gia đình là một quy luật và không bao giờ được bỏ qua. Mỗi tối trước khi đi ngủ cả nhà phải ngồi ngay ngắn trước bàn thờ để đọc kinh. Các tối ngày thường thì đọc kinh tắt, nhưng thứ Bảy và Chúa Nhật thì lần chuỗi, và như thế buổi kinh sẽ dài hơn. Không hiểu làm sao lúc đó tôi rất sợ các buổi đọc kinh này. Có lẽ đối với tuổi thơ, đọc kinh như thế quá dài và mệt nhọc, nhất là trẻ con thì hay buồn ngủ. Khi đọc kinh các anh chị tôi phải ngồi trên ghế ngay ngắn, còn tôi vì còn bé nên ngồi xếp bằng bên cạnh má trên bộ ván ngựa.

Chị Hai tôi là người quán xuyến việc nhà cửa và lo cho các em, nhất là cho tôi. Sau này lớn lên tôi biết là má tôi bị đau tim nặng nên không làm được việc nhà vì thế vai trò của chị Hai càng nặng nề hơn. Lúc nhỏ tôi hay bị ăn đòn và chị Hai là người đánh tôi nhiều nhất, nhưng chị đánh không đau, chỉ giơ thẳng bàn tay ra vả tôi nhẹ như đuổi muỗi. Dù vậy tôi cũng giả vờ kêu lên để chị vui và tưởng là cú đòn có hiệu quả. Tôi bị chị đánh nhiều nhất là tội ở dơ và thường tắm lội dưới ao bên hè nhà, chị gọi không chịu lên, hoặc lên mà lên trễ. Chị có thói quen vừa nắm cánh tay tôi vừa mắng: “Coi mặt mày mầy nè, mầy ở dơ như tù!” Miệng nói tay kia giơ lên cao và vảnh bàn tay lên dọa nạt. Thấy thế tôi lấy hai tay che mặt và cúi rụt người xuống né tránh. Trong mười lần dọa thì chín lần chị dừng tay. Trừ ra trường hợp nghiêm trọng thì chị vả cho mấy cái, nhưng toàn trúng vào hai bàn tay của tôi nên những cú đòn đó cũng chẳng có ép-phê gì! Thỉnh thoảng má cũng đánh đòn tôi, phần nhiều là đánh bằng roi. Má bắt nằm sấp cúi mặt xuống bộ ván ngựa. Và mỗi lần má đánh đòn đều có thủ tục khá lâu. Má cầm roi bằng một que tre nhỏ, nhịp nhịp hàng chục lần vào mông thằng bé và bắt đầu kể đủ mọi thứ tội của tôi ra, kể từ tội “tổ tông” trở xuống. Sau khi xong thủ tục, má tôi hỏi:
- Như vậy mầy muốn mấy roi?
Tôi nằm yên trả lời:
- Con muốn hai roi!
Má tôi cầm roi nói:
- Không được, tội này phải năm roi.
Có mấy lần tôi mặc cả xin bớt nhưng không mấy khi có kết quả, nên về sau tôi không xin bớt nữa và nằm yên chịu đòn. Má đánh không đau, vì roi là nhánh tre nhỏ như chiếc đũa và khi cảm thấy có triệu chứng ăn đòn thì tôi đã mặc thêm một lớp quần nữa rồi, nên tiếng roi nghe khá mạnh mà không đau nhiều. Dù vậy nhận đòn xong tôi cũng xoa mông, vừa khóc vừa quỳ xuống chắp tay: “Lạy má, con không dám vậy nữa!”  Má tha, nhưng cầm roi chỉ theo và nói: “Đánh cho mầy chừa tội!” Nhưng rồi mấy hôm sau, chứng nào vẫn tất ấy.
Thường thì má tôi chỉ đánh qua loa để dạy con, nhưng cái tội nặng nhất mà tôi phải ăn đòn đau là tội hỗn với chị Hai. Không phải chỉ riêng tôi mà mấy anh lớn của tôi cũng vậy, nếu hỗn với chị Hai là bị má tôi cho ăn đòn đau đến nơi đến chốn. Có lẽ má cũng gián tiếp xác định vị trí và uy quyền của chị Hai trên đám anh em chúng tôi. Cha tôi chẳng mấy khi đánh con. Trừ ra những khi chúng tôi có lổi gì rất nặng, như một lần tôi bị cha tôi đánh một trận đòn nhớ đời, vì hổn với chị Hai.
Lúc đó tôi chừng 9 hoặc 10 tuổi. Một buổi trưa tôi tắm sông trước nhà với mấy thằng bạn, chị Hai gọi mấy lần, tôi cũng không chịu lên. Lúc sau, chị cầm roi ra, gọi tôi lên bờ và quất vào mông mấy cái. Có lẽ vì xấu hỗ với bạn bè nên tôi dại dột, chụp lấy roi trong tay chị, bẽ gảy và quăng xuống đất. Má tôi ngồi trong nhàø nhìn ra chứng kiến cảnh này, nên gọi tôi vào và nói là tôi đã phạm tội rất nặng, phải để cha tôi xử.
 
Chiều lại, khi cha tôi đi ruộng về, nghe má thuật lại câu chuyện. Cha tôi chưa kịp tắm rửa đã lấy cây roi tre, gọi tôi nằm dài dưới đất. Trước khi đánh đòn, cha tôi nói: "Bây giờ tao với má mầy còn sống mà mầy đã đối với chị Hai mầy như thế, sau này khi tao và má mầy chết đi rồi chắc là mầy không còn coi chị mầy ra gì.” Nói xong cha tôi quất thẳng tay vào mông tôi một trận đòn dữ dội. Má tôi thấy tôi bị đòn nhiều lên tiếng xin, nhưng cha tôi vẫn không ngừng tay. Chị Hai tôi thấy vậy, vội chạy lai giằng lấy tay cha tôi và kéo tôi đứng lên, lúc đó cha tôi mới chịu ngưng tay. Khi tôi vừa đứng lên, cha tôi bảo tôi quỳ gối lạy chị Hai xin lỗi. Khi tôi lạy, chị xoa đầu tôi và kéo tôi đứng lên, nắm cánh tay dẩn ra bờ sông rửa mặt cho tôi. Trong lúc tôi ngồi trên cầu ván khóc tức tưởi, tôi nghe tiếng khóc sụt sùi của chị Hai, và chị quàng tay ôm tôi vào lòng. Một cữ chỉ hiếm hoi để bày tỏ tình thương của chị, vì ít khi nào chị làm như vậy, mặc dù chị rất thương tôi.
Trong nhà anh chị em tôi sợ cha hơn là sợ má. Còn chị Hai thì khỏi phải nói, dù sợ hay không sợ thì ngày nào tôi cũng phải qua tay chị. Nhất là chiều tối lúc chị tắm kỳ cọ cho tôi, lần nào cũng mắng: “Coi nè, mầy ở dơ như tù!”  Không lần nào chị không nói câu đó.
 
 
Các Nữ Tu
 
Ngoài gia đình với nhiều kỷ niệm của tuổi thơ, còn có cái nhà “bánh ít”  phía sau nhà thờ là nơi tôi có nhiều kỷ niệm nhất trong sáu năm đầu cuộc đời. Sở dĩ gọi là “nhà bánh ít” vì nó trông giống như một cái bánh ít, nằm dính vào sau nhà thờ dùng làm nơi nghỉ ngơi cho cha sở khi lên thăm họ nhỏ và lúc khác thì kê bàn cho các Dì dạy trẻ con. Các Nữ tu này mặc áo dòng đen từ cổ tới gót chân, trên đầu lại có cái lúp đen phủ xuống tới lưng và bên trong có bọc vải trắng che cả đầu và tai. Như thế chỉ từ trán trở xuống tới cổ và hai bàn tay là không che kín. Khi các Dì đứng chúng tôi không thấy cả bàn chân, nhưng khi ngồi thì thấy bàn chân mang guốc. Việc dạy học chẳng có trường lớp gì, chỉ dạy nhìn mặt chữ trong cuốn vần có hình con rùa và con thỏ ngoài bìa.
Các Dì được sự tin cậy thương mến và kính nể của bà con trong vùng. Còn chúng tôi xem các Dì như những người mẹ trong gia đình. Các Dì dạy dỗ, sửa phạt và đánh đòn chúng tôi nhưng chẳng ai lấy thế làm phiền. Nói cho cùng, chúng tôi cũng đáng bị ăn đòn lắm! Tôi còn nhớ có lần tôi bị Dì Ba phạt vì tội ăn vụng cơm rượu, có nơi gọi là rượu nếp. Dì Ba có một hũ rượu nếp để trong nhà bếp. Tôi thèm quá, nhân lúc Bà lên nhà thờ, tôi bóc ăn gần một phần ba hũ, chẳng may bị cô em họ tên là Sương bắt gặp và “báo cáo”! Bà Ba không đánh nhưng trói tay tôi lại và cho ngồi chung với con gái trong “nhà bánh ít” cho tôi xấu hổ vì tội ăn vụng!
Ngoài giờ học, bọn trẻ con chúng tôi thường ở chơi trong nhà các Dì và được các Dì cho ăn bánh, ăn xoài... Lúc bấy giờ vườn các dì có rất nhiều xoài và những trái cấm này đã trở thành cơn cám dỗ triền miên. Nhiều đứa trong bọn trẻ bị ăn đòn cũng vì chọi xoài và lén bẻ xoài còn non. Các Dì lúc nào cũng bảo chúng tôi chờ cho xoài chín sẽ hái cho ăn, đừng ném đá rụng hết. Nhưng chúng tôi làm gì có đủ kiên nhẫn chờ cho xoài chín! Biết đời thuở nào nó mới chín trong khi mỗi ngày đi học băng qua vườn xoài, lúc nhìn lên những trái xoài treo tòn ten là đã thèm nhỏ dãi!
 
 
Chân trời mới
 
Tôi sống với kỷ niệm êm đềm đó tới năm 1949. Năm đó tôi tròn 6 tuổi và cũng là năm gia đình tôi phải tản cư về gần họ đạo Mai Phốp nơi có cha sở cai quản, lúc bấy giờ là cha Lê Vĩnh Trình.
Dĩ nhiên, lúc đó tôi không biết tại sao phải tản cư. Cho tới nay, tôi chỉ còn nhớ được hai việc trong cuộc tản cư này. Việc thứ nhất, tôi được đặt ngồi trên chiếc bè mà cha tôi đã kết lại bằng gỗ, được tháo gỡ ra từ nhà cũ và thả trôi theo dòng sông 2 cây số ra tới Cầu Vĩ. Ở tạm tại đó một thời gian, rồi từ đó mới theo lộ xe hơi đi thêm 2 cây số để tới chỗ ở mới gọi là Cầu Đá, và từ đây còn cách nhà thờ Mai Phốp thêm 2 cây số nữa. Việc thứ hai là khi tới Cầu Vĩ, gia đình tôi ở nhờ một gia đình lạ trong một thời gian ngắn, tôi không còn nhớ bao lâu. Một hôm bà chủ nhà này làm bánh bò, tức là cho bột lỏng có đường vào trong các lon sữa bò hoặc lon cá mòi rồi cho vào nồi hấp cách thủy. Khi chín, bánh sẽ phồng lên rất thơm và hấp dẫn, bên trong có những lỗ trống nhỏ và dài thẳng lên gọi là “rễ tre” vì nó tua tủa giống như chùm rễ tre.

Hôm đó má tôi đi vắng và tôi ngồi cạnh nồi hấp chờ đợi và thèm thuồng. Nếu má tôi có ở nhà, chắc chắn bà chẳng đời nào cho tôi ngồi chực như vậy. Tôi vẫn nghĩ giống như những lần má tôi làm bánh, trước sau gì tôi cũng được ăn! Khi bánh chín, bà chủ nhà mở nắp vung ra, hơi bánh bốc lên thơm ngào ngạt, làm nước miếng tôi tuôn ra cuồn cuộn. Cặp mắt bé thơ của tôi nhìn gần như muốn thủng lỗ và làm thành “rễ tre” trên mặt mỗi cái bánh bò. Nhưng! Ôi chữ ‘nhưng’ thật quái ác. Bà chủ nhà vô tình chậm rãi lấy từng chiếc bánh ra khỏi nồi hấp, để cho nguội, xếp vào mẹt, đậy lại và... mang đi bán! Tôi ngẩn người tiếc rẻ vì chẳng được một chiếc bánh nào. Mấy chục năm sau, tôi vẫn còn nhớ kỷ niệm đau thương của tuổi thơ nghèo đói trong lúc tản cư này.
Trong đợt tản cư đó, gần như mọi gia đình Công giáo đều bỏ làng ra đi. Một số xuống Mai Phốp là một làng lớn, có khu vực người Pháp đóng, có chợ búa, nhà thờ, có cha sở, có trường học của nhà thờ và cả trường chính phủ mà lúc đó chúng tôi gọi là trường làng. Một số ít khác, trong đó có gia đình tôi thì tạm cư ở Cầu Đá, nằm cách Mai Phốp hai cây số cũng trên con đường liên tỉnh nối liền Vĩnh Long và Trà Vinh. Cầu Đá lúc bấy giờ là một ấp nhỏ, dân cư thưa thớt, không có trường học hay chợ búa gì. Tất cả mọi thứ sinh hoạt đều phải xuống Mai Phốp.
Sở dĩ có tên Cầu Đá vì trên tỉnh lộ có cây cầu bằng đá bắc ngang qua con sông nhỏ. Con sông này bề ngang chỉ độ mười thước, nối từ sông cái chạy dài vào cánh đồng ruộng bên trong. Dân chúng cất nhà dọc theo hai bên bờ sông rất đông. Con sông nhỏ này là nguồn cung cấp nước cho dân chúng sinh sống và trồng trọt, nhất là cho nhà nông làm mùa. Vì là sông đào nên nước lớn thì ngập cao đầu người, còn nước ròng thì cạn chỉ ngang đầu gối, có thể xắn quần lên cao và đi bộ qua bên kia được. Có những con nước rọt, đáy sông cạn queo, chỉ còn tới ngang mắt cá chân. Những lúc đó nhiều người thường be bờ tát nước bắt cá. Con sông này tuy nhỏ và cạn nhưng cá thì nhiều vô kể. Khi nước lớn, cá nước ngọt từ ngoài sông cái theo dòng lội vào sông nhỏ và lên ruộng kiếm ăn. Nước ròng lại trở ra sông cái, nhưng ra chưa tới nơi đã có đoàn người lội xuống xúc cá, nôm cá, lưới cá, mò cá... Mùa mưa nước ngập thì cá lên sống tràn lan trên cánh đồng bát ngát bao la và sinh sản ở đó. Đến mùa khô cá rút xuống sông hàng đàn hàng đống. Có những vùng đất hoang, nước ngập quanh năm và cá sống ở đó từ năm này qua năm khác sanh sôi nẩy nở.
 
 
Cái thú nhà quê
 
Tuổi trẻ tôi lớn lên trong cánh đồng ruộng mênh mông về mùa nào cũng có cá, chỗ nào cũng có cá. Ban ngày thì bắt cá theo ban ngày, ban đêm thì cầm đèn ra ruộng đi soi bắt cá ban đêm. Nhất là về mùa khô, trên ruộng bắt đầu cạn nước, đàn cá sau một năm tung hoành và sinh sản trong ruộng lúa, bắt đầu tìm đường ra sông. Chính lúc này những người mê cá như tôi hoạt động hăng hái nhất. Cách bắt cá nhanh và đơn giản nhất là móc hầm chặn ngang đường cá đi. Ban đêm cá tới đó bị chặn ngang, bực mình lấy đà phóng và rơi ngay vào hầm. Sáng ngày anh em chúng tôi chỉ việc lấy bao tải hốt cá vào và è cổ gánh về nhà làm mắm. Lúc đó cả làng ai cũng kiếm được cá nên ăn không hết và cũng chẳng bán cho ai được. Do đó nhà nào cũng làm một hũ mắm cá để khi mùa khan hiếm cá thì có mà ăn.
Ngoài cá ra còn hai thứ khác cũng làm tôi chết mê chết mệt là chim và chuột đồng. Chuột sanh sôi nẩy nở rất nhiều và rất nhanh trên các cánh đồng lúa, nhất là sống trong vùng đất hoang vu chưa khai phá. Cái thú nhà quê của đứa trẻ con nhà nông như tôi biến quãng đời thơ ấu đó thành chuỗi ngày thần tiên. Dần dần tôi đã trở nên một “chuyên viên” trong việc đánh bắt cá, bắt chim và bắt chuột lúc nào tôi cũng không hay. Chẳng những tôi thích bắt chim bắt chuột mà còn phải làm sao tìm cách nào bắt cho hữu hiệu và nhiều hơn người khác. Kỹ thuật của tôi trong phạm vi này luôn được cải tiến.
Cha tôi cũng cất nhà trên bờ sông nằm cách đường lộ liên tỉnh chừng hai trăm thước. Bên cạnh đó cũng có vài gia đình bà con của tôi, còn lại hầu hết là những người đã làm ăn sinh sống ở đây từ lâu. Tôi bắt đầu giai đoạn mới của tuổi trẻ. Hàng xóm mới, bạn bè mới nên buổi ban đầu tôi rất bơ vơ lạc lõng ở xứ Cầu Đá xa lạ này. Cũng may là có gia đình Ông Tám ở cách nhà tôi không xa. Ông Tám là em của bà Nội tôi, cũng vừa tản cư trong đợt này. Ông Tám có người con út mà tôi gọi bằng chú tên là Hữu, chú út Hữu, chỉ lớn hơn tôi một tuổi nên hai chú cháu chơi với nhau từ nhỏ. Mặc dù hai chú cháu có nhiều lúc hục hặc nhau nhưng không thể nào thiếu nhau được.
Nếu những năm đầu đời ở Bưng Trường, tôi chỉ quanh quẩn trong khu vực nhà thờ và nhớ mãi về những xác chết trôi sông, thì về Cầu Đá này, thế giới của tôi mở rộng hơn. Một phần lúc này tôi đã lớn hơn một tuổi và ở đây dân chúng đông hơn, nhờ đó tôi có nhiều bạn trẻ con cùng trang lứa. Phần đông những đứa bạn này sống ngay cạnh nhà và thường rủ nhau bày ra đủ mọi thứ trò chơi của trẻ con như đánh đáo, bắn bi, làm nhà chòi... và nhiều thứ trò chơi khác mà trí tưởng tượng của chúng tôi lúc bấy giờ có thể nghĩ ra được.
Trong thời gian này nếu tôi say sưa với cá, chim, chuột và các trò chơi bao nhiêu, thì ngược lại tôi sợ đi học bấy nhiêu! Tôi đã phải ăn đòn không biết bao nhiêu vì sự tương phản quái ác này. Không biết là may mắn hay rủi ro, khi gia đình tôi vừa về Cầu Đá thì cha sở Lê Vĩnh Trình cho cất trường học ngay bên kia sông đối diện với nhà tôi bên này. Ngôi trường rộng rãi khang trang và lợp ngói này không phải cất bằng vật liệu mới, nhưng là mua lại một nhà cũ, có lẽ,  vì tản cư phải bán đi. Vì ngôi trường đối diện ngang nhà tôi và có cây cầu khỉ bắc ngang sông, nên tôi nhớ rất rõ, cảnh bà con trong làng đưa trâu tới kéo cộ đất đắp nền nhà trường, và ngày khánh thành thật tưng bừng. Ngày đó dân làng tới tham dự rất đông. Có nhiều đồ ăn thức uống và bọn trẻ con chúng tôi cũng được ăn xôi với thịt gà.
Từ đó đám trẻ con trong vùng, cả người có đạo lẫn người ngoài đạo đều đưa con tới đó học với hai Dì phước Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn, từ nhà thờ Mai Phốp lên dạy học. Thời gian đầu bà con trong vùng phải cử các thanh niên sáng ngày đạp xe lôi chở các Dì lên dạy, chiều lại đưa về. Nhưng về sau, có lẽ, vì quá bất tiện nên nhà trường được ngăn ra một phòng riêng và hai Dì ở luôn trong trường Cầu Đá. Chương trình học chưa được quy định hẳn hoi. Bọn trẻ trong trường được chia làm hai lớp, gọi là Lớp Lớn và Lớp Nhỏ. Hai lớp ngồi chung trong một nhà chỉ ngăn ra bằng một vách ván cao vừa bằng đầu một người lớn. Bên Lớn thì học Sách Phần, tức là sách Giáo lý, còn bên Nhỏ thì học vần, cũng là vần con rùa và con thỏ. Tôi bắt đầu vào bên Nhỏ, và Dì dạy chúng tôi đánh vần. Ngoài cuốn vần con rùa và con thỏ, trong lớp cũng có những tấm bảng vuông chừng một thước tây bằng giấy thật cứng, có đóng nẹp tre và quai bằng dây kẽm để treo lên tường. Trên bảng có in các chữ cái theo thứ tự A B C D Đ E Ê... thật to để chúng tôi nhận diện và đọc tên.
Học Lớp Nhỏ một thời gian tôi được đưa qua bên Lớp Lớn. Lúc này chương trình cao cấp hơn là được học bản “cửu chương” tức là phép tính nhân và học sách phần, tức là sách Giáo lý. Lúc bấy giờ sách vở viết bằng chữ quốc ngữ, nhưng âm hưởng của chữ nho.
Mỗi buổi sáng sau khi đọc kinh và trước khi bắt đầu giờ học là Dì phước “kêu sổ”, mà sau này gọi là điểm danh. Khi Dì gọi tên ai có mặt thì lên tiếng “Dạ”. Những người vắng mặt nhưng có nhờ bạn xin phép thì người bạn đó phải nói lý do tại sao nghỉ học. Em nào nghỉ mà không xin phép là trốn học, khi vào trường lại sẽ bị phạt quỳ gối đội tập. Con gái không đứa nào trốn học, chỉ có bọn con trai chúng tôi là phạm vào tội này. Hình phạt quỳ gối đội tập tuy không nặng nề nhưng nhục nhã trước mặt bạn bè.
 
 
Sợ trường học
Hàng ngày tôi vẫn phải cắp sách lần theo cầu khỉ trước nhà qua bên kia sông đi học, trong khi có mấy đứa bạn cùng tuổi lại không đi học, được tự do chạy nhảy, rượt chuột, bắt chim, lưới cá trong cánh đồng ruộng sau nhà. Mấy đứa bạn này gia đình nghèo phải ở nhà làm ruộng giúp gia đình. Có mấy đứa bằng tuổi tôi đi ở đợ chăn trâu cho những gia đình khá giả trong làng. Tôi phải cặm cụi trên những hàng chữ, những con số, những bài học thuộc lòng trong sách Giáo lý dài dằng dặc mà tôi cũng chẳng biết học để rồi làm gì? Kèm theo việc học lại còn bị ăn đòn nữa. Hết ở trường bị Dì phước đánh vì nghịch ngợm và không thuộc bài, tới về nhà bị chị Hai đánh cũng chỉ loanh quanh từng ấy tội. Lúc đó việc đi học đối với tôi là một cực hình. Một tuần lễ tôi phải đi học 5 ngày cả sáng lẫn chiều. Thứ Năm và Chúa nhật được nghỉ. Các ngày trong tuần của tôi được chia ra làm ba loại và mang các màu khác nhau:
- Thứ Năm: màu hồng vì được nghỉ cả ngày.
- Chúa Nhật: màu xanh, được nghỉ nhưng phải đi nhà thờ.
- Các ngày còn lại: màu đen, không cần phải nói lý do!
Vì cái tội ham chơi và lười học, nên tình trạng sức khỏe của tôi cũng biến thiên theo chu kỳ thay đổi màu sắc trong tuần. Nếu các buổi chiều thứ Tư, sau giờ tan trường về, tôi thấy người mình đầy sinh lực, hăng hái và khỏe mạnh, thì ngược lại các buổi sáng thứ Hai làm tôi mệt nhọc như không còn chút nhựa sống nào sót lại trong người.
Vào những ngày “đen”, quãng 7 giờ rưỡi sáng là có một hồi trống từ trường học vang lên, gọi là trống học, báo hiệu cho học trò tới trường. Một giờ sau Dì phước rung chuông bắt đầu vào lớp. Không hiểu tại sao mỗi lần nghe tiếng trống học là người tôi nóng ran lên và bắt đầu triệu chứng như bị sốt. Ngày nào cũng như ngày nấy, nghe tiếng trống học là tôi bệnh! Có khi chưa nghe tiếng trống mà chỉ vừa nghe hai tiếng nhịp rất nhẹ “thùng, thùng” của dùi trống chạm vào mặt trống, trước khi bắt đầu hồi trống học là tôi đã bệnh rồi. Tôi sợ đi học vô cùng, nhưng lại không dám trốn học, vì đó là một trong những tội trọng, không có trường hợp giảm khinh trong “bộ luật gia đình” của tôi.
Mỗi tuần chỉ nghỉ được ngày thứ Năm, nhưng không hiểu tại sao ngày thứ Năm mặt trời lại lặn sớm hơn những ngày khác trong tuần. Hiện tượng này làm tôi cứ thắc mắc hoài. Mấy đứa bạn học của tôi cũng nói như vậy. Nhưng người lớn thì không thấy ai để ý điều đó.
Những ngày thứ Năm tôi được theo cha và anh tôi đi ruộng. Buổi trưa được lùa đàn trâu 7 con của gia đình nhập với bầy trâu mấy chục con trong làng vào đất hoang. Ở đó nhóm trẻ chăn trâu chúng tôi tha hồ bắt chim, tát cá, rượt chuột là một thứ hạnh phúc không gì sánh bằng. Lúc đó tôi nghĩ trời sanh tôi ra, là để chăn trâu bắt cá và rượt chuột! Nhưng một tuần lễ chỉ có một ngày thứ Năm.
Tôi cầu mong cho có những ngày nghỉ bất thường, nhưng khó quá.
Muốn nghỉ học mà không có can đảm để trốn học, tôi chỉ còn cách là cầu nguyện cho Dì phước dạy lớp tôi đau. Từ đó tôi bắt đầu cầu nguyện theo ý này trong những đêm ngồi đọc kinh trong gia đình, “Xin Chúa cho Dì Tư đau, đau càng lâu càng tốt, nhưng đừng chết, chỉ đau thôi!” Tôi kêu xin cả với Đức Mẹ giúp tôi trong việc này nữa. Nhưng khổ nỗi, tôi càng cầu thì Dì Tư càng khỏe mạnh, hồng hào và đẹp người ra! Có một lần hình như Chúa cũng nghe lời tôi kêu xin. Một hôm tôi thấy Y sĩ Bá Phước Đường là một đông y người Hoa ở chợ Mai Phốp lên trường tôi. Nghe nói Dì Tư đau nên rước thầy coi mạch hốt thuốc. Tôi mừng thầm trong lòng!

Chiều tối hôm đó tôi hỏi má vừa đi thăm Dì Tư về coi bệnh tình Dì ra sao. Má đâu có biết là tôi hỏi thăm không phải vì quan tâm tới sức khỏe của Dì Tư mà vì một ý đồ không lương thiện. Tôi gần như muốn nhảy cỡn lên khi nghe má nói Dì Tư đau khá nặng, người nóng ran đang nằm trùm mền sau khi uống thuốc bắc và cạo gió đỏ cả cổ và hai bên thái dương. Má tôi cũng nói có nhiều bà con trong làng tới thăm và cho nhiều cam và hột gà, vì trong vùng ai cũng thương quý các Dì phước.
Mặc dù má tôi không nói, nhưng tôi cũng đoán là ngày mai Dì Tư không dậy được và chúng tôi sẽ được nghỉ học. Viễn ảnh về một ngày màu hồng và được tung tăng trên cánh đồng phía sau nhà để bắn chim, câu cá, rượt chuột làm tôi vui sướng rộn ràng. Sáng hôm sau vẫn có tiếng trống học, nhưng tôi đoán là bên Nhỏ đi học còn bên Lớn tôi được nghỉ, mặc dù tôi chưa nghe nói tới chuyện này. Thấy gần tới giờ rồi nhưng tôi chưa chuẩn bị đi học, chị hai tôi giục:
- Còn thằng ‘quỉ nhỏ’, sao tới giờ rồi mà chưa thay đồ đi học còn ngồi đó?
Chị Hai vẫn thường gọi tôi là “thằng quỉ nhỏ” và anh kế tôi là “thằng quỉ lớn”! Chắc là lúc đó anh em  chúng tôi chẳng vừa gì. Tôi ngần ngừ trả lời:
- Bữa nay Dì Tư đau mà đi học gì!
- Thằng làm biếng! Ai nói cho mầy là được nghĩ?
- Thì Dì Tư đau làm sao dạy được?
Chị tôi chỉ tay ra lệnh:
- Đi, đi mau, qua đó chừng nào Dì cho nghỉ thì về, đồ làm biếng!
Chi Hai tôi vẫn thường mắng tôi là “đồ làm biếng”. Chị mắng như vậy cũng không sai chút nào. Tôi buộc lòng phải thay đồ đi học và cầm chắc là khi qua trường rồi Dì sẽ cho về. Dì Tư làm gì đã ngồi dậy nổi mà dạy học! Trong lúc lần bước trên cây cầu khỉ, tôi vẫn thầm mong cho mấy đứa kia cũng ở nhà hết để việc được nghỉ học càng có cơ sở hơn. Khi qua tới cửa trường tôi buồn bã thấy gần như ai nấy đều có mặt đủ hết và chẳng có dấu hiệu gì sẽ được nghỉ. Gần tới giờ rung chuông tôi vẫn hy vọng coi có một dấu hiệu gì mang lại tin vui không, nhưng không có gì bất thường.
Tới giờ vẫn rung chuông, vẫn đọc kinh như thường lệ, nhưng chỉ có Dì bên Nhỏ xuất hiện. Sau giờ đọc kinh, trước khi kêu sổ, Dì bên Nhỏ nói với chúng tôi là bữa nay Dì Tư không được khỏe, nên Dì sẽ dạy một mình hai lớp và dặn chúng tôi không được làm ồn ào để Dì Tư nằm nghỉ, có thể ngày mai Dì Tư sẽ hết bệnh và dạy được. Tôi nghe mà chán nản trong lòng, nhất là Dì bên Nhỏ này lại khó tánh và sử dụng cây roi thường xuyên hơn Dì Tư của lớp tôi. Kể từ đó tôi không cầu nguyện cho Dì Tư đau nữa, vì chỉ khi nào cả hai Dì cùng đau một lượt chúng tôi mới được nghỉ. Mà việc cho hai Dì phước cùng đau một lượt chắc là Chúa không mấy khi làm!
 
 
Nhận diện cuộc đời
 
Sau hai năm học trường Cầu Đá, tôi đã hết lớp và phải đi xuống học dưới trường nhà thờ Mai Phốp, nơi mà anh kế tôi đã học ở đó một năm rồi. Cuộc sống tôi lại bắt đầu thay đổi và thế giới của tôi rộng hơn với một nơi có chợ búa, nhà thờ, cha sở, dân chúng đông đúc và nhất là căn cứ trú đóng khá lớn của người Pháp. Lúc bấy giờ tôi đã 11 tuổi và bắt đầu nhận thức được vài sự kiện trong vùng Mai Phốp. Tôi được nhập vào lớp nhì, còn anh kế tôi đang ở lớp nhất tức là lớp cuối cùng của bậc tiểu học. Ở đây trường ốc có quy củ hơn. Trường có từ lớp năm tới lớp nhất và cũng do các Nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn dạy, dưới sự điều hành và quan tâm của cha sở.
Cha sở Lê Vĩnh Trình là một con người oai phong lẫm liệt mà lúc đó tôi nghĩ là trên đời này không ai sánh bằng. Lúc đó ngài quãng gần 50 tuổi, tóc bạc hoa râm, dáng người tầm thước, thân hình rắn chắc và tướng đi oai vệ. Sau giờ làm lễ, cha Trình thường mặc quần sọt xanh, áo sơ mi trắng ngắn tay cho vào quần, mang giày vải trắng và vớ trắng kéo lên tận đầu gối. Trông ngài rất khỏe mạnh. Tôi thấy tất cả mọi người đều sợ cha Trình. Không những chỉ riêng người Việt Nam mà cả những người Pháp cũng khép nép khi phải đối diện với ngài.
Cha Trình nói tiếng Tây như gió. Mặc dù không biết gì về tiếng Pháp nhưng có mấy lần thấy cha Trình quát nạt cả những sĩ quan Pháp làm tôi vô cùng ngạc nhiên, vì tôi thấy người Pháp bấy giờ uy quyền hơn người Việt Nam rất nhiều. Các vị thế trong tôn giáo, chính trị và xã hội lúc đó đã tạo cho cha Trình một con người đầy quyền thế về mọi mặt. Ngay từ lúc còn nhỏ tôi cũng nghe kể lại là cha Trình còn có thể xin tha mạng cho bất cứ ai bị người Pháp bắt giam mà lúc đó gọi là “tội”. Sáng nào tôi cũng thấy nhiều người bị lính dẫn đi thành hàng bốn, nói là đi làm “cỏ quê”â. Hồi nhỏ nghe như thế tôi tưởng là đi nhổ cỏ, nhưng không phải vậy. “Cỏ quê” là “corvée” trong tiếng Pháp được nói theo cách của tiếng Việt, nghĩa là đi làm tạp dịch.
Tôi có nghe nói tới một địa điểm nằm phía sau chợ Mai Phốp không xa, gọi là Gò Dương, vì nơi đó có trồng nhiều cây dương là nơi người Pháp bắn những người “tội” khi họ bị tử hình. Mặc dù tôi chưa bao giờ được nhìn thấy cảnh bắn người này, nhưng sự kiện đó làm tôi nhớ lại những xác chết trôi sông mà tôi thấy hồi còn bé thơ ở Bưng Trường.
Cha Trình rất để tâm về việc học hành. Cha thường đi tới lui thăm các lớp học và cũng thẳng tay sửa trị những học sinh bướng bỉnh. Nhất là những đứa nào ăn cắp thì ngài đánh bằng roi mây lằn ngang lằn dọc. Tôi đã chứng kiến cảnh cha Trình đánh học sinh mà tôi hãi hùng. Trường tiểu học nhà thờ Mai Phốp này có quy củ và đi vào chương trình các môn học hẳn hoi, vì nơi đây chúng tôi được dạy để chuẩn bị thi bằng tiểu học. Nếu ai thi rớt sẽ không được lên ban trung học. Mặc dù trường đã đi vào nề nếp lớp lang, nhưng chưa hẳn là hoàn toàn. Có chuyện sau đây làm tôi nhớ mãi.
Lúc đó trong lớp nhì của tôi có hai anh vừa dốt lại vừa nghịch ngợm phá phách tên là Ngàn và Ca. Dì phụ trách lớp tôi chịu không nổi hai ông tướng này đành phải “tống” lên lớp nhất cho Dì lớp đó có tiếng là nghiêm khắc trị giùm. Tưởng là sau khi qua khóa “huấn nhục” để hai anh thuần thục rồi quay về lớp cũ. Không ngờ hai anh đầu bò đầu bứu này lên đó rồi ngồi lại luôn. Cuối năm lại đi thi tiểu học sớm hơn lớp chúng tôi một năm! Đúng là chuyện khó tin nhưng có thật và chỉ có thể xảy ra vào thời buổi lúc bấy giờ.
Trong những năm phải xuống Mai Phốp học, tôi càng mệt nhọc và chán ngán hơn. Những ngày đi học, sáng nào tôi cũng phải thức dậy từ 4 giờ sáng cùng với cả nhà. Cha tôi và các anh lo đọc kinh sáng và ăn cơm để chuẩn bị ra đồng, còn tôi theo đoàn người quơ đuốc đi bộ 2 cây số dự Lễ sáng ở nhà thờ Mai Phốp. Lễ xong còn sớm, tôi qua chợ mua quà ăn sáng và ở lại học tới chiều mới đi bộ về Cầu Đá. Mỗi ngày má cho tôi 5 cắc , tiếng miền Bắc gọi là hào, ăn quà sáng, nhưng lúc nào tôi cũng đói và thèm thuồng nên một hôm do sự rủ rê của thằng em họ tên Long, bọn tôi bày trò lưu manh.
Lúc đó chính phủ sắp phát hành tờ giấy bạc 2 đồng loại mới, và in hình mẫu trong báo, hình in trong báo này rất giống với tiền thật nên hai đứa tôi cắt ra xếp làm tư và mang tiền... giấy báo đi mua quà lúc còn tranh tối tranh sáng khi vừa đi Lễ ra. Khi đứng chờ bà bán hàng gói xôi bắp, tôi run quá là run vì chưa bao giờ tôi làm chuyện gian dối đó. Lúc nhận gói xôi bắp từ tay bà bán hàng, tay tôi run như cầy sấy. Vừa nhận xong gói xôi, tôi ném tờ hai đồng giả xuống và cắm đầu chạy. Bà bán hàng quá ngạc nhiên vội cầm tờ giấy bạc lên coi và la lên "Bắt nó! bắt nó!” Tôi bị tóm lại. Thấy tôi run rẩy và sợ quá, bà bán hàng thương cho gói xôi, vì bà biết là tôi đói quá làm liều chứ không phải là lưu manh chuyên nghiệp. Nếu lưu manh chuyên nghiệp thì đâu có run như vậy! Cũng may là bà không biết nhà tôi ở đâu, nếu việc này tới tai cha má và chị Hai chắc là tôi phải no đòn. Tôi biết cha tôi rất nghiêm khắc trong các tội như thế này, vì có lần tôi hái trộm  quả đu đủ của Ông Tám mà cha tôi đánh tôi một trận đòn nên thân.
Nhớ lại lúc bấy giờ tôi bị ăn đòn của nhiều người vì cái tội ăn cắp trái cây. Trước tiên là những trận đòn ra đòn  của cha sở Lê Vĩnh Trình vì tội chọi me. Chung quanh nhà thờ và nhà cha sở có mấy cây me rất to và cao, cao còn hơn nóc nhà thờ, và tới mùa thì trái nhiều vô kể. Loại “trái cấm” to bằng ngón tay có những mắc nối liền nhau dài chừng 10 phân và có hình cong như cái sừng trâu này là cơn cám dỗ mãnh liệt và triền miên của bọn trẻ con học trò chúng tôi. Trái me khi còn sống rất chua phải ăn với muối ớt, khi đã gần chín gọi là “me giốt” thì vừa chua lại vừa ngọt! Người lớn, nhất là mấy bà mấy cô, mà nghe nói tới me giốt còn chảy nước dãi đầy miệng, huống gì bọn trẻ con chúng tôi? Mặc dù cha Trình bắt gặp chọi me, hoặc leo lên cây hái trộm me thì bị đòn đến nơi đến chốn, nhưng không một ngày nào trong “mùa me” mà cha Trình lại không có thân chủ. Lúc đó tôi nghĩ, trong các thứ tội thì tội gì cũng có thể chừa bỏ sau khi đã làm việc đền tội, riêng cái tội ăn cắp me thì không! Đánh chết cũng không chừa!
Không phải chỉ những trái me giốt trên cành làm khổ chúng tôi mà thôi, nhưng còn những thứ hoa quả ăn được ngay trên mặt đất nữa. Nhớ lại năm tôi đang học lớp đệ lục tại Mai Phốp, có lần bà chủ của vườn mía trồng cạnh sân trường bắt gặp bọn học trò chui vào giữa đám mía bẻ trộm. Tôi không nhớ tên đứa nào nhưng trong số đó có trò Lễ! Bà chủ vườn vào “mắng vốn”( mét) với thầy giáo. Thầy bắt chúng tôi đứng lên, giảng một bài mô-ran và bắt xin lỗi bà chủ vườn mía. Lần đó tôi nhớ mãi và rất thích câu kết luận của thầy nói với người đàn bà mặt mày đang đỏ gay vì giận dữ: "Tôi đã rầy các em, nhưng sao bà lại trồng mía ngay cạnh trường học? Hàng ngày các em nhìn đám mía của bà như mèo thấy mỡ heo làm sao nhịn được?”. Bà chủ nhà nghe nói vậy quày quả bỏ đi ra,  sau khi đã liếc ông thầy giáo “dễ thương” của tôi bằng cặp mắt sắc còn hơn dao cạo râu!
Từ những việc của trẻ con đó, sau này lớn lên tôi nghĩ, cách tốt nhất để “trị” cái tội trẻ con ăn cắp trái cây là... đừng bao giờ trồng cây ăn trái! Cả những cây mà thân ăn được như mía, vỏ cây ăn được như quế, rễ cây ăn được như khoai mì, củ ăn được như khoai lang, đậu lạc, hoa ăn được như gương sen, lá ăn được như cây gừa, cây chiếc... cũng không nên trồng. Ngược lại nên trồng nhiều hoa hồng vì thân cây có gai, trẻ không dám sờ tới và hoa hồng khoe sắc sẽ tô điểm thêm cho cuộc đời mà có người gọi là “thung lũng nước mắt" này!
Chiều lại sau khi cả nhà cơm nước xong, cha tôi mang kính vào nằm lên ghế xích đu, tay cầm cuốn sách Giáo lý, gọi anh tôi và tôi tới để trả bài một chương nào đó mà cha tôi đã giao từ ngày hôm qua. Nếu không thuộc bài sẽ bị cha tôi bắt cúi nằm dài và đánh thẳng tay. Tôi nhớ chỉ bị ăn đòn của cha tôi trong trường hợp này và tội hái trộm trái cây mà thôi. Vì thế, làm gì thì làm tôi cũng phải học một chương sách giáo lý một ngày, và điều này càng làm cho tôi ngán việc học hơn.
Trong khi đó có thằng bạn trong xóm hơn tôi vài tuổi, nhưng không phải đi học mà đi làm lơ xe. Tên nó là Chín, mà chúng tôi gọi là “Chín ghẻ” vì có một dạo, người nó đầy ghẻ.  Nhìn nó tôi thèm thuồng và cảm thấy cuộc sống của nó hạnh phúc biết bao. Chẳng những không phải đi học, không phải thức khuya dậy sớm, không phải ăn đòn, còn được chửi thề nói tục thả giàn, lại được tung tăng bay nhảy như con chim tung cánh trên bầu trời bao la! Có những hôm nhìn thấy thằng Chín ghẻ đầu đội nón vải có quai dưới cằm, mặc bộ quần áo màu cháo lòng, tay áo xắn lên đang đánh đu phía sau chiếc xe đò chạy đường Vũng Liêm -Vĩnh Long. Hình ảnh nó thật ngon lành, tôi đâm ra ước mơ sau này lớn lên tôi sẽ chọn con đường đi làm lơ xe. Nếu được làm lơ xe chạy lên Sài Gòn thì không còn gì hạnh phúc bằng, vì lúc đó thủ đô Sài Gòn là một cái gì quá với sự tưởng tượng của tôi.
 
 
Thảm cảnh gia đình
 
Năm 1953, khi vừa tròn 10 tuổi, một thảm kịch gia đình xảy ra đã làm tôi lớn hơn trước tuổi. Đúng ra chuyện này không xảy ra trong gia đình tôi mà là gia đình Ông Tám tôi.
Ông Tám là em của Bà Nội tôi. Ông có nhiều người con, và người cuối cùng là Chú út Hữu mà tôi đã nói tới. Câu chuyện này liên quan tới người con thứ tư và thứ sáu mà tôi gọi bằng Cô Tư và Chú Sáu.

Cô Tư có chồng và 3 con, đứa con gái nhỏ nhất tên Huệ, bằng tuổi tôi. Khi tản cư xuống Cầu Đá thì Chú Sáu tôi đi lính cho Pháp. Còn Dượng Tư, chồng của Cô Tư ít khi thấy có mặt ở nhà. Lúc đó tôi còn nhỏ quá nên cũng chẳng biết là Dượng Tư tôi ở đâu và làm gì. Một ngày kia Chú Sáu đi trong toán tuần phòng và một người Việt Minh bị sa vào ổ phục kích. Khi bị động, người đó chạy thoát thân nhưng Chú Sáu và đám lính rượt theo bắn anh ta té xuống. Chú chạy tới định bắn tiếp theo thì bất thần nghe người đó gọi tên mình “Cậu Sáu Vinh”! Chú tôi kịp thời nhận ra đó là tiếng người anh rể của mình, Dượng Tư Bình, chồng của Cô Tư tôi. Chú tôi kinh hoàng chạy lại bồng người anh lên, nhưng vết thương quá nặng và Dượng Tư chết trên tay chú tôi sau khi trối lại: “Cậu Sáu! Anh không sống được, cậu hãy giúp chị Tư lo nuôi 3 cháu!” Không phải nói, ai cũng có thể đoán biết tâm trạng Chú Sáu tôi lúc bấy giờ như thế nào. 

Khi đưa xác Dượng Tư về, bà con và hàng xóm tới đầy nhà tràn ra cả ngoài sân. Nhà tôi kế bên nên chạy qua trước tiên. Người lớn vào nhà trước, trẻ con chúng tôi đứng đầy ngoài sân. Tôi thấy mọi người đều khóc, riêng Cô Tư lúc đó khóc té lên té xuống và có mấy bà kè hai bên tay cô tôi. Bất ngờ trong tiếng than khóc rầm rĩ đó, tôi nghe một tiếng khóc rống lên thật to: “Anh Tư ơi! Chính em đã giết anh! Tha thứ cho em anh Tư ơi!” Tôi chen vào nhà thì thấy Chú Sáu tôi đang ôm xác Dượng Tư còn ướt đẫm máu và dính đầy bùn đất mà khóc lóc kêu gào! Nghe tiếng khóc rống của Chú Sáu, mọi người khóc lóc thảm thiết. Lúc đó có lẽ tôi đã đổ tới giọt nước mắt cuối cùng!
Thảm cảnh này đã làm tôi quá đau khổ và từ đó tôi thắc mắc nhiều chuyện mà không thể nào trả lời được. Người Pháp là ai? Lính Pháp là ai? Việt Minh là ai? Ai là người tốt? Ai là người xấu? Tại sao có cảnh anh em trong một gia đình giết nhau như vậy? Sau này khi biết những xác chết trôi sông mà trong tuổi ấu thơ tôi thấy ở Bưng Trường là những người bị Việt Minh giết, tôi kết luận Việt Minh xấu vì họ giết người, và tôi tưởng người Pháp tốt. Nhưng khi tôi xuống Mai Phốp lại nghe nói có rất nhiều người “tội” bị người Pháp bắn ở Gò Dương, như vậy người Pháp cũng xấu. Vả lại lúc bấy giờ tôi vẫn không thể hiểu được những người Pháp từ đâu tới và ở đây để làm cái gì? Tôi không thể trả lời các thắc mắc đó, nhưng có một điều tôi nhận ra rất sớm, có lẽ sớm hơn rất nhiều đứa trẻ cùng tuổi với tôi lúc bấy giờ, đó là dân tộc Việt Nam là một dân tộc đau khổ.
Chính trong thời gian này có vài sự việc tôi còn nhớ mãi, đó là hiện tượng “tờ giấy bạc xé đôi”. Tôi không còn nhớ rõ năm nào, không biết tại sao, khi xài tiền mà không có tiền thối người ta chỉ việc xé tờ giấy bạc làm đôi và có giá trị phân nữa, và tôi đã từng xé nhiều lần! Thí dụ tờ 10 đồng, xé đôi thành 2 tờ 5 đồng. Một đồng xé đôi thành 2 tờ 5 cắc! Hiện tượng này kéo dài mấy năm trời. Tôi cũng còn nhớ ngày người Pháp cuốn cờ rời khỏi Mai Phốp, và nghe nói là rời khỏi Việt Nam luôn. Sáng hôm đó có một nghi lễ tại cột cờ trước sân nhà thờ, có rất đông người dự, cả tây lẫn ta, đa số mặc đồ trắng. Khi biết là người Pháp rút đi, lúc đó tôi cảm thấy buồn, mặc dù cũng chẳng hiểu làm sao tôi lại buồn. Cũng trong thời gian này làng tôi có trận dịch bệnh đậu mùa hoành hành, lúc đó người ta còn gọi là “trái giống”, là chứng bệnh rất dễ lây, làm chết người rất nhanh và nếu bệnh nhân  may mắn còn sống sót sẽ bị những nốt sẹo tên mặt.
Nhớ tới những năm bệnh đậu mùa hoành hành, tôi thấy phải viết lại một câu chuyện buồn. Một câu chuyện mỗi lần nhớ lại tôi vẫn còn thấy hối hận, và nước mắt tôi lúc nào cũng chảy ra. Ngay lúc tôi đang đánh máy những dòng này nước mắt tôi cũng đang chảy ra làm mờ màn ảnh.
 
 
“Thầy bảng mới”
 
Năm 1955, lúc tôi 12 tuổi và đang học lớp nhì tại Mai Phốp, dì phước dạy tôi lúc đó là Dì Tư Loan. Một buổi sáng, có người đàn bà trẻ dẫn đứa con trai vào lớp tôi, người học trò mới này tên là Quỳ. Dì Tư gọi anh là trò Quỳ, lúc bấy giờ chúng tôi có chữ “trò”đứng trước tên của mình. Quỳ cũng bằng tuổi với tôi, nhưng dáng rất hiền từ như con gái. Người gầy ốm và cao dong dỏng, cổ cao đầu tròn húi cua. Mới nhìn qua trông Quỳ giống như con cò con đang nằm trong tổ, vì đầu trọc và cổ anh khá dài. Người học trò lạ mặt ngỡ ngàng và ít nói đứng xớ rớ kế bàn của Dì Tư, tay mân mê viền áo bà ba trắng đang mặc trên người. Cái cách Quỳ cài cúc áo làm tôi chú ý vì anh cài cả nút ở cổ, trông có vẽ quê mùa chất phác trong khi bọn“ma cũ” chúng tôi cũng mặc áo bà ba nhưng không cài nút sát cổ, như vậy trông oai và hợp thời trang hơn. Nói tóm lại, Quỳ gây cho tôi một ấn tượng khi anh vừa theo mẹ bước chân vào lớp.
Những ngày tiếp theo Quỳ trở thành một hiện tượng của lớp, anh là người hiền từ hiếm có và giỏi toán một cách đặc biệt, giỏi quá là giỏi! Cho đến đỗi Dì Tư phải ngạc nhiên. Những bài toán Dì Tư cho trong lớp, Quỳ làm một cách dễ dàng trong khi bọn chúng tôi phải è ạch một cách khổ sở, nhất là tôi, là người dốt toán nhất lớp. Từ đó, mỗi khi làm toán, Dì Tư gọi Quỳ lên bảng và sau khi giải đáp nhẹ nhàng lanh lẹ, Dì kêu anh “dạy” lại cho cả lớp chúng tôi nghe. Vô tình trí thông minh của người học trò mới này đã hại anh ta. Đám con trai chúng tôi bắt đầu ghét Quỳ, vì anh ta càng giỏi bao nhiêu thì càng lòi ra sự dốt nát của chúng tôi bấy nhiêu, nhất là tôi là người có lúc nghĩ không biết trên thế gian này còn ai khác dốt toán như tôi hay không! Mỗi lần Dì Tư khen Quỳ là y như chúng tôi bị một trận đay nghiến càng làm cho chúng tôi bực tức anh ta. Cả bọn con trai chúng tôi hè nhau gọi Quỳ cái tên đầy mỉa mai là “Thầy Bảng mới” và bày tỏ thái độ tẩy chay anh ta thấy rõ. Phải nói tôi là tên đứng đầu trong nhóm “quân dữ” tẩy chay Quỳ, vì anh ta đã “hại” tôi nhiều nhất.
Trong lớp, tôi kéo bè kéo cánh, không cho đứa nào nói chuyện với Quỳ, giờ ra sân chơi chúng tôi không cho Quỳ nhập bọn đá banh bằng trái banh tennis. Có những lúc tôi thấy Quỳ âm thầm đứng trơ trọi một mình ở góc sân trong giờ ra chơi. Có hôm thấy Quỳ xin chơi đánh đũa với bọn con gái. Nhìn thấy cảnh đó tôi rất hả dạ và nghĩ: “Mầy làm khổ tao trong lớp thì tao làm khổ mầy ngoài sân!”.  Lúc đó tôi biết là Quỳ rất khổ tâm chịu đựng trong một thời gian khá lâu nhưng không dám nói ra vì bọn ma cũ chúng tôi rất đông.
Rồi một hôm Quỳ vắng mặt trong lớp.
Tôi cảm thấy dễ chịu vì sự vắng mặt của “Thầy Bảng mới” nhưng cũng chẳng thắc mắc gì. Qua hôm sau, trước giờ đọc kinh, Dì Tư bảo cả lớp cầu nguyện cho trò Quỳ bị lên bệnh đậu mùa. Tôi nghe giật mình, tự nhiên cảm thấy hối hận vì đã ngược đãi người bạn hiền lành do sự ghen tức, và thương Quỳ chẳng may bị chứng bệnh nguy hiểm làm chết rất nhiều người lúc đó. Tôi quyết tâm sẽ xin lỗi và đối xử thân ái và bảo vệ Quỳ khi anh trở lại lớp.
Một tuần lễ sau vẫn vắng bóng người học trò hiền từ, tôi càng lo lắng và thong anh nhiều hơn. Tôi nhớ Quỳ nhưng chúng tôi không được phép tới thăm vì bệnh này rất hay lây. Hàng ngày trong giờ ra chơi tôi vô nhà thờ đọc kinh cầu nguyện cho Quỳ được mạnh. Sự hối hận vì đã ngược đãi Quỳ cách vô lý đang hành hạ tôi.
Một buổi sáng, đang giờ học, tôi thấy mẹ Quỳ vào lớp. Tôi đâm ra lo sợ trong lòng. Mẹ Quỳ vào báo tin Quỳ vừa chết đêm qua! Tôi gục đầu xuống ghế ngồi khóc lên thành tiếng khi nghe tin đó. Và tôi vẫn khóc về sau này mỗi khi nhớ tới Quỳ, mặc dù đã mấy chục năm trôi qua.
 
 
Thời kỳ phá ngu
 
Tôi thi đậu bằng tiểu học năm 1956, lúc đã 13 tuổi. Đó cũng là năm tôi chụp bức hình đầu tiên trong đời để làm thẻ báo danh lúc vào phòng thi ở quận Vũng Liêm, cách Mai Phốp 6 cây số trên đường xuống tỉnh Trà Vinh. Tôi còn nhớ khi chụp hình, ông chủ tiệm chụp hình Tân Tân ở chợ Mai Phốp đặt tôi ngồi trên cái ghế đẩu trước cái máy thật to màu đen có chân đứng. Ông bước tới sửa thế ngồi cho tôi xong trở lại máy và trùm đầu và vai bằng tấm vải đen,  bảo tôi ngồi yên dừng chớp mắt và bấm máy. Chụp hình xong về nhà mấy ngày sau tôi ăn ngủ không được, vì nôn nóng chờ ngày lấy hình. Khi nhận hình và thấy “bộ mặt”mình trong hình lần đầu tôi thích thú lắm và mang vào lớp kêu mấy đứa bạn cũng vừa chụp hình trong đợt này mang hình ra so sánh coi hình đứa nào đẹp. Có đứa  khen tôi chụp hình ăn ảnh làm tôi cười híp mắt. Năm đó người anh kế của tôi tên là Ngãi cũng đậu tiểu học một lượt, vì năm trước anh thi rớt nên phải học lại chung với tôi.
Năm tôi vừa thi đậu tiểu học thì cha Trình mở trường trung học đầu tiên tại Mai Phốp, lấy tên là trường Minh Đức, một điều tôi coi là rất may mắn.Trường bắt đầu bằng hai lớp đệ thất B1 và B2. Việc cha Lê Vĩnh Trình mở trường trung học đầu tiên tại Mai Phốp là sự thay đổi lớn đầu tiên của cuộc đời tôi. Cha Trình  xây một nhà trường dài nằm ngang sau nhà thờ có ba phòng. Hai phòng làm lớp học và một phòng ở đầu kia làm chỗ ở cho hai thầy giáo người Bắc từ Sài Gòn cha mời xuống dạy học. Một thầy lớn tuổi chừng gần 40 là thầy Bùi Sinh Quý và thầy kia nhỏ tuổi hơn là thầy Huấn. Trung học là lớp đầu tiên tại xứ này nên đối với tôi lúc đó cái gì cũng mới, trường học mới, thầy giáo cũng mới vì lần đầu tiên tôi học với thầy giáo đàn ông và lại là người Bắc, bạn bè mới,chương trình học cũng mới.
Có rất nhiều học sinh tại Mai Phốp và các làng lân cận tới học, vì lúc đó không có mấy người có khả năng gởi con đi tỉnh. Có nhiều học sinh từ quận Vũng Liêm cũng đạp xe tới học. Từ đó lên tỉnh Vĩnh Long hoặc xuống tỉnh Trà Vinh cũng đều cách chừng 40 cây số. Lên tỉnh học đã xa xôi lại còn tốn kém rất nhiều thứ, không phải như ở làng chỉ phải đóng học phí và ít tiền sách vở.  Lạ một điều, khi lên tới trung học tôi bắt đầu phá ngu và trở nên thích học và học khá. Tôi không phải là học sinh giỏi, nhưng về sinh ngữ Anh và Pháp thì bao giờ tôi cũng nằm trong số ba người giỏi nhất. Khi cha Trình mở cửa trường trung học tại Mai Phốp cũng đồng thời ngài giúp tôi mở cánh cửa cho tương lai đời tôi. Nhờ có ngôi trường Minh Đức nhỏ bé ở miền quê đó mà tôi được tiếp tục con đường học vấn và càng về sau càng được học lên cao hơn. Trong khi rất nhiều người trong thế hệ tôi thi đậu tiểu học trước tôi vài năm đã phải bỏ học.
Từ ngày còn bé ở Bưng Trường,  rồi tản cư xuống Cầu Đá và sau này đi học ở Mai Phốp tôi chỉ được học với các nữ tu. Sau này lớn lên tôi vẫn nhớ ơn các Dì đã giúp tôi khai tâm về việc học, đồng thời dạy bảo các việc đạo hạnh. Hệ thống giáo dục trong các xứ đạo lúc bấy giờ mặc dù chưa được tổ chức hoàn hảo nhưng sự đóng góp của các trường học công giáo và sự hy sinh tận tụy của các nữ tu tại những vùng quê xa xôi hẻo lánh để lo việc giáo dục cho trẻ con là điều  tôi muốn nhắc lại và ghi ơn. Việc giáo dục và hệ thống tổ chức trường ốc vào thời buổi chiến tranh và trong tình trạng đất nước còn lạc hậu, phương tiện giao thông rất thô sơ như lúc tôi vừa lớn lên là một việc rất khó. Trong tình thế đó một số rất đông trẻ con ở nhà quê phải bỏ học ngay từ bé và lớn lên mù chữ. Cũng có một số được đi học một thời gian để biết đọc biết viết rồi vì hoàn cảnh cũng phải dở dang việc học hành khi ở địa phương không còn lớp.
Gia đình tôi cũng ở trong tình trạng đó, khi còn ở các lớp trong bậc tiểu học, tôi vẫn nghĩ là học hết lớp nhất, hoặc sau khi thi được bằng tiểu học rồi thôi, sẽ ở nhà giúp gia đình trong công việc đồng áng như  mấy người anh tôi và một số rất đông trẻ con trong làng. Hơn nữa những sinh hoạt thông thường của một làng quê và sự thu hút rất mãnh liệt của cánh đồng bao la bát ngát với những thú vui của ruộng đồng khiến tôi không biết gì khác hơn, và dĩ nhiên là chẳng bao giờ có chuyện đặt vấn đề con đường tương lai mình rồi sẽ ra sao. Nhưng sự ra đời của trường trung học Minh Đức đã cho tôi cơ hội lựa chọn.
 
 
Tuổi trẻ ngô nghê
 
Những năm đó tầm mắt tôi có dịp mở rộng hơn nhờ những lần tôi được chị Hai cho theo đi chợ trên tỉnh Vĩnh Long, cách nhà 33 cây số. Những lần được đi tỉnh này đối với tôi rất đáng ghi nhớ vì đó là dịp mở mắt để được biết cuộc sống ở tỉnh như thế nào. Thường là mỗi năm một lần chị tôi đi chợ tỉnh trong dịp mua sắm Tết, chị dẫn tôi theo chỉ với nhiệm vụ đứng tại chỗ coi chừng cái cần xé đựng các thứ đã mua để chị còn đi mua tiếp theo.  Sau khi mua đủ các thứ cần thiết chị gọi xe lôi tới chở ra bến xe đò gần đó để về Cầu Đá. Khi lên Vĩnh Long, cảnh sinh hoạt, nhà cửa xe cộ và sự tấp nập của người dân ở tỉnh làm tôi choáng ngộp và thích thú. Cái gì đối với tôi cũng mới, cái gì cũng lạ, cái gì cũng sang trọng cũng đẹp đẽ và ngay lúc đó tôi có cảm nghĩ rằng cuộc sống ở tỉnh là một đặc quyền dành cho một lớp người nào đó, còn gia đình tôi và cá nhân tôi không bao giờ có thể có cuộc sống như thế được. Có ra tỉnh mới lòi ra sự ngô nghê của tuổi trẻ, nhất là đứa trẻ từ quê mới ra tỉnh lần đầu như tôi thì thật là khờ khạo một cách đáng thương.
Tôi còn nhớ trong lần đầu lên tỉnh, tôi đi với Long là em họ tôi lên thăm cha của Long đi lính ở đó. Trong trại lính có một dãy cầu tiêu máy nằm gần ngoài cổng, và Long dặn tôi sau khi đi cầu xong phải giật nước và chỉ cho tôi cách thức giật nước như thế nào. Đó là lần đầu tiên tôi sử dụng cầu tiêu máy, vì ở nhà quê chỉ có cầu tiêu trên hồ cá tra hoặc là bên bờ sông nước chảy. Khi tôi nắm quả nắm bằng sứ lòng thòng xuống ở đầu sợi dây xích sắt nối với cái “máy” bên trên, giật mạnh một phát như lời Long dặn, tự nhiên nước ở đâu tống ra cái ống sắt  quá mạnh và chảy ù ù một lúc làm tôi giật mình nghĩ thầm: “Chết cha rồi, mình làm hư máy của người ta rồi, làm sao đây!” Tôi lính quýnh không biết làm sao, chỉ cầu trời cho nước ngừng chảy vì với lượng nước tống ra mạnh như thác đổ vậy mà chảy... cả ngày chắc là tôi phải bị rắc rối to. Tôi đứng đó mặt mày tái mét, tim đập mạnh nhưng chẳng biết cầu cứu với ai. Nhưng may làm sao, từ miệng ống nước phát ra một tiếng “ù” rất lớn rồi nước ngưng chảy. Hú vía! Tôi mừng  thoát nạn. Lúc đó tôi đâu có biết là cầu tiêu máy nó là như vậy, và hỏi lại cũng có nhiều người cũng bị hú vía khi sử dụng cầu tiêu máy lần đầu như tôi.
Trong lần khác tôi theo chị đi Vĩnh Long vào một tiệm buôn là tiệm Xuân Phát Lợi, tôi thấy trên trần nhà ngay trên đầu ông chủ tiệm người tàu mập mạp và trắng trẻo có cái gì  quay tít rất nhanh và cứ quay hoài. Tôi đứng nhìn say sưa mà cũng chẳng hiểu tại sao nó quay và quay như thế để làm gì. Tôi cứ thắc mắc nhưng chẳng hỏi ai, rồi không biết lúc nào về sau này tôi mới biết đó là quạt máy.
Từ những kinh nghiệm ngô nghê đó sau này lớn lên tôi thương sự dại khờ của trẻ con, nhiều khi sự khờ khạo đó rất buồn cười, thí dụ như trên con đường tôi đi học từ Cầu Đá xuống Mai Phốp có 2 cây trụ bằng xi măng cao quảng 70 phân giống như cây kem khổng lồ gọi là “thẻ số ngàn”, bọn học trò chúng tôi thường trèo lên ngồi trên trốc như ngồi trên chiếc ghế. Trong một thời gian rất lâu tôi thắc mắc mãi không biết “thẻ số ngàn” đứng đó để làm gì? Có lần tôi hỏi ai đó, họ nói cái thẻ đó là một ngàn thước làm tôi càng thắc mắc hơn, nghĩ thầm:”ù Làm sao chứa được một ngàn cây thước bên trong bụng cái thẻ chỉ to hơn cái mộ bia một chút này?” Không hiểu cho tới một lúc nào đó tôi mới biết là những “thẻ số ngàn” đó, là cột mốc cái này cách cái khác là một ngàn thước!
Lúc nhỏ tôi cũng thường nghe người lớn nói tới việc đi “gõ dây thép gió” mỗi khi có tin tức gì khẩn cấp muốn báo tin cho người khác. Lúc bấy giờ tôi hiểu một cách đơn sơ rằng, chỉ cần gõ vào những cột dây thép gió(cột điện) dọc theo lộ đá là người khác sẽ nghe và biết tin. Có mấy lần tôi dùng hòn đá to thử gõ vào các trụ điện bằng sắt nhưng chỉ nghe phát ra tiếng tiếng “bon..bon.” ngoài ra chẳng thấy có gì khác lạ, điều đó càng làm cho tôi thắc mắc. Sau này lớn lên tôi mới biết “gõ dây thép gió” tức là đánh điện tín! Thậm chí lúc đó tôi ngô nghê cho đến nỗi thấy cha Trình mặc áo chùng từ cổ xuống gót chân, tôi tưởng là ngài không hề có chuyện đi tiêu đi tiểu như người thường. Cho tới một hôm, lúc đó tôi đã 10 tuổi, tôi đứng gần cây trứng cá kế bên nhà bếp cha sở, tôi thấy cha Trình mở cửa bước vào cầu tiêu trên hồ cá tra và tôi thấy... nước chảy nghe ton tỏn xuống mặt hồ. Tôi bàng hoàng vỡ lẽ ra là cha Trình cũng đi tiểu. Tôi cảm thấy không vui khi biết điều đó vì từ trước tôi vẫn nghĩ cha Trình như một  bậc siêu nhân thì làm gì có chuyện... đó như người phàm!
 
 
Biến cố vĩ đại
 
Cũng trong năm 1957 này, trong đời tôi có một biến cố thật vĩ đại mà tôi nghĩ cả đời tôi chỉ có một không hai, đó là việc tôi đi Sài Gòn!
Với một đưa trẻ sanh ra trong gia đình nông dân và lớn lên ở miền quê trong thời lửa đạn như tôi mà được đi Sài Gòn lúc 14 tuổi là một việc nằm mơ cũng không thấy! Một cơ hội may mắn ngoài sự mong ước nó đến quá bất ngờ làm tôi vui mừng cuống cuồng và háo hức chờ đợi không thể nào diễn tả được. Thật vậy, Sài Gòn đối với tôi lúc bấy giờ là một hình ảnh tôi không có thể nào tưởng tượng ra được và chuyến đi Sài Gòn đầu tiên này là chuyến đi làm tôi háo hức đến tột cùng. Mỗi lần nhớ lại tôi đều cám ơn hoàn cảnh và cám ơn người đã cho tôi cơ hội độc nhất vô nhị này.
Sự việc bắt đầu từ  khi cha tôi xin thầy Bùi Sinh Quý làm Bõ đỡ đầu khi tôi chịu phép Thêm Sức. Từ đó thầy Quý thương tôi như một người con. Những ngày nghĩ học tôi hay tới nhà thầy chơi, giúp thầy trong các việc lặt vặt và thầy Quý thường cho tôi quà, phần nhiều là sách vở và tranh ảnh.  Một hôm tôi tới chơi khi thầy chuẩn bị về Sài Gòn nghỉ  một thời gian trong dịp lễ Quốc Khánh vào     ngày 26 tháng 10 năm 1957, năm đó là lễ Quốc Khánh đầu tiên nền đệ nhất Cộng Hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trong lúc ngồi chơi tôi nói với thầy là không biết đến bao giờ tôi mới có dịp đi Sài Gòn một lần cho biết. Tôi chỉ nói lên sự ước mơ thôi nhưng không dám xin thầy cho đi, nhưng thầy Quý tự nhiên nói lên :
- Vậy Lễ về xin phép cha má, nếu cha má cho thì tối nay xuống đây thầy cho đi Sài Gòn, sáng sớm mai sẽ đi.
Tôi không dám tin vào tai tôi, nên đã bước lại gần hỏi lại cho chắc
- Thầy tính cho con đi thiệt hả thầy?
Thầy Quý đang thu xếp sách vở quay lại nhìn tôi mỉm cười:
- Ừ! thì về xin phép cha má trước đã. Nếu cha má đồng ý thì thầy cho đi!
Tôi đâu có bao giờ nghĩ là trong đời mình có được giây phút quá bất ngờ như vậy. Lúc đó quảng gần trưa. Tôi vội ra ngoài nhảy thót lên xe đạp chạy như bay về Cầu Đá. Con đường này tôi đi quen rồi, chỉ có 2 cây số thôi mà sao đạp hoài không tới! Trong lúc gò lưng đạp xe trên con đường đá sỏi gồ ghề trong lòng tôi lo lắng hằng trăm chuyện. Tôi lo không biết cha má tôi có cho phép đi hay không, nếu cho thì có đủ thì giờ chuẩn bị cho chuyến đi lịch sử này không, áo quần gì để mặc đi Sài Gòn, còn giày nữa, trong đời tôi chưa có một đôi giày đôi dép nào, chỉ có guốc bằng gỗ thôi. Mà đi Sài Gòn phải là giày, không thể mang guốc được, rồi tóc chưa cắt.. rồi... và rồi!
Thật không ngờ trong đoạn đường đạp xe đó tôi có quá nhiều chuyện phải lo trong đầu cùng một lúc. Về tới nhà,  tôi hỏi má trước, vì má bao giờ cũng dễ hơn cha. Má nghe cũng quá ngạc nhiên bảo tôi: “Con phải hỏi cha con, nếu cha cho thì con  đi”! Khổ nỗi, cha tôi đi ruộng chưa về, mà từ nhà vô tới ruộng phải băng cánh đồng gần 2 cây số. Má vừa nói xong tôi vụt như bay ra ruộng phía sau nhà và cứ theo bờ đê chạy thẳng vô ruộng, nơi cha và anh tôi đang làm.  Vừa chạy vừa cầu nguyện xin Chúa giúp cho cha tôi cũng đồng ý.
Cha và anh tôi tấy tôi chạy  cách bất thường như thế này chắc hẳn là ngạc nhiên không hiểu có chuyện gì. Khi tới nơi và sau khi nghe tôi nói, cha tôi ngừng tay, lên bờ ruộng ngồi vấn điếu thuốc rê trong cử chỉ chậm rãi và đĩnh đạc như thường ngày, đâu có biết là tôi vô cùng sốt ruột chờ đợi câu trả lời quyết định. Trong gia đình tôi, những sinh hoạt thường nhật thì má lo liệu, nhưng các việc quan trọng bao giờ cha tôi cũng là người quyết định. Dù vậy ý kiến của chị Hai rất có ảnh hưởng. Có mấy lần má đồng ý rồi nhưng chị Hai bảo không được là không được. Và tôi đã phải ngậm đắng nuốt cay với chị Hai không biết bao nhiêu lần. Sau khi bật quẹt đốt thuốc cha tôi phà khói lên trời và  quay sang hỏi:
- Con có hỏi má chưa?
Nghe cha tôi hỏi tôi đã mừng trong lòng vì kinh nghiệm cho tôi biết là sau câu hỏi theo nguyên tắc đó, tiếp theo sẽ là cái dấu "Thuận” đóng bằng chữ đỏ.
- Con hỏi má rồi, má cho nhưng bảo con hỏi nếu cha cho thì đi!
Cha tôi nghe thế ngồi trầm ngâm rồi hỏi:
- Thầy Quý nói đi bao lâu?
- Con không nghe thầy nói nhưng  chắc là một tuần vì trường nghỉ học 10 ngày.
Cha tôi gật đầu:
- Ừ! Nếu má cho thì đi!
Chúa Rất thánh ơi! Đời tôi sao mà hạnh phúc! Tôi có cảm tưởng như vừa được bay lên 9 tầng mây và đang nhìn xuống con người trần gian khổ ải bên dưới. Một cảm giác hạnh phúc quá lớn vồ lấy tôi một cách bất ngờ làm tôi choáng váng. Mới có mấy tiếng đồng hồ mà tôi nhận mấy tin động trời liền nhau, từ lời nói của thầy Quý, tới câu nói của má, bây giờ tới câu "Ừ! nếu má cho thì đi!” của cha tôi. Câu nói ngắn gọn 5 chữ này có sức mạnh của một phép mầu biến thằng bé ngô nghê như tôi trong phút chốc trở thành con người hạnh phúc nhất trần gian. Tôi vội thưa “Con cám ơn cha” và định bốc chạy về nhà nhưng anh Năm Nhơn  của tôi lúc bấy giờ 19 tuổi, đang làm ruộng với cha tôi, vác cuốc mò tới hỏi:
- Mầy đi đâu đó hả Lễ?
- Em vô hỏi cha cho em đi Sài Gòn!
Anh Năm ngạc nhiên kêu lên:
- Trời! Thiệt à? mầy đi Sài Gòn thiệt à, mà mày đi với ai?
- Thầy Quý cho em đi.
- Mầy đi bao lâu?
- Em không biết nhưng chắc một tuần.
Anh Năm nhe răng cười trêu tôi:
- Chuyến này thì “Tư Ếch” đi Sài Gòn!”
Tôi không trả lời nhưng bắt đầu chạy về nhà vừa nghe anh Năm nói với theo:  “Nhớ coi chừng xe cộ nghe mậy!”.
Tôi chạy, đúng hơn là tôi bay về nhà. Nhưng tôi không trở lại con đường cũ mà lại “bay” vòng xuống bờ kinh, hai bên là nhà dân chúng có con đường đất chạy cặp theo sông, đường này cũng về nhà tôi được. Tôi đã có ý định trong đầu khi đi lối đi này. Như vậy là giấc mộng đã thành sự thật. Tôi được đi Sài Gòn. Một sự thực quá sức tưởng tượng của tôi. Vừa cắm đầu cắm cổ chạy, tôi thầm nghĩ không biết trên cõi đời này có ai sung sướng như tôi hay không? Tôi nhớ tới còn quá nhiều việc phải làm, phải chạy về nhà càng nhanh càng tốt. Nhớ lại lúc nãy anh Năm trêu tôi “Tư Ếch đi Sài Gòn” là trong một vở tuồng trong dĩa hát máy kể chuyện ông Tư Ếch quê mùa đi Sài Gòn lần đầu. Chúng tôi nghe mà cười muốn bể bụng vì sư quê mùa của ông Tư Ếch. Tôi nghĩ là chắc mình không đến nỗi như ông Tư Ếch, dù gì thì tôi cũng đã được đi tỉnh Vĩnh Long mấy lần rồi. Còn ông Tư Ếch thì từ nhỏ tới lớn toàn ở nhà quê chưa bao giờ bước chân ra khỏi làng.
Hết cánh đồng, tôi xuống tới bờ kinh, nơi có nhà cửa dân chúng ở cập theo hai bên con sông đào. Sở dĩ tôi chọn con đường này tuy có xa hơn một chút nhưng vì đám bạn tôi ở đây. Mặc dù rất gắp về nhà chuẩn bị cho kịp đi xuống nhà thầy Quý tối nay, nhưng tôi không thể không khoe với đám bạn về tin động trời này. Tôi ghé vào nhà nhà từng thằng bạn và chỉ nói 6 tiếng “Ngày mai tao đi Sài Gòn” rồi lại chạy qua nhà khác. Nếu nó không có ở nhà tôi nói với người lớn:“Thưa bác, làm ơn nói lại với thằng Inh là ngày mai con đi Sài Gòn”. Có khi tôi còn nhờ đứa này thông tin giùm đứa khác vì tôi không đủ thì giờ ghé nhà từng đứa, vả lại có đứa bạn bên kia sông nữa, tôi nói:” Mầy nói giùm với thằng Bầu, tao đi Sài Gòn”!
Cứ thế tôi làm như người phát thư ghé từng nhà mấy thằng bạn và ghé càng nhiều nhà càng tốt, nên khi tôi về tới nhà thì cả xóm trong ấp An Thành biết là tôi sắp đi Sài Gòn. Tuy nhiên, tôi đi với ai và bao giờ đi và ở Sài Gòn  trong bao lâu thì họ không biết. Thật ra điều đó không quan trọng, quan trọng là chuyện “ Thằng Lễ đi Sài Gòn”. Một điều tôi biết chắc là mấy đứa bạn tôi  và cả rất nhiều người lớn ở xóm Cầu Đá nữa, chưa ai biết Sài Gòn là gì và chắc là họ sẽ thèm cái hạnh phúc mà tôi đang có.
Tôi “bay” vô nhà mồ hôi nhễ nhại, thấy má và chị Hai đang nhặt rau chuẩn bị làm cơm chiều, tôi nói ngay:”Má ơi má! Cha cho con đi rồi”. Tự nhiên chị Hai tôi làm mặt “ngầu” quay ra phán một câu chết người:“Không đi đâu hết! Ở nhà”! Tôi chựng lại và đứng chết trân khi nghe câu đó. Xưa nay chị Hai vẫn là người có uy quyền. Mặc dù tôi không nghĩ là chị vượt qua được quyết định của cha tôi, nhưng ý kiến của chị bao giờ cũng nặng ký, tôi đâm ra lo vì không biết tôi có tội gì nặng đến nỗi chị Hai phạt không cho tôi đi Sài Gòn. Tôi rất lo lắng vì chị Hai là người biết những “tội” của tôi rõ nhất. Tôi nhìn má cầu cứu nhưng má quay mặt qua phía khác, tôi chới với nói: “Nhưng...” Chị Hai cướp lời tôi:”Không nhưng không nhị gì hết, mầy làm biếng và ở dơ  lắm không đi đâu hết. Ở nhà!” Nghe nói thế tôi mừng và đoán là má và chị Hai bàn nhau dọa tôi chứ cái tội làm biếng và ở dơ đâu có là yếu tố cản trở tôi đi Sài Gòn. Không lẽ tất cả mọi người đi Sài Gòn đều siêng học và trắng trẻo sạch sẽ cả hay sao? Có lẽ thấy hù tôi như vậy đã đủ nên má lên tiếng: "Đi cắt tóc đi con, rồi về chị Hai tắm cho để còn ăn cơm rồi đi!” Tôi thở phào nhẹ nhõm! Thì ra má và chị Hai thấy tôi mừng quá nên hè nhau trêu tôi cho vui!
Tôi chạy qua chú Sáu Vinh nhờ cắt tóc, trong lúc ngồi trên ghế tôi nói:
- Chú nhớ cắt cho đẹp giùm nhé, ngày mai con đi Sài Gòn đó chú!
Tôi rất sung sướng và hãnh diện khi nghe chú Sáu tôi hỏi:
- Con nói gì? Ngày mai con đi Sài Gòn à, mà đi với ai?
- Con đi với thầy Quý, thầy cho con theo lên Sài Gòn coi lễ Quốc Khánh!
Chú Sáu Vinh trầm trồ:  
- Con có phước quá, chú còn chưa biết Sài Gòn là gì, mà chắc cho tới chết chú cũng không có dịp đi Sài Gòn, nói chi mấy đứa nhỏ!
Sau đó chú cháu tôi nói chuyện về đề tài Sài gòn cho tới khi chú cắt tóc cho tôi xong. Tôi ngồi chỉ mong chú cắt cho nhanh một chút, nhưng chú vẫn rề rà với cái tông-đơ rỉ sét ngâm trong dầu lửa của chú. Cái tông-đơ già nua này mỗi khi chú bóp một đường tóc trên đầu tôi, hất tóc ra thì lần nào nó cũng “ngoạm” thêm  dăm ba sợi tóc, có khi hàng chùm giật bung cả gốc rễ lên. Nhiều lần tôi ngồi cắt tóc phải cắn răng chịu trận mà nước mắt chảy dài vì chú vừa cắt vừa nhổ tóc đau không chịu thấu. Mặc dù vậy tôi vẫn phải nhờ chú cắt tóc vì chú không lấy tiền, trong khi tới tiệm phải tốn mấy đồng.  Sau khi hớt bằng tông-đơ xong, tới màn cạo chân tóc bằng con dao thật bén chú liếc vào miếng da nghe sột sạt trước khi cạo. Tôi sợ cái đoạn này vô cùng vì có lần không hiểu vì chú lơ đễnh hay vì tôi ngồi không vững mà chú thẻo một mãng tai tôi, máu me lênh láng! Vì thế lúc còn trẻ tôi rất ngán việc đi cắt tóc.
Trong lúc tôi cắt tóc thì ở nhà chị Hai chuẩn bị mấy cái xơ dừa để kỳ cọ cho tôi. Lần đó chị vì chuẩn bi cho tôi đi Sài Gòn nên chị kỳ cọ kỹ hơn bằng những cái xơ dừa mới rất cứng làm tôi gần bật máu ra, đau chịu không thấu nhưng không dám kêu vì mỗi lần kêu là ăn một cái vã vào má kèm theo câu nói nghề nghiệp của chị. "Mầy còn la hả? Coi nè, hờm hố nè! đồ ở dơ như tù!” Trong lúc tôi đang tắm, có vài thằng bạn kế bên nhà tới chơi và tỏ vẻ thán phục về việc tôi đi Sài Gòn. Đứa nào cũng dặn lên đó thấy gì về kể lại cho tụi nó nghe. Tôi khoái chí vênh mặt lên đáp: "Tụi mầy khỏi phải lo, tao sẽ nhớ hết và kể lại tụi bây nghe!” Tôi quên nói là trong lúc chị Hai đang kỳ cọ cho tôi dưới cầu bến, có hai bà từ xóm trong đi ngang đứng lại nói chuyện với chị Hai và họ nói có nghe mấy đứa nhỏ cho biết ngày mai tôi đi Sài Gòn, và các bà nhìn tôi đầy vẻ thán phục và thèm thuồng, vì con của các bà là bạn tôi. Lúc đó tôi nghĩ biết đâu trong lòng các bà ước mơ:“Giá mà con mình được như thằng Lễ!” Nghĩ như vậy làm tôi thích thú và nhất là qua các bà này, tôi được biết cái tin tôi đi Sài Gòn được đồn đi rất nhanh, không phải xóm ngoài thôi mà cả xóm An Thành Tây cũng đã biết! Tôi thích vô cùng.
Kỳ cọ xong, anh Sáu Ngãi chở xe đạp xuống chợ Mai Phốp cho tôi lựa mua đôi săn-đan. Đây là đôi săn-đan đầ tiên trong đời. Từ nhỏ tới lớn tôi vẫn đi chân đất. Tối thì rửa chân và đi guốc vào cho khỏi dơ bẩn mền chiếu. Tôi lựa đôi màu đỏ, đế bằng cao-su trong, đôi săn-đan thơm phưng phức mùi da mới. Tôi không biết nó có phải bằng da hay không nhưng cái mùi đó là cái mùi tôi mới ngửi thấy lần đầu tiên và mùi thơm dễ chịu lạ lùng!

Về nhà, tôi lo xếp đồ đạc vào cái cặp da tôi dùng đi học. Việc đầu tiên là xếp bộ quần áo “ăn nói” gồm có một áo sơ mi trắng dài tay và một quần tây dài màu xanh, một cái khăn rằn, bàn chải răng và  thuốc đánh răng là cục tròn như đá vôi, khi dùng thì thắm nước và mài bàn chải vào. Khi mua săn-đan ve,à tôi cũng nhét vào cặp đợi sáng mai lên xe mới mang vì ở nhà quê này có ai mang giày bao giờ. Quãng 5 giờ chiều, má dọn cơm cho tôi ăn để anh Sáu còn chở tôi xuống nhà thầy Quý. Tôi lên ngồi nhưng có ăn được gì đâu, chừng chị Hai nói không ăn cơm thì: "Không đi đâu hết”, buộc lòng tôi phải cố nuốt một chén cơm cho xong chuyện.
Trên đường xuống nhà thầy Quý, tôi chỉ mặc áo sơ mi trắng ngắn tay, quần sọt lưng thun đi chân đất, tay xách cặp da và sau khi má cho một ít tiền tiêu, tôi khoanh tay chào má và chị Hai và từ giã ra đi. Từ chiều tới giờ má và chị Hai thay nhau dặn dò tôi không biết là bao nhiêu chuyện, nào là đi đường cho cẩn thận, nào là coi chừng xe cộ, nào là phải lễ phép với gia đình thầy Quý, nào là...Nhưng thật tình, tôi không nhớ một điều nào cả. Khi xuống tới Mai Phốp trời đã nhá nhem tối, anh Sáu quay về còn tôi xách cặp bước vô nhà lúc thầy Quý đang sắp xếp quần áo vào valise , tôi lên tiếng:
- Chào thầy, cha má con cho con đi Sài Gòn rồi, con xuống nè!
Thầy Quý có vẽ ngạc nhiên, yên lặng quay ra nhìn làm tôi nổi da gà, một lúc thầy mới hỏi:
- Thế Lễ đi thật à?
Quỷ thần thiên địa ơi! Sao thầy Quý lại hỏi tôi câu đó? Mới hồi trưa này thầy nói cho tôi đi sao bây giờ lại hỏi như thế? Có gì trục trặc không? Thầy có cho tôi đi Sài Gòn không?Tôi bàng hoàng đến điếng cả người, miệng mồm há hốc, người nóng ran như lên cơn sốt, nghe như các lỗ chân lông hở ra! Tôi gần như té xỉu nên bước tới vịn tay vào thành kệ sách. Trong phút chốc tôi thấy trời như sụp đổ vì nếu tôi không được đi Sài Gòn chắc tôi có thể chết mất vì thất vọng và nhục nhã sau khi đã chạy khoe hết làng trên xóm dưới! Tôi không biết là thầy Quý có hiểu được chút nào tâm trạng tôi lúc đó hay không. Tôi gượng nói mấy lời, giọng nghe như khóc:
- Thầy! Sáng nay thầy nói cho con đi Sài Gòn với thầy!
Sau câu nói đó tôi đứng nhìn thầy Quý trong lúc thầy đứng yên suy nghĩ. Nếu có người dùng lối so sánh: ‘‘Một phút dài hơn thế kỷ” thì chính là phút này. Giây phút đó tôi hồi hộp không có thể tưởng tượng được vì hậu quả sẽ khác nhau một trời một vực giữa cái gật đầu và cái lắc đầu của thầy Quý . Cuối cùng thầy nói:
- Thôi được! Lễ nằm ở ghế bố đó ngủ để sáng mai dậy sớm đi, xe tài nhất lúc 4 giờ. Mà Lễ ăn cơm chưa?
-Dạ, con ăn rồi thầy.
Nếu chưa ăn tôi cũng nói ăn rồi, thực tình lúc đó tôi chẳng còn mừng gì hơn. Vả lại sau giây phút căng thẳng đó thì còn bụng dạ nào mà ăn với uống.
 
 
Nôn nao cùng cực
 
Lúc này thầy Quý ở trọ nhà ông Mười Tươi, không còn ở bên trường học như lúc đầu. Căn nhà này khá rộng, thầy ở bên trong còn bên ngoài phía trước là văn phòng, có mấy kệ sách và ít bàn ghế, nơi đây cũng có kê sẵn một ghế bố nhà binh chỉ vừa đủ một người nằm. Tôi để chiếc cặp da lên ghế và lên nằm trên ghế bố theo lời thầy nói. Suốt đêm đó tôi không tài nào chợp mắt được lấy một phút. Cái cảm giác kích thích và bồn chồn vì sáng mai được đi Sài Gòn lần đầu tiên trong đời, tôi không biết phải diễn tả làm sao cho người khác hiểu được. Tôi nằm trằn trọc, thao thức và trăn trở một lúc rất lâu, có lẽ gần nửa đêm, thỉnh thoảng bước ra ngoài đi tiểu rồi lại vô nằm. Khi biết là không thể ngủ được, tôi ngồi lên thắp đèn bóng và tìm sách đọc chờ sáng. Tôi lựa trong kệ sách của thầy và cầm lên quyển sách khá to, bìa màu đen, giấy trắng tinh và láng“Thành tích 3 năm chấp chánh của Tổng thống Ngô Đình Diệm”. Sách có khá nhiều hình ảnh. Cũng trong sách đó có tấm hình gia đình Tổng Thống và lần đầu tiên tôi biết hai người con của ông Ngô Đình Nhu, là Ngô Đình Trác và Ngô Đình Lệ Thủy. Tôi nằm đọc và đọc mãi vừa nghe tiếng gõ cách quãng 15 phút của chiếc đồng hồ ODO trên tường. Trước khi gõ có mấy nốt nhạc “tính tịnh tinh tình...” phát ra trước rồi tiếng gõ sau. Tôi có cảm tưởng đồng hồ này đi quá chậm, tôi nằm mãi mà chưa sáng.
Thầy Quý dậy lúc 3 giờ sáng định ra đánh thức tôi, nhưng ra tới nơi đã thấy tôi dậy từ lâu. Thầy bảo tôi rửa mặt thay đồ để ra đi cho kịp chuyến xe tài nhất chạy từ Trà Vinh lên ngang qua đây lúc 4 giờ sáng. Tôi bật dậy như  cái lò xo. Giây phút tôi chờ đợi đã tới. Tôi lấy chiếc cặp da ra, mò tìm bàn chải và thuốc đánh răng bước ra sàn nước bên ngoài nhà. Lạ lùng quá, khi tôi đứng lên lại bị chao đảo tí nữa ngã xuống. Thì ra tôi thức và đọc sách suốt đêm làm đầu óc nóng ran lên, chao đảo và mất thăng bằng khi vừa đứng dậy bước đi những bước đầu tiên. Rửa mặt đánh răng xong tôi cảm thấy dễ chịu và tỉnh táo ra, vội bước vào nhà thay quần áo. Tôi cởi bộ đồ đang mặc trên người xếp lại và thay vào bộ đồ "đi Sài Gòn“ tôi vừa lôi trong cặp ra. Bộ đồ duy nhất này tôi chỉ mặc khi đi lễ ngày Chúa nhật mà thôi nên lúc nào cũng mới và thơm.
Tôi mặc vào người áo trắng dài tay xong, khi mặc quần ‘‘ăn nói” vào thì mới hay là có tai nạn! Không phải là quần của tôi mà là của anh Năm tôi! Thì ra chiều hôm qua trong lúc mừng quá, tôi đã vô ý lấy nhầm cái quần của anh Năm tôi cho vào cặp da .
Sở dĩ có chuyện chết người này vì má may cho ba anh em tôi mỗi đứa một cái  cái quần dài xanh bằng vải “sạc kinh” (shark skin) màu xanh y như nhau, chỉ khác nhau kích thước.  Anh Năm tôi thì cao, và to hơn tôi nhiều. Anh Sáu tôi còn cao hơn nữa! Khi tôi xỏ chiếc quần của anh Năm vào, nó rộng thùng thình. Tôi kéo lưng quần lên gần tới vú mà hai ống quần cũng còn lòng thòng một đoạn dài như hai cái vòi voi phủ cả hai bàn chân!
Tôi điếng người trước cảnh này vội cúi xuống xắn ống lên, nhưng loại vải shark skin mình có hột này lại mềm nhũn, bóng láng lại dầy và nặng, không làm sao có thể xắn lên cho được. Cứ xắn lên rồi lại rơi xuống! Tôi làm thử mấy lần nhưng vô hiệu. Chết tôi rồi! Xe Sài Gòn sắp sửa chạy, còn nhà tôi thì cách đó 2 cây số làm sao về lấy quần khác cho kịp.
Tôi đang loay hoay mặt mày nóng bừng, lại bất ngờ mắc tiểu, mặc dù tôi vừa đi tiểu xong lúc đánh răng. Tôi càng lính quýnh hơn khi nghe tiếng thầy Quý giục: “Xong chưa Lễ ơi, thôi nhanh lên đi, kẻo nhỡ xe!”  Tôi cảm thấy ù tai khi nghe tiếng thầy gọi. Không còn cách nào khác hơn tôi đánh nước liều “Con xong rồi thầy.” và mang vội đôi săn-đan mới, cài khuy lại cẩn thận. Khi tôi đứng lên với lấy cái cặp da thì hai ống quần phủ mất đôi săn-đan và đùn lại một đống trên mặt đất! Thầy Quý tắt đèn bước ra, tôi vội vàng theo sau, tay phải xách chiếc cặp da bước đi trong đêm tối. Mặc dù là sáng tinh sương bên ngoài trời khá lạnh nhưng mặt tôi vẫn nóng bừng.
 
 
Khổ vì cái quần
 
Vừa đi được mấy bước tôi bị vướng víu lạ lùng. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi mang giày săn-đan nên đôi bàn chân như có đeo hai dề đất sét cứng, có quay cột vào chân, trong khi đó hai cái ống quần “ăn nói” lùng nhà lùng nhùng dư ra hàng tấc, phủ cả đôi săn-đan làm tôi không thể nào bước đi được. Tôi cố bước theo cho kịp thầy Quý đang rảo bước đi trước thì chân nọ lại đạp lên ống quần chân kia! Lúc đó tôi ngầm than thở: “Trời ơi! sao đời mình khổ! Đáng lẽ ra lúc này trong lòng phơi phới hân hoan thì bị hai cái ống quần mắc dịch này nó hành hạ mình!” Lúc đó tôi phải gù người xuống dùng tay trái thò xuống trước đùi túm lấy hai ống quần kéo lên, trong khi tay phải đang cầm chiếc cập da. Trong tư thế đó, tôi không thể nào bước nhanh được mặc dù thầy Quý đã bỏ tôi một đoạn đường khá xa.
Thấy tôi còn lò mò phía sau, thầy quay lại giục: ‘‘Lễ, đi nhanh lên, muộn rồi sợ nhỡ xe đấy, nhanh lên tí đi nào!”. Nghe tiếng gọi, tôi cố chạy theo thầy, nhưng cũng không làm sao chạy nhanh được trong tư thế vừa đi vừa khòm và hai tay đang bận cả hai. Chắc lúc bấy giờ thầy Quý cũng ngạc nhiên tại sao tôi đi quá chậm. Trong đêm thầy không thấy gì cả, nhưng nếu thấy được cảnh đó chắc thầy sẽ cười vỡ bụng và thương hại cho thằng bé nhà quê đang khổ vì cái quần.
Từ nhà thầy ở ra lộ đá quãng 300 thước và phải đi qua nhà thờ Mai Phốp. Khi tới nhà thờ, thầy đứng lại đợi tôi rồi mới tiếp tục đi. Từ nhà thờ ra đường cái chỉ một quãng ngắn nữa thôi, bất thần tôi thấy ánh đèn xe hơi chiếu sáng rất gần, như thế là chiếc xe tài nhất đang trờ tới, và ngay sau đó xe chạy qua. Lúc đó thầy  Quý vừa chạy theo vừa cầm đèn bấm dọi ngay xe và nâng lên hạ xuống mấy lần chủ ý gọi xe dừng lại, nhưng đã trễ, xe chạy qua luôn trong khi thầy trò tôi cũng vừa trờ ra tới lộ.
Chúng tôi tới muộn chừng 30 giây đồng hồ! Tôi đoán là thầy Quý không vui, rõ ràng là tại vì tôi là nhỡ chuyến xe tài nhất. Nhưng ở đời, có khi cái rủi ro của người này lại là cái may của người khác. Thầy Quý bị nhỡ xe là chuyện rủi nhưng may cho tôi, nhờ đó tôi được cứu thoát. Lúc đó thầy có vẻ tiếc, nói với tôi: "Thôi nhỡ xe tài nhất rồi, tiếc quá vừa ra đến nơi xe đã chạy qua. Thôi mình về nhà nghỉ vì xe tài nhì mãi tới 6 giờ mới lên.”  Nói xong thầy trò tôi quay trở lại.
Vô tới nhà, việc đầu tiên là tôi tụt ngay cái của nợ có hai cái vòi voi ra, vất lên ghế bố! Trông nó nằm một đống dài nhằng và vô duyên như cái bao tải! Bề dài của nó gần bằng chiều cao của tôi. Nó đang nằm ngửa nhìn tôi trong tư thế giễu cợt và thách thức. Tôi bực quá, cầm chiếc cặp da nện lên cái quần ‘‘ăn nói” mấy cái kêu phình phịch, miệng mắng:‘‘Tổ cha mầy, mầy đã làm khổ tao!”Trong cơn tức bực tôi “đánh" cái quần mạnh quá phát ra tiếng động khá to khiến  thầy Quý hỏi vọng ra:
- Làm gì ồn thế hở Lễ?
Tôi vội nói tránh:
- Chẳng có gì đâu thầy, con giũ bụi trên ghế bố ấy mà!
Thầy có vẻ ngạc nhiên nói:   
- Đầu hôm sao không giũ, bây giờ sắp đi rồi giũ gì? Chừng về lại đầy bụi thôi!
Nghe thầy nói tôi ngồi lặng thinh lè lưỡi !
Cởi được của nợ ra xong, tôi mặc lại chiếc quần sọt lưng thun duy nhất vừa thay ra lúc nãy. Mặc vào tôi thấy thoải mái, dễ chịu, mặc dù đi Sài Gòn mà ăn mặc như thế chẳng ra làm sao nhưng không còn cách nào khác hơn. Lúc đó tôi lại nghĩ, đời tôi thật may mắn vì được... nhỡ chuyến xe vừa rồi. Nếu không, tôi đã phải mặc cái quần mà tôi có thể bơi trong đó được để lên xe đi Sài Gòn. Không biết  là sẽ ăn làm sao nói làm sao khi ban ngày trời sáng tỏ và lúc tôi phải bước ra khỏi xe! Tôi đành phải xếp cái quần vô tích sự đó cho vào cặp da mang theo đi Sài Gòn, vì dù sao tôi cũng phải mang về trả nó lại cho anh Năm, hơn nữa tôi cũng phải có cái gì nhét vào cặp da, không lẽ lại mang cặp da rỗng đi Sài Gòn.
Gần tới 6 giờ sáng thầy gọi tôi ra đi. Lần này tôi bước ra đường nhẹ nhàng thơi thới trong chiếc quần sọt lưng thun, mang săn-đan. Thấy tôi ăn mặc đơn sơ quá thầy hỏi:
- Ủa Lễ, sao ăn mặc thế? Còn quần dài đâu?
Tôi nói tránh đi:
- Con mặc quần dài không quen sợ ngồi xe nóng thầy à!
Nghe tôi nói thế thầy có vẽ ngạc nhiên, nhưng cuối cùng nói:
- Thôi mặc thế cũng được!
Hai thầy trò tiếp tục rảo bước. Lần này thì thầy Quý chẳng cần phải giục và cũng chẳng phải dừng lại chờ tôi. Lúc dang đi tôi nghĩ, nếu thầy tinh ý ra sẽ tìm hiểu tại sao lần trước tôi đi chậm mà lần này lại bước đi nhanh quá, có lúc còn vượt qua  thầy!
Xe tài nhì là xe Tân Hòa tới đúng giờ. Lần đầu tiên tôi được ngồi trên xe Sài Gòn mà từ trước tới giờ tôi ước ao làm sao có dịp được ngồi trên xe đó. Nhớ lại lúc cùng bọn trẻ chăn trâu, thả trâu ăn gần lộ đá, chúng tôi hay lên lộ chơi và hay nghịch ngợm bày trò chọi xe khi xe chạy qua. Nhưng đặc biệt là bọn tôi không bao giờ chọi xe Sài Gòn vì thấy nó đẹp, nó sang quá làm tôi tiếc không muốn chọi sợ nó hư. Bây giờ tôi đang là một hành khách trên chiếc xe đi Sài Gòn. Sau khi xe qua thành phố Vĩnh Long thì trời đã tờ mờ sáng, tôi giương to cặp mắt quan sát cảnh vật. Trước tới giờ tôi chỉ tới chợ Vĩnh Long, trừ ra một lần, lúc còn bé tôi được đi qua họ đạo La Mã viếng Đức Mẹ. Nhưng sáng hôm nay tôi sẽ còn ra khỏi Vĩnh Long, qua bắc Mỹ Thuận và ngồi xe thêm 150 cây số nữa mới tới Sài Gòn! Còn hạnh phúc nào hơn!
Xe qua khỏi Vĩnh Long 9 cây số tới bắc Mỹ Thuận. Từ trước tới giờ nghe nói bắc Mỹ Thuận.Vì kẹt xe nên thầy trò tôi đi bắc qua bờ bên kia trước, rồi xe sẽ qua sau. Lúc này trời vừa mới sáng, thầy Quý bảo tôi vào quán ăn điểm tâm trong khi chờ xe tôi qua. Khi bước vô quán kéo ghế ngồi xuống, thầy hỏi tôi
- Lễ muốn ăn gì?
Tôi có biết gì đâu mà nói nên trả lời:
- Con đâu có biết, thầy ăn gì con ăn nấy.
Thầy cười đáp lại:
- Thế ăn bánh bao nhé?
- Dạ
- Uống cà phê sữa nhé?
- Dạ.
Tôi ăn cái bánh bao nóng rất ngon, quá là ngon! Ăn xong tôi còn thèm nhưng ngại không xin cái nữa. Chừng đưa cà phê sữa ra, tôi để ý coi thầy làm sao tôi bắt chước, vì từ nhỏ tới giờ tôi chưa uống cà phê bao giờ. Thầy Quý uống cà phê coi rất ngon, thấy vậy tôi cũng bưng ly hớp một hớp. Vừa nuốt qua khỏi cổ tự nhiên tôi không chịu được, sao cà phê đắng quá như uống thuốc bắc, làm tôi buồn nôn. Không dằn được tôi phải chạy ra ngoài đường ngồi nôn xuống đất. Thầy Quý thấy vậy thương tôi, bảo không quen uống thì bỏ đi. Tôi xin lỗi thầy thì thầy nói có gì mà xin lỗi tại vì tôi chưa quen đó thôi.
20/6/2003
Nguyễn Hữu Lễ
Nguồn: http://dactrung.net/
Theo http://diendan.vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những tác giả cách tân thơ lục bát ngoài nước Việt

Những tác giả cách tân thơ lục bát ngoài nước Việt “Lục bát mãi mãi là một tài sản thiêng liêng của nền văn hóa Việt. Chừng nào thế giới c...