Tôi phải sống 2
Thế giới mới
Con đường từ bắc Mỹ thuận lên Sài Gòn ngang qua ngã ba Trung
Lương, qua cầu Long An, cầu Bến Lức... cảnh nào đối với tôi cũng lạ mắt. Sau
khi qua ngã ba Trung Lương tôi thấy đoàn xe lửa thật dài chạy cặp theo đường lộ
xe hơi, đây là xe lửa đầu tiên tôi được trông thấy. Khi tới cầu Bến Lức, bị kẹt
xe khá lâu vì phải chờ xe bên kia qua cầu. Lúc dừng xe có rất nhiều cô gái bán
khóm đã gọt sẵn và bổ thành từng miếng, có chén muối ớt bên cạnh. Khi có người
mua thì cô gái dùng cái que nhỏ cũng làm bằng cùi khóm để quét muối ớt lên miếng
khóm rồi trao cho khách. Bà khách ngồi kế bên tôi cắn miếng khóm có xát muối ớt
làm nước từ miếng khóm chảy ra ướt xuống tới cầm, bên này nước dãi tôi cũng
tuôn ra cuồn cuộn Tôi quay đi nhìn ra hướng khác vừa nghĩ giá mà thầy Quý mua
cho tôi một miếng khóm chắc tôi thích không còn gì bằng, nhưng tôi không hỏi
xin thầy!
Khi xe chạy vào Chợ Lớn và sau cùng vô Sài Gòn ngừng tại bến xe Petrus Ký, tôi
thực sự bị choáng ngộp. Tôi không thể nào tưởng tượng Sài Gòn lớn lao, tưng bừng
náo nhiệt đến như thế. Nào người, nào xe, nào hàng quán. Lúc nhìn thấy thế tôi
tự hỏi không biết còn có nơi nào trên mặt đất này to lớn và đẹp như Sài Gòn hay
không. Khi chuẩn bị xuống xe, thầy Quý dặn tôi lúc nào cũng phải đi bên thầy vì
sợ tôi bị lạc. Vừa bước xuống, tôi thấy có người tới mang valise của thầy lên
xe nhỏ đậu gần đó, tôi tưởng đó là người nhà mang xe đón và đó là xe của thầy,
tôi nghĩ: "Thì ra thầy của mình giàu quá mà mình không biết”.
Trong lúc ngồi xe, thầy chỉ tôi Dinh Độc Lập, Nhà thờ Đức Bà, sở thú Sài Gòn, cầu
Thị Nghè, đó là 4 nơi tôi biết đầu tiên khi vừa đặt chân tới thủ đô Sài Gòn mà
người ta gọi là Hòn ngọc Viễn Đông này. Chừng qua tới cầu Sơn bên kia Thị Nghè,
xe rẽ trái vào chủng viện Xuân Bích, thầy trò xuống xe, thầy móc bóp trả tiền
và xe chạy, tôi hỏi, thầy cho biết đó là Taxi. Tôi biết Sài Gòn có xe Taxi từ
lúc đó.
Sau khi thầy Quý lo một vài công việc, gần trưa chúng tôi về nhà người chị của
thầy ở Xóm Mới, quận Gò Vấp. Vô tới nhà và được nghỉ ngơi, tôi mừng vô hạn vì
khi đi được một đoạn đường thì hai bàn chân tôi bị quay giày săn-đan cọ rách
da, chảy máu . Hai bên ngón chân út cũng bị mềm nhũn như hai trái chối chín và
chảy máu đau đớn quá chừng. Thật không gì khổ cho bằng mang giày lần đầu. Nếu hồi
sáng, lúc cởi được cái quần “vòi voi’’ ra coi như bỏ được của nợ thì lúc
này cởi được đôi săn-đan ra tôi coi như cởi được hai cái gông cùm.
Chiều hôm đó trong nhà làm cơm có món ốc bưu xào với chuối xanh và lá tía tô. Lần
đầu tiên tôi mới biết món người Bắc này và ăn rất ngon miệng. Lối sống của
người Bắc có những cái rất hay. Năm 1954 khi người Bắc di cư vô Nam có một số
khá đông về tạm cư trong họ Bưng Trường và cũng có mấy gia đình ở trọ nhà tôi,
nhưng lúc bấy giờ tôi còn nho,Ư chưa biết nhiều về người Bắc, lúc đó nghe giọng
nói hơi khác lạ, tôi lại tưởng họ là người nước nào tới không phải là người Việt
Nam. Thầy Quý có người cháu trai tên là Hán, anh lớn hơn tôi 3 tuổi và đang học
lớp đệ tứ. Hán sang chơi với tôi và suốt trong thời gian tôi ở Sài Gòn anh đưa
tôi đi đây đó. Có điều buồn cười là người Nam chúng tôi đọc chữ ‘‘Hán” ra chữ
“Háng”, nên tôi không dám gọi tên anh, chỉ gọi là anh Ba, theo cách gọi của người
Nam. Lúc đó tôi lại nghĩ thầm: “Sao anh Ba có cái tên kỳ quá! người miền Nam
chúng tôi chẳng bao giờ có người tên là Hán cả!”
Đêm đó tôi ngủ ngon vì thức trọn đêm trước và đi đường xa mệt, cộng với bàn
chân bị đau như dần. Sáng ngày thức dậy đã thấy anh Ba ngồi đợi để đưa tôi đi
chơi. Thức dậy, tôi nghe hai bàn chân ê ẩm và đau nhức mặc dù mấy chỗ rách da
chảy máu hôm qua đã đóng mày đen. Tôi biết không thể nào mang săn-đan được, nên
cúi xuống sàn giường định tìm đôi giày gói giấy cất đi, đợi khi nào chân hết
đau sẽ mang. Chừng cầm đôi san-đan lên thì hỡi ôi! Đêm qua con chuột chết tiệt
nào đã đánh mùi máu tới cắn đứt hết các chỗ có dính máu trên quay săn-dan. Tôi
nhìn đôi giày mới toanh bị đứt hết các quay nằm há mồm dưới đất nhìn lên cách
đau khổ khiến tôi vừa tiếc của, vừa buồn cười lại vừa giận con chuột ‘‘rủa thầm:”
“Mẹ, con chuột khốn kiếp!Ông mà rớ được mầy, ông bẻ cho mầy gãy không còn cái
răng!”Từ đó Hán cho tôi mượn đôi guốc và tôi mang guốc suốt những ngày tôi đi dạo
phố ở thủ đô Sài Gòn.
Nhờ có Hán dẫn đi chơi, tôi được vào thăm khá nhiều nơi như sở thú, chợ Bến
Thành, Nhà thờ Đức Bà, Bến Bạch Đằng, trường đua Phú Thọ, hội chợ Thị Nghè...
và nhiều nơi khác nữa. Trong dịp đó tôi được trông thấy Tổng thống Ngô
Đình Diệm đi duyệt binh trong ngày Quốc khánh 26 tháng 10 và cũng chứng kiến cảnh
người ta chen nhau chạy sau khi cây cầu nổi bắt ngang sông Thị Nghè trong dịp hội
chợ bị sập trong đêm làm khá nhiều người bị chết đuối. Tôi cũng ghi nhớ cảnh sở
thú Sài Gòn và những giống thú mà từ xưa giờ chỉ được coi trong hình. Điều này
làm tôi vô cùng thích thú vì ngoại trừ con voi là tôi đã có dịp thấy qua trong
lần những người bán thuốc cao đơn hoàn tán cỡi voi tới chợ Mai Phốp quảng cáo
thuốc, ngoài ra tôi chưa bao giờ thấy qua các giống thú lạ và to như sư tử, cọp,
gấu, beo, cá sấu...
Tô phở đầu đời
Cũng trong dịp đi Sài Gòn đó, tôi được Hán dẫn đi ăn tô phở lần
đầu tiên trong đời. Tôi còn nhớ buổi sáng hôm đó Hán chở tôi trên xe đạp tới
nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở đường Kỳ Đồng. Sau khi viếng nhà thờ, chúng tôi
ra bên ngoài rào nhà thờ, nơi có một xe bán phở bên lề đường, gần bên có mấy
cái bàn nhỏ và thấp với mấy cái ghế gỗ nhỏ xíu cao hơn mặt đất chừng
10 phân mà miền Nam chúng tôi gọi là ghế bán cá, tức là các bà bán cá ngoài chợ
thường dùng. Hán gọi hai tô phở tái. Khi tô phở mang ra cùng với đĩa rau có ít
ngò gai, húng quế và chanh, ớt... tôi nghe mùi thơm rất lạ và hấp dẫn mà lần đầu
tôi mới được biết. Vừa ngửi mùi là nước miếng tôi bắt đầu ứa ra, trong khi Hán
giúp tôi các thủ tục trước khi ăn phở. Anh biểu diễn một cách thành thạo nhưng
chậm rãi các động tác như nhặt gò gai, húng quế, vài cọng giá sống phủ
lên mặt tô phở đang nghi ngút khói, không quên vắt miếng chanh vào.
Tôi tưởng như thế đã xong vì lúc này nước miếng tôi đã gần đầy trong miệng và
tay phải tôi đã cầm sẵn đôi đũa tre như một kiếm sĩ cầm giáo nơi tay sẵn
sàng chiến đấu. Đôi mắt tôi mở to đang theo dõi từng động tác nhỏ nhất của đôi
tay Hán. Tôi đã mất hết kiên nhẫn của một thằng bé nhà quê lần đầu tiên được ngửi
hương thơm của một món ăn đầy hương vị mà cả đời chưa bao giờ được nếm qua,
nhưng Hán lại quá vô tình không hiểu được tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đang chờ đợi
anh ban hiệu lệnh: "Rồi đó Lễ, ăn đi em” thì ngược lại anh ta dừng
tay ngước lên bắt gặp đôi mắt của tôi đang mở to gần bằng... tô phở đang nhìn …
tô phở, anh hỏi:
- Lễ có ăn được ớt không?
Tôi chẳng để ý nghe câu hỏi của anh vì lúc bấy giờ tất cả tâm trí tôi đang vướng
bận về chuyện khác. Tôi vội trả lời một câu mà sau này mỗi lần nhớ lại tôi vẫn
còn cảm thấy xấu hổ:
- Xong chưa anh? Em không cần gì đâu, em ăn như vậy được rồi!
Tôi ấp úng câu nói đó trong khi cố giữ không cho nước miếng tràn ra khỏi
miệng nhưng Hán vẫn vô tình không hiểu điều đó. Có lẽ vì Hán nghĩ là ai cũng
như anh đều có thể “bình thản” trước một tô phở tái mới vừa bưng ra đang bốc
mùi tỏa hương thơm ngào ngạt.
Sau câu trả lời lạc đề đó của tôi, tôi tưởng là cuộc tra tấn đã chấm dứt, nào
ngờ Hán vừa từ tốn đặt miếng võ chanh lên mặt bàn, vừa cho tay vào túi quần tây
lôi ra chiếc khăn tay màu cháo lòng đã nhàu nát và cẩn thận chùi đi chùi lại
các ngón tay còn dính mấy tép chanh chỉ to bằng con kiến, vừa rề rà giải thích
cho tôi biết là ăn phở phải có tí ớt mới “sướng!”. Trong khi anh đang say sưa với
bài giáo khoa nhập đề khá dài về cách ăn một tô phở, nhưng không một tiếng nào
lọt được vào tai tôi, tôi liếc nhìn qua chiếc bàn con bên cạnh thấy một cô gái
trạc bằng tuổi tôi ngồi một mình đang xì xụp chiến đấu với tô phở bốc khói, mặc
dù cô bé gọi phở sau chúng tôi. Thỉnh thoảng cô bé đưa khăn tay lên xì mũi có lẽ
vì ăn phải ớt. Cảnh này càng làm tôi thêm sốt ruột!
Lúc này tô phở của tôi vẫn còn bị Hán giam giữ trước mặt anh và nằm sóng đôi với
tô phở của anh chưa qua “thủ tục” ngò gai, húng quế.... Tôi bực mình nhìn vào mặt
của Hán, thấy anh ta thật đáng ghét vì tật nói dai. Lúc bình thường đi chơi với
tôi, khi cần giải thích về khung cảnh Sài Gòn cho tôi nghe thì anh lại câm như
hến, không hiểu mắc chứng gì mà lúc này anh lại nói, và còn nói dai nữa. Rồi cuối
cùng Hán cũng ban cho tôi một ân huệ khi anh đẩy tôi phở qua trước mặt tôi sau
khi cẩn thận nhét chiếc khăn tay phải gió của anh vào túi quần.
Tôi đưa cả hai tay ra, run run đón lấy tô phở có phủ lớp rau bên trên mà tôi biết
là sẽ rất ngon mặc dù tôi chưa nếm qua. Lúc này tôi chẳng còn để ý tới những gì
chung quanh, thế giới của tôi bây giờ bị thu nhỏ lại chỉ to bằng ... tô phở
tái. Tôi kéo dịch cái ghế bán cá lại gần chiếc bàn cho đúng tầm, và không
kịp đưa tay làm dấu thánh giá như thói quen từ nhỏ tôi được dạy là bao giờ cũng
phải làm dấu trước khi ăn, tôi cúi xuống kề miệng vào thành tô húp một chút nước
súp của tôi phở. Một cảm giác đê mê chạy rần vào thân thể sau khi đầu lưỡi tôi
chạm với loại nước súp ngon một cách lạ lùng này. Nếu có ai nhìn sẽ cười tôi về
cử chỉ kề môi húp phở đó. Thật ra không phải vì tôi quá thèm mà ăn uống cách bất
lịch sự như vậy, nhưng vì lúc đó trong miệng tôi đã đầy nước miếng nếu tôi mở
miệng sẽ tràn ra ngoài nên lý do tại sao tôi kê môi vào húp thẳng vào tô
phở đó chỉ có một mình tôi biết và tự tha thứ cho chính mình. Ngụm nước súp là
tôi hừng chí! Vừa định cho đũa vào tô phở chợt tôi lại nghe cái giọng đáng ghét
của Hán từ bên kia bàn:
- Ấy! Lễ, anh chưa cho tương, từ từ đã! Đợi anh cho tương vào. Ăn phở mà không
có tương, mất hết vị.
Tôi bị chặn lại trong giây phút bất ngờ nhất nên vừa bực mình vừa xấu hổ nhưng
đành phải rụt tay lại ngồi chờ trong khi Hán đưa tay với lấy cái ống bằng nhựa
to bằng cổ tay, đen sì sì và đầy cáu ghét nằm ở góc bàn. Trên miệng ống có cái
vòi rỗng ruột như cây đinh ở đầu được cắt bằng, lộ ra một cái lỗ nhỏ bằng cây
tăm mà tôi biết đó là cái lọ đựng tương. Hán với tay ngang bàn cầm dốc ngược lọ
xuống chỉa cái vòi vào tô phở của tôi và bóp phần trên cái lọ nhựa trong sự chờ
đợi đã mất hết kiên nhẫn của tôi.
Hán cứ bóp… bóp… và bóp mãi nhưng không có mộ thứ gì chui ra khỏi cái lỗ ở đầu
chiếc vòi. Cuối cùng chỉ có tiếng gió xì xì vọt ra , thì ra lọ tương đã rỗng tự
bao giờ. Hán có vẻ thất vọng, lộ chút bực mình và có lẽ cũng vì mất mặt với tôi
nên trút cơn giận lên bà chủ đang lúi húi ở chiếc xe phở , đang có mấy người
khách bao vây. Hán cao giọng:
- Bà chủ này! Tương đã hết thì còn để lọ đây làm gì? Dẹp đi! Cho lọ tương khác
đi.
Giọng của Hán rõ ràng là mất lịch sự, như muốn ra lệnh. Nhưng người đàn
bà dường như không nghe hoặc là cố ý không nghe, trong khi đôi tay của bà hết
chụp cái này bốc cái khác liên hồi trên chiếc xe bán phở nhỏ nhưng đông khách.
Không thấy hồi âm, giọng Hán chuyển sang một cung cao hơn:
- Bà chủ! Còn tương không? Cho một lọ đi chứ, tôi gọi bà không nghe à?
Bà chủ vẫn cúi đầu và bận rộn với số khách đang đứng gần nhìn hau háu vào đôi
tay thành thạo của bà đang chuẩn bị các tô phở cho họ. Thấy tình thế có vẽ căng
tôi nói với Hán:
- Thôi kệ đi anh, ăn phở không có tương cũng được mà! Mất vị chút có sao đâu.
Vừa nói tôi vừa xỏ đũa vào tô phở đang nằm trước... miệng, trong tư thế mời gọi
gọi vô cùng hấp dẫn. Hán vội đưa tay chận tay cầm đũa của tôi lại:
- Không, chờ tí nữa, có ngay ấy mà. Ăn phở mà không có tương còn ra gì!
Một lần nữa tôi bị khựng lại. Lúc này tôi nghĩ không phải vì Hán câu nệ vào tô
phở có tương hay không, nhưng có lẽ vì anh muốn ăn thua đủ với bà chủ hàng phở
không để ý lời anh gọi xin tương đã hai lần. Có lẽ thấy ngồi tại chỗ không
ăn thua, Hán đứng lên bước thẳng lại xe và xẵng giọng nói với bà chủ:
- Bà chủ cho tương đi. Tôi gọi hai lần rồi bà không nghe à!
Người đàn bà trẻ đang bận tay không quay lại nhưng nói nhẹ nhàng:
- Cậu làm ơn coi bàn nào có lấy hộ tôi. Tôi đang bận tay quá, cậu thông cảm.
Mấy người khách đang đứng bên quay lại nhìn Hán. Nghe nói thế Hán nhìn quanh và
bước lại bàn có cô bé ngồi một mình lúc nãy. Anh làm hiệu xin mượn lọ tương, cô
bé đang ngồi xỉa răng mỉm cười và gật đầu.
Vừa gắp miếng phở đầu tiên vào miệng tôi nghĩ trong lòng: “Lạy chúa tôi ơi!
trên đời này còn có món gì ngon như thế này nữa hay không”? Lúc đó tôi chợt
nghĩ chắc là ngày xưa các vua chúa và những người giàu sang quyền quý nhất trên
đời lúc nào cũng ăn phở. Ăn phở 365 ngày trong năm! Và lạ lùng thay, tô phở mà
tôi ăn khi ngồi bệt xuống trên chiếc ghế bán cá sát mặt đất bên lề đường Kỳ Đồng
đó là tô phở ngon nhất mà sau này dù có ăn phở ở đâu tôi cũng không bao giờ có
lại được cái cảm giác tuyệt vời như thế.
Những cuộc ‘‘họp báo’’
Sau một tuần lễ ở Sài Gòn, tôi trở về quê một mình trong khi
Thầy Quý ở nán lại thêm mấy hôm. Trên chuyến xe về tôi vẫn mặc chiếc
quần sọt duy nhất đó, chân mang guốc vì đôi săn-đan mới mua và mang chỉ có một
lần đã “bỏ xác’ ở Sài Gòn. Tôi cũng tiếc cho đôi giày mới nhưng khi nghĩ là
chuyến đi Sài Gòn đó đối với tôi thật quý báu không gì sánh bằng, nên dù có mất
đôi giày cũng chẳng có gì là thiệt thòi. Vả lại tôi chỉ cần mang giày cho chuyến
đi, còn chuyến về này thì cần gì, mang gì chẳng được, có đi chân đất cũng không
sao vì về tới quê là tôi lại bắt đầu đi giày da, nhưng là da của hai bàn chân
mình!
Khỏi phải nói, khi nhập học lại sau kỳ nghỉ Quốc Khánh năm đó, tôi tự nhiên trở
thành “trung tâm của Mai Phốp!” Đám bạn trong lớp cả trai lẫn gái vây quanh tôi
hỏi chuyện. Tôi đã ‘‘họp báo’’ hàng tháng trời nhưng vẫn còn chuyện nói về chuyến
đi Sài Gòn và đám bạn cứ há hốc mồm ra ngồi nghe, thái độ của các bạn càng làm
tôi hừng chí nói hăng hơn. Những cuộc ‘‘họp báo’’ như vậy tôi đã dợt trước với
nhóm bạn chăn trâu với tôi ở Cầu Đá rồi. Tôi cố gắng kể lại thật chi tiết và
trung thực những gì tôi nghe và thấy trong chuyến đi lịch sử. Chỉ có chỗ nói về
sở thú Sài Gòn và mấy con thú như sư tử, cọp, gấu thì tôi cố ý nói
nó...to hơn một chút cho tụi bạn ngán chơi. Thí dụ như con sư tử to bằng
con bê thì tôi nói bằng con... bò nhỏ! Mặc dù con bò nhỏ và con bê cũng là một
nhưng tôi có cảm tưởng khi nói con bò nhỏ nghe như to hơn con bê! Tôi cũng kể với
nhóm bạn học là tôi có coi chiếc tàu chiến rất lớn là tàu "Saint Paul” của
Mỹ cặp bến Bạch Đằng trong dịp lễ Quốc Khánh, và khi Tổng thống Ngô Đình Diệm
xuống thăm thì tàu có bắn 21 phát đại bác chào mừng. Có đứa con gái chen vào hỏi:
- Chiếc tàu chiến lớn như thế nào hả Lễ?
Thật tình tôi cũng chẳng biết nó lớn như thế nào, nhìn qua ngó lại tôi
nói:
- Nó lớn như cái nhà thờ kia kìa!
Đứa con gái nghe vậy lè lưỡi tỏ vẻ kinh ngạc, trong khi tôi tự hỏi là tôi so
sánh như vậy có thực sự đúng không. Một chiếc tàu chiến của Mỹ thì lớn
hay nhỏ hơn cái nhà thờ, tôi cũng không biết nhưng lúc đó chỉ có cái nhà thờ là
lớn nhất trong làng nên tôi dùng nó để so sánh. Có vậy thôi!
Hai vị Linh mục
Cuối năm 1957, cha Lê Vĩnh Trình, sau 17 năm ở họ đạo Mai Phốp
được đổi đi về coi xứ đạo Cái Bông trong tỉnh Bến Tre và cha Nguyễn Văn Tỏ từ
Trà Ôn về thay. Sự thay đổi này vô tình cũng đã ảnh hưởng tới cuộc đời tôi rất
nhiều, cả về mặt tôn giáo lẫn việc học hành.
Cha Trình và cha Tỏ khác nhau về nhiều phương diện. Sự tương phản quá nhiều về
con người và lối sống của hai vị Linh mục mà tôi biết đầu tiên trong đời này đã
để lại trong tôi những ấn tượng rất sâu xa. Cha Lê Vĩnh Trình như tôi đã nói là
con người oai phong lẫm liệt, thân hình chắc nịch, thích chơi bóng đá, dáng đi
đường bệ, lối sống thượng lưu quý phái theo kiểu tây. Lúc đó cha
Trình tóc bạc hoa râm và húi cao, đầu chải rẻ ba và tôi thấy chú Út Thông
ở gần nhà thờ tới cắt tóc cho cha Trình mỗi tuần một lần đúng vào chiều thứ Bảy.
Vì lớp học của tôi nằm ngay sau nhà bếp của cha Trình nên tôi thấy và nhớ rất rỏ
việc đó. Vả lại lúc bấy giờ mỗi lần thấy như vậy tôi còn thầm nghĩ: “Ông này có
phước thật, được vò đầu cha Trình là người tôi sợ như ông trời!” Những lúc
không mặc áo chùng đen thì ngài vận đồ sọt, nhìn vào đã thấy khỏe mạnh và oai vệ.
Ngược lại cha Nguyễn Văn Tỏ gầy còm, ốm yếu như một người đàn bà không đẹp, có
thân hình mỏng, tóc đen và dài chải ngược về sau nhìn từ xa như lúc nào cũng đội
bê rê đen! Chẳng những thế, ngài còn bị chứng bệnh thịt dư trong mũi, và cách
quãng chừng 5 phút một lần phát ra âm thanh rất lạ 4 tiếng đi liền nhau từng
đôi một“khẹt khẹt... khẹt khẹt”, sau đó đưa khăn tay lên xì mũi một thôi một hồi!
Ngay từ lúc đó tôi đã nghe người ta gọi ngài là “cha Tỏ khẹt!”, dĩ nhiên
là chỉ gọi sau lưng ngài. Cha Tỏ bước đi nhanh nhẹn và nhẹ nhàng thư thái như một
dáng đi con mèo. Lúc nào không vận áo chùng thâm thì là chiếc áo khẩu đen và quần
lãnh theo kiểu các Mệ người Huế. Cha Trình ra khỏi giáo xứ bằng một đoàn xe hơi
và rất nhiều người đưa tiễn, cha Tỏ cỡi xe máy dầu tới nhận xứ. Khi tới họ đạo
Mai Phốp này, cha Tỏ mang theo gia đình ông từ Quan với mấy đứa con trai trạc bằng
tuổi tôi. Ông từ Quan và những đứa con của ông cũng bệ rạc không kém gì ông chủ
của họ. Nói tóm lại, hai vị linh mục này là biểu tượng điển hình của sự oai vệ
và sự yếu đuối. Chính vì thế tôi không ngạc nhiên khi thấy sự tương phản về lối
sống và tư cách và lối hành xữ công việc của hai con người nắm quyền uy tôn
giáo trong họ đạo tôi sống lúc bấy giờ. Việc này có ảnh hưởng tai hại tới đầu
óc của một chú bé 14 tuổi như tôi.
Điều làm tôi ngạc nhiên tới sửng sốt là ngay trong ngày Chúa Nhật đầu tiên sau
khi về nhận họ đạo, tôi đã nghe cha Tỏ lên tòa giảng đả kích cha Trình một cách
thậm tệ và công khai không cần úp mở! Cha Tỏ nói cha Trình ra đi đã vơ vét hết
của cải trong họ và cả bàn ghế trong nhà xứ! Giọng cha Tỏ rất bực tức, càng bực
tứ thì càng "khẹt khẹt... khẹt khẹt.” nhiều hơn. Đó là một bài giảng rất
hùng hồn của cha Tỏ để cổ vũ cho sự... lỗi đức bác ái!
Mấy ngày sau tôi thấy xuất hiện những chiếc ghế đai vô cùng quái dị được ghép bằng
những tấm ván sù sì của các thùng đựng sữa, đóng đinh vào rồi đưa ra ngồi! Những
chiếc ghế “dã chiến” này được thay thế hết những chiếc ghế đẹp trong nhà cha sở
và hàng ghế giữa trong nhà thờ dành cho Ban Quới Chức. Có nhiều người khách khi
tới thăm cha Tỏ ra về bị rách quần vì những cây đinh lởm chởm còn sót lại trên
mặt “ghế” trong nhà cha. Lúc đó, tôi chưa biết được các việc của Linh mục
với nhau nhưng cách cha Tỏ hành động có ý hạ bệ cha Trình đó tôi thấy nó tác hại
cho chính cha Tỏ trước tiên, kế đó nó tác hại cho tôi và tôi nghĩ là cho rất
nhiều người.
Kế đến là việc có liên quan trực tiếp tới tôi trong lần cha Tỏ xuống thăm học
sinh của trường trung học Minh Đức chúng tôi mấy ngày sau khi về làm cha sở. Vì
biết trước cha Tỏ rất hận cha Trình, mà trường trung học này là công sức của
cha Trình gầy dựng nên thầy Quý đã cẩn thận căn dặn chúng tôi phải tỏ ra lễ
phép và kính trọng cha Tỏ đúng mức để cha còn thương và lo cho trường học. Thầy
cũng nói cho những học sinh nào chưa biết cha Tỏ là ngài có tật khẹt khẹt vì có
thịt dư trong mũi, đừng có lấy làm lạ vì chuyện đó và nhất là đừng có cười!
Quãng 3 giờ chiều, học sinh cả hai lớp đệ thất và đệ lục chừng hơn một
trăm, chen chúc đầy trong phòng học lớn và nôn nao đợi thầy Quý và thầy
Công hướng dẫn cha sở mới vào. (Lúc này thày Công xuống dạy thay cho thầy Huấn
đã về lại Sài Gòn) Nhìn ra, tôi thấy cha Tỏ mặc áo khẩu đen, quần lãnh, chân
mang dép, có hai thầy đi bên cạnh trong cung cách khép nép và cố gắng bày tỏ sự
kính nể cha sở mới. Khi cha Tỏ bước vào lớp, chúng tôi vỗ tay chào mừng.
Thầy Quý mời cha hiệu tưởng bước lên bục, hai thầy đứng bên dưới. Thầy Quý thay
mặt học sinh toàn trường chào mừng cha hiệu trưởng mới và xin cha thương, lo lắng
cho học sinh. Thầy Quý nói ngắn gọn và thành khẩn. Khi cha Tỏ vừa đáp lời thì
tai nạn xảy ra! Khi ngài vừa nói được mấy lời thì "khẹt khẹt...khẹt
khẹt...!" Trong khung cảnh trang nghiêm đó bọn học sinh chúng tôi không đứa
nào nhịn cười được! Tôi đưa tay lên bụm miệng cố gắng nín cười, ngó qua thấy
nhiều đứa cũng làm như tôi, có đứa còn dùng răng cắn môi dưới thật chặt trong
khi đôi vai đang run mạnh vì sự dồn nén của cơn buồn cười.
Lúc đó thầy Quý tái mặt đi và nhìn chúng tôi trừng trừng mặc dù môi thầy cũng
đang chúm chím cười nhưng cố nén xuống. Từ thầy tới trò ai cũng biết lúc bấy giờ
cười là tự sát nên bằng mọi giá phải... nuốt xuống. Nhưng khổ nỗi, con vi trùng
cười rất thích tấn công vào khung cảnh trang nghiêm. Hình như lúc đó con vi
trùng cười đã xâm nhập và làm chủ toàn bộ hệ thống thần kinh của hơn trăm học
sinh và 2 thầy giáo của chúng rồi, nên sau đợt “khẹt khẹt...khẹt khẹt” thứ hai,
cả đám chúng tôi vụt phá lên cười ầm ĩ. Cả thầy Quý là người đã căn dặn
chúng tôi đừng cười, bây giờ cũng cười, thầy Công cũng cười mà có vẻ còn cười dữ
dội hơn bọn học sinh chúng tôi. Cha Tỏ phẫn nộ quát: “Thôi! Đủ rồi!” và bước xuống
bệ ra khỏi lớp đi thẳng trở lên nhà xứ!
Cha Tỏ vừa ra tới sân, trong này chúng tôi tự nhiên im bặt. Thầy trò tái mặt đứng
chết trân nhìn nhau một giây rồi lại... phá lên cười! Lần này thì trận cười
càng dữ dội hơn, thoải mái hơn to tiếng hơn và hình như ai cũng nghĩ là đàng
nào thì tai nạn cũng đã xảy ra nên cười một trận cho nó đã để tống ra hết những
con vi trùng cười tự nãy giờ đang gậm nhấm tâm can và làm chúng tôi tức ruột
không chịu được. Thầy Quý mặt mày méo xệch, đưa tay gỡ kiếng ra lau nước mắt vì
cười, thầy Công cũng làm vậy và trong bọn học sinh chúng tôi cũng nhiều đứa đưa
tay quệt nước mắt vì hậu quả của trận cười muốn vỡ cả bụng vừa rồi.
Phải mất chừng 15 phút sau, trong lớp mới chấm dứt tiếng cười cuối cùng.
Thật là một tai nạn khủng khiếp vừa xảy ra nhưng thầy Quý không trách chúng tôi
được vì chính thầy cũng cười. Sau khi được trận cười no nê, thầy Quý kêu chúng
tôi ngồi yên để nhận định tình thế và tìm phương cứu chữa. Tôi thấy thương cho
thầy Quý lúc bấy giờ bị lâm vào tình trạng quá khó khăn khi thầy chọn ra 5 em
trong đám học sinh để cùng với thầy làm thành một “phái đoàn” lên xin lỗi cha sở!
Tôi cũng được thầy chọn vào thành phần phái đoàn, có lẽ vì tôi cười hăng nhất.
Khi phái đoàn sứ giả ra đi, tự nhiên tôi liên tưởng tới phái bộ ... Phan Thanh
Giản được vua Tự Đức cử đi qua Pháp xin chuộc lại 6 tỉnh miền Tây hay miền Đông
Nam Phần gì đó trong bài học lịch sử mà lúc đó tôi còn nhớ lõm bõm chỗ đặng chỗ
mất. Không hiểu tại sao lúc đó tôi lại nghĩ sứ mệnh của phái bộ Phan
Thanh Giản lại dễ dàng hơn công việc của phái bộ... Bùi Sinh Quý! Khi “phái bộ”
chúng tôi lên gần tới nhà xứ, trống ngực tôi đánh liên hồi, vì ngoài nhiệm vụ
khó khăn trước mắt, tôi còn rất hồi hộp khi sắp được bước vào một ngôi nhà mà
suốt thời cha Trình còn ở đây tôi chưa được bước chân vào bao giờ mặc dù chính
tay tôi, cùng với các học trò, đã ôm không biết bao nhiêu gạch đá để xây
ngôi nhà đó. Ngôi nhà cha sở được xây trên một nền bằng đá xanh khá cao và
chúng tôi bước lần theo các bậc tam cấp lên tiền đường.
Sau khi hàng ngũ chỉnh tề, thầy Quý cầm cái chuông nhỏ lắc ba tiếng rồi bỏ
chuông xuống đứng chờ. Lúc bấy giờ con muỗi bay ngang cũng nghe được và trong
lòng tôi nghĩ lần này thì cha Tỏ “khẹt khẹt” như lúc nãy hoặc hơn thế nữa
chúng tôi cũng không cười, hay đúng hơn là không còn có sức để cười nữa. Một
lúc sau cha Tỏ từ trong nhà bước ra trên mặt vẫn còn phảng phất cơn tức bực. Thầy
Quý nói lời xin lỗi, cha nói: “Được rồi, chúng con về đi, cha đang mệt muốn
nghỉ một chút. Khẹt khẹt!”. Thế là phái đoàn chúng tôi ra về tay không.
Cảnh chợ chiều
Từ sau biến cố đó không bao giờ cha Tỏ bước chân xuống trường
chúng tôi nữa, mặc dù ngài vẫn là hiệu trưởng ký tên trong giấy tờ nhà trường.
Mấy tháng sau, Thầy Quý từ giã chúng tôi ra đi và trở về Sài Gòn, mặc dù thầy
không nói nhưng tôi hiểu được lý do sự ra đi của thầy. Lòng tôi buồn vô hạn khi
phải chia tay với con người có mặt từ đầu và có công rất nhiều với ngôi trường
Minh Đức. Ngoài ra thầy Quý còn là bõ đở đầu của tôi, thầy rất thương tôi và để
lại trong lòng tôi một kỷ niệm nhớ đời, đó là việc thầy dẫn tôi đi Sài Gòn lần
đầu tiên.
Công ơn thầy Quý, tôi ghi nhớ mãi vì chính thầy đã đưa tay dìu tôi bước vào ngưỡng
cửa cuộc đời, và là người đầu tiên cho tôi cơ hội nhìn ra chân trời rộng hơn
cái thế giới nhỏ hẹp của một làng quê mà cho tới năm 14 tuổi tôi vẫn còn vị
đóng khung trong đó. Khi cha Trình đổi đi, tương lai của ngôi trường Minh Đức
trở nên u tối. Sau biến cố “cười”, ngôi trường trở nên buồn thảm. Khi Thầy
Quý ra đi, ngôi trường bắt đầu tê liệt vì vài tháng sau thì số học sinh đã rút
lui gần phân nửa, một số bỏ học, về quê làm ruộng, một vài người lên tỉnh tiếp
tục học. Riêng trong gia đình tôi, lúc đó người anh kế tôi phải bỏ học, tôi được
gởi lên tỉnh Vĩnh Long tiếp tục nửa năm sau của lớp đệ lục tại trường trung học
tư thục Nguyễn Trường Tộ do cha Nguyễn Ngọc Quang, cha sở Nhà thờ Chánh tòa
Vĩnh Long làm hiệu trưởng.
Về số phận trường Minh Đức, thời gian sau khi thầy Quý ra đi, trường hoạt động
vá víu và ảm đạm như cảnh chợ chiều. Cuối cùng chuyện phải tới đã tới, trường
đã phải chính thức khai tử sau hai niên khóa 56-57 và 57-58, lúc đó tôi đang học
tại Vĩnh Long. Mặc dù ngôi trường Minh Đức yểu mạng, chỉ thọ được 2 tuổi
nhưng cũng đã giúp cho một số trẻ con trong làng bước lên ban trung học là ngưỡng
cửa của tương lai. Một trường trung học ở tỉnh hay ở thành phố, tự nó đã có giá
trị huống gì một trường trung học ở nhà quê lúc đó phải coi đó là một ân huệ.
Sau này lớn lên, làm gì và ở đâu tôi cũng nhớ mãi hình ảnh thân yêu của ngôi
trường Minh Đức, công ơn của cha Lê Vĩnh Trình, của thầy Quý và các thầy và các
bạn học trong thời trẻ đó.
Hai vị Linh mục Lê Vĩnh Trình và Nguyễn Văn Tỏ để
lại trong tâm trí tuổi trẻ tôi những ấn tượng khó quên. Bên ngoài tất cả những
việc làm và cá tính của hai người, điều tôi thấy rõ nhất là cả hai vị đầy uy
quyền và khiến dân chúng khiếp sợ. Nhất là với đám trẻ con như tôi lúc đó. Điều
đáng nói hơn là cả hai vị hay đánh trẻ con và điều này càng làm tôi khiếp đảm
và sợ phải đi nhà thờ nhiều hơn! Cha Trình đánh trẻ con khi “có tội” như ăn cắp
trái cây, chọi me, trốn học, đánh nhau hoặc có lỗi gì nặng... còn cha Tỏ đánh
trẻ vì tâm tính bất thường mang tính cách bệnh hoạn và điều này ngay từ nhỏ làm
tôi sợ nhưng không phục ngài. Thí dụ như đánh trẻ con khi tập giúp lễ, hoặc khi
trẻ con quay ngang quay ngửa trong nhà thờ. Cha Tỏ cấm trẻ con vào nhà thờ quay
mặt ra sau khi có tiếng động, và có mấy lần khi bọn học trò chúng tôi ngồi đầy
nhà thờ thì cha Tỏ từ phía sau đập bàn đập ghế la hét ... Đứa nào quay lại nhìn
thì bị tát tai!
Riêng về cha Lê Vĩnh Trình, phải nói là tôi sợ không có thể nào tưởng tượng được.
Với cặp mắt ngô nghê của một đứa trẻ nhà quê như tôi nhìn lên hình ảnh như một
vị thần của cha Trình đã là một điều kinh hãi. Thấy ngài đi từ xa đã né
tránh đừng nói chi tới sự việc như tôi nhớ lại dưới đây.
Lúc bấy giờ tôi 11 tuổi và đang đi học ở Mai Phốp. Những buổi sáng sớm theo
đoàn người đi Lễ và sau đó ở lại học tới chiều mới về nhà ở Cầu Đá. Cha Trình
có thói quen ngồi tòa giải tội những buổi sáng sớm trước giờ làm lễ và đợi chờ
giáo dân tới. Lúc đó trong nhà thờ yên lặng, yên lặng hoàn toàn. Một buổi
sáng nọ, tôi ngồi chung với mấy học trò bên nam trong lúc cha Trình đang ngồi
tòa phía bên nữ. Ngồi lâu buồn ngủ và lúc gió chẳng nghĩ ngợi gì, tôi ngáp.
Nhưng khổ nỗi không phải là cái ngáp thông thường và lịch sự nhưng là cái
ngáp thoải mái và đầy vẻ khoái cảm! Tôi ngửa đầu ra sau, đưa hai tay lên
trời ngoác mồm to hết cỡ và phát ra tiếng ngáp kéo thật dài vang dội cả nhà thờ:
“Oooààààmmm”!!. Vừa ngáp xong tôi mới giật mình biết là tai họa sắp xảy
ra khi tôi nhìn qua thấy cha Trình bật đứng dậy như cái lò xo và bước nhanh hết
tốc lực đi ngang giữa nhà thờ và hướng về phía ‘‘có tiếng động’’! Tôi nghe người
bị điện giật một tiếng “bưng!” mặt nóng rần, các lỗ chân lông hở ra to
như tàn ong, một chút nước tiểu rỉ ra quần!
Bình thường tướng đi cha trình tôi đã khiếp vía thì nói gì tới dáng đi của ngài
đến xử tội của tôi lúc đó. Vì ở cách khá xa bên kia và học trò ngồi khá đông
nên ngài không biết đứa nào nên dừng lại trên tôi 4 dãy ghế và quát to
như tiếng sấm gầm:
- Thằng nào?
Tôi thấy mấy đứa chỉ xuống chỗ tôi. Cha Trình đi lần xuống ghế tôi. Ngồi
bên ngoài là chú Út Hữu của tôi, sau đó là tôi và mấy đứa khác. Lúc đó tôi chẳng
còn biết mình là ai, mặt tôi không còn chút máu, người run bần bật như cầy sấy
vì lần đầu tiên trong đời tôi mới được chứng kiến cơn thịnh nộ của cha Trình đối
với... tôi! Ngài dừng lại ngay đầu hàng điểm mặt chú Út Hữu quát:
- Thằng nào?
Chú Út Hữu quay ngang dùng ngón tay trỏ của bàn tay phải chỉ vào tôi nói:
- Thằng này!
Vừa nghe thế tôi vội ngã ngửa người ra nằm dài trên ghế vung cả 4 vó lên trời
như con ếch mắc vào lưỡi câu la lên một tiếng to còn hơn tiếng ngáp lúc nãy ầm
lên cả nhà thờ:
- Hổng phải con Ông Cố ơi!
Tôi vừa la vừa tống ra quần tất cả chỗ nước tiểu nãy giờ tôi cố giữ lại trong
người. Cha trình hỏi tiếp theo:
- Vậy thằng nào?
Tôi mếu máo đáp vừa chỉ lên trên:
- Mấy đứa trên con không biết Ông Cố ơi.
Nghe thế, cha Trình lại đi về phía trên và điểm mặt cả đám nghiến răng nói:
- Chúng con chết nghe chưa!
Nói xong cha bỏ đi. Tôi mừng như người vừa chết đi sống lại. Tôi lảo đảo đứng dậy
bước ra khỏi nhà thờ như người vừa qua cơn trúng gió nặng. Quần cụt đen của tôi
ướt đẫm, nhưng vũng nước tiểu trong nhà thờ chắc không ai thấy vì lúc đó chỉ có
một chiếc đèn măn-xong gần trên cung thánh, không đủ soi chỗ chúng tôi ngồi.
Sau này, tôi trách chú Út Hữu:
- Sao lúc đó chú lại chỉ con?
Chú cười hề hề trả lời:
- Thì mầy ngáp tao nói mầy ngáp chớ sao?
Tôi bực mình nói:
- Con oán chú cả đời về cái vụ này!
Chú lại cười và nói:
- Mầy oán rồi làm gì được tao?!
Thiệt tình tôi giận cái ông chú này kinh khủng!
Bước đầu lên tỉnh
Cuộc đời tôi một lần nữa lại biến đổi với môi trường xa lạ ở tỉnh. Thời gian đầu
tôi ở trọ chung với mấy bạn từ Mai Phốp lên Vĩnh Long học trước tôi vài tháng.
Sau đó tôi ở trọ với anh thứ Ba của tôi đi lính và ở trong trại gia binh của Tỉnh
đoàn Bảo An Vĩnh Long, thời Đại úy Phạm Ngọc Thảo làm Tỉnh đoàn trưởng Bảo an
đoàn. Tôi còn nhớ khá nhiều chi tiết về hình dạng và lối sống của vị sĩ quan
này. Đại úy Phạm Ngọc Thảo lúc bấy giờ có lẽ ngoài 30 tuổi, dáng người
cao nhưng gọn và đẹp trai. Tướng ông lý tưởng cho một cầu thủ bóng đá hoặc bóng
chuyền vì chiều cao của ông. Tóc ông lúc nào cũng húi ngắn đúùng phong cách nhà
binh. Ông đi đứng chậm rãi và trang nghiêm. Tôi không nhớ được nụ cười của ông
vì hình như tôi chưa hề thấy ông cười bao giờ.
Điểm đáng chú ý nhất nơi Đại úy Phạm Ngọc Thảo là ông có một mắt lé rất nặng
(tiếng miền Bắc là “lác mắt”) , và đây là điểm phá tướng của ông. Khi nhớ về
ông, tôi vẫn thầm tiếc cho ông và nghĩ thầm giá mà ông Thảo không bị lé mắt chắc
ông sẽ là người đàn ông đẹp trai lý tưởng. Nói về uy quyền thì lúc đó Đại úy Phạm
Ngọc Thảo là nhân vật số ba trong tỉnh sau Giám mục Ngô Đình Thục và Tỉnh trưởng
Khưu Văn Ba. Lúc bấy giờ tôi có nghe nói ông Phạm Ngọc Thảo là người phía “bên
kia” ra đầu hàng với chánh quyền Ngô Đình Diệm, qua trung gian của Linh mục
Nguyễn Ngọc Quang, lúc bấy giờ là cha sở nhà thờ Chánh Tòa Vĩnh Long để nhờ giới
thiệu với Giám mục Ngô Đình Thục để xin đầu hàng.
Ông Phạm Ngọc Thảo đã dò đúng mạch và tôi tin là đã được nghiên cứu rất kỷ.
Giám mục Ngô Đình Thục tin dùng Thảo và cho ông dạy học một thời gian trong trường
trung học Nguyễn Trường Tộ của nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long. Sau đó một thời
gian ông được đồng hóa vào cấp bậc Đại úy trong quân đội và làm Tỉnh Đoàn Trưởng
Tỉnh Đoàn Bảo An Vĩnh Long. Tôi không biết gì về vai trò Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo
An của ông Thảo nhưng đời sống tôn giáo của ông làm tôi chú ý. Đại úy Phạm Ngọc
Thảo là người đạo đức hiếm có và tất cả những gia đình quân nhân trong trại gia
binh này đều ca tụng và truyền miệng nhau về lòng đạo đức của ông mà người
ta gọi cách thân thương là "Đại úy mình”
Lúc bấy giờ chính tôi cũng ngạc nhiên về vị sĩ quan có lòng đạo quá sốt sắng
này. Có nhiều đêm tôi thấy “Đại úy mình“ xuống từng gia đình công giáo hỏi đã
lo đọc kinh tối chưa? Nếu gia đình nào chểnh mảng việc này bị ông khiển trách
và bắt ngồi đọc kinh trong khi ông cũng ngồi lại trong giây lát rồi ra đi qua
nhà khác. Anh quân nhân công giáo nào mà Chúa Nhật không đi nhà thờ, chẳng may
Đại úy Phạm Ngọc Thảo biết được, thì đừng hòng cầu mong bất cứ ân huệ gì nơi
ông.
Về phần bà Đại úy cũng vậy. Bà có mặt ở tất cả các hội đoàn công giáo như Đạo
Binh Đức Mẹ, hội Các Bà Mẹ Công Giáo... Dĩ nhiên là bà Đại úy được bầu làm trưởng
trong các hội đoàn đó và bà hoạt động rất hăng. Nói chung vào thời Đại úy Phạm
Ngọc Thảo làm Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An Vĩnh Long, cả trại gia binh tôi ở lúc bấy
giờ đạo đức như một ... nhà thờ.
Nhưng điều làm tôi không bao giờ quên được, là cách thức Đại úy Phạm Ngọc Thảo
đi lễ ngày Chúa Nhật ở nhà thờ Chánh Tòa Vĩnh Long. Lúc bấy giờ còn là nhà thờ
cũ, nằm cặp bờ sông Tiền Giang. Về sau mé sông bị lở nên Nhà thờ phải dời về
ngã ba Cần Thơ. Vì mỗi ngày Chúa Nhật tôi cũng đi lễ ở đó nên thường xuyên chứng
kiến cảnh nhân vật số hai và số ba của tỉnh đi lễ, ý tôi muốn nói tới Tỉnh Trưởng
Khưu Văn Ba và Đại úy Phạm Ngọc Thảo.
Đốc Phủ Sứ Khưu Văn Ba lúc bấy giờ đã ngoài 50 là vị tỉnh trưởng dân sự cuối
cùng của tỉnh Vĩnh Long. Ông là một người cao to trắng trẻo và oai vệ theo cách
thức của một quan chức dân sự. Mỗi sáng Chúa Nhật ông bà Tỉnh Trưởng và hai con
trai là Khưu Văn Phước và Khưu Văn Lộc lúc đó đã 18, 20 đi lễ trên chiếc xe
“Traction 15” màu đen bóng lộn, có tài xế lái. Tôi thường đứng dựa gốc cây me từ
đàng xa nhìn gia đình quý phái này đi lễ.
Hai ông bà Tỉnh Trưởng đã đẹp mà cặp con tai của ông bà càng đẹp hơn! Thường
thì ông Tỉnh Trưởng mặc com-lê trắng, bà mặc áo dài màu, còn hai cậu ấm mặc đồ
tây trắng ủi thẳng tắp. Tài xế đổ xe ngay cửa nhà thờ xong, vội ra sau mở cửa
xe. Gia đình Tỉnh Trưởng xuống xe và đi thẳng vào nhà thờ trong sự trang
nghiêm và hơi mất tự nhiên vì họ biết là có bao nhiêu cặp mắt đang đổ dồn về họ.
Đoàn người quý phái tiến thẳng vào cửa nhà Chúa đang mở rộng, và đi hàng một thẳng
lên hàng ghế đầu dành riêng cho gia đình Tỉnh Trưởng ngay trước cung thánh. Mọi
người đang có mặt trong nhà thờ quay vào giữa lối đi nhìn!
Trong khi đó Đại úy Phạm Ngọc Thảo là nhân vật số ba trong tỉnh cũng đi lễ tại
nhà thờ này, nhưng cung cách hoàn toàn khác với gia đình ông tỉnh trưởng. Thường
thì ông tới trước gia đình tỉnh trưởng một chút. “Đại úy mình" lúc đi nhà
thờ chỉ mặc áo dài đen kiểu như cha tôi và mấy bác nông dân ở quê vẫn mặc, chân
ông mang giày săn-đan. Thay vì xe hơi thì Đại úy Phạm Ngọc Thảo đạp chiếc xe đạp
cọc cạch. Xe đạp của ông là loại xe cuộc, nhưng tay lái vểnh lên chứ không cong
xuống như các xe đua, và trơn trụi không có vè chắn bùn, chỉ có hai cái thắng ở
tay.
Khi tới nhà thờ Đại úy Phạm Ngọc Thảo dựng xe đạp nơi gốc cây me và cẩn thận
móc túi lấy chìa khóa để khóa xe đạp cho yên tâm trước khi bước vào nhà Chúa.
Lúc đứng nhìn ông lui cui khóa cái xe đạp, tôi đoán chắc là ông biểu diễn cho
người ta nhìn, chứ có thằng ăn cắp mạt số nào mà lại đi “chọt” chiếc xe đạp của
vị sĩ quan chỉ huy toàn thể quân nhân trong tỉnh này! Bố bảo cũng không
dám! Sau khi thử lại lần chót là khóa xe không bị bung ra vì vô ý, Đại úy Phạm
Ngọc Thảo bước đi bằng những bước chân nhẹ nhàng như con mèo, tiến vào nhà thờ
và quỳ lẫn lộn giữa đám đông trong một hàng ghế nào đó gần cuối nhà thờ để cầu
nguyện. Nếu không để ý chẳng ai biết sự có mặt của nhân vật số ba của tỉnh đang
có mặt trong nhà thờ.
Một hôm tôi vô tình nghe được một câu chuyện do một chú trong ban Quân Nhạc kể
lại. Chú ấy nói có nghe Thượng sĩ Trưởng ban Quân Nhạc là Biện Công Tước thuật
lại trong lần Tổng Thống về thăm tỉnh Vĩnh Long vừa rồi, có Đức cha Ngô Đình Thục,
và phái đoàn của tỉnh, trong đó có Tỉnh Trưởng và Đại úy Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh
Đoàn Bảo An Phạm Ngọc Thảo, lên bắc Mỹ Thuận đón Tổng Thống. Khi Đức
cha và Tổng Thống đi ngang sau lưng, Thượng sĩ Tước có nghe Đức cha nói với Tổng
Thống một câu: “Thằng Thảo nó được lắm”. Thượng sĩ Tước về thuật lại cho
anh em nghe và nói thêm: “Chắc là chuyến này Đại úy mình sẽ được lên lon” !
Đúng như vậy! Không bao lâu sau đó Đại úy Phạm Ngọc Thảo được thăng lên Thiếu
tá và được bổ nhiệm là Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre) và Đại úy Trần Văn Năm về
thay ông làm Tỉng Đoàn Trưởng Bảo An ở Vĩnh Long.
Lần cuối cùng tôi còn được thấy Phạm Ngọc Thảo là năm 1962, khi đó tôi đã vào học
trong Chủng Viện Vĩnh Long, một buổi xế trưa, Thiếu tá Tỉnh Trưởng Kiến Hòa ghé
vào chủng viện thăm Linh mục Giám Đốc Trung Tâm Nhân Vị Nguyễn Văn Tự. Lúc đó
cha Tự dạy tiếng La tinh, tiếng Pháp trong chủng viện Vĩnh Long. Trong lần đó
Thiếu tá Phạm Ngọc Thảo rất oai vệ trong chiếc Mercedes màu đen có tài xế lái.
Anh tài xế này tên là Cứ, là người tài xế trước kia của Phạm Ngọc Thảo khi còn ở
Vĩnh Long. Không ai có thể ngờ vị Tỉnh Trưởng oai vệ đó chính là “Đại úy mình”
người đã từng đạp chiếc xe đạp cọc cạch đi lễ Nhà thờ Chánh Tòa Vĩnh Long khi
còn làm Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An.
Con đường hoạn lộ của Phạm Ngọc Thảo từ đó lên như diều gặp gió. Không bao lâu
sau, ông được thăng lên Trung tá rồi Đại tá. Nhưng khi ông Diệm bị phe đảo
chánh sát hại năm 1963, ông Phạm Ngọc Thảo bị thất sủng và đi làm Tùy
Viên Quân Sự tòa Đại sứ Việt Nam bên Hoa Thịnh Đốn. Không bao lâu sau, Phạm Ngọc
Thảo lộn về và cùng với một vài chính khách dân sự làm cuộc đảo chánh ở Sài
Gòn. Cuộc đảo chánh bất thành, ông trốn chạy và về sau bị bắt và giết chết. Tôi
không chú ý lắm các chi tiết này nhưng điều tôi ngỡ ngàng là lúc đó người ta
nói Phạm Ngọc Thảo là một tên Việt cộng gộc, có anh hay em gì đó là Phạm Ngọc
Thuần làm đại sứ của Bắc Việt tại một nước cộng sản. Thảo đóng vai gián điệp nhị
trùng, giả vờ đầu hàng phía Quốc Gia, nấp bóng Giám mục Ngô Đình Thục, để len lỏi
vào chánh quyền miền Nam.
Sự thật như thế nào về con người của Phạm Ngọc Thảo tôi không rõ, nhưng về sau
này, khi nghe biết về các hoạt động “không bình thường” của Phạm Ngọc Thảo tôi
đâm ra nghi ngờ thái độ đạo đức quá đáng của ông ta lúc ở Vĩnh Long. Tôi hồ
nghi rằng, lòng đạo đức đó không chân thật nhưng là loại đạo đức “có hậu ý ”!
Thực ra nếu tôi xét đoán sai về lòng đạo đức của ông, tôi sẽ mắc tội. Xin
vong linh ông tha tội cho tôi! Nhưng cái cách Phạm Ngọc Thảo bày tỏ lòng đạo đức
một cách quá lộ liễu trước mặt Đức cha Ngô Đình Thục lúc đó, cộng với những vụ
rửa tội tập thể và tràn lan lúc bấy giờ, và nhất là các vụ bỏ đạo tập thể và
tràn lan sau khi ông Diệm bị lật đổ đã cho tôi lý do để hoài nghi về sự chân thật
của ông!
Riêng việc ông có rong ruổi trên “xa lộ công danh” lúc bấy giờ theo cái kiểu
"con đường nào cũng tới... Vĩnh Long”, tôi không lấy làm lạ. Vì lúc ông
Ngô Đình Diệm còn là tổng thống đã có biết bao nhiêu người tai to mặt lớn khác
cũng chen lấn nhau trên con đường Quốc lộ 4 gồ ghề và hay kẹt cầu, kẹt bắc đó,
từ Sài Gòn đổ dồn về Vĩnh Long để mong được chầu Giám mục ngô Đình Thục. Không
riêng gì ông Phạm Ngọc Thảo.
Về phần ông Tỉnh Trưởng Khưu Văn Ba, sau đó không lâu xe ông bị Việt cộng phục
kích và ông bị giết chết trên con đường Vĩnh Long-Cần Thơ. Khi ông chết tôi
đang học ở trường trung học Nguyễn Trường Tộ, nơi mà ông Phạm Ngọc Thảo có thời
gian dạy học khi ông vừa mới ra "đầu hàng". Sau khi ông Khưu
Văn Ba chết, Thiếu tá Phước về làm tỉnh trưởng Vĩnh Long. Từ đó Vĩnh Long bắt đầu
chế độ Tỉnh trưởng quân nhân. Về sau này có một con đường mới mở trong tỉnh
Vĩnh Long mang tên con đường Khưu Văn Ba và tôi tin chắc là khi cộng sản chiếm
miền Nam họ đã đổi tên con đường này rồi.
Ý hướng làm Linh mục
Sau khi thi đậu trung học đệ nhất cấp năm 1960, tôi qua
Mỹ Tho học trường tư thục Rạng Đông vì anh tôi đổi qua đó. Tôi học nhảy lớp đệ
tam để thi tú tài một và năm sau tôi xong ban tú tài lúc 19 tuổi. Bắt đầu
từ đó tương lai cuộc đời rộng mở trước mắt tôi và tôi là người đậu bằng tú tài
đầu tiên trong làng. Tôi làm đơn thi vào đại học y khoa.
Nhưng cũng chính trong thời gian này tôi suy nghĩ rất nhiều về một hướng đi cho
tương lai. Tôi nghĩ tới việc muốn làm Linh mục, vì tôi nghĩ là trong cương vị một
Linh mục, tôi sẽ có dịp phục vụ số người cùng khổ hữu hiệu hơn. Cái nhìn của
tôi về hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, trong đó có kiếp sống lầm than của người
dân quê thấp cổ bé miệng bị đủ mọi thứ thế lực đè nén, đã ảnh hưởng rất nhiều tới
sự lựa chọn của tôi. Tôi đã nhìn thấy và cảm thương cảnh người dân, nhất là
nông dân bị thiệt thòi về nhiều phương diện. Họ bị đè nén bởi nhiều thế lực
khác nhau. Từ phía thực dân Pháp tới giới chức cầm quyền và ngay cả một số giới
lãnh đạo tôn giáo nữa. Người dân ở thôn quê phải chịu cảnh một cổ hai tròng mà
chẳng biết kêu ai, chỉ biết cúi đầu cam chịu để tránh hậu quả tệ hại hơn.
Việc huấn luyện những người lớn tuổi như tôi để trở thành Linh mục lúc đó là một
ngoại lệ vì những người muốn đi tu phải bắt đầu từ nhỏ khi vừa lên ban trung học.
Tôi tìm tới cha giám đốc chủng viện trình bày ý nguyện của tôi và cha giám đốc
chủng viện Vĩnh Long lúc bấy giờ là cha Trương Thành Thắng thu xếp cho tôi vào
học tiếng La Tinh và tìm hiểu thêm về chí hướng làm Linh mục tại tiểu Chủng viện
Vĩnh Long, nằm không xa trường Nguyễn Trường Tộ bao nhiêu. Khi tôi thưa với
cha má về ước muốn làm Linh mục, cha tôi sửng sốt nhưng rất vui mừng nói với
tôi: "Bây giờ con lớn khôn rồi, hãy tự quyết định về phần con, cha rất
mừng khi con có ý định đó, nhưng đã theo tiếng Chúa gọi thì hãy đi cho tới
cùng”. Từ đó tôi bắt đầu giai đoạn mới trong cuộc đời, với môi trường xa lạ của
Chủng viện Vĩnh Long.
Tháng 8 năm 1963 tôi chính thức được nhận vào tu học theo học một chương trình
7 năm nội trú trong đại Chủng viện Sài Gòn, lúc bấy giờ cha Phạm Văn
Thiên làm giám đốc. Năm đó cũng là kỷ niệm giáp 100 năm thành lập Chủng viện
Thánh Giuse này. Tôi vào nhập học hơn hai tháng thì xảy ra biến cố đảo chánh
1-11-1963
Cuộc đảo chánh
Tôi còn nhớ trưa ngày lễ Các Thánh 1-11, lúc đứng trên lầu 3
của Đại Chủng viện nhìn xuống, thấy một số khá đông binh sĩ, có người chạy, có
người leo rào, có người cởi bỏ quân phục dọc theo căn cứ hải quân ở bến Bạch Đằng.
Lúc đó chúng tôi biết có biến động nhưng chưa biết là sự gì. Khi chúng tôi vào
nhà nguyện trong giờ kinh chiều, bắt đầu có nhiều tiếng đại bác nổ rất gần. Tiếp
theo là tiếng súng đủ loại nổ rân ran làm chúng tôi phải bỏ dở buổi kinh chiều
và xuống trú ẩn trong nhà kho kiên cố dưới hầm nhà nguyện. Lúc đó, đài phát
thanh lập đi lập lại lời kêu gọi tham gia đảo chánh của Hội Đồng Quân Nhân Cách
Mạng do Trung tướng Dương Văn Minh cầm đầu, xen vào giữa các bản nhạc
hùng. Ông Dương Văn Minh này, tôi không biết có phải là một thứ khắc tinh
của dân tộc Việt Nam hay không, mà mỗi lần tên ông được nhắc đi nhắc lại trên
đài phát thanh thì y như rằng có chuyện xui xẻo xảy ra cho đất nước. Lần đầu
vào ngày 1-11-1963, tên ông được gắn liền với bao nhiêu sự xáo trộn trong nước
tiếp theo sau cuộc đảo chánh. Lần thứ hai vào ngày 30-4-1975, tên ông lại được
vang trên làn sóng điện một lần nữa và trở thành tiếng kèn đưa ma chế độ Việt
Nam Cộng Hòa.
Đêm đó, chúng tôi thức dưới hầm và theo dõi cuộc binh biến qua chiếc máy thu
thanh đặt giữa phòng. Các tiếng nổ của đạn pháo binh và tiếng súng nhỏ, khi
thưa khi nhặt. Khoảng gần nửa đêm, khi nghe tiếng súng nổ giòn như pháo Tết gần
sát ngay bên chủng-viện, chúng tôi biết là phe đảo chánh đang tấn công thành Cộng
Hòa chỉ nằm cách chúng tôi bằng con đường Thống Nhất. Đến gần sáng ngày 2-11,
tiếng súng thưa dần rồi im bặt, tôi biết là phe đảo chánh đã thành công. Lúc bấy
giờ, mặc dù không liên can gì về chuyện chính trị, nhưng tôi vẫn cầu mong cho tổng
thống được bình yên.
Sáng ngày 2-11, chúng tôi ra khỏi nơi trú ẩn và đi nhặt miểng đạn pháo binh nằm
rải rác khắp nơi trong khuôn viên của chủng viện. Con đường Cường Để lúc đó tấp
nập những quân nhân súng ống đạn dược đầy người di chuyển tới lui, tạo nên cảnh
nặng nề chết chóc. Một số đông thường dân cũng e dè nấp theo các vách tường
nhìn ngó ra đường theo dõi sự việc. Nhìn xa hơn, tôi thấy thành Cộng Hòa bị hư
hại khá nặng.
Sau khi biết là cuộc đảo chánh đã thành công, tôi càng nóng lòng muốn biết về số
phận của tổng thống. Tôi không phải đợi chờ lâu, vì mấy ngày sau có tờ báo được
dán lên bảng trong phòng đọc sáchncủa Chủng viện, có bức hình nhòe nhoẹt và đầy
máu me của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trong hình, ông Diệm mặc áo đen, đầu được
kê lên cái chậu hứng máu. Một hàng chữ lớn chạy hết bề ngang trên trang nhất:
“Anh em Diệm - Nhu đã tự sát!” Lúc ấy, mặc dù chưa có một nguồn tin nào khác để
kiểm chứng nhưng tôi cũng không tin là Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình
Nhu đã tự sát như tờ báo đã đăng. Thực ra, hai ông đã bị sát hại vào sáng ngày
2-11-1963 trên chiếc xe thiết giáp chạy từ Nhà thờ Cha Tam trong Chợ Lớn về Bộ
Tổng Tham Mưu, như các tài liệu về sau này đã tiết lộ.
Có nhiều sách vở, báo chí viết về cuộc đảo chánh năm 1963, kể cả hồi ký của một
vài người trực tiếp nhúng tay trong biến cố đó. Các tác giả ngoại quốc, khi viết
về các vấn đề Việt Nam cũng có đề cập tới cuộc đảo chánh này. Tôi có đọc qua một
số các sách đó và nhận thấy phần đông các tác giả tường thuật diễn tiến cuộc đảo
chánh đều giống như nhau, chỉ khác ở chi tiết. Có một điều không thấy ai nói tới,
hoặc cố tình không nói lên, hoặc không nhận thấy được: Tại sao Tổng thống Ngô
Đình Diệm bị hạ sát?
Các tài liệu liên quan tới cuộc đảo chánh cho thấy kế hoạch đảo chánh được soạn
thảo và nghiên cứu rất kỹ, cả về phía những kẻ chủ mưu trong chánh quyền
Kennedy tại Hoa Thịnh Đốn, lẫn nhóm tướng tá thừa hành tại Sài Gòn. Tuy nhiên
có một điều ai cũng thấy là người Mỹ không hề dự trù sau khi lật đổ xong sẽ giết
chết ông Diệm. Điều này không phải vì họ có lòng nhân đạo, nhưng vì sợ tai tiếng
và phản ứng bất lợi trong dư luận.
Chánh quyền Kennedy lúc bấy giờ cũng thừa biết rằng, cho dù cố gắng ném đá giấu
tay nhưng trước sau rồi ai cũng biết chính người Mỹ giật dây cuộc đảo chánh
này. Như vậy nếu ông Diệm bị giết chết, Chính quyền Mỹ sẽ bị kết án và gặp nhiều
phản ứng bất lợi. Về nhóm tướng tá âm mưu đảo chánh, họ không thể tự quyết định
việc gì ngoài sự chỉ đạo của người Mỹ, mà đại diện thường trực để theo dõi, ra
lệnh và thưởng công bằng tiền mặt cho họ là Trung tá mật vụ Lucien Conein. Như
vậy, sinh mạng của Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng không phải do nhóm sĩ quan đảo
chánh có quyền quyết định. Vậy tại sao ông Diệm lại bị giết chết?
Cho đến nay, chưa có ai lên tiếng công khai nhận mình đã giết ông Diệm. Phần
nhiều các tài liệu đều quy tội cho Trung tướng Dương Văn Minh, vì ông này ra lệnh
cho Đại úy Nhung bằng cách giơ lên hai ngón tay ở bàn tay phải, dấu hiệu giết cả
hai, khi viên sĩ quan cận vệ này theo đoàn xe đi đón ông Diệm tại Nhà thờ Cha
Tam. Đoàn xe do Tướng Mai Hữu Xuân dẫn đầu và chính Đại úy Nhung là người đã giết
hai anh em ông Diệm - Nhu trên chiếc xe thiết giáp. Về chi tiết vụ sát hại
này, các tài liệu có nhiều điểm khác nhau. Đại úy Nhung, người được nhắc tới
nhiều nhất và được coi là người đã cầm súng bắn chết hai ông Diệm - Nhu, sau cuộc
đảo chánh được lên cấp thiếu tá, nhưng đã bị thủ tiêu sau đó ít lâu trong lúc
ông Nguyễn Khánh đang cầm quyền. Những người còn sống, thì hoặc giữ thinh lặng,
hoặc đổ lỗi qua lại theo cái kiểu “cối đổ cho chày, chày đổ cho cối”, tạo cho
cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm cho tới nay vẫn còn nhiều mờ ám.
Ai trong số các tướng đảo chánh ra lệnh giết ông Diệm trong buổi sáng ngày
2-11-1963? Chuyện đó tôi không bàn ở đây, nhưng theo tôi nhận xét, đây là một
quyết định thật vội vã. Sau khi ông Diệm gọi điện thoại cho nhóm tướng lãnh đảo
chánh ở Bộ Tổng Tham Mưu xin đầu hàng, số phận hai anh em Diệm-Nhu được định đoạt
kể từ lúc đó. Cú điện thoại bất ngờ này đã đặt nhóm tướng tá đảo chánh vào một
tình thế khó xử và bắt buộc họ phải có một quyết định. Nói cách khác, chính ông
Diệm tự tuyên án tử hình cho ông và người em là Ngô Đình Nhu qua cú điện thoại
này.
Tình thế lúc bấy giờ thật đặc biệt, không phải nhóm đảo chánh sợ ông Diệm dùng
kế hoãn binh để gọi quân trung thành về lật ngược thế cờ như trong cuộc đảo
chánh bất thành hồi năm 1960 do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu. Điều mà họ lo
sợ nhất là lúc họ phải đối diện với Tổng thống Ngô Đình Diệm khi họ dẫn ông về
tới Bộ Tổng Tham Mưu. Khi đó, họ sẽ phải ăn nói xử sự xưng hô làm sao với ông?
Họ không thể chịu đựng được cái mặc cảm tội lỗi khi phải trực diện với con người
đã ban cho họ tất cả mọi thứ trên đời, kể cả binh quyền mà họ đã dùng để phản bội
lại ông.
Trong bọn họ, có người xuất thân hèn mạt, chỉ là lính khố xanh, khố đỏ; nhờ
theo hầu ông, nịnh nọt với ông, mà được quân hàm cao để có quyền hành sai khiến
binh lính phản bội lại ông. Họ không biết phải xử sự thế nào với một ‘‘tù
nhân’’ mà ngày hôm qua họ vẫn còn run sợ khi phải đứng trước mặt ông. Họ không
biết xưng hô thế nào với con người mà hôm qua đây họ dùng lối xưng hô kính cẩn
nhất trong ngôn ngữ Việt Nam: Gọi ông bằng “Cụ” và xưng mình là “con”.
Hơn nữa, có thể Dương Văn Minh và nhóm tướng tá đảo chánh cũng lo sợ con người
uy nghi đó. Khi bị dẫn về và đối mặt với những kẻ phản bội, rất có thể ông Ngô
Đình Diệm sẽ điểm mặt gọi tên từng người trong bọn họ,“ Dương Văn Minh, Trần
Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm, Đỗ Mậu...
Ta đã lầm. Ta không ngờ bọn mi là lũ phản loạn, bọn mi đã dùng chính ân huệ ta
ban cho để ám hại ta!” Từ nhận xét trên, tôi kết luận Tổng thống Ngô Đình Diệm
chết vì chính cái uy nghi cao cả của ông. Có thể về sau này, con người ra lệnh
giết ông Diệm cũng bị lương tâm cắn rứt, nhưng rồi đã âm thầm cầu nguyện, “Thưa
cụ, xin cụ hiểu và tha thứ cho con. Không phải con muốn giết cụ, nhưng chính cụ
đã đặt con vào tình thế lúc bấy giờ không thể nào có quyết định khác
hơn”.
Xáo trộn chính trị
Sau cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm , miền Nam bị rơi
vào một lỗ hổng chính trị thật lớn, nặng nề nhất là tình trạng khủng hoảng uy
quyền Quốc Gia. Các chính phủ tiếp theo sau, chẳng qua là những tổ chức cần thiết
phải có để giữ giềng mối cho đất nước khỏi rơi vào cảnh hỗn loạn. Các khuôn mặt
xuất hiện trên sân khấu chính trị sau ông Diệm đã không đủ sức lôi cuốn và thuyết
phục dân chúng tin tưởng và ủng hộ.
Phần đông họ thuộc giới võ biền, nhờ có quân lính trong tay nên cướp thời cơ nhảy
ra nắm quyền bằng các cuộc binh biến, được gọi bằng các tên như cách mạng, đảo
chánh, chỉnh lý, biểu dương lực lượng v.v... Có người lại quá kém về phẩm chất
và đời sống cá nhân, dốt nát về chính trị, nhưng nhờ thời cơ cũng mang râu đội
mão, nhảy lên sân khấu chính trị để làm tuồng! Từ trước tới nay, có nhiều người
nhận xét khác nhau về cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Có kẻ bênh, người bỏ. Ông Diệm
là người có công hay có tội với đất nước, tôi không nói ở đây, việc này chúng
ta hãy dành cho lịch sử có tiếng nói sau cùng. Một điều không ai chối cãi được
là cố Tổng thống Ngô Đình Diệm là người có uy tín cá nhân đáng nể phục, trong
cương vị lãnh đạo Quốc Gia. Cái uy tín mà những người đứng đầu chính phủ về sau
này không thể có được.
Khi các tướng lãnh cầm đầu cuộc đảo chánh chưa uống cạn hết chai rượu mừng và
các Bộ trưởng của nội các Nguyễn Ngọc Thơ chưa kê xong bàn ghế trong văn phòng
thì tướng Nguyễn Khánh từ miền Trung bay vô Sài Gòn làm cuộc “chỉnh lý” bắt
giam 4 tướng Lê Văn Kim, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân và Tôn Thất Đính tại Đà Lạt,
trừ Quốc trưởng Dương Văn Minh được cho ở ngoài, từ đó chánh quyền về tay tướng
Nguyễn Khánh. Thời gian đó tôi đang học ở Đại Chủng viện Sài Gòn và hàng ngày
thấy xe có còi hụ của Thủ tướng Nguyễn Khánh chạy trên đường Cường Để đi về từ
tư dinh của ông ở bến Bạch Đằng tới phủ Thủ Tướng nằm trên đường Thống Nhất,
sát vách với Tiểu Chủng viện.
Có một sự kiện xảy ra trong thời Tướng Khánh cầm quyền, lúc đó có mấy ngày vô
chính phủ và Sài Gòn rơi vào cảnh hỗn loạn thực sự. Điều tôi ghi nhớ một cách
đau đớn là lúc đó có sự va chạm nhau một cách nặng nề giữa hai tôn giáo lớn là
Phật giáo và Công giáo. Sài Gòn trong thời gian đó bị lên cơn sốt gây ra bởi
tình thế hỗn loạn và dân chúng càng bấn loạn hơn nữa bởi những tin đồn gây
hoang mang. Khi thì có tin Phật tử sẽ tấn công Tòa Giám mục Sài Gòn, hoặc
tòa soạn báo Xây Dựng. Lúc khác lại có tin thanh niên công giáo trong các trại
di cư sẽ tấn công Viện Hóa Đạo, chùa Xá Lợi...! Những loại tin đồn đó tạo cho
tình thế vốn đã hoang mang càng ngày càng căng thẳng nhiều hơn.
Có những đêm chúng tôi đã bị ảnh hưởng bởi những tin đồn đó và đã mang lên lầu
3 của Chủng viện những loại gạch đá, gậy gộc vì có tin thanh niên Phật Tử sẽ tấn
công Chủng viện Sài Gòn trong đêm! Trong khi đó các cơ sở tôn giáo của cả hai
bên đều lo tổ chức những biện pháp phòng vệ riêng tư, tạo cho bầu không khí Sài
Gòn trở thành khó thở như sắp có cuộc chiến tranh tôn giáo xảy ra! Tôi không biết
thực tế đã có những những va chạm tôn giáo như thế nào và ở đâu, nhưng mỗi lần
nhớ tới tình cảnh lúc đó tôi cảm thấy đau đớn cho số phận dân tộc Việt Nam. Dân
tộc Việt Nam là một dân tộc có tôn giáo. Đại đa số người Việt Nam nếu không thuộc
về tôn giáo này cũng thuộc về tôn giáo khác, vì thế lực lượng dân tộc trong các
tôn giáo chính là sức mạnh tổng hợp ý chí của toàn dân. Nếu có những va chạm và
tình trạng bất hòa xảy ra giữa tín đồ các tôn giáo, nhất là giữa hai tôn giáo lớn
thì thật là một đại họa cho dân tộc.
Khủng hoảng uy quyền
Trong hoàn cảnh chiến tranh lúc bấy giờ, miền Nam rất cần một
thứ uy quyền lãnh đạo để đương đầu với một Hồ Chí Minh vừa có uy tín ở miền Bắc,
lại vừa mưu mô quỷ quyệt. Tiếc thay, thứ uy quyền cần thiết đó thì miền Nam lại
không có. Chính phủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra đời năm 1967 được coi là
khá nhất trong số các chính phủ vá víu tiếp theo cuộc đảo chánh 1-11-1963. Dù vậy
cũng chỉ tạo được một sự ổn định tạm bợ về chính trị, nhưng tuyệt nhiên không
gây được tác dụng tinh thần nào nơi dân chúng, và nhất là nơi các chiến sĩ đang
làm nhiệm vụ chống cộng. Sức mạnh thực sự của miền Nam lúc bấy giờ không phải
là sự quyết tâm tranh đấu của toàn dân, mà là kỹ thuật tân tiến của vũ khí do Mỹ
viện trợ, cộng với sự lo sợ về một cuộc sống lầm than nếu để miền Nam rơi vào
tay cộng-sản. Hai yếu tố đó hợp lại đã tạo được những trang quân sử lẫy lừng của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH).
Tiếc thay, những chiến sĩ kiêu hùng của QLVNCH lúc bấy giờ lại là thành phần chịu
thiệt thòi nhiều nhất. Họ chiến đấu anh dũng nơi chiến trường để giữ yên bờ cõi
cho những kẻ vô trách nhiệm ung dung thụ hưởng ở hậu phương! Họ đã đổ xương máu
ra ngăn chặn quân thù cho những kẻ quyền thế lo làm giàu, mua quan bán chức! Họ
đem thân mình đỡ đạn thay cho những thanh niên con nhà giàu đút lót tiền bạc
cho các cấp chỉ huy để làm “lính ma, lính kiểng!” Tinh thần đâu để chiến đấu
khi các chiến sĩ oai hùng ngoài mặt trận nghe tiếng bom đạn của kẻ thù, hòa với
tiếng la hét của đồng bào biểu tình tố cáo đích danh Tổng Tư Lệnh của họ là một
tên tham nhũng. Chắc là họ cũng biết rằng, một chiếc máy bay lúc nào cũng chực
sẵn để khi cần là Tổng Tư Lệnh của họ sẽ đào tẩu cùng với vợ con và của cải vơ
vét được! Trong bối cảnh như vậy, việc mất miền Nam chỉ còn là vấn đề thời
gian.
Bước chân vào đời
Tôi thụ phong Linh mục năm 1970, lúc vừa 27 tuổi. Một tháng
sau, tôi về làm cha phó tại xứ đạo Hòa Khánh, ngay trong thị xã Sa Đéc. Tỉnh Sa
Đéc tương đối nhỏ với khoảng hai trăm ngàn dân, đa số là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo.
Thị xã Sa Đéc nằm bên bờ sông Cửu Long, cách bắc Mỹ Thuận gần 30 cây số. Nhờ sự
giao thông thuận tiện, cả đường thủy lẫn đường bộ, nên Sa Đéc là một trong những
tỉnh trù phú của miền đồng bằng sông Cửu Long.
Đa số dân chúng sống dọc hai bên bờ sông và trồng cây ăn trái trên những khu đất
bồi màu mỡ. Một số khác làm ruộng trong các vùng sâu hơn về phía trong, nhưng
phát đạt nhất vẫn là về thương mại. Người dân Sa Đéc hiền hòa và hiếu khách, một
phần do bản chất của người dân miền quê, phần khác cũng do ảnh hưởng phong thổ
cây xanh bóng mát, tạo cho người dân vùng này cảnh sống an nhàn, gần gũi và hòa
hợp với thiên nhiên.
Tôi còn nhớ mãi những hình ảnh nhẹ nhàng dễ thương trong những lần đi thuyền
máy trên nhánh sông nhỏ vào các buổi trưa hè để vô làm việc trong xứ đạo nhỏ tại
xã Tân Phú Trung, cách tỉnh lỵ 12 cây số. Thuyền máy lướt nhẹ trên dòng sông nước
trong veo, hai bên bờ rợp bóng mát dưới những tàn cây to đủ loại, nhiều nhất là
cây cà-na, loại cây có trái to bằng ngón tay cái, hai đầu nhọn túm lại như hình
dáng con thoi. Hai bên bờ sông là con đường đất khá rộng mà xe hơi loại nhỏ có
thể đi được. Nấp sau khoảng sân rộng là những ngôi nhà ngói, phần nhiều là cổ
xưa, nằm hướng ra bờ sông. Trước mỗi nhà có cầu bến để lên, xuống ghe
thuyền và làm nơi tắm giặt.
Cầu bến thường là đúc bằng xi-măng cốt sắt, có khi bằng hai tấm vỉ sắt có lỗ
tròn, loại vỉ sắt dùng làm sân bay dã chiến. Có khi cầu bến làm bằng những tấm
ván ghép lại, bên trên có đóng mấy “con lươn” to bằng ngón chân cái, cách quãng
nằm ngang cho đỡ trơn trợt, một đầu cầu gác lên bờ, đầu kia dốc sâu xuống mí nước.
Vào những trưa hè êm ả, các cô thôn nữ thường ngồi trên cầu bến giặt giũ. Một
vài cô khác tươi cười đứng chải tóc dưới tàn cây cà-na rợp bóng mát. Các nàng
ăn mặc thật đơn giản, chiếc áo bà ba trắng ôm sát lấy người, làm nổi bật mái
tóc đen óng ả được vén qua một bên vai ra trước ngực phủ dài xuống thân. Nàng
thôn nữ, một tay nắm trọn lọn tóc ghì vào dưới cằm, tay kia chải nhẹ phần tóc
còn lại ở dưới, vừa nghiêng nghiêng đầu, lơ đễnh đưa mắt nhìn chiếc thuyền máy
đang chậm chậm lướt qua. Hình ảnh đó tô đậm thêm cho nét đẹp của một vùng quê
an bình, mà dân chúng được thừa hưởng của thiên nhiên ở miền nước ngọt cây
lành. Hình như tôi đã được nhìn thấy ở đâu một bức tranh thủy mạc vẽ cảnh tương
tự như thế.
Khi tôi bắt đầu cuộc đời Linh mục năm 1970 cũng là lúc chiến cuộc miền Nam tới
hồi ác liệt. Hình ảnh và tin tức chiến tranh nhan nhãn khắp nơi. Báo chí và đài
phát thanh ngày nào cũng đầy dẫy tin chiến sự. Miền Nam lúc bấy giờ bắt đầu co
cụm lại trong các thành phố, vì các vùng quê phần nhiều mất an ninh, nhưng thủ
đô Sài Gòn và các thành phố lớn vẫn ồn ào náo nhiệt như không có gì xảy ra. Người
dân đô thị chỉ nghe nói tới chiến tranh, nhưng phần đông không tận mắt chứng kiến
hoặc chưa thấy sự đe dọa trực tiếp tới mạng sống và tài sản, nên mọi người cứ
vui sống an nhàn.
Tin tức chiến sự trên báo chí dần dà trở thành quá quen thuộc. Những con số
thương vong trong các trận đánh của hai phe lâm chiến dần trở thành những con số
thống kê vô nghĩa, không còn gây chú ý đối với những người sống trong các vùng
an toàn ở hậu phương. Thỉnh thoảng có xảy ra các vụ Việt cộng đặt mìn hay pháo
kích vào thủ đô Sài Gòn hoặc vào các thành phố, trường học, gây kinh hoàng
trong một thời gian rồi đâu lại vào đấy. Ai có nhiệm vụ phải đánh giặc thì lo
đánh giặc, người nào may mắn không phải ra trận và đang sống ở các khu vực an
toàn thì cứ vui sống, hưởng thụ và lo làm giàu. Sự hiện diện của nửa triệu lính
Mỹ và một số khá đông quân đội các nước đồng minh tại miền Nam lúc bấy giờ đã tạo
nên một hình thái xã hội thật đặc biệt, một xã hội sống thác loạn, ồn ào và đầy
mánh mung của thời buổi chiến tranh.
Trong khi đó, tình hình an ninh tại những nơi xa thành thị hoặc ở vùng quê càng
ngày càng sa sút. Người dân quê phải chịu cảnh một cổ hai tròng, ban ngày lúc
còn mặt trời thì thuộc sự kiểm soát của Quốc gia, bóng đêm về nằm trong tay Việt
cộng. Người dân quê đóng thuế cho Quốc gia một, thì đóng thuế cho Việt cộng mười.
Ai trốn thuế Quốc-gia nếu bị bắt có thể đi tù, còn ai trốn thuế “đảm phụ quốc
phòng” của Việt cộng, thì bị chặt đầu mổ bụng, để răn đe kẻ khác. Chính mắt tôi
đã chứng kiến cảnh tượng dã man một cách hãi hùng này tại quê nhà tôi. Việt cộng
trà trộn trong dân, ẩn nấp trong nhà dân, ăn cơm của dân, dùng tiền thuế của
dân và dùng dân làm bia đỡ đạn trong trong các cuộc biểu tình chống đối chánh
quyền Quốc gia. Thậm chí, có trường hợp chánh quyền địa phương bắt giam những
người dân đóng thuế cho Việt cộng, trong khi chánh quyền không thể bảo vệ được
cho người dân khỏi bàn tay sắt máu của họ. Người dân ở nông thôn xa xôi khốn khổ
không biết kêu ai, chỉ còn biết kêu trời, mà trời thì cao quá làm sao nghe thấy!
Trong bối cảnh miền Nam chiến tranh khói lửa và hỗn tạp như vậy, cộng với một
chánh quyền mang nhiều tai tiếng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đã dẫn đưa xã
hội miền Nam vào một cuộc sống mất phương hướng. Uy quyền Quốc gia là yếu tố
tinh thần cần thiết nhất cho một nước, nhất là trong thời chiến, nhưng miền Nam
lại thiếu hẳn yếu tố đó. Người ta phanh phui rất nhiều về vụ tham nhũng thối
nát của Chánh quyền Nguyễn Văn Thiệu, về tệ nạn mua quan bán chức, về những ông
bà lớn lợi dụng quyền uy để buôn lậu đủ các loại hàng, kể cả hàng quốc cấm.
Có “vị” còn dám bán cả súng đạn cho Việt cộng lấy tiền bỏ túi! Thiên hạ lúc bấy
giờ còn nói chính ông Nguyễn Văn Thiệu là một tay tham nhũng gộc, một thứ “hạm”
nuốt trôi tài sản Quốc Gia và tiền viện trợ Mỹ. Phong trào chống tham nhũng do
cha Trần Hữu Thanh, một Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế phát động, tung ra những bản
cáo trạng tố cáo đích danh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và một số tướng lãnh, đã
được nhiều người hưởng ứng. Có người còn tỏ ra hiểu chuyện, nói vanh vách ra
cái ghế tỉnh trưởng giá bao nhiêu tiền, muốn làm quận trưởng phải “chạy” bao
nhiêu và còn cho biết cái “bót” quận trưởng quận Năm trong Chợ Lớn được đấu giá
cao nhất, vì đây là một chức vụ béo bở! Các ông quận trưởng trong vùng Chợ Lớn,
tuy lúc mới về khá gầy ốm hom hem, nhưng được mấy chú Ba Tàu “tốt bụng” vỗ béo
cho, chẳng mấy chốc mà trở nên mập béo, phát tài, phát tướng!
Sự thật về tệ nạn tham nhũng đúng tới mức nào tôi không rõ, điều tôi biết một
cách chắc chắn là ở miền Nam lúc bấy giờ, ai may mắn nắm giữ được chức vụ tốt
trong chánh quyền thì làm giàu nhanh, mà chức Tổng Thống dĩ nhiên là tốt nhất!
Tôi còn nhớ có lần ông Trần Văn Hương khi còn làm Thủ tướng đã than: “Nếu diệt
hết tham nhũng lấy ai làm việc nước!” Vì những người làm việc nước, đồng thời
cũng đang bận vơ vét tiền của như vậy nên miền Nam lúc bấy giờ tuy có chánh quyền
nhưng không có uy quyền, có Tổng Thống nhưng không có người lãnh đạo quốc gia.
Khi bắt đầu cuộc đời Linh mục cũng là lúc tôi phải va chạm với thực tế về sự bất
công của xã hội mà trước đây tôi chỉ thấy và nghe. Thực tế cho tôi biết nạn người
bóc lột người, người đè nén người trong đất nước tôi nặng nề và ác độc hơn tôi
tưởng. Giới chức trong chánh quyền các cấp, ít nhất là ở cấp mà tôi có dịp tiếp
xúc, thì họ thực sự là “cha mẹ của dân”. Họ đè nén người dân, bóc lột và vơ vét
của công, của tư một cách vô tội vạ.
Trong hai năm đầu phục vụ tại Sa Đéc, tôi đã phải đương đầu và đụng chạm nặng nề
với giới chức đứng đầu hành chánh của tỉnh, khi ông cùng với viên chức Ty Xã Hội
nuốt trôi hết vật liệu cất nhà mà Bộ Xã Hội cấp cho mấy ngàn Việt Kiều hồi
hương từ Cam Bốt chạy về các tỉnh biên giới phía Nam. Lúc đó tôi là thành viên
trong Ủy Ban Cứu Trợ Việt Kiều Hồi Hương của tỉnh Sa Đéc.
Ngoài ra còn có những vị chức sắc tôn giáo đã làm lu mờ giáo lý cao cả của tôn
giáo mà họ là người rao giảng. Sự nhập nhằng giữa tôn giáo và chính quyền lúc bấy
giờ đã tạo ra những “lãnh chúa áo đen”. Họ lợi dụng chức vị tôn giáo để mưu cầu
danh lợi riêng tư, và con người của họ, làm dân chúng khiếp sợ.
Năm 1972, tôi được đổi về làm phó xứ Cái Đôi tại quận Long Toàn, tỉnh Trà Vinh,
một giáo xứ xa xôi và lẻ loi nằm tận bờ biển Ba Động. Tại đây tôi mới thực sự
chia sẻ nỗi đau của bà con trong vùng như chính nỗi đau của riêng tôi. Nhiều
người dân trong vùng chạy đến với tôi khóc lóc kêu van vì ông quận trưởng hà hiếp,
bóc lột, tham nhũng, hãm hiếp gái tơ và đè đầu cỡi cổ người dân đen trong quận
một cách tàn nhẫn. Người dân, nhất là những người không thuộc về xứ đạo chỉ biết
khóc mà không biết kêu ai. Tệ hơn nữa, ngài quận trưởng lại là bạn thân của cha
sở.
Trong hoàn cảnh ấy tôi đã công khai đứng về phía dân chúng và thách thức quyền
lực của viên chức chính quyền bất nhân này. Cuối cùng tiếng nói người dân đã thắng.
Viên quận trưởng phải rời chức vụ và bị giam vào quân lao Cần Thơ. Phần tôi đã
phải trả cái giá khá đắt cho việc làm này, là bị thất sủng trong hàng ngũ các
Linh mục thuộc Giáo phận Vĩnh Long, nhưng tôi không coi đó là điều đáng buồn.
Ngược lại, tôi thấy vui và hạnh phúc vì đã có dịp sống với lý tưởng mà tôi đã lựa
chọn khi tôi muốn trở thành một Linh mục.
Kết thúc ván cờ
Qua những năm đầu trong thập niên 70, chiến tranh càng leo
thang ác liệt làm cho tình cảnh người dân Việt Nam càng khốn khổ hơn. Đồng bào
miền Bắc phải lo chống chọi với những đợt mưa bom của Mỹ, người dân miền Nam bị
đe dọa nặng nề hơn bởi những cuộc pháo kích của Việt cộng vào thành phố và khủng
bố của họ ở miền quê. Cuộc sống lầm than của người dân hai miền nói sao cho siết!
Chiến cuộc càng leo thang thì máu xương dân tộc Việt Nam càng chồng chất. Nếu
có ai đem máu của người Việt Nam bị máy bay Mỹ giội bom giết chết ở miền Bắc,
hòa với máu người dân vô tội bị Việt cộng pháo kích chết ở miền Nam sẽ ngạc
nhiên khi thấy hai dòng máu đó hòa hợp một cách lạ lùng. Điều này rất dễ hiểu
vì cả hai loại máu đó đều có chung một huyết thống. Vì đó là Dòng Máu Việt Nam.
Nhưng số phận của dân tộc tôi dù sao cũng chỉ là một con tốt trong bàn cờ chính
trị quốc tế. Vì thế khi bánh máy bay chở ông ngoại trưởng Hoa Kỳ, Henry
Kissinger chạm mặt đất của phi trường Bắc Kinh năm 1972 thì thế cờ chính trị thế
giới bắt đầu thay đổi. Hơi gió mạnh của máy phản lực trên chiếc máy bay đó cũng
thổi gập cuốn lịch sử Việt Nam sang qua một trang mới.
Những ngày tháng tiếp theo, thế giới có dịp mỉm cười trước cảnh một số những
anh điếc ngồi bàn chuyện với nhau về tương lai của Việt Nam tại cuộc hội đàm
Paris. Trong lúc đó bom đạn vẫn gào thét trên đất nước Việt nam, và dĩ nhiên Thần
Chết phụ trách khu vực Việt Nam lúc nào cũng bận rộn như đã từng bận rộn trong
mấy chục năm qua.
Tháng Giêng năm 1973, Hiệp Định Paris được ký kết với những điều khoản trở
thành dấu ấn đóng trên số phận u tối của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Cho tới
cuối tháng tư năm 1975, miền Nam đi vào cơn hấp hối, khi những người cộng sản từ
miền Bắc ồ ạt ùa vào miền Nam. Lúc bấy giờ chánh quyền và quân đội miền Nam
đang rối loạn hàng ngũ. Mỗi ngày qua đi là một bước tới ngỏ đường cùng của chế
độ.
Và cuối cùng, ngày định mệnh dành cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam
đã xảy ra vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Một thời điểm được ghi thật đậm nét
trong cuốn lịch sử của Dân Tộc Việt Nam.
Tôi đang phục vụ tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long khi cộng-sản chiếm miền
Nam. Một tháng sau tôi được chỉ định qua làm cha sở họ đạo La Mã trong tỉnh
Bến Tre. Tính đến lúc đang ngồi thẫn thờ trên chuyến xe Minh Chánh buổi chiều
tà này, tôi đã làm Linh mục được sáu năm. Sáu năm qua mau, sáu năm tôi chứng
kiến nhiều cuộc đổi thay trong nhân tình thế sự.
Trở về thực tại
Đang thả hồn theo dòng suy tư, chợt tôi nghe tiếng anh tài xế hỏi bên tai:
- Ông anh ngồi có chật lắm không? Nhích qua phía tôi một chút đi. Chịu khó chật
một chút, không bao lâu nữa tới nơi rồi!
Câu hỏi bất ngờ của anh tài xế kéo tôi về thực tại. Có lẽ thấy tôi ngồi yên đã
lâu, nên anh tài xế muốn gạ chuyện cho vui. Tôi mỉm cười trả lời:
- Không sao đâu anh! Tôi ngồi thoải mái lắm, anh chạy rất cừ, sắp tới Sài Gòn rồi.
Người tài xế tuổi trung niên vui tính nhe răng cười như đáp lại lời khen của
tôi, xong quay sang trả lời câu hỏi gì đó của một bà ngồi phía sau. Lúc xe đang
chạy, anh cười nói huyên thuyên với hết người này tới người khác từ phía sau.
Lúc nói chuyện, anh có thói quen hay chửi thề hai tiếng ĐM. Mười câu thì có
chín tiếng ĐM vì quen miệng. Tôi ngồi yên, nghe tiếng chửi thề của anh lại rất
có duyên. Có lúc tôi lẩn thẩn nghĩ rằng, nếu anh tài xế nói chuyện mà không
chêm hai tiếng ĐM đệm vào thì câu chuyện xem ra nhạt nhẽo, mất hào hứng.
Ngồi yên một mình khiến tôi suy nghĩ vẩn vơ. Có lúc tôi quay sang nhìn bộ dạng
anh tài xế và theo dõi từng động tác của anh. Anh có bộ ria mép rậm dài và đen
nhánh, như hai con sâu róm nằm chấu đầu vào nhau. Mỗi khi anh nói cười, bộ ria
mép cũng giật giật như hai con sâu róm đang giỡn trững, đùa cợt nhảy vào tấn
công nhau, rồi lại nhảy lùi ra né tránh, trông thật ngộ nghĩnh! Mỗi khi có chiếc
xe lô nào ngược đường qua mặt, anh đều chào bạn tài xế xe kia bằng cách nhấc mấy
đầu ngón tay của bàn tay trái như cái quạt được xòe ra, trong khi bàn tay phải
vẫn để gá nhẹ trên tay lái, miệng cười nói vui vẻ. Tôi ngồi kế bên, theo dõi một
cách thích thú cách hai anh tài xế chào nhau. Khi thấy có xe lô ngược chiều từ
xa, tôi lại để ý các ngón tay anh. Khi hai xe giáp nhau, các ngón tay anh tự động
dương lên, rồi lại hạ xuống, như cửa các tiệm buôn được điều khiển tự động bằng
“mắt thần”. Hình ảnh vui vui này đã giúp tôi quên thực tại trên một đoạn đường
dài.
Hành khách ngồi phía sau đa số là những người bình dân. Nghe họ nói chuyện, tôi
biết họ đã quen nhau và đi lại thường xuyên để buôn bán trên tuyến đường này.
Cách họ đùa cợt với anh tài xế cũng chứng tỏ họ là những hành khách thường
xuyên của anh. Tôi ngồi yên lặng suốt từ lúc bước lên xe, một phần vì chẳng
quen ai và cũng không có chuyện gì để nói, vả lại lòng tôi đang rối như tơ vò.
Câu hỏi cứ lập đi lập lại trong đầu, tới bến xe Phú Lâm rồi đi đâu nữa? Tự
nhiên tôi đâm ra lo lắng và cầu mong cho xe chạy chậm lại, chạy thật chậm lại,
càng chậm càng tốt, để nếu có thể thì không bao giờ tới bến. Anh tài xế vui
tánh nãy giờ nói năng đùa cợt với các bà ngồi sau, lại quay sang hỏi tôi khi vừa
qua khỏi cầu Long An một đỗi.
- Ông anh xuống Xa Cảng hả?
- Vâng, tôi xuống Xa Cảng.
Người ta gọi xa cảng miền Tây ở Phú Lâm bằng cái tên gọn là Xa Cảng. Thấy tôi
trả lời không có vẻ hào hứng, anh tài xế yên lặng một chút rồi vẫn nhìn thẳng
phía trước nói:
- Buổi chiều vắng xe mình đi lẹ, chút nữa tới rồi. Ông anh ở Sài Gòn à?
Bình thường có lẽ tôi cũng vui vẻ tiếp chuyện anh tài xế, nhưng lúc đó tôi chỉ
đối đáp hững hờ cho qua chuyện:
- Không, lên thăm bà con.
Anh ta gạ chuyện tiếp theo:
- Vậy ông anh ở Mỹ Tho à?
- Không! Tôi ở Bến Tre... tôi làm việc ở Bến Tre, nhưng gia đình ở Vĩnh Long.
Nghe hai tiếng Vĩnh Long, anh ta quay sang tôi vui vẻ như gặp được đồng hương:
- Vĩnh Long à? Tôi cũng có thằng bạn ở Vĩnh Long, nó có tiệm bán máy đuôi tôm ở
ngã ba Cần Thơ tên là... tên là... tên là gì tôi quên rồi, trong dãy phố của Đức
cha Thục đó. Hồi trước giải phóng nó khá lắm, bây giờ hổng biết nó ra sao, lâu
rồi tôi cũng không gặp nó.
Tôi bị dị ứng khá nặng khi nghe ai dùng hai tiếng “giải phóng” để nói về biến cố
30 tháng 4 năm 1975, ngày cộng-sản chiếm miền Nam, nhưng anh tài xế dùng hai tiếng
“giải phóng” cũng vô thức và đầy thói quen như hai tiếng “ĐM” trong câu chuyện.
Hiểu như vậy nên tôi không cảm thấy khó chịu nên vui vẻ trả lời.
- Tôi có biết dãy phố của Đức cha Ngô Đình Thục.
Yên lặng một lúc, nhìn thẳng về phía trước, như để ôn lại kỷ niệm của thời xa
xưa, anh nghiêng đầu qua tôi:
- Thành phố Vĩnh Long cũng đẹp, lúc trước giải phóng tôi hay xuống đó chơi, có
lần tôi xuống tới quận Chợ Lách nữa. Vô mấy vườn trái cây ở đó mặc sức mà ăn!
Còn gái Vĩnh Long thì khỏi phải nói, nhất là gái Nha Mân đẹp có tiếng! Ông anh
có đồng ý không?
Vừa hỏi anh ta vừa nheo mắt nhìn tôi một cách hóm hỉnh, tôi đính chánh và tránh
né đề tài:
- Nha Mân thuộc về Sa Đéc rồi!
Lúc đó xe đang ngon trớn phóng nhanh và tôi thấy mấy chiếc xe khá xa về phía
trước đang chạy chậm lại nhưng anh tài xế đang vui câu chuyện hình như không
chú ý, anh vội quay qua tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Ủa, tôi tưởng là Nha Mân thuộc về Vĩnh Long chớ! Tôi nhớ hồi trước có lần...
có lần…ĐM! Lại trạm kiểm soát! Tối rồi mà còn nút chặn!
Anh ta vội ngắt ngang câu chuyện với tôi, ngoái đầu lại phía sau như cái máy,
báo động:
-Trạm kiểm soát đó nghe bà con, có giấy tờ gì lo móc sẵn ra, để chạy cho nó lẹ!
Tối rồi....
Chiếc xe ngừng lại khá gấp. Vì mải lo nói chuyện và không để ý mấy xe trước đã
dừng, nên anh vội đạp thắng, làm hành khách ngả nghiêng. Tiếng la, tiếng cười
nói, tiếng rủa sả lại rộn cả lên từ đám bạn hàng quen thuộc từ phía sau.
Lúc bấy giờ là cuối tháng Tư năm 1976, một năm sau ngày cộng-sản chiếm miền
Nam. Tôi không hiểu chính quyền cộng-sản thời đó áp dụng chính sách kinh tế kiểu
gì, chỉ biết là đi tới đâu, cũng nghe dân chúng rên rỉ, than phiền về tình trạng
ngăn sông cấm chợ. Trên các trục giao thông đường bộ cũng như đường thủy, có
quá nhiều trạm kiểm soát. Thời kỳ đầu, các trạm kiểm soát đủ loại mọc lên khắp
nơi, cách một đoạn chừng mươi cây số lại có một trạm, về sau này có thưa đi một
chút nhưng vẫn còn quá nhiều. Lúc đầu kiểm soát giấy đi đường, kiểm soát thẻ
đăng bộ xe gắn máy, kiểm soát giấy tờ hóa đơn đồng hồ, cà rá v.v... Ai không có
hóa đơn thì tịch thu chờ “cứu xét”.
Về sau này, kiểm soát hàng hóa như đậu lạc, dừa khô, thịt heo, hoa quả vải vóc
và các thứ khác. Nhưng ở đời, vỏ quít dày có móng tay nhọn. Chánh quyền càng
tăng cường kiểm soát thì các con buôn càng có nhiều mánh khóe tinh vi hơn để
qua mặt chánh quyền. Khi có nhiều kẻ qua mặt thì chánh quyền lại tăng cường
thêm các trại kiểm soát và cứ thế cả hai đàng cùng leo thang chơi trò “cút bắt
kinh tế”.
Tôi có nghe được khá nhiều câu chuyện về mánh lới con buôn dùng để vượt qua các
trạm kiểm soát, trong đó có chuyện sau đây làm tôi nhớ mãi. Có một người đàn bà
bụng mang dạ chửa, nhưng vì quá nghèo nên phải tảo tần mua bán độ nhật qua
ngày. Chị lén “buôn lậu” vài loại hoa quả như chuối, dừa khô v.v... Có hôm bị
nhân viên kiểm soát kinh tế bắt tịch thu mất vốn, cũng có khi chị năn nỉ họ
thương tình tha cho vì xét ra dăm ba trái dừa khô, một ít nải chuối cũng chẳng
đáng là bao. Nếu gặp phải thịt heo thì không thể tha được, vì món hàng này bị cấm
ngặt, do đó nếu ai giấu được vài ký thịt qua trạm kiểm soát sẽ lời bằng mấy lần
người khác buôn hoa quả. Chị đàn bà có mang này cứ tiếp tục buôn bán hoa quả thời
gian khá lâu.
Một ngày nọ chị cũng đi buôn dừa khô như thường lệ, nhưng hôm đó bất ngờ chị phải
đứng chờ trước trạm kiểm soát khá lâu. Một lúc sau, nhân viên kiểm soát ngạc
nhiên thấy máu chảy ướt cả hai bàn chân của chị, tưởng là chị đã tới lúc sanh
con, nên nhân viên kiểm soát vội vàng gọi y tá tới giúp. Mặc dù chị quyết liệt
từ chối, nhưng ai lại để chị sanh con giữa đường giữa sá bao giờ! Khi tới nơi mới
vỡ lẽ ra, chị ta chẳng bầu bì gì cả. Thì ra từ bao lâu nay chị đã buôn lậu hàng
tạ thịt heo bằng cách bó thật chặt vào bụng khi qua các trạm kiểm soát, và dĩ
nhiên là chị ta chỉ “có bầu” để qua mặt nhân viên kiểm soát. Mặc dù lục soát rất
kỹ nhưng có ai sờ nắn bụng đàn bà có mang bao giờ.
Hôm ngày chị “ở cữ ” vì kẹt trước trạm quá lâu, và thịt heo gói trong bọc nhựa
loại xấu vỡ ra, làm máu chảy dọc theo hai bên chân dài xuống ướt cả bàn chân mới
ra cớ sự. Hàng trăm thứ tội chỉ tại vì cái bọc nhựa kém chất lượng! Loại bọc nhựa
đen ngòm làm bằng chất nhựa nấu lại, vì thời buổi ấy tìm đâu ra túi loại trắng
làm bằng thứ nhựa nguyên chất?
Chiếc xe của tôi bò từ từ, nối đuôi theo sau đoàn xe khá dài đang đi ngang qua
trạm kiểm soát. Tôi e ngại mỗi khi xe ngừng lại các trạm, vì kinh nghiệm cho biết
bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra tại các nút chặn như thế này. Mỗi lần qua
trạm, tôi đều nhớ lại cảnh tượng hãi hùng mà tôi đã chứng kiến, cũng xảy ra
trên tuyến đường này một năm về trước.
Hôm đó, mới 5 ngày sau khi cộng-sản chiếm miền Nam, tôi đang ở Nhà thờ Chánh
tòa Vĩnh Long và có việc phải đi Sài Gòn cùng với một vài người trên chiếc xe
Wolksvagen của cơ quan bác ái Caritas. Trên quốc lộ 4 ngày hôm đó thật hỗn loạn
khác thường, nào xe lớn xe nhỏ, nào người dân, nào du kích mang súng ống đạn được...
đông nghẹt cả đường lộ như cảnh bán chợ trời. Cách quãng vài trăm thước lại có
một nhóm vài ba anh du kích mặc đồ đen, đội nón tai bèo, mang dép râu, khăn rằn
quấn cổ mang súng AK hoặc M16, đưa tay chận xe lại và xét! Tôi cũng chẳng biết
họ xét cái gì, vũ khí thì chúng tôi không có, giấy tờ thì chúng tôi có nhưng họ
lại không biết đọc. Cuối cùng họ xét ... hóa đơn! Bất cứ thứ gì, nhất là
đồng hồ đeo tay mà không có hóa đơn đều bị giữ lại để chờ mang hóa đơn tới chuộc
về. Tôi nghe rất nhiều khổ chủ của những xe gắn máy, của các chiếc đồng hồ đang
cố gắng giải thích cho các anh du kích trong rừng vừa mới ra này hiểu rằng,
không bao giờ họ cần phải mang theo hóa đơn khi đi đường. Nhưng giải thích thì
cứ giải thích còn việc “cách mạng” làm thì họ cứ làm.
Xe tôi rời nhà từ sáng sớm, cho tới xế chiều thì bò gần tới Cái Bè, tức là gần
nửa đoạn đường 130 cây số Vĩnh Long - Sài Gòn. Tính ra chúng tôi đi được 50 cây
số trong 7 tiếng đồng hồ. Xe cứ bò đi, lại bị chận kiểm soát rồi lại bò
đi, lâu lâu xe dừng lại cho mấy anh du kích quá giang. Khi tới Cái Bè lại kiểm
soát và lần này thì một anh du kích có sáng kiến rất lạ lùng, anh cầm ngửa một
cái nón lá của phụ nữ, leo lên xe tôi và ra lệnh tất cả hành khách ai có bất cứ
một thứ giấy tờ gì thì ném hết vào. Chúng tôi nhìn nhau e ngại trước cái lệnh
quái đản này, vì nếu không còn giấy tờ tùy thân nữa thì chúng tôi sẽ ra sao
trong tình thế hỗn độn này? Tôi lên tiếng hỏi:
- Anh à, nếu anh giữ giấy tờ chúng tôi ở đây, các trạm tới hỏi chúng tôi làm
sao?
Anh du kích điềm nhiên trả lời:
- Bà con nói là anh Tư Lớn ở Cái Bè đã giữ!
Trời ơi, giấy tờ tùy thân của chúng tôi trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này mà
anh “Tư Lớn” coi như... lá khoai! Nhưng chúng tôi không thể giải thích hoặc cưỡng
lệnh anh “Tư Lớn”, nhất là khi nhìn thấy cái nòng súng AK đen ngòm và bóng láng
trên vai anh. Tôi biết tốt nhất là ném giấy tờ vào cái nón lá.
Đó cũng là lần cuối cùng tôi còn nhìn thấy cái thẻ căn cước của tôi thời Chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi trở thành mình trần thân trụi, tôi cảm thấy vô
cùng ngao ngán. Đi hay về? Chúng tôi bắt đầu hỏi nhau, cuối cùng chúng
tôi quyết định tiếp tục đi Sài Gòn, vì đàng nào thì giấy tờ cũng đã mất.
Cảnh tượng hãi hùng
Chiếc Wolkswagen tiếp tục bò tới ngã ba Trung Lương thì lại gặp
nút chặn. Cả một đoàn xe đang dừng lại, và người ta trên quốc lộ 4 đông như trấu.
Chúng tôi lại bị hỏi giấy tờ, nhưng chẳng ai còn một thứ gì trong tay và nói là
anh “Tư Lớn” ở Cái Bè giữ lại tất cả. Nhưng khổ nỗi, giữa cảnh hỗn quân hỗn
quan người đông như kiến cỏ thế này, có ai biết anh “Tư Lớn” là ai! Thế là
chúng tôi bị đuổi quay xe về. Không còn cách nào hơn, chúng tôi phải quay trở về
sau gần một ngày lê lết trên quốc lộ 4.
Khi xe trở đầu xong và dừng nối đuôi sau một đoàn xe chờ đường trống để “bò” đi
thì một cảnh tượng hãi hùng diễn ra ngay bên cạnh. Nhìn qua cửa kính, tôi thấy
một anh du kích trẻ tuổi đội mũ tai bèo, mặc đồ đen có khăn rằn quấn cổ, vai
mang súng AK đang lục soát một người chạy chiếc Mobilette xanh từ hướng Sài Gòn
chạy xuống. Chiếc xe được dựng chân đứng lên. Người chủ xe là một thanh niên trạc
chừng 30, mặc quần đen và áo sơ-mi màu sậm có sọc dài đang đứng kế bên. Anh du
kích cúi người, lục lọi những món đồ trong 2 túi phía sau yên xe ra để xuống mặt
đường. Tôi thấy mấy trái khóm (dứa) và một ít đồ lỉnh kỉnh.
Cảnh lục soát này đã quá quen thuộc, nên tôi không mấy gì để ý. Nhưng bất thình
lình, không biết xét gặp thứ gì, anh du kích vội bước lùi lại, tay lên cò súng
thật vội vã, miệng quát to, tiếng quát như tiếng sĩ quan đang gào thét binh sĩ
ngoài mặt trận: “Nằm xuống! Nằm xuống.” Anh du kích vừa la hét vừa nhảy lùi lại
mấy bước nữa. Cây AK trong tay anh đang ở thế chiến đấu và mũi súng đen ngòm
đang chỉa về phía người đàn ông đáng thương đang vội vàng nằm sấp xuống mặt đường.
“Đưa 2 tay về phía trước!” Anh du kích lại hét lên ra lệnh, và người đàn ông luống
cuống làm theo. Tôi thấy anh du kích xê dịch khẩu súng khi sửa lại thế đứng,
nhưng họng súng không rời khỏi thân hình con người đang nằm sấp trên lộ. Sau
khi họng súng đã hướng chính xác về phía nạn nhân, thì “Bằng! Bằng! Bằng! Bằng!...”
Một tràng súng nổ vang, những người ở xa vội nằm xuống né đạn theo phản xạ tự
nhiên.
Thân hình người đàn ông nằm dưới đất bị giật nẩy lên mấy lần theo từng tiếng
súng nổ. Máu anh văng tung tóe và cơ thể anh co giật thật dữ dội rồi nằm yên bất
động. Cảnh tượng xảy ra quá gần, nên từ trong xe tôi còn ngửi được mùi thuốc
súng! Sự việc diễn ra quá nhanh làm tôi không có giờ để sợ hãi. Tôi nhắm mắt
quay mặt đi, vừa âm thầm đọc một câu kinh cho nạn nhân. Mặc dù trong thời chiến,
tôi đã từng thấy những thân thể con người bị Việt-cộng chặt đầu mổ bụng vì ghép
vào tội Việt gian hoặc trốn thuế, nhưng cảnh anh du kích bắn người một cách quá
dã man như thế này, tôi mới chứng kiến lần đầu sau khi miền Nam được “giải
phóng!”
Trở về thực tại, lúc này chiếc xe tôi dừng hẳn lại ngay trước mặt mấy anh
công-an vai mang súng kè kè. Tôi cố giữ vẻ mặt thật bình thản, trong khi mấy
anh công-an mặt mày đen đúa áp sát mặt nhìn chằm chằm vào bên trong xe, chẳng
nói chẳng rằng. Thực tình tôi cũng chẳng biết họ muốn kiểm soát cái gì, kiểm
soát người hay đón bắt mấy bà bạn hàng chở đồ lậu tôi cũng không biết. Xe nào
cũng phải dừng lại, nhưng một chốc lại được đi. Xe tôi cũng vậy, họ chẳng hỏi
người nào, nhưng cặp mắt láo liên của họ nhìn chằm chằm vào mặt từng hành khách
làm tôi có cảm tưởng họ đang nhận diện một người nào họ đã biết mặt, hoặc đã được
coi qua hình. Sau khi thấy chẳng có gì khả nghi, anh công-an phía ngoài vẫy tay
cho đi. Người tài xế vừa gài số định chạy, thì anh bên phía trong lề chợt giơ
tay ra lệnh dừng lại. Tôi hơi lo ngại.
- Ngừng lại đã! Cái túi đỏ này của ai?
Vừa hỏi anh ta vừa chỉ vào cái túi xách của tôi để dưới chân. Tôi hơi chột dạ,
nhưng cố làm ra vẻ bình thản, vừa trả lời vừa cầm túi lên mở dây kéo.
- Gì trong đó?
Tôi cho tay vào lôi bộ đồ bà ba đen ra khỏi miệng túi:
- Mấy bộ quần áo thôi, chẳng có gì!
Anh công-an có vẻ không chú ý lắm vào việc xét hỏi này, chỉ nhìn qua loa chiếu
lệ. Lúc bấy giờ tôi chỉ ngại anh ta bảo đưa túi ra cho anh ta lục soát. Trong
túi xách của tôi, ngoài bộ đồ bà ba đen nằm trên mặt, còn có một khăn tắm khá
to màu cứt ngựa, một cái võng bằng vải nylon dầu màu đen, ở hai đầu có đoạn dây
dù khá dài quấn quanh cái võng cuộn tròn lại như đòn bánh tét, một cái đèn pin,
một con dao bấm loại các phi công vẫn dùng và một túi nhỏ của học sinh đựng bút
mực được tôi dùng đựng kem đánh răng, bàn chải và một ít thuốc trị sốt rét. Những
thứ này, nếu bị xét thấy cũng có thể gây nghi ngờ và phải trả lời lôi thôi,
nhưng cũng không đáng ngại lắm vì nó phù hợp với giấy tờ tùy thân tôi đang có:
nhân viên của Công ty khai thác Lâm sản bằng máy ủi của tỉnh Lâm Đồng. Đây là bản
photocopy mà một anh bạn đã thay tên tôi vào. Lúc đó chẳng cần biết giấy tờ thực
hay giả, miễn có chữ in và con dấu là hữu dụng. Người công-an xem xét cho có lệ
rồi khoát tay cho đi.
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng người mừng nhất lúc này không phải là tôi mà là
anh tài xế, vì từ lúc bị giữ lại lần sau trông bộ dạng anh tài xế bứt rứt và
khó chịu thấy rõ! Chiếc xe cài số sẵn, nhưng không được chạy, nó cứ rướn tới thụt
lui, tiếng máy gầm gừ như hai con chó đang chực cắn nhau nhưng có dây cột cổ
ghì lại. Lần này, khi anh công-an vừa khoát tay, người tài xế thả ngay
chân đạp thắng và nhấn ga làm chiếc xe chồm tới như con tuấn mã lấy đà phóng
nhanh. Các chị em bạn hàng phía sau bị mất đà ngả nghiêng, họ lại la ó, lại rủa
sả anh tài xế, anh chỉ nhe răng cười đáp lại.
Bà con lại tiếp tục nói cười một cách hồn nhiên như trước, vì hình như cảnh lục
soát quá này đã quá quen thuộc nên chẳng ai buồn để ý. Tôi lại ngồi yên nhắm mắt,
một phần cũng muốn nghỉ ngơi sau một ngày khá mệt, phần khác tôi cũng không muốn
tiếp tục câu chuyện với người tài xế vui tính, đầu óc tôi đang rối bời về chuyện
khác: Sắp tới nơi rồi!
Chặng cuối đoạn đường
Khi xe ngừng lại ở xa cảng Phú Lâm thì trời đã nhá nhem tối.
Tôi bước xuống xe, nói vài câu cám ơn người tài xế, mang túi trên vai và tản bộ
ra phía đường cái. Khung cảnh Xa Cảng miền Tây buổi chiều tà lúc bấy giờ thật
buồn và lạnh. Tôi dừng lại bên lề đường, mò túi tìm bao thuốc lá. Mùi khói thuốc
làm tôi dễ chịu và tự nhiên cảm thấy bình thản hơn. Những lần trước khi tới
Xa Cảng, tôi ra đây để đón xe lam hoặc xích lô máy vô Sài Gòn, nhưng chiều nay
tôi bước đi vì thói quen hơn là để tìm xe đi tiếp đoạn đường. Lúc đó, một chiếc
xích lô máy ngừng lại trước mặt tôi, người lái xe hỏi:
- Ông đi đâu?
Tôi yên lặng một lúc, khiến người lái xe hơi ngạc nhiên hỏi tiếp:
- Ông vô Sài Gòn hay Chợ Lớn?
Tôi đáp vội:
- Anh cho tôi về Chánh Hưng. Tôi vừa nói vừa leo lên xe.
Tôi có gia đình người bạn ở Chánh Hưng. Lúc trước, mỗi khi có dịp lên Sài Gòn
tôi thường ghé thăm và có khi ở chơi vài ngày, nhưng lần này tôi đến vì bất đắc
dĩ. Tôi biết rằng tình cảnh tôi lúc bấy giờ không thuận tiện ghé một nơi nào,
những người bạn thân lại càng không nên tới.
Nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
(đang hiệu đính)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.01.2007 06:39:54 bởi sóng
trăng >
#9 ![](data:image/png;base64,iVBORw0KGgoAAAANSUhEUgAAAA8AAAAPCAYAAAA71pVKAAAAAXNSR0ICQMB9xQAAAAlwSFlzAAAOxAAADsQBlSsOGwAAABl0RVh0U29mdHdhcmUATWljcm9zb2Z0IE9mZmljZX/tNXEAAACwSURBVDjLY2hsbGTAhZWUGLjxyeOU8AhlUYtI577sE8miQZJmexcGxdg8nsc9CxX+x+bwPLH3YFAiSrO5PUgj/+Opa1X/T1uj/r9lpuL/yExurAagcPSAGhMLhR4v3mX6f+F20/9T12j971uiCjUA0wUQgoGB0SeWQzCtXLxo7+Wghr2XPRpWH7RpmLvZpGHqaq2GqSv1GvoXazUk5AkWhYZyCIHU4w0wYvCo5pGhGQDrP1SrxcTZ5QAAAABJRU5ErkJggg==)
sóng trăng 23.01.2007
12:38:31 (permalink)
.
2
“Đêm Tân Hôn” Giữa Tây Nguyên
Tôi còn nhớ buổi xế trưa hôm ấy, vào một ngày cuối tháng 5 năm 1976, tôi có mặt
trên chiếc xe khách chở nhóm hơn 30 tù nhân từ huyện Đức Lập, nơi tôi bị bắt
ngày hôm trước, chạy lên thị xã Ban Mê Thuột. Tôi bị khóa tay dính với một người
bạn tù khác bằng chiếc còng số 8. Ngồi nhìn cảnh vật hai bên đường chạy ngược
chiều với chiếc xe đang ngon trớn phóng nhanh, lòng tôi ngổn ngang trăm mối và
đủ điều lo toan, nhưng chẳng nghĩ được chuyện gì đến nơi đến chốn. Bất giác,
tôi quay sang anh bạn chung còng với tôi, như tìm sự an ủi nơi một người đồng cảnh
ngộ. Anh bạn cũng trạc tuổi tôi, vừa ngoài 30. Nước da sạm nắng, gương mặt rắn
rỏi và khắc khổ, làm anh trông già đi trước tuổi. Sáng nay, khi tập trung tại đồn
công-an Đức Lập để làm thủ tục trước lúc lên xe giải giao lên Ban Mê Thuột,
tình cờ anh đứng gần tôi thành hàng đôi, và cán bộ cứ thế mà còng tay hai người
dính vào nhau. Đây là sự “ráp nối” thật ngẫu nhiên, cũng như sự gặp gỡ với bao
nhiêu con người xa lạ khác trong suốt cuộc đời của mỗi người, phần nhiều là do
sự tình cờ đưa đẩy, để rồi trước lạ sau quen.
Lợi dụng lúc đứng chờ lên xe, chúng tôi chào hỏi nhau và trao đổi vài câu ngắn
gọn. Qua đó tôi được biết, anh là một cựu sĩ quan trốn trình diện, nhà ở Sài
Gòn, có vợ và hai con thơ, một trai, một gái. Anh tham gia tổ chức Dân Quân Phục
Quốc và bị bắt cách đây năm ngày. Anh cũng bi bắt trong vùng biên giới âm u
giáp ranh Campuchia như tôi. Anh còn cho biết, nhóm của anh có sáu người, bị bắn
chết hai, một anh trốn thoát và ba người bị bắt cũng có mặt trong chuyến xe
này.
Người bạn đồng hành
Anh bạn ngồi sát thành xe phía trái, yên lặng hướng cặp mắt lờ đờ vô định nhìn
ra ngoài. Có lúc trông anh bất động và câm nín như một pho tượng đá được đặt
ngay ngắn trên ghế xe, hướng về phía trước, nhưng cổ và đầu quay hẳn sang một
góc 45 độ nhìn ra đường. Liếc mắt nhìn sang, tôi thấy mái tóc anh phủ dài cuốn
úp vào gáy che kín cổ áo, tạo nên nét đẹp hào hùng của những con người dày dạn
gió sương. Tay trái anh co lại, gác cùi chỏ lên thành xe, trong khi tay phải của
anh để lên đùi vì bị còng dính vào tay trái tôi. Nhìn tư thế của anh, tôi có thể
đoán biết hệ thống thần kinh của anh lúc này đang làm việc bận rộn hơn bao giờ
hết. Tự nhiên, tôi đâm ra tò mò và thử cố gắng hội nhập vào dòng suy tư của người
bạn đường không hẹn mà gặp này.
Có lẽ tâm trạng anh cũng giống như tôi lúc bấy giờ, đang nghĩ xem làm cách nào
vượt thoát ra khỏi cảnh này, và cũng thử đoán coi sự gì đang chờ đợi ở phía trước,
và tương lai cuộc đời rồi đây sẽ ra sao? Phần chắc hơn, tôi nghĩ là anh đang bị
dày vò bởi tình cảm riêng tư và thiêng liêng của gia đình. Có lẽ giờ này, trong
hình hài tượng đá của anh, tất cả tâm trí đang quay về mái ấm gia đình có hình ảnh
thân yêu của người vợ hiền, và gương mặt ngây thơ của đứa con nhỏ vừa lên bốn
lên năm đang hỏi mẹ: “Sao bố chưa về hả mẹ?”
Chiếc xe đang ngon trớn, bất ngờ bị sụp ổ gà xốc thật mạnh đã kéo tôi quay về với
thực tại. Cùng lúc đó, anh bạn ngồi bên cũng quay lại nhìn tôi bằng ánh mắt u
buồn. Có lẽ hai người chúng tôi chợt tỉnh cơn mơ cùng một lúc. Tôi tự nghĩ:
“Hay là anh bạn biết mình đang lẻn vào đời tư của gia đình anh, nên quay sang
nhìn tôi!” Tôi tự nhiên đâm ra ngượng và có cảm giác xấu hổ như đang lúc lom
khom cúi mình nhòm qua lỗ khóa, bị kẻ khác bắt gặp! Tôi nở một nụ cười gượng gạo
và quay đi tránh cái nhìn của anh, trong một thứ mặc cảm tội lỗi, được hiểu
theo một nghĩa rất nhẹ. Nhưng ngay sau đó tôi tự an ủi: “Biết đâu từ nãy giờ
anh bạn có vẻ mặt lầm lì này cũng đã ‘nhảy xổm’ vào đời tư của mình không chừng,
vì trước khi lên xe, mình có kể với anh hoàn cảnh gia đình, mẹ già đang ốm nặng
và không biết chết lúc nào”. Thực tình tôi mong anh ta đã làm chuyện đó để coi
như hòa, vì cả hai đều có lỗi.
Sau khi bị sụp ổ gà, chiếc xe khựng lại và bắt đầu đi chậm, vì tới đoạn đường đất
đỏ gồ ghề và đầy cát bụi. Chiếc xe đang cố trườn mình trên con đường ngoằn
ngoèo giữa khu rừng tối tăm u ám, giống như một con rắn khổng lồ đang bị săn đuổi,
cố lủi trốn thoát thân vào khu rừng già của miền Cao Nguyên huyền bí. Đây chính
là chuyến xe định mệnh đưa tôi vào một tương lai mờ mịt. Mặc dù chưa biết tương
lai đó sẽ ra sao, nhưng hiểu là nó u ám chẳng khác gì cảnh núi rừng Tây Nguyên
đang bao trùm lấy nhóm tù nhân chúng tôi.
Đi về đâu?
“Cuộc đời mình rồi sẽ ra sao?” Câu hỏi khó trả lời ấy và nhiều câu hỏi khác
đang thi nhau nhảy múa trong đầu tôi. Chúng giống như những đốm sáng khi ẩn khi
hiện của đàn đom đóm trên những lùm cây dại mọc hai bên bờ sông rạch của miền đồng
bằng sông Cửu Long, mà thời tuổi trẻ tôi thường trông thấy khi cùng với anh tôi
chống xuồng giăng câu, thả lưới về đêm. Tôi cố xua đuổi những câu hỏi ấy ra khỏi
đầu óc mình, nhưng rồi chúng cũng trở lại, như một bầy muỗi đói đang kêu vo ve
tranh nhau rúc đầu vào chiếc mùng lưới, cố chui vào hút máu con người đang nằm
bên trong. Lần đầu tiên trong đời, tôi có cảm giác mất an toàn khi nhìn về
tương lai, chẳng biết cuộc đời tôi sẽ trôi giạt về phương nào! Mặc dù tôi thích
phiêu lưu mạo hiểm, nhưng qua những gì tôi biết, những người khi phải sa chân
vào con đường tôi đang đi trong lúc này, không mấy khi được nhìn thấy ánh sáng ở
cuối đường hầm.
Với 33 tuổi đời và bước qua năm thứ sáu của đời Linh mục, tôi đang đi vào ngã rẽ
mà tôi đoán biết là đầy nghiệt ngã và trắc trở. Nhớ lại tuần trước, lúc từ giã
nhà người bạn tại Hưng Phú để ra đi. Tôi cần phải ra đi để tránh cho gia đình
người bạn khỏi bị rắc rối vì có người khách lạ mặt trong nhà trong thời gian
khá lâu. Trong hoàn cảnh lúc đó không ai muốn trở thành mục tiêu chú ý của hàng
xóm, và của những cặp mắt lúc nào cũng muốn tìm dịp lập công trong cơn sốt thời
cuộc đang dâng cao. Trong thời gian một tháng qua, sau khi từ giả xứ đạo La Mã
ra đi, tôi sống lẩn lút ở Sài Gòn. Thời gian đó, tôi đã phải di chuyển hết nơi
này tới nơi khác, không dám ở lại nơi nào quá vài ba ngày. Mặc dù lúc đó trong
mình tôi có giấy chứng minh là nhân viên lâm nghiệp tỉnh Lâm
Đồng, do người bạn tôi trốn trình diện và đang mai danh ẩn tích ở Sài Gòn làm
giúp cho.
Tờ giấy photocopy như lá bùa hộ mệnh này đã chứng tỏ có công hiệu trong một lần
tôi đi xe gắn máy bị chặn lại để kiểm tra giấy tờ. Khi người bộ đội cầm tờ giấy
bằng chữ in và có đóng dấu, tôi thấy gương mặt anh ta rất thoải mái và mỉm
cười trả lại cho tôi đang đứng bên. Lúc đó trong lòng tôi hồi hộp, cầu
mong cho anh ta đừng hỏi gì thêm về tờ giấy chứng minh này. Mặc dù biết là
trong hoàn cảnh tranh tối tranh sáng đó, chẳng ai có công sức đâu để truy
nguyên các loại giấy tờ. Bất cứ loại giấy gì bằng chữ in và có đóng dấu,
được coi như “cứng” khi bước ra đường. Nhưng khổ nỗi vì không quen dùng giấy tờ
giả nên lúc nào tôi cũng lo ngay ngáy. Biết đâu sẽ có lúc nào đó lại gặp phải
anh bộ đội hiểu chuyện hơn, dẫn tôi về đồn và đòi coi bản chánh thì sao? Mặc dù
lá bùa dỏm này đã giúp tôi sống yên thân tạm gần một tháng ở Sài Gòn nhưng tôi
biết không thể kéo dài tình trạng này lâu hơn được.
Lúc bấy giờ tôi có lập trường dứt khoát đối với chế độ cộng sản, nhất là sau
kinh nghiệm cay đắng của thời gian tôi sống tại họ đạo La Mã ở Bến Tre. Tôi
không chấp nhận và không bao giờ sống trong chế độ cộng sản. Tôi không chấp nhận
chế độ đó không phải vì cái tên “cộng sản” của nó, nhưng vì chủ trương vô thần
và sự cai trị độc tài, tước đoạt hết các quyền căn bản của người dân. Nếu có điều
kiện, tôi sẽ chống lại, nếu yếu thế hơn tôi sẽ trốn chạy nhưng dứt khoát không
đầu hàng chế độ này. Sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm mà tôi đã trải qua khi
phải sống trong sự kềm chế tàn bạo của chế độ, càng giúp tôi xác tín chế
độ cộng sản không thể mang lại lợi ích và hạnh phúc cho dân tộc.
Lúc đó tôi vô cùng hoang mang, thứ hoang mang của con người bé nhỏ yếu đuối dứng
trước ngã ba đường. Tâm trạng tôi là tâm trạng của con người tránh vỏ dưa gặp vỏ
dừa! Một chế độ ở miền Nam vừa sụp đổ vì thiếu phương hướng, dựa vào sức mạnh của
ngoại bang để tồn tại và mang nhiều tai tiếng vì nạn tham nhũng bất công, vừa
được thay thế bằng một chế độ càng tệ hại hơn, gây kinh hoàng cho dân chúng
ngay khi họ vừa cướp được quyền bính. Tôi trở thành người bơ vơ! Trong lòng tôi
lúc bấy giờ không thương tiếc gì về chế độ vừa sụp đổ, lại vừa kinh hãi chế độ
mới ! Tôi quyết tâm dấn thân vào con đường chống lại sự tàn ác của chế độ bất
công đang nắm quyền, không phải để khôi phục lại chế độ vừa sụp đổ, nhưng
muốn cùng với toàn thể dân tộc xây dựng thể chế tốt đẹp hơn, có thể mang
lại phúc lợi cho dân tộc. Mặc dù trong hoàn cảnh đó, thân phận tôi chỉ giống
như loài côn trùng bé nhỏ đứng trước vấn đề bao la vĩ đại của dân tộc. Nhưng
loài côn trùng bé nhỏ đó vẫn có bộ óc biết suy tư và cảm giác biết rung động của
nó.
Trong bầu khí hoang mang và đầy bất mãn đó, lại có những tin đồn tung ra. Nào
là ông Thiệu đang mộ quân kéo về biên giới, nào là ông Kỳ đang ém quân trong rừng
lá. Lúc bấy giờ có nhiều người lại tin vào các chuyện nhảm nhí đó, và sự nhẹ dạ
của họ làm tôi ngạc nhiên. Tôi tự hỏi sao lại có người ngây thơ tới độ tin tưởng
là những con người có thời giữ chức vụ chóp bu trong chánh quyền, nhưng khi hoạn
nạn tới thì đào tẩu một cách hèn nhát. Họ dẫn vợ con và ôm theo tài sản tích trữ
được trong những năm cầm quyền thoát thân. Họ bỏ mặc cho số phận dân tộc muốn
ra sao thì ra. Bây giờ những con người đó biết “thương dân ” và từ bỏ vùng đất
yên hàn ở một phương trời nào đó quay trở về cứu dân độ thế! Lúc đầu tôi rất thắc
mắc nhưng về sau này hiểu ra. Lý do là dân chúng lúc bấy giờ rơi vào tình trạng
tuyệt vọng như hành khách của con tàu chìm. Họ cố bám vào bất cứ vật gì trôi
ngang, để hy vọng khỏi chết đuối, cho dù vật họ cố bám vào chỉ là cái bọt biển.
Về phần tôi, ngay sau khi lên Sài Gòn, tôi đã gặp lại người bạn thân trốn trình
diện và đang sống lẩn lút bằng giấy tờ giả. Sau khi gặp lại nhau, chúng
tôi tìm cách liên lạc với mấy người bạn cũng trong tình trạng bất an toàn như
chúng tôi để tìm hiểu về các nhóm phản kháng đang hoạt động chung quanh khu vực
Sài Gòn mà chúng tôi nghe tin đồn. Sau thời gian cố bắt liên lạc, tôi biết phần
nhiều chỉ toàn là tin đồn truyền miệng, Trong thực tế chẳng có gì, hoặc nếu
có thì không có gì đáng kể. Trong khi đó tôi được giới thiệu với vị mục sư người
Thượng và qua vị mục sư này, tôi tìm hiểu sâu hơn về lực lượng Fulro mà theo lời
vị mục sư là đang hoạt động tích cực và hữu hiệu trong vùng núi rừng tây
nguyên. Từ thời chế độ Cộng Hòa, tôi đã biết về phong trào Fulro là phong trào
của đồng bào sắc tộc tranh đấu đòi quyền tự trị. Chủ yếu là những đồng bào sắc
tộc chống lại người Kinh đòi tự trị. Khi cộng sản chiếm miền Nam thì
phong trào Fulro càng hoạt động tích cực hơn để chống lại những người cộng sản.
Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ nhóm chúng tôi cố gắng bắt liên lạc với những người
lãnh đạo Fulro tại Gia Nghĩa thuộc quận Đức Lập tỉnh Quảng Đức, để tìm hiểu
và nếu có thể cùng phối hợp hoạt động trong khi chúng tôi không thể sống mãi ở
Sài Gòn. Chúng tôi đã rời Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 5 năm 1976, đi vào
khu vực núi rừng vùng biên giới Việt - Campuchia với tư cách nhân viên lâm sản
tỉnh Lâm Đồng. Chúng tôi cũng dự trù nếu công việc không thành sẽ tìm đường vượt
biên qua biên giới Campuchia để tới Thái Lan.
Một buổi sáng cuối tháng 5 năm 1976, nhóm chúng tôi bị lực lượng công an biên
phòng khá đông bao vây trong phần đất Campuchia. Tôi không bao giờ quên cảm
giác kinh hoàng khi những người công an tay cầm súng AK, đầu đội mũ cối đang la
hét vang dội cả núi rừng Tây nguyên trong buổi sáng có nhiều sương và lạnh buốt
của núi rừng. Khi nhìn cảnh 4 người công an chỉa thẳng mũi súng đen ngòm vào,
tôi thấy hiện ra trước mặt cái hố to và đen ngòm. Kể từ giây phút đó đời tôi đi
vào phần số mà định mệnh đã dành cho tôi trong kiếp sống lao tù.
Lúc đang ngồi trên xe chạy lên Ban Mê Thuột, tôi nhớ tới số phần của nhân vật
chánh trong cuốn truyện “Giờ thứ hai mươi lăm” của tác giả Virgil Gheorghiu mà
tôi đọc từ ngày còn ở trung học. Vì đọc đã lâu, tôi không còn nhớ rõ chi tiết đầu
đuôi câu chuyện. Nhưng điều tôi nhớ mãi, đó là về số phận bi đát của nhân vật
chánh trong truyện, anh chàng Iohann Moritz, người Roumanie bị ngộ nhận là Do
Thái trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Anh chàng trai trẻ này là người chân chất,
đang làm ăn sinh sống yên hàn với vợ con thì một ngày nọ, anh nhận được giấy
báo của chính quyền đòi lên cơ quan vì một vấn đề chính trị gì đó. Đây là một sự
lầm lẫn, cũng như bao nhiêu thứ lầm lẫn khác trong thời kỳ chiến tranh. Tự cảm
thấy mình vô tội nên anh nghĩ một cách đơn giản là chỉ cần ra cơ quan điều chỉnh
giấy tờ để xác nhận lý lịch của anh là xong.
Nhưng rồi từ lúc anh bước ra khỏi nhà, định mệnh đen tối đã vồ lấy anh. Gặp hết
trở ngại này tới trở ngại khác, và nhiều chuyện rắc rối xảy ra đẩy anh vào cuộc
đời tù tội một cách oan uổng. Khi vô tù anh bị giải giao hết trại khổ sai này tới
trại tập trung khác. Người Hung Gia Lợi hành hạ anh chán chê lại bán cho người
Đức. Anh trải qua sự tra tấn dã man của bọn lính Đức Quốc Xã, cứ thế mà đưa đẩy
trong suốt 13 năm trời. Số phần anh chàng Iohann Moritz như một thứ côn trùng
bé nhỏ bị vướng mắc vào mạng nhện khổng lồ, càng cố gắng vùng vẫy lại càng bị
dính chặt hơn. Rồi không hiểu tại sao, người Đức lại ngộ nhận anh là người
trong bọn họ, nên anh được “phục hồi danh dự” và được mặc sắc phục của SS trong
lực lượng an ninh của họ.
Khi gần tàn cuộc chiến, Iohann Moritz bị quân đội Mỹ bắt làm tù binh, anh bị
đưa ra xét xử trước Tòa án quốc tế Nurumberg và bị kết án là tội phạm chiến
tranh. Nhưng sau cùng anh được minh oan và được sum họp với vợ con. Lúc anh sắp
ra về, viên sĩ quan Mỹ Lewis muốn chụp một tấm hình cả gia đình Iohann Moritz.
Trước khi bấm máy, Lewis luôn miệng bảo Moritz: “Cười lên đi, cười đi, cười
đi...!”. Tác giả Virgil Gheorghiu dùng câu đó để chấm đứt câu chuyện, nhưng anh
chàng Moritz đáng thương vẫn cứ trơ ra không thể cười được. Thực ra anh ta rất
muốn nở một nụ cười, nhưng không làm được vì anh đã quên không còn biết cười ra
làm sao nữa!
Tôi không chắc mình có nhớ đúng chi tiết câu chuyện hay không, nhưng về số phận
đen tối của nhân vật chánh Iohann Moritz như cánh bèo trôi giữa vùng nước xoáy,
lăn lộn trong ngục tù và câu cuối cùng trong cuốn truyện thì tôi nhớ rất rõ.
Ngày đó, ở cái tuổi vừa lớn lên, khi đọc truyện này tôi bị xúc cảm mạnh và
thương cho kiếp sống đọa đày của anh chàng Moritz. Quay về thực tại, lúc này
tôi đang bị còng tay trên chuyến xe chở tù của cộng-sản. Lúc đó tôi tự hỏi, số
phận tôi rồi đây sẽ ra sao, có thể giống như anh chàng Iohann Moritz trong “Giờ
Thứ Hai Mươi Lăm” hay không? Đó là một câu hỏi thật ngán ngẩm, nhưng nó cứ lởn
vởn trong đầu, mặc dù tôi cố gắng xua đuổi nó ra khỏi dòng suy tư.
Người bạn bất đắc dĩ
Tôi thở dài ngao ngán khi nhìn xuống cổ tay đang bị chiếc còng số 8 ngoạm chặt.
Chiếc còng làm bằng inox, tuy mỏng manh nhưng chắc cứng mà lần đầu tiên trong đời
tôi phải mang nó vào cổ tay. Tôi đã nhiều lần trông thấy loại còng này, nhưng
chưa sờ đụng nó bao giờ vì tôi nghĩ là có cái gì “xúi quẩy” trong món đồ vật mà
người ta thường gọi cách bóng gió là “đồng hồ Omega”. Chiếc còng còn mới
nguyên, nước xi bóng láng, có lẽ vừa được lấy trong kho ra và biết đâu tôi được
“hân hạnh” là người dùng nó đầu tiên (dĩ nhiên là tôi phải chia sẻ 50% cái vinh
dự này với anh bạn ngồi bên!).
Tôi tò mò, lấy tay phải sờ nhẹ chiếc còng và thấy nó thật lạnh. Tôi biết cảm
giác lạnh lúc bấy giờ phần lớn là do yếu tố tâm lý tạo nên. Tôi mân mê chiếc
còng trên cổ tay, xoay đi xoay lại và thấy có hàng chữ “Made in USA” và tên của
hãng sản xuất “Smith & Wesson”. Cái tên này tôi đã thấy qua và hãng
này cũng sản xuất súng lục mà có một thời tôi rất thích sưu tầm. Công dụng của
chiếc còng không có gì là thích thú, nhưng hình dạng của nó trắng trẻo, đường
nét tinh xảo, mảnh mai và xinh xắn trông rất dễ thương! Tôi nghĩ thầm: “Đúng là
đồ Mỹ có khác!” Lúc mới tra tay vào còng, tôi cảm thấy vướng víu và bực dọc khó
chịu. Nhưng một lúc sau tôi cố làm quen với chiếc còng và không thèm để ý tới cảm
giác khó chịu nữa. Tôi chấp nhận thực tại, là từ nay chiếc còng trở thành bạn
đường của tôi. Một thứ bạn đường hoàn toàn bất đắc dĩ.
Từ cái ý nghĩ có chiếc còng làm người bạn đường này, tự nhiên tôi thấy tình cảnh
mình giống như thân phận người con gái lỡ bước sang ngang, “gái có chồng như
gông đeo cổ!” Tôi chợt nhớ lại mấy câu ca dao mà tôi thuộc nằm lòng, từ ngày
còn học lớp đệ thất tại trường trung học Minh Đức ở xứ đạo quê tôi. Ngày ấy,
khi mới bước vào tuổi mộng mơ, tôi rất thích mấy câu ca dao đồng quê trữ tình,
thật nhẹ nhàng duyên dáng nhưng đượm vẻ u buồn man mác:
Lời người con trai:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng, anh tiếc lắm thay!”
Người con gái buồn bã đáp lời:
“Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thủa nào ra?”
Tôi ngồi yên và nhẩm đi nhẩm lại bài ca dao này, nhất là bốn câu cuối cùng, vì
thấy có một sự trùng hợp nào đó giữa hoàn cảnh của cô thôn nữ ngày xưa (chắc là
nàng phải xinh đẹp!) và thân phận của tôi trong lúc này. Tự nhiên tôi thấy gần
gũi và thương “nàng” hết sức.
Chiều cao nguyên
Chiếc xe chạy vào khu dân cư của thị xã Ban Mê Thuột, nơi phần đông dân chúng
là người Thượng. Rất dễ phân biệt họ với người Kinh, vì nước da họ đen sạm, và
cách ăn mặc trang sức cũng rất khác biệt. Trời đã bắt đầu về chiều, cảnh vật
hai bên đường trông thê lương buồn thảm của một tỉnh nhỏ cao nguyên, cộng với
tâm trạng ngổn ngang trăm mối, khiến tôi có cảm tưởng mình đang băng qua một
thành phố chết.
Trước mắt tôi, cảnh một số người đội nón cối đi xe đạp. Đó đây mấy người Thượng
đóng khố, tay cầm dao rựa, vai mang gùi đầy củi, đang yên lặng cúi đầu đi thành
hàng dọc hai bên đường. Đôi lúc tôi có cảm tưởng mình đang bị lạc vào một thế
giới khác, một thế giới hoàn toàn xa lạ. Mặc dù tôi cố gắng tự thuyết phục mình
rằng những con người mang dép râu, đội nón cối và những người Thượng đóng khố,
nước da đen sạm kia, chính là những đồng bào của tôi.
Các hành khách tù nhân bắt đầu nhốn nháo khi xe chạy qua phố , khiến các anh
lính mang súng dài áp tải trên xe quát tháo, bắt ai nấy ngồi yên. Anh bạn bị
còng chung với tôi quay sang nhìn tôi với cặp mắt lộ một chút lo âu. Anh đánh
tan bầu không khí yên lặng tự nãy giờ bằng vài câu nói bâng quơ cho có lệ, những
câu đối đáp hiếm hoi từ lúc chúng tôi bị cùm dính tay nhau.
- Hình như sắp đến nơi rồi thì phải?
Tôi hướng mắt nhìn ra ngoài đáp lại:
- Vâng, hình như sắp đến rồi.
Đáp xong, tôi ngồi yên, anh bạn lại quay cổ nhìn ra ngoài như trước. Lúc sau, cảm
thấy câu đối đáp quá ngắn, tôi bèn gợi chuyện đáp lễ. Phần khác, tôi cũng cảm
thấy phải nói một câu gì đó trong lúc này để đánh tan nỗi băn khoăn trong lòng:
- Anh đã tới Ban Mê Thuột bao giờ chưa?
- Chưa, đây là lần đầu tiên tôi tới xứ này.
- Tôi cũng vậy, trông cảnh vật xơ xác quá!
Anh bạn khẽ gật đầu và đáp lại bằng một lời giải thích:
- Trước lúc tụi nó vô Sài Gòn, có trận đánh lớn ở đây mà!
Tôi lại ngồi yên và qua câu nói của anh bạn. Tôi hồi tưởng lại hơn một năm trước
đây, chiến cuộc vùng cao nguyên thật ác liệt, sau đó quân đội có lệnh “rút lui
chiến thuật” khiến đồng bào hoảng sợ chạy tán loạn lánh nạn, tràn ngập xuống
các tỉnh phía Nam. Thời gian đó, tôi đang làm việc tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh
Long và đã cùng với cha Phạm Hồng Sơn, Tuyên úy Tiểu Khu, tổ chức cuộc lạc
quyên để cứu trợ làn sóng người trốn chạy giặc cộng từ vùng ngoài đổ về.
Vừa ra khỏi thị xã một đỗi, chiếc xe chạy giữa con đường mà hai bên là rừng cao
su, một số cây lớn gãy đổ vì chiến tranh tàn phá và một số khá nhiều cây nhỏ
đang được trồng lại, mới cao chừng quá đầu người. Qua rừng cao su, tới một khoảng
đất trống khá rộng với một số nhà cửa thưa thớt. Nhìn về bên trái ở xa phía trước,
tôi thấy mấy dãy nhà dài bằng gỗ lợp tôn nằm san sát bên nhau và đoán là khu trại
giam, nơi mà chúng tôi sẽ tới. Sở dĩ tôi đoán như vậy vì hình thù các dãy nhà
này trông khác hẳn với số nhà nằm rải rác hai bên đường cái.
Điểm hẹn
Tôi đoán không lầm, chiếc xe đang ngon trớn từ từ giảm tốc độ, ra hiệu rẽ trái
và bò vào con đường đất đỏ đầy cát bụi, nằm giữa hai ao nước to và đục ngầu. Cuối
cùng dừng lại giữa cái sân khá rộng.
Bên một góc sân về phía trong, có vài căn nhà thấp lè tè bằng gỗ lợp tôn mà tôi
đoán là khu văn phòng. Kế bên là cái chòi canh nằm phía dưới chiếc cổng bằng gỗ
được dựng lên một cách sơ sài. Một anh lính Thượng, mặt mày đen đúa, đội mũ tai
bèo, ôm súng ngồi trong chòi gác đang nhìn chòng chọc vào xe chúng tôi đậu cách
đó không xa. Chừng mươi anh công-an, cả Thượng lẫn Kinh, đứng lố nhố trước cửa
khu nhà, nói năng chỉ trỏ trong một tư thế sẵn sàng bắt tay vào việc.
Tôi cảm thấy tim mình đập nhanh từ lúc xe rẽ vào trại. Mặc dù tôi đã từng tập
cho mình sự bình tĩnh trước mọi trường hợp, nhưng lúc này tim vẫn đập thình thịch
trong lồng ngực. Tôi có thói tự trấn an bằng câu nói: “Chuyện gì phải tới nó sẽ
tới, lo lắng làm gì khi không thể xoay chuyển được tình thế!” Dù vậy, trong lúc
này tôi vẫn thấy hồi hộp, lo lắng. Sau khi xe tắt máy, chúng tôi được lệnh ngồi
yên trong khi mấy anh công-an áp tải bước xuống mang giấy tờ vào văn
phòng. Một lúc sau, họ trở ra với hai người lạ mặt khác, một Kinh và một
Thượng. Anh người Kinh khá đứng tuổi, chỉ huy toán công-an trong sân. Anh ta mặt
xương, dáng gầy và cao, nói rặt giọng Bắc, mặc đồ công-an màu cứt ngựa cài cả
nút cổ, đầu đội mũ có lưỡi trai nhỏ y như kiểu cách của Mao Trạch Đông mà tôi
thấy hình trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Chính anh này ra lệnh chúng tôi xuống
xe và ngồi vào một góc sân.
Bầu không khí lúc bấy giờ thật căng thẳng, nhất là khi nhìn thấy những cặp mắt
trắng dã và láo liên của những anh lính Thượng mặt mày còn non choẹt, đứng bồng
súng AK ngang trên tay trong tư thế chiến đấu. Nòng súng đang chĩa thẳng vào
đám người chúng tôi một cách đầy ác cảm và đe dọa. Bộ dạng mấy anh Thượng cộng
này toát ra một thứ gì đầy vẻ chết chóc. Khi nhìn họ, tôi chợt nhớ lại mấy cuốn
phim cao bồi Mỹ nói về các tay mạo hiểm da trắng đi khai phá vùng viễn tây Hoa
Kỳ, bị rơi vào tay thổ dân da đỏ. Đám thổ dân này mình quấn lá cây, đầu đội mũ
có vắt lông chim, tay cầm cung lắp sẵn những mũi tên tẩm thuốc độc lúc nào cũng
chực bay ra khỏi dây cung đang căng. Thật ra, những mũi tên tẩm thuốc độc của
dân da đỏ không có vẻ “lạnh người” như những họng súng AK đen ngòm đang chỉa thẳng
vào nhóm chúng tôi.
Sau khi tất cả đã xuống xe, họ ra lệnh cho chúng tôi để yên đồ đoàn tại một góc
sân và “tay trong tay” bước ra ngồi thành hàng đôi cách đó vài ba thước. Cuộc
khám xét bắt đầu. Lúc ấy vào quãng năm giờ chiều và trời cao nguyên đã bắt đầu
xám xịt và có gió lạnh. Tôi hướng mắt nhìn vào trại, không thấy ai nhưng có tiếng
hát tập thể thật to vọng ra từ các dãy nhà: “Vùng lên nhân dân miền Nam anh
hùng, vùng lên xông pha vượt qua bão bùng, thề cứu lấy nước nhà, thề...”. Về
sau này tôi biết lúc đó là giờ sinh hoạt ban chiều của các tù nhân trong trại,
và họ đang hát bài “Giải phóng miền Nam” mà lần đầu tôi được nghe.
Thêm một số cán bộ trong trại kéo ra. Đa số là người Thượng, có vài ba cán bộ nữ,
tiếp tay với số công-an có sẵn trong sân kiểm tra đồ đoàn của chúng tôi. Khi một
cán bộ tới bên túi xách của ai, người đó được tháo cùm bước tới đứng kế bên để
làm thủ tục khám xét. Trong lúc ngồi chờ tới lượt mình, tôi nhìn trời nhìn đất
chán rồi quay ra quan sát mấy chú Thượng cộng mặt mày búng còn ra sữa đang bồng
súng đứng vây quanh.
Tên đứng gần tôi nhất coi bộ ngứa ngáy tay chân. Thỉnh thoảng anh ta di động
ngón tay trỏ nhỏ xíu, và đen mốc như con giun đất, sờ vào cò súng, rà lên rà xuống
theo chiều cong phía trong một cách nghịch ngợm quái ác. Tay trái anh nắm chặt
cổ cây AK quét qua quét lại hết dãy tù nhân đang ngồi chồm hổm thành hai hàng
dài trước mặt. Có lẽ trong cái đầu xẹp lép như trái dừa điếc của anh ta, giờ
này đang ôn lại bài học tác xạ “chiến thuật chống biển người” và đang mong có
ai trong chúng tôi tỏ một vẻ gì khác lạ để anh ta có dịp “thực tập” bài học đó.
Nhìn thái độ đó, tôi đâm ra ngán, và nghĩ thầm:“Cái thằng ôn con này, không biết
nó sử dụng súng ống có rành không đây? Không khéo rồi súng bị cướp cò mình lại
chết oan lãng xẹt!” Nghĩ bụng như vậy, nên mỗi lần anh ta rà họng súng đúng tầm,
tôi tìm cách nghiêng người né tránh.
Mặc dù tôi và mấy người chung vụ đã bị khám xét tả tơi chiều hôm qua, khi vừa mới
bị bắt trên phần đất Campuchia và dẫn về quận Đức Lập để tạm giam. Nhưng cuộc
khám xét hôm nay cũng gắt gao không kém, và họ tịch thu thêm một số đồ đạc, mà
cuộc khám xét hôm qua còn chừa lại.
Quận lỵ biên giới
Đức Lập là một quận nhỏ của tỉnh Quảng Đức, nằm cách biên giới Campuchia 30 cây
số, và cách thị xã Ban Mê Thuột quảng 50 cây số. Từ sau ngày cộng-sản chiếm miền
Nam, có nhiều người lên Đức Lập tìm đường vượt biên. Các nhóm nổi lên chống đối
chế độ và lực lượng Fulro cũng dùng nơi này ẩn nấp để hoạt động. Nhóm anh
em chúng tôi cũng bị bắt trong trường hợp này khi chúng tôi đang ở trên phần đất
của Campuchia. Do đó số người bị công-an, bộ đội bắt giữ tại đây mang nhiều thứ
tội danh khác nhau như vượt biên, phản động, chống phá cách mạng, tàn dư Fulro.
Cũng có một số tù hình sự, lưu manh trộm cắp và vài anh cán bộ hủ hóa cũng đang
bị giam giữ nơi này. Đồn công-an biên phòng ở quận này biến thành một trại tạm
giam và khi đủ một chuyến xe thì giải giao về tỉnh Ban Mê Thuột.
Thủ tục đầu tiên khi mới bị đưa về đồn công-an Đức Lập là khai lý lịch và khám
xét đồ đạc. Tôi khai đúng lý lịch của mình và cho biết lý do tôi vào rừng là có
ý định vượt biên, mặc dù tôi biết với những bằng chứng khi bắt giữ chúng tôi, họ
không tin lời khai này. Sau lần khám xét sơ khởi, chúng tôi chỉ còn được giữ lại
áo quần và một ít đồ dùng cần thiết như kem đánh răng, bàn chải, thuốc lá...
còn tiền bạc và các thứ có giá trị như vàng, đồng hồ, nữ trang, thuốc men đều
phải gửi lưu ký:“Không phải lo, khi nào được tha về, cách mạng sẽ hoàn trả lại
cho các anh”, nhóm công-an biên phòng phụ trách việc khám xét họ nói như thế.
Khách quan nhìn vào, ở Đức Lập họ làm ăn cũng cẩn thận và minh bạch, các đồ vật
gửi lưu ký cũng có biên nhận hẳn hoi và được đọc lại cho đương sự nghe trước
khi ký tên, nhưng nội dung của các tờ biên nhận đó mới là điều đáng nói. Trong
số tù nhân bị khám xét chiều hôm qua tại Đức Lập, có một số người vượt biên bị
bắt lại. Họ có khá nhiều đô-la, kim cương, vàng lá, nữ trang, đồng hồ, tất cả đều
bị giữ lại và được ghi vào biên nhận như sau:
- Kim cương, trong giấy biên nhận ghi: “Có nhận (bao nhiêu) viên đá nhỏ màu trắng,
chiếu sáng, có nhiều góc cạnh, chất lượng tốt xấu ra sao không rõ”.
- Vàng lá, họ viết: “Có nhận (bao nhiêu) miếng kim loại màu vàng, chất lượng tốt
xấu ra sao không rõ.”
- Đồng hồ: “Có nhận một đồng hồ đeo tay hiệu..., màu..., bộ máy bên trong tốt xấu
ra sao không rõ.”
- Tiền đô-la: “Có nhận (bao nhiêu) tiền giấy của Mỹ, thật giả không rõ.”
Các thứ khác cũng có đầy đủ biên nhận với lời lẽ như vậy. Riêng tôi cũng nhận
được một tờ biên nhận cho cái đồng hồ Citizen với hàng chữ ghi:“Bộ máy bên
trong tốt xấu ra sao không rõ!” Tôi giữ giấy đó và coi như một “vật kỷ niệm”,
vì từ lúc tháo đồng hồ ra khỏi cổ tay để trao cho anh công-an, tôi chẳng hề
mong có ngày gặp lại nó.
Lúc lên Ban Mê Thuột chúng tôi cũng bị khám xét, phần tôi đã xong và chỉ còn
vài người nữa. Trời thật lạnh. Cái lạnh căm căm của núi rừng cao nguyên buổi
chiều tà thấu vào da thịt! Tôi kéo cao cổ chiếc áo 'treillis' đang mặc trên người,
móc bao thuốc lá 'President' nhèo nát trong túi ra mời anh bạn chung còng một
điếu và tôi rút ra điếu cuối cùng. Tôi vò bao thuốc rỗng trong tay thành một
viên bi tròn, búng về phía bờ ao, đánh diêm hút thuốc trong khi chờ đợi những
màn tiếp theo.
Hơi thuốc lá làm tôi ấm và dễ chịu. Tôi rít thêm một hơi thuốc thật dài, ngửa mặt
nhả khói lên bầu trời bao la và tự nhiên tôi mỉm cười. Cho tới lúc này tôi cũng
không có dịp tìm hiểu xem lúc bấy giờ tại sao tôi lại nở một nụ cười thật tươi.
Có lẽ một phần khói thuốc giúp tôi cảm thấy thư thái sau gần một ngày đi đường
mệt nhọc và đầu óc căng thẳng, nhưng nguyên nhân chính có lẽ là một nụ cười tự
tin, chấp nhận hoàn cảnh hiện tại và quyết tâm lợi dụng tất cả mọi trường hợp
thuận tiện để hoán cải số phận của mình.
Hút chưa tàn điếu thuốc, chúng tôi được lệnh xếp hàng đôi đi vào trại. Tôi búng
mẫu thuốc còn cháy dở ra xa, cúi xuống nhặt chiếc ba-lô nhẹ hẫng chỉ có một áo
len, một bộ quần áo, chút ít đồ dùng cá nhân và vài bao thuốc lá. Mang ba-lô
lên vai, tôi bước theo đoàn người và đi ở gần cuối hàng. Nhìn bóng dáng ẩn hiện
của số người trước mặt đang mệt nhọc lê bước trong màn đêm vừa chụp xuống, lòng
tôi dâng lên một thứ cảm giác thật khó diễn tả bằng lời. Trong số tù nhân đang
lầm lũi tiến bước này có cả đàn bà và trẻ con bị bắt vì tội vượt biên. Họ bị bắt
trước tôi và hôm nay cùng tôi di chuyển chung trên chuyến xe. Thấy cảnh trẻ con
kêu khóc đang bám vào tay mẹ lần bước vô tù, tôi đau xót nghĩ thầm:“Thế là tai
họa giặc cộng vồ lấy dân tộc Việt như chiếc lưới khổng lồ được bổ xuống biển,
chụp bắt cá lớn cá bé, không chừa loại nào.”
Chim rẽ đàn
Vừa qua khỏi cổng trại được mấy bước, đoàn người bị chặn lại và được lệnh ngồi
xuống chờ đợi trong khi một cán bộ nữ cầm quyển vở học trò ghi chép cái gì đó
mà tôi đoán là họ phân chia chúng tôi vào các buồng. Trong khi chờ đợi, tôi
nhìn vào trại trong bóng đêm chập chờn và một khung cảnh quái lạ hiện ra trước
mắt, một khung cảnh chẳng có gì là hấp dẫn để diễn tả lại, nhưng là một hình ảnh
tôi không sao quên được.
Trong bóng đêm, các dãy nhà giam đen lù lù nằm chấu đầu vào khoảng sân khá rộng
chính giữa, trông như những ngôi mộ tập thể khổng lồ nằm ngay hàng thẳng lối
trong một nghĩa trang thật rộng, có hàng rào kẽm gai vây quanh. Xa xa ở các góc
nhà, một vài bóng điện tròn leo lét đang tỏa ánh sáng mờ nhạt trong màn sương
đêm của núi rừng, trông như những nén hương được ai đó thắp lên để tưởng nhớ những
con người xấu số đang nằm trong nhà mồ tập thể trải dài trước mắt tôi.
Một lúc sau, khi cô cán bộ đã ghi chép xong, chúng tôi được lệnh đứng lên và vẫn
giữ hàng đôi tiếp tục đi dần vào trại. Thời tiết lạnh lúc bấy giờ làm tôi cảm
thấy đói và mệt. Cả ngày nay chúng tôi chỉ được phát cho mỗi người một vắt cơm
có rắc muối sẵn. Từ lúc lên xe cho tới giờ trời đã tối và chưa được ăn uống nghỉ
ngơi gì, tôi chỉ mong vô trại cho nhanh để ngả lưng một chút và tìm gì ăn cho đỡ
đói, và nếu được thì ngủ một giấc cho lại sức rồi mọi chuyện muốn ra sao thì
ra.
Chỉ mới có mấy ngày qua mà bao nhiêu biến cố đã xảy ra làm thay đổi dòng đời và
đưa dẫn tôi vào một hoàn cảnh thật đặc biệt. Đời tôi đang bắt đầu một khúc
quanh quan trọng. Tôi tự nhủ :“Chuyện gì phải đến, nó đã đến”, và tôi chuẩn bị
tinh thần để sống quãng đời trước mắt, kiếp sống của một người tù. Tôi quyết
tâm và tự hứa với lòng:“Mặc dù dòng đời đang thay đổi, môi trường sống thay đổi,
nhưng con người Linh mục của tôi thì không.” Sáu năm qua trong chức vụ Linh mục,
năm năm tôi làm bổn phận trong chế độ Cộng-hòa và một năm dưới chế độ Cộng-sản,
dù hoàn cảnh hay thể chế nào, tôi cũng hết lòng làm tròn nhiệm vụ. Kể từ hôm
nay tôi có dịp sống đời Linh mục trong ngục tù cộng-sản.
Tôi chuẩn bị tinh thần để nhập cuộc, mặc dù suốt hơn mười năm được huấn luyện
trong chủng viện, tôi chưa bao giờ có được loại hành trang cho môi trường lao
lý này. Biết rằng những thử thách lớn đang chờ đợi, nhưng tôi không lo lắng nhiều
vì vững tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, tin vào sự nâng đỡ và soi sáng của
Đấng Thánh Linh. Ngài chính là sức mạnh của tôi.
Trong lúc đang lầm lũi bước vào trại giam, tôi âm thầm cầu nguyện:“Lạy Chúa,
xin nâng đỡ sự yếu hèn của con và dạy cho con biết phải sống như thế nào để xứng
đáng là một chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa giữa anh em trong cuộc sống tù
đày”. Lúc ấy tôi nhớ lại một câu trong Kinh Thánh: “Ơn Cha đủ cho con!” (2 Cor
12: 9). Tự nhiên tôi cảm thấy vững tin và hăng hái như tâm trạng của một nhà
thám hiểm đang dấn thân vào một chân trời xa lạ và đầy bất trắc.
Tôi ngẩng đầu lên cao nhìn trời, hít một hơi thật dài và lạ lùng thay, lúc này
làn khí mát lạnh lùa vào buồng phổi lại làm tôi khoan khoái dễ chịu. Màn đêm
không còn mang vẻ u ám nặng nề như tôi thấy khi vừa bước qua cổng trại. Tôi lắc
đôi vai, xốc lại chiếc ba-lô trên lưng và mạnh dạn bước đi bằng những bước đầy
tự tin. Thình lình, tôi nghe một giọng nói khá to từ phía sau:
- Anh mang kính đó đứng lại!
Không biết chắc có phải gọi mình, vì tôi cũng không biết trong nhóm còn có ai
mang kính ngoài tôi ra hay không. Dù vậy tôi cũng dừng bước quay lại hỏi:
- Anh muốn gọi tôi?
Anh công-an mặc đồ kiểu ‘Mao Trạch Đông’ lúc nãy, tay đang cầm
quyển sổ trả lời:
- Phải, anh đứng lại, vào đây.
Vừa nói, anh ta vừa chỉ vào trại mộc ngổn ngang những gỗ lạt, nằm bên cánh trái
sát ngay trong cổng trại, kế bên chòi gác. Tôi dừng chân, bước ra khỏi hàng và
dưới ánh sáng lờ mờ của bóng đèn điện ở góc nhà, tôi còn kịp thấy nét mặt đầy
lo lắng của các anh em chung vụ đang ngoái lại nhìn tôi một cách ái ngại. Theo
lệnh anh công-an, tôi vào trại mộc và ngồi hờ trên một cái ghế bào. Anh ta đến
bên bảo tôi:
- Anh ngồi đây đợi, không được ra khỏi nơi này, có cần gì thì báo
cáo với cán bộ gác.
Nói xong anh ta bước ra theo đoàn người đi vào trại.
Hạnh ngộ bất ngờ
Tôi ngồi trong láng mộc chờ khá lâu, có khi hàng tiếng đồng hồ rồi cũng nên. Cảm
thấy lạnh, tôi mở ba-lô lấy áo len ra mặc vào người, móc bao thuốc lá mới ra,
rút một điếu và liếc nhìn sang anh lính gác, thấy anh ta cũng đang theo dõi
quan sát từng cử chỉ của tôi. Khi cho tay vào túi tìm bao diêm, tôi chợt nhớ
lúc nãy tôi đã dùng que diêm cuối cùng. Ngậm điếu thuốc trên môi, tôi nhìn anh
Thượng đang ngồi trong chòi gác, ra hiệu xin mồi lửa, anh ta ra hiệu trở lại là
không có. Tôi đành kẹp điếu thuốc trong tay và chờ coi có ai đi qua để xin lửa.
Cũng may, có anh cán bộ người Kinh đi vào, tôi bước ra xin mồi thuốc, sẵn dịp
nói là tôi đang đói vì cả ngày nay chưa được ăn gì. Nghe vậy, anh hơi ngạc
nhiên và dẫn tôi vào một dãy nhà giam nằm khá sâu về bên trong.
Khi anh ta mở cửa buồng giam, một cảnh tượng thật ồn ào hiện ra trước mắt tôi.
Một số chừng năm, sáu chục tù nhân, người ngồi, người đứng, kẻ đi lại trong
hành lang dài giữa buồng, hai bên là sạp nằm bằng gỗ có hai tầng. Người cán bộ
hỏi buồng trưởng phần ăn của tôi, sau đó anh ta bỏ đi và bảo sau khi tôi ăn
xong anh sẽ trở lại. Khi thấy có phần ăn để dành sẵn (một chén cơm và một bát
nước canh), tôi hiểu ngay là đáng lẽ tôi vào buồng này, nhưng không hiểu vì lý
do gì họ lại giữ tôi riêng, bảo chờ bên ngoài.
Lúc tôi đang ăn, các anh em tù vây quanh hỏi thăm và tôi không biết phải trả lời
ai trước ai sau vì mọi người thi nhau hỏi! Sau khi trao đổi câu chuyện, tôi được
biết đây là số sĩ quan cấp Úy trong tỉnh Ban Mê Thuột trình diện học tập. Họ hỏi
tôi đủ mọi thứ chuyện, nhất là tin tức bên ngoài về các lực lượng chống chế độ,
về phong trào vượt biên, về việc đánh tư sản v.v... Sau khi biết tôi là Linh mục,
các anh em càng vui vẻ và ăn nói tự nhiên hơn, một số anh em Công giáo trong buồng
tới ôm lấy tôi và xin chúc lành. Lợi dụng lúc cán bộ chưa trở lại, tôi nói mấy
lời khích lệ tinh thần anh em và ý thức rằng tôi đang bắt đầu thi hành sứ mạng
Linh mục trong tù. Cuộc gặp gỡ bất ngờ thật ngắn ngủi nhưng cảm động và nhiều ý
nghĩa.
Một lúc sau, cán bộ trở lại buồng tìm tôi, nhưng không phải người lúc nãy dẫn
tôi vào mà là anh mặc đồ “Mao Trạch Đông”. Anh ta đưa tôi trở lại trại mộc ngồi
chờ một lúc nữa, có lẽ còn chờ đợi một người nào khác. Ngồi một mình buồn, tôi
huýt sáo miệng theo điệu nhạc của bản thánh ca “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối
cho con...” Lời cầu nguyện trong bài thánh ca này làm tôi thấy an bình và tin
tưởng. Tôi cứ nghiền ngẫm bài hát này một lúc thì thấy anh cán bộ dẫn tôi vào
buồng cho ăn lúc nãy trở lại, có hai anh võ trang ôm súng AK theo sau. Chợt
trông thấy họ tôi hơi lo ngại.
Anh cán bộ ra hiệu bảo tôi trở ra ngoài cổng trại. Ra tới nơi thấy có chiếc
Land Rover chờ sẵn giữa sân, nơi mà chúng tôi bị lục soát ban chiều. Trên xe có
chị đàn bà ngồi sẵn ở băng sau, tay ôm một sọt rau muống khá to. Tôi được lệnh
lên xe ngồi chung băng với chị đàn bà, nhưng về phía trong, hai anh võ trang
mang súng AK cũng lên xe, ngồi vào băng đối diện. Khi đã ổn định phía sau, anh
“Mao Trạch Đông” đi vòng ra trước, lên ngồi cạnh tài xế và chiếc xe chuyển bánh
chạy trở ra đường cái. Tới đầu đường xe rẽ phải hướng về thị xã, lúc đó tôi
nhìn đồng hồ anh lính ngồi đối diện thấy đã mười giờ đêm. Đang lúc xe chạy, tôi
sốt ruột nghĩ thầm:“Đêm hôm mà họ đưa mình đi đâu đây? Hay muốn thịt mình
chăng?” Nhưng rồi nghĩ lại, nếu họ mang tôi đi bắn, sao lại có chị đàn bà và sọt
rau muống trên xe làm gì?!
Cái đêm hôm ấy đêm gì
Khi chiếc Land Rover rẽ vào thị xã, tôi cảm thấy an tâm. Nếu giờ này mà xe rẽ
phải và chạy vào rừng cao su, có lẽ tôi phải ăn năn tội thêm một lần nữa! Chạy
quanh co trong phố vắng một hồi, xe rẽ vào một con đường nhỏ, hai bên là bờ tường
đá cao, cuối cùng quẹo trái và dừng lại trong sân một ngôi nhà gạch. Tôi biết
đây là nhà tù của tỉnh Ban Mê Thuột vì phía sau là một bờ tường cao có hàng rào
dây kẽm gai bên trên và hai cách cửa sắt đen lù lù chận lối ra vào. Anh “Mao Trạch
Đông” xuống xe vào nhà.
Một lúc sau có người khác, mặc thường phục, vẻ mặt lầm lì, xách một chùm chìa
khóa khổng lồ có tới mấy chục chiếc, bước ra. Anh ta gọi tôi xuống xe và ra lệnh
theo tới bên cánh cửa sắt. Anh mở cổng bằng chiếc chìa khóa to tướng, đẩy tôi
vào trước và bước theo sau. Anh ta khóa cửa lại và dẫn tôi đi vào một sân rộng
và dài có hàng cây trồng chính giữa. Hai bên sân là những dãy nhà gạch thật
kiên cố, nhà nọ nối đầu với nhà kia. Sau khi qua hai dãy nhà thì tới một phòng
khá sâu vào trong, anh bảo tôi đứng đợi trước một phòng có cửa sắt được khóa bằng
dây lòi tói thật to, bên ngoài có hai ống khóa đồng nằm cạnh nhau. Anh ta soi
đèn bấm, lựa chìa khóa và bắt đầu mở cửa trong lúc tôi đang đứng bên cạnh, hơi
dịch về phía sau. Lòng tôi lúc bấy giờ hồi hộp lo âu, không biết cái gì đang chờ
đợi tôi đàng sau cánh cửa sắt đen sì ghê rợn này.
Anh cai ngục mở khóa bằng cử chỉ thật mạnh bạo, hung hãn. Dây lòi tói to tướng
chạm vào cánh cửa sắt trong đêm tạo nên một thứ âm thanh ghê rợn, chói tai.
Xong khóa thứ nhất, tới cái thứ hai, cuối cùng cánh cửa sắt được mở hé ra.
Nhìn nhanh vô trong, dưới ánh sáng đèn điện lờ mơ,ø tôi thấy một dãy màn mắc chằng
chịt ngay trên sàn, kín cả căn buồng. Tôi còn đang do dự chưa biết phải làm gì,
bất ngờ anh cai ngục quay lại túm cổ áo tôi, đẩy mạnh một phát chúi nhủi vào buồng.
Bị mất đà và không kịp phản ứng, tôi té sấp, làm đứt dây sập cái màn ngay lối
vào, tay tôi ôm chầm lấy con người đang nằm bên trong. Lúc ấy không biết nước ở
đâu lại văng lên tung tóe làm ướt cả mặt mày tôi, đồng thời có tiếng cánh cửa sắt
dập lại đánh “rầm” ngay sau lưng!
Bao nhiêu chuyện xảy ra cùng một lúc, quá nhanh và quá bất ngờ, khiến tôi không
thể định thần được mình đang ở trong tư thế nào, làm đổ xô nước gì, của ai? Tiếng
cánh cửa sắt bị xô mạnh kêu ầm trong đêm khuya thanh vắng, vang to đến nỗi tôi
nghĩ rằng tù nhân ở các buồng bên cũng phải giật mình chớ đừng nói chi các anh
đang ở buồng này. Đấy, bước chân đầu tiên của tôi vô nhà tù cộng-sản tại tỉnh lẻ
cao nguyên Ban Mê Thuột nó “vang lừng” như thế đó!
Tôi lồm cồm bò dậy. Mặt mũi và một bên người bị ướt đẫm. Mắt kiếng bị dính nước
làm cảnh vật trước mắt trở nên nhòe nhẹt. Tôi vội gỡ mắt kiếng ra và lau vào áo
len đang mặc trên người. Cảm giác đầu tiên và rõ rệt nhất là mùi khai của nước
tiểu xông lên nồng nặc. Thì ra tôi ngã làm đổ cái xô nước tiểu, ướt đẫm mình mẩy
và làm nhầy nhụa mùng mền chiếu gối của anh em nằm gần cửa. Vì buồng này không
có sạp nằm, các tù nhân phải trải chiếu xuống sàn, mắc màn nằm ngủ và tôi đã bị
xô té, làm sập cái màn ngay cửa.
Nhờ trên trần có một bóng đèn điện tròn leo lét, tôi thấy đây là một buồng rất
nhỏ, có hơn chục cái màn đủ màu đang mắc chen chúc nhau một cách vô trật tự, ra
đến tận cửa sắt. Chỗ tôi đang đứng là vị trí của cái xô nước tiểu vừa bị tôi chụp
đổ tung tóe. Cái xô nhựa màu xanh đầy cáu ghét đang nằm há mồm một cách giễu cợt,
trên trốc cái màn tôi vừa đè bẹp.
Lạ một điều là tôi không thấy bóng dáng một anh tù nào, cũng chẳng nghe ai nói
tiếng gì! Không lẽ họ ngủ mê tới nỗi những “sự cố” như sấm sét vừa xảy ra ngay
bên tai mà họ không hay! Cả anh tù mà tôi ngã té sấp đè lên người mà cũng không
hay biết gì ư? Rồi còn cái mùi a-mô-nhắc khai nồng nặc của nước tiểu đang chảy
lênh láng trên sàn nhà? Không lẽ thần kinh khứu giác của mấy anh tù trong buồng
này liệt hết rồi sao?
Một phút trôi qua, nhưng sao chẳng nghe động tĩnh gì! Dường như có cái gì bất
thường đáng lo ngại trong cái sự yên lặng giả tạo này, hay đây là thứ yên lặng
chết người của vùng trung tâm bão tố? Tôi đã từng nghe nói, và đọc thấy trong
sách nữa, về việc mấy anh tù mới, khi vừa bước vô buồng phải “làm lễ ra mắt” với
đại ca như thế nào, cảnh ma cũ bắt nạt ma mới trong tù ra sao! Riêng tôi lúc
này chẳng những là “ma mới”, mà còn là một “ma-mới-làm-đổ-xô-nước-tiểu”, như vậy
cầm chắc cái “lễ ra mắt” của tôi sẽ diễn ra một cách long trọng hơn! Tôi đang
chờ đợi hậu quả tiếp theo, nhưng lạ quá, hơn một phút qua rồi mà mọi sự vẫn yên
tĩnh, tự nhiên tôi cảm thấy mình phải làm một cái gì đó trong lúc này.
Tôi nhẹ nhàng cúi xuống, nhặt cái xô đặt vào sát góc phòng và lên tiếng nói to
để cả buồng nghe:“Xin chào các bạn trong buồng, tôi mới bị bắt vô, có gì sai
sót xin các bạn bỏ qua cho!” Nói xong tôi đứng chờ, vẫn không thấy động tĩnh
gì, nhưng khi nhìn xuống, tôi để ý thấy con người nằm trong màn bị tôi đè lúc
nãy bắt đầu cử động. Anh ta khẽ vén mí màn nhìn ra ngoài, nhưng không nhìn tôi
mà lại nhìn lên phía trên cánh cửa sắt, nơi có hàng chấn song thẳng đứng. Tôi
chợt hiểu ngay là tự nãy giờ anh ta giả vờ nằm yên đợi cán bộ đi rồi mới ra
tay! Tôi định bụng lên tiếng xin lỗi vì đã làm sập cái màn và đổ nước tiểu tung
tóe trên người anh ta. Nhưng chưa kịp mở miệng thì bất thần anh ta tung màn đứng
bật dậy như cái lò xo, đôi cánh tay khuỳnh ra, hai bàn tay nắm chặt, quát to:
- ĐM! Cởi giày ra!
Tôi giật mình khi bất ngờ chạm trán với cái hình hài vạm vỡ, mình trần trùng trục,
đầu cạo trọc nhẵn thín, có xâm trổ hình con rồng thật to trước ngực. Khi quát
tôii:“ĐM! Cởi giày ra!”, anh ta nhăn mặt nghiến răng, để lộ hàm răng có một chiếc
răng cửa bị gãy, làm cho bộ mặt anh ta trông thật “cô hồn”. Tôi biết mình đang
lâm nguy với anh chàng này, nên nhẹ nhàng trả lời:
- Xin lỗi anh, tôi mới vô nên không biết.
Nói xong tôi cúi xuống cởi đôi giày thể thao đang mang, vừa nghĩ thầm:“Cái số
mình thật mạt kiếp, chẳng ra gì! Té không đè ai khác, lại đè ngay tên cốt đột
này cho nó to chuyện ra!”
Cởi giày xong, tôi ngước lên đã thấy mấy người nữa, phần nhiều trẻ tuổi, vạch
màn chui ra đứng vây quanh, tất cả đều cởi trần, mặc quần đùi. Một anh lớn tuổi
bò xuống chùi chỗ nước tiểu nhòe nhoẹt dưới sàn. Nhìn các anh em này, tôi không
thấy vẻ gì hắc ám như tên trọc đầu, sún răng. Có lẽ họ vây quanh tôi vì hiếu kỳ
muốn biết mặt một bạn tù mới hơn là có ý gì khác. Tên trọc đầu lúc này có vẽ bực
dọc. Hắn sửa lại thế đứng, thành chân trước chân sau. Một tay gác sau mông, bàn
tay kia nắm lại, giương ngón tay trỏ ra điểm mặt tôi, và bắt đầu đầu hạch hỏi bằng
một giọng điệu đàn anh:
-Tội gì mà vào đây?
Tôi biết là “lễ ra mắt” đã tới giờ khai mạc!
Vì không biết anh chàng cốt đột này thuộc dạng gì. Nếu hắn
là một cán bộ hủ hóa bị tù, mà tôi nói tội “chống chế độ” sẽ bị no đòn với
hắn. Tôi chọn một tội danh vô thưởng vô phạt, nhưng rất phổ thông lúc bấy giờ:
- Tôi vượt biên bị bắt.
- Bị bắt bao lâu rồi?
- Mới ngày hôm qua.
- Bị bắt ở đâu?
- Ở quận Đức Lập và mới bị giải lên đây chiều nay.
Một anh khác, khá đứng tuổi hỏi chen vào:
- Anh quê quán ở đâu?
Thấy anh này hỏi thăm cách nhẹ nhàng và có cảm tình, tôi mừng
thầm đáp lại:
- Tôi người miền Tây, tỉnh Vĩnh Long anh ạ.
Anh chàng trọc đầu nghe tôi nói thế, vội chen vào, hai tay
chống nạnh ngang hông:
- Ở miền Tây mà lên tận đây vượt biên! Hay anh lên đây làm việc gì
khác, nói thiệt đi? Ở đây không có gì phải sợ! Nói thiệt đi, anh lên đây làm
gì?
Cái giọng anh chàng này y như của bọn công-an biên phòng Đức Lập ngày hôm qua,
làm tôi phát nghi. Tôi tự nhủ hay là anh chàng này cũng là gốc cán bộ, phải cẩn
thận mới được. Tôi liền đáp:
- Tôi lên đây vượt biên, chẳng làm gì khác.
Anh ta hỏi tiếp, giọng thắc mắc:
- Anh đi một mình à, còn vợ con anh đâu?
- Tôi không có vợ con.
Nghe câu này, anh ta lộ vẽ bất bình. Anh ta sửa lại thế đứng,
trợn mắt, trề môi, nhe hàm răng sún ra, kề sát mặt tôi. Ngón tay trỏ anh ta chỉ
vào mặt , gần đụng trán tôi. Anh ta gằn giọng, nói từng tiếng:
- Anh nói cái gì? Từng tuổi này mà chưa có vợ con?! Vậy ngoài xã hội
anh làm nghề gì?
- Tôi là Linh mục Công giáo.
Vừa đáp xong câu ấy, tôi chợt thấy anh ta há hốc mồm, trợn
tròn mắt đầy vẻ ngạc nhiên và bước lùi lại một chút. Anh đưa cả hai tay ra vội
chụp lấy hai vai tôi và nói nhanh:
- Vậy, đây...đây... là cha hả?
- Vâng, tôi là cha Lễ, thuộc giáo phận Vĩnh Long.
Anh ta vội ôm lấy tôi, kêu lớn:
- Trời ơi! Cha, con xin lỗi cha, con không biết! Con là người Công
giáo đây, con tên là Long, giáo dân xứ Hà Lan, cha có biết cha xứ Hà Lan không?
- Không, tôi không biết cha xứ Hà Lan, nhưng tôi biết Đức cha Nguyễn
Huy Mai. Ở giáo phận Ban Mê Thuột này tôi chỉ biết mỗi cha Nguyễn Tiến Khẩu, vì
ngài học chung với tôi mấy năm ở Đại chủng-viện Sài Gòn, cha Khẩu học sau tôi
ba lớp.
Anh chàng vừa xưng tên là Long vui mừng ra mặt, quay vô phía trong gọi lớn:“Có
cha Lễ ở Vĩnh Long mới vô tụi bây ơi”. Xong quay lại vui vẻ nói:
- Con biết cha Khẩu lắm, đám vinh qui cha Khẩu con có đi dự mà!
Chỉ trong giây lát mà tình thế đã thay đổi 180 độ! Chính tôi cũng không ngờ được
sự việc lại xảy ra một cách may mắn như vậy! Các anh em khác bắt đầu xúm lại
thăm tôi. Có vài anh nãy giờ nằm im, lúc này cũng vạch màn chui ra.
Long trọc đầu nhe răng sún cười khì khì, đỡ lấy cái ba lô trên vai tôi vừa
nói:“Tối nay cha ngủ chung với con”. Nói xong anh ta lo thu xếp chỗ cho tôi và
lấy nùi giẻ lau chỗ nước tiểu trên chiếu, trên sàn. Tôi còn mấy bao thuốc lá
trong ba-lô, lấy ra xé mời các anh em trong buồng. Gặp ngày cuối tháng, cả buồng
khô cạn thuốc lá vì ở đây mỗi tháng được thăm nuôi tiếp tế vào ngày đầu tháng,
rớ được mấy bao thuốc lá lúc này chẳng khác chi trời đang hạn hán, gặp cơn mưa
rào.
Gần chục anh em ngồi nấp sau màn, quây quần bên tôi vừa hút thuốc vừa rù rì nói
chuyện, hỏi thăm tôi đủ thứ, vui như một ngày hội. Hỏi ra tôi biết trong buồng
có 12 người, trong số đó bảy anh là Công giáo. Họ bị giam về đủ mọi thứ tội,
chính trị cũng như hình sự. Long trọc đầu tội uống rượu say đánh bộ đội, đã ở
tù gần sáu tháng rồi. Nằm sát vách bên trong còn có hai người Thượng chức vụ
cao trong lực lượng Fulro: anh Y Tư là Tổng Trưởng Quốc Phòng, lúc ấy đang bị
liệt nằm một chỗ và người kia trẻ hơn là Y Toái, Tham Mưu Trưởng Quân Đội của lực
lượng Fulro. Hai người này không nói rành tiếng Việt.
Anh em kể, phòng này trước kia là thư viện, nên không có sạp nằm và không có
nhà cầu. Mỗi ngày hai lần, sáng và chiều có mở cửa cho tù nhân ra bể cạn ở đầu
nhà để tắm giặt, rửa chén bát và lo việc vệ sinh tại cầu tiêu tập thể gần nhà tắm.
Ban đêm phải giải quyết tất cả mọi chuyện vệ sinh trong cái xô nhựa mà tôi làm
đổ tung tóe lúc nãy! Cũng may, lúc đó chưa có ai đi đại tiện trong cái xô nhựa,
chỉ có nước tiểu thôi. Chúng tôi quây quần hút thuốc, ai nấy vui vẻ quên cả sự
đời. Có lẽ đây là trường hợp duy nhất mà tôi có thể khẳng định:“Hút thuốc lá có
lợi cho sức khỏe”!
Chúng tôi đang vui câu chuyện, chợt có tiếng cán bộ bên ngoài quát to bắt đi ngủ
vì đã quá nửa đêm. Nghe tiếng quát, mọi người nín thinh và khẽ bò về chỗ của
mình. Long nhẹ nhàng nằm xuống, tôi cũng nằm kế bên, chung trong một cái màn nhỏ
và ướt đẫm nước tiểu đã được Long vắt đi và lau chùi. Chúng tôi nằm yên và chờ
lúc cán bộ đi khỏi, tôi khẽ gọi Long ngồi lên đọc bài kinh ngắn trước khi ngủ.
Đọc chung với tôi vài câu kinh xong, Long ghé tai tôi nói nhỏ có vẻ bẽn lẽn:“Đêm
nay ngủ chung với cha, con đọc kinh, trước giờ con có kinh sách gì đâu!” Nói
xong nhe răng cười và ngã người nằm xuống, nhưng không quên sửa lại cái ba-lô
được cuộn tròn làm thành cái gối cho tôi gối đầu và hỏi tôi nằm như vậy có thoải
mái không.
Một lúc sau tôi đã nghe tiếng thở đều của Long. Phần tôi, cũng muốn dỗ giấc
ngủ sau một ngày quá mệt nhọc và nhiều biến cố, nhưng cứ trằn trọc mãi không
sao ngủ được. Bên tai tôi tiếng thở của Long càng lúc càng mạnh, và sau cùng là
tiếng ngáy đều đều. Tôi trở người, quay sang nhìn Long, tự nhiên tôi thương nó
hết sức và nhớ lại lúc nãy trước khi cha con ngồi lên đọc mấy câu kinh, nó cứ
luôn miệng xin lỗi tôi về thái độ của nó lúc chưa nhận biết tôi.
Cơn sốt thời cuộc
Trong đêm khuya thanh vắng, tôi trằn trọc không ngủ được và nằm ôn lại những biến
động của cuộc đời như đang xem cuốn phim quay chậm. Từ ngày miền Nam rơi vào
tay cộng-sản, mặc dù mới một năm qua thôi, nhưng đời tôi đã trải qua một bước
ngoặt quá lớn. Kể từ cái ngày 30 tháng Tư đen tối đó, tôi cảm thấy mình đã sống
trong một thứ nhà tù lớn, có tên là “Nhà Tù Việt Nam”, để rồi hôm nay lại rơi
vào một nhà tù nhỏ tại một tỉnh lẻ Cao Nguyên. Giờ này nằm đây, tôi nghĩ ngợi
miên man và để mặc cho dòng tư tưởng quay về quá khứ.
Bất giác, tôi nhớ má tôi hết sức, đôi dòng nước mắt tôi chảy ra khi nhớ lại hơn
tháng trước đây tôi rời nhà, ngồi trên xe gắn máy của Thạnh, và cùng với anh bạn
thân Linh mục này ra đi, trong lúc má tôi đang bệnh nặng. Nhưng lúc bấy giờ tôi
không đủ can đảm quay lại nói lời từ giã. Bây giờ má tôi ra sao, nếu biết tôi
lâm vào cảnh này liệu má tôi có chịu đựng nổi hay không.
Tôi hồi tưởng lại giai đoạn tôi được chỉ định qua làm cha sở tại Nhà thờ La Mã,
đúng một tháng sau khi cộng-sản chiếm miền Nam. Mặc dù chỉ ở họ đạo này một
năm, nhưng tôi cũng đã là chứng nhân và đồng thời cũng là nạn nhân của cơn sốt
thời cuộc. Tôi đã chứng kiến và chịu đựng bao nhiêu cảnh nhố nhăng, gây ra bởi
những hạng người mà dân chúng lúc bấy giờ gọi là “sâu bọ hóa kiếp làm người”.
Những con “sâu bọ hóa kiếp làm người” này đang ngất ngây vì say men chiến thắng.
Sẵn có quyền lực trong tay, họ làm mưa làm gió, hết trò này tới trò khác. Họ đã
hành xử quyền lực một cách thái quá, gây bao nhiêu thán oán trong dân chúng.
Tôi còn nhớ lúc đó, mỗi buổi sáng tôi thấy cô trưởng ấp của tôi, người nhỏ thó,
ốm tong teo như con nhái mén, tay cầm roi tre đang “lùa” một tốp chừng 10 nghĩa
quân chế độ cũ đi tới từng nhà của “cách mạng”, bắt quỳ gối trước cửa lạy từng
người trong nhà để xin lỗi. Anh nào ương ngạnh không chịu quỳ, là roi tre từ
sau bổ tới! Màn kịch này được diễn đi diễn lại khá thường xuyên.
Bản thân tôi cũng hứng chịu bao cảnh uất ức nói không nên lời. Tôi còn nhớ một
buổi trưa nọ, có một tốp du kích đi ngang qua nhà thờ xứ đạo của tôi. Vài tên dừng
chân trước núi Đức Mẹ trước nhà thờ, chế giễu và nói những lời lộng ngôn phạm
thượng. Sau khi tôi ngăn can, bọn chúng tức khí vào nhà thờ lật các ảnh tượng
xuống, đặt ghế lên đầu các tượng thờ phượng. Tôi bảo thầy Đảm là thầy giúp xứ của
tôi xuống xã trình báo sự việc, nhưng bọn du kích đã rượt đánh và thầy giúp xứ
phải trốn chạy thoát thân. Hôm sau tôi làm đơn khiếu nại lên huyện và được trả
lời: “Vì các đồng chí ấy say rượu!” Thế là hết chuyện!
Thời điểm đó, cơn sốt cách mạng dâng lên quá cao khiến cho nhiều người tự thấy
mình cũng phải “cách mạng”. Cách mạng trong lối ăn nói, bằng cách dùng thật nhiều
từ cách mạng như “Mỹ-ngụy, đảng ta, khẩn trương, phản ảnh, tự giác, ý đồ...”
Cách mạng trong lối ăn mặc, bằng việc mua vội chiếc mũ tai bèo, một đôi dép
râu, một bộ quần áo đen bằng vải nylon dầu, một khăn rằn quấn cổ, một cái xà-cột
đeo vai. Cách mạng văn hóa bằng cách hát rỉ rả như dế kêu các bản nhạc thời thượng
như bài “Chiếc mũ tai bèo”: “Chiếc mũ tai bèo em gửi đến tay, khuya sớm em lo
máy may càng nhanh, mối chỉ đường kim theo anh đi giết thù. Anh bộ đội ơi, em
ngồi em may mà lòng miền Nam trong tim lửa cháy, có cả tình quê trong chiếc mũ
tai bèo!” Hoặc “cao cấp” hơn một chút thì rên rỉ bài “Trường Sơn Đông Trường
Sơn Tây”: “Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn. Hai đứa ở hai đầu xa thẳm. Đường
ra trận mùa này đẹp lắm. Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây. Trường Sơn Tây anh
đi, thương em bên ấy mưa nhiều, con đường mà gánh gạo...”Vì nghe đi nghe lại
nhiều lần nên tôi cũng thuộc các bài hát này, mặc dù không chắc là thuộc đúng từng
lời.
Tình cảnh càng tệ hại hơn do thái độ gièm pha của những kẻ xu nịnh, đã lợi dụng
thời cơ để nương gió phất cờ. Chúng đã hiện nguyên hình là những quái thai của
thời cuộc. Dân chúng gọi bọn này bằng cái tên đầy mỉa mai là “Cách mạng ba
mươi”! Ý muốn nói là bọn này chỉ “cách mạng” từ ngày 30 tháng 4.
Chính bọn cách mạng “ ba mươi” này đôi khi còn ác ôn hơn đám Việt cộng có “môn
bài”! Chúng lợi dụng thời cơ gây ra không biết bao nhiêu uất ức trong dân
chúng. Để chứng tỏ thái độ cách mạng của mình, chúng đã biểu diễn nhiều trò quá
đáng gây bao đau thương, phẫn uất cho người dân vô tội. Từ đó nỗi bực tức của
người dân, đã phát ra thành câu ca dao đen của thời cuộc:
“Việt cộng đứa giết đứa chừa,
“ Ba mươi” giết sạch cho vừa lòng dân”!
Điều đáng buồn hơn nữa, là ngay trong hàng ngũ các Linh mục lúc bấy giờ cũng có
người nhi nha nhi nhô với cái “tước vị” trong Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo của Việt
cộng dựng lên. Họ đâu có biết rằng, đây là thứ con đẻ của chế độ mới, một chế độ
theo chủ thuyết vô thần, muốn lợi dụng chính những người trong hàng ngũ các tôn
giáo để gây chia rẽ rồi đi đến khống chế và làm tê liệt hoạt động của các tôn
giáo. Các đại diện trong Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo được ban phát cho một vài đặc
quyền đặc lợi, và có người đã cảm thấy hãnh diện để khoe khoang về điều này.
Tôi còn nhớ câu chuyện đã xảy ra cho chính bản thân tôi và khó quên được.
Lúc đó vào khoảng trước lễ Giáng Sinh 1975, và tôi vừa qua làm việc ở tỉnh Bến
Tre được sáu tháng. Ngày kia, một cha bạn xứ đạo gần bên mời tôi tới dự tiệc cưới
của cô cháu gái được tổ chức ngay tại nhà xứ. Mặc dù hai xứ đạo chỉ cách nhau
có sáu cây số, nhưng vì khác xã và ở lại qua đêm nên tôi phải làm đơn xin phép
đi đường. Đơn phải có trưởng ấp chứng trước rồi xã mới ký sau. Khổ nỗi, ngày đó
cô trưởng ấp của tôi đi bán dừa khô mãi xế chiều mới về, tôi chờ chực mãi rồi
cuối cùng cũng xin được chữ ký của cô. Lúc đó đã bốn giờ chiều, tôi vội vàng chạy
xuống xã vì sợ trễ giờ công sở đóng cửa. Cũng may là gặp ngay được ông chủ tịch
Ủy Ban Nhân Dân Xã kịp lúc nên xin đóng dấu ký tên vào đơn không khó khăn gì lắm.
Cầm được giấy phép đi đường trong tay thì đã gần năm giờ chiều, mà tiệc cưới
thì bắt đầu lúc bảy giờ tối hôm đó, như vậy tôi còn được hai tiếng đồng hồ.
Nhưng trong hai tiếng đồng hồ đó, tôi còn hai việc phải làm, là cuốc bộ sáu cây
số và khi tới nơi, phải trình giấy đi đường cho chính quyền địa phương sở tại
đóng dấu ký tên vào, rồi mới có thể an tâm vô nhà xứ dự tiệc cưới. Tôi phải làm
cho đủ mọi thủ tục này vì ngày hôm sau, khi về nhà tôi lại phải trình diện một
lần nữa với chánh quyền xã với đầy đủ bằng chứng là đêm qua tôi đã ở đâu, có
đúng địa điểm như tôi đã ghi trong đơn xin đi đường hay không.
Sở dĩ tôi phải lội bộ vì trước đó mấy hôm chiếc Honda 70 của tôi hết xăng và
không thể tìm mua được xăng. Sẵn có dầu lửa, tôi đổ vào xe chạy thử vì có người
nói xe Honda chạy “tạm” bằng dầu lửa cũng được, chỉ tội là ra nhiều khói đen và
'bu-dzi' hay bị đóng chấu. Tuy không an tâm, nhưng mua không được xăng thì phải
đổ dầu lửa vào chạy chớ biết làm gì hơn? Đổ dầu vào, đạp xe máy nổ ngon lành,
có lẽ nhờ chỗ xăng còn sót lại. Tôi chạy được vài cây số, nhưng xe bắn khói đen
mù mịt và cứ cà giựt, cà giựt với tiếng máy rống ò ò như tiếng bò bị cắt tiết!
Lúc ấy tôi nghĩ bụng:“Mầy muốn gào muốn thét kiểu gì cũng được, miễn cứ chạy
cho tao là được rồi!” Một lúc sau, bất thần tôi nghe khịt khịt mấy tiếng và xe
yếu dần. Tôi cố vặn tay ga, làm chiếc xe nẩy lên nẩy xuống mấy phát như người
trúng phong đòn gánh, rồi im lìm bất động.
Tôi dựng xe lên và cố lôi hết bao nhiêu kiến thức tôi biết về xe Honda như chùi
'bu-dzi', đóng mở chắn gió. Tôi hì hục hàng giờ mà máy vẫn không nổ, chỉ còn nước
đẩy xe về nhà dựng vào một xó sau khi đã cẩn thận rút hết dầu lửa ra. Ngày hôm
sau, tôi mượn được một xị xăng đổ vào và cùng với một thanh niên đệ tử, hai cha
con thay nhau đạp toát cả mồ hôi. Chiếc xe tội nghiệp vẫn cứ trơ ra, nằm yên bất
động, tôi bảo:“Thôi cứ tạm thời đi bộ đã con ạ, chờ có dịp mua được xăng hãy sửa
xe luôn thể.”Từ ngày đó tôi bắt đầu cuốc bộ!
Sau một tiếng rưỡi đồng hồ rảo bước, tôi tới nơi thì trời đã chạng vạng tối.
Tôi vội vào nhà ông Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân xã địa phương để trình giấy đi đường.
Mặc dù biết rằng ông không có con dấu ở nhà nhưng chỉ cần ông ký tên, hoặc biết
là tôi có tới trình diện là đủ vì tôi không muốn để một sự rắc rối nào xảy ra,
sau khi tôi đã gặp quá nhiều khó khăn với địa phương nơi tôi sinh sống. Trước
đó bốn tháng có người em từ Vĩnh Long qua thăm tôi, vì quá hạn giấy phép đi đường
trễ một ngày mà bị bắt và còn đang bị giam tại huyện Giồng Trôm vì bị tình nghi
là CIA. Tôi cũng biết rất rõ là tôi đang bị canh chừng và theo dõi từng bước
đi.
Tôi vào tới nhà xứ su khi tiệc đã bắt đầu được một lúc. Có khoảng 50 khách đang
ngồi kín căn phòng chánh của nhà xứ. Vị Linh mục chủ nhà và những người quen mừng
rỡ đón tiếp tôi. Sau khi bắt tay chào hỏi, tôi ngồi vào bàn với một số các Linh
mục trẻ cùng trang lứa và vài ba giáo dân mà tôi quen biết. Những giáo dân này
là những tay chịu chơi, uống rượu đế như hũ chìm. Cha sở chủ nhà ngồi
chung với vài ba người trong chánh quyền địa phương ở bàn giữa, cách bàn tôi
khá xa.
Ngồi chung bàn với tôi có linh mục NVL, một thời học chung với tôi ở Tiểu chủng-viện
Vĩnh Long, lúc đó là cha sở của một họ đạo nhỏ cách đấy vài ba cây số.
Linh mục NVL là con người thích khoa trương, hay khoác lác về tất cả mọi vấn đề.
Tôi chưa hề thấy bất cứ một phạm vi nào khi có ai đề cập tới mà anh chịu đứng
thứ nhì hoặc thứ ba bao giờ. Cứ phải là nhất! Bởi đó, tuy dù là bạn học nhưng
sau này không mấy khi tôi tiếp xúc, gần gũi, nói rõ hơn là tôi không chịu được
tính nết khoa trương của anh ta.
Anh về làm việc trong tỉnh Bến Tre từ năm 1973, còn tôi mới đổi về đó sau
ngày mất miền Nam, nên vị trí thế đứng và sự quen lớn với người dân trong
vùng có khác nhau. Hầu hết những người làm việc trong chánh quyền mới ở địa
phương này đều quen biết NVL, trong khi đó tôi mới chân ướt chân ráo tới nhận họ
đạo, chưa quen biết nhiều, lại còn bị tình nghi là CIA và bị chính quyền địa
phương tìm cách gây khó dễ, cho người rình rập theo dõi ngày đêm.
Lúc bấy giờ trong tỉnh Bến Tre có một số Linh mục và tu sĩ Công giáo được mời
vào Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo. Linh mục NVL cũng được mời tham gia, nhưng anh
không giữ chức vụ gì quan trọng, chỉ là một thành viên tầm thường. Dù vậy Linh
mục NVL cũng lấy làm hãnh diện và thích khoe khoang về những lần đi họp ở tỉnh
được ở khách sạn loại sang, được ăn ngon, thức ăn đặt từ nhà hàng mang tới. Anh
ta lộ vẻ hân hoan ra mặt vì có được một chỗ đứng trong chánh quyền mới, trong
khi tại một vài nơi khác, cộng sản đang lùng bắt, áp chế, làm khó làm dễ
đủ điều các Linh mục “phản động” và những giáo dân ương ngạnh, chống đối hoặc bất
hợp tác với chế độ. Tối hôm ấy Linh mục NVL đang ngồi đối diện với tôi trong
bàn tiệc.
Thức ăn ngon và bầu khí vui vẻ làm tôi quên mệt nhọc. Vừa ăn được một chập thì
cha Thạnh, ngồi bên cạnh, hỏi tôi tại sao tới muộn. Tôi gác đũa, vui vẻ kể lại
diễn tiến thủ tục xin phép đi đường, vụ chiếc Honda “ngộ độc” đang nằm nhà khiến
tôi phải cuốc bộ và khi tới đây còn phải ghé vô nhà ông chủ tịch trình giấy tờ
để tránh mọi chuyện phiền hà rắc rối v.v... Tất cả mọi người trong bàn tỏ ra
hào hứng vui vẻ lắng nghe và lộ vẻ cảm thông với hoàn cảnh tôi đang bị “đì”
trên họ đạo La Mã.
Lúc tôi đang nói nửa chừng, NVL vội khoa tay “cướp diễn đàn” bằng một giọng mỉa
mai châm chọc:“Trời! Ông La Mã sướng thiệt! Đi đâu cũng có giấy đi đường đóng dấu
ký tên đàng hoàng! Còn mình á hả? (quơ tay) Hổng ai chịu cho mình miếng giấy
nào. Mỗi lần mình muốn xin giấy đi đường thì mấy anh em trong Ủy Ban nói,
(khoác tay) ‘Thôi đi cha ơi, cha đi đâu thì đi, ở đây ai không biết cha mà phải
giấy với tờ, giấy tờ là những người khác kìa!’
Anh ta có vẻ cao hứng, chỉ mặt tôi nói tiếp:
- Này, tôi ghen với ông La Mã đấy nhé! Hì...hì...
Những người cùng bàn nhếch mép cười gượng gạo trước câu nói khoa trương có tính
cách châm biếm này. Còn tôi, vốn rất nhạy cảm với tánh khoác lác của anh ta,
nên lúc đầu nghe nóng ở gáy, sau đó thấy nóng mặt và hình như biết mình muốn phản
ứng một cách quyết liệt. Nhưng tôi vội kềm hãm, bình tĩnh và nghiêm nét mặt trả
lời:
- Anh L. à! Hoàn cảnh anh khác, tôi khác. Anh nói lên những lời đó ở đây làm
gì?
Cha Thạnh ngồi kế bên tôi, dùng đầu gối thúc nhẹ vào chân tôi, ý bảo đừng thèm
để ý, cứ nhịn đi cho xong chuyện. Tôi hiểu ý Thạnh, (và cũng nhớ có mấy người
trong chánh quyền đang có mặt!), tôi cầm đũa vừa gắp thức ăn vừa nói một cách
vui vẻ:“Thôi xin lỗi quý vị, phỏng vấn để lúc khác, giờ cho ăn cái đã, vừa lội
bộ hơn tiếng đồng hồ, đang đói mềm người đây!”
Anh em ngồi chung bàn cười ồ sau câu nói giải thoát của tôi và mọi người cầm
ly, cầm đũa lên. Nhưng Linh mục NVL chưa chịu buông tha. Khi nghe tôi nhắc tới
đi bộ, dây thần kinh “khoác lác” của anh ta lại bị chạm lần nữa, bèn vung tay
nói lớn: “Còn xăng ấy hả, trong nhà mình không đủ thùng mà chứa! Tiêu chuẩn mì
ăn liền, bột ngọt, xà bông bột cũng vậy, mình xài không hết còn cho người khác!
Chiếc Honda 90 phân khối của mình chạy không biết tới bao giờ mới hết xăng. Mấy
anh trên Ủy ban nói mình chứa xăng làm gì cho nguy hiểm, coi chừng có ngày cháy
nhà thờ, lúc nào cần thì lên cơ quan mà đổ. Mình cũng mong cho nó hết xăng, có
dịp đi bộ cho nó khỏe người! Hì...hì...”
Đến đây, tôi không còn kềm chế được nữa! Bằng một phản ứng tự nhiên và nhanh
như đòng điện, tôi buông vội đũa xuống, trợn mắt và hai tay nắm khăn trải bàn
ăn giật mạnh một phát làm đổ vài ly rượu. Tôi nhìn thẳng vào mặt anh ta, nói
rít qua hai hàm răng cắn chặt, vì ngại những người ở các bàn bên nghe thấy:“Câm
mẹ cái giọng khốn nạn của anh lại đi!” Thạnh vội vàng ghì lấy tay tôi trong khi
thực khách trên bàn lo chụp mấy cái ly ngã nghiêng. Có vài ly rượu đổ tung tóe.
Tôi cảm thấy choáng váng và mệt lả người sau câu nói đó. Tôi vội kéo ghế đứng
lên, xin lỗi các người trong bàn ăn và bước ra ngoài. Có người nào bên cạnh cầm
tay giữ tôi ở lại, nhưng tôi quyết định ra ngoài. Vừa xoay người bước đi tôi
còn nghe tiếng cha Thạnh ở phía sau trách NVL: “L., mầy không thấy thằng Lễ nó
đã quá khổ rồi sao mà còn hành hạ nó nữa?” Tôi cho rằng đây cũng là một hiện tượng
quái thai của thời cuộc, và nếu trong tiệc cưới đó không có mặt mấy người trong
chánh quyền , có lẽ câu chuyện còn đi xa hơn.
Trò hề thế sự
Tôi không thể nhớ hết được cảnh chướng tai gai mắt của thời buổi nhiễu nhương
lúc bấy giờ. Tuy nhiên một vài sự việc gây ấn tượng mạnh thì tôi không thể quên
được, như câu chuyện về cuộc bầu cử Quốc Hội khóa 6, là Quốc Hội chung cho cả
nước lần đầu tiên vào tháng Tư năm 1976 sau đây.
Trước ngày bầu cử, ai từ 18 tuổi trở lên được cấp phát thẻ cử tri như các cuộc
bầu cử thông thường khác. Điều bất thường là các cử tri được chia ra thành từng
tổ, mỗi tổ 12 người và có một tổ trưởng đứng đầu để lo việc điều hành và kiểm
soát các tổ viên. Tiếp theo là giai đoạn học tập bầu cử. Các tổ trưởng phải lo
điểm danh và bảo đảm đủ số 12 người đến dự các buổi học tập được tổ chức trong
trường học nằm ngay trước nhà thờ xứ đạo của tôi. Cán bộ ở tỉnh về lo tổ chức
các lớp học tập bầu cử. Nội dung bài học cũng ngắn gọn và dễ hiểu. Sau khi giảng
giải về tầm quan trọng của cuộc bầu cử Quốc Hội chung cho cả nước lần đầu tiên,
cán bộ viết lên bảng tên của các ứng cử viên trong tỉnh Bến Tre.
Nếu tôi nhớ không lầm thì có cả thảy trên dưới 10 ứng cử viên và trước các tên
có đánh số thứ tự 1,2,3,4... Cán bộ giảng dạy cho biết sẽ loại bỏ 2 người “đúng
theo thể thức bầu cử dân chủ”. Cán bộ giải thích như thế. Sau đó cán bộ bầu cử
tay cầm lá phiếu mẫu giơ lên cao cho mọi người thấy và lớn tiếng “dạy” tiếp:
“Trước khi bước vô buồng kín để bầu, bà con ta sẽ được phát lá phiếu y như lá
phiếu này (cầm hai tay đưa lên cao và xoay qua xoay lại). Trong buồng kín có sẵn
bút bi và thước kẻ, bà con chỉ việc gạch ngang tên hai người cuối cùng như thế
này (làm thử), xong gập lá phiếu làm đôi như thế này (làm thử), sau đó bước ra
khỏi buồng, đến bên thùng phiếu, giơ cao lá phiếu của mình lên và bỏ vào thùng
như thế này (làm thử). Đơn giản chỉ có vậy thôi, bà con nắm cả chưa? Có ai còn
muốn hỏi gì không?"
Từ cuối lớp có tiếng người đàn bà:
- Tôi có thắc mắc xin hỏi. Gạch bỏ số nào cũng được hay phải bỏ
hai số cuối cùng?
Cán bộ bầu cử trợn mắt đáp vội:
- Tôi đã bảo là bà con gạch bỏ tên hai người cuối cùng như tôi đã
biểu diễn, chị không nghe kịp hay là chị có ý đồ gì?
Tuy bị chụp mũ là “có ý đồ” một cách bất ngờ, nhưng chị đàn
bà này cũng không phải tay vừa, chắc cũng là hạng “mẹ chiến sĩ”, bà ta phản
pháo:
- Ý đồ gì? Không hiểu thì tôi hỏi, tại sao phải gạch bỏ tên hai
người cuối cùng mà không thể gạch tên người khác?
Anh cán bộ lộ vẻ bất bình:
- Đó là chỉ thị của “trên”, bà con cứ thế mà thi hành, không phải
thắc mắc lôi thôi. Bà con ta hãy tin tưởng vào đường lối lãnh đạo đầy sáng tạo
của đảng.
Nghe tới tiếng “đảng”, người đàn bà từ từ ngồi xuống. Cả lớp trở nên yên lặng
như tờ, con ruồi bay ngang cũng nghe được. Cuối cùng anh cán bộ đánh tan bầu
khí nặng nề bằng câu nói dõng dạc:“Bây giờ tới phần thực tập, bà con từng người
một lên cầm phấn và thước kẻ đây thực tập bầu phiếu”. Mấy chục cử tri trong lớp
lần lượt tiến lên “thực tập” bầu cử. Từng người một cầm thước kẻ và phấn gạch
ngang tên hai người cuối cùng đúng như lời “dạy” của anh cán bộ, xong trở về chỗ
ngồi.
Tôi ngồi giữa lớp lặng yên theo dõi màn hài kịch này ngay từ đầu, trong lòng đầy
ngao ngán và uất hận cho cái trò hề của chế độ. Nhưng đó là một thực tế của thời
cuộc, còn biết bao nhiêu thứ trò hề khác mà dù muốn dù không, trong hoàn cảnh
đó người dân cũng phải chấp nhận. Tới lượt tôi lên thực tập, khi cầm lấy cây
thước và cục phấn vào tay, tôi cảm thấy xấu hổ với chính mình và với những người
đang có mặt, cũng như xót xa cho hoàn cảnh của đất nước. Dưới chế độ này, người
dân bị tước hết mọi thứ quyền, kể cả quyền được “thắc mắc”. Chế độ cộng-sản cố
biến toàn dân trở thành một thứ ngựa kéo xe bị che hai bên mắt, cứ phải đường
thẳng mà đi theo sự điều khiển của người đánh xe đang cầm roi ngồi phía sau. Và
đừng quên là tên xà-ích ác ôn này, cũng rất nhuần nhuyễn trong việc sửa trị các
con ngựa chứng bất kham!
Cuộc bầu cử Quốc Hội khóa 6 diễn ra vào sáng Chủ nhật 25-4-1976. Từ lúc tờ mờ
sáng, tiếng loa đã kêu gọi inh ỏi để thúc giục đồng bào lo đi bầu. Các cử tri
có mang thẻ trước ngực ghi tên, số thứ tự của mình và tên của tổ, đứng xếp
thành hàng một dọc theo con đường đất bên hông nhà thờ cho tổ trưởng điểm danh.
Có đội múa lân đứng đầu, theo sau là đội thiếu nhi “Cháu Ngoan Bác Hồ” cầm cờ
xanh cờ đỏ, một số khác khua trống gióng chiêng, tạo nên bầu khí tưng bừng của
một ngày hội lớn. Sau khi các tổ điểm danh xong và bảo đảm không còn sót người
nào, chúng tôi được lệnh tiến bước, vẫn giữ hàng một theo thứ tự từng tổ. Các tổ
trưởng tay cầm một bảng con dẫn đầu. Lúc này mặt trời đã lên khỏi ngọn cây.
Đoàn người chậm rãi tiến bước theo sau đám múa lân, trông như một con rắn khổng
lồ, đầu có sừng, đang bò ngoằn ngoèo dọc theo con đê dài hàng mấy cây số để tới
địa điểm bầu phiếu. Sau khi đi gần một tiếng đồng hồ, chúng tôi tới nơi. Tôi rất
đỗi ngạc nhiên khi thấy phòng phiếu được tổ chức ngay bên trong nhà thờ họ lẻ của
tôi mà tôi không hề hay biết gì!
Trước khi bước vào “nhà thờ”, các tổ phải chỉnh đốn hàng ngũ lại một lần nữa
cho tổ trưởng điểm danh bảo đảm đủ số 12 người. Sau đó tổ trưởng lần lượt gọi
tên từng người theo số thứ tự 1,2,3,4,... tiến tới các bàn trình thẻ cử tri,
lãnh phiếu bầu và bước vào buồng kín bên cạnh.
Tôi bước vào buồng kín như một cái máy, tay cầm lá phiếu bầu có tên của các ứng
cử viên được xếp theo thứ tự mà tôi đã được “học tập” phải làm như thế nào. Vô
buồng kín, đặt lá phiếu xuống mặt bàn cạnh bên cái thước kẻ và cây bút bi, tôi
bỗng thấy cơn bực tức dâng lên ngùn ngụt, và muốn nhân cơ hội này bày tỏ một
thái độ phản kháng bằng một hình thức nào đó với lá phiếu đang nằm trước mặt.
Trong lá phiếu, các con số đứng trước những cái tên hoàn toàn xa lạ đối với
tôi. Duy chỉ có tên của Thiếu tướng Đồng Văn Cống, nằm ở số 5 hay số 6 gì đó là
tôi có nghe qua, vì ông xuất thân từ xã Hiệp Hưng này. Có vài người biết chuyện
về ông kể lại. Lúc còn nhỏ con nhà nghèo, Cống đi ở đợ chăn trâu cho người
trong làng, nhờ to con lớn xác và đá banh giỏi nên đám trẻ chăn trâu nể nang và
coi như đại ca. Lớn lên Đồng Văn Cống theo Việt Minh, tập kết ra Bắc và trở về
miền Nam vào năm 1975 với cấp bậc thiếu tướng và được bổ làm Tư Lệnh Quân Khu
7. Từ đó Đồng Văn Cống trở thành niềm vinh dự cho bà con dòng họ còn đang sống
tại đây và cả dân chúng xã Hiệp Hưng này nữa.
Ngoài ông Cống, mà tôi nghe biết chút ít, còn các người kia tôi hoàn toàn mù tịt,
nhưng tôi biết tất cả đều là người của đảng Cộng-sản đưa ra. Lúc đầu vì quá phẫn
uất, tôi định bụng là viết chữ “trò hề” và gạch chéo trên lá phiếu rồi cho vào
thùng, nhưng biết là không ổn vì bọn họ sẽ điều tra ra ngay lá phiếu của ai. Một
cách phản kháng khác là gạch một số tên nào đó không phải tên hai người cuối
cùng như tên cán bộ đã bảo, hoặc bỏ phiếu trắng vào thùng.
Nhưng cuối cùng tôi bỏ ý định, vì biết rằng lúc bấy giờ tôi là cái đích cho họ
theo dõi và quan sát, vả lại cho dù tôi có bỏ phiếu cách gì đi nữa thì kết quả
cuộc bầu cử này cũng đã được ấn định trước rồi, chống đối trong chuyện nhỏ mọn
này chỉ tội thiệt thân. Nghĩ như vậy, nên tôi cúi xuống gạch ngang hai
tên cuối cùng rồi gập đôi lá phiếu bước ra khỏi buồng bỏ vào thùng phiếu bên
ngoài, tự nhiên cảm thấy con người mình hèn đi vì cử chỉ này. Khi cho lá phiếu
vào thùng, tôi tự an ủi và tha thứ cho mình với ý nghĩ:“Tên nào có đắc cử thì
cũng là một lũ Việt cộng, suy nghĩ làm gì”.
Lần đó ấp 6 trong xã Hiệp Hưng của tôi được tuyên dương là ấp bầu cử gương mẫu
với 100% cử tri đi bầu. Các tân Đại Biểu Quốc Hội của tỉnh Bến Tre đắc cử với
99% số phiếu. Thật là một cuộc bầu phiếu “dân chủ” thành công tốt đẹp chưa từng
có! Nhưng chuyện bầu cử chưa chấm dứt ở đây.
Tuần lễ sau, trong ấp tôi có 13 cử tri bị gọi lên cơ quan làm việc, trong số đó
có anh thanh niên đệ tử của tôi. Lúc trở về anh ta thuật lại, 13 người này bị
ông chủ tịch xã hạch hỏi tại sao đã được học tập kỹ lưỡng rồi mà còn bầu cử sai
qui cách, không chấp hành chỉ thị của “trên”? Không gạch tên hai người cuối
cùng mà lại gạch càn qua các tên khác? Muốn phá hoại cuộc bầu cử hay có ý đồ
gì? Sau khi nạt nộ quát tháo một hồi, ông ra hình phạt mỗi người ba ngày công,
mang gạo theo đi đào thủy lợi. Vị đại diện chánh quyền kết luận: “Vì đây là vi
phạm lần đầu nên Đảng và Cách Mạng khoan hồng chỉ phạt cảnh cáo chừng ấy. Bà
con biết không, trong thời ngụy ấy hả, mỗi lần bầu cử nó bắt bỏ phiếu cho ai là
phải bỏ cho người đó. Trong phòng phiếu nó lên trần nhà khoét lỗ dùng kiếng hiển
vi (nguyên văn!) nhìn xuống để theo dõi, ai mà bỏ phiếu không đúng ý nó, sẽ bị
bắt đi không có ngày về, các anh chị đừng có tưởng...”
Về phần tôi, ít lâu sau một chị giáo dân làm tổ trưởng tổ Phụ Nữ trong ấp tới
nhà chơi và cho biết:“Cha biết không, hôm bầu cử, khi cha bước vô buồng kín đã
có sẵn ba người được gài phía sau để theo dõi xem cha làm gì trong ấy, và họ
khen là cha bỏ phiếu tốt”. Nghe qua câu này tôi chỉ mỉm cười không nói năng gì,
nhưng nghe có cảm giác ớn lạnh ở lưng, cái cảm giác mà chúng ta thường có khi vừa
may mắn thoát được một tai nạn trong đường tơ kẽ tóc!
Cuối tháng Tư 1976, vì không thể sống được trong họ đạo dưới áp lực quá nặng nề
đến từ nhiều phía, tôi buộc lòng phải từ giã họ đạo La Mã, trở về quê ít ngày rồi
lại ra đi, lần này đi vào một tương lai vô định. Cũng như bao nhiêu anh em cùng
chí hướng, tôi không thể ngồi yên nhìn cảnh quê hương và dân tộc đang bị một thứ
chất độc tai hại tàn phá. Dù biết là tài hèn sức mọn, có thể không làm nên việc
gì, nhưng tôi vẫn nghĩ, thà không làm nên việc gì còn hơn là không làm gì cả.
Và từ lúc đó cuộc đời tôi đi vào ngả rẽ, dẫn đưa tôi vào nhà tù ở tỉnh lẻ cao
nguyên này.
Quay về thực tại
Giờ này đã quá khuya, buồng giam yên lặng, mờ ảo dưới ánh sáng leo lét của bóng
điện nhỏ duy nhất trên trần nhà. Tiếng ngáy của Long càng lúc càng to. Chung
quanh tôi, các anh em bạn tù đều đang ngon giấc. Bên ngoài cũng không nghe một
tiếng động nào, chỉ lâu lâu có tiếng bước chân thật nhẹ nhàng, dừng lại bên
ngoài cửa sắt buồng giam rồi lại bước đi. Tiếng bước chân nhẹ nhàng đến độ tôi
phải chú ý lắng nghe mới nhận ra được như tiếng bước chân âm thầm của loài hổ
báo, đang nhẹ bước rình mồi. Tôi biết ngay đó là cán bộ võ trang đang tuần tra
về đêm.
Tôi cảm thấy lạnh nên nằm dịch người sát vào Long trọc đầu đang ngủ say. Tôi
nhè nhẹ kéo mí tấm chăn Long đang đắp để phủ lên người cho đỡ lạnh. Long giật
mình, phát ra mấy tiếng ự ự trong cổ họng, trong khi mắt vẫn đang nhắm nghiền,
vặn người mấy cái, chép miệng và nằm yên thở đều. Long nằm ngửa, đôi môi hở ra
để lộ hàm răng có chiếc răng cửa bị gãy. Lúc này tôi không còn thấy Long xấu xí
và đáng sợ như lúc mới chạm mặt lần đầu. Trái lại, tôi thấy một tâm tình yêu mến
dâng lên đối với Long, một thanh niên xa lạ tự phương trời nào, mà tự nhiên đêm
nay lại trở thành kẻ “chung chăn chung gối” trong đêm đầu tiên tôi sống trong
tù. Bất giác tôi cười thầm với cái ý nghĩ rằng đây là một “Đêm Tân Hôn”! Một
đêm tân hôn thật lạ kỳ, vì “tân giai nhân” nằm cạnh tôi trọc đầu, sún răng,
hình hài vạm vỡ như một võ sĩ đô vật và mình trần để lộ hình con rồng xâm trổ
to tướng trên ngực. Con rồng lại đang nhe răng khè ra lửa! Tôi tiếp tục mỉm cười
trong bóng đêm!Những ý nghĩ miên man vụn vặt ấy từ từ ru tôi vào giấc ngủ lúc nào
không hay. Một giấc ngủ thật nhiều mộng mị.
Sáng ngày, lúc nghe tiếng kẻng báo thức, tôi giật mình tỉnh giấc và bàng hoàng
không biết mình đang ở đâu! Tôi nằm yên dụi mắt. Một hồi lâu mới nhận ra được
hoàn cảnh thực tại. Tôi đang ở tù.
Sau khi ngồi lên đọc kinh dâng ngày, tôi cố nhớ lại các giấc mơ đêm qua. Trong
cơn mơ, tôi thấy trở về thăm lại Đại chủng-viện Sài-Gòn, nơi tôi xa rời đã sáu
năm qua, gặp lại một vài cha giáo sư và một số bạn cũ. Tôi thấy mặt mày ai nấy
đều ủ rũ buồn rầu, nhưng không hiểu tại sao. Trong một giấc mơ khác, tôi mơ thấy
bóng dáng người con gái trong bài ca-dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa...” Tôi thấy
nàng mặc chiếc áo bà ba trắng ôm sát thân người, tóc bỏ đuôi gà, gương mặt trái
xoan trắng ngần và đẹp thanh tú. Nhưng trong vẻ đẹp ấy có ẩn hiện một nỗi u buồn
khó diễn tả. Hình như tôi thấy nàng đang đứng giữa ruộng cà để nói chuyện với
tôi và vài người khác hay sao đó. Giấc mơ này tôi nhớ không rõ, nhưng giấc mơ
trước tôi còn nhớ rõ như in.
nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.01.2007 13:00:59 bởi sóng
trăng >
#10 ![](data:image/png;base64,iVBORw0KGgoAAAANSUhEUgAAAA8AAAAPCAYAAAA71pVKAAAAAXNSR0ICQMB9xQAAAAlwSFlzAAAOxAAADsQBlSsOGwAAABl0RVh0U29mdHdhcmUATWljcm9zb2Z0IE9mZmljZX/tNXEAAAHnSURBVDjLY2hsbGTAhbWsGQTxyeOUcIlk0Y7M4r7uE8miS5Jmew8GtfhC3ue9ixT/x+bxvnDwYVAnSrO5PVBjPv/zaevU/k9bo/6/dabi/6gsHqwGoGp0YFBLLhF5vnSP2f+F202BmrX+9y1RBRqg9D86m+eFtQeqARCCgYHJI5RHPbNa/PmB68H/9171/L/6sM3/eVuMwQZMXa33f8Iy7f+JBQIvAgNZNEDq4ZpBoRqfK/J2yyn3//uuBvzffs7n/7Yz/v9XHwQasNn0/9RVRv+nrzX5P2mp/v/oOJ531tYMQnDNoWmCAhHpQjdjskSehSbxP4/JEvq743zA/62n3f7PXm/yPyyV969fLOfz4GTuZ0EJHLd8YjkEkZ3NGBoqyCkoyMAlqcQgFZLI+27fleD/O4AumLPR9H9gAtd7JS0GaWNjBq7QUAZOkHqsoc0gyMATlsL3dt+V8P97LoYANZv9D0rkfqekxMBLMKoktRgEI1IF3x6+nvb/2O3E/0t32QM187zTgvqToObYbPG35x4W/r/8ouT/ttOB/0OTed9paRGhGWRDdJbY10NX0/6fvp/3f+vJoP+hKfzftIwZhAlqBoY8f3i60NXoLJGnkWkiT6MyhJ4GJ/FfA8UIUWkbFJroGJs6AAYxYiNB8JDdAAAAAElFTkSuQmCC)
sóng trăng 26.01.2007
09:55:26 (permalink)
.
3
Tàu Sông Hương
Trong mấy ngày qua, các tù nhân trong trại Gia-Ray tỉnh Xuân Lộc bàn ra tán vào
về một đồ vật có hình dạng lạ lùng, đang nằm trong lán mộc gần bên cổng trại. Mạnh
ai nấy cố thử đoán xem “nó” là cái gì. Nhưng cuối cùng, xem ra chẳng một ai dám
chắc về lý đoán của mình. Cũng có một vài cuộc cãi vã xảy ra vì bất đồng ý kiến
về tên gọi của nó. Đó là một đồ vật bằng ván gỗ, nếu dựng đứng lên trông giống
như cái kệ sách có bề ngang sáu tấc và cao năm thước. Tuy nhiên có điểm khác là
các miếng ván nằm ngang không bằng mà lại hơi chênh chếch cao, nên chỉ trông giống
kệ sách thôi nhưng không thể là kệ sách được. Có ai lại đóng một kệ sách với
khích thước chướng đời như thế! Có người bảo nó là cây thang, nhưng nấc lại
cách nhau quá ngắn, và hai bên là hai mảnh ván rất to bản. Nếu nó thực sự là
cây thang thì đây là một cây thang lạ lùng nhất mà tôi được thấy.
Chính tôi cũng thắc mắc về nó. Khi đi lao động ra vô cổng trại, ngày nào cũng
thấy nó nhưng không thể biết được dùng vào việc gì. Một hôm gặp anh đội trưởng
đội mộc, tôi hỏi về nó, anh cũng chẳng biết là cái gì, chỉ biết đóng đúng theo
kích thước của cán bộ giao cho đội thực hiện.
“Nó” nằm dài trong lán mộc một thời gian. Rồi một hôm, vào thượng tuần tháng Tư
năm 1977, chúng tôi đi ngang lán mộc để xuất trại lao động, nhìn vào không còn
thấy nó nữa. Như vậy là nó được chở đi ban đêm và không một ai trong chúng tôi
được biết. Điều này cũng hơi khác thường vì các sản phẩm do anh em tù đóng như
bàn, tủ, ghế, hòm v.v... đều được chở đi ban ngày và các anh tù phải khiêng vác
ra xe. Nhưng rồi mấy ngày sau, chúng tôi quên khuấy nó đi, chẳng thấy ai còn thắc
mắc gì về nó. Trong khi còn biết bao nhiêu chuyện khác phải bận tâm lo nghĩ
trong kiếp sống tù đày ở trại Gia Ray đông nghẹt tù nhân, và thiếu thốn tất cả
tiện nghi tối thiểu này.
Trại Gia Ray, còn gọi là Z 30D, trước kia là hậu cứ của trung đoàn 54, nằm trên
một đồi cao có cái tên khá thơ mộng là “đồi Phượng Vĩ”. Trại nằm quay cổng ra
núi Chứa Chan cao to sừng sững mà anh em tù thích gọi đùa là núi “Chán
Chưa"! Sở dĩ tôi biết về lai lịch trại này vì có một số người tù trước kia
là quân nhân đã từng đóng quân ở đây. Sau khi đổi đời, họ lại cũng vào đây ở tù
tiếp theo.
Vì trước kia là một trại lính và nay biến thành nhà tù, nên nó không có một thứ
gì cả, ngoài mấy dãy nhà tôn vách ván, cất trên nền đất đỏ đầy bụi bặm và hang
chuột dọc ngang. Trại không có nước máy, cũng không có giếng hoặc suối để lấy
nước. Hàng ngày có xe bồn chở nước tới cung cấp cho cơ quan và hơn một ngàn tù
nhân trong trại. Vì số lượng nước cung cấp rất hạn chế nên nước trở thành hiếm
và dĩ nhiên cái gì hiếm thì quý. Các tù nhân chỉ được chia tiêu chuẩn nước uống
mỗi ngày hai lon Guigoz ( lon bằng nhôm, đựng sữa bột Guigoz của Hoà Lan, sức
chứa chừng ¾ lít), trong hai bữa ăn trưa và chiều.
Vì phần nước quá ít so với nhu cầu, nên hầu như không có ngày nào trong buồng,
là không có cãi nhau về “việc nước”. Có nhiều trận đánh nhau bưu đầu sứt trán
“vì nước”. Có mấy lần, hàng trăm tù nhân hè nhau tấn công nhà bếp để... “cướp
nước”! Những lúc đó thôi thì gậy gộc, gạch đá, có khi cả dao mác đều được dùng
để ẩu đả nhau. Cả hai phe tù có nhiều kẻ lỗ đầu sứt trán máu me đầm đìa y như cảnh
chiến tranh Quốc - Cộng trước kia giành nhau đất “nước”!
Trại Gia Ray
Nhóm chúng tôi từ trại Phan Đăng Lưu trong tỉnh Gia Định chuyển lên đây vài
ngày trước Tết Đinh Tỵ năm 1977. Trong nhóm còn một Linh mục khác là cha Vũ Đức
Khâm, người đã một thời làm việc với Đức Cha Lê Hữu Từ và cha Hoàng Quỳnh thời
Công giáo tự trị chống Việt Minh tại chiến khu Phát Diệm trước năm 1954. Vào
Nam, cha Khâm được nhiều người biết đến qua các hoạt động xã hội của ngài tại
Sài Gòn trong những năm đầu thập niên 70. Phần đông tù nhân trại Gia Ray lúc bấy
giờ là nhân viên công chức của chế độ cũ và một số người trong Lực Lượng Dân
Quân Phục Quốc, hầu hết là trẻ tuổi. Số khác can tội vượt biên hay phản động,
chống chế độ cách này cách khác. Khi chúng tôi chuyển tới đây thì trong trại đã
có sẵn khoảng một ngàn người. Chừng vài tuần lễ sau, có một số anh em quân đội
từ trại Cà Tum, Tỉnh Tây Ninh chuyển về nữa, nâng con số tù lên 1200 người.
Trong số đó có khá nhiều anh em Công giáo.
Khi vừa tới, chúng tôi được phân tán vào các đội và ở các buồng khác nhau, mỗi
buồng chứa khảng 60 người. Tôi vào chung đội với cha Vũ Đức Khâm và một số anh
em tôi còn nhớ được như các anh Nguyễn Tôn Tính, Nguyễn Tiến Đạt, Trần Nhật
Kim, Mai Văn An, Phạm Văn Thông…Hai ngày đầu tiên chúng tôi bị nhốt trong buồng
cả ngày lẫn đêm. Buồng giam trống trơn từ đầu tới cuối, hai bên có hai dãy sàn
nằm bằng gỗ, ở giữa là lối đi chạy dài. Trong buồng không có cầu tiêu, và để
thay thế vào đó là 3 cái ống sắt vỏ đạn pháo binh 155 ly, mỗi ống đường kính chừng
hơn gang tay và cao khoảng một thước, được dựng trong một phòng nhỏ ở góc phía
trong cùng. Tất cả mọi nhu cầu vệ sinh của chừng ấy con người trong buồng được
giải quyết gọn trong ba cái ống đó. Tới sáng ngày mở cửa mới được mang đi đổ ở
cầu tiêu công cộng.
Tuy tôi chỉ ở trại này thời gian ngắn, nhưng có mấy sự việc gây ấn tượng mạnh
làm tôi không sao có thể quên được. Trước hết là chuyện về cái cầu tiêu công cộng.
Như tôi đã nói, lúc bấy giờ trong trại có hơn một ngàn người, sống chen chúc
nhau trong một cái trại lính cũ mèm và trơ trọi. Nước uống thì mỗi ngày có xe bồn
chở tới, củi đuốc thì có sẵn trong rừng, rau cỏ thì các đội rau xanh trồng cho
cả trại ăn, về khoảng tắm giặt thì... khắc phục! Nước uống còn không đủ lấy đâu
ra nước để tắm giặt? Nhưng còn vấn đề ‘đại tiện’ thì sao, việc này không thể
nào “khắc phục” được. Giải quyết khâu này cho hơn một ngàn con người sống tập
trung đâu phải là chuyện nhỏ!
“Đại hội” Ruồi Xanh
Sau hai ngày đầu bị nhốt kín trong buồng, qua ngày thứ ba chúng tôi được mở cửa
ra ngoài đi lại tự do như những người khác. Tôi còn nhớ mãi buổi sáng đầu tiên
được mở cửa, tôi có nhu cầu ra khu cầu tiêu công cộng lần đầu tiên sau khi đã
'khắc phục' suốt đêm trong buồng, vì 3 cái ống vỏ đạn pháo binh làm cầu tiêu dã
chiến không đáp ứng được nhu cầu của 60 con người. Muốn ra tới cầu tiêu công cộng
tôi phải đi qua vài ba dãy nhà, kể cả khu vực nhà bếp. Sau khi qua nhà bếp một
đỗi, có con đường nhỏ đi giữa hai hàng rào kẽm gai dẫn ra phía bờ rào trại bằng
nhiều lớp kẽm gai cuộn tròn bao bọc chung quanh trại. Khu vực cầu tiêu công cộng
nằm sát bờ rào trại.
Khi vừa tới đầu nhà bếp, mặc dù chưa thấy hình dạng nhưng tôi đã “đánh mùi” được
vị trí tôi muốn tìm tới. Ngay lúc tôi vừa nghe mùi cũng là lúc tôi nghe một âm
thanh lạ kỳ của đám ruồi xanh đang bận rộn với hàng đống cải muối dưa đang được
trải phơi trên mái tôn của nhà bếp. Trời ơi, ruồi xanh ở đau mà lắm thế! Mùi
dưa cải muối chua, mùi của nhà bếp, mùi của đường cống lộ thiên rộng gần 2 thước
bên hông nhà bếp, cộng với mùi thối từ cầu tiêu công cộng cách đó không xa đã
lôi cuốn không biết cơ man nào là ruồi xanh. Chúng bay thành từng đàn, từng mảng
trên nền trời đông như giải trấu. Chúng đang giành ăn giữa những đám cải khô
trên nóc nhà. Chúng bay vo ve trên miệng đường cống. Chúng đậu vào những nơi
nào có thể đậu được trong khu nhà bếp và tạo nên một cảnh náo nhiệt khác thường.
Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được nhìn thấy ruồi xanh nhiều như thế, nhiều
không có thể tưởng tượng được. Tôi thầm nghĩ có lẽ toàn thể ruồi xanh trên thế
giới hôm nay tập trung về đây để họp bạn, hoặc có đại hội đặc biệt gì đó của ruồi
xanh! Về số lượng đông khủng khiếp của muỗi thì tôi đã có dịp thấy tại rừng Năm
Căn trong tỉnh Cà Mau. Khi còn làm thầy giúp xứ, tôi đã có dịp xuống làm việc với
cha Nguyễn Lạc Hóa, một Linh mục người Tàu tại biệt khu Hải Yến vào năm 1967.
Lúc đó tôi nghĩ chắc là trên đời này không còn nơi nào nhiều muỗi như ở Hải Yến
trong tỉnh Cà Mau và lúc này tôi có thể nói không chỗ nào nhiều ruồi xanh như
trại tù Gia Ray, tỉnh Xuân Lộc!
Khi tới nhà bếp tôi phải dừng lại vì đã có chừng vài ba chục người đang đứng xếp
hàng dọc chờ từ trước, trên tay mỗi người cầm một tờ giấy. Tôi đến nơi ráp vào
hàng. Đứng vô hàng xong, tôi ngoái lại sau lưng thì đã thấy độ mươi anh tù khác
cũng đang lục đục kéo ra đứng tiếp theo. Một lúc sau, hàng người bất đắc dĩ phải
tới đây như tôi, càng lúc càng dài hơn. Lúc đó chẳng biết làm gì hơn, tôi đành
đứng yên quan sát. Vì mới tới trại mấy ngày, và hôm nay được ra đây lần đầu nên
cái gì đối với tôi lúc bấy giờ cũng lạ. Những người bạn tù bất đắc dĩ phải đứng
xếp hàng trước và sau tôi, đại đa số cũng xa lạ nên tôi cũng chẳng có dịp nói
chuyện với ai. Vả lại trông người nào cũng lầm lì câm lặng. Có người mặt mày
nhăn nhó trông rất khổ sở, mà tôi đoán là họ đang bi ‘đuổi’ rất gấp, như thế
còn tâm trí đâu để mà chuyện với trò?
Nhìn về phía xa trước mặt, tôi thấy cái hố hình chữ nhật rất to, chiều dài phải
có tới 15 thước, chiều ngang quãng 10 thước. Trên mặt hố được dựng tạm bợ một
dãy nhà cầu chừng 15 hay 20 cái dính liền nhau, cái nọ cách cái kia bằng một tấm
phên nứa, cao khoảng 50 phân, phía trước có lá chắn bằng nứa cao chừng một gang
tay, trên nóc có tấm cót che mưa che nắng một cách sơ sài vội vã. Dãy nhà cầu nằm
cách bờ đất khá xa và trước mỗi ô có một cầu bằng ván bìa bắt từ mép bờ đất đi
ra.
Nhìn từ xa, tôi thấy trong mỗi cái ô nho nhỏ đó có một con người đang ngồi. Mới
nhìn thoáng qua, trông giống như một hàng nhộng nằm trong tổ ong đang ló đầu ra
ngoài. Tấm phên phía trước chỉ che được những nơi cần che của con người đang ngồi
chồm hổm, đối diện với một hàng người đang đứng dàn hàng ngang trên bờ hố chờ tới
phiên mình. Hàng người đứng hàng ngang này thuộc diện ưu tiên, trong khi những
người ra muộn như tôi, phải đứng thành hàng dọc trên lối đi và đang kiên nhẫn
chờ đợi.
Đợi chờ trong đau khổ
Một lúc tôi mới chợt để ý là hầu hết mọi người đều cởi trần chỉ mặc mỗi chiếc
quần đùi. Điều này làm tôi ngạc nhiên vì lúc đó là tiết xuân, sáng sớm trời khá
lạnh, tại sao họ lại cởi trần, mặc quần đùi, trong khi tôi ‘diện’ khá chỉnh tề.
Có nghĩa là tôi mặc cái áo sơ mi và quần dài. Nhìn lại tôi thấy mình thật chẳng
giống ai trong hàng. Tôi quay lại phía sau, thấy có vài anh cũng ăn mặc chững
chạc như tôi, coi lại toàn là lính mới trong nhóm tôi mới nhập trại mấy ngày
qua. Một số người đang khoanh tay cúi mình hoặc xoa hai bàn tay vào nhau cho đỡ
lạnh. Lúc đó tôi nghĩ bụng:“Mấy tướng này đã ở đây lâu nên quen chịu rét, còn
mình làm gì dám cởi trần buổi sáng sớm thế này!”
Hàng người nhích tới rất chậm, chẳng khác gì cảnh kẹt xe trên đường Hai Bà
Trưng vào giờ tan sở. Có mấy tay đứng cạnh tôi, chắc là trong tình trạng “khẩn
trương”, trông mặt mày nhăn nhó, bứt rứt. Cặp mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn cái
hàng “nhộng” đang ngồi yên bất động, giương những cặp mắt lờ đờ nhìn ra, trong
trạng thái nhẹ nhàng thoải mái.
Có một tay ngay sau lưng tôi coi bộ “rất khẩn trương”, chắc là đang bị Tào Tháo
đuổi gấp, nhưng lại gặp đèn đỏ phía trước không thể làm gì hơn nên tức khí quát
to, chửi đại, trúng ai thì trúng:“ĐM, ỉa cái đéo gì mà lâu thế mấy cha nội? Bộ
muốn ngủ trong đó à? Mau ra cho bà con còn nhờ với chớ!" Cả đám cười ồ sau
câu nói của anh chàng lỗ mãng vui tính này. Vài người phụ họa theo pha trò thêm
vài câu gì đó cho vui hơn, để quên cảnh khổ lúc bấy giờ đang hành hạ từng con
người. Chẳng ai buồn trả lời câu chửi lãng xẹt của anh ta, nhưng một lúc sau có
tiếng nói của một trong những “con nhộng” đùa trả lại. Nghe cách nói, tôi biết
là chỗ bạn bè thân thiết:“Cái thằng ăn nói vô duyên, chuyện gì chớ chuyện này
thì nhanh cái chó gì được? Ngồi đây thối bỏ mẹ, có sướng ích gì đâu mà ở đó la
với hét?" Cả bọn chúng tôi lại được một trận cười cho quên sầu trong giây
lát.
Có mấy người xong việc, kéo quần đứng lên, bước vội ra như bị ma đuổi. Mỗi lần
như vậy chúng tôi nhích thêm được vài bước, y như cái cảnh xếp hàng mua vé trước
rạp Rex mỗi khi có chiếu phim hay! Chợt có một anh bạn đi ngược chiều, khi
ngang qua chỗ tôi, dừng lại nói:
- Cậu Bảy có mặc quần đùi không? Cởi quần áo dài ra đi, mặc quần đùi
thôi.
Tôi ngạc niên hỏi:
- Sao vậy?
- Trời ơi! Vô đó nó thối không thể chịu nổi. Cậu mặc quần áo dài, mùi thối
ám vô mấy ngày còn chưa hết mùi. Ở đây làm gì có nước mà giặt. Cậu cởi quần áo
dài ra đi, con mang về buồng cho!
Thì ra tôi mới hiểu tại sao gần như tất cả đều cởi trần mặc quần đùi, chỉ có bọn
lính mới chúng tôi là ngây thơ trong việc này. Tôi nghe lời anh bạn, cởi đồ dài
ra đưa anh cầm về giúp. Sau khi cởi trần tôi bắt đầu rét run, nhưng dù sao tôi
phải ở đây, không thể nào rời bỏ vị trí được.
Kẻ ra người vào, rốt cùng tôi cũng trở thành dạng ưu tiên tới bên bờ hố và dàn
thành hàng ngang đứng đối diện với một người xa lạ đang ngồi bên trong. Hai người
chúng tôi, một đứng một ngồi, cách nhau chừng hai thước, nhưng chúng tôi tránh
ánh mắt của nhau, vì đây là một cuộc “hội kiến” hoàn toàn bất đắc dĩ. Lúc đứng
chờ, tôi nhìn xuống bên dưới và cảnh tượng thật là kinh khủng.
Hố sâu chừng quá đầu người. Bên dưới mỗi ô nhà cầu là một thùng chứa phân có 2
quai bằng dây sắt. Nhưng phân tràn be bét ra ngoài và lấp đầy gần một phần ba
cái hố. Các thùng chứa phân là của đội rau xanh. Mỗi ngày có mấy anh vào khiêng
ra, bón cho vườn rau cải được trồng rất nhiều bên ngoài cổng trại. Vườn rau này
là nguồn cung cấp thức ăn chính cho tù nhân trong trại. Khi đứng bên miệng hố,
mùi hôi thối xông lên làm tôi gần ngạt thở. Đám ruồi nhặng đông như trấu đang
quần thảo, cào cấu, nhào lộn trên mặt hố. Tiếng bay của chúng tạo thành âm
thanh rào rào như đàn ong vỡ tổ. Mặc dù chúng đã chia ra một tốp khác đang làm
chủ tình hình ở khu nhà bếp, số ruồi xanh ở đây còn dầy đặc mấy lần hơn. Trên lớp
mặt nhầy nhụa, từng mảng dòi bọ lúc nhúc đang lăn lộn, trườn đạp lên nhau không
khoan nhượng.
Tôi không dám nhìn lâu cảnh này và ngước nhìn lên cái chòi gác khá cao nằm ở một
góc cách đó không xa. Có một anh công-an ngồi gác trên chòi, yên lặng nhìn
chòng chọc xuống đám tù nhân đang nối đuôi nhau làm cái công việc thuộc bản
năng. Tôi tự nhiên đâm ra thương hại cho anh ta và nghĩ thầm:“Mình mới đứng một
chốc đã muốn điên người, còn anh ta ngồi đó hàng giờ làm sao chịu cho thấu!”
Nhưng tôi lại nghĩ, cái gì cũng vậy, mãi rồi nó cũng quen đi.
Và tôi đã nghĩ đúng! Cái gì rồi cũng quen đi. Về sau này mỗi sáng tôi lại phải
đến đây, dĩ nhiên là cởi trần mặc quần đùi, lại xếp hàng, lại đối diện với hai
người bạn tù nào đó, một người tôi đứng chờ và một người khác đứng chờ tôi! Cái
hố vẫn là cái hố cũ với tất cả sự nhơ nhớp và thối tha của nó, nhưng tôi không
cảm thấy kinh khủng như lần đầu nhìn thấy.
Có những ngày mưa gió tơi bời làm cho việc giải quyết nhu cầu tự nhiên của cơ
thể này trở nên khổ nhọc hơn. Chúng tôi phải xếp hàng dưới cơn mưa và cái hố
kia ngập nước trở nên lõng bõng những nước nhầy nhụa. Đám dòi bọ bị ngập lụt
trôi lều bều, giãy giụa như người trong cơn chết đuối đang vẫy vùng cầu cứu. Cảnh
tượng này trông càng khủng khiếp hơn. Nhưng trời mưa lại giúp bầu khí đỡ hôi thối
và đàn ruồi nhặng cũng hoạt động bớt hăng say, có lẽ chúng sợ bị ướt cánh. Những
ngày tháng về sau, tôi vẫn phải tới nơi này nhưng cố gắng coi đó là chuyện tự
nhiên. Tôi tự nhủ, đây là một phần trong giai đoạn mới của cuộc đời.
Người bạn tù Linh mục
Lúc đó cha Vũ Đức Khâm sống chung buồng với tôi và ngài đã để lại trong lòng
tôi kỷ niệm sâu xa. Vì lớn tuổi nên ngài được cho làm việc nhẹ trong trại gọi
là “trực sinh”, còn tôi phải vào toán lao động bên ngoài trại. Lúc bấy giờ
trong trại có nhiều loại công việc khác nhau và mỗi đội làm các việc đó có tên
riêng như đội cấp dưỡng (nhà bếp), đội mộc, đội rèn, đội rau xanh. Tôi được
sung vào đội khai hoang dọn đất, tức là đốn cây, khai phá lùm bụi, cuốc dọn đất
cho các đội khác trồng trọt rau cải cung cấp cho trại.
Công việc của đội tôi cũng không vất vả lắm, nhưng phải phơi nắng cả ngày và là
một công việc đầy nguy hiểm. Điều làm chúng tôi lo sợ nhất là khi khai hoang cuốc
đất, thỉnh thoảng lại có anh cuốc nhằm mìn, lựu đạn hoặc đầu đạn M79. Đã có người
bị nổ banh thây, có người cụt giò hoặc bị thương tật. Ngoài ra còn một điều
ngán nữa là đội chúng tôi lao động quần quật cả ngày dưới trời nắng chang
chang, mình mẩy đầy cát bụi, mà chiều lại không có một giọt nước để lau người.
Có những hôm chúng tôi năn nỉ quá, cán bộ võ trang dẫn đi “tắm” ở một cái hố nước
gần đó. Hố nước chừng bằng căn phòng, nước đục ngầu và chỉ cao vừa tới đầu gối.
Khi đội chúng tôi tới nơi, đã có hàng mấy trăm con người ở các đội khác tới trước.
Họ đứng tràn chung quanh miệng hố. Cảnh này nhìn từ xa giống như có đám ma của
một nhân vật quan trọng, lúc hạ huyệt ai cũng muốn bu lại để cố nhìn thấy quan
tài lần cuối cùng. Chừng ấy con người mà lội xuống ao, làm bùn non nổi lên nhào
trộn với nước, đặc quánh lại như vữa xây nhà, chúng tôi đành bỏ cuộc. Làm sao
mà tắm cho được?
Có những ngày nóng nực quá không thể chịu nổi. Sau giờ lao động ban chiều, cán
bộ cho chúng tôi đến “tắm” nhờ bên đội rau xanh. Nơi đó có dòng suối nhỏ mà đội
dùng để tưới vườn rau cải. Chúng tôi dùng lon múc một ít nước lau người. Nước
này đã tưới các luống rau và chảy xuống suối, mang theo từng tảng phân người
trôi lều bều trên mặt nước!
Trong trại lúc đó, có một số đông anh em Công giáo. Những ngày Chúa Nhật hoặc
ngày không đi lao động, anh em hay đến thăm cha Vũ Đức Khâm và tôi. Để tránh mọi
phiền phức trong lối xưng hô, tôi bảo các anh em gọi cha Khâm là Cậu Hai, còn
tôi là Cậu Bảy. Tôi mang cái tên “Cậu Bảy” từ lúc đó. Các anh em Công giáo
không những chỉ đến thăm viếng chuyện trò mà còn giúp nhau lo dọn mình xưng tội.
Các anh em bạn bè cũng mang tới cho chúng tôi ít thức ăn, đồ dùng.
Trong số những anh em thường tới chơi và giúp đỡ, tôi đặc biệt nhớ tới anh Phạm
Hùng Thọ. Anh là một sĩ quan trước kia vào trại Gia Ray chúng tôi mới biết
nhau. Người Thọ cao lớn, nước da ngăm đen, tính nết hiền hòa, nói năng chậm
rãi. Lúc đó anh ở đội rau xanh là đội có cơ hội được tiếp xúc với “nước” nhiều
hơn các đội khác. Mỗi buổi đi lao động, Thọ gánh một đôi thùng thiếc lấy nước sạch
mang về, chia cho tôi và cha Khâm một thùng. Một thùng nước trong trại Gia Ray
lúc đó thật là quý, nhất là nếu biết công của Thọ đã phải gánh từ xa mấy cây số
về thì mới hiểu hết được giá trị của thùng nước đó như câu người ta thường nói:
“Của một đồng công một lạng”. Tôi nhớ mãi về người bạn tốt này vì thường chọc
đùa anh. Biết tên anh là Phạm Hùng Thọ mà lúc đó Phạm Hùng là Bộ Trưởng bộ Nội
vụ, còn Nguyễn Hữu Thọ là Chủ tịch nước nên một hôm tôi nói đùa với anh: “Anh Thọ
này, giá mà tên anh chỉ lấy mỗi hai chữ đầu là Phạm Hùng, anh em cũng được nhờ,
hoặc chỉ lấy một chữ sau cùng là Thọ và cho đứng sau chữ Nguyễn Hữu, có phải
anh em mình trúng mánh không? Tiếc là tên hai ông lớn gộp lại mới bằng tên anh
mà chúng tôi chẳng được nhờ vả gì!” Thọ nghe tôi nói bật cười thật tươi. Tôi vẫn
nhớ nụ cười hồn nhiên đó của anh.
Tết năm đó, phần đông các anh em được gia đình vào thăm nuôi tiếp tế, trong khi
chúng tôi vừa mới từ trại Phan Đăng Lưu chuyển tới rất đột ngột nên gia đình và
thân nhân không hay biết chúng tôi hiện đang ở đâu. Mặc dù lúc đó chúng tôi được
quyền đi lại từ buồng này qua buồng khác và giao tiếp tự do, nhưng phần cha
Khâm và tôi lúc nào cũng phải dè dặt với anh chàng Bùi Định. Vừa đặt chân lên
trại này, chúng tôi đã được các anh em thông báo phải cẩn thận dè chừng với anh
này.
Vì mới tới, tôi chưa biết ai là ai, chỉ biết là anh Bùi Định được trại chỉ định
làm đại diện cho tất cả tù nhân. Anh ta cũng lo việc phát thư, sách báo, gọi và
dẫn tù ra nhà khách thăm gặp gia đình. Khi từ nhà khách trở vô, anh ta cũng phụ
giúp cán bộ khám xét hàng họ, quà cáp. Trong buồng tôi cũng có một anh tên là Đặng
Báu, nghe nói là giáo dân ở nhà thờ Kỳ Đồng. Anh này chuyên rình mò báo cáo anh
em để lập công.
Tôi đã phải nhiều phen khốn đốn vì anh chàng Đặng Báu này. Khi lên tới trại này
sau hơn 9 tháng bị bắt, lần đầu tiên tôi mới va chạm với hệ thống dùng tù rình
mò và tố cáo tù, mà về sau chúng tôi gọi là “ăn-ten”. Lúc còn bị giam ở trại
Phan Đăng Lưu cũng đã có hiện tượng này, nhưng chưa được tổ chức quy mô thành
“mạng lưới” như khi sống chung đông đúc như ở trại này.
Chuyện năm xưa
Chúng tôi sống yên ổn được gần một tháng thì có chuyện buồn xảy tới. Ngày nọ,
có một anh Công giáo kể tôi nghe câu chuyện về cha Vũ Đức Khâm và dặn tôi về
nói lại với ngài. Anh ta nói, một hôm có một cán bộ người miền Bắc quen biết với
cán bộ quản giáo đội của anh, nên tới đội chơi. Vì biết anh là người Công giáo
nên cán bô miền Bắc này hỏi anh có có biết “tên Vũ Đức Khâm” không. Sau khi anh
trả lời là biết, cán bộ này nói:“Chính thằng Vũ Đức Khâm nó giết bố tôi".
Nghe kể lại chuyện đó, trong lòng tôi bất an. Tôi rất lo sợ cho sự an toàn của
cha Khâm, nhưng tôi không kể lại với cha, sợ ngài lo lắng vì lúc đó tinh thần
ngài rất sa sút.
Mặc dù không kể lại với cha Khâm, nhưng tôi hay tìm dịp hỏi riêng ngài về các
việc làm lúc còn ở Phát Diệm. Cha Khâm cho tôi biết, có làm việc với Đức cha Lê
Hữu Từ trong chiến khu Phát Diệm tự trị, chống Việt Minh. Ngài cũng cho biết,
sau này người ta thêu dệt nhiều điều mà ngài không hề làm. Có lần tôi hỏi về vết
sẹo khá lớn trên mặt ngài, phía dưới cằm, cha Khâm cho biết là có lần ngài bị
ám sát ngay trong nhà thờ vào một buổi sáng sớm khi ngài vào nhà thờ dâng lễ.
Ngài bị bắn hụt chỉ bị thương và còn lại vết sẹo đó. Ngài nói sau lần đó, ngài
không còn dính líu tới Tự Vệ Quân nữa cho tới khi di cư vô Nam vào năm 1954.
Khi vô Nam, cha Khâm đi du học ở Mỹ và có bằng tiến sĩ xã hội. Trở về Sài Gòn,
ngài hoạt động mạnh trong phong trào Thanh Sinh Công và mở những khóa phụ nữ cắt
tóc đầu tiên tại Sài Gòn. Lúc trước tôi không biết gì về cha Khâm, vì ngài là lớp
đàn anh, lớn hơn tôi hơn 20 tuổi. Nhưng tôi nghe tên và biết về việc xã hội
ngài làm tại Sài Gòn. Vào tù chúng tôi mới gặp nhau khi cùng bị giam chung
trong dãy xà-lim ở An ninh Nội Chính ((Nha Cảnh sát Đô thành cũ). Có 20 người
trong 20 phòng liền nhau. Trong số những người nằm xà-lim lúc bấy giờ tôi còn
nhớ các ông Vũ Quốc Thông, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, ông Tống Đình Bắc, Phan Văn
Song... Trong thời gian đó, cha Khâm là người bị gọi đi hỏi cung nhiều nhất, có
khi gọi cả ngày lẫn đêm.
Cách mấy ngày sau, tôi nghĩ là nên cho cha Khâm biết câu chuyện mà tôi đã được
nghe để ngài chuẩn bị tinh thần, hơn là có cái gì xảy ra quá đột ngột cho ngài.
Trong một đêm tôi kể lại câu chuyện mà tôi được nghe và ngài rất lo lắng, mặc
dù ngài khẳng định là không bao giờ có chuyện đó. Ngài cho biết là không bao giờ
giết người lúc còn làm việc ở Phát Diệm.
Vì cả hai chúng tôi đều có linh tính về chuyện chẳng lành có thể xảy ra, nên
chúng tôi dành nhiều thời giờ lo giúp nhau chuẩn bị các việc về phần hồn. Lúc
này cha Khâm coi tôi là người bạn tinh thần và là chỗ nương tựa trong lúc sầu
khổ. Tôi nhận thấy rất rõ là ngài lo lắng và thương tôi hơn. Ngài luôn dặn dò
tôi, cho dù bất cứ vì hoàn cảnh gì mà phải xa nhau, cũng hãy luôn sống xứng
đáng với chức vụ Linh mục và giúp đỡ anh em, nhất là về phần tinh thần.
Có lần tôi nói với cha Khâm là ngài dịch cuốn “Một tâm Hồn” của Thánh nữ Têrêsa
Hài Đồng Giêsu rất hay. Cuốn sách đó có ảnh hưởng tới cuộc đời tôi rất nhiều.
Nghe nói thế ngài cảm động lắm. Tôi còn hỏi tại sao ngài lấy bút hiệu là Kim
Thiếu khi dịch sách đó? Cha Khâm cười trả lời:“Tại Cậu Bảy mày không biết chữ
Nho đó thôi. Đây là lối chiết tự: chữ Khâm được kết hợp bởi chữ Kim và chữ Khiếm,
mà Khiếm tức là thiếu, vậy thay vì Kim Khiếm thì là Kim Thiếu, tức là Khâm!” Có
một đêm nằm gần nhau trên sàn ván trong buồng, tôi nắm lấy bàn tay cha Khâm và
hỏi thẳng vào vấn đề:
- Cậu Hai, giả sử như cậu có Cậu mệnh hệ nào, cậu có muốn con làm gì
không?
Cha Khâm trầm ngâm một lúc mới trả lời:
- Cậu Bảy mầy hãy nói lại với mọi người là tôi đã dọn mình ra đi bằng
yên, và tôi không bao giờ làm điều mà họ gán cho tôi.
Cha Khâm vẫn có thói quen gọi tôi là ‘Cậu Bảy mầy’, nói xong ngài quay mặt đi với
vẻ mặt rất buồn. Tôi hứa là tôi sẽ làm như lời ngài dặn.
Vĩnh biệt Cha Khâm
Và chuyện gì sẽ tới nó phải tới. Một buổi chiều kia, vào khoảng cuối tháng ba
năm 1977, sau hồi kẻng điểm danh, anh em buồng tôi đứng xếp thành 4 hàng như
thường lệ bên ngoài, chờ cán bộ tới điểm danh vào buồng. Nhìn ra, tôi chợt thấy
một chuyện bất thường. Có một nhóm cán bộ lạ mặt từ xa đi tới. Thay vì các cán
bộ có trách nhiệm điểm danh hàng ngày mà chúng tôi biết mặt, lần này là Thiếu
úy Xuân, Sĩ quan An ninh của trại, và 2 cán bộ võ trang mang súng dài theo sau
đang tiến thẳng về phía chúng tôi.
Thiếu úy Xuân từ miền Bắc vào, thuộc diện “cùng hung cực ác”. Da mặt anh nám
đen và đầy mụn trứng cá như dề cơm cháy, môi thâm sì, cặp mắt trắng dã, khi
nhìn ai, không bao giờ chớp mắt. Tôi còn nhớ mãi hình ảnh ghê gớm đúng
vào đêm giao thừa Tết Đinh Tỵ năm đó, ngày 19-2-1977. Trong lúc anh em tù nhân
chúng tôi trong buồng chờ đón giao thừa và nói chuyện ồn ào vui vẻ.
Thình lình có nhiều tiếng súng to, súng nhỏ nổ vang bên
ngoài. Có mấy anh lạc quan hảo vội nhảy nhót vui mừng tưởng là phen này “tới rồi”!
Lúc đó cộng-sản vừa chiếm miền Nam, có nhiều phong trào nổi lên chống trả. Và
có tin đồn nào là “phe ta” đang nằm sẵn sàng trong mé rừng Long Khánh, chờ cơ hội
thuận tiện đánh úp bất ngờ.
Đêm nay khi nghe tiếng súng rền trời, nhiều người phấn khởi vỗ tay. Có anh cố
khom người nhìn qua khe vách ván coi bên ngoài động tĩnh ra sao! Một phần khác,
có lẽ vì đa số anh em trong buồng, không nhiều thì ít đều có dính dáng tới súng
đạn trong một cuộc chiến ác liệt vừa tàn, rồi hàng năm trời không có dịp nghe
tiếng súng, đêm nay nghe lại tiếng súng nổ rền vang, tự nhiên cảm thấy nổi hứng
như lân nghe pháo.
Trong khi anh em trong buồng đang nhốn nháo vui mừng, thình lình cánh cửa duy
nhất của buồng ngay đầu hồi nhà bật mở tung ra! Cánh cửa mở rất mạnh như có một
cơn bão lớn làm bật tung khóa. Tất cả chúng tôi đột nhiên yên lặng nhìn ra phía
cửa, miệng há hốc.
Thiếu úy Xuân hiện ra đứng ngay cửa buồng. Anh ta đứng sừng sững như một Thiên
Lôi từ trời rơi xuống, đứng chết lặng như trời trồng, không nói một lời. Trên mặt
nhiều người trong buồng còn lộ vẻ sững sờ và bẽn lẽn như đứa trẻ ăn vụng, bị mẹ
bắt gặp tại trận! Thiếu úy Xuân “hiện ra” đúng giây phút đầu Xuân, nhưng không
mang lại cho chúng tôi một chút “Xuân” nào! Mặc bộ đồ công-an màu vàng, đầu đội
nón cối che gần hết trán. Cặp mắt trắng dã của anh ta mở to hết cỡ, đang quét
qua quét lại đám tù nhân đang đứng ngỡ ngàng, lúng túng. Ai đang ở tư thế nào
thì giữ nguyên tư thế đó!
Một lúc sau, có vài người khẽ cúi xuống, tránh cặp mắt đằng đằng sát khí của vị
đại diện toàn quyền cho Hung Thần! Anh ta giữ cho bầu khí nặng nề thêm một lúc,
bằng cách đứng yên, hai tay chống nạnh, hai chận dạng ra như trong tư thế xuống
tấn của người đang múa võ. Cuối cùng anh ta độc thoại:“Các anh hồ hởi cái gì, hả?
Anh nào lúc nãy vỗ tay, hả? Bố láo! Các anh đừng có tưởng bở!” Cả buồng vẫn yên
lặng, một lúc sau có vài người bắt đầu cử động nhè nhẹ và quay đi có ý như muốn
nói “không phải tôi”.
Có lẽ thấy màn biểu diễn uy quyền đã tạm đủ, anh ta to giọng: “Cả buồng đi ngủ!
Nếu còn tiếp tục làm ồn thì đừng có trách!”. “Phán” lời đó xong, anh ta bước
lui ra biến dạng vào bóng đêm cũng nhanh như lúc anh ta “hiện ra”. Cánh cửa buồng
giam tự nhiên đập “ầm” một tiếng, giống y như các cảnh trong phim thần thoại diễn
tả lúc Hung Thần vụt biến. Có cái khác là Thiếu úy Xuân “biến” mà không để lại
một vầng khói trắng như thường thấy trong phim! Sáng ngày chúng tôi được biết,
đêm qua cán bộ bắn súng mừng giao thừa thay cho tiếng pháo Tết!
Chiều nay, lúc đang đứng trong hàng tôi lại thấy “Hung Thần” xuất hiện. Lần này
thì xuất hiện giữa ban ngày, có hai cán bộ võ trang xách súng dài theo sau. Thấy
Thiếu úy Xuân đang xăm xăm đi tới, linh tính báo cho tôi biết là có chuyện chẳng
lành. Khi anh ta tới nơi và dừng lại, đội trưởng của chúng tôi (lúc bấy giờ là
ông già Lưu), hô to mệnh lệnh: “Nghiiêêmm!” Cái ông già Lưu này, người thì bé
con con mà tiếng hô “nghiêm” của ông ngon lành nhất trại. Hô xong ông đứng cứng
đơ người, hai bàn tay úp vào, kẹp sát hai bên đùi, gót chân nhún lên nhún xuống.
Vì cái tật này mà ông ta có biệt danh là “ông già lò xo”!
Sau khi hô khẩu hiệu xong, "ông già lò xo" định báo cáo số người như
thường lệ, nhưng Xuân khoác tay, vì việc này thuộc nhiệm vụ của cán bộ trực trại
chớ không phải của anh ta. Anh ta đến đây vì một việc khác. Thiếu úy Xuân đứng
đó, giương cặp mắt lừ đừ trắng dã nhìn thẳng vào chúng tôi, nói thật gọn nhẹ:
“Anh Vũ Đức Khâm, vào buồng mang tất cả nội vụ ra ngoài!"
Trước giờ chia tay
Tôi nhìn cha Khâm thấy ngài giật mình một phát thật mạnh và lảo đảo bước ra khỏi
hàng. Những gì tôi lo sợ đã đến. Lúc đó tôi nghe đau nhói trong tim khi nhìn thấy
thân hình cao to của cha Khâm, lúc bấy giờ khoảng 65 tuổi, lưng hơi còng, mình
mặc áo đen, quần ngắn đen, mặt tái nhợt và hai bàn tay run nhẹ, đang bước vội
vào buồng. Vào tù ngài để râu nên trông càng già hơn. Tôi có thể đoán biết số
phần của ngài sẽ ra sao! Các anh em khác cũng đứng yên nhìn cha Khâm với vẻ ái
ngại, mặc dù họ chưa biết tính cách nghiêm trọng của sự việc như tôi biết.
Thiếu úy Xuân vẫn còn đứng đó, trong khi hai cán bộ võ trang xách súng theo sau
cha Khâm tới cửa buồng. Tôi đứng suy nghĩ một giây, và bước ra khỏi hàng tới
trước mặt Thiếu úy Xuân:
- Báo cáo anh!
Thiếu úy Xuân ngạc nhiên nhìn tôi hỏi:
- Có việc gì?
- Tôi sinh hoạt chung với anh Khâm và quản lý tất cả đồ đạc. Anh cho tôi
vào buồng trả lại cho anh ấy.
Lúc đó tôi sinh hoạt ăn uống chung với cha Khâm và anh Trần Đình Ngành, một
giáo dân xứ Tân Việt. Thật ra đó chỉ là cái cớ. Tôi còn một ý khác mạnh hơn và
quan trọng hơn rất nhiều để xin vào buồng trong lúc này. Thiếu úy Xuân suy nghĩ
một chốc, gật đầu:
- Được! Khẩn trương lên!
Tôi đi như bay về phía buồng, nhưng hai tên võ trang đứng ngoài cửa
chận tôi lại hỏi:
- Còn anh vào đây làm gì?
- Tôi đã báo cáo xin anh bên ngoài cho vào soạn đồ đạc của anh Khâm, vì
chúng tôi sinh hoạt chung.
- Khẩn trương lên nhé!
- Vâng, tôi khẩn trương!
Thấy hai anh này không có gì khó khăn lắm tôi cũng mừng, đi vội lại với cha
Khâm lúc đó ở khoảng giữa buồng về bên trái. Lúc đó ngài đang lúng túng vội
vàng lục tung đồ đạc ra, vất lộn xộn trên sàn gỗ. Thấy tôi bước vào, cha Khâm mừng
rỡ ra mặt, hai bàn tay run rẩy của ngài chụp lấy tay tôi, nói bằng giọng đứt
quãng:
- Cậu Bảy mày ở lại mạnh giỏi, xin Chúa chúc lành. Gửi lời chào
Ngành và các anh em, nhớ cầu nguyện cho nhau. Cậu giữ tất cả thức ăn lại đi,
tôi không mang gì đâu.
Lúc đó cha Khâm đã mất bình tĩnh, lụp chụp và cố nói với tôi thật nhiều trong
khi còn có thể nói được. Tôi nhìn Ngài hết sức thương tâm, cố kềm hãm cơn xúc động
và nói nhanh:
- Cậu Hai dọn mình ăn năn tội đi, con giải tội cho. Con xin vào đây vì lý do
đó.
Nói xong tôi ngước mắt nhìn ra cửa thấy Thiếu úy Xuân đang từ từ đi vào. Lúc
này cha Khâm đang ngồi quay lưng ra cửa, mắt nhắm nghiền, đôi môi mấp máy. Tôi
biết là ngài đang dọn mình ăn năn tội. Tôi bắt đầu đọc công thức giải tội bằng
tiếng La-tinh, đọc thật nhỏ vừa đủ cho hai người nghe:“Dominus noster Jesus
Christus te absolvat....” Tôi vừa đọc xong thì Thiếu úy Xuân cũng vừa tới nơi.
Anh ra lệnh bằng một giọng nhỏ nhẹ nhưng dứt khoát:“Anh Khâm khẩn trương! Mang
nội vụ ra ngoài!” Tôi đứng nhìn theo bóng dáng to cao của cha Vũ Đức
Khâm đang vội vã tay xách nách mang trở ra cửa, theo sau là Thiếu úy Xuân,
trông như cảnh tội nhân bước ra pháp trường, có tên lý hình theo sau. Có lẽ lúc
đó cha Khâm cũng đã biết một phần nào số phận của ngài nên trông ngài mất bình
tĩnh một cách rất đáng thương.
Nỗi buồn chia ly
Tối đêm hôm đó sau khi đã vào buồng đóng cửa, một số anh em, nhất là các anh em
Công giáo, lộ vẻ u buồn trông thấy. Phần tôi, lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy
thật lẻ loi và cô đơn. Tôi nằm nhớ cha Khâm và hai hàng nước mắt tràn ra. Lúc
nãy khi thu dọn lại đồ đạc tôi thấy chiếc dây thắt lưng bằng da, có bảng khá to
mà tôi thấy ngài vẫn thường mang. Có lẽ trong lúc vội vã ngài đã bỏ quên lại.
Nhìn thấy vật này tôi càng nhớ cha Khâm nhiều hơn.
Khi đi ngủ, nhìn sang chỗ trống bên cạnh,
tôi bồi hồi nhớ lại hơn một tháng qua, hai anh em Linh mục chúng tôi nằm gần
nhau, an ủi nâng đỡ nhau, cùng nhau dâng Thánh Lễ trong mùng cách âm thầm. Tôi
coi cha Khâm như một người cha hơn là một bạn tù. Ngược lại ngài cũng rất quý mến
tôi. Sự có mặt của cha Khâm và tôi trong trại tù hơn một ngàn người ở đây cũng
là một niềm vui và là nguồn an ủi cho một số đông các anh em Công giáo. Giờ đây
cha Khâm đi rồi, chỉ còn lại một mình, và tôi cảm thấy trách nhiệm mình trở nên
nặng nề hơn.
Thời gian này cũng là
lúc tôi thấy rõ vai trò một Linh mục trong nhà tù cộng-sản, là một chỗ dựa tinh
thần cho nhiều người. Điều này tôi đã bắt đầu cảm nhận ngay trong thời gian gần
hai tháng tù đầu tiên tại Ban Mê Thuột và sau đó là tám tháng ở An Ninh Nội
chính và trại Phan Đăng Lưu, tỉnh Gia Định.
Đêm đó tôi nằm trăn trở không ngủ được. Việc cha Khâm bị đưa đi làm tôi sốc nặng,
vì tôi đã hình dung được những gì đang chờ đợi ngài qua câu chuyện mà tôi được
nghe. Trong đêm thanh vắng tôi nằm nhớ lại những ngày tháng qua, từ lúc tôi bị
bắt trong vùng rừng núi ở Campuchia, giáp ranh tỉnh Ban Mê Thuột. Nhớ lại những
ngày đầu tiên tôi bước vào nhà giam tỉnh Ban Mê Thuột, sau đó chuyển về An Ninh
Nội Chính và bị giam chung với cha Khâm ở dãy xà-lim, cha Khâm buồng 15, tôi buồng
20. Sau đó cả hai được chuyển qua trại Phan Đang Lưu tỉnh Gia Định, nhưng cũng ở
khác buồng. Lúc lên trại Gia Ray này, chúng tôi mới sống chung một đội với
nhau.
Những bước đầu
Nhớ lại kỷ niệm của những ngày đầu, lúc tôi còn quá ngỡ ngàng với nếp sống
trong tù, cái gì cũng lạ, cũng bỡ ngỡ như chuyện buồn cười sau đây. Hai tháng
sau ngày bị bắt, tôi được chuyển về trại Phan Đăng Lưu, tỉnh Gia Định.
Phòng giam là một căn phòng trống trơn, các tù nhân nằm trên nền xi-măng xây
lên cao khoảng ba tấc cập theo vách tường. Ở giữa có khoảng trống trũng xuống,
mà chúng tôi gọi là “phi đạo” chạy thẳng ra cửa. Ngay gần cửa về phía trái có một
bể cạn cao chừng thước hai, có thể chứa được hai khối nước, có vòi nước máy chảy
vào. Từ thành bể trở vô sát với bờ tường là một khoảng trống làm chỗ tắm giặt
và trong cùng là cầu tiêu. Khu vực này được ngăn ra với “phòng ngủ” bằng một bờ
tường cao tám mươi phân. Như vậy phải hiểu là vách chỉ che được người đứng bên
trong kín được tới trên đầu gối một chút. Thật ra, công dụng của vách ngăn này
chỉ để nước khỏi bắn tung tóe ra ngoài, chứ không có ý che kín con người tắm
bên trong.
Buồng giam có mái nhà lợp tôn, không cửa sổ và bên trên thay vì trần nhà, là một
vỉ sắt ô vuông đề phòng tù trổ nóc nhà vượt ngục. Mỗi buồng như vậy nhốt 60 người,
có khi hơn, trong khi sức chứa thực sự chừng 30. Tù nhân trong buồng thật hỗn tạp,
đủ mọi thành phần như phản cách mạng, phục quốc, vượt biên, văn nghệ sĩ, công
chức chế độ cũ v.v và có vài anh cán bộ hủ hóa cũng bị nhốt vào đây.
Trong buồng tôi lúc đó gần phân nửa là số anh em Công giáo, nhiều nhất là thanh
niên các xứ đạo trong đô thành như Tân Việt, Tân Sa Châu, Bùi Phát. Đa số bị bắt
vì tham gia phong trào Dân Quân Phục Quốc. Vì phòng quá đông nên rất nóng nực,
mọi người đều cởi trần và mặc mỗi chiếc quần đùi cả ngày lẫn đêm. Ban ngày
chúng tôi thay phiên nhau giội nước tắm trong giờ được cả buồng ấn định. Khi tắm,
mỗi người được giội ba “mũ” nước. Người này tắm xong tới người kia, cứ
xoay vòng theo chiều kim đồng hồ căn cứ vào vị trí chỗ nằm trong buồng.
Tất cả mọi người, khi tắm đều cởi truồng. Đây mới là cái khó cho tôi! Tôi để ý
gần như ai khi tắm cũng làm những động tác giống nhau. Họ tới bên bể nước, bước
vào “nhà tắm”, tuột nhanh cái quần đùi, giũ phành phạch hai lần và vắt nằm lên
trốc vách ngăn. Hầu hết đều quay mặt vô vách khi làm các động tác này, nhưng
cũng có người cứ bình thản quay mặt ra “khán giả”, vì còn mải mê tiếp tục câu
chuyện dở dang. Có mấy anh chàng quá mê cờ tướng, chẳng còn biết trời đất là
gì, tuột quần xuống quá đầu gối rồi mà còn đứng quay lại, tay trái giữ cạp quần,
tay kia khua khoắng chỉ trỏ và gân cổ lên cãi về một nước cờ còn chưa ai chịu
ai. Trong lúc miệng nói, các ngón tay hạ xuống co tròn lại, gãi sồn sột chỗ
vòng đai thắt lưng có một đường viền lồi ra vì cạp quần thun quá chật. Nhiều
khi đứng lâu quá, làm người kế sau chờ sốt ruột phải lên tiếng giục mới chịu giở
chân lấy quần ra. Xong động tác cởi quần là bước vô “nhà tắm”, cúi xuống cầm
nón nhựa múc thật đầy nước và giội lên đỉnh đầu.
Mỗi người chỉ được ba nón, ai giội quá bị cảnh cáo và khấu trừ lại chuyến sau.
Tắm xong, chẳng lau người gì cả, chỉ vuốt mặt vuốt mày cho đỡ ướt. Sau đó với
tay lấy cái quần đùi, lại giũ phành phạch hai cái và cúi rùn người xuống xỏ
chân mặc vào. Thế là xong một lần tắm. Chiếc quần đùi bị dính nước ướt lỗ chỗ một
vài nơi, nhưng rồi một chốc lại khô ngay và lại chờ cho hết vòng rồi tiếp tục
những động tác y như thế cho tới khi hết giờ quy định, thường là trước giờ ăn
chiều. Mỗi ngày được chừng 4 hoặc 5 vòng, ai không cần tắm thì nhường cho người
tiếp theo, và như thế vòng tua lại được rút ngắn đôi chút. Tôi vô buồng 6
Khu C2 trại Phan Đăng Lưu này vào một ngày cuối tháng 8 năm 1976. Mùa này nắng
rất to, trong phòng nóng nực làm mồ hôi lúc nào cũng nhễ nhại trên người. Ngày
đầu tôi không tắm vì ngại. Qua ngày sau nóng nực không chịu nổi, nên khi trong
buồng bắt đầu xoay vòng đi tắm, tôi cũng vào phiên.
Khi nhìn những anh tắm trước, tự nhiên tôi đâm ra e ngại vì tôi không quen tắm
cởi truồng trước mặt người khác. Vòng tua càng nhích gần tới phiên mình, tôi
càng bối rối, có nên hay không nên tắm, và khi tắm có nên làm cách tự nhiên như
những người khác không? Thật là tấn thối lưỡng nan! Không tắm thì nóng nực
không chịu nổi, mà tắm trần truồng trước gần 120 con mắt, thật ngại chết người
vì tôi chưa ở trong hoàn cảnh như thế bao giờ. Nhất là đa số các bạn tù trong
buồng lúc bấy giờ là các anh em Công giáo! (không hiểu tại sao tôi lại có cái ý
nghĩ là trần truồng trước mặt các anh em Công giáo mình sẽ ngại ngùng hơn!)
Nhưng nếu tôi mặc quần đùi tắm thì làm gì có đủ quần để mặc và chỗ đâu để phơi.
Lúc đó tôi chỉ có hai chiếc quần đùi để thay đổi nhau, mà tắm xoay tua kiểu
này, dù có tới hàng chục chiếc cũng không kịp để thay, không lẽ cả ngày phải mặc
quần ướt? Nhớ lại hồi còn đi học, khi ở trọ với anh tôi trong trại gia binh ở
Vĩnh Long, tôi cũng đã có dịp va chạm với cảnh tắm truồng tập thể. Những người
lính đều tắm truồng, tôi vào phòng tắm chung với họ nhưng tôi chỉ đóng vai khán
giả mà không bao giờ “nhập cuộc”.
Lúc này, anh bạn trước tôi đã tắm xong và đang vuốt mặt, vuốt mày. Cùng một động
tác giống mọi người, anh với lấy cái quần đùi đang nằm chơi vơi trên trốc tường,
căng ra, giũ phành phạch 2 cái, xong cúi xuống mặc vội vào và bước ra nhường chỗ
cho tôi. Anh ta làm những động tác ấy nhanh như một người máy, có lẽ không muốn
để tôi phải chờ lâu. Anh ta đâu có biết là cho tới giây phút cuối cùng, tôi
cũng chưa dứt khoát được tư tưởng. Lúc nãy, trong khi đứng chờ, tôi ngoái đầu lại
đảo mắt quan sát thật nhanh các bạn trong buồng. Tôi làm như vô tình, nhưng thật
ra là có ý dò xét xem có ai chú ý tới việc tôi sắp sửa tắm hay không. Những gì
tôi ghi nhận thật đáng khích lệ!
Trong góc đàng xa, một nhóm khá đông mải mê cờ tướng, đang cúi gầm trên bàn cờ
được kẻ vạch ngay trên bệ nằm bằng xi-măng. Nhóm khác ngồi kế bên, đang tranh
luận rất gay cấn, khua tay múa chân, mạnh ai người ấy nói như một đám ứng cử
viên đang cố gắng trình bày kế sách cùng một lúc với cử tri! Có vài người đang
lúi húi với cái bị cói đựng đồ thăm nuôi đang bị lũ kiến đói tấn công! Có người
đang ngồi đọc báo Nhân Dân. Có người trịnh trọng nắn nót que diêm trước khi
đánh lửa hút thuốc lào. Các nhóm này mang lại cho tôi thật nhiều sự an ủi và dễ
chịu.
Nếu cả 60 con người trong buồng này ai cũng đang bận rộn về một việc như vậy
thì việc tắm truồng của tôi đâu còn là một vấn đề. Ngặt một nỗi, có mấy anh
chàng ngồi trong các góc đối diện kia đang trầm ngâm như những triết gia. Họ
đưa cặp mắt lờ đờ rảo qua hết nơi này tới nơi khác. Tôi không thể đoán được
trong đầu óc họ lúc đó đang suy nghĩ gì. Họ nhìn bốn phương tám hướng, nhưng thực
sự họ chỉ nhìn để mà nhìn, hay có ý muốn quan sát một điều gì không, ai biết được?
Chính những anh chàng này làm khổ tôi, chính họ tạo cho tôi sự bất ổn vì không
thể đoán biết được gì trong cái nhìn vu vơ của họ.
Tận trong một góc đàng xa, tôi thấy Bác sĩ Lý Trung Dung đang ngồi một mình, cởi
trần mặc quần đùi trắng, vóc người nhỏ thó, đầu tóc bạc phơ. Ông đang dựa lưng
vào tường, đôi mắt nhắm nghiền, miệng lâm râm đọc kinh, đây là thói quen thường
ngày của ông. Bác sĩ Lý Trung Dung có lần kể với tôi ông là tác giả công trình
Hội Chợ Thị Nghè trong dịp Quốc Khánh năm 1957 thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Lần
đó cây cầu phụ bắt qua sông Thị Nghè bị sập trong đêm làm chết khá nhiều người.
Tôi cũng có mặt gần bên, trong dịp tôi Sài Gòn lần đầu tiên khi tôi vừa 14 tuổi.
Sau khi đảo mắt một vòng, tôi kết luận thật nhanh:“Không đến nỗi nào, không có
mấy người chú ý đâu, cứ tự nhiên thôi!”Tôi mạnh dạn bước vào”buồng tắm” và làm
những động tác như các bạn tù. Tôi cố gắng làm một cách thật tự nhiên và nhẹ
nhàng, trong khi liếc mắt nhìn, chẳng ai thèm để ý tới tôi. Từ đó tôi nhập cuộc
vào sinh hoạt thông thường với anh em trong buồng. Việc đi tắm một cách tự
nhiên đó không còn là vấn đề đối với tôi, vì đó là thực tế của cuộc đời tôi
đang sống. Cuộc đời của một người tù.
Khi cha Khâm bị đưa đi rồi, nhờ có anh tù mang thức ăn cho khu kỷ luật mà tôi
quen, nên tôi biết tin về cha Khâm và có thể gởi cho ngài ít thứ cần thiết. Cha
Khâm bị đưa xuống cùm chân trong hầm kỷ luật. Hầm này trước kia là hầm truyền
tin của trung đoàn, nằm giữa sân trại, ngay lối ra vào. Hôm sau tôi nhờ anh
mang vào cho ngài nải chuối và dây thắt lưng da to bản mà ngài vẫn dùng. Những
ngày sau chúng tôi cũng tiếp tục gửi thức ăn cho ngài, nhưng cũng có lần ngài
nhắn lại là không cần thức ăn nữa, chỉ xin anh em Công giáo giúp lời cầu nguyện
cho ngài.
Khi cha Khâm bị đưa đi rồi, chỉ còn lại anh Trần Đình Ngành và tôi sinh hoạt
chung với nhau. Anh Ngành là người rất tốt và nhân hậu. Anh rất thương cha Khâm
và tôi. Trong đêm đầu tiên cha Khâm bị dẫn đi, anh Ngành vô mùng nằm khóc nức nở
và những ngày sau lúc nào cũng tìm cách gửi một thứ gì đó cho “Cậu Hai”. Anh
Ngành và tôi gặp nhau trong khu xà-lim trại Phan Đăng Lưu, từ đó chúng tôi quý
mến nhau. Anh vẫn gọi tôi là “3 ngã” và tôi gọi anh là “3 huyền” theo các dấu
trong tên của hai người là Trần Đình Nghành và Nguyễn Hữu Lễ. Một tuần sau,
trong khi chúng tôi đi lao động về, thấy có một xe nhỏ bít bùng chạy từ trong
trại ra. Hôm sau tôi được anh tù lo việc liên lạc cho biết Cậu Hai đã được đưa
vào nhà tù Chí Hòa. Kể từ đó không bao giờ tôi gặp lại cha Vũ Đức Khâm nữa.
Tin chuyển trại
Sau khi cha Vũ Đức Khâm bị đưa đi một thời gian, có tin đồn là chúng tôi sẽ được
di chuyển về Đồng Tháp. Tin này được loan truyền đi rất nhanh trong trại. Có một
điểm tâm lý dễ hiểu là trong tù lúc nào chúng tôi cũng mong có sự thay đổi. Ai
cũng hy vọng là chỗ mới sẽ khá hơn nơi chúng tôi đang sống. Vả lại, trại Gia
Ray là một nơi rất tạm bợ, thiếu thốn tất cả mọi thứ, ngay cả những nhu cầu tối
thiểu của con người, nên chúng tôi càng mong được chuyển đi nơi khác hơn.
Lúc đầu không ai biết tại sao có tin đồn đó, nhưng khi tìm hiểu cặn kẽ mới biết
là những người bà con vào thăm nuôi đã báo tin. Trước khi vào thăm nuôi, thân
nhân của tù thường dừng lại các hàng quán bên ngoài mua hoa quả, bánh trái và
đã được một cô bán hàng cho biết tin đó với tính cách “bí mật”. Số là cô bán
hàng có quen một anh công-an cai tù trong trại. Ngày kia anh ta ra từ giã cô
gái và nói là anh sẽ vắng mặt một thời gian. Cô gái vặn hỏi mãi lý do nhưng anh
ta không nói, chỉ trả lời úp mở càng làm cho cô gái sốt ruột và sinh nghi sắp
có chuyện gì liên quan tới số phận các tù nhân trong trại.
Cũng nên biết là lúc bấy giờ đồng bào trong Nam rất thương các người tù như
chúng tôi, nếu có thể làm gì để giúp cho các tù nhân, họ không bao giờ từ chối.
Cô gái bán quán này cũng trong tâm trạng đó. Mặc dù không làm gì được để giúp
chúng tôi nhưng cô đã lợi dụng sự quen biết với cán bộ để “moi” tin tức, và tìm
cách đưa vào trong trại. Vì cô nghĩ đó là cách cô giúp cho những người tù mà cô
thương mến. Lần này, sau mấy ngày úp mở về sự vắng mặt sắp tới của anh cán bộ,
cô gái phải làm hết cách để hỏi cho bằng được. Cuối cùng anh cán bộ đành phải
tiết lộ với câu dặn dò rất nghiêm trọng:“Đừng bao giờ nói lại với ai là anh sẽ
áp tải một số tù về Đồng Tháp!” Chưa đầy 24 tiếng đồng hồ sau, không một người
tù nào trong trại Gia Ray mà không biết tin “bí mật” là sẽ có một đợt chuyển tù
về Đồng Tháp!
Tung hỏa mù
Tù nhân trong trại Gia Ray bắt đầu xôn xao, bàn ra tán vào về nguồn tin đó. Các
“nhà bình luận thời cuộc” lại có dịp bày tỏ sự hiểu biết của mình về lý do tại
sao phải chuyển trại. Tại sao lại đưa về Đồng Tháp mà không thể đưa đi nơi
khác? Và ở đó sẽ ra sao? Sau khi bàn đi tán lại đủ điều, họ đưa ra câu kết luận
là:“Rất tốt!”
Lúc mới vừa bị dồn lên trong trại này, chúng tôi ai cũng lo ngại sẽ bị đưa ra Bắc.
Hai tiếng “ra Bắc” là hai tiếng cấm kỵ. Trong tù ai cũng sợ, cũng kiêng, không
ai dám nhắc tới nó. Hai tiếng “ra Bắc” đồng nghĩa với ba tiếng “đến tử địa” nên
không ai dám nghĩ là mình sẽ rơi vào trường hợp ra Bắc. Chúng tôi không muốn nhắc
tới hai tiếng đó, mặc dù lúc nào nó cũng tiềm ẩn ở một nơi nào đó trong lòng của
từng người tù chúng tôi.
Bây giờ có tin đi Đồng Tháp, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Nỗi lo canh cánh bên
lòng bây giờ được giải tỏa, như vừa trút bỏ được gánh nặng ngàn cân. Ở Đồng
Tháp có điều gì hay thì chưa biết nhưng mọi người đều hân hoan với viễn ảnh là
đến đó thì được tha hồ mà dùng nước! Vì Đồng Tháp là vùng sông ngòi, trong khi ở
Gia Ray này, một giọt nước quý như một giọt máu. Chúng tôi vui mừng hớn hở và
yên tâm chờ đợi ngày được đi Đồng Tháp. Một viễn ảnh tốt đẹp cho kiếp tù đang
le lói trong lòng của hơn ngàn tù nhân trong trại lúc bấy giờ.
Vào một buổi trưa Chúa Nhật của tuần lễ đầu tháng Tư, có một anh Công giáo
trong đội nhà bếp tới gặp tôi để xưng tội. Sau đó anh kéo tôi ra gần bờ rào trại
để nói chuyện riêng. Anh nói với tôi:“Con báo cho Cậu Bảy biết, qua tuần tới, tức
là sau lễ Phục Sinh sẽ có một đợt chuyển tù ra Bắc, trong số đó có tên Cậu Bảy.
Xin cậu hãy giữ kín chuyện này vì nếu tiết lộ con sẽ bị nguy hiểm. Con xin cậu
cũng đừng hỏi tại sao con biết việc này, cậu chỉ biết là không phải con làm việc
cho tụi nó đâu.” Anh bạn nói với tôi với tất cả sự xác tín. Tôi biết đây là một
hung tin, nhưng tôi vẫn hy vọng biết đâu tin này không chính xác. Trong lúc đó,
hàng ngày anh em vẫn bàn tán sôi nổi về việc đi Đồng Tháp. Riêng tôi được biết
tin bí mật này, nhưng vì tính cách nghiêm trọng của nó và vì lời hứa, tôi phải
giữ kín, không hề hở môi ra cho bất cứ ai. Lúc đó đội tôi vẫn đi làm lao động
bên ngoài, khai hoang, dọn đất cho các đội trồng rau xanh.
Những ngày sau đó đầu óc tôi lúc nào cũng hoang mang lo lắng về tin ra Bắc mà
tôi được biết. Bắt đầu từ Thứ Hai sau lễ Phục Sinh, ngày nào tôi cũng hồi hộp
và chờ đợi coi có động tĩnh gì không. Nỗi khổ tâm của tôi lúc bấy giờ là không
thể tiết lộ với ai. Trong khi đó hàng đêm, sau khi vào buồng, anh em ngồi tụm
năm tụm ba bàn tán về cuộc chuyển trại về Đồng Tháp sắp tới. Điều này càng làm
cho tôi khốn khổ hơn, vì biết được một việc có liên quan tới số phận của quá
nhiều người, nhưng vì lời hứa, tôi không thể nào tiết lộ được.
Ngày thứ Hai trôi qua, không có gì xảy ra, rồi ngày thứ Ba... và các ngày tiếp
theo trong tuần, ngày nào tôi cũng hồi hộp chờ đợi nhưng vẫn không thấy gì. Tới
sáng ngày thứ Bảy vẫn lặng yên như tờ. Tôi rất vui trong lòng vì biết là nguồn
tin anh bạn nhà bếp nói không đúng sự thật. Tôi không trách anh ấy, vì trong tù
các tin đồn, tù nói tội nghe vẫn là chuyện thường xảy ra. Vả lại tin anh ta báo
“ra Bắc” mà không đúng sự thật là một hồng ân đối với tôi rồi. Xế trưa thứ Bảy,
chúng tôi cũng xếp hàng, báo số đi lao động buổi chiều như thường lệ. Trong lúc
lao động, tôi cảm thấy thật hân hoan vì anh bạn nói chắc chắn là nội trong tuần
này sẽ có đợt chuyển tù ra Bắc, mà lại có tên tôi trong danh sách, thế mà bây
giờ là chiều thứ Bảy rồi, tôi còn gì phải lo nữa?
Sau giờ lao động, lúc đó quãng 5 giờ chiều, đội chúng tôi xếp thành hàng 4 trở
về trại như thường lệ. Trên đường về trại, tôi thở phào nhẹ nhõm. Một nỗi vui
xâm chiếm lấy tôi, một nỗi vui rất lớn mà ít khi nào tôi có được tâm trạng đó.
Lòng tôi sung sướng hân hoan trong lúc chân đang đều bước trong hàng trên đường
về trại. Tôi nhớ tới ngày mai với một viễn ảnh tươi đẹp. Ngày Chủ Nhật sẽ nghỉ
ngơi và thăm viếng, tiếp xúc với anh em, bạn bè.
Suốt tuần qua tôi bị tin “ra Bắc” ám ảnh và dày vò. Lúc nào tôi cũng mệt nhọc
như đang đeo gánh nặng hàng trăm cân trên người. Cũng may thời gian lo lắng chỉ
có một tuần, nếu tình trạng này kéo dài hơn, chắc tôi sẽ ra nghĩa địa trước khi
ra Bắc (nếu có!). Chiều nay tôi mới thực sự thoải mái! Tôi ngước đầu lên nhìn bầu
trời xanh và hít một hơi thật dài trong tư thế của một người vừa có niềm vui lớn.
Niềm vui của người vừa thoát qua một tai nạn, một tai nạn có thể kết liễu đời
mình.
Khi cúi đầu xuống, chợt tôi thấy từ đàng xa, trên con đường vào trại từ hướng
ngã ba Ông Đồn có một cái gì rất lạ! Sau khi định thần nhìn kỹ, tôi thấy một
đoàn xe tải quân đội đang chạy nối đuôi nhau làm tung lên đám bụi mịt mù trên
con đường đất đỏ hướng vào trại. Tôi chới với gần như ngộp thở khi thấy cảnh
này! Thì ra những gì tôi đã hồi hộp lo lắng cả tuần nay, bây giờ đã tới. Nó tới
vào lúc tôi không ngờ nhất.
Trong khi đó, thật vô cùng trớ trêu, một số người trong đội tôi vỗ tay vui mừng,
vì nghĩ rằng đoàn xe mà họ chờ đợi từ lâu để đưa họ đi Đồng Tháp, bây giờ mới tới!
Khi chúng tôi vừa nhập trại, chưa kịp lấy thức ăn, nước uống thì có tiếng kẻng
tập họp bất thường. Toàn thể tù nhân tập trung ra giữa sân trại cho ban giám thị
nói chuyện. Chỉ cần thấy đoàn xe tải đang đậu dọc theo sân, ai cũng đoán biết
là sắp có cuộc chuyển trại, và phải là đi Đồng Tháp! Sau khi tập trung chỉnh tề,
ông trại trưởng cho biết, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cải tạo và vì trại
này quá đông, do đó không thể lo lắng đầy đủ được cho tất cả mọi người, nên một
số sẽ được chuyển đến một nơi mà điều kiện nước nôi rất thoải mái. Cuộc chuyển
trại chia làm nhiều đợt và đợt đầu sẽ là các anh có tên trong danh sách. Sau đó
cán bộ đọc một danh sách 350 người, trong đó có tên tôi.
Lúc giải tán về các buồng, ai cũng nghĩ là sẽ đi Đồng Tháp nên rất vui mừng. Cả
trại nhốn nháo và lộn xộn không tả được. Anh em từ giã nhau, các nhóm sinh hoạt
chung thì chia chác đồ ăn, thức uống hoặc đồ dùng. Một số người cảm thấy thiệt
thòi vì chưa được đi “Đồng Tháp” trong đợt đầu, vì ở đó có nước máy theo lời
cán bộ trại trưởng nói.
Lúc bấy giờ sự việc đã tới và không cần giữ bí mật nữa, tôi nói với anh em là số
tù này bị chuyển ra Bắc, nhưng không mấy người tin vào lời tôi nói. Có người
còn cho là tôi cố ý hù dọa anh em, họ gọi tôi la người nằm mơ giữa ban ngày.
Đêm hôm đó, cán bộ võ trang tuần canh bên ngoài nghiêm nhặt bằng mấy lần ngày
thường. Sở dĩ tôi biết, vì suốt đêm đó anh bạn thân của tôi là Phạm Thế Khải và
tôi thức trắng đêm, chờ một cơ hội thuận tiện.
20/6/2003
Nguyễn Hữu Lễ
Nguồn: http://dactrung.net/
Theo http://diendan.vnthuquan.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét