1. Những năm qua, đời sống văn hóa và tinh thần nói chung, đời sống văn chương nói riêng đã diễn ra tình trạng loạn chuẩn tới mức báo động, và nổi lên những hiện tượng kỳ dị - nổi bật nhất là tình trạng "lạm phát thơ" (như tên một bài viết), mà đỉnh cao (hay thực chất là biến tướng quái đản nhất của nó) là hiện tượng người làm thơ dám tự nhận "mượn bút tiền nhân"...
Là một người yêu thơ, và đang làm một công việc có thể nói là lấy thơ ca làm gốc, tôi xin mạnh dạn góp mấy lời lạm bàn.
Đúng là có sự thật: "Nhan nhản những tập thơ vô thưởng vô phạt xuất hiện trong các giải thưởng, trên quầy sách, trên bàn thờ tổ tiên hay trên những trang mạng cá nhân. Đó là thứ thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, tưởng như vừa khai quật trong bãi thải của quên lãng... Nhưng cũng không ít người say mê với nó và tưởng mình không thua gì Nguyễn Bính, Xuân Hương khi được một số độc giả khen vuốt ve trên mạng ảo…" ("Hiện tượng vè hóa, văn xuôi hóa và cũ hóa Thơ cần báo động" - Nguyễn Trọng Tạo - trieuxuan.info). Quả thực có chuyện: "Thơ thập - diện - mai - phục… thơ làm tắc nghẽn mọi ngóc ngách, ngõ hẻm, đường sá, giao lộ tinh thần khiến cho thơ sạch không có lối đi." ("Vấn nạn thơ đầy đường"- trannhuong.com). Bản thân người viết những dòng này cũng đã bày tỏ thái độ trước sự lạm phát thơ đó trong vài bộ phim truyện truyền hình từng phát trên Văn nghệ chủ nhật, như phim "Trời cho - trò chơi": một ông được đền bù đất đai đã vung tiền cho mình và vợ con làm sang: vợ mở phủ, con gái mua sắm, còn bản thân thì cho in thơ "con cóc" của mình để khoe và để biếu.
Nhưng, đó chỉ là một nửa của sự thật, đúng hơn, là cái mặt nổi của sự thật.
Lòng yêu thơ, có thể nói là cái phần tốt đẹp nhất trong những tình cảm tốt đẹp còn sót lại sau những cuộc tàn phá kinh hoàng của nền kinh tế thị trường méo mó đối với nhân tính và các mối quan hệ xã hội. Một tác giả có ý kiến khá lạ và hóm hỉnh, và không phải không có lý: "Nếu có một ngày toàn nhà thơ tham gia giao thông thì chắc chắn nạn tắc đường giảm đi rất nhiều, bởi dù đấy là nhà thơ ở cấp độ nào thì đều là những người có tâm hồn phong phú, có nhân tính, biết nhường nhịn nhau… Còn nếu các nhà công quyền lại đồng thời là các nhà thơ thì lại tốt quá, người dân chắc không phải điêu đứng vì thói hống hách, quan liêu, cửa quyền, tham lam vô độ… ("Đất nước càng nhiều nhà thơ càng tốt" - Thi Thi - nguyennguyenbay.com).
Trong một lần trả lời phỏng vấn, nhà thơ Hoàng Cầm có nói đại ý rằng: tính cách của người Việt rất gần gũi với thơ - đó là lối sống tình cảm đối với bạn bè, bà con làng xóm, nhường cơm sẻ áo trong hoạn nạn... Trải qua mấy nghề nghiệp, đi tới nhiều vùng đất, tôi đã tự mình kiểm nghiệm được cái đúc kết giản dị và lý thú trên của cố thi sĩ Hoàng Cầm...
Xin kể một chuyện nhỏ. Dạo ấy, sau khi chuyển vùng từ Tây Bắc, tôi nhận công tác ở một trường cấp ba huyện ngoại thành Hà Nội. Cô tài vụ của trường có vẻ ác cảm với một kẻ tự ti lầm lỳ như tôi, hoặc coi thường anh “giáo khổ” miền núi trở về, nên cứ vào kỳ lĩnh lương, cô thường để tôi phải đi tới đi lui dăm bẩy bận, đến phát khùng lên mới được lĩnh hết lương. Một buổi, tôi vào phòng tài vụ chờ rất lâu. Có cuốn sổ tay để mở, tôi tò mò cầm đọc. Hóa ra là sổ chép thơ tình, có cả mấy bài thơ dịch Puskin. Có nhiều câu chép sai, sai cả chính tả. Tôi liều mạng lấy bút ra sửa giúp. Khi cô tài vụ về, chưa kịp thoái thác với tôi là hôm nay chưa có tiền lương, cô chợt nhìn thấy tôi cầm cuốn sổ, bèn giật lấy nhìn. Tôi tái mặt lo lắng. Nhưng số tôi thực may mắn. Cô đọc một lúc, vẻ lạnh lùng khinh khỉnh dần biến mất, rồi nhẹ nhàng hỏi: "Anh sửa đấy à?" Tôi ấp úng gật đầu: "Tôi... Tôi là giáo viên văn mà...". Cô dường như quên phắt cái sứ mạng là phải hành hạ một "ma mới" như tôi, hào hứng: "Anh thuộc nhiều thơ không? Chép hộ em với nhé?" Thế là hôm đó, lần đầu tiên sau hơn nửa năm chuyển vùng về, tôi được lĩnh lương đúng hạn... Mà công đầu là do Thơ; đúng hơn là do tâm hồn yêu thơ của một cô gái tuy có nhiều nét tính cách không dễ chịu gì cho lắm nhưng chỉ một cái đức yêu thơ đó cũng đủ thể tất nhân tình cho tất cả...
Có lần, nhà thơ Nguyễn Đăng Luận (NĐL) hùng dũng phóng xe tới nhà tôi để tặng tận tay một tập "Tân Văn" sang trọng mới in, do ông làm chủ biên, kèm theo cuốn foto "Lời thề lá sen và 64 bài họa". Bài thơ "Lời thề lá sen" nổi tiếng của ông có vẻ ngoài đặc dân gian, song cảm thức bên trong thì hiện đại không kém một thi sĩ hiện đại hay hậu hiện đại nào:
Lá sen chưa kịp đi tu
Mà hoa cúc đã nhộm thu óng vàng
Yêu em mua cốm làng Vòng
Nâng niu anh gói trong lòng lá sen
Mà hoa cúc đã nhộm thu óng vàng
Yêu em mua cốm làng Vòng
Nâng niu anh gói trong lòng lá sen
Lời thề hôm ấy của em
Thơm như cốm ướp hương sen giữa mùa
Không ngờ, anh thật không ngờ
Lá sen rách. Cốm bây giờ thơm đâu?
Thơm như cốm ướp hương sen giữa mùa
Không ngờ, anh thật không ngờ
Lá sen rách. Cốm bây giờ thơm đâu?
Tôi kính nể nhà thơ này bởi tình yêu dường không giới hạn và đặc biệt không vụ lợi đối với thơ văn (Ông ghi rõ trong sách Tân Văn như một tiêu chí: "Không nhận tài trợ, không đăng quảng cáo"). Khi tự coi mình là "nhà thơ tình", NĐL chắc cũng chẳng quan tâm đến sự đánh giá của các vị mũ cao áo dài trong các hội đoàn cơ quan nghề nghiệp, mà ông chỉ sung sướng đến ngây ngất với những người đọc ông một cách trân trọng, và còn họa thơ của ông nữa! Sự hồn nhiên của nhà thơ dân gian này thực đáng yêu, và điều đó càng tương phản với một vài kẻ lợi dụng lòng yêu thơ của mọi người để kiếm lợi (và họ đã thành công khủng khiếp!)
Khi về làm phim tại thôn Duệ Đông - một trong 49 làng quan họ gốc Bắc Ninh, tôi được tặng một tập thơ kỷ niệm 15 năm ngày thành lập CLB thơ Duệ Đông mà tác giả là những liền anh liền chị cao tuổi. Trong số những tác giả mà tôi được tiếp xúc, tôi đặc biệt chú ý tới bà Nguyễn Thị Ngọc Viên. Say mê tiếng hát quan họ cổ của bà, tôi còn rung động sâu sắc trước cuộc đời bà: chồng và cả ba người con đều lần lượt ra đi do tai nạn và bệnh tật bất ngờ, trong nhiều năm bà đã cắn răng để sống, để hát quan họ, truyền dạy hát quan họ cho lớp trẻ, và làm thơ. Thơ của bà dung dị, chân thật, đượm xót xa ngọt ngào và thấm như câu ca quan họ:
Cánh sen gọi nắng trưa hè
Mưa rào bất chợt, ướt nhòe thơ tôi...
Tôi được đọc một cuốn sổ thơ gia đình của vợ chồng dược sĩ cao cấp Trần Thị Minh Phú và tiến sĩ khoa học Nguyễn Đắc Hy; mở đầu cuốn sổ là dòng đề từ trích trong cuốn sách lớn “Môi trường và con đường phát triển” của chính Ts Nguyễn Đắc Hy: “Văn minh Sinh thái là Cội nguồn của sự phát triển Hạnh phúc nhân loại”- giống như một tuyên ngôn Sống và làm thơ của họ. Thơ tình hai người viết tặng nhau thời run rẩy đợi chờ lúc gặp mặt có những câu mượn thơ Lý Phương Liên: “Đợi anh dưới cột đồng hồ” và cả những công thức hóa học để nói hộ lòng mình. Rồi từ đó, trong cuộc sống gia đình nảy sinh bao chuyện vui, buồn, giận dỗi, chia ly, v.v..., hai ông bà đều ghi lại thành thơ như một thứ nhật ký đặc biệt, để lưu giữ kỷ niệm, tự răn mình, nhắc nhở nhau, dạy dỗ hay động viên con cháu… Tôi đọc chúng trong sự đồng cảm, và đặc biệt thích thú với những bài, những đoạn thơ ông bà trêu chọc nhau với nét hài hước châm biếm nhẹ nhàng của những trí thức. Bà Phú có mấy bài thơ viết cho chồng lại mang cả chất trào lộng dân gian:
Số Tel thì không nhớ
Chìa khóa chẳng nhận ra
Mái tóc trắng mượt mà
Như kẹo bông ngọt lịm
Vòng đeo tim vành vạnh
Đầu bẩy đuôi ngo ngoe
Vẫn chưa hết xập xòe
Khi bóng hồng thấp thoáng…
Những câu thơ và những bài thơ như thế của cá nhân, và của rất nhiều CLB thơ trên toàn quốc đang lấp lánh trong biết bao tập thơ đã/ hay chưa được in ra. Có thể nói, chúng là nguồn thơ ca dân gian vô tận để từ đó hình thành nên những đỉnh cao văn chương bác học - thời xưa là thế mà thời nay cũng chẳng khác mấy. Nếu có những tập thơ nào đó được sản xuất ra với mục đích ngoài thơ ca và có nguy cơ làm "tắc nghẽn mạch giao thông tinh thần" - thậm chí làm mọi người bị ngộ độc, thì đó chỉ là số ít!
Nhà thơ Trần Dần sinh thời đã có lần bênh vực loại thơ ca dân gian đó như sau:
"Con đường số 7 của tao/ Nó đi theo giặc tao đào nó đi. Hai câu thơ đó là đúng hay sai chính trị?... Cụ Hoài Thanh, anh Xuân Diệu bảo là sai chính trị... Tôi rất khen hai câu thơ đó. Tôi cho rằng nó đúng chính trị, đúng lập trường. Tình cảm nó gợi lên: mạnh mẽ, phong phú, chua xót mà chủ động. Người đào đường lớn hơn con đường, con người mạnh bạo, chủ động, chua xót, làm một việc bất đắc dĩ mà cần thiết. Đó là chính trị, là lập trường của hai câu thơ... Người thi sĩ có quyền nói tha hồ, nói sống nói chết, nói bừa nói bãi, nói sao thì nói rốt cục tình cảm đọng lại mạnh mẽ, phong phú, xốc người ta lên yêu ghét hành động. Cho nên thường khi người ta thấy người thi sĩ nói những điều rất phi lý: trèo trời đục đất. Có lúc người thi sĩ biến thành ánh trăng, một vì sao. Lúc biến thành con mãnh thú. Lúc biến thành chiến sĩ, thành Tiên, thành quả núi, con sông, v.v... Tất cả mọi chuyện thực là vô lý, có khi như sai chính trị, sai sự thực, như là duy tâm nữa. Nhưng nếu tình cảm đọng lại mạnh mẽ, thôi thúc, xô đẩy người ta lên thì không sai chút nào cả- như hai câu thơ trên kia..." ("Thơ chính trị - thơ chính sách" - Tư liệu riêng của gia đình nhà thơ Trần Dần).
Đạo diễn điện ảnh Tự Huy - cháu bốn đời của nhà giáo, nhà văn hóa, nhà thơ lớn Nguyễn Văn Siêu có kể cho tôi nghe một câu chuyện thú vị về nhà thơ Trần Dần. Nhà thơ vốn nổi tiếng là người chịu khó tìm tòi cách tân Thơ này có lần bảo ông Tự Huy: "Có một bài ca dao cổ tuy hay nhưng tôi không đồng tình lắm với nội dung lẫn hình thức của nó:
Tình cờ bắt gặp nàng đây
Đòi cắt cái áo đòi may cái quần
May rồi anh sẽ trả công
Ít nữa lấy chồng, anh sẽ giúp cho
Giúp em một thúng xôi vò
Ba con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp đôi chằm em đeo
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan tư tiền cưới lại đèo buồng cau...
Nhà thơ Trần Dần đã làm lại bài ca dao. Và nhà thơ đã đọc cho đạo diễn Tự Huy nghe bài thơ đó, nguyên văn như sau:
Bao giờ em đi lấy chồng
Để anh sắm sanh quà cưới
Anh mừng em đôi chiếu mới
Em về trải kín giường đôi
Anh đi sang tận làng Ngòi
Tìm mua gạo cẩm
Xu xuê bánh cốm tự anh buộc lạt điều...
Em có cần anh đầu cỗ
Bảo người nhắn gọi anh sang
Giò lụa chạo nem, thịt quay xôi gấc
Vật bò mổ lợn
Con dao anh cắt, nuột lạt anh thắt
Giò thủ anh nén, nước xuýt anh nếm, nạc mỡ anh pha
Cỗ lòng anh thuốn, gỏi cuốn anh cuộn
Mâm son anh dọn, đĩa trúc anh so...
Hay em nhờ anh giúp về văn nghệ
Để anh sửa soạn chương trình
Máy hát anh mượn, trò vui anh chọn
Bạn bè anh đón
Tuyên bố lý do anh nói
Kèn tàu anh thổi.
Anh lưu tới cuối tiệc tan
Khách muộn anh tiếp, đèn rạp anh tắt
Thuốc lá thừa anh nhặt
Xong xuôi anh về!
Tôi chợt nảy ý nghĩ: bài thơ làm lại đầy ý vị hóm hỉnh này của thi sĩ "thủ lĩnh trong bóng tối" (Phạm Thị Hoài) không ngờ đã giống như một nhát búa tạ phang vào cái thói "làm duyên làm dáng" (Lưu Trọng Lư) của nhiều nhà "hoạn quan trữ tình" (Maiakovski), giáng không thương tiếc vào cái thực chất trống rỗng về tư tưởng, nghèo nàn về vốn sống và kém cỏi về tiếng Việt nên đành phải mượn cái vỏ "hiện đại", "hậu hiện đại" rất khụng khiệng để che lấp đi của không ít nhà thơ chúng ta hôm nay.
2. Viện sĩ Hàn lâm Petrov đã cho chúng ta thấy sự trăn trở về Thơ ở nước ta thực ra cũng là mối quan tâm của nhiều dân tộc trên thế giới, và chúng càng có giá trị thời sự với hôm nay: "Thơ ca xuất phát từ những suy nghĩ của những nhà tiên tri ngày xưa, suy nghĩ về cuộc đời, suy nghĩ về ý nghĩa của con người trên Trái Đất... ("Thơ ca, hay là câu chuyện "số đông - số ít" - NNB.com). Không ít những lời tâm huyết nói về Thơ trong thời buổi lạm phát Thơ và chắc chắn tìm được đồng cảm của nhiều người thậm chí không hề làm một câu thơ, xin mạn phép được trích dẫn đôi dòng:
"Niềm sáng tạo thi ca mệt mỏi trước nỗi ma lực chữ nghĩa đớn đau, chỉ khát khao góp cho khách tri âm chút đồng cảm nhỏ nhoi về số phận và phẩm giá từng con người trong xã hội. " ("Phê bình thơ, nên khen hay nên chê?" - Lê thiếu Nhơn).
"Sao trước những sự kiện bức xúc của đời sống, thơ không lên tiếng, thơ lặng câm? Những bài thơ cất lên ở các dạ hội, đêm thơ, ngay cả của các nhà thơ Việt, hình như vẫn ở bên ngoài thời sự của cuộc sống hôm nay của người dân? ("Nghĩ từ liên hoan thơ quốc tế Việt Nam lần thứ nhất" - Phạm Xuân Nguyên - lethieunhon.com).
Đáng mừng là, giữa cái loạn chuẩn về giá trị Thơ, có một nhóm nhà thơ nước ta đã tình nguyện đứng ra làm một loạt "tập thơ hay", với tinh thần vô tư, không vụ lợi, nhằm góp phần chuẩn hóa, định giá chính xác về Thơ Việt hiện đại; đó là công trình đồ sộ "Thơ Bạn Thơ" (gồm 8 tập - Nguyễn Nguyên Bảy và Lý Phương Liên chủ biên) lần lượt ra đời, đến nay đã là tập thứ 7. Giá trị nội dung nghệ thuật chứa đựng trong những tập thơ đó ra sao, người đọc đông đảo sẽ có thời gian thẩm định; có điều, đó thực sự là những "tuyên ngôn" bằng thơ chân chính có tác dụng thanh tẩy những gì không phải là Thơ, hạ thấp Thơ, thậm chí giả Thơ... Công việc này có thể coi là một hồi chuông thức tỉnh, một sự mở đầu cần thiết nhằm phục hưng những giá trị thơ ca đích thực đã từng bị lem luốc một cách oan uổng trong những năm tháng vừa qua.
Tiếc cho miền yêu xanh biếc
Thức dậy thấy tên anh
Giận mình sao ngốc nghếch
Để miền yêu xanh biếc
Vừa vụt qua mất rồi.
(Tiếc - Sợi buồn khẽ rụng - Thủy Hướng Dương, 2012)
Đã lâu lắm, tôi có đọc một bài thơ không nhớ rõ của ai, trong đó có hai câu: "Khi anh hiểu tiếng hàng mi em khép/ Thời thanh xuân tươi đẹp đã qua rồi". Đọc bài thơ "Tiếc" của THD, hai câu thơ trên chợt vụt hiện về tâm trí tôi... Thơ THD qua hai tập chị tặng tôi: "Hãy yêu đi khi ta còn có thể" và "Sợ buồn khẽ rụng" hầu hết là các "dòng nhớ trong veo" nhưng dễ lẫn với rất nhiều tập thơ tình xuất bản đến chóng mặt thời gian qua. Vì vậy tôi sửng sốt trước một bài thơ 4 câu ngũ ngôn truyền thống của chị "neo" tôi lại, buộc phải ngẫm nghĩ.
Khi viết bài thơ này, với tất cả xúc cảm tiếc nuối hồn hậu mà chị mong truyền tới người đọc, chắc hẳn THD không thể ngờ rằng chị đã vô tình động đến một vấn đề Mỹ học có liên quan đến Ngôn ngữ học, Tâm lý học, Phân tâm học... làm tốn giấy mực trong nhiều thập kỷ - đó là quá trình đi từ Khái niệm đến Biểu tượng... Dĩ nhiên, điều này không phải là nguyên cớ để bài thơ hay hơn, sâu sắc hơn, nhưng nó đã đi vào hình tượng thơ- dù là vô thức, và có cảm xúc chân thực làm "vật đảm bảo".
Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, mỹ học đều đã thống nhất rằng trong lịch sử nhân loại, có hai ký hiệu văn hóa độc lập và ngang nhau để tạo nên khái niệm: lời nói và hình vẽ, và "sự tiến triển của văn hóa đòi hỏi sự có mặt của hai hệ thống ký hiệu này." (Ký hiệu học và mỹ học Điện ảnh - I. Lotman - Viện NT và LTĐAVN, 1997, trg. 482). Với lý thuyết trên, tôi bắt đầu giả định (theo tình huống của bài thơ): một buổi sáng, khi thức dậy, người thơ lục tìm thấy Tên anh - người thương mến qua thư từ (thậm chí chỉ là một dòng chữ viết vội), có thể cả một bức ảnh (cũ hoặc mới) - thuộc "hai hệ thống ký hiệu". Đó là những vật chứng tạo nên Khái niệm khá trọn vẹn của Tình yêu - và Tên Anh là trung tâm, là nội dung chính của Khái niệm Tình yêu ấy (Không phải là Khái niệm mơ hồ, xơ cứng, mà là Khái niệm run rẩy hơi thở sự sống!). Sau đó khi người thơ nói: "Giận mình sao ngốc nghếch", thì thật ra với thái độ tự trách rất nữ tính ấy cũng đã gói đủ cái điều cần bộc bạch; bài thơ nếu chấm dứt tại đó cũng là trọn vẹn, cũng đủ tạo dư ba trong người đọc.
Nhưng bài thơ lại tiếp, không phải vì cần tuân theo quy luật thể tứ tuyệt:
Để miền yêu xanh biếc/ Vừa vụt qua mất rồi.
Tới đây, Khái niệm (hiểu theo cách giải nghĩa trên về văn bản thơ) đã mở rộng theo hướng vô cùng và trở thành Biểu tượng của Tình yêu và sự Tiếc nuối: "Miền yêu xanh biếc." Biểu tượng chứa đựng vẻ đẹp của sự sống và tuổi trẻ, sự đắm say, lòng ngưỡng vọng cao cả, và tôi tin rằng tất cả chúng ta, ai cũng đã từng có hoặc đang mong có một "Miền yêu xanh biếc" như thế! Nhưng Miền Yêu xanh biếc tác giả nói đến theo tôi không chỉ dành riêng cho Tình yêu nam nữ, mà còn tượng trưng cho tất cả những gì con người khao khát nhưng thực xa vời! Ta hãy thử đọc trong "Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới": "Xanh là màu lạnh nhất trong các màu, và trong giá trị tuyệt đối của nó là màu tinh khiết nhất... màu xanh không thuộc thế giới này, nó gợi lên một ý tưởng về sự vĩnh cửu bình lặng và kiêu kỳ, siêu phàm..." (Nxb Đà Nẵng và Trường viết văn Nguyễn Du, 2002- trg. 1015). Ở đây, đồng cảm với tâm trạng của tác giả, ta càng hiểu vì sao nhà phân tâm học Thụy Sĩ nổi tiếng C. Jung đã nói: "kiến thức khoa học tiến bộ thì thế giới cũng mất dần tính chất của con người... Sự liên lạc của con người với thiên nhiên đã bị gián đoạn, vì thế mà biến mất những những sinh lực tinh thần sâu xa được tạo ra bởi những liên lạc với biểu tượng của con người." (Thăm dò tiềm thức, Nxb Tri thức, 2007, trg. 139)
Trên con đường đi tìm lại "Miền yêu xanh biếc" "vừa vụt qua" đó, dù có đớn đau, tuyệt vọng thì người thơ vẫn không thể nản chí, bỏ cuộc, "Ta vẫn đi... đi hết con đường/ Nhưng bây giờ sẽ đi bằng đôi chân rớm máu." (Trò chuyện với con đường - Sợ buồn khẽ rụng).
Vâng, cũng chỉ với "đôi chân rớm máu" đó để nối lại liên lạc giữa thiên nhiên và con người bị gián đoạn - chứ không phải những "đôi hài vạn dặm" tưởng tượng - mới có thể đưa chúng ta tới những "Miền yêu xanh biếc" hằng mong mỏi...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét