Huỳnh Thúy Kiều
Gót son nợ một đời dâu bể
(Đọc tập thơ KIỀU MÂY, nxb Văn học 2008)
Tập thơ Kiều Mây do nhà xuất bản Văn học ấn hành vào những ngày áp chót năm
2008 là thi phẩm đầu tay của Huỳnh Thúy Kiều. Ở đây người đọc bắt gặp một hồn
thơ trẻ trung, tươi tắn, khỏe khoắn, được tiếp cận với một cách lý giải, biểu đạt
những ý tưởng và cảm xúc thi ca mới lạ. Một hồn thơ mê đắm, cuồn cuộn tuôn
trào, dập dềnh lan tỏa mênh mang như ngàn trùng sóng nước. Bằng những liên hợp
nhiều câu phức, mỗi bài thơ của Huỳnh Thúy Kiều là một giải bày đi từ cái cụ thể
đến khái quát rồi đẩy thành tượng trưng, ấn tượng khiến người đọc dễ dàng cảm
nhận một sức sống căng tràn, một sức cảm tinh tế và một sức nghĩ giàu nội lực.
Trước hết là dấu ấn vùng miền. Điểm qua tên gọi một số bài sẽ
thấy sự gắn bó máu thịt và hồn cốt thơ Huỳnh Thúy Kiều với quê hương xứ sở của
mình. Nào là "Hương phù sa", "Hơi thở tôi mang mùi bùn đất",
"Những giấc mơ màu đất", "Hát về những dòng sông", "Mắc
nợ đồng bằng", "Hồn quê", "Bến quê", "Ký ức
làng", "Quê hương", "Nói với quê hương", "Khúc đồng
dao quê mẹ", "Gọi mùa", "Thương hồ"...
Tình quê ấy được dồn nén và bộc phát vào những dòng thơ hôi hổi
ân tình. Này là tự giới thiệu "nhân thân": - "Tôi được sinh ra
nơi đất rừng huyền thoại/ Đêm phương Nam buồn/ Phím nhạc cũng chùn rơi..."
(Hơi thở tôi mang mùi bùn đất). Này là thần khí của chín nhánh sông Rồng:
- "Chín cửa hương phù sa vấn vương thơm níu gót miền Tây/ Dòng Mê Kông rướn
mình quặn thương bốn mùa sinh nở/ Đàn sếu bay ngang vô tình đánh rơi mũ đỏ/ Đêm
Cần Thơ qua phà..." (Hương phù sa). Này là cảnh sắc thân thuộc thân,
thương ở chốn quê nhà: - "Quầy cau trắng nghiêng sương miền tóc mẹ/
Sóng dập dềnh chao điệu lý xàng xê/ Hò cống liêu ai cười ai nói/... Nhịp cầu
tre bắt câu hát sang mùa..." (Theo em về vùng cổ tích); hay: -"Nhịp cầu
tre lắt lẻo/ mây qua cầu/ em nón lá rớt điệu lý ầu ơ..." (Hồn quê)...
Với hơi thơ xô dạt miên man, Huỳnh Thúy Kiều kiến tạo những
câu thơ độc đáo, đặc sắc, mang dấu ấn riêng, có sức gợi lạ kỳ: - "Vác cánh
đồng chạy qua mùa sấp ngửa... /Vắt kiệt quê lên phố. Ngậm ngùi..." (Bến
quê); - "Mồ hôi cha cõng cánh đồng làng chạy lũ!" (Theo em về vùng cổ
tích); - "Con cua đồng bám gánh hàng ra chợ!" (Ký ức làng); - "Thời
gian chảy phai màu trên lưng chim ngói..." (Lập thu); - "Bóng đẩy em
ngã nhào/ Rúng động vỡ bừng say..." (Dự cảm)...
Không những độc đáo, đặc sắc mà còn là những câu thơ mang nét
đẹp man nhiên, tự tại, cứ lung liêng lay động khó phai trong tâm trí người đọc:
- "Lục bình theo dòng nước trôi xuôi/ Ghé thương nhớ quá giang màu kỷ niệm"
(Bến quê); - "Nghiêng vạt gió hứng ánh trăng từ đỉnh trời rơi xuống/ Chuông
thời gian gõ vỡ đêm thượng tuần/... Thu vào mây bóng kinh thành buốt nụ sao
thơm" (Cổ tích cho em); - "Giọng cu cườm long lanh vắt giậu rào
thưa" (Hồn quê); -"Câu quan họ di cư từ sông Hồng bỗng xốn xang dâng
tràn điệu lý/ Tứ thân ai xuống xề khúc khích áo bà ba em cười rót nhịp vọng cổ
chao chao" (Phiêu bồng hạt nắng)...
Như đã nói, thơ Huỳnh Thúy Kiều thường được vận dụng tối đa
những tổ liên hợp nhiều câu phức. Cấu trúc mỗi câu gồm nhiều mệnh đề, được phụ
hoạ nhiều trạng ngữ, vị ngữ, định ngữ... nhằm tạo nên một trường liên tưởng
phong phú thông qua nhiều vỉa tầng hình tượng đan xen. Đây là cái hay, cái lạ,
cái độc đáo của riêng Huỳnh Thúy Kiều. Những câu thơ có khả năng sinh nở ngôn từ
và hình tượng của một nguồn thơ đa năng và phức điệu: -"Xô tím lời hoàng
hôn kết cườm ran bờ cỏ xoắn chặt tình ca/... Nghiệt ngã đời mặc áo hạnh phúc
nghẹn khóc với bến tâm linh/... Lùa tuổi đi. Lắng nghe tóc mình đẻ mầm nứt tiếng
chim thổi bình minh..." (Cổ tích cho em); - "Tiếng gà đánh thức ngày mới
vọng tuềnh toàng run phên tre dựng cửa/ Ngậm cọng rơm vàng con mái tơ quấn ổ đẻ
lứa đầu tiên/ Hơi đất cháy bùng khát khao sộc vào sống mũi cay dầm dề nước mắt/
Màu xanh làng khum tay hứng nắng rót lịm mát nước dừa xiêm..." (Đồng
vọng)...
Cũng từ sự phồn thực phồn sinh ngồn ngộn như hoả diệm sơn
phun trào phún thạch ấy, đôi khi người đọc có cảm giác dường như tác giả bị sức
hút của cảm xúc và ý tưởng lôi chúi theo đến không cưỡng nổi, nên có lúc bị sa
vào điệu đàng kiểu cách không cần thiết: -"Quan trắc mình em nghẹn nấc
khóc hồi sinh!" (Hoang mây); - "Nhu mì mùi thơm cánh đồng hoàng hôn liếm
mép khơi xa chiêm trũng!" (Phiêu bồng hạt nắng); - "Nhịp cầu yêu tung
bùa đam mê xõa vây gàu dâu bể!" (Cổ tích cho em)... Những phóng bút
"quá đà" như thế này, thật tình không hợp lắm với tạng thơ!
Thơ Huỳnh Thúy Kiều có thiên hướng hướng vào tầm xa, vươn ra
bề rộng, nhưng thi thoảng bất ngờ người đọc như bị chặn nghẹn giữa dòng, buột
phải khựng lại bởi những câu thơ đau đáu nỗi niềm, những câu thơ xoáy buốt vào
sâu thẳm tâm can: - "Giở hú hoạ một trang Kiều/ Thử bói đời may rủi/ Giọt
nước mắt rơi suốt mười lăm năm không lau khô nổi!" (Bói một quẻ buồn
vui); hoặc: - "Gót chân son nợ một đời dâu bể/... Nợ dọc đời người đau đáu
chốn cưu mang!" (Mắc nợ đồng bằng); hay: - "Nợ cả đời ta ngọn
khói bếp len chiều..." (Khúc đồng dao quê mẹ)... Thì ra cái sự đau
đáu nỗi đời là bệnh chung muôn đời của giống loài thi sĩ! Những biểu hiện này
hiển lộ sự mở rộng biên độ trong cảm thức sáng tạo thi ca của tác giả, nó là điều
cần thiết để lấy cái chiều sâu bổ sung cho cái bề rộng vốn dĩ vô cùng sung mãn,
giàu có của một hồn thơ phương Nam lồng lộng biển trời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét