Tôi phải sống 1
Bút ký
Kính Dâng Lên Mẹ Việt Nam
Với tâm tình Vọng Cố Hương
Để tưởng nhớ
Hương Hồn Cha Má
Để nhớ ơn Sinh Thành Dưỡng Dục
Anh Linh các người anh
Đặng Văn Tiếp
Trịnh Tiếu
Lâm Thành Văn
Để nhớ thời gian trong trại tù Thanh Cẩm
Vong Linh người em
Đỗ Thanh Bình (Bình Thanh)
Để nhớ tình anh em kết nghĩa trong tù
Những người đã nằm xuống
trong cuộc chiến tương tàn trên quê hương.
Để chia sẻ quãng đời bất hạnh
Lạy Chúa! Xin cho lời con nguyện cầu.
Tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa”
TỰA
Tháng 6 năm nay (2003), từ Tân Tây Lan, linh mục Nguyễn Hữu Lễ gọi điện thoại
và ngỏ ý muốn tôi viết lời tựa cho cuốn bút ký “Tôi phải sống" mà ông vừa
hoàn tất. Tôi nhận lời không một chút đắn đo vì coi đó là một vinh dự. Tác phẩm
này, từ lâu tôi vẫn mong được đọc vì chính bản thân tôi cũng muốn làm một công
việc tương tự nhưng không gặp điều kiện thuận lợi để thực hiện.
Sau khi nhận bản thảo, tôi lao vào đọc cuốn bút ký một cách mê say, không ngừng
nghỉ. Trải dài trên hơn 400 trang giấy, tác phẩm này được chia thành 11 chương.
Mỗi chương gồm một số bài viết có vóc dáng như những bài luận văn được trau chuốt
tận tình để quảng bá những dòng suy nghĩ cần phổ biến. Dọc theo chiều dài của tập
bút ký, những tình cảnh éo le và những trạng huống hiểm nghèo, bi đát, trong
các trại tù cộng sản đã được tác giả thuật lại sống động và trung thực, với một
văn phong nhẹ nhàng và tự nhiên như hơi thở. Mặc dầu không phải là một pho truyện
trinh thám nhưng người đọc luôn luôn ở trong trạng thái nôn nóng vì muốn biết
tác giả viết gì thêm trong những trang kế tiếp. Các liều lượng hỉ, nộ, ai, lạc
được phân bổ hài hòa và sử dụng một cách cân nhắc để tránh cho nội dung tác phẩm
sự nhàm chán thường gặp.
Lược qua những dòng viết tâm tình ta được biết tác giả sinh ra và lớn lên tại một
vùng quê thuộc tỉnh Vĩnh Long. Gia đình theo đạo Công Giáo và cư ngụ trong vòng
đai của ngôi thánh đường nhỏ trong làng có tên là nhà thờ Bưng Trường. Ngày tác
giả mở mắt chào đời là ngày đất nước đang bị chiến tranh tàn phá. Tiếng bom đạn
và những xác chết trôi sông, đối với tác giả cũng như đối với các bạn cùng lứa
tuổi, là những âm thanh và cảnh tượng quen thuộc hàng ngày. Kiếp sống lầm than,
cơ cực và hoàn toàn thiếu an ninh của người dân thôn dã đã làm mủi lòng người
thanh niên mới lớn giàu lòng bác ái. Ta hãy đọc những dòng viết sau đây của tác
giả khi ông chuẩn bị bước vào đời. “Tôi nghĩ tới con đường làm linh mục năm tôi
20 tuổi sau khi học xong ban trung học. “Cái nhìn của tôi về hoàn cảnh xã hội
lúc bấy giờ... đã ảnh hưởng tới sự lựa chọn của tôi. Tôi quyết định chọn đời
linh mục vì tôi biết trong cương vị đó tôi sẽ phục vụ người dân thấp cổ bé miệng
hữu hiệu hơn.” ( trang 51 ).
Thụ phong linh mục năm 1970, lúc vừa tròn 27 tuổi, tác giả
hăng say làm công việc cứu nhân độ thế, nhưng không may, chưa được bao lâu, thì
họa cộng sản đổ sập xuống miền Nam, và chính bản thân ông cũng bị cuốn vào vòng
lao lý như hàng triệu người công dân vô tội khác của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Sau ngày 30 tháng Tư đen của năm định mệnh 1975, ông lê gót chân, hết nhà tù
này đến trại giam khác, từ Nam chí Bắc, để chịu kiếp đọa đầy mà những người cộng
sản Việt Nam đã nhẫn tâm áp dụng đối với đồng bào ruột thịt, trong ý đồ vừa trả
thù vừa tránh hậu họa sau này cho cái chế độ sâu dân mọt nước. Tắm máu đã không
xẩy ra sau khi miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm bằng võ lực, nhưng những gì mà
độc giả cảm nhận sau khi đọc cuốn bút ký của linh mục Nguyễn Hữu Lễ, sẽ còn ghê
tởm, thâm độc và ác nghiệt gấp triệu lần.
Một phần bút ký “Tôi Phải Sống" tả lại cái khung cảnh hãi hùng của 13 năm
tù cộng sản. Vì phải tiếp giáp hàng ngày với thần chết trong suốt quãng đời cơ
cực ấy nên tác giả đã xuống quyết tâm phải tồn tại để làm nhân chứng sống cho một
giai đoạn cực kỳ thảm thương của đất nước và thay đổi quan điểm sai lầm của một
phần dân tộc về một thứ chủ nghĩa ngoại lai đã lỗi thời và đã đi vào sọt rác của
lịch sử.
Những chương trong bút ký liên quan đến hệ thống trại tù của cộng sản Việt Nam
đã được tác giả ghi lại với một bút pháp tuyệt vời, với một mức độ chính xác
chưa từng thấy và với một tấm lòng tha thứ, bao dung hiếm có ngay cả đối với những
người rắp tâm tiêu diệt bản thân mình. Đọc tác phẩm này, nếu độc giả không phải
là người mau nước mắt thì cũng sẽ rùng mình ghê sợ và xót thương cho số phận của
những con người Việt Nam bị chính đồng bào mình đầy đọa xuống đáy tầng của địa
ngục trần gian. Mức độ độc ác và tàn nhẫn không thua kém gì những
“holocaust" Đức Quốc Xã dành cho người Do Thái trong Thế Chiến thứ hai.
Chế độ tù trong xã hội cộng sản Việt Nam là sản phẩm của một chính sách hủy diệt
dấu tay kinh tởm ngoài sức tưởng tượng của con người. Với một thời gian giam giữ
vô hạn định giữa bốn bức tường kiên cố của các trại tù hôi hám thiết lập tại những
nơi thâm sơn cùng cốc, chính sách này đã biến con người thành con vật. Bằng
phép thuật khủng bố tư tưởng nó đã tạo nên những tên phản thầy phản Chúa, phản
lại lý tưởng mình theo đuổi. Bằng chủ trương "bỏ đói" nó đã đưa dẫn
tù nhân tới chỗ giết nhau chỉ vì một miếng cơm hay mẫu bánh. Thậm chí nó đã
thúc đẩy con người nghĩ cả đến việc ăn thịt đồng cảnh để sống còn. Tác giả Nguyễn
Hữu Lễ đã thuật lại những "chuyện khó tin nhưng có thật" đó với những
giọt nước mắt chảy ngược vào tim vì chính ông là nạn nhân của những hiện tượng
kinh hoàng vừa nói. Mặc dù vậy sau khi xếp sách lại chúng ta mới cảm nhận được
hết sự chan hòa với tâm tình yêu mến quê hương và dân tộc của một Linh mục tù
nhân, chứng nhân và là nạn nhân của bao nhiêu tình cảnh đau thương. Tác giả kết
luận: “Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn sáng của bình
minh dân tộc”.
"Xã hội tù’” của CSVN là hình ảnh thu hẹp của một xã hội lớn hơn: xã hội
Việt Nam sau ngày 30 tháng tư đen tối. Mười ba năm dài đằng đẵng, với thiên chức
của một vị linh mục, tác giả đã thành công trong việc cảm hóa và cải tà quy
chính rất nhiều đối tượng đã mất hết tính người vì chính sách trại giam của cộng
sản. Mong rằng tác giả cũng sẽ thành công một lần thứ hai khi trở lại đời sống
bình thường, cho đúng với ước nguyện của ông lúc ban đầu, cho dân tộc được hưởng
không khí tự do và cho tổ quốc có điều kiện vươn lên cùng nhân loại văn minh.
Maryland ngày 20 tháng 6 năm 2003
Nguyễn Cao Quyền
*
Lời Cảm Tạ
Tập Bút Ký “Tôi Phải Sống” được thành hình do công sức và sự khuyến khích của
nhiều người. Về phần tôi, khi dòng chữ cuối cùng trong sách được viết xong, tôi
ngồi đọc lại và thấy mình thật liều lĩnh!
Trước tiên vì tôi chưa hề viết lách bao giờ! Nhớ lại lúc vừa lớn lên tôi rất
thích viết văn. Có lần tôi đọc một câu chuyện tác giả viết về cảnh trên chuyến
xe lam từ Sài Gòn lên Gò Vấp, đoạn đường quãng nửa giờ xe, nhưng tác giả viết gần
10 trang giấy. Tôi đọc phát mê và thán phục óc tưởng tượng phong phú của các
văn sĩ. Tưởng viết văn không có gì khó, tôi chợt muốn làm văn sĩ nên lấy giấy
bút ra và thử viết một đoạn văn tả cảnh ngồi xe. Tôi chọn đoạn đường dài hơn từ
Vĩnh Long lên Sài Gòn với khoảng 3 tiếng đồng hồ. Sau bao nhiêu cố gắng, tôi chỉ
viết được không đầy trang giấy. Muốn viết thêm cũng chẳng biết viết gì!
Khi ra khỏi tù tôi đã 46 tuổi và có nhiều chuyện trong đầu. Lúc qua New Zealand
hai năm sau đó, tôi thử ngồi viết lại những gì đã xảy ra trong tù. Lần này tôi
viết được. Không những dài hơn đoạn văn năm xưa mà còn hết trang này qua trang
khác. Nhưng đây không phải là óc tưởng tượng của nhà văn, mà là công việc của
trí nhớ. Bắt đầu từ năm 1996, tôi ngồi viết lại một phần trang sử đau thương của
cuộc đời.
Tuy nhiên, thú thật mà nói, dù trí nhớ tôi nhả mực qua dòng chữ với trang này
qua trang khác, tôi cũng cảm thấy mình làm công việc này một cách khó khăn và nặng
nề như con bò kéo chiếc xe có bánh vuông đang lên dốc!
Trở ngại trước tiên vì tôi là người miền Nam, viết sai chính tả quá nhiều, dấu
hỏi ra dấu ngã và dấu ngã thành dấu hỏi. Lúc đầu viết tay, vì chữ xấu nên nhiều
lúc viết xong đọc lại có chỗ tôi không hiểu mình đã viết gì! Loay hoay làm sao
cải thiện việc viết lách cho có hiệu quả, tôi bèn nghĩ tới loại máy đánh chữ có
dấu tiếng Việt mà khi còn ở Việt Nam tôi thường dùng. Tiện dịp có người bạn về
thăm quê hương, tôi nhờ mua. Anh bạn mang qua cái máy đánh chữ có dấu tiếng Việt
đã cũ. Tôi dùng một thời gian và thấy khó khăn nặng nề quá, đành xếp xó và định
lúc nào rảnh sẽ đưa tới tặng lại cho viện bảo tàng. Tôi biết họ sẽ rất mừng vì
của này hiếm! Không còn lựa chọn nào khác tôi đành phải nghĩ tới computer. Của
đáng tội! Từ thuở tấm bé cho tới khi qua định cư ở New Zealand lúc đã gần 50 tuổi
đời, tôi chưa có dịp sờ qua cái computer, mặc dù đã thấy qua.
Cũng may cho tôi! Lúc bấy giờ tôi có người bạn đạo Tin Lành rất giỏi về
computer là anh Nguyễn Văn Tư, tôi tới gặp và xin anh giúp làm quen với cách sử
dụng máy. Anh Tư đã tận tình hướng dẫn tôi ngay buổi trưa hôm đó. Tôi ngồi xuống
trước máy, anh đứng ngay sau lưng bảo tôi cầm “con chuột”, tôi đưa tay phải ra
tóm lấy nó! Nhưng con chuột bằng nhựa màu trắng đục này lúc nào cũng chực vuột
ra khỏi tay tôi để thoát thân! Tôi bặm môi ghì thật chặt làm anh Tư kêu:“ Ấy, ấy!Linh
mục đừng ghì con chuột chặt quá, nhẹ tay thôi và từ từ đẩy cho mũi tên trên màn
ảnh di chuyển theo!” Lúc đó tôi thầm nghĩ: “Bắt chuột vốn là nghề của mình,
ngày còn nhỏ ở ruộng đồng mình đã bắt không biết bao nhiêu là chuột. Nhưng chuột
thật hình như dễ bắt hơn con chuột nhựa này!” Trước lúc ra về, anh Tư có viết
cho tôi một cẩm nang. Nhưng về nhà được mấy hôm lại quên ngay. Chữ của thầy tôi
trả cho thầy.
Vì có nhu cầu viết lách, tôi bèn ghi tên học computer lớp đêm dành cho người lớn,
mỗi tuần 2 lần. Tôi chăm chỉ học trong 2 tháng với ông thầy người Anh. Vào lớp
nghe tiếng Anh còn vất vả, thì nói gì tới việc học computer bằng tiếng Anh! Nên
sau hai tháng miệt mài, tôi chỉ còn nhớ được cái computer tôi học tên là
“Apple”, nghĩa là “Quả táo”! Một lần nữa, chữ của thầy tôi trả lại cho thầy.
Sau đó tôi quên đi computer một thời gian và tiếp tục viết tay phần đầu tập Bút
Ký. Có hiểu được sự khó khăn của tôi mới biết sự đóng góp quý báu và hỗ trợ
tích cực của một số người trong việc này.
Một dịp may khác lại đến với tôi. Số là có đôi vợ chồng trẻ là Hoàng-Tú dọn tới
ở gần tôi, cả hai là chuyên viên điện toán. Tôi mua máy và đôi bạn trẻ tới nhà
chỉ dẫn tận tình. Nhờ đó tôi bắt đầu biết sử dụng computer để viết. Cũng từ đó
và sau này tôi được sự hướng dẫn về kỹ thuật computer, Internet của ông Lê
Quang Long, chủ tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Auckland và của người bạn
Phật Giáo ở Úc là anh Lê Thiện Phúc. Riêng hai người con tinh thần của tôi là vợ
chồng Nguyễn Dương-Ngọc Yến, lúc đó ở San José, am tường trong ngành báo chí và
phát thanh, hiện đang điều hành lớp Hán-Việt trên Internet đã giúp tôi về nhiều
mặt trong tập sách này. Vừa rồi tôi rất vui khi Dương-Yến và con gái lớn là
cháu Thùy Dương giúp dịch tập Bút ký này sang tiếng Anh.
Tôi đặc biệt ghi nhận sự đóng góp của hai người bạn tù trại Thanh Cẩm là anh
Nguyễn Cần (Lữ Giang) và anh Nguyễn Cao Quyền. Cả hai anh, cũng như nhiều bạn
tù khác đã khuyến khích tôi lo hoàn thành tập Bút Ký. Anh Nguyễn Cần đã đọc và
sửa giúp một phần bản thảo ngay từ lúc đầu và anh Nguyễn Cao Quyền nhận viết Lời
Giới Thiệu cho tập sách.
Công việc bị gián đoạn trong mấy năm tôi làm việc ở Mỹ và các nước khác. Có một
dạo, lúc tôi còn làm việc bên Mỹ, chị Trịnh Tiếu (Phi Nga) ở Sacramento đã chịu
khó giúp tôi sắp xếp thứ tự các bài, các trang và sửa lỗi chính tả. Năm 2001
trước khi tôi trở lại New Zealand, cô em gái Như Lan ở Virginia giúp tôi đọc lại
các bài mới viết, góp ý kiến và luôn nhắc tôi lo hoàn thành những gì tôi đã bắt
đầu từ lâu. Khi tôi trở lại New Zealand, may mắn có sự tiếp tay của một người bạn
Linh mục là cha Peter Hoàng. Nhờ đó cuốn sách này được hoàn thành.
Cha Hoàng, một Linh mục trẻ, đẹp trai, sống bên Úc đã lâu và mới chịu chức Linh
mục được 3 năm. Cha qua làm việc tại một giáo xứ ở Auckland gần tôi. Ngoài đức
tính hiền hòa, vui vẻ và tận tình được mọi người quý mến, cha Hoàng còn là người
thông minh, giỏi văn chương, rành về ngôn ngữ Việt Nam và nhất là giỏi về
computer, mặc dù chỉ tự “mò” thôi chứ không được “qua trường lớp” như tôi! Nói
tóm lại, cái yếu của tôi lại là cái mạnh của cha Hoàng. Từ đó cha Hoàng giúp
tôi sửa bản thảo, lời văn, câu cú và nhất là lỗi chính tả, trong khi ý trong
sách vẫn được giữ nguyên. Vì ở gần nhau nên rất thuận tiện trao đổi ý kiến và
chúng tôi làm việc tận lực trong vòng 2 tháng để kịp hoàn thành tập Bút Ký
trong năm nay, vì năm sau cha Hoàng trở về Úc. Nếu không có công sức cha Hoàng,
chắc chắn tập Bút Ký chưa có thể thành hình được lúc này. Cha Hoàng còn khuyến
khích tôi rất nhiều trong việc xuất bản cuốn sách. Một hôm, trong buổi gặp gỡ
nhiều người và có cả tôi, cha “phấn khởi” tuyên bố một câu làm mọi người cười nắc
nẻ: “Các chuyện cha Lễ viết hay lắm, đọc xong chỉ muốn... ở tù!”
Có lần cha Hoàng thúc giục tôi:
- Cha lo in cuốn sách đi, chắc chắn sẽ có nhiều người đọc. Con đọc từ đầu tới
cuối thấy rất hay.
Tôi cười đáp lại:
- Thế có cần ghi thêm hàng chữ “Money back guaranteed” ở bìa sau không?
Cha Hoàng la lên:
-Ối giời ơi! Làm gì tệ thế hả cha!
Ngoài những đóng góp đó, còn có sự khuyến khích của rất nhiều người. Trước
tiên là trong gia đình của anh Đặng Văn Tiếp, là người anh kết nghĩa của
tôi đã chết trong tù. Đặc biệt nhất là sự khuyến khích và hỗ trợ của chị Hoàng
Thị Huyền Thanh ở Pháp là hôn thê của anh Tiếp và anh Đặng Văn Thụ ở Maryland
là em kế của anh Tiếp. Khi tìm gặp được nhau, chị Huyền Thanh và anh Thụ nhận
tôi là người em. Sau đó là sự khuyến khích của anh chị em, bạn bè thân hữu
thuộc nhiều giới khác nhau mà tôi chỉ có thể ghi lại một vài người ở đây. Ngay
từ đầu có hai người em họ tôi là vợ chồng Phương-Dung ở Hershey, các bạn tù như
Dương Văn Lợi và chị Germaine ở Paris, Nguyễn Tiến Đạt ở San Barnadino, Trần Nhật
Kim ở Virginia, Nguyễn Tôn Tính ở San José, Phạm Hùng Thọ ở Sydney...và các người
bạn như anh Đinh Hùng Cường ở Virginia, cô Hồ Bạch Lan ở Toronto, cô Trần Thị
Kim Loan, và người bạn học từ nhỏ là Anh Nguyễn Hữu Trà ở Virginia... Các
anh chị Phùng Văn Tuệ ở Santa Ana, chị Hoàng Thị Bích Đào và anh chị Bác sĩ Trần
Văn Cảo ở San José...
Về sau này các người bạn như anh chị Võ Đại Tôn ở Santa Ana, Nguyễn Văn Tấn ở
Toronto, Bác sĩ Đỗ Văn Hội ở Orlando, anh Châu Hoài ở Dallas... và nhiều bạn bè
thân hữu khác. Riêng anh Trần Văn Ngà, chủ nhiệm báo Tiếng Vang ở Sacramento và
chị Kiều Mỹ Duyên có chương trình phát thanh và truyền hình ở Santa Ana không
ngừng khuyến khích và sẽ tiếp tay giới thiệu quảng bá tập Bút Ký. Ngoài ra hai
người bạn là anh chị bác sĩ Nguyễn Huỳnh Anh ở Sacramento lúc nào cũng hỏi tôi:
“Chừng nào Cậu bảy xong cuốn sách?” Lúc ở Mỹ cũng như khi về đây rồi tôi vẫn “bị”
hỏi như thế! Anh chị Huỳnh Anh-Liễu luôn khuyến khích và giúp tôi về nhiều mặt.
Hai người bạn nghệ sĩ là anh Vũ Hối ở Maryland và cô Tina Thanh Hương ở
Sacramento đã làm sẵn con dấu tặng tôi dùng trong ngày... ra mắt sách! Mặc dù bản
thảo còn đang dở dang!
Tuy nhiên còn một việc nặng nề cụ thể khác là in ấn và làm sao chuyển sách tới
tay bạn đọc. Tôi nghĩ tới người bạn thân là anh Trần Quốc Bảo ở California, người
đã khuyến khích tôi rất nhiều trong việc này. Tôi gọi anh Bảo trình bày khó
khăn và nhờ anh giúp. Anh Bảo trả lời “Cha Lễ ơi! Vì cha ở xa quá, nên con sẽ
giúp cha. Cha cứ yên tâm đi vì con coi việc của cha cũng như việc của con”. Chắc
tôi không cần viết gì thêm về anh Bảo, vì câu nói ngắn gọn đó đã nói lên tất cả.
Có điều tôi hơi ngắc ngứ là anh Bảo vẫn dùng lối xưng hô theo tước vị tôn giáo
đó làm tôi thấy khó, vì anh là người bạn, vả lại anh là một tín đồ Phật giáo.
Tôi tin chắc là anh chị Bảo và hai cháu Hương, Kiếm hiểu được lòng quý mến của
tôi. Tôi ghi nhận sự tận tình của anh Võ Triều Sơn, Thầy Nguyễn Văn Chọn, anh
Nguyễn Hữu Lợi, hai cháu Trí và Ngọc ở Sydney giúp rà soát từng hàng của bản thảo
trước khi gởi tới nhà in và các người bạn là anh Trần Phong ở Colorado giúp
trình bày bìa sách.
Đặc biệt tôi ghi nhận sự quan tâm, khuyến khích góp ý kiến để sửa bản thảo và
giúp đỡ phương tiện in ấn của hai người con tinh thần tôi là vợ chồng Huỳnh
Kim-Trầm Minh Phụng tại Auckland.
Có người hỏi tôi về tựa đề “Tôi Phải Sống” của tập Bút ký. Tôi trả lời, bạn sẽ
hiểu khi đọc bài số 10 trong tập sách này.
Để giúp bạn đọc dễ dàng theo dõi, tôi chia tập Bút Ký này ra làm 3 phần.
Phần Một: Cuộc Đời và Bóng Đen
Phần Hai : Chiếc Lá Giữa Dòng
Phần Ba : Tự Do và Hy Vọng.
Ngoài hai bài Vào Chuyện và Cuối Chuyện sẽ có 12 bài gồm những câu chuyện liên
kết nhau theo thứ tự thời gian, sau cùng là Phần Phụ Trương và hình ảnh. Mặc dù
là từng bài riêng biệt nhưng được xếp theo thứ tự có chủ ý, vì vậy xin bạn đọc
hãy khoan phê phán và chưa có ý kiến vội trước khi đọc xong hàng cuối cùng của
phần Phụ Trương.
Cũng có mấy người bạn giúp tôi một vài chi tiết về con số, ngày, tháng, địa
danh... mà đã quá lâu tôi không còn nhớ rõ. Dù sao sách này cũng còn nhiều thiếu
sót, tôi mong sự cảm thông của bạn đọc và ước mong giúp tôi bổ túc. Đa số những
người tôi nhắc tới trong tập Bút Ký này hiện đang sống tại Mỹ, Việt Nam, Pháp,
Úc, Đan Mạch, Canada, New Caledonia, Anh Quốc, Đức ,Ý, Bỉ, Hòa Lan, New
Zealand... Phần đông tôi đã có dịp gặp lại hoặc điện thoại thăm hỏi hay tiếp
xúc qua thư từ, một số người có hình ảnh trong tập Bút Ký này. Dĩ nhiên, có một
số người đã nằm xuống, xin bạn hãy dừng lại một phút để tưởng nhớ và cầu nguyện
cho họ được siêu thoát.
Đôi lời chân tình tôi xin gởi tới các ân nhân, thân nhân, anh em bạn bè và thân
hữu. Tôi nhớ từng người nhưng không thể nào kể hết ra đây, xin các bạn hiểu cho
tôi điều đó. Chính vì sự đóng góp của quá nhiều người về nhiều mặt nên tôi xin
gọi tập Bút Ký“Tôi Phải Sống” này là “cuốn sách của chúng ta.”
Với lòng quý mến và biết ơn sâu xa của tôi.
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
*
Thay Lời Tựa
Bạn đọc thân mến,
Tôi vui mừng biết bao khi được gửi tới bạn món quà mà bạn đang cầm trong tay. Đối
với tôi, đây là một món quà rất quý vì là kết quả sự đóng góp công sức và sự
khuyến khích của nhiều người. Từ nhiều năm qua tôi đã ngồi lựa chọn lại những
chất liệu đa dạng cho cuốn sách. Trước tiên là hồi tưởng các sự kiện xảy ra và
sau đó đã phải khổ tâm nhớ lại từng xác người chết, sự đánh đập tra tấn cùm kẹp
dã man, sự hận thù, lòng dạ phản trắc hòa lẫn với lòng nhân đạo, tình yêu
thương, sự thân ái. Tôi nhớ tới màu đen ghê rợn trong đáy địa ngục, pha lẫn với
màu hồng của tình người. Những yếu tố này và bao nhiêu điều tương phản khác đã
xảy ra cho chính bản thân tôi và nhiều người khác mà tôi đã chứng kiến trong một
thời gian khá dài kết tinh thành những dòng chữ trong các trang sách
này.
Những sự kiện và hình ảnh tôi ghi lại một cách trung thực trong Bút Ký này nhiều
khi rất thương tâm. Tôi viết lên không phải để oán trách cuộc đời và con người,
nhưng muốn dùng các sự việc đó như một bài học của lịch sử, để nhiều người nhất
là thế hệ trẻ mai sau biết được quá khứ và tránh không trở lại vết xe cũ.
Mục đích tập Bút Ký này để làm món quà gửi tới toàn thể đồng bào Việt Nam. Số
tiền tượng trưng nào đó được ghi ở bìa sách chẳng qua là để giúp phương tiện in
ấn, chuyên chở, phân phối v.v... để trao tập Bút Ký này tận tay bạn đọc. Và đó
cũng là phương tiện duy nhất giúp tôi làm lộ phí để từ New Zealand tôi có thể tới
thăm bà con và đồng hương trong dịp ra mắt cuốn sách.
Một chuyện rất riêng tư nhưng tôi cũng xin được lạm dụng vài hàng ở đây. Tôi
coi tập Bút Ký này là món quà trân quý mà tôi kính cẩn gửi tới bạn trong dịp
tôi “thọ” 60 tuổi! Tôi tuổi Quý Mùi, tuổi con Dê. Ông bà mình thường nói: “Nam
Nhâm Nữ Quý”. Vì câu nói đó nên có lúc tôi ngồi nghĩ quẩn:“Giá mà mình sinh sớm
một năm, năm Nhâm Ngọ, hoặc năm Quý Mùi cũng được nhưng nếu là Nữ, chắc đời
mình sẽ sướng hơn! Nhưng đã muộn rồi!”
Thân ái chào và mời bạn theo dõi câu chuyện.
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
Phần Một
Cuộc Đời và Bóng Đen
Vào Chuyện
Chiếc xe ca đông nghẹt hành khách dừng lại ở một trạm trên đường phố chánh của
thủ đô Hà Nội bên cạnh một công viên. Nhiều hành khách chen nhau bước xuống xe.
Nhóm chúng tôi gồm ba người tù vừa được tha sáng hôm nay từ trại Nam Hà, cũng
bước xuống. Trong nhóm có thầy Kỳ, một chủng sinh ở miền Bắc làm hướng dẫn
viên, còn anh Nguyễn Đức Khuân và tôi là dân miền Nam bị đưa ra Bắc ở tù, và cả
hai mới đặt chân xuống đất Hà Nội lần đầu nên chỉ biết rảo bước theo sau thầy Kỳ.
Khi vừa đi được một đoạn, tôi bị choáng ngộp bởi sự thay đổi khung cảnh quá
nhanh. Mới sáng nay tôi còn ở trại tù Nam Hà vắng lặng và buồn thảm, thế mà xế
trưa đã có mặt trên con đường chánh của thủ đô Hà Nội ồn ào náo nhiệt, đầy xe cộ
và người đi lại. Tuy Hà Nội không có nhiều xe ô-tô như Sài Gòn trước kia, đa số
là xe máy và xe đạp, nhưng cảnh xe cộ lưu thông tới lui tấp nập cũng làm tôi
choáng ngợp. Trong 11 năm tù tại miền Bắc, có bốn lần tôi cũng có dịp đi ngang
qua Hà Nội, nhưng toàn là về đêm và bị còng tay trên các chuyến xe di chuyển tù
từ trại này tới trại khác. Lần đầu tiên khi tôi bị đưa ra Bắc vào tháng Tư năm
1977 trên tàu Sông Hương, lên bến Hải Phòng và từ đó đi xe ca ngang qua Hà Nội
để vào trại Nam Hà. Lần thứ hai trong đêm Giáng Sinh 1977, khi nhóm 20 người
chúng tôi từ trại Nam Hà bị đưa lên Cổng Trời cũng đi qua Hà Nội trong đêm. Tám
tháng sau, từ trại Cổng Trời chuyển về trại Thanh Cẩm, chúng tôi ghé qua trại
Văn Hòa ở ngoại thành Hà Nội để nghỉ qua đêm. Lần cuối cùng, khi nhóm tù chính
trị miền Nam và mười người tù Trung Quốc còn sót lại ở trại Thanh Cẩm chuyển về
trại Nam Hà cũng đi ngang qua Hà Nội khi phố đã lên đèn. Lần này tôi mới chính
thức đặt chân tới Hà Nội giữa buổi xế trưa nắng ấm trong tâm trạng của một người
tự do. Tôi dùng hai chữ “tự do” với một sự dè dặt, vì ít ra trong người tôi
cũng có mảnh giấy ra trại được đóng dấu và ký tên hẳn hoi. Mảnh giấy, dấu ấn tự
do của 13 năm tù đang được tôi cẩn thận nhét vào cái túi may bên trong áo phía
trước ngực và cài lại bằng 2 lần kim băng. Tôi không thể nào để tờ giấy màu nâu
bằng chất liệu giấy rất kém này mất đi được. Đó là tờ giấy duy nhất hợp pháp mà
tôi có được sau một thời gian rất dài, ngoài ra tôi chẳng có một thứ giấy tờ gì
trong người. Tờ giấy ra trại này để chứng minh cho mọi người biết tôi là ai, và
dĩ nhiên là để tránh rắc rối trong lúc tôi vừa mới chân ướt chân ráo bước ra khỏi
nhà tù và đang có ý định là sẽ lưu lại thăm viếng miền Bắc một thời gian chừng
hai tuần lễ trước khi xuôi tàu về Nam.
Chiếc Nôi Dân Tộc
Tôi lên tiếng gọi và nói thầy Kỳ cho ngồi nghỉ một chút vì thấy trong người hơi
mệt. Chúng tôi rẽ vào bên chiếc ghế công viên ngay đó ngồi chân, vừa nhìn cảnh
nhộn nhịp của giao thông trên đường phố thủ đô. Lúc ngồi tựa lưng vào thành ghế
đá công viên, tôi có dịp để ý quan sát người dân Hà Nội, người ngồi xe cũng như
khách bộ hành trên đường phố. Điều tôi ghi nhận đầu tiên là dân chúng Hà Nội ăn
mặc rất giản dị, không màu mè chải chuốt. Đa số mặc quần đen áo trắng, đàn ông
cũng như đàn bà. Phần đông cúi đầu lầm lũi bước đi như những người mang tâm trạng
chán chường, mệt mỏi. Họ thường đi lẻ loi một mình, có khi sánh bước từng nhóm
vài ba người, nhưng rồi cũng mạnh ai người ấy đi, ít khi thấy họ cười nói đùa cợt
như hình ảnh quen thuộc của hè phố Sài Gòn mà tôi đã xa lìa hơn chục năm qua.
Tôi đoán hầu hết những người đang đi xe gắn máy hoặc xe đạp là giới công nhân
qua cách ăn mặc giản dị của họ. Đàn ông phần nhiều đội mũ cối và phụ nữ đầu đội
nón lá. Một chi tiết lý thú mà tôi thấy lúc bấy giờ là gần như tất cả các cô
gái Hà Nội đều thon thả, mảnh mai và hơi nhỏ người. Tự nhiên tôi liên tưởng tới
chiếc áo dài Việt Nam và nghĩ là trời sinh ra người con gái Việt Nam, nhất là
gái Hà Nội là để mặc áo dài!
Một lúc sau bắt đầu quen mắt, tôi cảm thấy dễ chịu, đứng dậy xốc ba-lô lên vai
và theo thầy Kỳ dẫn lối tới Nhà Chung (Miền Bắc gọi Tòa Giám Mục là Nhà
Chung) Hà Nội. Tôi đã nghe nói nhiều về Hà Nội với 36 Phố Phường. Những bài hát
truyền cảm, những câu thơ trữ tình tả cảnh “nên thơ” của Hà Nội. Nhưng hôm nay,
lần đầu tiên tôi đang sống với Hà Nội bằng chính đôi mắt và con người tự do của
tôi. Hà Nội đẹp lắm! Một nét đẹp cổ kính và chất phác nhưng thâm trầm. Ngay từ
giây phút đầu thấy Hà Nội, tôi như bị “tiếng sét ái tình” làm mê mẩn hồn. Tôi
say mê Hà Nội như chàng trai mới lớn lần đầu tiên nhìn thấy bóng dáng kiều diễm
của người con gái trong mộng và rồi “yêu” nàng! Hà Nội không lộng lẫy kiêu sa,
nhưng mang vẻ trinh nguyên của chiếc nôi dân tộc. Tôi yêu nét đẹp cổ kính của
Hà Nội kể từ giây phút đầu tiên đó.
Thầy Kỳ đi đầu, mặc bộ quần áo màu xanh trại phát với túi xách trên vai, Khuân
mang ba-lô đội nón vải bước theo sau. Nhìn hai người bạn đang hăng hái bước đi
trước mặt, tự nhiên tôi buồn cười khi nghĩ tới hình ảnh của nhóm bộ ba tướng sĩ
tượng này. Hai anh bạn ăn mặc kỳ dị quá khiến tôi nghĩ có lẽ người khác nhìn
tôi cũng nói như vậy. Chúng tôi thật chẳng giống ai, nhất là thầy Kỳ! Ai nào lại
mặc bộ quần áo tù đi nghênh ngang giữa thủ đô văn hiến như thế nhỉ? Dường như
ai nhìn vào cũng biết đây là ba anh tù vừa mới được tha về. Biết đâu có người
còn nghĩ đây là ba anh tù vượt ngục khi thấy thầy Kỳ mặc bộ quần áo tù với chiếc
áo trấn thủ che ngoài để lấp con dấu “Cải Tạo” đóng sau lưng không chừng! Tự
nhiên tôi đâm ra băn khoăn xen lẫn một chút khó chịu. Cái ông thầy Kỳ này thật
là “kỳ”! Ai lại đi ăn mặc như thế bao giờ! Không lẽ chẳng còn bộ đồ nào khác
hơn hay sao? Ăn mặc như thế nhỡ có ai nghi ngờ thì lại rắc rối to. Mặc dù hơi
khó chịu nhưng khi thấy thầy Kỳ bỗng dưng hớn hở và cho biết là sắp tới nơi, hồn
tôi như hòa vào niềm vui và quên đi nỗi băn khoăn về thầy.
Thầy Kỳ lúc đó đã ngoài 40, có lẽ cũng xấp xỉ tuổi tôi. Người nhỏ thó và nước
da ngăm đen, mặt có nhiều tàn nhang và mụn trứng cá, cộng với mấy chiếc răng cửa
bị gãy một phần trên trông thầy càng bệ rạc hơn! Tuy nhiên, thầy Kỳ là người tốt
tính. Lối sống vui vẻ và đức tính khiêm tốn làm tăng thêm nét dễ thương nơi thầy.
Vì lý tưởng đi tu mà thầy bị bắt vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần. Thầy
Kỳ chung lớp với một số Linh mục ở miền Bắc. Số thầy lận đận tù mãi, bằng không
cũng trở thành Linh mục từ lâu. Thầy Kỳ quen biết hầu hết các tu sĩ miền Bắc, từ
đức Hồng Y trở xuống. Trong Nhà Chung Hà Nội này có hai bạn học cùng lớp với thầy
Kỳ làm phòng bộ (quản gia) cho đức Hồng Y. Lúc này, khi rảo bước theo thầy Kỳ,
tôi có cảm tưởng như đang bước theo sau một "Thiên thần" hộ mệnh.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.01.2007 12:39:57 bởi sóng
trăng >
#2 ![](data:image/png;base64,iVBORw0KGgoAAAANSUhEUgAAAA8AAAAPCAYAAAA71pVKAAAAAXNSR0ICQMB9xQAAAAlwSFlzAAAOxAAADsQBlSsOGwAAABl0RVh0U29mdHdhcmUATWljcm9zb2Z0IE9mZmljZX/tNXEAAADuSURBVDjLY2hsbGTAhVetYmDCJ49XY3ASx398BuDVOGmF6v+gRNwG4NQ4a5M6WHPbLGWcBmDRyPl/1UHL/3M2mfyfukbjf88iqAFYvICh8ejtqP9bTjv9X33YCm5A/xJtMEYPA7jmiDTB/4duBsHxttOBYBfM22z+f+4m8/8z11mAcUQE539smv8GJ/KDsX8M1/8D10P/bzjmBNbsG80Bwn9BGOj/v3hDG6QY5PzNJz3hmomOKphmkNNJ1gxy9sm7uf8PXYv9v2y3A2magf7+f/FJKdgAkO0ka77wuASMD16NIU0zcsjDMEkZgxgMAFYRjAqB4GklAAAAAElFTkSuQmCC)
sóng trăng 14.01.2007
04:00:30 (permalink)
.
Nhà Chung Hà Nội
Vừa tới ngõ rẽ vào Nhà Chung, tôi cảm thấy hơi bồn chồn khi sắp sửa được gặp vị
Hồng Y mà tôi chưa từng bao giờ gặp. Bất ngờ có một người đàn ông nhỏ thó quãng
ngoài 50 xuất hiện. Ông từ một ngõ sát cạnh hàng rào Nhà Chung bước ra chặn
chúng tôi lại và hỏi:
- Cho tôi hỏi, có phải các anh mới đi tàu hỏa xuống à?
Tôi rất nhạy trước cảnh này và biết ngay người đàn ông đó là ai. Thầy Kỳ chưa kịp
trả lời, tôi bình thản lên tiếng:
- Chúng tôi không đi tàu hỏa, nhưng tại sao bác hỏi thế?
- Tôi đi đón người nhà từ miền Nam ra, và trông các anh có vẻ người miền Nam
nên tôi hỏi thăm.
Thấy người công-an chìm này có vẻ trâng tráo, tôi vặn hỏi ngay:
- Có phải bác nghi chúng tôi là tù vượt ngục không?
Người lạ mặt tỏ ra bối rối sau câu hỏi đó. Mặt ông ta khác đi và yên lặng. Thì
ra tôi đoán đúng, người ngoài thấy chúng tôi biết ngay là tù. Hơn nữa, thấy
cách ăn mặc của thầy Kỳ họ có quyền nghi thêm hai chữ “vượt ngục”. Tôi nói tiếp:
- Bác lầm rồi, chúng tôi là tù nhưng không phải vượt ngục mà mới được tha về từ
trại Nam Hà sáng hôm nay.
Người công-an chìm này không chịu thua:
- Thế các anh định về đâu?
- Dĩ nhiên là tôi về Nam, nhưng chưa về ngay hôm nay.
- Các anh định ở đâu trong lúc này?
- Ở đây, trong Nhà Chung này!
Vừa nói tôi vừa chỉ vào Tòa Giám Mục Hà Nội. Nói xong câu đó, chúng tôi bỏ đi
vào, để mặc cho người đàn ông lạ mặt đứng trố mắt nhìn theo.
Tòa Giám mục Hà Nội, hay thường được gọi là Nhà Chung Hà Nội, là một khu vực
khá rộng với nhiều dãy nhà ngang dọc, nhưng tòa nhà chánh, là nhà hai tầng khá dài
nằm thẳng góc với đường cái. Cách tòa nhà chánh này một đỗi là tháp của Nhà thờ
Chính tòa có cây Thánh Giá vươn cao. Từ cổng đi vào là sân khá rộng và dài sâu
mãi vào bên trong. Khu vực này với cây to bóng mát và các tòa nhà lâu năm trông
thật cổ kính. Lúc vừa bước vào khuôn viên Nhà Chung Hà Nội, tôi tưởng như mình
đang đi vào một khu bảo tàng, được gìn giữ cẩn thận và trang nghiêm.
Thầy Kỳ dẫn chúng tôi đi sâu mãi vào gần cuối mới có bậc thềm bước vào khu nhà
phía tay phải. Lúc đó khoảng hai giờ chiều, có lẽ là giờ nghỉ nên cả khu nhà
yên tịnh và vắng vẻ, chẳng thấy bóng dáng ai. Thầy Kỳ đã quen biết nơi này nên
đi vào trong như người nhà. Anh Khuân và tôi đặt ba lô xuống bậc thềm xi măng
ngồi nghỉ mệt. Một lúc sau thầy Kỳ trở ra với một người đàn ông cao lớn và trắng
trẻo, tóc húi kiểu đầu đinh tức là có mái bằng trên đỉnh đầu. Người này mặc áo
sơ mi trắng ngắn tay, quần tây đen, áo bỏ ngoài quần và chân mang xăng-đan.
Toàn diện con người anh toát ra sự sạch sẽ và gọn gàng của một con người làm việc
văn phòng, ít khi có dịp tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Hình ảnh này tương phản
với thầy Kỳ nhỏ thó, đen đủi và bệ rạc trong bộ đồ tù đang cười nói bước đi bên
cạnh. Anh Khuân và tôi đứng lên khi hai người ra tới nơi.
Thầy Kỳ giới thiệu:
- Thưa cha, đây là thầy Trác, bạn cùng lớp của con và là người giúp phòng bộ của
đức Hồng Y.
Tôi đưa tay ra bắt tay thầy Trác, trong lúc thầy nói:
- Con được thầy Kỳ cho biết có cha và anh ghé Nhà Chung. Con xin chào. Mời cha
và anh vào.
Thầy Trác đưa cả 3 vào phòng ăn, vừa đi vừa nói:
- Giờ này đức Hồng Y chưa xuống văn phòng. Cha và hai anh ngồi uống nước và tạm
nghỉ, chốc con lên trình với ngài. Nói xong thầy Trác bước ra.
Phòng ăn này khá lớn có kê một bàn dài chính giữa và hai bàn tròn cách đó một
quảng, có những chiếc ghế đai xếp chung quanh bàn. Trong một góc nhà và cạnh
vách có bộ xa-lông và mấy chiếc bàn nhỏ để sách báo. Chỗ nào cũng sạch sẽ tươm
tất. Một lúc sau thầy Trác trở lại, tôi vẫn ngồi yên đọc báo. Tôi ngạc nhiên
khi thầy bước tới và chào tôi lần nữa:
- Chào cha, có phải cha Lễ không ạ?
Tôi ngạc nhiên vì lúc nãy đã giới thiệu rồi, sao thầy còn hỏi nữa?! Tôi ú ớ đáp
lại:
- Vâng... vâng...
Chưa nói hết câu thì thầy Kỳ cười lên tiếng:
- Thưa cha, đây là thầy Trạc, em sinh đôi của thầy Trác lúc nãy!
- À, ra thế!
Tôi chợt phá lên cười mà không dằn được, mặc dù biết cười như thế là không phải.
Để khỏa lấp chỗ hớ của mình, tôi liền chống chế bằng một câu thân thiện:
- Trời ơi! Hai anh em giống nhau quá, tôi nhận không ra!
Thầy Trạc vui vẻ đáp:
- Không phải một mình cha lầm đâu, có nhiều người lầm hai anh em con. Chúng con
giống nhau quá hả cha?
Chúng tôi lại được trận cười thoải mái sau câu nói đó. Hai anh em đã giống nhau
mà lại ăn mặc như nhau nữa thì có trời mới biết ai là Trác và ai là Trạc! Lúc
đó tự nhiên tôi liên tưởng tới hai nhân vật sinh đôi Dupond và Dupont trong bộ
truyện bằng tranh “Tintin et Milou” của Paul Hergé, nhưng tôi không dám nói ra.
Sau khi chúng tôi ngồi nói chuyện vui vẻ, chợt thầy hỏi:
- Trước khi vào Nhà Chung, cha và các anh có gặp ai hỏi thăm gì không?
Tôi nói có, và kể lại câu chuyện gặp người đàn ông ngoài cổng. Thầy chia sẻ:
- Thế đó cha ơi! Ngoài này nó vậy đấy! Con kiến cũng chui không lọt đừng nói
chi con người. Mà này cha và anh có giấy tờ gì đưa con đi trình. Đồn công an
ngay cổng vào Nhà Chung đó cha!
Chúng tôi móc túi lấy giấy tờ. Khi thấy tôi lần túi trong túi ngoài và qua hai
lần kim băng móc mảnh giấy ra trại, thầy Trạc nhìn tôi mỉm cười làm tôi xấu hổ.
Lúc ấy tôi có cảm tưởng mình giống như một bà nhà quê, giấu mấy đồng tiền lẻ
sâu vào ruột tượng moi mãi không ra. Tôi cười và nói cho đỡ ngượng:
- Cẩn tắc vô ưu thầy ạ!
- Phải thế chứ cha! Bọn móc túi Hà Nội này nó ranh lắm!
Nhất là lúc đi tàu hay đi xe, cha và các anh phải cẩn thận đấy. Bọn chúng nhanh
như sóc ấy!
Câu nói của thầy Trạc làm tôi đỡ ngượng. Thầy cầm lên đọc khá kỹ các mảnh giấy
trong tay. Tôi biết là ngoài lý do để đi trình giấy, những người có trách nhiệm
trong Nhà Chung cũng phải biết chắc những ai bước vào khu nhà này. Mặc dù có sự
giới thiệu coi như bảo đảm của thầy Kỳ, nhưng người ngợm của tôi lúc bấy giờ rất
dễ cho người lạ nghi là Linh mục “dỏm”!
Sau đó thầy bước ra và dặn tôi ngồi nghỉ để thầy đi dọn phòng cho chúng tôi. Thầy
nói thêm là giờ này đức Hồng Y còn trong nhà nguyện, tới ba giờ sẽ vào văn
phòng làm việc và tiếp khách.
Một lúc sau thầy trở lại bước vào nhà ăn, nhưng tôi không biết là Trác hay Trạc!
Thầy mời tôi lên phòng, trong khi Kỳ và Khuân ngồi chờ thầy trở lại để đưa qua
khu vực nhà khách dành cho các thầy. Tôi nghĩ giá mà ba anh em chúng tôi được ở
chung một nhà thì vui hơn, nhưng nhập gia phải tùy tục. Lúc đi cạnh nhau tôi vẫn
chưa biết người nầy là Trác hay Trạc! Tôi mỉm cười với ý nghĩ, giá mà một ông bị
cận thị mang kính thì dễ phân biệt biết mấy!
Tôi được đưa vào một phòng khách trên lầu rất sạch sẽ, rộng rãi và đủ tiện
nghi. Giường trải chiếu hoa và có quạt trần. Phòng mở cửa nhìn xuống sân từ đường
cái đi vào và đối diện bên kia là nhà Văn Hóa.
Tôi đặt chiếc ba lô hành trang duy nhất xuống ghế và bước vào nhà tắm để rửa mặt.
Sau khi lau người bằng chiếc khăn mặt trắng và thơm tho, tôi bước ra và tới ngả
lưng nằm dài trên giường có chiếc gối trắng tinh, dang rộng tay chân trong tư
thế thoải mái lần đầu sau 13 năm cuộc đời gió bụi. Vừa nằm xuống tôi buột miệng
nói thành lời: “Ôi! Đời đáng sống làm sao!”. Cái cảm giác đang tự do
và làm chủ hoàn toàn một căn phòng, cho dù chỉ là một phòng khách của Nhà Chung
Hà Nội và chỉ ở tạm một vài ngày đã làm tôi lâng lâng hạnh phúc và nhận chân ra
sự thay đổi đột ngột trong cuộc đời. Tôi nằm yên nhắm mắt và cố tận hưởng giây
phút hiếm hoi này, chẳng suy nghĩ gì thêm. Một lúc sau có tiếng gõ cửa và thầy
phòng bộ bước vào. Tôi vẫn không biết là Trác hay Trạc, chỉ lên tiếng “chào thầy!”
Thầy nói đã trình đức Hồng Y, Ngài mừng lắm và hẹn ba giờ rưỡi thầy đưa chúng
tôi lên gặp đức Hồng Y.
nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2007 04:02:46 bởi sóng
trăng >
#3 ![](data:image/png;base64,iVBORw0KGgoAAAANSUhEUgAAAA8AAAAPCAYAAAA71pVKAAAAAXNSR0ICQMB9xQAAAAlwSFlzAAAOxAAADsQBlSsOGwAAABl0RVh0U29mdHdhcmUATWljcm9zb2Z0IE9mZmljZX/tNXEAAAHiSURBVDjLY2hsbGTAhZWUGLjxyeOU8AhlUYtI577sE8miQZJmexcGxdg8nsc9CxX+x+bwPLH3YFAiSrO5PUgj/+Opa1X/T1uj/r9lpuL/yExurAagcPSAGhMLhR4v3mX6f+F20/9T12j971uiCjUA0wUQgoGB0SWQRymtXPTxviuB//de8fi/+pDN/7mbjYG2a/2fukr3f/8Srf/xeQJPAgNZlEHq4Zq1rBkE43NFX2w57f7/4I3A/7su+P7fesb//6oDNv/nbTb9P3218f8Z60z/T1qq/z8mjueltTWDEFxzaJqgQES64P24PLHXESmCb2KzRf7tOB/wf+tpt/+z15v8D0vl+xcQz/0mNJXndVAix4PYWA5BVGenCfIqGTPwKWkxyIUk8rzbeyX4/45zPv/nbDD9HxjP9R7oOnljoLxLGgMvirNRAkGQgTsshe/tvith//dcDP4/Z6PZ/6BE7neCSgw8BKNKUotBMCJV8O3h62n/j91O+L9kpz1QM887Lag/CWqOzRZ/e/ZB4f9Lz4v/bz0V8D80mfedlhYxmoEhH50t9uXI9Yz/5x4V/N9+Ohiome8rULMwQc2QkBe6FZst9jo6E4RFXock8d/2gYYwwbTt4cHABgxRdhgG8bGpAwDfEmMvSXl6TAAAAABJRU5ErkJggg==)
sóng trăng 14.01.2007
04:04:34 (permalink)
.
Hồng Y Trịnh Văn Căn
Từ trước tới giờ tôi chỉ nghe tên và xem thấy hình, nhưng chưa bao giờ có dịp gặp
đức Hồng Y Trịnh Văn Căn. Do đó, tôi hơi bồn chồn khi cùng với hai người anh em
kia bước theo thầy phòng bộ trong hành lang khá rộng dẫn tới phòng của vị chức
sắc cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Phòng này nằm ở khoảng giữa lầu
hai trong tòa nhà chánh của Nhà Chung Hà Nội. Tới nơi, thầy phòng bộ bước lui để
ba anh em tôi vào.
Khi nghe tiếng gõ cửa, đức Hồng Y bước ra tận nơi đón chúng tôi. Hồng Y Trịnh
Văn Căn, một người khá cao lớn, tuổi ngoài 60, nước da hồng hào, tóc bạc trắng,
trên môi nở nụ cười tươi và dáng vẻ rất phúc hậu. Ngài mặc áo dòng đen có viền
đỏ như các Giám mục vẫn mặc, cổ “côn” trắng chỉnh tề và chân mang giày da đen.
Vừa thấy ngài, tôi lên tiếng: “Thưa đức Hồng Y, con là cha Lễ, thuộc giáo
phận Vĩnh Long, cùng với thầy Kỳ và anh Khuân, chúng con xin chào đức Hồng Y.” Ngài
tươi cười đưa tay phải ra, tôi bắt tay vừa định quỳ gối hôn nhẫn thì Ngài đỡ
tôi dậy, kéo vào lòng và quàng tay trái ôm tôi khá lâu vừa nói: “Cha Lễ!
Nghe tin cha về tôi mừng lắm. Tạ ơn Chúa! Tạ ơn Chúa!” Thái độ của đức Hồng
Y Trịnh Văn Căn làm tôi vô cùng cảm động. Sau đó ngài bắt tay Kỳ và Khuân, và để
cho hai người quỳ hôn nhẫn. Tôi giới thiệu Khuân là một giáo dân, còn thầy Kỳ
thì Ngài đã biết. Đức Hồng Y đưa tay mời ba anh em tôi vào phòng. Tôi đi đầu,
theo sau là thầy Kỳ và anh Khuân. Ngài tiếp chúng tôi rất niềm nở, cùng chúng
tôi ngồi ở bộ ghế xa-lông giữa căn phòng rất rộng, đơn sơ và ngăn nắp.
Khi bắt đầu câu chuyện, tôi cám ơn đức Hồng Y đã gửi quà cho các Linh mục trong
tù và khi các cha về hết thì gửi cho tôi. Ngài nói có nhờ cha Mai lo việc đó vì
Ngài nghĩ là các cha trong miền Nam xa xôi quá. Ở đây Ngài làm được gì để an ủi
các Linh mục trong lúc tù đày thì Ngài cố gắng làm. Trong câu chuyện Ngài cũng
nhắc tới Đức cha Nguyễn Văn Thuận đang bị giam lỏng ở Giang Xá và Ngài vẫn nhờ
cha Mai lo gửi quà, nhưng lần vừa rồi quà bị trả lại khiến Ngài lo lắng không
biết tình trạng Đức cha Thuận bây giờ ra sao.
Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn có giọng nói ấm, đơn sơ và truyền cảm. Ngài hỏi tôi về
những Linh mục còn lại trong tù, cách thức thăm nuôi làm sao, đời sống tinh thần
các Linh mục và giáo dân trong tù thế nào. Ngài hỏi chuyện cả ba người nhưng
nhiều nhất là tôi. Tôi nói số Linh mục miền Nam ra Bắc từ hơn 10 năm qua thì
tôi là người ra về cuối cùng. Nhưng Linh mục miền Bắc mới bị vào tù sau này thì
còn lại ba người là cha Thi, cha Vĩnh thuộc Giáo phận Bùi Chu và cha Hiểu thuộc
Giáo phận Bắc Ninh. Có trường hợp cha Nguyễn Văn Lý và cha Lê Văn Nghiêm thuộc
Tổng Giáo phận Huế mới bị bắt hai năm cũng còn ở trại Nam Hà. Như vậy còn lại 5
Linh mục trong trại tù Nam Hà. Khi tôi nói các chi tiết này, đức Hồng Y đứng
lên bước lại bàn lấy quyển sổ và bảo tôi nhắc lại để Ngài ghi.
Sau đó Ngài hỏi chừng nào chúng tôi về Nam và chương trình những ngày tới ra
sao. Tôi cho biết là anh Khuân sẽ về trước còn tôi sẽ lưu lại miền Bắc nửa
tháng . Trước tiên tôi sẽ đi Bắc Ninh thăm Đức cha Phạm Đình Tụng là Giám mục Bắc
Ninh và sẽ nhờ người hướng dẫn tới thăm gia đình cha Hiểu ở xứ Ngô Khê trong
giáo phận này. Cha Hiểu sống chung một đội với tôi trong trại Nam Hà, khi tôi
ra về thì cha Hiểu còn ở lại đó. Thời gian còn lại tôi sẽ đi một vài nơi để có
dịp đi thăm viếng và ghi nhận tất cả những gì có thể ghi được, nhất là về tình
trạng Giáo hội Công Giáo trong các giáo phận miền Bắc sau mấy chục năm dưới chế
độ cộng-sản, để sau này nếu có dịp tôi sẽ viết lại những gì tôi đã thấy và tìm
hiểu. Đức Hồng y rất tán thành ý định của tôi và ngài nói: “Cha cứ đi, nếu
cần giới thiệu tới chỗ nào tôi sẽ giới thiệu. Hãy coi Nhà Chung này là nhà của
cha. Bất cứ lúc nào cha trở lại cũng được, và nếu cần gì cứ bảo với hai thầy
phòng bộ.” Ngài quay sang hỏi anh Khuân về gia đình, vợ con và việc làm ăn
sinh sống trong thời gian chồng đi tù.
Đức Hồng Y tiếp chúng tôi quãng nửa tiếng đồng hồ. Sau đó, chúng tôi đứng lên
xin cáo lui để ngài làm việc. Trước lúc chúng tôi ra khỏi phòng, ngài dặn chúng
tôi sang thăm và chào Đức cha phụ tá là Giám mục Nguyễn Văn Sang. Tôi trả lời
là đã nhờ thầy phòng bộ thông báo và chúng tôi sẽ tới chào, ngay sau khi thăm đức
Hồng Y.
Tôi bước ra khỏi phòng đức Hồng Y Trịnh Văn Căn với sự cảm xúc và lòng kính mến
sâu xa. Tôi rất mừng và hãnh diện về Giáo hội Công Giáo Việt Nam có được người
lãnh đạo nhân từ, đầy lòng bác ái và quan tâm tới từng hoàn cảnh của mỗi người
như thế.
Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#4 ![](data:image/png;base64,iVBORw0KGgoAAAANSUhEUgAAAA8AAAAPCAYAAAA71pVKAAAAAXNSR0ICQMB9xQAAAAlwSFlzAAAOxAAADsQBlSsOGwAAABl0RVh0U29mdHdhcmUATWljcm9zb2Z0IE9mZmljZX/tNXEAAAD0SURBVDjLY2hsbGTAhT0mMrDgk8erMTiJ4z8+A/BqnLRC9T8+A7BrTOb8P2uTOlhz2yxlnAZgaAwBalx10PL/nE0m/6eu0fjfswhmACeGARgaj96O+r/ltNP/1Yet4Ab0L9EGY7ABHggD4Joj0gT/H7wRBMfbTgeCXTBvs/n/uZvM/s9cZw7GERGc/7Fp/h2cyA/G/jFc/w9cD/2/4ZgTWLNvNAcI/wbhoESO33hDG6QY5PzNJz3hmomOKphmkNNJ1gxy9sm7uf8PXYv9v2y3A2magf7+f/FJKdgAkO0kaz7/qBiMD1yJIU0zcsjDMEkZgxgMAAp5hnQuvzGwAAAAAElFTkSuQmCC)
sóng trăng 14.01.2007
04:06:44 (permalink)
.
Vị Giám Mục Phụ Tá
Chúng tôi đi xuống trở lại ngang nhà ăn và qua dãy nhà kế bên để tới phòng Giám
mục Nguyễn Văn Sang nằm ngay ở đầu nhà. Tôi cũng chỉ nghe nói tới Giám mục Nguyễn
Văn Sang, nhưng chưa gặp bao giờ. Lúc còn trong tù tôi nghe Linh mục Lê Đức Triệu,
tức nhạc sĩ Hoài Đức, cũng là người gốc Giáo phận Hà Nội kể chuyện. Năm 1954,
Ngài đã di cư vào Nam rồi, nhưng sau đó lại trở lộn ra Bắc, không hiểu vì lý do
gì. Nghe như thế tôi đã có sự khâm phục tinh thần của Giám mục Nguyễn Văn Sang
chấp nhận trở lại miền Bắc dưới chế độ cộng-sản, trong khi một số đông giáo sĩ
đã di cư vào Nam. Sau đó cha Sang được chọn làm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận
Hà Nội một vài năm gì đó trước khi chúng tôi tới thăm.
Chúng tôi gõ cửa khi Giám mục Sang đang ngồi tại bàn làm việc và lên tiếng mời
chúng tôi vào. Ngài vẫn ngồi yên tại chỗ khi ba anh em chúng tôi bước vào. Tôi
lên tiếng khi thấy ngài:
- Chào Đức cha, con là cha Lễ ở Vĩnh Long cùng với hai anh em, thầy Kỳ và anh
Khuân là một giáo dân ở miền Nam. Chúng con vừa mới ra khỏi tù hôm nay và tới
chào Đức cha.
Giám mục Sang vẫn ngồi yên sau bàn làm việc, ngẩng đầu lên và quay ngang nhìn
nhóm chúng tôi:
-Thế à, cám ơn, cám ơn! Mấy anh em ngồi đi.
Vừa nói vị chức sắc tôn giáo ngoài 50 tuổi này chỉ tay về hàng ghế đai sát
trong vách, đối diện với bàn làm việc rất bề bộn của Ngài. Tôi vừa ngồi xuống vừa
quan sát rất nhanh Giám mục Sang. Giám mục Nguyễn Văn Sang đáng người hơi thấp,
da mặt bóng láng, mập béo và trắng trẻo. Tướng mạo Ngài biểu hiện một sự sung
mãn khá toàn diện. Ngài mặc áo dòng đen, không có cổ trắng, vì Ngài không đứng
lên nên tôi không biết mang giày dép gì. Phòng làm việc của Giám mục Sang khá
nhỏ, chỉ bằng phân nữa phòng Đức Hồng Y. Trong phòng bề bộn những sách vở và đồ
đạc nằm vô trật tự, ngổn ngang. Sự tương phản quá bất ngờ trong thái độ đón tiếp
giữa Hồng Y Trịnh Văn Căn và Giám mục Nguyễn Văn Sang tôi sượng sùng.
Thấy bầu khí quá tẻ nhạt, tôi cố ý kéo dài việc xê dịch ghế và xoay đi sửa lại
mấy lần trước khi ngồi yên, ra điều tôi chưa sẵn sàng để bắt đầu câu chuyện mà
tôi đoán biết trước là sẽ rất nhạt nhẽo. Nhưng cuối cùng rồi tôi và hai anh bạn
cũng đã ngồi yên đối diện với vị Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Hà Nội. Ngài ngồi
khoanh hai tay lại chống lên mặt bàn, cổ rụt xuống làm đôi vai nhô cao. Trong
cách ngồi này tôi thấy hình dạng ngài trở nên thấp bé trong căn phòng bé nhỏ và
bề bộn của ngài. Giám mục Sang ngồi yên nhìn chúng tôi không nói không rằng,
gây cho tôi cảm tưởng là chúng tôi xuất hiện không đúng lúc. Trong giây phút đó
tôi không biết tâm trạng thầy Kỳ và Khuân ra sao. Tôi đoán là họ cũng thấy đớ
ra và thừa thãi như tâm trạng của tôi, nhưng dù sao họ cũng nhẹ nhàng hơn vì
tôi là người phải đóng vai trò đại diện ăn nói. Trong một giây, tôi tự nói với
mình:“Trời! Nếu biết như thế này thì vào đây để mà làm gì?!”
Thấy tình thế kỳ dị quá, không lẽ cứ ngồi đây mà nhìn nhau cho tới giờ cơm chiều,
tôi bèn hỏi một câu thừa thãi và rất ư là vô duyên:
- Đức cha có khỏe không ạ?
Vị chức sắc tôn giáo có thân hình tròn trịa ngồi yên một chút mới bắt đầu nói
như rên:
- Mới đi nghỉ mát ở Đồ Sơn về hôm qua, nghe sao trong người không được khỏe, có
lẽ nắng ngoài đó to quá!
Tôi không biết Giám mục Sang nói những lời nói giọng rè rè đó với chúng tôi hay
tự than thở với chính mình. Dù vậy tôi buộc lòng phải hỏi thêm cho có chuyện
nói:
-Thế Đức cha mới đi tắm biển Đồ Sơn về à?
- Mình mới về hôm qua.
- Con nghe nói Địa phận Hải Phòng có nhà nghỉ mát ở Đồ Sơn, có phải Đức cha ra
đó không?
- Đâu có! Mình ở nhà nghỉ mát chính phủ. Mình đi là bên Mặt Trận Tổ Quốc tổ chức
mời mình đi mà!
Sau đó Giám mục Sang độc thoại một thôi một hồi về cuộc du hí vừa rồi, ăn làm
sao, ở làm sao trong nhà khách chính phủ. Ngài ngon đà kể dài dòng về việc đó
mà không một chút thương hại cho 6 cái lỗ tai của 3 tên tù khốn khổ mới được
tha ra khỏi nhà tù sáng nay và tới chào ngài. Chúng tôi tới đây không có ý để
nghe chuyện du hí Đồ Sơn của vị Giám mục. Sau đó không biết tại sao và vào lúc
nào ngài lại chuyển đề tài qua xe đạp Peugeot của Pháp. Vị Giám mục phụ tá Tổng
Giáo phận Hà Nội lại độc thoại một tràng về tính “ưu việt” của loại xe đạp này
vì có người bên Pháp, hình như nói là cha Thiết, mới gởi về cho ngài 10 chiếc.
Lúc đó tôi đã muốn kiếu từ nhưng không biết làm sao. Tôi mong cho có tiếng gõ cửa
hay tiếng động gì để Giám mục Sang cắt đứt câu chuyện về xe đạp Peugeot, nhưng
vẫn không có tiếng gõ cửa tôi mong đợi. Được một lúc, có thể vì nhận thấy chúng
tôi không phải thuộc loại thính giả tốt, Giám mục Sang bèn ban cho chúng tôi một
ân huệ. Đang nói nửa chừng, ngài vụt ngừng lại nhìn đồng hồ tay và nói: “Tôi
phải có cái hẹn”. Câu nói ngắn gọn đó đã giải thoát cho cả hai phía. Phía ba
anh em tôi khỏi phải tiếp tục ngồi nghe những chuyện chúng tôi không muốn nghe,
và phía ngài cũng khỏi phải tiếp tục ngồi đối diện với 3 người khách bất đắc dĩ
trên trời rơi xuống. Ba anh em tôi đứng lên rời khỏi phòng Giám mục Sang và đi
nhanh như bị ma đuổi, trong lúc ngài vẫn ngồi tại bàn ngoái đầu ra cửa nhìn
theo.
Lúc đi ngang nhà ăn, tôi coi đồng hồ, thấy đã 4 giờ 15, như vậy Giám mục Sang
đã mất cho chúng tôi 15 phút, và tôi cũng thấy mình đã đánh mất chừng ấy thời
gian một cách vô nghĩa! Tôi cảm thấy một nỗi chán chường làm nặng trĩu tâm can
khi cả ba anh em yên lặng bước đi bên nhau trong hành lang cổ kính của Nhà
Chung Hà Nội, được coi là con tim của Giáo hội Miền Bắc này. Thấy còn sớm, vì
mãi 6 giờ chiều mới tới giờ ăn, tôi muốn lên phòng nằm nghỉ chốc lát nên tạm
chia tay anh em lên buồng. Thầy Kỳ dặn với theo: “Cha nhớ xuống nhà cơm
trước năm mười phút, đừng để đức Hồng Y đợi, thầy Trạc dặn con như vậy, vì đức
Hồng Y không bao giờ đọc kinh ăn cơm trước lúc có mặt đầy đủ mọi người.”
Tôi lần theo cầu thang lên phòng. Vừa bước vào tôi thấy trên bàn có cái phong
bì màu trắng đề tên tôi. Mở phong bì ra thấy có một số tiền, kèm theo mảnh giấy
nhỏ với huy hiệu của Đức Hồng Y nằm bên góc trái, ghi mấy chữ: “Cha Lễ, cầm
ít tiền tiêu. Sau cơm chiều, mời cha đi bách bộ trên sân thượng. TVC.” Đọc
xong tôi đưa tờ giấy lên môi hôn. Ý tôi muốn hôn lên bàn tay của người viết mấy
hàng chữ đó. Thì ra Đức Hồng Y đã chu đáo và quan tâm tới người khác hơn tôi tưởng.
Số tiền ngài cho tương đương với một vé xe lửa từ Hà Nội vô Sài Gòn. Sau đó tôi
được biết thầy Kỳ và Khuân cũng nhận được quà của đức Hồng Y.
Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#5 ![](data:image/png;base64,iVBORw0KGgoAAAANSUhEUgAAAA8AAAAPCAYAAAA71pVKAAAAAXNSR0ICQMB9xQAAAAlwSFlzAAAOxAAADsQBlSsOGwAAABl0RVh0U29mdHdhcmUATWljcm9zb2Z0IE9mZmljZX/tNXEAAADwSURBVDjLY2hsbGTAhUNDGZjxyePVGJzE8R+fAXg1Tlqh+h+fATg0cv6ftUkdrLltljJOAzA0hiRz/l910PL/nE0m/6eu0fjfswi3ARgaj96O+r/ltNP/1Yet4Ab0L9EGY5CLkA2Aa45IE/x/8EYQHG87HQh2wbzN5v/nbjL7P3OdORhHRHD+x6b5T3AiPxj7x3D9P3A99P+GY05gzb7RHCD8B4SDEjn+4A1tkGKQ8zef9IRrJjqqYJpBTidZM8jZJ+/m/j90Lfb/st0OpGkG+vv/xSelYANAtpOs+fyjEjA+cCWGNM3IIQ/DJGUMYjAA6LCEuLgxcYAAAAAASUVORK5CYII=)
sóng trăng 14.01.2007
04:10:53 (permalink)
.
Nét Truyền Thống
Còn 10 phút nữa tới 6 giờ, tôi đã có mặt ở phòng ăn. Lúc sắp bước vào phòng tôi
cứ ngỡ là mình tới sớm, nhưng khi vào phòng đã thấy khá đông các cha các thầy,
những người tôi chưa được gặp. Thầy Kỳ cũng đang đứng đó, cười cười nói nói với
những người chung quanh. Khi thấy tôi bước vào, thầy Kỳ làm công việc giới thiệu
tôi với những người khác. Có khoảng chừng 10 người vừa Linh mục vừa các thầy. Một
vài Linh mục rất lớn tuổi. Đa số các cha đều mặc áo chùng thâm, các thầy mặc đồ
bình thường. Tôi bắt tay và chào hỏi làm quen với từng người. Khi gần tới 6 giờ,
có thêm mấy người nữa bước vào.
Lúc đó tôi có ý tìm Khuân nhưng không thấy đâu. Tôi e ngại anh tới nhà cơm muộn
sẽ rất bất tiện nên hỏi Kỳ, vì hai người ở chung khu nhà bên kia. Hỏi ra mới biết
vì là giáo dân nên Khuân không được ngồi ăn chung với các Linh mục và các thầy,
phải ngồi ăn riêng một mình một mâm dưới nhà bếp, mặc dù thức ăn y như nhau. Sự
hiểu biết này làm tôi ngạc nhiên và nhận rõ hơn sự cổ kính của Nhà Chung Hà Nội
ngay trong các chi tiết nhỏ như thế đó. Việc ba anh em chúng tôi được chia làm
hai khu vực nhà khách khác nhau đã làm tôi ngạc nhiên rồi; bây giờ tới việc
“giai cấp” trong phòng ăn lại càng làm tôi lạ lùng hơn, nhất là trong khi nhà
ăn còn thừa rất nhiều chỗ.
Chừng vài phút trước 6 giờ, tất cả đứng vào chỗ của mình chờ đợi. Có khoảng năm
Linh mục đứng vào sau các ghế đai của chiếc bàn dài đủ chỗ cho mười người, còn
các thầy đứng vào hai bàn tròn kế bên. Tôi được xếp ngồi trên, phía tay trái của
đức Hồng Y, vì mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng tôi chịu chức trước, các cha khác tuy
già nhưng chịu chức sau nên ngồi dưới. Đúng 6 giờ đức Hồng Y từ trên lầu đi xuống
và bước thẳng vào chỗ của Ngài giữa đầu bàn phía trong cùng. Sau khi đứng vào
chỗ, Ngài chưa bắt đầu đọc kinh ăn cơm vì còn một chỗ trống bên tay phải của
ngài mà tôi biết là chỗ của Đức cha Sang. Tất cả đứng chờ, kể cả đức Hồng Y
cũng đứng yên tại chỗ và cúi đầu chờ đợi trong yên lặng. Tôi có cảm tưởng thời
gian lúc đó qua đi rất chậm.
Chừng vài phút sau, tôi nghe tiếng dép lẹp xẹp trong hành lang từ đầu nhà phía
bên cánh trái đi lại. Tiếng dép càng lúc càng rõ hơn. Khi gần tới, tôi nghe tiếng
bước chân khá vội vã như của người đang cố đi nhanh kẻo nhỡ chuyến tàu. Mọi người
đứng yên chờ đợi và chắc hẳn ai cũng biết chủ nhân của những tiếng dép lẹp xẹp
đó là ai. Giám mục Sang bước vào nhà cơm với vẻ nhanh nhẹn khác thường, đầu hơi
cúi xuống và đi thẳng tới và đứng vào chỗ bên tay phải của Đức Hồng Y. Vị Hồng
Y nhân từ ngước mắt lên nhìn khắp lượt như để chắc chắn là không còn thiếu ai, lúc
đó Ngài mới bắt đầu. Trước khi làm dấu đọc kinh, đức Hồng Y lên tiếng thay mặt
cho tất cả mọi người trong Nhà Chung Hà Nội, chào mừng tôi và thầy Kỳ cùng với
anh Khuân vừa được ra khỏi tù sáng hôm nay và Ngài nói Nhà Chung Hà Nội rất vui
khi được chúng tôi ghé thăm. Thái độ này của vị Hồng Y càng làm tôi cảm động và
biết ơn.
Trong khi đọc kinh, đứng bên này nhìn qua người đối diện tôi thấy được toàn diện
con người Giám mục Sang lần đầu tiên. Trông ngài thấp và bé nhỏ hơn tôi tưởng.
Nhất là lúc đứng cạnh bên Hồng y Trịnh Văn Căn, trông giống như một đôi đũa lệch.
Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#6 ![](data:image/png;base64,iVBORw0KGgoAAAANSUhEUgAAAA8AAAAPCAYAAAA71pVKAAAAAXNSR0ICQMB9xQAAAAlwSFlzAAAOxAAADsQBlSsOGwAAABl0RVh0U29mdHdhcmUATWljcm9zb2Z0IE9mZmljZX/tNXEAAADwSURBVDjLY2hsbGTAhUNDGZjxyePVGJzE8R+fAXg1Tlqh+h+fATg0cv6ftUkdrLltljJOAzA0hiRz/l910PL/nE0m/6eu0fjfswi3ARgaj96O+r/ltNP/1Yet4Ab0L9EGY5CLkA2Aa45IE/x/8EYQHG87HQh2wbzN5v/nbjL7P3OdORhHRHD+x6b5T3AiPxj7x3D9P3A99P+GY05gzb7RHCD8B4SDEjn+4A1tkGKQ8zef9IRrJjqqYJpBTidZM8jZJ+/m/j90Lfb/st0OpGkG+vv/xSelYANAtpOs+fyjEjA+cCWGNM3IIQ/DJGUMYjAA6LCEuLgxcYAAAAAASUVORK5CYII=)
sóng trăng 14.01.2007
04:13:02 (permalink)
.
Vết Tích Thời Gian
Sau bữa ăn, tôi bước theo đức Hồng Y lên sân thượng của tòa nhà lớn. Sân thượng
này rất rộng, có lẽ to hơn sân quần vợt, lát bằng gạch tàu, loại gạch màu đỏ,
hình vuông mỗi cạnh chừng 4 tấc bằng đất nung. Trời mùa hè nên giờ đó còn sáng,
đức Hồng Y và tôi sánh vai đi bách bộ. Trong lúc đi ngài kể tôi nghe hoàn cảnh
Giáo hội miền Bắc và hỏi thăm về gia đình, cha mẹ anh chị em tôi. Ngài quan tâm
đặc biệt tới cuộc sống các Linh mục trong tù, và hỏi tôi nhiều điều về thời
gian tôi các Linh mục bị cầm tù. Đang đi, bất chợt ngài quay lại hỏi:
- Cha Lễ có để ý thấy cái gì khác lạ trên sân thượng này không?
Tôi ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ đó, và đưa mắt nhìn quanh khắp lượt chẳng
thấy gì lạ nên nói:
- Con chẳng thấy gì lạ cả!
Ngài mỉm cười, từ tốn :
- Cha phải nhìn ra xa tới cuối sân mới nhận ra được. Nhìn xuống chân không thấy
đâu!
Theo sự gợi ý của ngài tôi nhìn ra xa tới cuối sân. Chợt tôi để ý thấy một đường
vòng hình quả trám khổng lồ nằm giáp bề mặt sân thượng. Con đường này có màu
vàng nhạt khác với màu gạch lát trên sân như có ai mài rửa chà xát lên đó. Tôi
nheo mắt đáp:
- Con thấy hình như có hình vòng tròn ai vẽ trên sân gạch.
Đức Hồng Y mĩm cười một cách đau khổ, sau đó giọng Ngài trầm xuống:
- Như thế là cha đã nhận ra rồi. Đó không phải là đường vẽ nhưng là đường mòn
trên gạch. Đó cũng là dấu tích của đức cố Hồng Y Trịnh Như Khuê còn lưu lại.
Trong hơn hai mươi năm bị quản chế, đức cố Hồng Y đã đi bách bộ trên sân thượng
này. Vì đi bộ nhiều năm nên những bước chân của Ngài đã tạo thành đường mòn
hình quả trám như cha thấy.
Nghe câu chuyện này tôi bồi hồi xúc động và quá thương cho hoàn cảnh đức Hồng Y
tiên khởi của Việt Nam và cho Giáo hội Công Giáo miền Bắc lúc bấy giờ. Lần đó
tôi được có dịp nói chuyện tâm tình và thân mật với Hồng Y Trịnh Văn Căn, một
người mà tôi rất kính mến.
Đêm đó, sau khi đọc kinh tối chung trong nhà nguyện, tôi ghé vào thăm cha Sinh
là cha Bí thư Tòa Tổng Giám mục Hà Nội. Phòng cha Sinh cách văn phòng đức Hồng
Y không xa. Cha Sinh lúc đó còn trẻ, quãng chừng vừa ngoài 30, trắng trẻo đẹp
trai. Trong lúc đang ngồi chơi uống nước và quan sát nơi ăn chốn ở của vị Linh
mục trẻ này, tôi lắc đầu nghĩ thầm: “Ngay cái thời cực thịnh của tôi và
các Linh mục miền Nam trước kia, phòng ốc nơi tôi ở cũng không bằng một góc nhỏ
của phòng cha Sinh”. Từ trước tôi vẫn có cảm nghĩ là các Linh mục miền Bắc
sống nghèo nàn và thiếu thốn. Điều này có thể đúng đối với các Linh mục ở miền
quê, nhưng không đúng chút nào với vị Linh mục trẻ giữ chức vụ quan trọng sống
giữa Thủ đô Hà Nội này.
Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#7 ![](data:image/png;base64,iVBORw0KGgoAAAANSUhEUgAAAA8AAAAPCAYAAAA71pVKAAAAAXNSR0ICQMB9xQAAAAlwSFlzAAAOxAAADsQBlSsOGwAAABl0RVh0U29mdHdhcmUATWljcm9zb2Z0IE9mZmljZX/tNXEAAAHhSURBVDjLY2hsbGTAhZWUGLjxyeOU8AhlUYtI577sE8miQZJmexcGxdg8nsc9CxX+x+bwPLH3YFAiSrO5PUgj/+Opa1X/T1uj/r9lpuL/yExurAagcPSAGhMLhR4v3mX6f+F20/9T12j971uiCjUA0wUQgoGB0SWQRymtXPTxviuB//de8fi/+pDN/7mbjYG2a/2fukr3f/8Srf/xeQJPAgNZlEHq4Zq1rBkE43NFX2w57f7/4I3A/7su+P7fesb//6oDNv/nbTb9P3218f8Z60z/T1qq/z8mjueltTWDEFxzaJqgQES64P24PLHXESmCb2KzRf7tOB/wf+tpt/+z15v8D0vl+xcQz/0mNJXndVAix4PYWA5BVGenCfIqGTPwKWkxyIUk8rzbeyX4/45zPv/nbDD9HxjP9R7oOnljoLxLGgMvirNRAkGQgTsshe/tvith//dcDP4/Z6PZ/6BE7neCSgw8BKNKUotBMCJV8O3h62n/j91O+L9kpz1QM887Lag/CWqOzRZ/e/ZB4f9Lz4v/bz0V8D80mfedlhYxmoEhH50t9uXI9Yz/5x4V/N9+Ohiome8rULMwQc2QkBe6FZst9jo6E4RFXock8d/2gYYwwbS9ahUDEzBE4RjEx6YOAAzCZKBb3TgwAAAAAElFTkSuQmCC)
sóng trăng 15.01.2007
01:48:37 (permalink)
.
Cuốn Phim Quay Chậm
Sau khi thăm cha Sinh, tôi trở lên phòng. Lúc đó tuy đã muộn nhưng tôi chưa thấy
buồn ngủ. Một phần vì tâm trạng choáng ngộp trước khung cảnh mới, phần khác
trưa nay trước giờ cơm chiều tôi có nằm nghỉ được chút ít.
Trời về đêm nghe vắng lặng, tôi ra hành lang tựa vào lan can nhìn qua bên kia
đường. Không biết hôm đó có dịp gì mà có đông người tụ họp trong khuôn viên nhà
Văn Hóa, đa số là giới trẻ. Có ban nhạc sống và nhiều đôi ra khoảng sân trống
khiêu vũ khi có tiếng nhạc. Lớp trẻ tụ tập khá đông nhưng không ồn ào. Khi nhạc
trổi lên, từng cặp bước ra sân khiêu vũ, hết nhạc lại về chỗ ngồi yên chờ bản
nhạc khác. Tôi đứng coi mà có cảm tưởng đây là những người máy đang giải trí.
Tôi không cảm nhận được “sức sống” trong đám đông khiêu vũ và có cảm tưởng là
tay chân họ nhịp bước theo điệu nhạc, nhưng sao chẳng có “hồn”! Tự nhiên tôi cảm
thấy thương cho lớp trẻ này. Họ vui chơi nhảy nhót theo mốt thời trang, nhưng
tâm hồn như đang mang một nỗi u hoài khó tả.
Quay trở vào phòng, ngồi yên trên ghế một lúc như để xác định hiện tại và nhớ lại
giờ này đêm qua diễn ra cảnh chia tay đầy nước mắt trong buồng giam ở trại Nam
Hà. Tôi không muốn nghĩ tiếp, nên lấy giấy ngồi viết vài thư ngắn cho chị Hai
tôi và những người thân ở miền Nam báo tin tôi được về, nhưng còn ở lại miền Bắc
một thời gian. Nhìn đồng hồ trên tường đã gần 10 giờ đêm, tôi tắt đèn và lên
giường nằm.
Căn phòng vẫn mờ ánh sáng vàng nhẹ phản chiếu của đèn đường. Thỉnh thoảng cơn
gió nhẹ làm cựa mình những nhành cây đang yên giấc. Tôi nhắm nghiền mắt lại và
hồi tưởng những năm tháng qua. Đời người như một giấc chiêm bao. Mới đó mà đã
mười mấy năm qua đi rồi, mười mấy năm buồn vui lẫn lộn trong kiếp sống của một
Linh mục tù nhân. Tôi nhớ lại một buổi chiều nào, tôi từ giã mẹ già gạt nước mắt
ra đi, nay má tôi đã chết mười một năm rồi nhưng chưa lần nào tôi được nhìn thấy
mộ của má. Nhớ tới đây hai hàng nước mắt tôi chảy dài xuống gối và cổ họng tôi
nghẹn cứng lại.
Tôi nhớ lại chuyến xe lô Minh Chánh của một buổi chiều tắt nắng năm xưa trên
quãng đường quốc lộ 4, từ Ngã Ba Trung Lương đi Sài Gòn. Chiếc xe đã đưa tôi
vào ngã rẽ cuộc đời. Lúc đó, ngồi trên xe trong tâm trạng rối bời, tôi tự nhủ: “Từ
đây, mình bước vào một tương lai vô định. Chẳng biết cuộc đời rồi sẽ ra sao.
Nhưng nếu định mệnh an bài và mình còn sống, chắc hẳn mình sẽ viết lại vở kịch
đường đời mà mình trải qua, và chiếc xe lô Minh Chánh hôm nay sẽ là màn đầu.”
Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#8 ![](data:image/png;base64,iVBORw0KGgoAAAANSUhEUgAAAA8AAAAPCAYAAAA71pVKAAAAAXNSR0ICQMB9xQAAAAlwSFlzAAAOxAAADsQBlSsOGwAAABl0RVh0U29mdHdhcmUATWljcm9zb2Z0IE9mZmljZX/tNXEAAAHXSURBVDjLY2hsbGTAhZWUGLjxyeOU8AhlUYtI577sE8miQZJmexcGxdg8nsc9CxX+x+bwPLH3YFAiSrO5PUgj/+Opa1X/T1uj/r9lpuL/yExurAagcPSAGhMLhR4v3mX6f+F20/9T12j971uiCjUA0wUQgoGB0SWQRymtXPTxviuB//de8fi/+pDN/7mbjYG2a/2fukr3f/8Srf/xeQJPAgNZlEHq4Zq1rBkE43NFX2w57f7/4I3A/7su+P7fesb//6oDNv/nbTb9P3218f8Z60z/T1qq/z8mjueltTWDEFxzaJqgQES64P24PLHXESmCb2KzRf7tOB/wf+tpt/+z15v8D0vl+xcQz/0mNJXndVAix4PYWA5BVGenCfIqGTPwKWkxyIUk8rzbeyX4/45zPv/nbDD9HxjP9R7oOnljoLxLGgMvirNRAkGQgTsshe/tvith//dcDP4/Z6PZ/6BE7neCSgw8BKNKUotBMCJV8O3h62n/j91O+L9kpz1QM887Lag/CWqOzRZ/e/ZB4f9Lz4v/bz0V8D80mfedlhYxmoEhH50t9uXI9Yz/5x4V/N9+Ohiome8rULMwQc2QkBe6FZst9jo6E4RFXock8d/2gYYwURmDGAwAokVpfSYSecQAAAAASUVORK5CYII=)
sóng trăng 16.01.2007
02:07:01 (permalink)
Chương 1
Bước Ngoặt Cuộc Đời
Từ giã Thạnh, anh bạn Linh mục thân nhất, tôi bước lên chiếc
xe lô Minh Chánh tại ngã ba Trung Lương để lên Sài Gòn. Lúc bấy giờ trời đã về
chiều.
Chiếc xe hôm đó chật như nêm. Hành khách phần đông là các chị em bạn hàng ngồi
chen lẫn với các bao bị, túi cói căng phồng, cố nhét vào chỗ nào đó trong xe mà
người ta có thể nhét được. Tôi được xếp ngồi chen vào giữa anh tài xế và một
người đàn ông đứng tuổi, vì tôi chẳng có hành lý gì ngoài cái túi đeo vai chỉ nặng
chừng hơn ký-lô. Trong vị trí đó, có lẽ tôi là hành khách chiếm ít khoảng trống
nhất trên chuyến xe có giá vé đồng hạng này.
Chiếc xe tôi đang đi là loại xe Hoa Kỳ hình dáng rườm rà, to và dài như một con
kình ngư bằng sắt. Hai cái đèn trước đầu xe như đôi mắt thật lớn và đuôi là cặp
đèn lái rườm rà vểnh lên cao. Không kể băng tài xế, xe còn hai băng ngang phía
sau, và một khoảng trống khá rộng dùng để chở hàng hóa và cuối xe là cái bửng
cao độ 50 phân chặn ngang. Kiểu xe của thập niên 60 này được tung ra thị trường
có lẽ để nhắm vào nhu cầu của các gia đình đông người. Tuy nhiên, khi qua tới
Việt Nam xe đã được cải biến lại cho phù hợp để chuyên chở hành khách nên được
gọi là xe 'lô', bởi chữ 'location' trong tiếng Pháp.
Loại xe lô này đưa rước khách trên những tuyến đường ngắn, trên dưới trăm cây số,
để nhắm vào những người cần đi gấp. Xe chạy rất nhanh so với xe đò bình thường.
Mặc dù giá vé đắt hơn xe lớn và trên xe phải chen lấn chật chội, nhưng xe lô rất
tiện dụng và đúng giờ nên lúc nào cũng đông khách. Thông thường xe có đủ chỗ
cho tám người, kể cả tài xế, nhưng khi biến thành xe lô, có thể “nhét” tới 15
người hoặc hơn nữa. Riêng khoảng trống phía sau, có thể chứa năm sáu người ngồi
bệt xuống sàn xe quay mặt tứ phía. Khi cần, cái bửng ở cuối xe cũng được hạ xuống
để có thể chở thêm vài ba người ngồi nhìn ngược về phía sau. Nói tóm lại, hễ
còn chỗ trống là cứ nhét, càng nhiều người càng tốt, có khi người này ngồi lên
đùi người khác cũng không ai lấy thế làm phiền. Có điều hay là, khi xe đã chật
ních cả người lẫn hành lý, nhưng hễ có khách đón, xe vẫn ngừng và còn đủ chỗ
cho khách mới. Tôi phục tài thu xếp và miệng mồm khéo nói của mấy anh tài xế xe
lô. Hầu như anh nào cũng trẻ trung vui tính, lúc nào cũng cười tươi khi xếp chỗ
kèm theo câu nói:“Chịu khó ngồi chật chút nghe bà con, sắp tới nơi rồi!” Và
lúc nào câu nói ấy cũng có hiệu nghiệm. Đoàn xe lô Minh Chánh hoạt động song
song với những hãng xe đò lớn khác trên tuyến đường Sài Gòn - Mỹ Tho, và cách
mười phút là có một chuyến rời bến, trong khi xe lớn phải đợi tới nửa giờ hoặc
hơn.
Trên quốc lộ 4 nối liền Sài Gòn và các tỉnh miền Tây vào buổi chiều tà này, đường
bắt đầu vắng, xe cộ thưa thớt, nên xe tôi chạy rất nhanh. Ngồi yên trên xe một
lúc, sự mệt nhọc và chán chường choáng ngộp, như biến tôi thành người mộng du.
Tôi lặng nhìn về phía trước, cảnh vật vùn vụt chạy ngược chiều khi chiếc xe cứ
ngon trớn nuốt ngắn đoạn đường. Tôi nhìn nhưng dường như chẳng thấy gì và cũng
chẳng buồn để ý tới tiếng cười nói ồn ào từ phía sau. Bất thần, tôi có cảm giác
lừ đừ như người vừa uống ly rượu mạnh, nên tựa đầu vào thành ghế, xoay người
tìm tư thế thoải mái, trong cái hốc nhỏ xíu giữa hai con người. Tôi nhắm mắt và
cố gạt những ý tưởng vụn vặt rối bời đang lẩn quẩn trong đầu, nhưng nào có quên
được dễ dàng. Quá khứ lại vồ lấy tôi. Những tháng ngày về làm nhiệm vụ Linh mục
trong tỉnh Bến Tre chưa được bao lâu, nhưng sao có quá nhiều việc xảy ra, và dường
như từ chuyện lớn tới chuyện nhỏ đều góp phần dẫn đưa tôi đến bước đường này.
Câu chuyện giữa anh tài xế và các cô các bà phía sau càng lúc càng náo nhiệt. Họ
cười nói huyên thuyên, nhưng tôi chẳng chú ý nghe được chuyện gì ra chuyện gì.
Người đàn ông ngồi cạnh tôi phía ngoài có dáng khắc khổ, gương mặt sạm nắng, ra
dáng một người nông dân hơn là người làm việc trong bàn giấy. Nhận xét này làm
tôi cảm thấy dễ chịu, vì thời buổi bấy giờ tôi rất dè dặt khi phải tiếp xúc với
người lạ, nhất là những người nào có vẻ “cán bộ” thì càng phải giữ kẽ nhiều
hơn. Người đàn ông này, không có vẻ gì là cán bộ và cũng tỏ ra không hào hứng
góp chuyện với anh tài xế và bà con ở phía sau. Tôi ngồi lặng yên, mơ màng nhớ
lại những ngày tháng qua...
Gần một năm trước đây, tôi được bổ nhiệm về làm cha sở họ đạo La Mã, thuộc huyện
Giồng Trôm tỉnh Bến Tre. Vùng này, trước kia có tên là Bàu Dơi, một nơi nghèo
nàn, dân cư thưa thớt. Tới đầu thập niên 50, ở đây có xảy ra hiện tượng Đức Mẹ
hiện ra, khiến nơi vắng vẻ này được nhiều người biết tới và dần dần trở nên một
trung tâm hành hương khá sầm uất, sau đó được nâng lên thành giáo xứ. Theo lời
kể lại, một hôm có người đàn bà đi mò cá dưới sông, nhặt được một khung ảnh cỡ
lớn nhưng không còn thấy hình ảnh gì. Có lẽ khung ảnh này chìm dưới nước đã
lâu. Người có được khung ảnh cũng chẳng biết làm gì với nó, nên đưa về nhà,
chèn vào vách lá che mưa che gió.
Một hôm, tình cờ một người có đạo trong vùng tới chơi và thấy khung ảnh, nghĩ
trước kia có thể là ảnh thờ phượng nên xin về để trên bàn thờ trong gia đình.
Thời đó trong vùng có chiến tranh. Ngày nọ có cuộc hành quân trên sông của binh
lính Pháp. Tàu Pháp bắn súng lớn, súng nhỏ, làm hư hại và sập nhiều nhà cửa của
dân chúng. Trong cơn lửa đạn, gia đình có khung ảnh lo sợ vội chui xuống dưới
bàn thờ nấp và cầu nguyện xin Chúa và Đức Mẹ che chở. Điều rất ngạc nhiên, là
sau khi êm tiếng súng, người nhà bò ra và nhìn lên bàn thờ thì thấy khung ảnh mờ
đục trước kia đã lộ ra hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp một cách khá tỏ tường! Sự kiện
đó được trình cho giáo quyền đến chứng nhận và lập biên bản. Tin lành đồn ra,
và càng ngày càng có nhiều người tin tưởng tới kính viếng và cầu nguyện với Đức
Mẹ.
Dĩ nhiên giáo quyền không chính thức công nhận, nhưng cũng không ngăn cấm lòng
sùng kính của giáo dân. Có rất nhiều người tới đây kính viếng, cầu xin và được
ơn. Chứng tích này còn lưu lại trong các bia đá “Tạ Ơn” gắn khá nhiều trong nhà
thờ. Vùng Bàu Dơi hẻo lánh trước kia, nay đã trở thành một trung tâm hành hương
thu hút nhiều người từ phương xa tới kính viếng. Đường sá được sửa sang và một
số dân các nơi khác về đây sinh sống. Tới năm 1953, khách hành hương dâng cúng
tiền xây một ngôi nhà thờ, tuy nhỏ nhưng rất khang trang, có cả các dãy nhà cho
khách hành hương tạm trú. Nơi này được Giám mục Ngô Đình Thục nâng lên thành họ
đạo, tiếng miền Bắc là giáo xứ, lấy tên là họ đạo La Mã để kính nhớ giáo đô
Rôma.
Năm 1960 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) ra đời, đã tạo nên một giai đoạn
mới trong lịch sử chính trị Miền Nam. Tình trạng an ninh người dân được hưởng
những năm đầu của Chánh quyền Ngô Đình Diệm dần dần giảm đi, theo nhịp độ hoạt
động và sự lớn mạnh của MTGPMN. Riêng tỉnh Bến Tre, có tên là “Quê Hương Đồng
Khởi”, nơi mà MTGPMN hoạt động mạnh mẽ, làm cho tình hình càng ngày càng căng
thẳng hơn.
Những năm tiếp theo, cuộc giao tranh Quốc - Cộng càng lúc càng leo thang và
bành trướng tới nhiều nơi, đặc biệt trong tỉnh Bến Tre nói chung và tại họ đạo
La Mã này nói riêng. Trong tình thế đó, một số đông giáo dân trong họ đạo đã tản
cư lánh nạn. Khách hành hương cũng thưa thớt, và họ đạo dần dần trở nên tiêu điều.
Vì giáo dân tản cư lánh nạn gần hết, nên năm 1961 cha sở họ La Mã cũng rút đi,
chỉ còn mấy Dì phước dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn và một số rất ít giáo dân ở lại
trông coi nhà thờ và vườn tược. Từ đó, cha sở họ đạo Cái Bông, cách đó 6 cây số,
lên xuống dâng lễ và phụ trách mặt tinh thần cho giáo dân. Ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu
Giúp mà giáo dân các nơi thường về kính viếng cũng được đưa về nhà thờ Cái Bông
cho an toàn hơn. Chiến tranh càng ngày càng leo thang.
Trong thời chiến, Nhà thờ La Mã trở thành nơi trú ẩn và dung thân cho cán bộ cộng-sản
trong vùng. Ai cũng biết phía quốc-gia không bắn phá hoặc giội bom các cơ sở
tôn giáo, nên các nơi đó là điểm trú ẩn an toàn cho dân chúng và cán bộ khi có
cuộc hành quân. Để cho danh chính ngôn thuận, một số cán bộ MTGPMN cỡ lớn trong
vùng, đã xin chịu phép Rửa tội và nấp dưới bóng áo dòng của các Linh mục và các
Dì phước, để che mắt cơ quan an ninh phía quốc-gia. Nếu không tránh được mà phải
bị bắt, thì cũng chính các Linh mục và các Dì phước là những người họ chạy tới
trước tiên. Tình trạng này kéo dài trong nhiều năm đã tạo nên sự gắn bó khá mật
thiết giữa các Linh mục, các Dì phước với các cán bộ của MTGPMN trong vùng. Cho
tới ngày 30 tháng Tư năm 1975, miền Nam rơi vào tay cộng-sản. Lúc bấy giờ, tôi
đang phục vụ tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long.
Đối với rất nhiều người, ngày 30 tháng Tư năm 1975 là một cuộc đổi đời. Cá nhân
tôi cũng nhận thấy rỏ điều đó. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến tranh
bom đạn đã chấm dứt, nên ở khắp nơi, người dân tản cư lánh nạn trong thời kỳ
chiến tranh, bắt đầu thu xếp trở về sinh sống nơi quê xưa chốn cũ. Tại họ đạo
La Mã cũng vậy, số giáo dân tản cư lánh nạn trong thời kỳ chiến tranh nay cũng
lần lượt quay về. Trong một thời gian ngắn, số giáo dân trở nên càng lúc càng
đông, nên có nhu cầu cần một Linh mục phụ trách. Tôi được đức Giám mục Nguyễn
Văn Mầu, Giám mục Vĩnh Long chỉ định vào nhiệm vụ cha sở họ đạo này.
Lúc bấy giờ, tình thế đã hoàn toàn thay đổi. Những cán bộ cộng sản nằm vùng đã
từng núp bóng các Linh mục và các Dì phước trước đây, bây giờ là những kẻ chiến
thắng và một vài người trong số đó đang nắm quyền ở địa phương này. Lúc tôi tới,
họ đạo còn có hai Dì phước thuộc dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn, và một Ban quí chức,
tiếng miền Bắc gọi là Hội đồng Giáo xứ, mà đa số trong đó là những cán bộ hoặc
gia đình cán bộ. Tôi là người từ tỉnh khác mới đổi về và là một gương mặt mới,
hoàn toàn xa lạ với tất cả mọi người trong giáo xứ và trong vùng. Mặc dù cố gắng
tối đa để sống hòa đồng với mọi người, nhưng dần dần tôi cũng trở thành người bị
nghi kỵ và bị chú ý theo dõi, ngay cả trong số những người gần gũi nhất với tôi
trong họ đạo.
Đàng khác, trong cương vị một cha sở, tôi không thể im lặng trước một thứ tà
thuyết vô thần và thái độ chống báng tôn giáo một cách quá trắng trợn của một số
người trong chánh quyền địa phương. Tôi cũng không thể làm ngơ trước sự can thiệp
vào nội bộ tôn giáo và áp bức tôn giáo một cách ngang ngược của hạng người đang
bị lên cơn sốt thời cuộc. Họ đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ và uất ức
cho những người thất thế vì thời cuộc đổi thay. Những kinh nghiệm đau lòng của
buổi giao thời này tôi không bao giờ quên. Trong bối cảnh đó, tôi có gặp khó
khăn và áp lực từ nhiều phía và nhiều người cũng không phải là chuyện khó hiểu.
Vùng bóng đen
Lúc bấy giờ vì thời cuộc đổi thay và cuộc sống có nhiều áp lực
từ mọi phía nên tôi rất buồn phiền. Trong vai trò một cha sở, một mặt tôi lo chỉnh
đốn lại đời sống của họ đạo sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá, mặt khác tôi
phải thường xuyên đương đầu với những vấn đề do một chính quyền vô thần luôn chống
báng và tìm hết mọi cách để triệt hạ tôn giáo gây nên. Trong tình thế đó, tôi
đã cố sống nhẫn nhục chờ cho cơn sốt thời cuộc qua đi, để tôi có thể sống yên
thân để phục vụ dân chúng trong vùng nói chung, và cách riêng là giáo dân trong
họ đạo thuộc về trách nhiệm của tôi.
Trong cuộc sống bình dị của một Linh mục trong xứ đạo nhà quê, thực ra chẳng
bận rộn gì nhiều. Hàng ngày tôi làm lễ vào buổi chiều, vì sáng ngày dân chúng
còn bận đi làm ruộng hay làm cá. Tôi dành phần lớn thời giờ trong ngày đi thăm
viếng giáo dân và bà con trong vùng nói chung, không phân biệt tôn giáo. Tôi
không thể tổ chức các lớp học giáo lý, vì nhà nước cấm, nhưng dạy giáo lý dưới
hình thức những lần tập trung trẻ con và thanh niên tới giúp “tăng gia sản xuất”,
bằng việc trồng rau, trồng khoai mì, trồng mía... chung quanh nhà thờ. Ngoài
các việc bổn phận trong họ đạo, lúc rảnh rỗi tôi tìm cách giải sầu bằng hai
cách: câu cá và học đàn Vọng Cổ.
Tôi mê câu cá ngay từ nhỏ, bởi tôi được sinh ra và lớn lên ở ruộng đồng có nhiều
sông rạch và tôm cá ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cái “máu” câu cá nó đã nằm
sẳn trong huyết quản tôi từ những năm còn thơ ấu, còn chạy nhảy tung tăng ở ruộng
đồng nhà quê. Sau này khi lớn lên rồi cũng vậy. Ngay cả sau khi đã làm Linh mục
rồi, mỗi khi có dịp cầm cần câu trong tay ngồi bên bờ sông là tôi quên hết sự đời.
Nếu được ngồi trên chiếc thuyền đang thả neo giữa dòng sông rộng mênh mông mà
câu cá thì không còn gì thú vị hơn.
Vùng La Mã nơi tôi ở lúc đó là vùng nước lợ, còn gọi là nước "pha chè”,
không mặn mà cũng không ngọt hẳn, vì là nhánh sông sát gần ngay biển. Khúc sông
này có rất nhiều tôm cá, nhất là cá ngát là loại cá không vảy và có ba gai, hai
cái ở hai bên mang và một ở giữa lưng. Nếu ai vô ý bị cá ngát đâm phải thì chỉ
còn nước ngồi đó mà kêu trời. Có lần chính tôi là một nạn nhân bị gai cá ngát
đâm vào ngón tay, nọc độc trong gai cá hành tôi đau nhức không chịu thấu và lên
cơn sốt suốt một ngày. Cánh tay bị cá đâm sưng to lên gần bằng bắp đùi! Mặc dù
vậy, khi cánh tay vừa hết sưng là tôi lại xuống sông câu cá. Có những lần câu
được rất nhiều cá tôi phải mang tới cho giáo dân và bà con trong vùng. Nói
chung, câu cá là thú giải trí thanh tao và vô thưởng vô phạt, dù vậy có lần tôi
suýt bị rắc rối to vì câu cá.
Một hôm tôi đang ngồi trên chiếc tam bản, tiếng miền Bắc gọi là thuyền, thả neo
dưới bến nhà thờ để câu cá. Bổng từ xa có một người lạ mặt, đội mũ tai bèo khăn
rằn quấn cổ, chèo chiếc xuồng nhỏ hướng về phía tôi. Cách ăn mặc “mũ tai bèo,
khăn rằn quấn cổ” là cái mốt thời thượng lúc bấy giờ. Nhìn thấy hình ảnh đó
thôi, cũng đủ cho tôi biết, hoặc đoán biết người đó là ai, và trong lòng tôi bắt
đầu nghi ngại. Tới nơi anh ta cập ghe vào hỏi tôi:
- Anh là ai và ngồi làm gì ở đây?
Tôi lấy làm lạ vì câu hỏi đó, nhưng cũng trả lời:
- Tôi là cha sở nhà thờ La Mã, tôi đang câu cá.
Người lạ mặt hỏi tiếp, giọng thắc mắc:
- Anh câu cá, mà cần câu anh đâu?
Tôi ngạc nhiên quá, hay anh này muốn giỡn chơi. Nhưng cách anh ta nói rất
nghiêm túc, vả lại anh này là người tôi mới gặp lần đầu thì làm gì có chuyện
đùa giỡn. Tôi trả lời :
- Anh hỏi gì vậy, thì tôi đang cầm cần câu đây anh không thấy à?
Người lạ mặt lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn trừng trừng vào cần câu máy tôi đang cầm
trong tay, anh chỉ cần câu và hỏi:
-Cái loại máy có cần ăn-ten và ''dây trời'' này, có kêu được máy bay B52 không?
Tôi ném cần câu lên thuyền ngạc nhiên kêu lên:
- Anh nói cái gì? Cái gì mà có... B52 trong này?
Anh ta đứng lặng thinh tỏ vẻ nghi ngờ, làm tôi biết ngay là anh ta chưa bao giờ
có dịp trông thấy cái mà người ta gọi là “cần câu máy”. Gọi là “câu máy”
nhưng thực ra nó chỉ là cái trục, để quấn dây cước vào và thả dây cước ra bên
trong những cái khoen bằng sắt chạy dài theo cần câu khá dài, bằng chất nhựa dẻo,
để thả xuống sông câu cá. Biết như vậy tôi vội quay nhanh dây cước lên, chỉ cho
anh thấy ở cuối đầu dây có cục chì và lưỡi câu, móc vào lưng con tôm đang quơ
râu quơ càng dùng làm mồi câu cá ngát! Chừng đó anh mới tin là cái mà tôi đang
cầm trong tay không phải là cây ăn-ten của một loại máy truyền tin hiện đại với
“dây trời” có thể gọi... B52! Cũng may là anh hỏi trực tiếp tôi, nếu anh âm thầm
báo cáo loại... máy này lên cấp trên và nói tôi có dụng cụ gọi pháo dài bay B52
chắc là đời tôi đã khốn nạn sớm hơn rồi!
Thú giải trí thứ hai của tôi là học đàn Vọng Cổ. Lúc đó ở gần nhà thờ có một
thanh niên ngoại giáo mù mắt tên là Tám Chánh. Tuy không có đạo nhưng anh hay tới
nhà thờ chơi. Anh Tám Chánh có biệt tài đàn Vọng Cổ rất hay và anh dạy cho nhiều
người, nhưng chỉ dạy văn nghệ thôi chứ không lấy tiền. Tôi thường mời anh tới
nhà xứ chơi để đàn hát và dạy tôi đánh đàn cổ nhạc, lâu ngày rồi hai người
thân nhau. Tám Chánh rất vui tánh, thích tìm hiểu và hỏi tôi về nhiều chuyện, từ
chính trị, tôn giáo, xã hội. Tôi rất thương người bạn chẳng may bị mù lòa này.
Tôi nghe kể lại, lúc còn nhỏ cho tới lúc 3 tuổi, anh Tám Chánh là đứa trẻ bình
thường như bao nhiêu trẻ con khác cho tới lúc anh bị đau mắt. Lúc đó sự hiểu biết
về y học của dân chúng trong vùng này còn thô sơ. Không hiểu tại sao có người
bày với gia đình anh lấy cựa gà trống mài ra hoà với nước và nhỏ vào mắt sẽ khỏi
bệnh. Không ngờ sau khi nhỏ vào mắt, chẳng những không khỏi bệnh mà chất nước ấy
còn làm nổ tung cả hai tròng con mắt của anh. Bây giờ trên mặt anh chỉ còn lại
hai cái hố sâu hoắm, thay vì hai tròng con mắt, và mí mắt anh lúc nào cũng nháy
liên hồi. Nghe qua chuyện đó tôi càng thương anh nhiều hơn.
Nhớ có lần anh hỏi một câu làm tôi quá cảm động. Lúc đó tôi có nuôi một con chó
Bắc Kinh nhỏ, tên là chó His. Lần nào tới chơi anh Tám Chánh cũng ôm nựng chó
His vì nó rất hiền và dễ thương, có lần vừa vuốt lưng no, anh hỏi tôi:
- Chó His màu gì hả cha?
Tôi đáp:
- Màu trắng có đốm màu vàng.
Anh suy nghĩ một lúc hỏi tiếp
- Màu vàng là thế nào hả cha?
Bỗng nhiên tôi tấy tắt nghẹn ở cổ khi thương cho hoàn cảnh người bạn tật nguyền
không thấy được màu sắc là vẽ đẹp của cuộc đời. Thấy tôi yên lặng anh hỏi tiếp.
- Cha, nói cho con nghe đi, màu vàng ra sao hả cha?
Tôi cố trả lời tiếng được tiếng mất.
- Tôi không giải thích được anh Tám ạ!
Vừa nói tôi vừa chớp nhanh mí mắt.
Tình bạn chúng tôi càng ngày càng sâu đậm và anh Chánh tận tình chỉ dạy tôi các
“ngón” đàn, tức là kỹ thuật chơi đàn Vọng Cổ. Có lần trong một buổi tật dượt,
tôi hỏi anh:
-Anh Tám này, sao tiếng đàn của anh nghe não nề, hay quá là hay, còn tôi đánh
đàn như cứ nghe rầm rầm như tiếng vỗ thùng thiếc, tập hoài hổng được?
Anh Tám trả lời một câu làm tôi nín lặng:
- Muốn có tiếng đàn như con, cha phải móc hai mắt của cha liệng đi.
Thì ra người bạn mù của tôi đã gửi hết tâm tư u buồn của kiếp người bất hạnh
vào tiếng đàn của mình. Anh có sáng tác ra 6 câu Vọng Cổ, có tên là “Chuyện đời
tôi”, diển tả tâm trạng u buồn trong kiếp sống lặng lẽ âm thầm của anh. Mỗi lần
ngồi nghe anh vừa đàn vừa hát bản Vọng Cổ đó, tôi xúc động vô cùng.
Nhưng anh chỉ ca bản đó ở chỗ riêng tư và không bao giờ ca
khi có đông người, cho dù yêu cầu cách mấy anh cũng không nhận lời.
Có những lần tôi tới nhà thăm anh, trong lúc mọi người đi vắng, anh Tám Chánh
ngồi đánh đàn một mình các say sưa không biết có tôi đứng bên. Lúc đó tôi bất
giác nói một mình: "Anh Tám nói đúng, người có đôi mắt sáng không thể nào
có được tiếng đàn này!”
Tôi rất thích thể điệu âm nhạc Vọng Cổ, và sau này tôi cũng biết đa số các người
miền Nam cũng đều thích như tôi. Nhất là khi anh Tám Chánh đã dạy tôi đánh đàn
vọng cổ và chơi được chút ít thì càng say mê hơn. Nhớ lại thời gian đó có
đôi ba lần tôi cũng phải đi đào đất làm thủy lợi chung với bà con trong vùng.
Vì đi đào thủy lợi khá xa trong mấy ngày liền nên chúng tôi mang theo gạo để nấu
cơm. Ban ngày đào đất, chiều lại, tôi và một số thanh niên tập trung tại sân
nhà một người dân nào đó trong vùng để nấu ăn và sau đó ngồi quây quần nhau đàn
hát cổ nhạc trước lúc đi ngủ. Nếu đêm đó có trăng nữa thì càng nên thơ! Khổ nỗi,
tôi thích Vọng Cổ mà lại không biết hát, mặc dù vậy nghe những người hát Vọng Cổ
thật mùi có chỗ làm tôi rưng rưng nước mắt. Có mấy người chọc tôi là “mít ướt”,
nghĩa là dễ khóc, nhưng không hiểu sao khi nghe một vài bài Vọng Cổ thương tâm
tôi không cầm lòng được.
Lúc tôi mới về họ đạo La Mã, là lúc mà cơn sốt thời cuộc lên cao ngất từng mây.
Có những con người bị sơn sốt thời cuộc hành căng quá không chịu nổi, họ phải
làm hết mọi cách để chứng tỏ mình là người "cách mạng”. Thậm chí có kẻ tìm
cách triệt hạ người khác, mà họ cho là “không cách mạng”, để chứng tỏ mình là
người “cách mạng”. Có lần, tôi đi xe gắn máy từ Bến Tre về họ đạo, khi gần
tới nhà bị mấy anh du kích “cách mạng”chặn lại trên đường. Một anh mặt mày đen
đúa, mang súng AK, đội mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ, bước tới giật lấy cái mũ
lưỡi trai tôi đang đội ném xuống đất, giận dữ quát:
- Tới lúc này mà anh còn đội kết của thằng Kỳ à?
Tôi chẳng hiểu anh ta muốn nói gì, nên hỏi lại:
- Anh nói gì tôi không hiểu, đây là kết của tôi mua chứ của thằng Kỳ nào?
Anh du kích bực mình, chỉ vào mặt tôi đe dọa:
- Đây là loại kết đồi trụy của thằng Nguyễn Cao Kỳ nó đội anh hiểu chưa? Bộ anh
muốn bắt chước thằng Kỳ hả?
Tôi chợt hiểu ra vì ông Nguyễn Cao Kỳ có lần đội kết đen giống như vậy, nên cái
loại kết đó đương nhiên trở thành đồi trụy! Tôi chẳng hỏi thêm gì, chỉ đứng yên
một cách ngán ngẩm và chịu trận cho anh du kích mắng nhiếc một hồi và cho tôi
đi. Lúc nổ máy xe chạy đi rồi, tôi mới mỉm cười nghĩ thầm là mất cái kết đen,
tôi vẫn còn may mắn. Nếu anh “cách mạng” lúc nãy nói cái quần tôi đang mặc là
quần của...‘‘thằng Kỳ”, chắc là hôm đó tôi gặp chuyện ngượng ngùng chết
người!
Nhưng sự đời, hể cái gì lên quá cao
rồi cũng có lúc cũng phải xẹp xuống. Cơn sốt thời cuộc trong vùng La Mã này
cũng theo quy luật đó. Sau đó không lâu, trong xã phát động đợt học tập “đóng
nghĩa vụ”, và tất cả mọi người ai có vườn có ruộng đều phải tới học tập. Họ đạo
cũng có mấy công đất vườn trồng dừa, nên tôi cũng phải có mặt. Điều tôi ghi nhận
rất rỏ là cơn sốt thời cuộc đã làm cho nhiều người trở thành điên lọan mấy
tháng trước đây đột nhiên trở thành cơn giá băng sau đợt học tập đóng nghĩa vụ
này.
Đợt học tập để bắt người dân đóng thuế, nhưng được
gọi cái tên đẹp là “đóng nghĩa vụ’’ này, được tổ chức ngay trong một lớp của
trường học họ đạo của tôi. Có mấy cán bộ cấp tỉnh xuống giúp cho chánh quyền địa
phương, dạy cho người dân biết cách đóng “nghĩa vụ” thế nào cho nó tốt.
Sau đợt học tập, với nhiều bài thuyết giảng tràng
giang đại hải, mỗi gia đình có ruộng có vườn được “cách mạng” ban chỉ tiêu đóng
thuế cắt cổ. Một chỉ tiêu đóng thuế nặng chưa từng thấy. Ngay cả trong chế độ
mà người ta gọi là “Mỹ Ngụy” cũng chưa bao giờ bà con trong vùng này phải đóng
thuế vườn thuế ruộng với chỉ tiêu cắt cổ như thế.
Cơn sốt thời cuộc trong vùng tôi, ngày hôm đó, vụt xẹp
đi như bánh xe bơm cứng, bị cán phải đinh. Nhiều gia đình cách mạng quá phẫn uất,
chửi rủa tùm lum vì cái chỉ tiêu “đóng nghĩa vụ” chóng mặt vừa mới được cách mạng
ưu ái ban cho. Có mấy bà “mẹ chiến sĩ ” đã lớn tuổi, miệng nhai trầu bõm bẽm,
ăn nói rất bạo mồm bạo miệng. Vì bực quá chịu không nỗi nên chửi thẳng, theo
cái kiểu người ta thường ví:“trâu già không sợ dao phay”. Có bà phùng mang, trợn
má đứng chửi giữa đám đông ai nghe thì nghe:“Đéo mẹ chúng bây! Nếu tao biết
nông nỗi này thì ngày trước tao đấm đách có thèm mà chứa chấp tụi bây
trong nhà tao.”! Sau đó tôi biết, bà con bực thì chửi cho hả hơi còn “nghĩa vụ”
thì vẫn phải đóng đủ. Vì đóng thuế không đủ “cách mạng” sẽ có biện pháp khác,
và không ai muốn rơi vào biện pháp đó, cho dù là những “gia đình cách mạng”, hoặc
những người vẫn nghĩ là mình có công với cách mạng!
Tình trạng giữa tôi và chánh quyền địa phương càng ngày càng trở nên căng thẳng.
Do đó, tôi biết sự có mặt của tôi lúc bấy giờ là một chướng ngại và là cái gai
trong con mắt của nhiều người, ngay cả những người có mặt trong họ đạo trước
tôi. Sau gần một năm, tôi cảm thấy không thể sống và làm việc hữu hiệu tại giáo
xứ. Hơn nữa, má tôi đang đau ốm nặng, nên tôi trình bày hoàn cảnh với
Giám mục và được chấp thuận cho tôi được ra khỏi họ đạo. Tôi được lệnh bàn giao
họ đạo lại cho cha Quang, cha sở họ đạo Cái Bông để về nhà quê lo lắng cho mẹ
già. Cha Quang đã từng phụ trách họ đạo này trước khi cộng sản chiếm miền Nam,
cha Quang là anh của cha Thạnh, người bạn Linh mục thân nhất của tôi, lúc bấy
giờ đang làm cha sở họ đạo Quới Sơn cũng thuộc tỉnh Bến Tre.
Thạnh và tôi cùng tuổi. Chúng tôi chơi thân ngay từ những năm còn học ở Tiểu Chủng-viện
Vĩnh Long. Năm 1963 chúng tôi lên Sài Gòn và học chung lớp trong bảy năm tại Đại
Chủng viện Thánh Giuse, số 6 đường Cường Để. Đại Chủng viện Thánh Giuse là chủng
viện miền, đào tạo linh mục cho 7 địa phận miền Nam, vì lúc bấy giờ các địa phận,
tiếng miền Bắc là giáo phận, chưa có Đại Chủng-viện riêng. Sau khi mãn khóa, Thạnh
và tôi cùng được thụ phong Linh mục vào năm 1970, và cả hai về làm việc tại địa
phận Vĩnh Long vì chúng tôi thuộc về địa phận này.
Về địa dư, địa phận Vĩnh Long bao gồm bốn tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và
Sa Đéc với khoảng trên dưới 150.000 giáo dân. Thạnh được bổ nhiệm làm cha phó
Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long, còn tôi làm phó xứ Sa Đéc, cách nhau độ 20 cây số.
Thỉnh thoảng chúng tôi tới lui thăm nhau và tình bạn càng thêm thắm thiết. Tuy
là đôi bạn thân, nhưng cuộc đời của Thạnh và tôi rất khác biệt nhau. Thạnh có
cuộc sống trầm lặng, tánh tình hòa dịu và vóc dáng ốm yếu. Tuy thế cuộc đời ưu
đãi anh về nhiều phương diện. Sau hai năm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa, Thạnh
được bổ nhiệm làm cha sở họ đạo Quới Sơn, gần cầu bắc Rạch Miễu, trong tỉnh Bến
Tre vào đầu năm 1973. Khi cộng-sản chiếm miền Nam, Thạnh vẫn đang ở đó. Tôi
nghĩ là Thạnh sẽ còn ở Quới Sơn lâu dài, vì từ ngày chiếm được miền Nam, nhà nước
cộng-sản đã trắng trợn can thiệp vào nội bộ các tôn giáo, không cho các Giám mục
được quyền thuyên chuyển các Linh mục. Muốn đổi một Linh mục nào phải có sự đồng
ý của chánh quyền, nói chung là ai đang ở đâu cứ ở đó.
Phần tôi khác hẳn với Thạnh, cuộc sống tôi đầy thăng trầm và nhiều biến động.
Đúng là số kiếp của mỗi con người. Dù ai không muốn tin cũng phải tin rằng ở
trên đời mỗi người đều có một cái số mà văn hào Nguyễn Du đã nói lên từ lâu:
“Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.”
Điều thật trớ trêu, sau khi bàn giao họ đạo cha cha Quang xong, chánh quyền sở
tại, xã Hiệp Hưng, lại không cấp cho tôi giấy đi đường. Họ không cho tôi rời khỏi
xã, lấy lý do là sau khi bầu cử Quốc Hội khóa 6, là Quốc Hội chung cho cả nước,
có lệnh không cho ai rời khỏi địa điểm cư trú. Tôi hiểu ngay việc gì sẽ xảy ra
cho tôi sau lời giải thích này và tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những
tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Hôm sau, tôi trở lại Ủy ban Nhân dân xã Hiệp
Hưng để xin giấy đi đường một lần nữa để về quê thăm má tôi đang đau nặng. Qua
thái độ cứng rắn quyết liệt của tôi, họ đã buộc lòng phải cấp cho tôi giấp phép
đi đường chỉ có hiệu lực trong 3 ngày.
Quê tôi ở tỉnh Vĩnh Long, cách Bến Tre hơn trăm cây số và phải qua 2 lần bắc,
tiếng miền Bắc gọi là phà, bắc Rạch Miễu nối liền hai tỉnh Bến Tre - Mỹ Tho và
bắc Mỹ Thuận trên đường từ Sài Gòn xuống các tỉnh miền Tây.
Vùng kỷ niệm
Ngày tôi rời giáo xứ ra đi, sau khi từ giả mọi người, ngồi
trên xe gắn máy trên con đường từ họ đạo La Mã lên tỉnh Bến Tre trong ánh nắng
ban mai, lòng tôi buồn vô hạn. Lúc đó tôi tự hỏi không biết mình có còn có dịp
trở lại con đường này nữa hay không. Mặc dù trước kia vùng này xa lạ đối với
tôi nhưng trong gần một năm qua kể từ khi về làm cha sở họ La Mã, tôi đã đi lại
nhiều lần trên con đường đá sỏi loang lổ này để về thăm quê hay ghé qua thăm Thạnh,
và con đường đã trở nên quen thuộc lúc nào tôi cũng chẳng hay. Chừng từ giã ra
đi mới thấy thương thấy nhớ.
Khi còn cách tỉnh chừng 6 cây số tôi phải đưa xe xuống chiếc xuồng máy chở qua
sông Chẹt Sậy là một nhánh sông khá lớn nước chảy mạnh như thác vì chỗ này gần
sông cái. Trước đây có cây cầu sắt bắt ngang qua sông, nhưng trong thời chiến
tranh, những cây cầu được bắt ngang sông này ít khi nào thọ quá vài năm. Vừa bắt
cầu lên đã bị Việt cộng phá hoại hoặc giật mìn cho sập đi. Có khi cầu bắt chưa
xong cũng đã bị giật sập. Đây là cây cầu nằm trên con đường huyết mạch nối liền
tỉnh Bến Tre và các quận Giồng Trôm, Ba Tri, Mõ Cày và Thạnh Phú nằm phía
sát bờ biển. Vì thế một bên cố gắng xây dựng trong lúc bên kia ra sức phá hoại
thì không có gì là khó hiểu. Phía Quốc Gia cố gắng giữ cách gì cũng không lại.
Việt cộng phá hoại cầu bằng nhiều cách khác nhau, có những cách rất tinh vi ngoạn
mục như trong lần họ phá cây cầu này không lâu trước ngày mất miền Nam.
Tôi nghe kể lại, vì phía Quốc gia biết là cây cầu huyết mạch này trước sau gì rồi
cũng sẽ bị giật sập nên vào những năm sau này đã tăng cường thêm lính canh gác
bảo vệ cây cầu chiến lược này rất cẩn mật ngày đêm. Có cả biện pháp đề phòng
người nhái lén đặt mìn dưới mặt nước và cả cách ngăn chặn thả mìn trôi theo các
dề lục bình, bằng cách đóng hàng rào cản chung quanh chân cầu sắt. Nhờ có hàng
rào cản này nên không một ghe thuyền, hoặc người nhái hay dề lục bình nào có thể
đụng chạm được chân cầu. Nhờ đó một thời gian khá lâu cây cầu này được yên thân
và dân chúng trong vùng đi lại thuận tiện thoải mái.
Nhưng ở đời hễ vỏ quít dày thì có móng tay nhọn.
Những đầu óc linh hoạt của người cộng sản đã nghĩ ra kế sách phá cầu ngoạn mục
làm phía Quốc gia bó tay, có thấy trước cũng không làm cách gì chặn được chỉ
còn nước ngồi đó mà kêu trời. Số là vùng Bến Tre có rất nhiều dừa và khi nước
ròng thì sông Chẹt Sậy chảy vun vút như thác đổ ra sông cái. Những kẻ phá hoại
lợi dụng điều kiện đo và khai dụng sức mạnh của nước. Trước tiên họ đốn thật
nhiều cây dừa to và dài, kết thành bè và cất giấu một nơi trong các vùng họ kiểm
soát. Chờ đúng con nước ròng chảy xiết họ cắt dây neo bè. Một chiếc bè dừa khổng
lồ đến hàng trăm cây bó lại xuôi dòng nước vùn vụt lao xuống càng lúc càng
nhanh. Khi những người lính canh trông thấy cái bè dừa khổng lồ lù lù hiện ra vội
la hoảng lên báo động. Nhưng lúc bấy giờ chỉ có trời mới có thể cứu được số phận
của cây cầu đáng thương bằng thép lạnh đang đứng gồng mình chờ chết.
Tất cả lính canh nghe báo động túa ra xả súng lớn súng nhỏ bắn vào chiếc bè dừa.
Nhưng chỉ bắn cho sướng tay vì lâu ngày không có dịp bắn, còn chiếc bè dừa khổng
lồ vẫn cứ làm công việc của nó là đang âm thầm tiến tới mục tiêu với tốc độ khủng
khiếp của... bè dừa! Khi chiếc bè dừa chạm hàng rào cản chung quanh chân cầu,
phát ra một âm thanh êm dịu kéo dài giống như tiếng người ta bóp vụn mảnh bánh
đa vừa nướng xong trong lòng bàn tay. Sau đó chiếc bè dừa cõng theo trên lưng,
một phần thân thể của người bạn bằng thép dài ngoằn, lặng lờ tiến ra vùng nước
mênh mông của dòng Cửu Long muôn đời vẫn chảy! Chiếc cầu sắt vô tri vô giác từ
đó đã yên phận, có khổ chăng là cuộc sống của người dân trong vùng, trong đó có
tôi.
Chuyến đò ngang
Ra khỏi tỉnh Bến Tre tôi theo con đường ra bến bắc Rạch Miễu(tiếng
miền Bắc gọi là “phà”), cách tỉnh lỵ chừng 10 cây số và vùng này có tên là Cầu
Bắc. Khi dẫn xe gắn máy theo đoàn người lầm lũi bước lên bắc để qua tỉnh Mỷ
Tho, cảm giác chia ly lại dâng lên trong lòng tôi mãnh liệt hơn. Bắc Rạch Miễu
này tôi đã đi qua lại nhiều lần và ghi nhận khá nhiều hình ảnh khó quên. Nhớ lại
lần đầu tiên tôi được qua bắc này khi còn nhỏ, tôi không nhớ năm nào, lúc đó họ
đạo Mai Phốp có tổ chức cuộc hành hương kính viếng Đức Mẹ La Mã. Lần đó tôi
theo chị tôi và một số đông giáo dân họ đạo nhà quê đi hành hương, tới một nơi
mà không ngờ là sau này tôi về đó làm cha sở.
Lần đó đoàn xe chúng tôi qua bắc Rạch Miễu lúc trời vừa sáng. Tôi không nhớ được
gì nhiều vì tôi còn quá nhỏ, ngoại trừ hình ảnh mấy chiếc tàu chìm cách đó
không xa. Có chiếc giơ ống khói, có chiếc giơ những chiếc cột lên cao khỏi mặt
nước. Tôi chưa bao giờ được thấy qua chiếc tàu chìm, nên hình ảnh đó ghi thật đậm
nét trong trí nhớ của tôi cho tới mãi về sau này. Lúc đó người lớn nói cho tôi
biết là tàu Pháp bị Nhật bỏ bom chìm. Tôi nghe để mà nghe, nhưng tôi chẳng hề
biết Pháp, Nhật là ai và tại sao họ lại bỏ bom nhau. Cho tới năm 1961, lúc đã
18 tuổi, tôi qua Mỹ Tho học trường Rạng Đông một thời gian. Chiều chiều tôi hay
thả bộ ra bến tàu không xa bến bắc Mỹ Tho bao nhiêu, coi người ta câu cá và
nhìn lại những chiếc tàu chìm vẫn còn nằm yên đưa ống khói lên trời đang thi
gan cùng tuế nguyệt. Mỗi lần nhìn thấy hình ảnh này tôi lại nhớ chuyến bắc năm
xưa đã đưa thằng bé nhà quê là chính tôi qua con sông này, để đi hành
hương kính Đức Mẹ La Mã.
Sau này lớn lên khi tôi trở lại vùng này với ý thức đầy đủ và nhìn sự việc ra sự
việc, tôi ghi nhận thêm nhiều hình ảnh mới lạ về cái bắc Rạch Miễu này. Trước
tiên, chiếc bắc đưa xe qua sông bây giờ là loại lớn và chạy nhanh hơn, có hai tầng,
có ghế băng ngồi hẳn hoi, sạch sẽ và khang trang. Hình ảnh mới lạ thứ hai là cảnh
người ta buôn bán rất nhộn nhịp, có người bán cà rem, trái cây, bánh mì dồn thịt,
thức ăn đủ loại. Lại có nhiều nhiều người ăn xin hoạt động ráo riết kêu gọi sự
hảo tâm của hành khách.
Phần nhiều những người ăn xin là những người mù, một ít người có tật chân hoặc
cụt tay, cụt chân mà tôi đoán họ là những thương phế binh. Có người đi phải có
đứa bé dẫn đường, nhưng cũng có người đi một mình. Phần nhiều họ ôm đàn và hát
đủ loại nhạc, nhưng phần đông họ hát Vọng Cổ là thể loại âm nhạc phổ biến và dễ
đi vào tâm hồn người dân miền Nam, nhất là những người ở vùng quê như tôi. Có
người còn trang bị cả loại máy khuếch đại âm thanh loại cầm tay để cho tiếng
hát vang xa và hay hơn. Hoạt động của họ tạo nên cảnh sinh hoạt tưng bừng náo
nhiệt lúc chiếc bắc đang chạy ngang sông.
Vì có dịp qua lại nhiều nên tôi đã quen thuộc với cảnh này và nhất là tôi biết
mặt hầu hết những người ăn xin và lần nào tôi cũng chuẩn bị một số tiền lẻ để
giúp cho những người bất hạnh đó. Tuy số tiền không nhiều nhưng tôi vẫn cảm thấy
thiếu sót mỗi khi có người tới xin mà tôi không có chút gì đặt vào tay họ. Mặc
dù vậy tôi vẫn chú ý tới một người đàn ông mù mắt trạc ngoài 30 tuổi, có lẽ anh
bị mù sau khi bị đậu mùa vì mặt anh có nhiều vết sẹo của chứng bệnh quái ác
này.
Anh có lối ca Vọng Cổ rất hay và truyền cảm qua một máy khuếch đại âm thanh rất
cũ kỹ nhưng tiếng kêu còn tốt. Có một em bé gái độ chừng 9 hoặc10 tuổi,
hay lớn hơn một chút đi trước cột sợi dây ngang người rồi cột vào thắt lưng cho
anh đi theo vì lúc nào hai tay anh cũng bận đánh đàn ghi-ta. Cô bé này lúc nào
cũng lạnh lùng và câm lặng như người bằng sáp, cứ lững thững bước đi dẫn người
đàn ông theo sau, không bao giờ thấy em biểu lộ một nét gì khác biệt dù vui hay
buồn trên khuôn mặt lọ lem mà tôi nghĩ là em cố ý để như vậy.
Tôi không biết em bé đó là gì của người đàn ông, nhưng cách cô bé lúc nào cũng
thản nhiên và gương mặt không lúc nào bày tỏ cảm xúc đó tôi nghĩ chắc em đã chịu
đựng cuộc sống bất hạnh này lâu ngày rồi nên trở thành chai lì. Nghĩ như vậy
tôi càng thương em bé này nhiều hơn. Và dĩ nhiên lần nào tôi cũng dành một số
tiền lẻ khá hơn cho người hành khất và em bé này. Ngoài sự thương cảm của tôi về
hoàn cảnh hai người, tôi còn rất thích các bài ca Vọng Cổ của anh nữa. Có mấy lần
đang nghe anh hát dở dang một bản Vọng Cổ thấm thía mà đã tới nơi, làm tôi tiếc
rẻ và cảm thấy sao hôm nay chiếc bắc này chạy quá nhanh.
Lúc đó khung cảnh trên bắc rất ồn ào. Hình như hôm nay khách đi đường nhiều hơn
mọi ngày, đa số là những người đàn bà tay xách túi cói căng phồng và nặng trĩu.
Chung quanh tôi người ta cười nói huyên thuyên. Tiếng những người rao bán hàng
rong nghe lanh lảnh, tiếng những người ăn xin ca hát có đệm nhạc điếc tai, cùng
với tiếng máy của chiếc bắc đang chạy. Tất cả các loại âm thanh đó trộn lẫn vào
nhau làm thành một bản hợp tấu quá ồn ào lấn át tiếng hát trong máy khuếch âm của
người hành khất mù và em bé gái đang tiến dần tới chỗ tôi đang ngồi.
Nãy giờ, tôi chỉ mong anh tới, một phần vì tôi đã quen gặp anh trên bắc này, phần
khác, hôm nay tâm trạng tôi quá buồn và muốn được thưởng thức một điệu Vọng Cổ
của anh với làn hơi mà tôi rất mến chuộng. Tôi thủ sẵn số tiền lẻ nhiều gấp đôi
cho anh vì tôi muốn giúp anh một lần cuối, không biết tôi còn có dịp quay lại
trên chiếc bắc với người hành khất với em bé gái dẩn đường quen thuộc nầy nữa
hay không.
Chợt tôi nghe từ xa vọng lại một giọng hát gì rất lạ và chói tai, không phải là
những bài Vọng Cổ truyền cảm tôi vẫn nghe anh hát trước giờ. Tôi ngạc nhiên, lắng
tai nghe và thất kinh khi nghe một giọng oang oang từ chiếc máy khuếch âm mở to
hết cỡ của anh, một câu hát Vọng Cổ làm tôi sửng sốt: “Có phải cuộc chiến
tranh... ơơ này, là do bọn Mỹ... ơ ngụy... ơ gây ra... ơờ ơ ờ ơ...”. Tôi
đột nhiên nổi giận khi nghe câu Vọng Cổ sặc mùi chính trị đó. Tôi thả tay ra bỏ
lại hết số tiền vào túi, đứng bật dậy như một cái máy, vội bước ra xa để khỏi
phải nghe thêm những gì mà người nghệ sĩ mù tiếp tục gân cổ lên gào thét. Vừa
bước đi tôi vừa rủa tầm: “Cái anh chàng dại dột, ngu ơi là ngu, ăn xin
không lo ăn xin còn ở đó mà cách mạng!”
Quá thất vọng và cảm thấy bực bội, tôi lần bước xuống tầng dưới và đi dần
ra phía trước mũi chiếc bắc, nơi không có mái che. Tôi cúi người khoanh tay tì
lên lan can và nhìn ra xa với tâm trạng buồn phiền và bực tức. Một nỗi bực bội
đột nhiên chụp lấy tôi mà tôi không kịp có thì giờ suy nghĩ tại sao mình buồn
phiền và bực tức như vậy.
Lúc này, chiếc bắc đang chạy ngang Cồn Phụng, chỗ Ông Đạo Dừa làm căn cứ Thánh
Địa với nhiều hình thức kiến trúc lạ mắt, đủ các loại màu sắc mà một thời đã
thu hút nhiều người hiếu kỳ tới đây. Bây giờ cơ ngơi vẫn còn đó nhưng nghe nói
hình như Ông Đạo Dừa, tức kỹ sư Nguyễn Thành Nam, không còn ở đó nữa. Tôi nghe
nói là cộng sản đã bắt ông, nhưng thực hư thế nào tôi không biết rõ, chỉ biết
là từ ngày cộng sản chiếm miền Nam, Cồn Phụng trở nên hoang vắng.
Tôi buồn và có cảm giác người ta đã làm nhục nghệ thuật Vọng Cổ tinh hoa của một
bộ môn nghệ thuật mà tôi yêu thích. Tôi nghe kể lại, loại âm nhạc này ra đời mấy
chục năm về trước bắt đầu bằng bản nhạc có tên là “Dạ Cổ Hoài Lang” của nghệ sĩ
Sáu Lầu. Bản nhạc theo thể loại âm nhạc đặc biệt này ngay lúc đầu đã được nhiều
người ưa thích. Về sau điệu nhạc ấy được gọi trại đi là “Vọng Cổ “ chủ yếu là
dùng diễn tả tâm trạng yêu thương chan chứa tình cảm của người dân miền Nam. Nhạc
Vọng Cổ đã phát triển mạnh một thời ở miền Nam với những đoàn hát Cải Lương nổi
tiếng, đã làm thành nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của miền Nam. Bộ môn Vọng Cổ
cũng giúp cho một số nghệ sĩ có tên tuổi sống với thời gian như Út Trà Ôn, Hữu
Phước, Hùng Cường, Út Bạch Lan, Hương Lan, Thành Được, Chí Tâm ...và nhiều
tên tuổi khác. Bây giờ khi thời cuộc đổi thay, người ta bắt thể loại âm nhạc
này phục vụ cho một thứ chính trị rẻ tiền, loại chính trị nay còn mai mất. Lối
ca Vọng Cổ được ra đời không phải để làm công việc đó. Nó là loại âm nhạc mang
lại tình yêu thương sưởi ấm tình dân tộc nhưng bây giờ người ta dùng nó để cổ
võ cho sự hận thù giữa người với người. Tôi cảm thấy đau đớn khi một phần trong
sự nghiệp văn hóa của dân tộc bị những kẻ mù quáng vì tham vọng chính trị lạm dụng
và xúc phạm.
Những giá trị tinh thần
Trong cơn tức bực đó, tôi liên tưởng tới sự kiện khi cộng sản
chiếm được miền Nam, họ đã vội áp đặt lên đầu lên cổ người dân miền Nam một
cách thô bạo qua việc đổi tên thành phố Sài Gòn thân yêu trong tim người dân miền
Nam bằng một cái tên sặc mùi chính trị, mà trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, có
biết bao nhiêu người miền Nam phải giật nẩy người khi nghe tới cái tên đó! Những
con người chính trị trong một cơn say chiến thắng nào đó, đã nhẫn tâm dày vò
tâm tư thầm kín của người dân phía thua trận, bằng cách cướp đi những giá trị
tinh thần mà họ yêu thương ấp ủ.
Có những thứ thuộc về giá trị tinh thần của dân tộc mà không một thể chế chính
trị nào có thể cướp đi được. Tôi mường tượng ra, nếu trong một tương lai xa gần
nào đó, khi chủ nghĩa cộng sản không còn ngự trị trên quê hương tôi, nếu chẳng
may có một thể chế chính trị mê muội nào tiếp theo sau, lại đem đổi tên Hà Nội
thân yêu trong lòng tôi thành ra thành phố Nguyễn Văn A hoặc thành phố Nguyễn
Văn B... thì còn gì là giá trị tinh thần của Chiếc Nôi Dân Tộc? Lúc đó, sẽ có
biết bao nhiêu người Việt Nam đau buồn và cảm thấy bị xúc phạm, và chắc chắn là
có tôi trong số những người đó. Tôi vẫn luôn xác tín rằng thể chế chính trị nào
rồi cũng sẽ qua đi, chỉ có dân tộc là trường tồn.
Còn chuyện khác nữa, tôi nhớ khi người cộng sản vừa cướp được chính quyền ở miền
Nam, họ lại cướp đi luôn... chiếc áo dài của người phụ nữ Việt Nam! Tội nghiệp
cho chiếc áo dài thướt tha là nét duyên dáng truyền thống của dân tộc. Nó được
thành hình qua hàng ngàn năm của lịch sử và văn hóa để tô điểm cho nét đẹp của
người phụ nữ Việt Nam, bây giờ, lại bị những con người Việt Nam chỉ biết nhắm
vào giá trị nhất thời của chính trị lôi nó ra hành quyết! Chiếc áo dài tha thướt,
biểu tượng cho nét độc đáo của văn hóa Việt Nam, nói lên tính chất dịu hiền của
người con gái Việt Nam đó, nó đâu có tội tình gì? Nó đâu có phản động? Nó đâu
có là “tàn dư của Mỹ Ngụy”? Nó đâu có dự phần vào những hoạt động "phản
cách mạng”?! Vậy tại sao người ta lại cố tình bức tử nó?
Tôi ước mong những người nào đã làm công việc phản văn hóa đó, đọc được những
dòng này và cảm thương cho tâm trạng đau buồn của tôi khi phải nhìn các cô
giáo, các nữ sinh, các nữ công chức từ sau tháng 4 năm 1975, mặc những chiếc áo
ngắn cũn cỡn trên người lúc đi dạy, đi học, đi làm... Tôi thật đau lòng xót dạ
khi nhìn cảnh đó và càng đau xót hơn nữa cho số phận dân tộc tôi bị những thế lực
chính trị nhất thời làm khổ đủ mọi cách. Chừng nào dân tộc tôi mới thoát được cảnh
này? Chừng nào dân tộc tôi mới có được những nhà chính trị có đủ tầm vóc và
khôn ngoan để tiếp nối nhau xây đắp cho tinh thần và văn hóa của dân tộc?
Tôi đau lòng khi nhớ lại ngay trong miền Nam trước kia cũng đã xảy ra các chuyện
như vậy. Lúc đó, ở miền Nam sau một cuộc đảo chánh, hoặc cuộc chỉnh lý và một
chính phủ mới lên cầm quyền là vội phá bỏ hết những gì thuộc về ”chế độc cũ”! Bất
cứ thứ gì thuộc về chế độ cũ cũng sai, cũng trái, chỉ có “chế độ mới”là đúng là
đẹp! Nhưng điều buồn cười nhất là người ta lại quên đi bất cứ “chế độ mới” nào
rồi cũng sẽ trở thành “chế độ cũ” trong tiến trình hướng về tương lai của dân tộc.
Chế độ chính trị chỉ là chiếc áo mặc bên ngoài, còn thân thể dân tộc sẽ phát
triển và tăng trưởng không ngừng! Vì thế, ở mỗi giai đoạn của lịch sử, thân thể
dân tộc sẽ có một chiếc áo mới vừa tầm, vừa khổ. Những chiếc áo cũ và chật chội
sẽ được cởi ra, xếp vào ngăn kéo của lịch sử.
Nhắc tới vấn đề này, tự nhiên tôi chực mỉm cười khi nhớ lại một khẩu hiệu,
không hiểu con người nào đã có can đảm viết ra và cho phổ biến sau khi người cộng
sản chiếm miền Nam: “Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa !”. Câu này sai tự căn bản!
Từ lâu nay, tôi không thấy ai có ý kiến gì về khẩu hiệu này, tôi nghĩ một phần
người dân muốn được yên thân, phần khác, có lẽ ai cũng biết câu nói đó quá tồi,
không đáng để bình phẩm. Trong cơn sốt thời cuộc, vì say men chiến thắng, có
người đã “phát biểu” đại câu đó và không cần lý luận rằng, nếu khẩu hiệu đó là
đúng thì trước khi có xã hội chủ nghĩa hẳn là người Việt Nam không có ai yêu nước?
Và nhất là sau khi xã hội chủ nghĩa qua đi rồi thì người dân Việt Nam muốn yêu
nước, phải yêu cái gì? Người nói lên câu đó, chẳng khác chi một anh thợ may tồi,
vì thiếu vải đã may một chiếc áo quá chật. Để giải quyết vấn đề, anh ta đã xẻo
thịt, cắt tay người mặc áo, làm sao nhét cho vừa chiếc áo anh đã may! Thật là
hài hước! Thật là một thứ trò hề chính trị rẽ tiền.
Việt Nam đau thương
Trong lúc đứng cúi người, khoanh tay đặt lên thành ống sắt
làm rào cản trên chiếc bắc, nhìn xuống đám bọt nước dưới lườn bị hất tung lên rồi
tan biến vào dòng nước đầy phù sa đỏ ngầu của dòng Tiền Giang. Hết đợt bọt sóng
này tới đợt khác, nối tiếp nhau nhảy múa bên thành sắt của chiếc bắc làm tôi nhớ
tới sự biến thiên của thời cuộc. Tôi tự hỏi, những bọt sóng bắn tung tóe nhảy
chồm lên mặt nước trông thật đẹp mắt đó, khi chiếc bắc lướt qua rồi, nó sẽ đi về
đâu? Nếu không có chiếc bắc này chạy qua, thì đời sống của những bọt nước đó sẽ
là gì? Tự nhiên, tôi hình dung chiếc bắc này như con quái vật khổng lồ bằng
thép lạnh, từ đâu chồm tới, đang quấy động, cắt xén và làm xáo trộn cuộc
sống yên hàn của những chiếc bọt nước đang bình thản ngủ yên trong lòng sông dịu
hiền.
Từ suy nghĩ mông lung đó, tôi nhớ tới hoàn cảnh dân tộc Việt Nam của tôi. Với bản
chất hiền hòa và siêng năng cần mẫn, một nhóm người khởi nguồn từ châu thổ sông
Hồng ở miền Bắc, qua bao thế hệ nối tiếp, đã đổ mồ hôi và công sức lấn dần về
phương Nam, trên dải đất hình cong chữ S, chạy dài hơn hai ngàn cây số, cặp
theo bờ biển Đông. Đó là hình thể nước tôi, trên đó, dân tộc tôi quây quần bên
nhau và đầy tràn sức sống. Mồ hôi do công sức cần cù của bao thế hệ dân tộc đi
trước đã đổ ra, như dòng nước Cửu Long mang theo phù sa bồi đắp cho ruộng đồng
trở nên phì nhiêu màu mỡ. Nhưng dân tộc hiếu hòa đó, qua bao nhiêu giai đoạn của
lịch sử, đã nhiều lần bị xáo trộn, vỡ tung như con tàu sắt đang chà đạp, cắt
xén, phá vỡ sự yên hàn của dòng nước chảy ngược dưới chân tôi lúc này.
Từ ngày vừa có trí khôn, tôi đã chứng kiến chiến tranh kéo theo biết bao nhiêu
cảnh khổ nạn cho dân tộc tôi. Cho tới lúc này, sau hơn ba mươi năm, tôi chưa
lúc nào thấy dân tộc tôi được hạnh phúc. Vừa Pháp đô hộ, vừa Nhật chiếm đóng, cộng
thêm với sự hà khắc của các thế lực chính trị ở các phe, nạn cường hào ác bá và
ngay cả một số giáo sĩ cũng lợi dụng uy quyền tôn giáo và dựa thế chính quyền để
đè đầu, cỡi cổ dân chúng. Nhưng nặng nề nhất vẫn là chiến tranh, là bom đạn, là
nhà tan cửa nát, là tản cư, là máu đổ thịt rơi... Những người trực tiếp tham
gia cuộc chiến ở các phe đối nghịch không nói làm gì. Còn biết bao thường dân
vô tội, người già cả và trẻ thơ cũng đã chết oan. Bom đạn vô tình không chừa,
không tránh một ai.
Người nằm xuống đã yên phận hoàn thành kiếp sống, một số đông nạn nhân sống sót
chịu cảnh tật nguyền, phải kéo lê cuộc sống bên lề xã hội cho đến mãn đời. Tôi
thương biết bao cho những thương phế binh của cả hai phe lâm chiến. Cuộc chiến
tương tàn đã cướp đi một phần thân thể và khả năng con người của họ. Vì sinh ra
vào thời tao loạn, họ bị bắt buộc phải trở thành chiếc máy giết người mà một số
đông trong họ không biết lý do tại sao. Rồi một viên đạn, một mảnh bom vô tình
cắm vào thân thể, đã biến họ thành chiếc máy hư và bị vất vào xó của xã hội. Từ
đó, họ bị mọi người lãng quên. Thậm chí còn bị khinh dể vì thân thể họ tật nguyền,
mất khả năng về nhiều phương diện. Có người mất luôn khả năng tự nuôi sống
mình, phải trông cậy vào lòng nhân đạo của người khác trong kiếp sống của một
người hành khất ăn xin độ nhật, trên bắc, trên bến xe, trước cửa chợ và các nơi
dễ tìm gặp lòng nhân đạo như cửa nhà chùa, nhà thờ!
Cũng giống như dòng sông, có những lúc bị tàu thuyền khuấy động, cá nhân tôi
cũng như một bọt biển phù du. Từ ngày còn bé, lúc vừa có trí khôn, tôi đã sống
với chiến tranh, với chém giết, với tiếng bom đạn, và đặc biệt là với những xác
người chết. Có người bị chặt đầu, có xác bị mổ bụng thả trôi sông. Vừa biết nhận
diện cuộc đời, tôi đã thấy người ngoại quốc, da trắng có, da đen có, họ đi rảo
ruông một cách nghênh ngang và hách dịch trên quê hương tôi. Có điều tôi ghi nhận
rất sớm là không hiểu tại làm sao người Việt Nam của tôi lại có những người lúc
nào cũng rình mò tìm cách giết nhau, và họ giết nhau để làm gì? Họ giết nhau để
được ích lợi gì? Những thắc mắc đó tôi không thể nào giải đáp được, cho tới khi
lớn khôn, tôi hiểu là người Việt của tôi giết nhau, chủ yếu chỉ vì bất đồng tư
tưởng chính trị, mỗi người theo một chủ thuyết khác nhau. Thậm chí, còn có thảm
cảnh ngay trong một gia đình, anh em giết nhau, cha con tiêu diệt nhau, chỉ vì
tôn thờ khác chủ nghĩa.
Nhưng phải đợi tới khi có đủ sự hiểu biết về thời cuộc, tôi mới ghi nhận được hết
sự tác hại của những con tàu quái vật, quậy tung dòng nước êm đềm của dòng sông
dân tộc Việt Nam. Lúc tôi hiểu biết cuộc đời là lúc đất nước và dân tộc tôi bị
chia cắt làm đôi ở vĩ tuyến 17 thành hai miền Bắc và Nam, lấy sông Bến Hải
làm ranh giới. Miền Bắc tôn thờ chủ nghĩa cộng sản, miền Nam theo chủ nghĩa tự
do, và cứ thế, người ta lao đầu vào giết nhau một cách điên cuồng, không khoan
nhượng!
Điều vô cùng đau đớn hơn, là người Việt Nam tôi không ai đủ khả năng để nghĩ ra
các loại chủ thuyết đó. Có người đi vay mượn được ở xứ nào rồi mang về nhà cho
dân tộc dùng và coi đó như là một sự phát hiện vĩ đại. Tập đoàn những kẻ đi vay
mượn này, sau khi cướp được chính quyền, có thế lực trong tay, họ bắt tất cả
dân tộc Việt Nam phải chấp nhận và tôn thờ chủ thuyết có cái tên rất lạ tai. Ai
cưỡng lại hoặc tỏ ra không phù hợp với chủ thuyết đó là đồng nghĩa với tội
không yêu nước! Và kẻ nào không yêu nước, sẽ không đáng sống và không có quyền
sống!
Điều đau lòng hơn nữa là những ông chủ cho vay mượn loại chủ thuyết đó lại rất
đại lượng. Họ sẵn sàng cho mượn khá nhiều thứ. Trước tiên, họ cho mượn một cẩm
nang nhì nhằng những lý luận khó hiểu để giải tích công dụng của chủ thuyết như
là một thần dược vĩ đại nhất của trí tuệ con người có thể nghĩ ra để đưa nhân
loại tới một tương lai huy hoàng. Mặt đất sẽ trở thành một thứ thiên đường
hạ giới khi chủ thuyết đó ngự trị hoàn toàn trên các dân tộc. Khi đó, con người
sẽ sống trong thế giới đại đồng, làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu, không
bao giờ có cảnh người bóc lột người. Cửa nhà không cần khóa, của rơi ngoài đường
không ai nhặt. Vì tính cách ưu việt của chủ thuyết đó, nên nhân loại bắt buộc
phải đạt cho bằng được mục tiêu. Thế hệ này chưa được thì các thế hệ nối tiếp
phải hoàn thành. Nếu cần thì hy sinh đời bố củng cố đời con. Và người ta đã làm
như vậy.
Cuộc cờ người
Đồng thời với phần chữ nghĩa và lý luận, các ông chủ hào hiệp
kia còn cho mượn luôn bom, đạn, súng ống, đạn dược, xe tăng, máy bay, tàu chiến,
hỏa tiễn, tiền bạc và tất cả những gì có thể cho mượn được, kể cả người,để dân
tộc Việt Nam có đủ phương tiện giết nhau, giết càng nhiều càng tốt. Khi hai bên
đã đồng cân, đồng sức thì cuộc cờ giao đấu bắt đầu. Võ đài là mảnh đất
hình cong chữ S quê hương tôi.
Những người có quyền thế chơi cờ không cần có mặt tại chiến trường. Họ ngồi ở tận
đâu đâu để điều khiển những quân cờ người qua phương tiện thông tin hiện đại.
Trong các tay chhoi cờ, có những người cao to, tóc hoe mũi nhọn, ngồi tận bên
kia bờ đại dương, trong căn phòng có cờ nhiều sao và sọc, trong tòa nhà sơn màu
trắng gọi là Bạch Cung. Có những người thấp lùn, mặc áo cổ cao, ngồi trong căn
phòng đàng sau Thiên An Môn, cách Hà Nội không xa. Có những người ngồi tận xứ
Moscow giá lạnh, trong căn phòng chưng đầy cờ đỏ búa liềm. Những tay chơi cờ
người này vừa uống sâm-banh, miệng ngậm xì-gà, vừa đấu trí trong cuộc cờ người.
Những năm tháng kéo dài trong cuộc chiến trên quê hương tôi đã chứng tỏ họ là
những tay chơi cờ có máu lạnh. Họ thí quân không tiếc tay, một phần vì thích cảm
giác mạnh, phần khác, vì họ biết dân tộc Việt Nam của tôi có tỷ lệ sinh sản khá
cao!
Những năm đó cũng là cơ hội ngàn năm một thuở cho những kỹ sư chế tạo vũ khí ở
các nước mang ra thí nghiệm trên mảnh đất quê hương của tôi. Đau đớn thay! Dân
tộc tôi chưa có khả năng làm được một viên đạn, cho dù là viên đạn bằng chì để
bắn chim. Thế mà thân thể Mẹ Việt Nam của tôi, từ mấy chục năm qua, đã hứng chịu
không biết là bao nhiêu trăm ngàn, bao nhiêu triệu tấn bom đạn đủ loại và đủ
các nhãn hiệu của ngoại bang!
Thực ra, các cường quốc có dại gì mà không mang ra dùng thử các loại vũ khí mới
ở một đất nước xa xôi là vùng oanh kích tự do và vô tội vạ như xứ sở của tôi.
Người ta đã dùng thịt, máu và mạng sống của đồng bào tôi để trắc nghiệm và đo
lường tầm sát hại của các loại vũ khí mới. Bom đạn đó, chất độc hóa học màu da
cam đó, cho dù có giết chết hàng ngàn, hoặc hàng chục, hàng trăm ngàn hoặc hàng
triệu đồng bào tôi trong lúc này và gây hậu quả tàn khốc, tật nguyền dị dạng
cho nhiều thế hệ dân tộc tôi về sau, chưa chắc đã làm họ quan tâm cho bằng sự
kiện con chó trong nhà họ vô ý ăn hóc phải xương! Tôi đau lòng chảy nước
mắt ra và cổ họng tôi bị tắt nghẹn khi nhắc tới chuyện này.
Trong khi đó, về phía những người Việt Nam với nhau, tình cảnh cũng chẳng khá
gì hơn. Bom đạn ngoại bang là những vật vô tri vô giác và rất vô tình đã giết hại
đồng bào mình đã đành, nhưng đau đớn hơn nữa là nạn người Việt giết người Việt
không gớm tay. Khi bị “con ma” chủ nghĩa ngoại lai ám, nhiều người Việt Nam đã
trở thành những con ác thú cho đến đổi cắt cổ nhau, mổ bụng nhau, ăn gan, uống
máu nhau, vợ chồng đấu tố nhau, con cái đấu tố cha mẹ!
Thậm chí, người ta dùng xác chết để làm quà tặng nhau trong dịp đặc biệt mỗi
năm như ngày 19 tháng 5, là ngày sinh của ông Hồ Chí Minh. Ngày đó, ở miền Nam,
không biết là bao nhiêu những vụ giật mìn xe đò, xe lam giết hại thường
dân vô tội để làm quà sinh nhật cho ông. Tôi không nghĩ là ông Hồ Chí Minh thực
sự muốn những loại quà cáp đầy máu me và xác chết dân lành này, nhưng những kẻ
điên cuồng dưới trướng ông đã làm như vậy. Tôi nhớ lại mà lợm giọng những lần
đi xe ngang qua những đống sắt vụn cong queo còn lại của các xe đò hoặc xe lam
bị Việt cộng giật mìn, còn nặng mùi thối tha của thịt người mấy ngày sau đó.
Tôi phải lấy khăn tay bịt mũi vì mùi thối của xương thịt đồng bào tôi bị chính
đồng bào tôi giết ngay trên quê hương của tôi.
Để đạt tới mục đích làm sao cho chủ nghĩa ngoại lai được toàn trị, người ta
không từ chối một hành động ác nhân thất đức nào. Kể cả việc chà đạp lên truyền
thống thiêng liêng nhất của dân tộc. Tôi phải đau lòng nhớ lại cuộc tổng tấn
công Tết Mậu Thân năm 1968 của Việt cộng nhằm chiếm các tỉnh miền Nam. Tôi
không có can đảm nhắc lại những hậu quả ghê rợn, tan hoang của thảm cảnh Tết Mậu
Thân. Tôi không dám nhớ lại hình ảnh của hàng chục ngàn thường dân vô tội bị
trói tay dính chùm bằng dây điện và chôn sống tại cố đô Huế. Hình ảnh đó quá sức
chịu đựng của tôi. Ai cũng biết là làm gì có nhân đạo trong chiến tranh, nên việc
chôn sống người và cảnh nhà tan cửa nát cũng là hậu quả tự nhiên của cuộc chiến
tương tàn trên quê hương, tôi không muốn nói chuyện đó.
Tôi chỉ muốn nói rằng, những người Việt Nam chủ trương cuộc tổng tấn công Tết Mậu
Thân đó, đã chà đạp lên ngày thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam là
ngày TẾT, tôi xin được viết bằng chữ hoa in đậm. Họ đã biến ngày TẾT của Dân Tộc
thành ra ngày ĐẠI TANG của Dân Tộc. Trong lịch sử mấy ngàn năm của Dân Tộc
Việt Nam, ngày TẾT được người Việt Nam coi là ngày thiêng, ngày ĐẠI PHÚC của
Dân Tộc. Chỉ có TẾT MẬU THÂN 1968, có những kẻ vô tâm đã biến nó thành ĐẠI HỌA
của Dân Tộc. Lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ dành cho những con người
nàyï sự phán quyết cuối cùng.
Tôi muốn dùng chính máu trong tim tôi để viết lên câu này:
“TÔI CẦU MONG TẾT MẬU THÂN 1968 LÀ TRƯỜNG HỢP ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT TRONG LỊCH SỬ
DÂN TỘC VIỆT NAM. TÔI CẦU MONG TỪ NAY VÀ QUA MUÔN THẾ HỆ VỀ SAU, DÂN TỘC TÔI PHẢI
TÔN TRỌNG NGÀY TẾT LÀ NGÀY THIÊNG LIÊNG, LÀ NGÀY ĐẠI PHÚC CỦA DÂN TỘC. TÔI MONG
DÂN TỘC TÔI ĐỦ SÁNG SUỐT ĐỂ NHẬN BIẾT RẰNG , THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ NÀO RỒI CŨNG SẼ
QUA ĐI, CHỈ CÓ DÂN TỘC LÀ TRƯỜNG TỒN"
Tôi khẳng định, bất cứ một chế độ nào chà đạp lên hồn thiêng sông núi và giá trị
cổ truyền của Dân Tộc, thì không bao giờ có thể mang lại cái gì tốt đẹp cho Dân
Tộc được. Loại chế độ đó là kẻ thù của Dân Tộc. Bao lâu loại chế độ phi dân tộc
đó còn tồn tại là bấy lâu Dân Tộc còn điêu linh tan nát.
Từ suy nghĩ này tôi quay ra bực anh chàng
ăn xin lúc nãy. Sao anh lại nhẹ dạ chạy theo sự phù du của chính trị để nhai lại
những câu hát rẻ tiền mà đánh mất sự quý mến của bao nhiêu người đã từng nghe
anh hát và giúp đỡ anh trên chiếc bắc này trong nhiều năm qua. Tôi đứng lặng
yên, nhìn dòng nước mênh mong của dòng Tiền Giang, chép miệng nói một mình:
“Cơn sốt thời cuộc lúc này đang dâng cao quá, không biết bao giờ nó mới giảm
nhiệt độ.” Và cũng vì cơn sốt thời cuộc đó mà bây giờ tôi phải đứng đây,
và chưa biết chuyện gì đang chờ đợi tôi trước mắt.
Tỉnh cơn mê
Đứng nhìn trời, nhìn nước một lúc, tôi cảm thấy đỡ căng thẳng,
mùi nước sông và làn gió nhẹ mang theo hơi nước lạnh làm tôi cảm thấy dễ chịu.
Tôi ngửa mặt lên trời, hít một hơi dài cho làn khí trong lành ngập tràn hai buồng
phổi, và lui lại lần theo cầu thang leo lên từng trên và ngồi nơi một ghế ngay
cạnh đó, định bụng là để chốc nữa xuống cho dễ. Lúc đó tôi tự nhủ: “Phải bình
tĩnh trước những biến động, rồi cái gì cũng sẽ qua đi, nhưng phải có thời gian
cho mỗi việc”. Tôi nhớ lại thời gian ở họ đạo La Mã, lúc đầu, cơn sốt thời cuộc
cũng bốc lên như sóng cồn, nhưng sau một thời gian ngắn cũng xẹp đi. Nghĩ như vậy
nên tôi thấy yên tâm và tự nhiên thương anh chàng ăn xin lúc nãy đã hát bài Vọng
Cổ “cách mạng”. Tôi nghĩ rằng, chắc anh ta không cố ý chạy theo thời cuộc,
nhưng biết đâu loại bài hát có lời lẽ như vậy sẽ giúp anh kiếm ăn dễ hơn trong
lúc này.
Ngồi một chốc tôi đã thấy hàng quán phía cầu bắc Mỹ Tho dần dần hiện lên rõ
nét.
Hành khách bắt đầu nhốn nháo và đứng lên khi chiếc bắc giảm tốc độ và chuẩn bị
vào bến. Vừa định bước nhanh xuống tầng dưới để lấy xe Honda lên bờ, tôi chợt
nhớ ra có điều gì mình chưa làm. Thì ra, tôi nhớ tới số tiền định cho người ăn
xin có em bé gái dẩn dường, nhưng lúc nãy vì bực mình, tôi đã bỏ lại vào túi.
Tôi phải đến cho anh trước khi lên bờ.
Lúc này, luồng hành khách đông đảo chen nhau đang nhốn nháo bắt đầu dồn về phía
đầu cầu thang, trong khi tôi len ngược trở lại về phía người ăn xin và cô bé
đang ngồi ủ rũ trên một chiếc băng trống ở gần đầu kia. Anh ta chỉ hát và xin
tiền trong lúc bắc đang chạy, còn lúc này không còn ai để ý tới anh, tới giọng
hát của anh cũng như hoàn cảnh của anh. Tôi bước tới nhìn hai người và cảm thấy
thương tâm, nhất là khi nhìn vào chiếc rá nhỏ đan bằng mây cô bé đang cầm trong
tay để xin tiền, tôi thấy nó rỗng tuếch, chỉ lèo tèo vài tiền lẻ. Tôi vội cho
tay vào túi quần vơ hết số tiền lẻ lúc nãy đặt vào chiếc rá.
Cô bé lọ lem ngoái đầu lại trợn tròn đôi mắt to và đen ngước nhìn tôi thật lâu.
Lần đầu tiên, tôi thấy cô bé biểu lộ thái độ ngạc nhiên trên mặt. Tôi biết
không phải em ngạc nhiên về số tiền khá lớn mà tôi vừa đặt vào chiếc rá, mà có
lẽ ngạc nhiên vì tại sao lại có ông khách phá lệ cho tiền trong lúc bắc đang cập
bến như thế này. Tôi cảm thấy chưa yên tâm, và bằng một thái độ chuộc lỗi, tôi
đứng lại, lần tay móc bóp ở túi quần sau, lấy ra một số tiền giấy khá lớn và đứng
tại chỗ đếm. Tôi vô ý đứng chặn giữa lối đi hẹp của hành khách đang hối hả tiến
tới cầu thang. Một bà khá lớn tuổi và mập mạp bị cản đường bất ngờ, dùng cùi chỏ
hẩy tôi sang một bên, miệng càu nhàu: “Cái ông này vô duyên, tự dưng đứng cản
đường người ta!”. Tôi vội né sang một bên, ném vội số tiền vào rá của em bé rồi
bước theo đoàn người, vừa đi vừa cười thầm:“ Mình vô duyên thật, tự dưng lại đứng
cản đường người ta!”
Thành phố Mỹ Tho
Hành khách đi phà đông hơn tôi tưởng, lúc nãy tôi thấy họ ngồi
đầy cả hai tầng của chiếc bắc, lúc này tôi thấy càng đông hơn. Đoàn người từ cầu
bắc bước lên đông như trẩy hội. Tôi biết đa số trong đó là những người buôn bán
vì trên tay người nào cũng có giỏ xách căng phồng mà tôi không biết họ đựng gì
bên trong. Điều tôi biết rõ là lúc bấy giờ, có rất nhiều người đi buôn đủ các
loại mặt hàng. Thứ gì cũng có thể bán và mua được. Nhất là thuốc tây, vải vóc
và các loại đồ dùng trong nhà. Lúc tôi còn ở họ đạo La Mã, có mấy bà, mấy cô
trong họ đạo cũng đi buôn bán kiểu này và họ kể tôi nghe một ngàn lẻ một chuyện
về “mặt trận” đi buôn trong những tháng đầu sau khi cộng sản vào miền Nam. Họ kể
về mánh khóe những con buôn qua mặt các trạm kiểm soát, rồi trạm kiểm soát gài
bẫy bắt con buôn. Rồi con buôn tìm cách lòi tiền để được thả ra, rồi công an
tìm “mánh” bắt họ lại để tiếp tục làm tiền. Thôi thì hàng trăm hàng ngàn loại
mánh khóe, ai có ngón nào đưa ra sử dụng ngón đó.
Có lúc, tôi buồn cười nghĩ quẩn, có lẽ nhờ có thời thế này mà dân tộc Việt Nam
tự nhiên lại ‘‘khôn’’ ra, vì lúc nào đầu óc cũng làm việc và làm việc không ngừng
để tìm cách lừa đảo, mánh mung, dối gạt, phỉnh phờ và nói dối. Không dối
gạt nhau thì không có thể nào sống được! Nếu định luật về sự tiến hóa có cơ sở
thì dân tộc Việt Nam, nếu không có sự thay đổi nào khác hơn, càng về lâu về
dài, sẽ phát triển đến mức tối đa đầu óc gian manh lừa đảo do tích lũy di truyền
của thế hệ này để lại cho con cháu. Càng nghĩ, tôi càng đau lòng cho số phận
không may của dân tộc tôi đã phải rơi vào một giai đoạn lịch sử đen tối, trong
đó, người ngay thẳng và lương thiện không có chỗ để sống.
Sau khi lên bờ, thấy còn sớm, tôi cỡi Honda đi một vòng thành phố Mỹ Tho, nơi
mà tôi đã một thời đi học ở đây. Tôi lượn xe xuống cầu tàu, ngang vườn
hoa Lạc Hồng, bọc qua đường Trưng Trắc ở bờ sông, chạy qua cầu sắt quay
mà ngày còn đi học tôi hay đi qua. Thành phố Mỹ Tho cũng không đổi khác nhiều
sau một năm dưới chế độ mới. Chỉ có khác là bộ mặt thành phố bây giờ đượm vẻ u
buồn và dân chúng đang bước đi đầu cúi gầm âm thầm lặng lẽ. Khi rảo qua các phố,
tôi để ý thấy một số tên đường và trường học đã được đổi tên mới, những cái tên
rất lạ tai như Trừ Văn Thố, Mai Thị Non, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi...
Cái thiếu sót của tôi là lu bu nhiều chuyện quá nên chưa có giờ tìm đọc tiểu sử
các vị anh hùng có tên lạ tai này để biết sự nghiệp họ đã đóng góp cho dân tộc
Việt Nam như thế nào hầu bày tỏ lòng tôn kính với họ cho đúng mức.
Khi chạy xe trên đường Hùng Vương ngang qua trường trung học Nguyễn Đình Chiểu,
tôi sực nhớ lại cũng nơi này, năm 1961 lúc tôi học ở Mỹ Tho, có lần tôi suýt bị
mật vụ của Bác sĩ Trần Kim Tuyến hốt lên xe bít bùng trong một buổi sáng tôi
cùng anh bạn tới đây tìm một vị giáo sư. Không ngờ, hôm đó học sinh trong trường
rải truyền đơn chống chính phủ Ngô Đình Diệm, và vị giáo sư mà người bạn tôi muốn
tìm hình như có dính líu vào. Người bạn tôi bị bắt, tôi may mắn thoát được, vội
về nhà cuốn gói chuồn ngay về Vĩnh Long.
Hơn một tháng sau, tôi mới dám trở lại Mỹ Tho, tìm gặp lại người bạn
bị bắt lần đó. Tội nghiệp anh bạn, nước da anh xanh xao như tàu lá chuối và
không đứng dậy nổi vì bị tra tấn quá nhiều sau 15 ngày bị nhốt ở Ty cảnh sát Định
Tường. Thời đó, mật vụ của ông Ngô Đình Nhu do Bác sĩ Trần Kim Tuyến đứng đầu
ra sức ruồng bắt và tra tấn những người chống chế độ gia đình trị của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm. Hình ảnh những chiếc xe bít bùng cùng với những người công an
chìm đi lảng vảng trong các trường học, làm bọn học sinh chúng tôi khiếp
đảm.
Đường xưa lối cũ
Rời thành phố Mỹ Tho, tôi theo con đường tráng nhựa hai bên
có những vườn mận sai trái dẫn ra ngã ba Trung Lương. Loại quả mộng nước, to cỡ
như trứng gà, có vị vừa chua vừa ngọt, bên trong có mấy hạt bằng đầu ngón tay
út, người Bắc gọi là quả roi, người Nam chúng tôi gọi là trái mận. Vùng này mận
ngon có tiếng, chẳng những nhờ giống đặc biệt mà còn nhờ vào phong thổ của vùng
đất bồi sông Tiền Giang nữa. Các hành khách trên xe, khi có dịp dừng lại một
nơi nào gần đây, cũng thường mua một ít mận Trung Lương để thưởng thức hương vị
của đặc sản vùng này.
Chạy không bao lâu đã tới ngã ba Trung Lương, nằm trên Quốc lộ 4, nối liền Sài
Gòn với các tỉnh miền Tây trù phú của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tôi rẽ trái
về hướng Vĩnh Long, gia đình tôi ở một làng quê thuộc quận Vũng Liêm trong tỉnh
này.
Lúc này nắng đã lên cao, tôi đưa tay trái lên kéo quai chiếc nón ny-lon trên đầu
cho thật chặt để khỏi bay. Đi xe gắn máy mà đội loại nón này khá bất tiện
vì rất dễ bị gió giật tung về phía sau, nhưng vì thời cuộc mà tôi phải
dùng nó. Trước kia, khi đi xe gắn máy, tôi thường đội mũ lưỡi trai, rất gọn nhẹ,
ôm sát vào đầu và không cần có quai dưới cằm. Mũ lưỡi trai vừa che được gió khỏi
tạt vào mặt, vừa tránh được ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào mắt. Nhưng từ hôm
tôi bị mấy anh du kích chận lại trên đường từ Bến Tre về giáo xứ La Mã, mạt sát
tôi một hồi rồi giật cái kết “đồi trụy của thằng Kỳ” ném xuống đất, từ
đó, tôi không còn đội loại kết "đồi trụy" nầy nữa, vì tôi không muốn
những việc rắc rối không cần thiết xảy ra, trong khi cuộc đời tôi trong giai đoạn
này tự nó đã có nhiều rắc rối với những người có quyền thế trong chế độ mới
này.
Đoạn đường tráng nhựa trên Quốc lộ 4 này tôi đã đi lại nhiều lần, và đã ghi lại
trong tôi rất nhiều kỷ niệm về nó. Nhớ lại mới vài năm trước đây, công binh Mỹ
làm lại con đường nối liền Sài Gòn và các tỉnh miền Tây nầy, rất đẹp và rộng
rãi. Một hãng thầu Mỹ có tên RMK-BRJ mà tôi cũng không biết viết tắt của những
chữ gì, cũng đã xây dựng lại hai cây cầu quan trọng trên tuyến đường này là cầu
Bến Lức và cầu Long An, trên đoạn đường từ Sài Gòn xuống ngã ba Trung Lương.
Từ một năm qua, khi về làm cha sở họ La Mã, tôi cũng có dịp đi lại trên đoạn đường
này khá nhiều lần, nhưng không chú ý lắm về tình trạng của nó. Lần này, sau khi
bánh xe bị sụp một ổ gà lớn, tôi giật mình và chợt nhận ra con đường bây giờ đã
xuống cấp khá nặng. Thỉnh thoảng, có mấy ổ gà sâu trên mặt đường tráng nhựa,
vài chỗ bị sụp lún xuống, tạo nên nhiều đường nứt, chỗ dài, chỗ ngắn, báo hiệu
tình trạng hư hại nặng nề tiếp theo nếu không kịp thời tu bổ. Sở dĩ con
đường này bị sụp, một phần vì ở đây là vùng đất ruộng, được ủi lên để đắp làm
móng làm đường, nên chân không chắc chắn như vùng đồi núi. Hơn nữa, trong thời
chiến tranh, các loại xe tăng và xe có dây xích sắt chạy tự do trên lộ đã cày
tróc nhựa trên mặt đường tại khá nhiều nơi. Theo tôi nhớ, từ ngày công binh Mỹ
làm đường tới nay quảng 6 hay 7 năm rồi, nhưng chưa có lần nào con đường được
tu bổ hoặc có dấu hiệu là sẽ được tu bổ.
Đoạn đường 150 cây số từ Sài Gòn tới Vĩnh Long có ba địa điểm đáng chú ý mà
không một hành khách nào không biết qua, đó là cầu Bến Lức, cầu Long An và bắc
Mỹ Thuận. Cũng từ các địa điểm đó lại có tình trạng “kẹt cầu” và “kẹt bắc”.
Việc kẹt bắc thì khỏi phải nói, vì đây là con đường huyết mạch nối liền Sài Gòn
với các tỉnh miền đồng bằng sông Cửu Long, xe cộ và người đi lại lúc nào cũng tấp
nập, nên hệ thống bắc đưa xe qua con sông rất rộng là Mỹ Thuận, luôn luôn là một
vấn đề nan giải và đầy trở ngại. Ngoài bắc Mỹ Thuận ra, còn những bắc khác sau
khi qua khỏi tỉnh Vĩnh Long, như bắc Cần Thơ nối Vĩnh Long- Cần Thơ, bắc Vàm Cống
nối Sa Đéc-Long Xuyên, và bắc Cao Lãnh đi từ Sa Đéc qua Kiến Phong, Cao Lãnh.
Riêng hai chữ “kẹt cầu”, có từ thời hai cây cầu sắt do người Pháp xây là cầu Bến
Lức và cầu Long An. Hai cây cầu này có lối kiến trúc giống nhau, nhưng cầu Bến
Lức dài hơn cầu Long An khá nhiều. Thời đó, cầu hẹp và yếu nên chỉ cho xe chạy
một chiều. Vì xe bên nầy chạy thì bên kia phải dừng lại chờ, nên có tình trạng
kẹt cầu. Kẹt cầu và kẹt bắc có nhiều bất tiện cho hành khách, nhưng lại có lợi
cho nhiều người dân trong vùng, nhờ đó, họ có thể bán thức ăn, hoa quả... Những
người ăn xin cũng kiếm sống được nhờ tình trạng ứ đọng giao thông này.
Riêng ở hai bên bờ của bắc Mỹ Thuận, cách Vĩnh Long 9 cây số, hàng quán rất sầm
uất và nhiều người tới đây lập làng, làm ăn phát đạt, có người trở nên giàu có
nhờ vào tình trạng kẹt bắc ở đó. Đây cũng là một triết lý về sự “tương đối” của
cuộc đời, cái bất tiện của người này lại là cái may cho người khác! Cảnh kẹt cầu
ở Long An và Bến Lức cũng giúp cho một số người buôn bán và ăn xin, nhưng không
phát đạt lắm vì xe kẹt không lâu, chừng nửa tiếng là cùng, nên chỉ kịp buôn bán
thổ sản gọn nhẹ như khóm, mận, mí ghim, hoặc thức ăn đơn giản như bánh mì thịt,
cơm dĩa, nem chua....
Chuyện một chiếc cầu
Vì lượng lưu thông quá lớn của xe cộ, hàng hóa và người trên
Quốc lộ 4 này, nên mỗi khi gặp trở ngại lưu thông thì đúng là một thứ tai họa
như thời gian cầu Bến Lức bị Việt cộng giật mìn phá sập. Trong những lần về
quê, tôi phải đi qua đây và có dịp chứng kiến “tai họa” này của dân chúng đi đường.
Lúc bình thường, khi cây cầu sắt dài nhất trên Quốc lộ 4 này còn đứng vững, đã
có tình trạng kẹt cầu rồi, nói chi lúc nó bị giật sập xuống!
Cầu Bến Lức đứng vững để làm chức năng phục vụ xe cộ và hành khách đã lâu lắm rồi.
Hình ảnh chiếc cầu sắt có lối kiến trúc chằng chịt và có hai móng cao thật hùng
vĩ, từ xa người ta đã nhìn thấy hình ảnh oai hùng của nó vươn trên bầu trời
xanh. Nhưng sau khi bị Việt cộng giật sập mất một nhịp ở đoạn giữa, từ xa nhìn
tới, thấy cây cầu trở nên rất thảm hại! Ngày trước nó đẹp đẽ bao nhiêu
thì lúc này trông nó xấu xa, kỳ dị giống như hàm răng sún của một người khổng lồ
đang nhe ra, mất đi hai chiếc răng cửa! Nhưng tôi không có ý bàn về thẩm mỹ ở
đây, tôi muốn nói chuyện khác, chuyện về cảnh khốn nạn mà đồng bào tôi phải
gánh chịu do hậu quả gây ra bởi cây cầu Bến Lức bị Việt cộng giật sập lúc đó.
Sau khi một bàn tay xương xẩu, có các móng tay dài bên trong đầy đất cát như những
cái đầu người nhỏ tí đang đội nón đen đó, ấn nhẹ cái chốt. Một tiếng nổ long trời
lở đất vang lên từ một nơi cách đó khá xa. Tiếng nổ này là kết quả của bao
nhiêu chất xám của những cái đầu tuy nhỏ nhưng tinh ranh, đã mày mò nghiên cứu
trong một thời gian khá lâu. Tiếng nổ ấy đã gây ra hai hậu quả rất thảm hại.
Tác hại thứ nhất và trước mắt về phần vật chất, là một nhịp của cây cầu sắt rơi
xuống, chìm sâu dưới đáy sông Bến Lức nước đang chảy thật xiết.
Tác hại thứ hai là về con người, tuy lúc nổ chỉ thiệt hại vài nhân mạng một số
nhỏ những người lính canh cầu, nhưng tiếng nổ đó đã gây ra một vết thương quá lớn
trong đời sống của đồng bào, nhất là những đồng bào ở miền Tây. Từ sau tiếng nổ
của Việt cộng phá cầu đó, cuộc sống người dân trong vùng và sinh hoạt của họ từ
đó về sau đã trở thành những “tiếng nổ phụ” tiếp liền theo.
Cảnh tượng cầu Bến Lức sau đó, giống như cảnh một đám tang vĩ đại kéo dài hàng
tháng trời. Ngày nào cũng có hàng mấy trăm chiếc xe đủ loại cùng với hàng chục
ngàn người đứng lố nhố ở hai bên bờ sông như đưa đám tang chiếc cầu chôn xuống
lòng sông sâu nước chảy. Cái khác ở đây là những người đưa đám ma này, không mặc
đồ đen và âm thầm cúi đầu cầu kinh như thường thấy ở các đám tang khác.
Ngược lại, đám đông hàng chục ngàn người này lại ăn mặc đủ loại màu sắc, tay
xách nách mang, bồng con, bế cháu và di chuyển không ngừng! Họ không yên lặng
như các đám tang khác mà ồn ào, náo nhiệt như cảnh chợ trời. Tiếng người gọi
nhau ơi ới, tiếng trẻ con kêu khóc, tiếng gà vịt kêu cạp cạp từ các giỏ đan sơ
sài bằng những thanh tre họ mang trên vai, cộng với những tiếng kêu trời xen
vào với loại ngôn ngữ họ dùng để bày tỏ sự bực tức những kẻ phá hoại chiếc cầu.
Những ngôn ngữ đó, tôi nghĩ là tốt hơn không nên ghi lại ở đây!
Một lần nọ, tôi qua Bến Lức trong một cơn mưa lớn. Nước mưa làm cho con đường dẫn
tới bờ sông trở nên bùn sình, ngập lên tới mắt cá chân. Có vài chiếc xe chở
khách đang trở đầu bị lún bánh, cố rướn lên làm bùn non bắn tung tóe vào đoàn
người rất đông đang tấp nập đi về hướng bờ sông. Dọc hai bên bờ sông Bến Lức nước
đang chảy xiết, cây cỏ đã bị giẫm nát, lẫn vào với bùn sình lầy lội. Người ta
chen lấn nhau, tranh giành nhau để leo lên những chiếc xuồng máy của dân chúng
đang chờ sẵn để đưa qua bờ bên kia với giá cắt cổ. Cảnh tượng này trông như một
đoàn quân chiến bại đang cố chen lấn để trèo lên những chiếc thuyền chạy
ra biển thoát thân.
Tuổi thơ thời chiến
Trong cảnh nhốn nháo đó, tôi chợt nghe tiếng khóc thét
của một em bé gái chừng 5,6 tuổi, đang ngồi bệt xuống trên một vũng bùn của con
đường mòn còn cách bờ sông một quãng khá xa. Tôi không biết em bé đó mặc đồ gì,
chỉ biết là em bị ướt như con chuột lội nước và bùn đất bám đầy từ đầu tới chân
em, chỉ chừa ra hai con mắt cũng đang ướt đẫm. Em bé khóc thất thanh trong lúc
người đàn bà còn trẻ mà tôi biết là mẹ em cũng mình ướt như chuột lột, trên tay
đang bế một đứa bé trai chừng hai tuổi cũng đang khóc thét, một tay bà mẹ kéo
cô bé đứng dậy đi. Nhưng có lẽ em không còn sức để bước đi nữa, nên đánh liều
ngồi bệt xuống bùn rồi muốn ra sao thì ra.
Người đàn bà trẻ kéo con lên không được nên bực mình, cúi người đặt cái giỏ
xách trên vai xuống mặt đất bùn sình. Trong giỏ có hai con vịt đang ló đầu ra
cũng đang kêu thất thanh cạp... cạp... cạp... Người mẹ giận tát em bé gái đang
ngồi bệt trong bùn một tát tai và giật mạnh cánh tay bé xíu của em bắt đứng dậy
đi! Cô bé bị đòn càng khóc tợn hơn và nhất định ngồi lỳ không chịu đứng lên,
làm người mẹ càng tức thêm, nên giật tay cô bé rất mạnh làm tôi tưởng cánh tay
nhỏ xíu đó sẽ bị sứt ra và rời khỏi thân hình dính đầy bùn đất của em. Bên cạnh
đó, đoàn người vẫn bước đi một cách vội vã hướng về bờ sông dưới cơn mưa tầm
tã.
Tôi đang dẫn xe gắn máy đi lẫn lộn trong đoàn người. Nhờ có khoác áo mưa nên
người tôi không bị ướt, nhưng nước mưa táp vào mặt làm mờ cả đôi kính và thỉnh
thoảng tôi phải gỡ ra lau vào lần áo khô bên trong. Nhìn cảnh bé gái đang giằng
co với mẹ, tự nhiên tôi thương em. Tôi biết là không phải em không muốn đi,
nhưng vì đường sá lầy lội, mưa to quá và em đã bị té nhiều lần, nên không còn sức
để bước nữa. Càng bị mẹ đánh và kéo lên, em càng bày tỏ sự phản kháng mãnh liệt
và quyết tâm ngồi lỳ xuống đất đầy bùn sình như một vũng trâu nằm.
Theo hành động của trực giác, tôi vội chống chân xe xuống bên vệ đường, chỗ có
đất cứng, và bước tới bên hai mẹ con cô bé lúc này đang giằng co nhau dữ dội,
không ai chịu thua ai. Tôi vừa đi vừa lần cởi nút áo mưa trên cùng, để lộ chiếc
cổ áo trắng của y phục giáo sĩ tôi đang mặc. Tôi bước tới, chuẩn bị cúi xuống bồng
em bé lên, vừa nói với bà mẹ:
- Chắc là cháu mệt lắm, để tôi giúp chị một tay lo cho cháu.
Người đàn bà trẻ, mặt đầy nước nôi, tóc trết lại từng lọn nhỏ, bùn văng lấp tới
đầu gối, chợt nhìn tôi, mở to mắt ngạc nhiên không nói gì. Tôi hiểu chị đang lo
lắng, nên nói tiếp:
- Chị đừng lo, tôi là một Linh mục, thấy chị quá bận rộn với hai cháu bé
nên tôi muốn giúp chị một tay.
Nghe tôi tự giới thiệu là một Linh mục, chị bèn nhìn vào cổ áo tôi cố ý để hở.
Nét mặt chị dịu lại sau cái nhìn đó, chị bày tỏ sự yên tâm qua câu nói:
- Con cám ơn cha! Cháu bé bước đi không nổi cha ạ!
Tôi vừa bồng cô bé lên, vừa nói lời trấn an:
- Nín đi con, đừng khóc nữa, chú giúp cho con.
Lúc đầu, cô bé tỏ vẻ sợ người lạ, nhưng nhìn thái độ của mẹ đang đứng kế bên,
cô bé yên tâm để cho tôi bế lên. Tôi ôm lấy thân hình đầy bùn đất và đang run bần
bật của cô bé. Tôi cố ý ôm sát vào lòng cho cháu đỡ lạnh và bước lại chiếc xe
Honda đang dựng gần bên, trước cặp mắt quan sát chăm chú của người mẹ. Tôi đặt
em ngồi trên bình xăng xe, bảo em nắm thật chặt tay lái xe kẻo ngã và tôi quàng
tay qua bên kia, giữ em ngồi yên, rồi hạ chân xe xuống, dẫn đi bên cạnh người mẹ
trẻ đang ẵm bé trai và đeo cái giỏ có hai con vịt đang kêu cạp cạp. Tôi không
biết mấy tiếng kêu này của loài vật có bày tỏ sự bất mãn nào như tiếng rủa sả của
loài người trước cảnh khổ cực này hay không!
Cô bé lúc này đã nín khóc, nhưng mặt em nước vẫn chảy dài, cả nước mưa lẫn nước
mắt, tự nhiên tôi thương cô bé hết sức, thương cho số phận trẻ thơ sinh ra
trong thời chiến. Chừng ấy tuổi đầu đã nếm mùi gian khổ của người dân trong đất
nước đang có những người lớn gầm gừ chực giết nhau và tìm hết mọi cách để làm
khổ nhau. Có lẽ em cũng cảm thấy yên tâm khi có linh cảm là tôi không làm gì hại
em, nhưng giúp em vượt qua được quãng đường lầy lội dẫn xuống bờ sông. Quãng đường
này, đối với người lớn đã là dài và khó khăn, nói gì tới đôi chân bé nhỏ của em
bé 6 tuổi, nhất là giữa cơn mưa tầm tã như thế này.
Tôi chợt mỉm cười, nhớ lại lúc nãy, người đàn bà trẻ gọi tôi bằng tiếng “cha",
thực ra tôi chưa phải là Linh mục, tôi còn đang là một chủng sinh và phải một
hoặc hai năm nữa, tôi mới có thể thụ phong Linh mục, nhưng chủng sinh đại chủng
viện và Linh mục cùng có sắc phục như nhau, nên khi tôi tự giới thiệu là Linh mục,
chị ta gọi tôi là cha. Tôi nghĩ cũng chẳng cần phải đính chánh làm gì trong
hoàn cảnh này. Thì giờ đâu mà đứng đó giải thích thế nào là một chủng sinh Đại
chủng viện, thế nào là một Linh mục và họ khác nhau ra sao! Điều cần nhất là chị
tin tưởng để tôi có thể giúp chị và cháu bé là được rồi.
Vừa đun xe, tôi vừa cúi xuống sát bên tai cô bé hỏi:
- Con có lạnh không?
Cô bé quay lên nhìn tôi bằng đôi mắt thiên thần, không trả lời, nhưng gật đầu
khá sâu.
Không hiểu tại sao, cái gật đầu của em làm nước mắt tôi tự nhiên tràn ra hòa lẫn
với nước mưa chảy dài xuống ngực. Tôi để cho hai dòng nước mắt rơi tự nhiên và
cúi đầu yên lặng đun xe trong lúc một em bé xa lạ đang ngồi trên bình xăng,
thân hình bé nhỏ đầy bùn đất của em đang run nhẹ trong vòng tay che chở của
tôi. Người mẹ trẻ bước đi kế bên tôi một cách vất vả với đứa bé trên tay và cái
giỏ có 2 con vịt trên vai. Thỉnh thoảng chị xốc nách lại đứa con trai ẵm trên
tay. Cháu bé lúc này đã hết khóc và cả hai con vịt cũng không còn kêu nữa. Có lẽ
lúc nãy, em bé trên tay và hai con vịt cũng lên tiếng phụ họa với cô bé ngồi
trên bùn, bây giờ cô nín thì phía kia cũng yên, một phần chắc cũng nhờ
cơn mưa lúc này đã nhẹ hạt dần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét