Thời của thánh thần 4
Chương 22
Người trở về
Cơn mưa rả rích khiến đêm thật dài. Nghe rất rõ cành cây khô
bên đầu trái nhà rơi xuống mái ngói tạo một âm thanh như tiếng ho khan trầm của
cây.
Cái nhánh khô này Khiêm đã nhìn thấy từ mấy hôm trước. Và suốt
năm đêm liền nàng đã canh xem nó rơi vào lúc nào. Năm đêm liền với những giấc
ngủ chập chờn mộng mị. Và cả trước đó, hàng mấy tháng trời, kể từ khi Vỹ ở trại
cải tạo về hình như chưa đêm nào nàng ngủ yên giấc.
Sẽ không bao giờ có được một đêm kì diệu như cái đêm mưa trái
mùa ở trại K27 ngày ấy nữa. Đêm ấy rét thấu xương. Gió vật vã trên tán rừng như
vũ điệu cuồng dại của từng đàn trăn gió. Và trong căn nhà lá trạm xá của trại cải
tạo, những tấm ván ép cũng run lên bần bật như không thể chịu nổi sức nặng và sự
cuồng nhiệt của hai thân thề quấn xiết lấy nhau.
"Em chết mất". Hình như nàng đã nói với Vỹ thế khi
nàng nghe rất rõ tiếng những khớp xương mảnh dẻ của nàng kêu răng rắc như có thể
gãy vụn dưới sức nặng và sự cuồng bạo của anh. Cái đêm kì diệu ấy chính là sự
run rủi của trời đất sinh ra và lớn lên không biết mặt bố. Rất nhiều lần sau
này, mỗi khi nói với các con về bé Phong, Khiêm cứ đùa rằng để có được thằng
bé, nàng suýt bị gãy cả bộ xương sườn.
Bây giờ thì đúng là tiếng cành cây khô rơi chứ không phải tiếng
khớp xương nàng. Vỹ không bao giờ có được cái sức mạnh kỳ diệu của người đàn
ông. Vĩnh viễn Vỹ không còn là đàn ông nữa rồi.
Những giọt nước mắt âm thầm rơi xuống gối. Nàng lại khóc
Không biết đã bao đêm rồi. Nỗi đau không thể nói với ai. Nỗi đau hành hạ từng
đêm, âm ỉ, nhức buốt. Giá như Vỹ cứ đi mất hút như anh đã từng mất hút khỏi đời
nàng bẩy năm qua. Giá như nàng đã già nua, xấu xí, hay bị một tật nguyền gì đó.
Nghiệt ngã thay, nàng mới chớm vào tuổi hồi xuân, cái tuổi mà rất nhiều người
đàn bà chưa biết yêu, hoặc chưa kịp hưởng thụ thời con gái thì đây là những
ngày đại lễ hội của đời mình. Đàn ông sành sỏi, biết thưởng thức mùi đời thưởng
tìm đến những cuộc tình tuổi bốn mươi. Không nũng nịu, sướt mướt, nai tơ ngờ
nghệch, mà chín đỏ, nồng nã, đắm đuối cuồng nhiệt. Khiêm tự cảm thấy mình đang ở
đỉnh điểm của người đàn bà. Nàng như trở lại thời xuân sắc. Da thịt nàng sau
bao ngày xanh xao héo úa, nay bỗng căng nở, phồn thực. Rất nhiều lần đi đường
nàng thấy những gã trai đạp vượt lên rồi ngoái lại nhìn nàng với ánh mắt vừa
ngưỡng mộ vừa thèm muốn. Nhiều người đàn ông, trong đó bền bỉ nhất vẫn là Văn
Quyền, biết tình cảnh của nàng, cố tình đến ve vãn, gỡ gạc. Nực cười nhất là
ông giáo dạy toán đeo đôi kính cận hơn mười đi-ốp, ngày nào cũng săn đón, chĩa
đôi mắt kính dày như đít chai vào khoảng ngực nàng với niềm khao khát không cần
che giấu. Đã thế ông giáo toán còn làm thơ nữa chứ. Những bài thơ viết trên giấy
vở học trò, nhiều bài phỏng giọng thơ Bút Tre, thỉnh thoảng như vô tình lại rơi
vào cặp sách của nàng. Có lần con gái Trinh Mai ôm lấy người nàng rồi lùi ra xa
ngắm nghía mẹ, thở dài: "Con lo cho mẹ lắm. Đến như con mà cũng bị mẹ quyến
rũ. Mẹ làm sao mà giữ nổi mình, chờ được cho đến khi bố con về?" Con bé đến
tuổi yêu nên đã biết thương mẹ. Nó lo cho mẹ là phải. Chính Khiêm có lúc trước
một ánh mắt, một nụ cười cám dỗ, cung tự lo thay cho mình.
Nhưng rồi cuối cùng thì Khiêm vẫn trụ vững được. Quả bom từ
trường dù gặp sắt thép cũng không chịu nổ. Trái nho chín mọng trên cây nhưng
còn lâu mới đến miệng những con cáo. Nàng vẫn đủ trinh trắng và kiêu sa chờ
ngày Vỹ về.
Cái đêm đầu tiên Vỹ từ trại cải tạo về là một đêm quá sức. Cả
nàng, mẹ nàng, con Trinh Mai và bé Phong đều sốc vì quá bất ngờ. Vỹ đột ngột
như từ trên trời rơi xuống. Đến mức con chó cũng không kịp sủa. Khi nghe tiếng
gõ cửa, Khiêm cứ ngỡ ma chứ không phải người. Ôi chao, hay là hồn ma Vỹ từ trên
ấy mò về? Nếu được tha thì trại người ta phải báo chứ? Người ta phải nhắn người
nhà lên đón về chứ? Mà sao phải về nhà giữa lúc nửa đêm? Hay là trốn trại? Hay
là có chuyện động trời? Khiêm cuống cuồng, hốt hoảng. Cả nhà hốt hoảng, cuống
cuồng.
Nhưng sốc nhất lại là Vỹ. Cho tới lúc gặp Khiêm và các con rồi,
anh vẫn còn bàng hoàng. Suốt từ ga tàu về nhà, chốc chốc Vỹ lại véo tay mình.
Khi thấy còn đau anh mới tin rằng mình còn đang sống.
Mãi sau này, những lúc Vỹ minh mẫn nhất, nghe Vỹ kể lại, nàng
tưởng như chuyện hoang đường.
- Em có nhớ ông giám thị Bản không?
- Làm sao mà quên được. Không có bác Bản, làm gì có thằng
Phong nhà mình.
- Ừ, cái ông người giời sai xuống ấy, nhân từ và độ lượng nhất
trên đời, đã trở thành Giám đốc trại. Sáng hôm ấy, ngay sau giờ tập thể dục,
Giám đốc Bản cho gọi anh lên phòng làm việc đưa cho anh tờ giấy đánh máy và bảo:
- Anh được tự do từ hôm nay. Về chuẩn bị tư trang đồ đạc. Có
người nhà nào muốn đón thì nhắn lên.
Trời ơi, tưởng nghe lầm, anh hỏi lại:
- Dạ… thưa, tôi được tự do và được về nhà?
- Chứ còn gì nữa. Tôi rất mừng cho anh. Từ giờ phút này, anh
là người tự do.
Anh mân mê tờ giấy đánh máy, cảm thấy tờ giấy chưa đủ độ tin
cậy, lại hỏi:
- Dạ, tôi tưởng phải mở phiên toà? Tôi phạm tội danh gì phải
có tuyên án?…
- Ôi cái ông văn sĩ này, rõ rách việc. Người ta bảo chúng tôi
tha ông thì chúng tôi viết giấy. Chứ chúng tôi cũng chẳng biết gì hơn ông. Mấy
chục năm nay hàng nghìn con người vào, ra trại, cũng đều thế cả. Chúng tôi chỉ
biết làm việc theo lệnh. Có tội danh hay không có tội danh, đã vào đây đều phải
xử theo lệnh. Ai tuyên án ông ngồi tù? Án đâu? Tội danh gì? Tù thời hạn bao
nhiêu năm? Đến như giám đốc trại là tôi mà cũng không có nổi những văn bản ấy,
thì làm sao có phiên toà để xử ông được?
- Dạ… nhưng khi về địa phương, tôi sẽ không có bằng chứng gì
để trình báo rằng tôi đã được tha sau bẩy năm tù.
- Thì bằng chứng anh đang cầm trên tay đó thôi. Chỉ một tờ giấy
xuất trại này là đủ. Nó cũng giống như anh bị bệnh phải nhập viện bắt anh phải
đi viện? Chẳng ai bắt. Có bệnh thì anh tự đến, hoặc anh bị đột quỵ ngang đường
một người làm phúc nào đó đưa anh vào viện. Có đúng vậy không? Hết bệnh rồi,
người ta cho anh một cái giấy ra viện - Giám thị Bản vừa nói vừa cố nhịn cười,
vé mỉa mai không cần giấu giếm - Anh không được nói là anh đi tù, phải nói là
đi học tập cải tạo. Không được nói là bẩy năm tù mà là hơn hai lệnh. Mỗi lệnh
tính ba năm. Có người gần chục lệnh rồi mà vẫn chưa thành án. Số anh vẫn còn
may đấy. Có quý nhân phù trợ. Ông nhà văn Châu Hà tốt với anh lắm. Không có ông
ấy thì chẳng biết bao giờ anh mới được rời khỏi đây…
Câu chuyện ra tù của Vỹ chỉ đơn giản như vậy. Sinh mạng chính
trị, tư cách công dân của một con người chỉ một cái hất đầu là đi đứt, chỉ một
mảnh giấy là tha bổng. Thế nên anh mới sốc. Cứ nghĩ mình đang trong mơ. Cứ tưởng
chuyện hoang đường. Có lẽ vì quá sức, mà đêm đầu tiên ngủ với vợ, cố gắng thế
nào Vỹ vẫn bất lực. Lại giống hệt như cái lần ồng giám thị Bản cho vợ chồng Vỹ
gặp nhau ở cái lán trạm xá trại cải tạo. Những phút đầu gặp gỡ, Vỹ thực sự biết
mình không còn khả năng chăn gối. Anh run rẩy đưa cả mười ngón tay vuốt ve làn
da ngà ngọc và những đường cong tuyệt mỹ của nàng mà thồn thức khóc vì bất lực.
Và đến lượt Khiêm, với tất cả nỗi thèm khát yêu đương mấy năm dồn nén, với sự
sung mãn bùng nổ của người đàn bà đang độ hồi xuân, nàng cố phả vào Vỹ ngọn lửa
ma mị của tình ái, giúp anh hồi sinh lại. Tấm thân ngà ngọc của người đàn bà
đang độ mãn khai, giống như đoá quỳnh lúc nửa đêm, phô diễn vẻ ngần trắng tinh
khiết, quyến rũ mê hoặc. Điệu thoát y vũ tuyệt mỹ ban đầu còn mơn trớn khêu gợi,
mời mọc, sau thì trần trụi, suồng sã với những đụng chạm, cào cấu thô thiển,
quyết liệt. Từ ham muốn, thèm khát tới nhẫn nhục chờ đợi, rồi trơ trẽn, ê chề…
Hì hục hàng tiếng đồng hồ mà dương vật Vỹ vẫn mềm oặt như con giun chết.
Tưởng những trục trặc ban đầu rồi sẽ qua. Nhiều đêm sau, lúc
điên cuồng, rạo rực như người đàn bà đang cơn thèm khát bản năng, khi đầy trách
nhiệm và sự thương cảm của một người thầy thuốc, khi xa xót cảm thông như người
mẹ… Khiêm đã dùng đủ mọi cách, từ các loại thuốc cường dương đặc hiệu, đến các
liệu pháp kích hoạt, để giúp Vỹ lấy lại cảm hứng đàn ông. Nhưng vô vọng. Vỹ
không bao giờ có được cái phút thăng hoa kỳ diệu để thổi vào nàng một cơn xoáy
lốc đủ nàng lượng hoài thai một sinh linh bé bỏng Nguyễn Kỳ Phong như ngày ấy nữa.
Những T5, và K27 đã huỷ hoại dần ở Vỹ tố chất đàn ông rồi.
°°°
Cái phần đàn ông bản năng của. Vỹ mất đi, thì, như để bù lại
cái phần đàn ông lý trí, mà trung tâm là não bộ, lại phát triển như một quái
thai trong Vỹ. Nói chẻ hoe ra là, dương vật Vỹ bị liệt, không cương nổi, thì bù
lại, Vỹ quyết làm tình bằng mắt, bằng tay, bằng miệng và lưỡi. Chỉ mấy tuần
sau, khi cảm giác nhục nhã và xấu hổ vì bất lực sinh lý qua đi, Vỹ bắt đầu mắc
chứng bệnh cuồng dục. Hằng đêm, và cả ban ngày, nếu thấy thuận lợi, Vỹ lại mò mẫm
sục sạo khắp người nàng, dùng tứ chi, tứ giác, ngũ khiếu, tóm lại là mọi bộ phận
của cơ thể để khám phá, gậm nhấm cho thoả cơn thèm khát nhục dục. Vỹ thích ngắm
nhìn nàng loã thể, thích vày vò, hành xác cả những khi nàng run lên vì khiếp sợ.
Căn bệnh trần cảm càng nặng, bệnh cuồng dục của Vỹ càng tăng. Bình thường, có
khi cả ngày Vỹ chỉ ngồi trầm ngâm một chỗ, hoặc tỉ mẩn bào chế thứ thuốc trĩ
gia truyền theo thần đơn do ông Hữu Hiệu tặng từ ngay còn ở trại. Nhưng nếu có
người đàn ông nào đến nhà nhìn ngắm, trò chuyện với cô giáo Khiêm, là Vỹ liền
thay đổi và ghen. Vỹ tưởng tượng ra cảnh người đàn ông kia sẽ tìm cách ngủ với
vợ mình, làm đủ thứ trò khả ố với nàng. Vỹ sợ mất quyền sở hữu. Chỉ đợi người
đàn ông ấy ra về, chỉ đợi đêm xuống là Vỹ giành lại quyền chiếm đoạt nàng. Vỹ đẩy
nàng vào giường, hoặc bế thốc nàng lên. Không hiểu sao những lúc ấy Vỹ có một sức
khoẻ phi thường, đến nỗi mọi chống cự của nàng chỉ là sự ngúng nguẩy của một đứa
trẻ.
Nhưng thường thì nàng, với bản tính con nhà gia giáo, không
muốn gây cãi cọ, không muốn phát ra tiếng động thô lậu để mẹ và các con biết,
nàng đành bất lực, ngoan ngoãn cam chịu. Được thể, Vỹ tự lột hết quần áo nàng.
Không để sót mảnh vải nào. Vỹ ngây ngất nhìn ngắm toà thiên nhiên, như nhà danh
hoạ tự chiêm ngưỡng kiệt tác của mình. Rồi Vỹ rên lên khe khẽ như con thú thưởng
thức con mồi. Hôn hít. Cào cấu khóc lóc. Cắn xé. Vày vò. Đủ mọi hành xử cuồng dục.
Nhiều lần khắp người Khiêm thâm tím những vết cắn, vết cào. Nhiều lần môi Khiêm
sưng tấy. "Em van anh. Nỡ nào anh hành hạ em thế này?" Đã bao lần
nàng kêu lên, nàng van xin Vỹ. Có lần biết chuyện, con Trinh Mai phải vào đưa mẹ
ra ngủ cùng với bà ngoại. Khiêm xấu hổ và đau đớn ê chề.
Rất nhiều lần đến chơi, nhà văn Châu Hà đều phát hiện thấy những
vết thâm tím trên cổ, trên má, trên môi Khiêm. Anh khe khẽ thở dài, ánh mắt xa
xót đầy thương cảm. Anh hỏi. Nhưng nàng đều tìm cách lảng tránh. Một lần gặp
Khiêm ngang đường, Châu Hà phát hiện một vết tím rất sâu, như một vết cắn, dưới
cằm nàng. Anh mời nàng vào hiệu cà phê gần đấy.
- Chị đừng giấu tôi nữa - Từ hồi Khiêm lấy Vỹ, Đà Giang và
các bạn của anh đều coi nàng như em gái, luôn gọi em xưng anh. Nhưng từ khi Vỹ
đi trại cải tạo, và Đà Giang đã trở thành nhà văn giải phóng Châu Hà, thì anh
liền thay đổi cách xưng hô, gọi nàng bằng chị, xưng tôi, một cách xưng hô để đề
phòng những hiểu lầm, để tăng phần giãn cách, tạo một rào chắn theo lời khuyến
cáo của người xưa: "Con thầy, vợ bạn, gái cơ quan".
Châu Hà nhìn chằm chằm vào vết tím mà Khiêm cố đẩy chiếc khăn
che. Bao giờ cũng vậy, cứ gặp Khiêm là Châu Hà lại nghĩ đến nàng ba Châu Long
trong vở chèo cổ "Lưu Bình, Dương Lễ". Nàng có phẩm hạnh tuyệt vời của
một người vợ chỉ biết yêu chồng, hy sinh tất cả vì chồng con. Từ lâu rồi, Châu
Hà đã chọn nàng làm hình mẫu, nhân vật trung tâm của một cuốn tiểu thuyết về
tình yêu, về người phụ nữ Việt, nhưng rồi nấn ná mãi, anh vẫn chưa đặt bút viết.
Vỹ, anh bạn tài hoa nhưng khốn khổ của Châu Hà, đáng là Lưu Bình, hay là Dương
Lễ nhỉ? Nhưng dẫu là ai thì cậu ta cũng có một nàng ba Châu Long. Còn Châu Hà
chỉ là khán giả, đứng ngoài và mơ tưởng…
- Tôi đã tìm đọc tài liệu nói về trường hợp cuồng dục. Những
người sống trong trạng thái ức chế quá lâu như Vỹ thường mắc căn bệnh ấy. Tôi mới
nghe nói có một thầy lang đã tìm thấy bài thuốc thần diệu của vua Càn Long chữa
chứng liệt dương. Để tôi sẽ lùng tìm cho Vỹ…
Khiêm rùng mình. Má nàng chợt đỏ bừng lên. Nàng quá xấu hổ
khi người khác phát hiện ra những bí mật riêng tư của mình. Chắc là Vỹ đã nói
cho Châu Hà biết? Đã vậy thì cần gì phải giấu giếm? Tự nhiên nàng thấy tủi thân
và muốn được chia sẻ. Cố kìm, mà nước mắt cứ trào ra.
- Anh Vỹ cứ hành hạ mãi thế này, thì em đến chết mất…
- Lẽ ra chị phải nói với tôi sớm. Chị hãy coi tôi như người
nhà. Tôi sẵn sàng chia sẻ với Vỹ và chị mọi chuyện. Con Trinh Mai nó mới đến
khóc với tôi. Nó bảo từ ngày bố ra tù, mẹ Khiêm lại khổ hơn. Hình như đêm đến bố
thường đánh mẹ. Nhiều sáng ngủ dậy con thấy mắt mẹ sưng và nhiều vết cào… Có
đúng là Vỹ nó thường hành hạ chị không Nó muốn giải toả. Nó muốn giành giật lấy
cái mà nó không thể. Đây là một thứ bệnh, y học gọi là bệnh cuồng dục, do tác động
của hoàn cảnh. Hồi chúng tôi ở rừng Trường Sơn, có thời kỳ hàng loạt các đơn vị
bộ đội nữ, nữ thanh niên xung phong bỗng nhiên ôm nhau cào cấu, rồi nhức đầu,
nôn mửa và ngất xỉu. Y học gọi là bệnh Dơtstơri, bệnh thiếu đàn ông. Căn bệnh của
Vỹ, cần có thời gian, và chắc chắn rồi sẽ khỏi. Trước mắt phải cách ly Vỹ khỏi
chị. Tốt nhất là phải để Vỹ ngủ riêng…
- Em đang nghĩ cách phải cơi thêm một gian gác xép. Vừa cơi
gác xép, vừa nới thêm một gian chỗ cây hồng xiêm. Cây hồng xiêm cỗi rồi, chặt
đi làm một gian cho Vỹ bốc thuốc và tiếp bệnh nhân. Bài thuốc trĩ của Vỹ xem ra
đắc địa đấy. Đã có mấy người đến Vỹ chữa khỏi.
- Vâng. Hôm vừa rồi cô Nguyệt đưa bác Hữu Hiệu đến chơi. Từ
ngày về hưu theo nghề trĩ gia truyền, bác ấy làm không hết khách. Bác Hiệu
thương nhà em lắm, nói sẽ bào chế thuốc sẵn ở quê mang lên để nhà em hành nghề.
Thú thật với anh, mẹ con em cứ nghĩ giời cho bác Hiệu xuống cứu giúp nhà em.
Thu nhập kinh tế là một phần, vì nhà em thường chữa giúp, không lấy công. Cái
chính là có việc làm, có kẻ ra người vào mà bệnh trầm uất ở nhà em thuyên giảm…
Châu Hà mở cặp, lấy ra một phong bì và một gói nhỏ.
- Chị cầm tạm số tiền này để sửa nhà. Đây là nhuận bút cuốn "Đường
lớn ta đi" của tôi vừa tái bản. Nó chẳng đáng là bao. Khi nào cần đến
tôi sẽ lấy lại. Chị đừng ngại. Còn đây là hai lạng cao hổ cốt, tiêu chuẩn của
tôi, tôi không dùng vì bác sĩ nói tôi đang phải kiêng, chị mang về ngâm rượu
cho Vỹ uống. Ít thôi. Mỗi ngày một chén hạt mít trước khi ngủ. Bệnh của Vỹ uống
cao này rất tốt.
Khiêm chối đây đẩy. Nhưng Châu Hà bắt nàng phải cầm về.
- Tôi đã trù tính sẵn việc này và định đến nhà trao cho chị.
Nhưng tôi hiểu tính Vỹ. Gần đây cậu ta gàn và có lúc điên khùng. Gặp chị ở đây
tiện hơn. Đừng làm tôi buồn vì một việc cỏn con này…
Suốt từ lúc gặp, Khiêm để ý thấy Châu Hà luôn lần tránh đôi mắt
nàng. Ngay cả lời nói của anh cũng lạnh băng, cố không lộ một biểu cảm gì. Châu
Hà là người bạn vô tư trong sáng nhất của Vỹ mà Khiêm luôn coi như anh trai
mình.
Số tiền nhận bút của Châu Hà đủ để Khiêm cơi nới một gian gác
làm phòng riêng cho Mai. Cô bé đang tuổi dậy thì, nổi tiếng là hoa khôi của trường.
Phải có một phòng riêng để cô bé ôn thi vào đại học. Căn phòng mới dựng đầu
chái nhà, vách trát toocxi, mái lợp giấy dầu, nhưng thoáng rộng, phía trong là
giường ngủ của Vỹ, phía ngoài là nơi tiếp và chữa trị bệnh nhân trĩ.
Rất may, chất kẻ sĩ trong người Vỹ dần dần hồi phục. Ngủ
riêng, Vỹ mới đủ dũng cảm thoát khỏi sức quyến rũ của nàng. Khi ấy, Vỹ như con
thú cô đơn, một mình nằm trong hang ổ của mình mà gặm nhấm sự đời. Nhưng thường
thì Vỹ chẳng gặm nhấm gì cả. Vỹ lười biếng để cho đầu óc trống rỗng. Và khi ấy
não bộ Vỹ giống hệt như một cái hang hút gió, hoặc một sân khấu bỏ ngỏ, mặc sức
cho mây sà, sương giăng, gió thổi, mặc sức cho các loại con rối, các nhân vật
tuồng, chèo, chính kịch, hài kịch… múa may quay cuồng. Dường như bộ nhớ của Vỹ
đã xoá hết những con người, những cảnh ngộ, sự kiện, gắn bó với Vỹ suốt nửa đời
người. Cả những bài thơ, những cuốn sách của Vỹ từng xuất bản, nhiều khi gõ đầu
mãi Vỹ cũng không nhớ ra.
Một lần Trần Nhân Ảnh và Châu Hà đến chơi. Ảnh khoe với Vỹ cuốn
"Người Việt, nhìn từ góc độ triết học" có chữ ký đề tặng của giáo sư
Trần, rồi vỗ vai hỏi Vỹ:
- Tao vừa gặp giáo sư Trần. Thấy mày được về giáo sư mừng lắm.
Thế nào, còn nhớ giáo sư Trần không?
- Trần nào? Nhà thơ Trần Nhân Ảnh thì đang ở trước mặt tôi
đây!
- Thằng này có sạn trong đầu rồi Châu Hà ơi. Nó quen phản
cung quản giáo, tao chưa hỏi đã bật lò xo liền.
- Cho suy nghĩ năm giây - Châu Hà đưa năm ngón tay trước mặt
Vỹ - Giáo sư Trần Đức, nhà triết học số một Việt Nam, nhớ chưa?
- Không nhớ. Tôi chưa gặp con người này - Vỹ lắc đầu.
- Ha ha… - Châu Hà bỗng cười lớn, cầm chiếc điếu cày dứ dứ
trước mặt Vỹ - Tên phạm nhân nửa Nhân văn Giai phẩm, nửa Xét lại kia, hãy nghe
Quản giáo hỏi đây. Trước lúc ngươi đụng xe trên đường phố rồi bị công an tóm về
đồn khám xét, ngươi có đến thăm giáo sư Trần và tặng ông ta cuốn sách "Đường
lớn ta đi" của bạn ngươi là nhà văn Châu Hà, một thằng bạn từng ký
bút danh Đà Giang mà nhà ngươi chúa ghét. Nhà ngươi vừa mua ở hiệu sách quốc
văn cuốn sách đó, liền mang ngay đến tặng giáo sư Trần, có đúng không? Vẫn
ngoan cố, không chịu khai báo phải không? - Trần Nhân Ảnh thấy mặt Vỹ cứ nghiệt
ra, liền hỏi tiếp - Vậy là I-sê của phạm nhân có vấn đề rồi. Châu Hà ơi, thằng
này giống Bàng Quyên, đáng tội tứ mã phanh thây. Nó từng tôn giáo sư Trần là đại
sư phụ, nhà triết học thiên tài của nước Việt, thế mà mới đi nghỉ ở Hiltơn đờ
Lahiên bẩy năm, đã quên béng sư phụ. Học trò mà không nhớ thầy thì đại bất
nghĩa. Thời Xuân Thu chiến quốc, Bàng Quyên lừa thầy phản bạn, bao nhiêu lần
mưu giết Tôn Tẫn, nhưng khi gặp thầy Quỷ Cốc Tiên Sinh vẫn phải quỳ lạy xin đại
xá. Ngươi mang danh là nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Kỳ Vỹ, mà há chẳng bằng người
xưa thế ru?
Vỹ nghển mặt, chẳng hiểu hai người bạn nói gì.
Thuận tay, Châu Hà rút tập thơ "Thời của Thánh Thần"
trên giá sách, chìa trước mặt Vỹ:
- Tập thơ này có phải của nhà ngươi viết không?
Vỹ sầm mặt, giằng lấy cuốn sách, vứt xuống gầm giường.
- Hãy quên nó đi. Đời không đáng một cái tổ trĩ! Vứt hết thơ
phú ra sọt rác.
Châu Hà và Trần Nhân Ảnh nhìn nhau lắc đầu. Họ nên hiểu bạn
mình bị mất trí nhớ hay là y chưa hề quên một điều gì?
°°°
Vỹ đang là con người đặc biệt. Từ ngày đi trại cải tạo về,
trong Vỹ tồn tại hai con người: Một thầy lang mẫn cán, tận tuỵ thương người và
một thi sĩ cùn, trầm cảm, lầm cẩm và bất đắc chí.
Buổi sáng Vỹ là một thầy lang tận tuỵ. Vỹ thường dậy từ sáu
giờ sáng. Một tiếng thể dục, vệ sinh cá nhân, ăn bát cơm nguội rang do Khiêm
chuẩn bị, rồi bắt đầu làm việc. Công việc của một thầy lang không có gì phức tạp.
Thuốc bào chế sẵn thường thì ông Hữu Hiệu gửi từ quê lên hoặc do chính tay Vỹ
sao tẩm. Bệnh nhân thường tự đến, thảng hoặc có ca đặc biệt, Vỹ có thể đến tận
nhà. Cực nhọc và bỉ lậu nhất là lúc khám và làm thuốc. Bệnh nhân tụt quần ngang
đùi, chổng mông, chìa cục trĩ dơ dáy và bốc mùi vào sát mắt, mũi thầy lang.
Căn bệnh trầm cảm của Vỹ thường chỉ xuất hiện từ đầu giờ chiều,
lúc bệnh nhân đã về và Vỹ đã ăn xong bữa trưa. Xét theo thuyết âm dương thì thời
khắc đó cho tới nửa đêm thuộc về âm. Từ khoảng bốn giờ chiều, Vỹ thường không
làm một việc gì hay ngồi một mình trong góc nhà liên tục đốt thuốc lá và nhìn
xa xăm vào một khoảng không gian nào đó. Đó là lúc Vỹ lười biếng để cho đầu óc
trống rỗng. Bộ óc Vỹ khi ấy giống hệt như một cái hang mặc sức gió lùa, hoặc một
sân khấu bỏ ngỏ, tha hồ phô diễn những tấn trò đời. Thường thì Vỹ hay
"tua" lại những cảnh mà Vỹ đã trải qua ở T5, ở K27, nhớ lại những
gương mặt, những thân phận của anh em cùng nằm sương nếm gió với mình. Những
lúc ấy, nước mắt ở đâu cứ ồng ộc ứa ra.
Mãi sau này, Khiêm mới biết đó là một thứ bệnh lý, dạng tiền
Alzheimer (bệnh mất trí nhớ). Đưa đi bệnh viện chụp chiếu, siêu âm, vẫn chẳng
phát hiện thấy gì. Các bác sĩ đêu cùng phê hai chữ "trầm cảm". Khi biết
rõ bệnh, Khiêm nhờ người viết son trắng trên tấm bảng con của học trò dòng chữ:
"Chỉ nhận chữa bệnh vào các buổi sáng hằng ngày" treo trước phòng Vỹ.
Đấy là một cách thông báo về nội dung và thời gian biểu làm việc của Vỹ với các
bệnh nhân.
Vỹ về nhà thêm một miệng ăn, một bệnh nhân hổ lốn nhiều thứ bệnh,
nhưng sổ gạo, tem phiếu, lương bổng thì hoàn toàn không có. Đây là thời kỳ củi
châu gạo quế. Nền nông nghiệp của nước Việt Nam thống nhất tiến lên sản xuất lớn,
kế hoạch hoá Xã hội chủ nghĩa theo ba ngọn cờ hồng, ba dòng thác cách mạng… mà
vẫn ì ạch chưa vượt nổi cái ngưỡng 19 triệu tấn quy thóc một năm. Toàn dân ăn
bo bo, sắn khô, khoai tây. Giáo viên ở nông thôn mang sổ gạo đến cửa hàng mua
cám chăn nuôi, mua phân đạm trừ vào tiêu chuẩn gạo. Cán bộ công nhân viên một
năm bị cắt một tháng lương thực, tức 13kg tem gạo. Để bù lại, các cơ quan trường
học đóng cửa vài ba tháng đưa người lên trung du trồng khoai sắn, hoặc về các tỉnh
đồng bằng xin đất hợp tác xã bỏ hoang, trồng lúa. Câu cửa miệng: "Bố chết
không bằng mất sổ gạo" ra đời trong thời kỳ này.
Phải bằng cách nào đảm bảo những điều kiện sống tối thiểu cho
Vỹ? Đó là mục tiêu lớn nhất mà Khiêm phải thực hiện. Không có án tù, tức là Vỹ
chưa mất quyền công dân, chưa bị loại ra khỏi danh sách cán bộ công nhân viên
nhà nước. Với Vỹ, điều này chẳng có mảy may ý nghĩa gì. Nhưng với Khiêm thì đó
lại là tất cả.
Nhà xuất bản Bình Dân, nơi Vỹ làm việc trước đây đã bị giải
thể và sáp nhập với Xưởng phim Đèn chiếu. Sau rồi Xưởng phim Đèn chiếu cũng giải
thể nốt. Thủ trưởng, nhân viên tứ tán đi bốn phương. Đến như giám đốc Tiến Tới,
người mà Khiêm có thể bấu víu được để xin giải quyết công việc và quyền lợi cho
Vỹ thì đã xin chuyển về quê, làm một công việc lạ hoắc với sở trường sở đoản của
anh ta: Hiệu trưởng trường Bồi dưỡng Chính trị tỉnh. Bí quá, Khiêm đành viết
đơn kêu các cửa, xin tổ chức xét quá trình cống hiến, đi theo cách mạng từ
kháng chiến chống Pháp của Vỹ, mà cho Vỹ được giải quyết chế độ hưu non, hoặc về
mất sức một cục. Hướng này do Châu Hà gợi ý. Anh chạy đôn chạy đáo gõ cửa các
nơi. Anh gặp Chiến Thắng Lợi nói như van vỉ, rằng ông có thể ghét Vỹ, nhưng ông
không thể để hai đứa cháu ruột của ông phải đứt bữa, phải bỏ học. Thấy Lợi còn
chần chừ, Châu Hà trực tiếp lên gặp đồng chí Tư Vuông, đề nghị đồng chí có công
văn gửi Bộ Thương binh Xã hội xem xét giải quyết cho Vỹ một chút quyền lợi, như
một cứu giúp kẻ cùng đường.
°°°
Căn bệnh trầm cảm của Vỹ, thời kỳ này hay bột phát về đêm.
Thường lúc ba giờ, Vỹ trở dậy, bật ngọn đèn bàn, ngồi im như tượng cho đến
sáng.
Đêm nay cũng vậy. Đúng vào lúc cành cây khô rơi xuống mái
ngói, cũng là lúc Khiêm nghe thấy tiếng ho khan ngoài phòng Vỹ, mở mắt nhìn ra
đã thấy anh ngồi im phăng phắc trước ngọn đèn bàn. Vỹ viết gì? Hay nghiệp viết
lại thôi thúc, anh lại bắt đầu phục hồi sức sáng tạo? Khiêm rùng mình.
Nàng sợ những trang bản thảo của Vỹ. Chúng sẽ là một đại hoạ,
như hết thảy những gì anh đã viết ra. Thà Vỹ cứ là một ông lang chữa trĩ. Thà
không có lương bổng, không có nhuận bút, không có danh tiếng. Miễn là yên thân,
sống bình lặng một kiếp người. Quên cả căn bệnh cuồng dục của Vỹ có thể tái
phát, Khiêm trở dậy, khoác hờ chiếc khăn phủ qua vai, rón rén đi lại chỗ Vỹ.
Kỳ lạ, Vỹ ngồi im phắc hút thuốc, trước mặt là một chồng giấy
thếp một mặt trắng, loại giấy kiểm tra bài của học sinh mà Khiêm đã soạn lại từ
những tập bài bỏ đi. Vỹ viết liên tục, từng tờ, như ông hiệu trưởng ký bằng
khen, ông giám đốc ký séc: Chân trời hoang tưởng. Chân trời hoang tưởng.
Chân tròi hoang tưởng. Chân trời hoang tưởng. Chân trời hoang tưởng. Chân trời
hoang tưởng. Chân trời hoang tưởng…
Thì ra cuốn tiểu thuyết mà Vỹ viết dở những năm trước, đã bị
tịch thu bản thảo từ hồi khám nhà, cho tới giờ vẫn quẩn quanh trong đầu Vỹ.
Khiêm định nói với Vỹ một điều, nhưng rồi nàng cảm thấy người
mình như đông cứng lại. Nàng không nỡ phá vỡ khát vọng của một người hoang tưởng.
Cái công việc Vỹ làm một cách cơ học, một cách vô thức, bỗng
bị dừng đột ngột. Vỹ châm tiếp một điếu thuốc, rồi vơ hết những tờ giấy vừa viết,
vo tròn, vứt xuống gậm bàn.
Tâm thần rồi. Ý nghĩ cay đắng ấy như xộc từ tim lên đỉnh đầu
Khiêm. Xót ruột vì những tờ giấy trắng mà nàng đã kì công chuẩn bị cho Vỹ nháp
bản thảo, nàng quyết ngăn cái trò lẩm cẩm của Vỹ, khi thấy anh chọn một tờ giấy
đẹp nhất, định viết tiếp Nhưng không kịp. Nàng định vươn tay ra lấy chiếc bút,
thì Vỹ đã nắn nót viết hai chữ mới: "Giỗ thầy".
Dòng tư duy nào đang nhảy cóc trong đầu Vỹ, để từ "Chân
trời hoang tưởng" vắt sang "Giỗ thầy"? Không thể là tâm thần.
Đó chỉ là những dòng ý thức rối rắm, không phương hướng. Là nỗi dày vò, dằn vặt
của một tâm hồn bấn loạn không có hướng tháo cởi. Hoá ra Vỹ vẫn không quên ngày
giỗ thầy. Suốt bẩy năm trong tù, có ai nhắc Vỹ ngày giỗ này đâu?
Khiêm đặt hai bàn tay lên vai Vỹ.
- Anh không ngủ được ư?
Vỹ giật mình quay lại. Hai hốc mắt đọng đầy nước.
- Bốn ngày nữa là giỗ thầy. Cả nhà mình cùng về quê nhé.
- Em quên bẵng đi mất, chưa kịp nói với anh. Bác Lợi với bác
Là bảo, bà mới vào trong Sài Gòn với chú Vọng, giỗ ở quê cứ để vợ chồng chú Cục
cúng, chủ nhật tới hai bác cúng giỗ thầy ở ngoài này.
- Sao?
- Chiều qua chị Là mới gặp em. Chị Là thế mà tin cúng bái lắm
nhé. Tháng trước chị ấy về quê, ra mộ thầy xin một gói đất mang sang điện cô Hằng.
Thầy về, vừa nói mấy câu mà chị Là đã sởn hết da gà.
- Có chuyện ấy thật à? - Lờ mờ trong ký ức Vỹ là hình ảnh cái
chết không toàn thây của ông Lý Phúc mà Cục đã kể lại cho anh nghe.
- Em cũng chẳng biết hồi thầy mất thế nào. Chị Là cũng không
biết. Nhưng chị ấy bảo, lúc ở điện cô Hăng thấy thầy về trong bộ quần áo trăng
toát, đầu cắm xuống đất như người trồng cây chuôi.
- Vợ quan chức cấp cao mà cũng tin bói toán?
- Điện cô Hằng ngày nào chẳng đón vợ các ông cốp. Họ kéo nhau
đến nườm nượp. Hỏi gia cảnh, cầu xin chức quyền, tài lộc nhà cửa, đất cát, đi
nước ngoài, chuyện học hành của con cái. Thầy không nói thì vừa rồi khéo vợ chồng
bác Lợi bỏ nhau… Thế nên chủ nhật này, vợ chồng bác Lợi muốn đích thân làm giỗ.
Bác ấy bảo cả nhà mình phải đến.
- Làm gì có chuyện đó?
- Thế anh không biết gì à? Đơn tố cáo anh Lợi gửi lên tận tổ
chức Trung ương. Chuyện tanh bành ra, chị Là khóc lóc, bỏ ăn đến hai ngày, toan
làm đơn li dị. Anh có biết thằng Chu, con riêng của chị Cam không? Cháu đích
tôn của anh đấy.
Vỹ ngẩn người, như nghe chuyện hoang đường.
- Chị Là lên gặp tổ chức Trung ương, đề nghị can thiệp, cho cậu
Chu đi thử gien. Tổ chức người ta khuyên can. Người ta bảo vệ uy tín anh Lợi,
chị Cam, muốn dẹp yên chuyện. Chỉ đến khi thầy về, thầy khuyên chị Là, chị ấy mới
chịu… Thế nên chủ nhật này, vợ chồng bác Lợi muốn đích thân làm giỗ.
- Bác ấy bảo cả nhà mình phải đến.
Chương 23
đám giỗ
Từ ngày theo chủ nghĩa vô thần, đồng chí Chiến Thắng Lợi
khinh bỉ một cách sâu sắc những kẻ mê tín dị đoan.
Rất nhiều lần chị Là muốn lập một bàn thờ để cúng gia tiên
ông bà, nhưng Lợi đều gạt phắt. Trên nóc chiếc tủ đứng giữa nhà ông, từ năm
1969, mới có một bát hương và tấm ảnh bài vị thờ Hồ Chủ tịch. Đó là ứng xử hữu
thần, sự tôn kính duy nhất và tuyệt đối từ khi Lợi làm người Sau này, có nhà
điêu khắc tặng ông bức tượng bán thân Bác Hồ, ông đặt lên đó, thay cho bức ảnh
bài vị.
Nhưng rồi bỗng một ngày, như một sự kiện lạ, ông Lợi gọi người
mang đến một chiếc bàn thờ, loại đóng băng gỗ dán, sơn vecni bóng, có hai khung
sắt hình thước thợ đóng cố định vào tường. Bàn thờ được đặt ở gian giữa tầng
hai, cạnh phòng ngủ của hai vợ chồng. Đồ thờ cúng, tuy giản dị, nhưng cũng đủ lệ
bộ một ban thờ truyền thống: Hai giá nến bằng đồng, khay đựng rượu và hoa quả,
ba bát hương, bát hương đại ở giữa thờ gia tiên hai bát bên thờ bố mẹ ông Lợi. Ảnh
ông Lý Phúc đội khăn xếp, áo the đen, ảnh bà cả Phúc như một cô gái thôn quê, mặc
yếm vấn khăn, do thợ vẽ truyền thần phục chế lại, trông mờ ảo như nhưng bức ảnh
đầu thế kỷ. Bà cả Phúc chết lúc Nguyễn Kỳ Khôi mới hai tuổi, nên bức truyền thần
dù có giống hay không, ông Lợi cũng không rõ. Với ông Lý Phúc, thì đây là lần đầu
tiên bài vị ông được người con trai cả lập ban thờ.
Điều gì đã khiến ông Lợi chuyển đổi đột ngột về nhận thức và
hành xử tín ngưỡng?
Sự hoài nghi về chủ nghĩa vô thần?
Nỗi ân hận về sự vong bản, xa lánh cội nguồn?
Mối lo sợ trước sự trừng phạt của các thế lực siêu nhiên?
Có lẽ ông Lợi không nghĩ ngợi tới những phạm trù triết học vĩ
mô cao siêu đến thế. Những sự cố dồn dập làm điên đảo cuộc sống, ảnh hưởng đến
gia đình, sự nghiệp, quyền lợi, địa vị của ông mà nguyên nhân trực tiếp là từ
những lá đơn tố cáo ông và bà Cam suốt một năm nay, buộc ông phải tìm mọi sự cứu
giúp.
Một vị giáo sư thân thiết, nhà khoa học hàng đầu về nghiên cứu
tiềm năng con người, đã nói với ông:
- Anh nên xem lại cung phúc trạch. Và nên có cách ứng xử với
người âm, nhất là những người thân của mình. Quý anh lắm tôi mới khuyên vậy,
xin anh đừng hiểu lầm.
Lợi không nói gì. Ông ngẫm nghĩ một tuần rồi tìm đến gặp nhà
khoa học.
- Tôi nghe anh. Nhưng xin anh hiểu rằng, ở cương vị tôi, rất
khó làm. Việc này. Tôi muốn nhờ anh gặp để nói với nhà tôi…
Nhà khoa học nhìn Lợi, tủm tỉm cười. Ông nhận lời sẽ gặp chị
Là.
- Thời gian này, mối quan hệ giữa hai vợ chồng ông Lợi hết sức
căng thẳng. Kẻ viết thư tố cáo nặc danh đã đi một nước cờ cao tay: Gửi trực tiếp
đơn tố cáo cho Là.
Một người đàn bà thật thà như đếm, thuần phác và phúc hậu,
tôn thờ chồng như Là làm sao chịu nổi cú sốc khi nhận được thông tin chồng mình
có con ngoài giá thú? Và người đàn bà ấy giờ lại có danh vọng, địa vị, vẫn hằng
ngày đưa nhau đi hội thảo, nghị quyết?
Không ầm ĩ, ngoa ngoắt, chẳng điên khùng, chanh chua, Là như
xỉu đi vì quá đau đớn, hoảng loạn. Mắt sưng húp, chỉ lặng lẽ để tập đơn thư nặc
danh trên bàn làm việc của Lợi rồi nằm liệt trên giường, không ăn uống hai
ngày. Lả rất muốn chết. Nếu như ở trên quê Định Hoá, chị sẽ vào rừng kiếm lá
ngón. Chi một nắm, vừa nhai vừa nuốt là xong. Nhưng cứ nghĩ thằng Chiến Thống
Nhất, con Chiến Huyền Ly bơ vơ không có mẹ, chị lại bủn rủn, toát hết mồ hôi.
Là chết đi thì khối kẻ nháy cẫng lên vì sung sướng. Có kẻ sẽ hợp thức hoá, ào về
chiếm nhà, chiếm chồng, chiếm cả con của Là nữa. Có kẻ được thể lấy một lúc vài
ba vợ. Đang chức quyền trong tay, đang nhà cao cửa rộng, khối gái mười tám, hai
mươi ấy chứ. Tống khứ được gái sề này đi người ta mừng bằng đuổi được hủi ra khỏi
cửa. Hoá ra cái ý nghĩ mình như là con ở trông cái cửa nhà, cơm nước hầu hạ ba
bố con, như gái bao thỉnh thoảng ông chủ động cỡn lên lại đè ngửa ra dụi hùng hục…
cấm có sai. Mấy chục năm sống với Lợi, chưa bao giờ Là được một lời âu yếm, một
tí chút quà tặng, một tâm sự chia sẻ. Hai vợ chồng như hai thế giới cách biệt.
Lợi cậy chữ nghĩa, chức quyền, coi khinh Là ra mặt. Rõ nhất là những khi có
khách đến chơi hoặc làm việc. Là vừa chuẩn bị nước mời khách, vừa nấn ná lại
chào hỏi một câu xã giao, Lợi đã đuổi quầy quậy: "Thôi, bà ra ngoài kia để
chúng tôi làm việc". Buồn nhất là những khi bố mẹ trên quê ốm đau, nhà có
công việc cưới xin giỗ chạp. Mang tiếng chồng từng ăn dầm ở dề vùng ATK, được
dân bản cưu mang đùm bọc, mà về Hà Nội một cái là quên phắt, cấm có đoái hoài.
Người ta quyền cao chức trọng, dễ quên và coi khinh người nghèo. Mỗi lần đưa
các con về quê, Là tủi thân lắm, nhưng chị luôn mua quà dấm dúi biếu bố mẹ, xóm
bản, nói dối là "quà của nhà con gửi biếu", "nhà con bận việc lắm,
sẽ về thăm dịp khác". Chao ôi, hay Là chỉ đáng trò tiêu khiển mỗi khi Lợi
khát thèm? Chỉ những lúc ấy Lợi mới dẻo mỏ, nịnh nọt, thậm chí tâng bốc Là lên
mây xanh. Lợi mơn trớn, ngắm vuốt, hôn hít khắp thân thể Là, rồi xuýt xoa, rên
rỉ: "Em hơn cả tiên nữ giáng thế. Em là giai nhân của núi rừng".
Nhưng cuộc sống đâu phải chỉ có trò ấy? Chuyện giường chiếu rồi cũng nhàm chán
theo năm tháng, tuổi tác. Mà nỗi khát thèm một tình yêu thương, sẻ chia, nương
tựa thì bao giờ Là cũng khắc khoải, cồn cào.
Cho nên, những bí mật của Lợi bị phơi bày, càng khiến Là tuyệt
vọng khi nhận rạ con người thật của chồng. Chị quyết định không việc gì phải chết.
Chị phải sống để nuôi dạy các con nên người. Chị sẽ lật ngược thế cờ, hoặc là Lợi
phải khuất phục chị, hoặc là chị sẽ ra toà ly hôn. Là tìm gặp đồng chí Phó ban
Tổ chức, một người thân cận của Lợi và gia đình.
- Nhà em đã đến nước này… Em muốn xin cấp trên một lời
khuyên?
Đồng chí Phó ban sững người khi thấy Là tiều tuỵ đến khó nhận
ra. Người đàn bà béo tròn mà đồng chí mới gặp tháng trước nay đã tọp đi như vừa
qua trận ốm thương hàn.
- Chúng tôi cũng đang đau đầu về vụ này đây. Tuần trước đài địch
đã đưa tin. Các thế lực thù địch đang nhân cơ hội hạ thấp uy tín, gây chia rẽ nội
bộ ta. Tôi chẳng thể khuyên đồng chí điều gì lúc này, ngoài sự nhắc nhở của tổ
chức về ý thức và trách nhiệm của người chiến sĩ tiên phong. Đồng chí được công
nhận chính thức năm ngoái phải không?
- Dạ vâng.
- Giờ lại là cửa hàng trưởng?
- Dạ vâng.
- Tức là ý thức và trách nhiệm trước tổ chức càng phải cao,
đúng không?
- Dạ vâng.
- Thế nên tôi không phải nói nhiều. Đồng chí hãy tự hiểu.
Chuyện của hai đồng chí Chiến Thắng Lợi và Đào Thị Cam, như đồng chí đã biết. Họ
đều đã có bản tường trình với tổ chức. Cháu Lê Kỳ Chu chính là con chung của họ…
Kìa, đồng chí đừng khóc, bình tĩnh lại đi. Đó là hậu quả của chiến tranh, là sự
hy sinh hạnh phúc cá nhân… Nếu không thất lạc nhau rất có thể đồng chí không là
vợ của đồng chí Lợi, mà là ấy thế, đấy là duy vật lịch sử. Vấn đề bây giờ là, đồng
chí phải bình tĩnh để thu xếp mọi việc. Chuyện đã rồi, không có cách gì thay đổi
được, thì ta nên chấp nhận. Đấy là quy luật của duy vật biện chứng. Phải nghĩ đến
danh dự và sự nghiệp của chồng, đến hạnh phúc gia đình, tương lai con cái. Xấu
chàng hổ ai? Dân gian đã nói thế. Lại có câu: "Cá vào ao ta, ta được"…
- Nhưng mà, tại sao anh Lợi phải giấu giếm?…
- Chúng tôi đã và sẽ kiểm điểm hai đồng chí ấy về thái độ
chưa thành khẩn trước tổ chức. Lẽ ra đồng chí Lợi phải báo cáo hết sự thật với
tổ chức từ trước khi cưới đồng chí Là. Và đồng chí Cam cũng không nên lạm dụng
danh nghĩa của đồng chí Lê Thuyết… Nhưng suy cho cùng đó cũng là duy vật lịch sử,
do hoàn cảnh chiến tranh… Chúng tôi không bao che, không xuê xoa một chiều.
Nhưng nói để đồng chí hiểu: Cả hai đồng chí Lợi và Cam đều là cán bộ chủ chốt
thuộc diện Trung ương quản lý. Những thế lực thù địch đang muốn chĩa mũi nhọn
bôi xấu, hạ uy tín hai đồng chí ấy. Ứng xử với hai trường hợp này phải hết sức
thận trọng, bởi vì đây là nội dung chủ yêu của công tác bảo vệ nội bộ. Một tổ
chức trong sạch vững mạnh không thể có một cá nhân mắc sai lầm khuyết điểm… Con
sâu không thể làm rầu nồi canh. Mà canh đây là canh riêu cua, canh dưa chua cá
trê nổi váng, dậy mùi nức mũi. Tôi nhắc lại, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo không
có nghĩa là bao che, dung túng, mà là giữ gìn uy tín, danh dự của cả hệ thống tổ
chức… Tôi mong, và giao nhiệm vụ, với tư cách một cán bộ nòng cốt, đồng chí hãy
bảo vệ sự trong sạch của tổ chức như giữ gìn con ngươi của mắt mình…
Sau những lời chỉ thị của đồng chí Phó ban, Là như con chiên
bị rút phép thông công. Chẳng còn cách gì cựa quậy, chống phá Lợi. Đã là người
của tổ chức là phải biết sống chết bảo vệ nhau. Là đã là đồng chí của Lợi rồi,
lại được cấp trên chỉ thị, không được phép phản bội Lợi. Huống chi, Lợi lại là
nhân vật quan trọng của tổ chức, dù trong hoàn cảnh nào cũng được tổ chức bảo vệ
đến cùng. Cứ nhìn chú Vỹ, gương tày liếp đó, chỉ cần chớm có biểu hiện chống đối
tổ chức là ngót chục năm tù như chơi. Anh làm lãnh đạo mà cũng không cứu được
em. Bao công lao với kháng chiến đều thành công cốc. Đi tù về thân bại danh liệt.
Ngày trước thông minh hoạt bát là thế mà nay như gà phải cáo, chẳng còn ra hồn
người.
Là định cáo từ ra về, nhưng nghĩ, chẳng lẽ chưa ra trận đã vội
đầu hàng, bèn lấy tờ đơn xin ly hôn mới viết tối qua, trình đồng chí Phó ban:
- Nhưng mà em khổ lắm. Em với anh Lợi không thể sống với nhau
được. Em báo cáo với Ban và xin gửi lá đơn này.
°°°
Lá đơn xin ly dị của Là, cũng như hầu hết những đơn thư khiếu
tố Chiến Thắng Lợi, chỉ ngày hôm sau đã nằm trong cặp của Lợi.
Và, như sự tác động dây chuyền, vài hôm sau nữa, vị giáo sư
nghiên cứu tiềm năng con người gặp chị Là. Ông khuyên Là nên đến điện cô Hằng.
Cuộc gặp gỡ với người âm, như chiếc chìa khoá, giải toả mọi
ghen tuông thù hận, trả lại con người vị tha, nhân hậu, bao dung như bản chất vốn
có của Là. Ông Lý Phúc như một quan toà hiện về, nhìn thấu ngõ ngách mấy chục
năm trước, nhìn xuyên suốt những năm sau. Ông bảo, nếu Nguyễn Kỳ Khôi lấy Cam
thì làm sao ông có hai đứa cháu nội là thằng Chiến Thống Nhất và con Chiến Huyền
Ly? Ông bảo, dòng họ Nguyễn Kỳ đã bao năm li tán, nay là lúc phải tụ hợp, rằng
vong linh ông sẽ được siêu thoát nếu ông được nhìn thấy anh em, vợ chồng, con
cháu hoà thuận, quây quần…
Là đã kể hết với Lợi câu chuyện chị về quê ra mộ thắp hương,
xin hòn đất trên mộ để thỉnh ông Lý Phúc đến điện cô Hằng thế nào, ông Lý Phúc
hiện về và nói ra sao? Bộ áo giáp chủ nghĩa vô thần của Chiến Thắng Lợi bị những
thông tin của Là làm thủng một mảng lớn. Và cơn gió đen duy tâm đang luồn lách
trườn qua lỗ thủng ấy, làm ông lạnh buốt xương sống, chân tay nổi da gà. Ông
không hề nói với vị giáo sư khoa học tiềm năng con người về ông Lý Phúc, thầy
ông, và cái chết của thầy ông. Ông cũng chưa từng gặp cô Hằng. Hay là Là bịa
chuyện để lấy cớ tha thứ cho ông?
Mấy ngày liền ông Lợi sống trong tâm trạng hoài nghi nửa tin
nửa ngờ. Thầy đã về và đang phù giúp ông giải cái đại hạn mà ông đang mắc phải?
Hẳn là như vậy rồi. Như có phép mầu, chỉ một tuần qua, từ khi ông nghe lời vị
giáo sư tâm linh, tình hình đã xoay chuyển từng ngày. Hôm qua đồng chí Tư Vuông
gọi ông lên và bảo: "Trên sắp có kết luận về cậu. Theo mình là khả quan. Nếu
ý kiến của mình được xem xét thì đợt này cấp trên sẽ phê duyệt nhân sự cả trường
hợp tay Châu Hà. Hắn mà làm Tổng biên tập báo Văn Chương là mình
yên tâm". Lợi như người sống trên mây. Nhiều khi đi như chân không chạm tới
đất. Chủ nghĩa vô thần của ông lung lay tận gốc rễ. Ông lặng lẽ thuê người dựng
bàn thờ gia tiên, bố mẹ. Ông bù đắp lại cho Là những thua thiệt mất mát, sự thờ
ơ rẻ rúng trong mấy chục năm qua. Ông bàn với vợ những trù tính và cuộc sám hối
trong ngày giỗ ông Lý Phúc sắp tới.
Lạ thay, bàn thờ vừa làm xong, thì có điện thoại của bà Cam:
- Chín giờ sáng chủ nhật này ông đến chỗ tôi nhé. Có chuyện rất
cần tôi muốn bàn với ông. Nhất định phải đến đấy.
Không phải là một cuộc trao đổi bình thường, mà là mệnh lệnh.
Ông Lợi hiểu rõ tầm quan trọng của cuộc hẹn gặp này.
Đúng giờ hẹn, bà Cam đã đứng chờ ông ở cửa. Họ gặp nhau như
hai tội phạm đã từng có lúc chung lưng buôn thuốc phiện lậu, nay cùng bị phát
giác.
- Tôi đã báo cáo hết với tổ chức rồi và sẵn sàng chịu hình thức
kỷ luật cao nhất.
- Tôi cũng vậy. Trong bốn điểm đơn thư nặc danh tố cáo, tôi
đã tường trình rõ điểm ba và điểm bốn. Chúng tôi thực sự yêu nhau và đến với
nhau một cách chân thành, trong sáng. Nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh, chúng tôi
đành phải hy sinh hạnh phúc cá nhân vì sự nghiệp chung. Chúng tôi nghĩ đây là
việc riêng cá nhân và cũng là việc xảy ra trong quá khứ, nên nay tổ chức yêu cầu
thì xin thành khẩn trình bày…
- Như vậy là thấu tình đạt lý rồi. Còn chuyện thằng Chu sang
Liên Xô học tên lửa?
- Chuyện này hoàn toàn do điều động của tổ chức. Tôi đã mạnh
dạn trình bày như vậy vì biết chắc thượng tá Võ Khang đã hy sinh… Tôi nói, thằng
cháu Chu hồi ấy luôn là học sinh phổ thông xuất sắc, vì thế Cục Quân lực thấy cần
phải đưa cháu đi đào tạo tiếp…
- Thôi được. Anh thành khẩn đến mức như thế mà tổ chức vẫn
không tin dùng thì đó là số phận.
- Số phận ư? - ông Lợi bỗng nhìn bà Cam bằng ánh mắt của một
người đã bắt đầu ngộ ra rằng cuộc đòi còn có những điều bí hiểm mà ta không cắt
nghĩa được.
- Bây giờ đến một việc tối quan trọng mà tôi muốn báo cho anh
biết, nhưng không hiểu trong hoàn cảnh này anh đã chuẩn bị tinh thần để đón nhận
chưa?
Bốn mắt họ gặp nhau.
Kỷ niệm ba ngày thần tiên ở Phương Đình bỗng hiện về. Lợi
hình dung rất rõ một anh chàng Nguyễn Kỳ Khôi cuồng nhiệt và hăm hở lúc nào
cũng bị đôi mất đen đắm đuối dìm cho đến chết. Đôi mắt đen thẳm ngày xưa, giờ đọng
đầy nước.
- Cam đã nói với con?
Bà Cam khẽ gật đầu.
- Chu vừa về tận quê đồng chí Lê Thuyết. Và tự nó đã tìm ra sự
thật.
- Vậy thì hãy cho tôi gặp con. Đâu? Nó đâu rồi?
Như có phép màu, có tiếng gõ cửa.
Bà Cam chưa kịp nói hết câu: "Chu ơi, bố của con đấy",
Chu đã dang rộng vòng tay, ào vào, ôm chầm lấy ông Lợi.
Hai bố con đứng ôm nhau. Hai người đàn ông, người tóc muối
tiêu, người tóc còn đen ánh, giống nhau như cùng khuôn đúc. Họ ôm nhau và khóc.
Bà Cam cười mà miệng méo xệch, nước mắt chảy chan hoà. Hơn ba
mươi năm tủi nhục, giấu giếm, vụng trộm, thậm chí với con trai mà phải giả dối,
thớ lợ…, giờ mới là lúc bà hoàn toàn mãn nguyện khi thấy cảnh châu về Hợp Phố,
bố con đã nhận ra nhau.
Chu kéo ông Lợi nhích lên và vòng tay ôm bà Cam lại gần.
- Con đã có cả bố và mẹ. Con sẽ hạnh phúc vô cùng nếu bố mẹ sống
bên nhau…
Bà Cam gỡ tay Chu ra.
- Đó là điều không tưởng, vì số phận không cho mẹ nhiều đến
thế. Bây giờ, mẹ chỉ còn một mong muốn cuối cùng là làm sao giúp bố con qua khỏi
cung đại hạn này.
Cả ông Lợi và Chu cùng ngồi xuống ghế, nhìn bà Cam chờ đợi.
- Đây là quyết định của tôi sau rất nhiều đêm suy nghĩ, dằn vặt
- Bà Cam đặt lên bàn những trang giấy do tự tay mình viết. Đơn xin nghỉ hưu.
Đơn xin nghỉ sinh hoạt…
- Đừng, Cam, tôi xin em - Lợi vồ lấy những tờ giấy, như không
tin ở mắt mình - Sao em lại làm thế? Hãy suy nghĩ lại!
Bà Cam nhìn vào xa xăm, như nói với một ai đó:
- Những lá đơn này là để tôi nhận hết tội lỗi về phần mình. Đồng
chí Chiến Thắng Lợi vô tội trong việc này. Vào những năm 1947, 1948 ấy, sau khi
đồng chí Lê Thuyết hy sinh, tôi rất hoang mang, bế tắc. Tôi đã lừa đồng chí
Nguyễn Kỳ Khôi để xin một đứa con… Đó là điểm tựa tinh thần để an ủi tôi vững
tin cống hiến lâu dài cho cách mạng… Tôi không có ý định lấy đồng chí Khôi, vì
thế đã chủ động cắt đứt mối liên lạc Nếu những việc làm của tôi là lừa dối tổ
chức, không trung thực, thành khẩn, thì tôi xin sẵn sàng chịu kỷ luật cao nhất,
tôi xin được khai trừ khỏi tổ chức, xin tình nguyện về hưu… để cho tổ chức được
trong sạch vững mạnh…
Ông Lợi cắt ngang:
- Cam không được nộp những lá đơn này lên tổ chức. Cam vẫn
còn tuổi công tác và đang giữ những trọng trách… Cam phải nhớ tới lời thề
thiêng liêng…
Bà Cam lắc đầu, miệng thoáng cười khinh bạc.
- Với lại đã đến lúc con người ta nghĩ khác rồi… Ai cũng rất
cần một khoảng trời tự do… Tôi đã hy sinh quá nhiều cái riêng, cái cá nhân cho
cách mạng. Nay là lúc tôi phải sống riêng cho mình. Tham quyền cố vị làm gì,
khi mà một chút riêng tư cá nhân cũng bị phanh phui, quy kết, cũng phải giải
trình, báo cáo?
Đó là sự đổ vỡ lớn nhất trong đời bà Cam.
Ngày hôm sau, tự tay bà mang đơn lên nộp tổ chức.
Và đúng như bà Cam phán đoán, hành động của bà như Lê Lai liều
mình cứu chúa. Ông Lợi không những được gỡ tội mà còn được đề bạt giữ trọng
trách Phó ban Cải tạo Công thương.
Cho nên, đám giỗ ông Lý Phúc sẽ mang rất nhiều ý nghĩa.
°°°
Ngôi biệt thự rợp bóng hoàng lan ở góc phố Lý Thường Kiệt, kể
từ ngày vợ chồng con cái ông Lợi dọn đến ở, hôm nay, lần đầu tiên, mới có cuộc
hội ngộ đông vui như thế.
Ngay từ sáng sớm, ba mẹ con Khiêm, ba mẹ con Là đã tíu tít chợ
búa, chuẩn bị làm cỗ. Sự xuất hiện của mẹ con Khiêm, khiến đám giỗ có ngay
không khí tưng bừng, trang trọng của một ngày lễ hội. Hai mẹ con, như hai chị
em, rực rỡ và đài các, quý phái. Tuyệt vời nhất là Trinh Mai. Dáng thanh cao,
nước da trắng mịn, mắt đen như nhung, môi tươi như đoá trà. Cô đẹp rực rỡ, như
bông hồng vàng trong truyện của Pautôpxki. Sự xuất hiện của cô, ngay từ đầu đã
làm mê mẩn cô bé Chiên Huyền Ly, đến nỗi cô bé cứ ngơ ngẩn đi quanh mà nhìn ngắm,
mà trầm trồ:
- Chị Mai, chị giống như Bạch Tuyết trong truyện "Nàng Bạch
Tuyết và bẩy chú lùn".
- Ê, chị Ly, lộn xộn. Chị phải gọi Mai là em, rõ chưa? - Mai
thơm vào bên má phính của cô bé, cười thích thú, chỉ ông anh họ - Thế còn anh
Chiến Thống Nhất, trông có giống anh chàng Pie Bêdukhốp trong tiểu thuyết
"Chiến tranh và Hoà bình" của văn hào Lép Tônxtôi không?
- Giống quá - Phong vỗ tay, reo to - Pie Bêdukhốp.
Cả Phong và Ly cùng nhìn Nhất và ôm bụng cười ngặt nghẽo.
Đúng là anh chàng ngố Bêdukhốp, mà chúng đã gặp trong phim. Chiến Thống Nhất giờ
đã là chàng sinh viên năm cuối trường Đại học Giao thông, cao to, mặt béo bệu,
kính cận bốn điệp, giọng ồ ồ như vịt đực. Nhìn Nhất lóng ngóng gọt khoai tây,
su hào, chẳng ai nhịn được cười.
- Chị Mai này - Ly vẫn không thể quen gọi em xưng chị vì ngượng
lắm - Mẹ Là bảo Ly với Mai là chị em con chú con bác ruột, thế sao họ Mai là
Nguyễn, còn họ Ly lại là Chiến?
Mai ngẩn người, một lúc mới nghĩ ra cách giảng giải:
- Vì bố chị Ly là quan, còn bố em là phó thường dân. Họ của
quan thì phải khác dân. Ví như đức ông Lý Thường Kiệt, được đặt tên đường phố
mà chị Ly đang ở đây này. Ông vốn có tên cha mẹ đặt cho là Ngô Tuấn, quê ở ven
Hồ Tây. Vì ông quá tài giỏi giúp vua Lý đánh giặc, nên được ban họ vua, được đổi
tên là Lý Thường Kiệt.
- Ly ứ thích họ Chiến. Một mình một họ chán lắm. Ly chỉ thích
họ Nguyễn Kỳ. Này, chị Mai này, mẹ Là bảo Ly còn có một anh trai, trên cả anh
Nhất nữa cơ… - Ly ghé tai Mai thì thào chuyện gì đó có vẻ cực kỳ bí mật…
- Em cũng đang chờ đợi… - Mai gật đầu lia lịa ra vẻ rất thích
thú khi sắp được chứng kiến một sự kiện trọng đại - Chị Ly này, họ Nguyễn Kỳ
nhà mình có nhiều chuyện rất chỉ là… kỳ. Ông nội chúng mình ngộ ghê cơ. Ai lại
đặt tên con là Nguyễn Kỳ Cục - Đang nói Mai bỗng ôm miệng nhìn ra cổng.
Một người đàn ông. đội mũ cối, vai đeo bị gạo, tay xách chiếc
lồng nhốt hai con gà trống, đang tập tễnh đi vào.
- Chết em rồi. Chú Cục thiêng thế. Vừa nhắc đến đã xuất hiện.
- Ối giời! Tôi đã bảo chú ra không thôi kia mà - Bà Là trách
móc một cách thân tình - Khổ. Nhìn tủ lạnh Saratôp nhà tôi trong kia xem có thiếu
thứ gì không? Bày vẽ gạo đỗ gà qué ra cho nó khổ cái thân…
Khiêm từ trong bếp ló ra, gương mặt đỏ hồng vì lửa.
- Chào ông phó chủ nhiệm hợp tác. Gà chăn nuôi hay là mua
ngoài chợ Đồng Xuân đấy? Kìa, hai chị em con Mai, con Ly đâu, ra xách gà cho
chú đi.
- Thế thím Nhi với các cháu đâu? Cái Ruộng, cái đất, cái Hợp
thằng Tác đâu? Sao không cho chúng nó ra hết cả ngoài này? - Là nhìn tuốt ra
ngoài cổng - Nhà tôi đã dặn chú giỗ thầy năm nay là cuộc họp mặt đại gia đình,
phải cho cả nhà ra ngoài này kia mà.
- Nhà em phải ở nhà chuẩn bị mai em về cúng giỗ thầy, chứ kéo
ra hết ngoài này đâu có được. Giỗ ngoài bác cả cũng chỉ là giỗ vọng. Bà nhắn về,
bảo thế. Bà dặn phải cúng giỗ thầy ở nhà thờ đúng ngày mai. Trong Sài Gòn trưa
mai bà với bác Vọng cũng giỗ vọng thầy. Nhà em hôm nay phải đi xay yến nếp cái
hoa vàng để mai đồ xôi. Các cháu bác đứa đi cắm trại với nhà trường, đứa ra đồng
trông đàn vịt với cô Hậu. Từ ngày bà vào Sài Gòn với bác Vọng, bí người lắm.
- Các cụ đã bảo rồi. Một mẹ già bằng ba người ở! Bà vào trong
kia, cũng là đi ở trông nhà cho chú Vọng.
- Vợ chồng em đang tính, phải đón bà em về.
- Thôi. Hoa thơm mỗi người ngửi một tí - Là có vẻ chao chát -
Bà về cũng không đến lượt chú thím. Vợ chồng tôi là con trưởng, cũng phải để
cho chúng tôi được báo hiếu mẹ một chút chứ…
- Vâng, thì sau anh Vọng sẽ là bác cả rồi bác hai. Nhưng em
cam đoan là bà chỉ thích ở với vợ chồng em… Nào, có việc gì em phụ một tay…
- Việc gì? Cừ để đàn bà con gái chúng tôi. Chú rửa mặt mũi
chân tay rồi lên trên nhà với anh. Có cả chú Vỹ ở trên ấy. Anh em tha hồ mà hàn
huyên với nhau…
Trên nhà, tức là tầng gác hai, nơi sẽ diễn ra lễ cúng giỗ ông
Lý Phúc, anh em ông Lợi, ông Vỹ, như hai cái bóng, mỗi người một góc nhà.
Suốt từ lúc đến nhà anh trai, ông Vỹ hầu như chỉ im lặng.
Ngôi nhà sang trọng này quá lạ lẫm đối với ông. Đầu tiên là ông đi vòng quanh,
ngắm nghía, sờ mó những đồ vật, ngó nghiêng phòng ngủ, toa lét, hành lang, y
như một bác nông dân lần đầu ra tỉnh. Quan cách mạng có khác. Khác hẳn người
thường. Riêng một chiếc tủ cổ lồng kính trưng bày những huy chương, huân
chương, bằng khen, những đồ lưu niệm của các nước Trung Quốc, Liên Xô, Ba Lan,
Đông Đức, Lào, Triều Tiên, Cuba… đủ thấy chủ nhân đã đặt chân lên hầu khắp các
vùng trái đất. Điểm dừng sau cùng là bộ bàn thờ. Ông đứng ngắm như nhà đạo diễn
tổng duyệt bài trí sân khấu, rồi sắp xếp điều chỉnh lại từng đồ thờ cúng. Tiếp
đó, ông lấy từ chiếc làn nhựa ra nải chuối, chai rượu chanh, ba thẻ hương, mà
Khiêm sắm từ hôm qua trịnh trọng đặt lên giữa ban thờ. Khói hương vấn vít trên
mái tóc như sương, ông Vỹ đứng lặng phắc như nhập thiền trước bài vị người cha
quá cố gần tiếng đồng hồ.
Vóc dáng tiều tuỵ và vẻ mặt vô cảm, nhẫn nhục, cùng mọi động
thái có vẻ như lẩn thẩn của em trai, đều không qua con mắt bao quát, dò xét của
ông Lợi. Ông bỗng động làng trắc ẩn và thấy như chính mình có lỗi. Đúng là bẩy
năm trong trại cải tạo đã biến Vỹ trở thành một người khác. Đầu óc, sức khoẻ có
vấn đề. Giờ thì Vỹ chẳng còn gì nguy hiểm đến an ninh quốc gia sự an toàn của
thể chế, mà bản thân Vỹ cũng chẳng còn có ích gì cho mình và cho gia đình. Đó
là nguy kịch mà chính ông Lợi, anh em máu mủ ruột rà sẽ phải gánh chịu. Ông
trách mình đã không kịp thời can thiệp. Mải mê với địa vị, quyền lợi của mình,
ông đã thờ ơ, đã nhẫn tâm… Rồi Vỹ sẽ sống ra sao, nếu bệnh tật và những áp lực
tinh thần đã tích tụ mấy năm qua bùng phát? Vợ chồng con cái Vỹ sẽ sống thế
nào, khi tất cả thu nhập đều chỉ trông cậy vào đồng lương và việc dạy thêm của
Khiêm? Đã gần hết năm rồi mà mọi chế độ tiêu chuẩn của Vỹ vẫn chưa giải quyết
được. Mấy chục đồng bạc một tháng hoặc một chân cán sự quèn ở một cơ quan, mà cứ
như quả bóng đá đi đá lại bao nhiêu cửa. Người ta vẫn cứ muốn hành hạ Vỹ, lấy
miếng cơm manh áo, sự mưu sinh tầm thường để làm nhục kẻ sỹ. Giá không vướng những
đơn thư yếu tố thì Lợi sẽ can thiệp cho Vỹ. Nhưng ông đang trong tình trạng há
miệng mắc quai, ốc còn không mang nổi mình ốc. Đành lại đế Châu Hà và đám bạn
bè văn chương giúp Vỹ.
Một câu hỏi như những nhát búa cứ nhói lên trong đầu Lợi: người
giúp Vỹ ra khỏi K27, rồi đang đôn đáo lo quyền lợi, đời ông cho Vỹ, sao không
phải là ông, mà là nhà văn Châu Hà?
Không phải lúc này, ở đây, mà là suốt mấy tháng nay, kể tư
khi Vỹ ra tù, câu hỏi này đã gõ vào đầu ông nhức buốt. Bây giờ, đối diện với Vỹ,
câu hỏi càng nhức buốt. Nó khiến ông không dám dàn mặt với em trai, không dám
nhìn thẳng vào mắt Vỹ. Bây giờ thì ông đã thành phạm nhân và Vỹ thành quản
giáo. Vỹ im lặng vì bệnh trầm cảm, bệnh Alzheimer, hay Vỹ đang khinh bỉ?
Lợi chạy xuống nhà bảo vợ đưa chìa khoá tủ, rồi tự tay ông lấy
hai lạng cao hổ cốt, một hộp nhân sâm Cao Ly dúi vào tay Vỹ.
- Chú cầm lấy mấy thứ này về bồi dưỡng. sức khoẻ. Tôi thấy
chú yếu lắm.
- Em xin bác - Vỹ ngửa lòng bàn tay, nhìn chằm chằm vào ông
anh trai. Tự nhiên, ông bỗng thấy sao chiếc mũi của ông anh trai lại dài ra và
khoằm lại như mỏ quạ. Rồi bộ mặt ông Lợi bỗng biến thành bộ mặt ông mũi khoằm
đeo băng đỏ trong đồn công an ngày nào. Vỹ hốt hoảng đưa lại lạng cao và hộp
sâm cho ông Lợi.
- Coi như em đã nhận. Em gửi bác giữ hộ.
- Kìa chú. Chú cầm về để bồi dưỡng…
Vỹ quay lại, đặt mọi thứ lên ban thờ. Rồi lại đang lầm rầm khấn
vái.
Rất may, sự xuất hiện của Cục đã phá vỡ không khí nặng nề. Lợi
xoắn lấy Cục hói thăm về tình hình trong quê, về mùa màng, khoán sản… Còn Vỹ
thì chỉ ngồi nhìn Cục đầy âu yếm, như cậu học trò Vỹ thường ngắm nhìn hai đứa
em Cục và Vện chơi bi, chơi đáo ngày xưa. Thấy Cục mở gói thuốc lào, Vỹ liền
xăng xái đi tìm chiếc điếu cày. Tìm mãi không thấy, tự tay Vỹ kiếm giấy báo vấn
cho Cục một chiếc điếu thật dài. Cỗ cúng đã xong và được "anh chàng Bêdukhốp",
với sự trợ giúp của Mai, Phong và Ly, lễ mễ bưng lên, đặt trên cái bàn kê dưới
ban thờ. Một con gà trống thiến, mỏ vểnh cao, ngậm bông hồng, luộc vàng ươm, nằm
bên đĩa xôi đỗ lớn choán gần hết chiếc mâm đồng. Tiếp đó là một mâm cỗ cúng
nghi ngút khói với các đĩa, các bát giò nem ninh mọc, đặc chất ẩm thực Hà Nội
mà chỉ có tài nữ công gia chánh điêu luyện mới làm nổi. Đây là những nghi thức,
thủ tục rất trang trọng do chính cô giáo Khiêm đạo diễn. Đến lượt ông Lợi cũng
trịnh trọng không kém. Ông thay bộ đồ mới, khoác áo đại cán, thắp đủ ba tuần
hương, rót rượu rồi lầm rầm khấn vái. Lần đầu tiên trong đời, không phải do một
ai đó, một tổ chức nào đó tác động, chỉ đạo, tự ông làm một cách tự nguyện những
công việc trang nghiêm, thành kính và thiêng liêng như thế.
Bà Là từ dưới nhà đi lên, dáng bồn chồn hết nhìn đồng hồ lại
ngóng ra cổng. Đợi ông Lợi cúng xong, bà lo lắng đến bên chồng.
- Anh có hẹn đúng ngày giờ không? Sao giờ này vẫn chưa thấy đến?
Nghe nói tướng Quảng Lạc ở mặt trận Cămpuchia chưa về?
Ông Lợi còn sốt ruột hơn cả vợ. Lòng ông như lửa đốt. Đúng là
ông có nghe tin tướng Quảng Lạc vừa từ mặt trận biên giới phía Bắc bay sang mặt
trận Tây Nam. Nhưng nhân vật chính mà ông chờ đợi hôm nay đâu có phụ thuộc gì
vào ông tướng ấy? Lê Kỳ Chu, con trai cả của ông, cháu đích tôn của người đang
ngồi trên ban thờ hương khói nghi ngút kia, mới là trung tâm của ngày trọng đại
này. Đám giỗ mà ông kỳ công sắp đặt, chỉ dành riêng cho những người ruột thịt,
chính là dịp để ông kính cáo với tổ tiên, với thầy u ông, cho vợ chồng Lê Kỳ
Chu và con trai về nhận cha, nhận họ. Mọi kế hoạch đã được ông trù tính kỹ. Ông
đã bàn bạc cả với hai vợ chồng nó.
Người ngoại tộc duy nhất được ông mời hôm nay là cụ Ba Yên và
vợ chồng tướng Quảng Lạc, với danh nghĩa thông gia. Cụ Ba Yên xin kiếu vì sức
khoẻ yếu. Ông cũng đã bàn với vợ về trường hợp bà Cam. Là tỏ ra rộng lượng, cứ
mời. Nhưng ông gạt đi. Tất nhiên, nếu mời bà Cam cũng không đến.
Có tiếng còi xe ô tô ngoài cổng. Chiếc Uoat đầy bụi đường trường
vừa dừng, tướng Quảng Lạc, trong bộ quân phục còn nguyên nếp gấp, mũ mềm gắn
sao, từ trên xe bước xuống. Theo sau vị tướng lừng danh là cô giáo Linh, con
gái ông, cùng Lê Kỳ Chu, con rể, và thằng cháu ngoại.
Cả nhà cùng ào ra cổng đón khách. Ai cũng dồn mắt vào chàng
trai cao lớn mặc bộ complê như chú rể đi cạnh vợ và con trai. Nhác trông đã biết
ngay là con trai ông Lợi, không lẫn vào đâu được. Người ta có thể nghi ngờ Chiến
Thống Nhất, chứ chẳng ai nghi ngờ Lê Kỳ Chu. Là và Khiêm cùng dang tay ra ôm thằng
cháu đích tôn.
Thằng bé cười khanh khách khi bà Là cứ day mũi vào chim nó.
Cô bé Ly ghé tai Mai:
- Giống cực kỳ. Chỉ có bố Kỳ Khôi mới sinh nổi con Kỳ Chu.
Rồi cô bé chạy vào trong nhà ôm một bó hoa lớn đã chuẩn bị sẵn,
bẽn lẽn đi đến trước vợ chồng anh trai.
- Xin lỗi cả nhà, vì phải chờ đợi lâu - Tướng Quảng Lạc hồ hởi
bắt tay từng người, với tác phong dứt khoát của một quân nhân - Lẽ ra vợ chồng
cháu Chu, Linh và thằng cu Ti phải đến sớm, nhưng các cháu cứ nấn ná chờ tôi về.
Vừa xuống sân bay, tôi chỉ kịp qua nhà đón các cháu rồi đến đây ngay.
Khi bắt tay Vỹ, ông dừng hơi lâu.
- Tôi đọc và nghe nói về ông đã lâu, nhưng hôm nay mới có hân
hạnh gặp. Sẽ hẹn đến thăm cả hai ông bà.
Không khí chiến trường, tình hình thời cuộc theo chân ông tướng
ùa vào phòng khách. Người háo hức chờ đợi nhất là Cục. Thằng Cách, con trai thứ
ba của ông đang ở chiến trường Campuchia. Cục tin rằng vừa rồi thể nào ông tướng
cũng gặp thằng Cách ở bên đó.
- Phải xác định cháu nó còn phải ở đất bạn lâu dài - ông tướng
nói - Tình hình phức tạp lắm. Tàn quân Pônpốt rút vào rừng đánh du kích. Nó
dùng sở trường của ta để đánh lại ta mới gay chứ. Vật nhau với thằng Pônpốt keo
này mất nhiều thời gian, xương máu lắm đây…
- Nghe đài BBC nói, ta bị thế giới phản đối về vụ Campuchia
này lắm - ông Cục nói.
- Thế mới gay. Mình sa lầy nhưng vẫn không thể rút chân ra được
- ông tướng thở dài. Không hiểu ông thở dài vì sự không rút chân ra được hay vì
ông thấy mình không còn nhiều thời gian…
Đúng lúc ấy thì ông tướng bỗng giật mình, khi con gái ghé tai
nói nhỏ điều gì. Ông kéo tay Cục và Vỹ cùng lên nhà trên. Trước ban thờ, ông Lợi
và Chu, đứng cạnh nhau, giống nhau như hai giọt nước. Cạnh họ là hai mẹ con cô
giáo Linh.
Giọng ông Lợi nghiêm trang và xúc động, như một nguyên thủ đọc
diễn văn trước đám đông:
Kính thưa đồng chí thiếu tướng Quảng Lạc, thân sinh của con
Quản Thị Linh, nhạc phụ của con Lê Kỳ Chu, ông ngoại của cháu Lê Kỳ Châu. Thưa
chú Nguyễn Kỳ Vỹ và thím Đào Trinh Khiêm. Thưa chú Nguyễn Kỳ Quặc. Thưa bà Ma
Thị Là, vợ tôi, cùng các con cháu trong gia tộc Nguyễn Kỳ - Hôm nay là một ngày
trọng đại của gia đình. Nhân ngày ky nhật của thầy tôi, vợ chồng chúng tôi có
lưng cơm, nén nhang tưởng nhớ thầy tôi và kính báo với thầy tôi cùng gia tiên
dòng họ Nguyễn Kỳ một sự kiện quan trọng. Tôi, tên thật là Nguyễn Kỳ Khôi, bí
danh cách mạng là Chiến Thắng Lợi, có con trai là Lê Kỳ Chu, sinh ngày… tháng…
năm… Do hoàn cảnh kháng chiến, bố con tôi đã thất lạc nhau hơn ba mươi năm. Nay
nhờ ân huệ tổ tiên, bố con tôi đã tìm thấy nhau. Vậy hôm nay, trước vong linh
tiên tổ, vong linh thầy, xin cho vợ chồng con cái Lê Kỳ Chu sửa lễ mọn bái yết
gia tiên, ông nội, và từ nay xin nhận bà nội, bố mẹ, các chú thím, các em và họ
hàng nội ngoại chi họ Nguyễn Kỳ…
Mâm đồ lễ nhận cha nhận họ đã được vợ chồng Chu chuẩn bị sẵn
mang theo xe ô tô, giờ được Nhất và Mai bưng lên đặt trên ban thờ. Vợ chồng
Chu, Linh như cặp tân hôn ngày lễ gia tiên, cùng quỳ trước ban thờ cầu khấn.
Lễ nhận họ xong, Chu đứng lên, tiến đến trước mặt ông Lợi.
Anh như đổ vào ngực người cha.
- Bố ơi, sao bố không nói với mọi người về mẹ con? - Chu bỗng
oà khóc - Sao bố không mời mẹ Đào Thị Cam của con đến đây? Không có mẹ Cam, làm
sao con có cuộc hội ngộ này?
Cũng lúc ấy, như có luồng sáng nóng bỏng sau gáy, Chu vội
quay lại.
Chu nhận ra đôi mắt Cục đang nhìn anh với ánh mắt thật khác lạ
ánh nhìn ấy, như sự sắp đặt của định mệnh, mãi hơn hai mươi năm sau, Chu mới giải
mã được.
Chương 24
nửa đời nửa đoạn
Anh vô vàn thương nhớ của em!
Mẹ con em đã viết cho anh bao nhiêu lá thư rồi, mà vẫn biệt
tăm hơi. Tại sao anh không trả lời? Anh không được viết hay thư không đến
nơi? Hay anh làm sao? Có bị đi cải tạo không? Có bị quản thúc không?
Cuộc ra đi như một hành trình vượt qua chín tầng địa ngục Sau
bao ngày lênh đênh trên biển cả, Đức Chúa sáng danh đã cứu giúp mẹ con em
cập bến an toàn…
Vậy là mẹ con em đang ở xa anh nửa vòng trái đất. Một khoảng
cách mà chỉ có nỗi nhớ thương mới đủ sức kéo lại gần…
Vân và Vy ngày nào cũng nhắc ba. Học tiếng Anh không vào
chúng nó cũng viện lý do vì nhớ ba mà không học được.
Hôm qua, có tin tàu chở người di tản cập cảng. Ba mẹ con đến
chờ ở cầu cáng mười tiếng đồng hồ. Gặp vợ chồng con cái anh Thới, mừng hết
nói. Hỏi nhà em đâu, anh Thói bảo: "Tao cho nó đi free, nhưng nó ngu quá
trời. Không muốn nói nữa. Mấy mẹ con gào trong nước mắt. Anh ơi, hay là anh đã
quên mẹ con em? Hay đã có cô nào giữ anh ở lại?"
Đọc thư Miên, Vọng khóc tức tưởi. Nhạt nhoà giữa những dòng
chữ là gương mặt của Miên, như một con chiên đang đau khổ và nhẫn nhục hướng về
nước Chúa.
Thì ra Miên vẫn đau đáu, khắc khoải một nỗi nhớ về anh. Vọng
bỗng thấy ân hận, muốn xỉ vả mình vì đã trót oán hận Miên khi mẹ con nàng bỏ nước
ra đi đột ngột. Vọng đâu thấu hiểu quyết tâm ra đi của nàng đại mạnh mẽ và quyết
liệt đến thế Nàng muốn đi trước tiền trạm. Muốn anh có thời gian sống với mẹ ít
ngày, có thời gian thu xếp việc gia đình, chia tay người thân ngoài Bắc.
Anh Võ An Thới mà Miên viết trong thư, là người mà Miên tin cậy
và nhờ thu xếp đưa Vọng sang với mẹ con nàng. Đó là người bạn thân của anh trai
nàng, và sau này là người anh em thân thiết trong gia đình. Thới là một nhà sử
học. Anh giảng dạy tại trường Đại học Vạn Hạnh. Sau ngày 80 tháng Tư, chính Thới
đã nhiều lần khuyên nhủ vợ chồng Vọng nên ở lại góp phần tái thiết đất nước. Thới
là người không thân cộng sản, nhưng có tinh thần dân tộc, sẵn sàng hợp tác với
chính quyền mới để xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, giàu mạnh, sánh vai
cùng các cường quốc năm châu. "Mình ủng hộ những người cộng sản vì họ có
khát vọng thống nhất Tổ quốc. Họ chỉ muốn đánh đuổi kẻ xâm lược, giành độc lập
tự do cho dân tộc. Chúng mình cùng giống máu đỏ da vàng, cùng khát vọng như họ,
tại sao phải trốn chạy đến một nước ngoại bang? Mình và Vọng lại là trí thức.
Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Kẻ sỹ hơn lớp bình dân là được học
hành, biết sự chuyển xoay của thời cuộc…". Anh Thới đã nhiều lần nói với Vọng
như vậy. Anh hăng hái tham gia vận động thành lập Hội Trí thức yêu nước của
thành phố, vận động được rất nhiều nhà khoa học, giáo sư, kỹ sư, bác sĩ ở lại hợp
tác với chính quyền mới.
Nhưng rồi Thới đã vỡ mộng. Người ta đã không cho anh giảng dạy
và nghiên cứu lịch sử, bởi vì anh dạy khoá giáo trình lịch sử cận đại, là
chuyên gia nghiên cứu về Triều Nguyễn và quá trình Nam tiến mở cõi của người Việt.
Anh Thới có lần buồn bã nói với Vọng: "Người ta vứt tất cả mớ tài liệu
nghiên cứu của mình vào sọt rác. Người ta xoá tên hết toàn bộ những con đường,
những địa danh liên quan đến các chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn
Phúc Tần, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Khoát… các tướng Nguyễn Hữu Cảnh, Mạc Cửu…
những người góp phần quyết định cho việc mở cõi trời Nam từ Thuận Hoá tới Hà
Tiên. Lịch sử nghìn năm của dân tộc bị bóp méo, giản lược để chỉ tôn vinh, dồn
cho mấy chục năm…"
Chỉ trong vòng hai năm, các thành viên của Hội Trí thức yêu
nước lần lượt bỏ nước ra đi. Đây là thời kỳ làn sóng di tản ập vào từng nhà, trở
thành câu chuyện cửa miệng ở các bến xe, quán hàng, phố chợ. Hàng nghìn người
đi chui bị bắt, lại đi tiếp Rồi làn sóng người Hoa ào ào rời khỏi Chợ Lớn. Đã
xuất híện nhiều đường dây bán chính thức. Chỉ cần nộp tiền nộp vàng là tàu đưa
ra khỏi phao số không.
Một buổi tối, Thới đội mưa đến nhà Vọng.
- Mọi việc đã chuẩn bị xong. Bảo mật tối đa. Tầu được trang bị
la bàn, dầu mỡ, đồ ăn đủ cho cả tháng. Chỉ cần đến Mã Lai sẽ có người đón. Mày
muốn đi, tao cho đi free. Chuẩn bị lẹ lên nghe. Đúng hai giờ sáng mai hẹn gặp ở
nhà dệt Tân Hội - Thới thông báo vắn tắt, rồi vội vã đi ngay.
Chao ôi, một cơ hội ngàn vàng. Đi với Thới chắc chắn sẽ trót
lọt bởi anh là người chín chắn, tính toán chi ly mọi nước cờ.
Nhưng Vọng làm sao bỏ được mẹ một mình bơ vơ giữa đất khách
quê người? Bà Cử Phúc đã vào ở với Vọng được gần một năm. Nhờ sự tận tâm của
Khuất Sỹ Hào và Xoan, Vọng đã nhập được hộ khẩu cho mẹ. Từ ngày đón mẹ vào, dù
đi công tác đâu xa, Vọng vẫn dành thời gian về chăm sóc mẹ. Mẹ gầy yếu quá anh
tìm đến tận ông Lang Chánh phố Hải Thượng Lãn ông ở Chợ Lớn cắt thuốc bắc cho mẹ.
Tự tay sắc thuốc ép bà cụ uống mỗi ngày. Mỗi tuần anh đặt mua ở chợ Bà Chiểu một
con gà đen, tiềm tam thất, quy, thục ép bà cụ ăn. Người già như trái chín cây.
Không biết rụng ngày nào. Nhìn mẹ nhai trệu trạo, vừa ăn vừa nằng nặc đòi về Bắc
gặp Vỹ, đòi về ở với vợ chồng Cục, Vọng cũng không nuốt nổi. Bà cụ bảo:
"Hoá ra thằng Vỹ phải đi tù. Thế mà mẹ Khiêm nó giấu u bảo
chồng nó đi công tác nước ngoài. Khổ. Thằng Vỹ tội tình gì mà đến nông nỗi ấy?"
Trong những đứa con của mẹ, Vọng thấy mình là đứa bất hiếu. Bỏ mẹ biền biệt mấy
chục năm trời. Anh cố níu kéo mẹ nán lại vài năm để được phụng dưỡng…
Đêm ấy, khi Thới đi rồi, Vọng vội vã thu xếp quần áo, đồ đạc.
Anh xuống nhà xe, moi hết số vàng, đá quý còn giấu trong hộp dầu nhờn san ra
làm hai, một gói mang đi phòng thân, một gói để lại, kèm mấy chữ viết cho Cục.
Còn gì nữa nhỉ? Ngôi nhà, làm sao mang theo được? Vọng tin,
sau khi Vọng đi, mẹ sẽ gọi các anh Khôi, Vỹ, Cục vào tìm cách quản ngôi nhà.
Hào và Xoan sẽ tìm cách giúp bà cụ. Vả lại, đã đến cái bước đường cùng này thì
còn tiếc cái gì? Cuộc đi này Vọng chấp năm ăn năm thua. Mất thì làm mồi cho cá
biển. Được thì sang gặp Miên và hai con Vân, Vy.
Vọng rón rén vào phòng bà Cử Phúc. Trong ánh sáng vàng mờ của
ngọn đèn ngủ, bà cụ nằm như một con mèo hen, quay mặt vào tường, chiếc mền chăn
đắp ngang người. Lặng lẽ ngắm nhìn mẹ, môi cắn chặt cho khỏi bật khóc, Vọng quỳ
vái sống mẹ ba vái.
- Làm gì mà lục đục cả đêm thế con? - Hoá ra bà Cử Phúc vẫn
thức, bà trở mình nói với Vọng - Đi ngủ đi. Mai còn đến cơ quan chứ.
Chi một câu nói của mẹ, đủ làm cho Vọng không thể bước đi được
nữa.
Anh có ngờ đâu, chuyến vượt biển ấy của vợ chồng con cái Thới
lại rất suôn sẻ. Chỉ hơn bốn tháng sau họ đã đặt chân tới nước Mỹ.
°°°
Thư của Vân và Vy như xát muối vào lòng Vọng.
"Ba ơi, chúng con không thể viết dài. Vì cứ định viết
thư cho ba là cả hai chị em cùng oà khóc. Hai chị em con viết chung gửi ba mấy
dòng này thôi. Khi nào gặp ba chúng con sẽ kể biết bao nhiêu là chuyện.
Ba ơi, ba có còn yêu chúng con không? Ba có nhớ chúng con
không? Bác Thới báo tin ba không sang, chúng con muốn ngất xỉu. Vậy là Ba đã
quên chúng con rồi. Những đứa con gái tội nghiệp trên đất khách quê người, thiếu
quê hương, thiếu Tổ quốc giờ lại thiếu người cha mà chúng hằng yêu kính. Nước Mỹ
của hợp chủng quốc, nhưng không có chỗ cho những đứa con Việt tha hương.
Sao chúng con thấy nhớ Sài Gòn, nhớ quê hương đất Việt
vô cùng. Nhớ những hàng me dọc phố Nguyễn Du, những hàng sao, hàng dầu cao vút
dọc đường Duy Tân, Pétrus Ký…
Mùa thu ở bên này tuyệt đẹp. Nhưng vẫn không sao quên được
mùa mưa Sài Gòn. Những con đường láng ướt hàng cây sau mưa và quán crem ông Già
ở đầu đường Tự Do… Có những ngày chúng con lang thang ở công viên trung tâm New
Orleans và cố đi tìm bước chân ba từng đến đây tu nghiệp cái năm ba sắp cưới mẹ…
New Orleans quả là thành phố du lịch tuyệt vời như ba đã kể. Ba ơi, khi nào ba
sang, cho chúng con đi chơi hồ Michigan ba nhé…"
Lá thư chỉ hai trang giấy nhưng Vọng phải ngừng nghỉ mấy lần.
Anh đâu có ngờ một ngày nào đó các con anh lại đi tìm dấu vết những kỷ niệm về
nước Mỹ mà anh từng kể cho các con nghe để khích lệ hoài bão học tập của chúng.
Duyên nghiệp chăng khi vùng đất của các bang Louisiana, Iowa, Indiana… xa xôi
bên kia bán cầu, mà Vọng tưởng chỉ đi qua, như một bài học địa dư, nay lại là mảnh
đất nương thân của bao người ruột thịt? Ngày ấy, lần đầu tiên đặt chân tới thủ
đô nước Mỹ, Vọng không thấy choáng ngợp, mà chỉ thấy sợ cái giá lạnh buốt giá,
tuyết trắng xoá ngoài công viên, tuyết đen nhớp nhúa trên các đường phố. Chỉ đến
khi tới hồ Michigan mùa băng tuyết, anh mới thấy hết vẻ hùng vĩ của Hợp Chúng
quốc Hoa Kỳ. Lần ấy, sau một tuần ở thủ đô để học khoá hướng dẫn, trên đường từ
Washington DC về Louisiana, máy bay dừng ở Chicago ba giờ. Đó là khoảng thời
gian thật tuyệt vời. Lợi dụng cơ hội có một không hai, Vọng đáp xe buýt, đi
thăm hồ Michigan để thưởng lãm những mảnh băng tan lềnh bềnh, như những toà lâu
đài khổng lồ, đủ loại hình khối kỳ dị lừng lững trôi trên mặt hồ dậy sóng.
Riêng New Orleans thì quả là thiên đường của những người ham
xê dịch. Vọng đã được tham gia một tour du lịch ba ngày nhớ đời. Ngày đầu đi
thăm cầu Pontchartrain 24 dặm, dài nhất thế giới, rồi cầu xe lửa Huey B. Long
cao nhất thế giới, sân vận động có mái che (Superdome) 100.000 chỗ ngồi, rộng
nhất thế giới. Ngày thứ hai đi thăm French Quàrter, ngồi xe điện đường St.
Charles ngắm những biệt thự kiến trúc theo kiểu Pháp xen giữa những cây sồi
xanh um. Và ngày thứ ba, một tour độc đáo: đi swamp (du lịch đồng lầy) và công
viên quốc gia lịch sử Jean Laflĩtte. Ngồi trên tàu đáy bằng du khách tha hồ xem
cá sấu như thời hồng hoang… Cái vùng đất bang Louisiana, nơi mà Vọng đã thực tập
hai tháng trời, nơi anh đã học hỏi được nhiều điều bổ ích cho công việc cầu đường
của anh, có cấu tạo địa chất thuỷ văn tương tự như đồng bằng sông Cửu Long quê
mình. Không ngờ vùng đất ấy đang là nơi dung thân, nơi dồn tụ của hàng vạn gia
đình người Việt, nơi Miên và các con anh đang sống trong nỗi khắc khoải đợi chờ…
Nước Mỹ bên kia đại dương, từng xa lạ và thù hận, giờ hằng
ngày lởn vởn trong đầu Vọng, mờ ảo trong cả bữa ăn, giấc ngủ. Vọng không giấu
được nỗi nhớ vợ con đến vật vã, cồn cào. Cả Xoan, cả Khuất Sỹ Hào đều biết rõ
điều đó, khi họ dễ dàng đọc được những lá thư từ nước Mỹ chữ đã nhòe mờ thỉnh
thoảng Vọng lại mở ra xem, rồi để đâu đó không cần che giấu.
- Em biết là anh Vọng không thể quên được chị Miên - Đó là
câu nói nửa như trách móc, nửa như có phần tự bào chữa của Xoan, trong cái đêm
chị ngủ lại trông bà Cử Phúc bị trúng cảm.
Từ ngày vào Sài Gòn, Xoan là bạn tâm giao của bà Cử Phúc. Chị
hợp tính bà, biết chiều chuộng người già, lại xởi lởi hay chuyện. Đặc biệt,
Xoan giúp bà cụ nhớ về quê Bắc nhờ những làn điệu chèo quyến rũ mê hồn. Bà Cử
Phúc nhận Xoan là con, xưng u, và không giấu giếm mong muốn Xoan là con dâu bà.
- Con làm cho nó đừng có nhớ nhung sầu não nữa. Cố mà giữ nó ở
lại cho u. Trông nó khô khan thế, chứ chẳng phải gỗ đá gì đâu. Khổ, cũng là cảnh
nửa đời nửa đoạn. Đàn ông mới qua tuổi bốn mươi mà đã phải diệt dục. Thà là chết
vợ nó đi một nhẽ… Trông nó suốt ngày ủ dột, u chẳng còn lòng dạ nào…
- Con cũng thương anh Vọng. Nhưng anh ấy cứ như thầy chùa -
Xoan nói.
- Thì thế nên u mới muốn con năng đến. Mưa dầm thấm lâu nước
chảy đá mòn con ạ…
Bà Cử Phúc tìm mọi cớ rủ Xoan đến chơi, rủ Xoan ngủ lại. Những
món ăn truyền thống xứ Bắc: Canh riêu cua ăn với rau ghém, cà muối xổi canh cá
rô rau cải xanh; canh ốc nấu với chuối xanh, đậu phụ và thịt ba chỉ; canh cá
trê dưa chua; thịt kho tàu; xôi vò ăn với chè hạt sen… gợi vơi đi nỗi nhớ quê
nhà.
Hôm ấy, Sài Gòn nóng tới bốn mươi độ C. Trong phòng có máy điều
hoà, nhưng bà Cử Phúc không quen dùng. Vật bất li thân của bà là chiếc quạt giấy.
Thấy mẹ vật vã trong cái nóng, Vọng mở cả điều hoà và quạt. Nào ngờ buổi tối bà
cụ trúng cảm lạnh. Một mình Vọng không biết xoay xở ra sao. Bà Cử Phúc bắt Vọng
gọi điện cho Xoan đến. Chị đi tìm lá ngải cứu đánh gió, nấu cháo hành cho bà cụ
ăn. Nửa đêm thì cơn sốt dịu, bà cụ chợp được một giấc sâu.
Xoan vào nhà tắm dội nước ào ào. Nhìn da thịt mình ngồn ngộn
trong gương, Xoan thấy phấn khích, muốn được ve vuốt, được vỗ về. Chị lim dim mắt
nghĩ đến Vọng và Hào. Thật quá trớ trêu với cái trò mỹ nhân kế mà Khuất Sỹ Hào
đã bày đặt.
Hào tưởng chơi trò trận giả, tự cho mình cái vai trò Trọng
Thuỷ để bắt nàng Mỹ Châu, là Xoan, ăn cắp nỏ thần, tưởng lịch sử luôn lặp lại,
Xoan mãi mãi là người của anh ta, nào ngờ gậy ông giờ lại đập lưng ông…
Ngẫm ra Khuất Sỹ Hào quả là người khôn ngoan, có óc nhìn xa
trông rộng. Khi phát hiện ra ngôi biệt thự của Vọng là một món mồi rất béo bở,
nếu Vọng đi tản, Hào đã bàn cách dùng kế mỹ nhân để gài Xoan vào làm nội gián.
"Em phải cưa bằng đổ ông Vọng. Với sắc đẹp của em, đến thép cũng phải chảy"
- Hào giao nhiệm vụ cho Xoan. Tất cả mọi nỗ lực, động thái Hào giúp Vọng việc
này, việc kia đều chỉ xoay quanh mục tiêu ngôi biệt thự. Bây giờ thì cả Xoan, cả
Khuất Sỹ Hào đều trở thành người thân thiết của Vọng, của bà Cử Phúc. Thậm chí,
trong thời gian Hào giúp bà Cử Phúc nhập hộ khẩu, anh ta cũng đã thuyết phục Vọng
cho cả Xoan cùng nhập vào. Mọi đường đi nước bước đã được Hào tính toán chi ly.
Chỉ chờ giờ G nữa thôi. "Mà giờ G trước sau cũng đến - Hào nói toạc với
Xoan, khi biết tin mẹ con Miên đã sang Mỹ an toàn và gửi thư về - Anh biết, trước
sau thì Vọng cũng phắn. Thứ nhất, Vọng là người chân chỉ hạt bột, đời chỉ biết
phụng sự vợ con. Cái chất kẻ sỹ Bắc Hà, tôn thờ đạo Khổng trong Vọng rất rõ. Suốt
đời Vọng chỉ mong là một công chức mẫn cán, mong một gia đình yên ấm, chung thuỷ
đạo vợ chồng. Thứ hai, một trí thức như anh ta, từng làm đến chức Trưởng Ty
Giao thông Công chánh, từng có bằng kỹ sư đặc hạng, tiếng Anh tiếng Pháp làu
làu sách khoa học viết hàng chồng. Viết báo cáo tổng kết đến Cục trưởng, Bộ trưởng
cũng phải kính nể, giờ đang là nhân viên quèn, lương cán sự hai, tương đương mấy
chục bát phở.
Một người như vậy làm sao mà chịu được cung cách quản lý và
trình độ khoa học của các quan chức cộng sản? Hai ý thức hệ tư tưởng, hai thể
chế, hai cung cách… tất tật đều đối chọi nhau, loại trừ nhau. Hết chiến tranh
ùng oàng súng đạn là cuộc chiến tranh về ý thức hệ, về đường lối phát triển
kinh tế, văn hoá xã hội. Dẫu có là tướng sĩ tượng thì ông Vọng cũng đành thúc
thủ vì những quân tốt đỏ đã áp sát. Thế cờ giờ chỉ còn là những nước đi ngang
phè của những quân tốt. Cho nên, "Liệu mà cao chạy xa bay. Ái ân ta có ngần
này mà thôi… Nếu là anh, dù có bỏ mạng cho cá rỉa ngoài đại dương, anh cũng
good bye".
Khuất Sỹ Hào quả là đã nhìn thấu suốt tim gan Vọng. Nhưng, trớ
trêu, càng tiếp xúc, gần gũi với Vọng, Xoan càng thấy bị cảm hoá, càng thấy giữa
Vọng và Hào khác nhau một trời một vực. Hào chỉ là một tay dẻo mỏ, cơ hội tầm
thường, còn Vọng thực sự là một nhân cách… Những ngày gần đây, nhiều lúc trông
Vọng như người mất hồn. Xoan thấy thương anh. Giá mà bù đắp được cho Vọng! Ước
gì Xoan giúp bà Cử Phúc giữ Vọng lại! Người như Vọng rất cần cho đất nước, rất
có ích cho mọi người. Vọng bỏ nước ra đi thì tiếc biết bao…
Vọng choáng váng khi Xoan trong bộ đồ ngủ, cùng mùi sữa tắm
White Care ngào ngạt vào phòng.
- Khó ngủ quá. Cho em nhờ quạt với.
Xoan nói và chiếu những tia mắt nồng nàn qua hàng mi rợp, khiến
Vọng bối rối.
Vọng không dám nhìn lâu. Nhưng cái khoảng trắng ngần với một
đường sâu hun hút của bộ ngực căng mọng phập phong, chỉ thoáng qua cũng đủ ám ảnh,
làm rối trí. Đâu óc Vọng bỗng chao đảo, như người say rượu.
Từ hồi Miên đi, đêm nào Vọng cũng đọc kinh trước Chúa, ngày
nào cũng tự sám hối. Cuộc sám hối mới nhất, cách đây chừng vài tháng. Ấy là cuộc
tình đơn phương của Út Thương, em gái Ba Thi, bạn học của Miên. Cả nhà bỏ đi
trong đợt 30 tháng Tư. Một mình Út Thương ở lại chăm ba đau ốm, không kịp di tản.
Rồi ba Thương cũng phải đi trại cải tạo Giá Rai, Long Khánh. Thấy hoàn cảnh Út
neo đơn, thỉnh thoảng Vọng lại đưa cô lên thăm nuôi ba. Không ngờ Út thương Vọng
từ lúc nào. Có lần xe chạy qua rừng cao su tối mịt mùng, Út cứ ôm nết lấy Vọng,
gục mặt lên vai anh mà khóc. "Anh Tư có thương em không? Hồi chị Miên ở
nhà em giấu kín. Bây giờ chị đi em mới dám nói! Trời ơi, hoá ra Thương nói thật.
Thương từ chối bao nhiêu người đàn ông ngưỡng vọng cô. Thương
bảo, em chỉ nghĩ đến anh thôi. Đến chỗ đường ngoặt, Thương ôm ghì lấy Vọng, bảo
anh dừng xe, hai đứa tạt vào lô cao su. Chỉ cần dừng xe, chỉ cần lẫn vào mịt
mùng cao su kia, Vọng sẽ không giữ nồi, sẽ không còn là của Miên nữa. Vọng đành
nói thật với Út Thương cái ý định anh sẽ vượt biên. Anh muốn giữ mình trọn vẹn
cho tới lúc gặp Miên… Út Thương khóc oà, nhất định không chịu ngồi xe với Vọng.
Cô đòi anh đón một chiếc xe khách chở cô về thành phố.
Bây giờ, người vừa vào phòng anh là một Út Thương khác. Đã
bao nhiêu lần Vọng phải lẩn tránh cái nhìn hút hồn của Xoan. Xoan luôn như miếng
mỡ ngon lành, còn anh nhiều khi không giấu được bản tính của một chú mèo.
- Anh Vọng hứa mấy lần rồi mà không chịu nhớ - Xoan đến bên
bàn, nơi Vọng đang dịch một tài liệu tiếng Anh.
- Tôi hứa gì nhỉ?
- Biết ngay mà. Còn đầu óc đâu để nghĩ đến em?
Xoan đứng sát sau ghế, người hơi cúi xuống Vọng. Anh cảm nhận
rất rõ những sợi tóc mai, hơi thở nồng nàn của cô đang phả vào gáy, còn cặp tuyết
lê như chùm trái chín đang đung đưa sau vai anh, có lúc chạm vào da thịt anh,
nóng bỏng.
- Không nhớ ra à? Em nhắc lại nhé: Dạy-em-tiếng-anh. Tiếng-của-anh.
Xoan cười, tiếng trong và ngân, như tiếng chuông gió. Rồi bất
ngờ vòng tay ngà ngọc quàng qua ngực Vọng.
- Em đố anh nhé. Love You tiếng Anh là gì?
Vòng tay và khuôn ngực Xoan khiến Vọng như ngợp thở.
Anh bối rối xoay chiếc ghế. Cả gương mặt nóng bừng của anh đỡ
gọn hai bầu vú Xoan lúc này đã thoát khỏi hai vạt áo ngủ, như hai trái đào tiên
trĩu nặng. Quá choáng ngợp, cùng với ham muốn bản năng bị kìm nén lâu ngày, Vọng
cuống cuồng luồn tay ôm lấy vòng eo người đàn bà xiết mạnh.
- Ối em chết mất - Tiếng rên khẽ của Xoan, chứng tỏ nàng đang
bị kích thích mạnh.
Xoan đỡ Vọng lên, giúp anh dịch đến bên giường.
Giá như Xoan không vươn tay tắt đèn, giá như cô không có cái
bản năng e thẹn, sợ ánh sáng quá mức trong các cuộc hoan lạc, chắc chắn tình thế
đã khác. Nhưng đúng vào lúc Xoan tắt đèn thì Vọng bừng tỉnh. Ngọn đèn trái hồng
trên ban thờ làm nổi hình cây thập tự và hình Chúa tuẫn nạn, khiến Vọng toát hết
mồ hôi.
- Xin lỗi, tôi đang làm gì thế này? - Vọng như nói với chính
mình và ngồi vục dậy.
Hết trò. Xoan buông xuôi hai tay như người chết đứng. Rồi như
không thể chịu nồi, cô bưng mặt, bật khóc, chạy ra khỏi phòng.
°°°
Có thư của Cục viết vào báo tin cháu Cách bị thương ở mặt trận
Campuchia, đang nằm điều trị ở bệnh viện Quân y 147.
Vọng, rồi cả bà Cử Phúc, cả Xoan cùng đến thăm. Hằng tuần
tranh thủ những ngày nghỉ, Vọng lại vào thăm, tiếp tế thêm thuốc bổ và thức ăn
cho cháu.
Vết thương của Cách ở phần mềm, đạn xiên táo từ vai, qua ổ ngực,
xé nát cánh tay phải. Theo các bác sĩ, với sức trẻ như Cách, chỉ cần bốn tháng,
vết thương sẽ lành, lại có thể trở lại chiến trường.
Cục viết thư cho Vọng:
"Em nghe binh tình, mặt trận K không biết đến khi nào mới
xong. Nghe ông tướng thông gia với nhà bác Lợi nói, quân mình thương vong nhiều
vì thiếu lương thực, đạn dược, lại không nắm được dân. Mình ở trong nhà họ,
đóng quân gần nhà họ, ban ngày họ hợp tác với mình, nhưng tối họ lại ra rừng tiếp
tế cho quân Khơme đỏ, cầm súng bắn mình. Cháu Cách bị thương là do bị bắn lén
phía sau. Chơi với chiến tranh du kích của họ, mình không thắng được. May mà
cháu Cách bị thương, coi như thoát chết. Em nhờ bác, quan hệ với bệnh viện cho
cháu Cách nó cái giấy thương binh nặng để cháu về quê. Thằng Công, thằng Cài,
hai anh nó đã mất xác ở Trường Sơn rồi, giờ còn một giọt máu của Bính… Cháu
Cách mà mệnh hệ nào, em làm sao sống nổi?"
Cuộc chiến Campuchia ác liệt thế nào thì Vọng quá biết. Anh
đã được phân công trong ban kỹ thuật tái thiết cầu Gò Dầu Hạ trên quốc lộ 20 để
mở đường cho xe tăng ta tiến vào Phnômpênh. Hầu như toàn bộ vũ khí tối tân hiện
đại của phe ta, cộng thêm vũ khí hiện đại của Mỹ ta thu được đều đem sang chiến
trường Campuchia, nhưng xem ra chúng ta đang đấm vào bị bông, chúng ta đang
đánh nhau với những bóng ma.
Lá thư của Cục, làm Vọng rất khó nghĩ. Nếu là tiền bạc thì dù
thế nào anh vẫn lo được. Nhưng đây lại là cái giấy chứng thương. Sức khoẻ thằng
Cách thế nào, nó bày ra bệnh án cả. Làm sao công biến thành quạ được?
Bí quá, Vọng đành nói với Khuất Sỹ Hào.
- Cháu nó đang ở bệnh viện 147 phải không? - Hào chau mày suy
nghĩ một lát rồi gật gù - Em có cách rồi. Cô Xoan có người anh họ là bác sĩ ngoại
ở đó. Vấn đề là… - Hào bật ngón tay cái vào ngón giữa tanh tách.
- Cái đó để tôi lo - Vọng dúi vào tay Hào ba lá vàng Kim
Thành - Nếu thiếu thì tôi lo tiếp.
Ngày Cách sắp ra viện, Vọng viết thư báo tin cho Cục bảo Cục
vào đón con về phép. Vọng sẽ tài trợ toàn bộ vé tàu xe của cả hai bố con.
Chuyến hành phương nam của Cục, không ngờ lại là một cuộc đại
đoàn viên của chi họ Nguyễn Kỳ tại Sài Gòn.
Nếu như buổi giỗ ông Lý Phúc và cuộc nhận cha ở nhà ông Lợi
chỉ thiếu bà Cử Phúc và Vọng thì cuộc đoàn viên này chỉ thiếu vợ chồng con cái
Vỹ.
Cục vào được mấy ngày, thì vợ chồng ông Lợi cùng con gái Chiến
Huyền Ly cũng đáp máy bay vào thành phố. Hiếm có một cuộc trùng hợp thế này, vì
ông Lợi phụ trách công tác cải tạo công thương nghiệp đợt hai, đáp máy bay ra
vào như cơm bữa. Nhưng bà Là phải thu xếp phép năm. Với lại cũng chọn dịp nghỉ
lễ mới cho con gái Chiến Huyền Ly theo cùng.
Ngôi biệt thự suốt mấy năm đìu hiu, giờ bỗng tưng bừng như mở
hội. Mẹ con Là được xếp ở căn phòng cũ của Miên trên lầu một, nên từ ngày vợ đi
di tản, Vọng ít khi lui tới, vì không muốn chạm đến những kỷ niệm xưa. Ông Lợi ở
và làm việc tại nhà khách thành phố, buổi tối và ngày chủ nhật thường đến ăn
cơm với cả nhà. Vẫn một phong cách trầm mặc, lạnh lùng của nhà chính trị, ông Lợi
thường hay trầm ngâm đứng trên ban công lầu hai nhìn khắp khu vườn, rồi phóng tầm
mắt qua những nóc phố, nghĩ ngợi. Là có vẻ cũng chia sẻ ý nghĩ với chồng. Chị
thích thú đặc biệt với ngôi biệt thự, vì cách xây dựng và bài trí hiện đại.
- Vợ chồng chú Vọng ngày trước sống sướng hơn cả Bộ trưởng ấy
bà ạ - Là thì thào với bà Cử Phúc - Ngôi biệt thự này to gấp hai nhà con. Riêng
cái nhà xe của chú ấy cũng đủ cho một hộ năm người.
- Chẳng có đâu bằng quê mình - Bà Cử Phúc chép miệng - Đợt
này tôi nhất quyết theo bố con thằng Cách về quê. Nhà cửa bố Vọng nhờ cô Xoan
trông nom.
- Bà bảo định tác thành cô ấy cho chú Vọng phải không? Con thấy
được đấy. Bà dặn chú ấy đừng có di tản di tong gì hết. Sang Mỹ cũng chỉ ăn cơm
thừa sữa cặn, làm nô lệ cho Đế quốc sài lang. Nhà con bảo, Liên Xô, Đông Đức với
các nước bạn phe mình đang sắp hoàn thành giai đoạn xây dựng Chủ nghĩa xã hội
phát triển. Rồi cả phe người ta xúm vào kéo mình lên vù vù ấy chứ. Nhà con bảo,
con đường ai thắng ai sắp ngã ngũ rồi. Đế quốc Mỹ trước sau vẫn là con hổ giấy.
Để con khuyên chú ấy. Cứ để mẹ con thím Miên ở bên ấy. Cưới ngay cô Xoan thì
còn kịp đẻ một thằng cu.
Bà Cử Phúc nói thầm với Cách:
- Bà cứ chuẩn bị quần áo đồ đạc trước. Nếu bác Vọng không cho
bà về với bố con mày, bà sẽ trốn…
Cách đã ra viện, được về với người thân, như chim sổ lồng suốt
ngày rủ chị Ly lai bố Cục, mẹ Là đi chơi khắp Sài Gòn.
Cách béo trắng, như chưa hề qua những ngày thập tử nhất sinh,
chưa hề nếm mùi lửa đạn. Giấy chứng thương của cậu ghi mất 34 phần trăm sức khoẻ,
nếu đối chiếu thang bậc, thượng sĩ Nguyễn Kỳ Cách sẽ được xếp hạng thương binh
loại ba.
Cầm hồ sơ xuất viện, Cục gật gù:
- Thế này thì ổn rồi. Cái gáo của thằng Cách chắc trên cổ còn
hơn cả bê tông cốt thép. Chuyến này về, em phải cưới vợ cho nó. Bác Vọng thế
nào cũng phải ra.
Vọng không nói gì, chỉ gật đầu ra hiệu.
Cục làm sao biết được để có cái giấy chứng thương kia Vọng đã
phải đưa cho Khuất Sỹ Hào hai cây vàng Kim Thành.
Cục càng không thể biết rằng, không cần đợi đến đám cưới
Cách, chỉ sau khi đưa bà Cử Phúc, mẹ con chị Là và bố con Cục về Bắc, Vọng sẽ
ra đi vĩnh viễn. Có thể sẽ không bao giờ gặp lại…
°°°
Kế hoạch vượt biên đã được Vọng ngấm ngầm chuẩn bị từ hai tuần
nay.
Đầu mối và đường dây, không phải ai xa lạ, chính là Khuất Sỹ
Hào.
Câu chuyện bắt đầu từ sau cái hôm Hào thông báo cho Vọng hay
tin lãnh đạo Cục đã quyết định cử anh đi Campuchia làm cố vấn. Đây là một thử
thách lòng trung thành với chế độ. Không phải ở thủ đô Phnompênh mà về các tỉnh,
các vùng chiến sự ác liệt. Hơn bất cứ ngành nào, cầu đường và y tế là hai ngành
luôn ở sát mặt trận, bên cạnh người lính. Vì thế mức độ ác liệt sẽ vô cùng.
- Anh hãy suy nghĩ kỹ đi - Hào nói - Rất thương anh, em mới
báo tin này. Chỉ còn chờ ý kiến họp liên tịch. Vì người ta chưa tin anh, sợ anh
sang bên đó rồi chuồn qua Mỹ.
- Tôi cũng chẳng biết phải làm gì để họ tin mình…
Hào nhìn Vọng rất lâu như thăm dò, cân nhắc điều gì, rồi đột
ngột hạ giọng:
- Sang đó cũng cầm bằng đi vào chỗ chết. Chín đi chỉ có một về.
Quân Khơme Đỏ mới được quan thầy trang bị cho loại súng bắn tia hồng ngoại,
trăm phát trăm trúng. Chúng toàn bắn tỉa vào ban đêm. Anh cân nhắc kỹ đi. Đi
Cămpuchia hay ở lại, với anh, đều bị dồn vào tử địa. Em biết đã đến lúc anh ói
mửa ra rồi. Chính quyền cộng sản không xực nổi anh. Và anh cũng không xực được
họ. Trong trường hợp này, binh pháp Tôn Tử xếp vào kế sách thứ ba mươi sáu:
"Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách". Ba mươi sáu chước, chước chuồn
là hơn.
Vọng giật mình. Hào nhắc lại đúng câu Võ An Thới nói với anh
trước ngày di tản.
- Chú bảo chuồn đi đâu?
- Ông anh đừng giấu thằng em. Mình ông anh ở nước Ngô, nhưng
đầu ông anh lúc nào cũng ở nước Sở. Ngày nào mà anh chẳng cầu Chúa để mong
chóng được sang với mẹ con chị Miên.
- Chết. Sao chú biết?
- Ông anh hơi coi thường Sỹ Hào này. Biết là ông anh còn chưa
tin nên thằng em chưa tiện nói. Giờ em hỏi thẳng anh nhé. Có đường dây bán công
khai chịu trách nhiệm toàn bộ từ A tới Z, khi nào chuyến đi trót lọt mới lấy tiền,
anh có ưng không?
Gần đây Vọng có nghe nói về đường dây di tản bán công khai,
thực chất là những tổ chức làm tiền do một số phần tử trong bộ máy chính quyền…
thoái hoá biến chất, đứng ra bảo kê và làm dịch vụ đưa người vượt biên. Đi theo
đường dây này, chắc chắn sẽ lọt qua phao số không. Từ hải phận quốc tế, tuỳ thuộc
vào định mệnh. Nếu tàu không đắm vì bão tố, không bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp,
giết chóc, may ra tới được miền đất hứa.
- Tôi tin ở chú. Nếu chú thu xếp được…
- Phải chắc như đinh đóng cột, thằng em mới nói với ông anh.
- Vậy nhờ chú thu xếp cho tôi một suất. Hết bao nhiêu?
- Giúp cho ông anh đi được là em mừng, chứ tiền nong không
thành vấn đề. Nhưng sao chỉ một suất? Thế còn bà cụ?
- Làm sao mà đưa u tôi đi được? Tạm thời bà cụ sẽ ở lại với
cháu Cách. Rồi Cách sẽ đưa u tôi về Bắc.
- Tốt rồi - Hào gật gù - Em sẽ bảo cô Xoan đến trông nom bà cụ.
Anh cho em dự kiến thời gian đi, để em bố trí.
Kế hoạch được nhanh chóng hoàn tất. Chi phí cho cả chuyến đi
hết hai mươi cây vàng ba sọc. Nhưng Hào sẽ chỉ lấy trước năm cây, mười lăm cây
còn lại sẽ được thay vào giấy tờ thế chấp ngôi biệt thự của Vọng. Nếu cuộc đi bị
trục trặc hoặc Vọng bị bắt lại, Hào sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền, vàng và mọi giấy
tờ
Lịch trình cho chuyến vượt biên đã được gút lại vào giờ chót:
Vọng phải có mặt tại bến Cửa Cạn, thành phố Vũng Tàu lúc 0 giờ ngày X. Quá giờ
quy định, coi như Vọng tự huỷ chuyến đi, phía tổ chức không chịu trách nhiệm.
0 giờ ngày X, tức là 24 giờ ngày Y, ngày bà Cử Phúc và bố con
Cục lên tàu ở ga Bình Triệu, lên đường ra Bắc.
Trái với dự đoán của bà Cử Phúc, Vọng dễ dàng đồng ý để mẹ về
quê.
- U không muốn ở, con cũng không dám giữ. Số con chỉ được phụng
dưỡng u ngần ấy ngày.
- U đã nói với cô Xoan rồi. Con đồng ý để cô ấy đến ở trông
nom nhà cửa cho con nhé. Nhớ nghe lời u. Có thế u về quê mới yên lòng.
Vọng gật đầu không nói gì.
Anh gọi hai bố con Cục vào phòng, đóng chặt cửa lại, rồi lấy
ra một gói đã được chằng buộc rất kỹ.
Gói này bác giao cho thằng Cách giữ. Để trong ba lô và trông
nom kỹ không được để mất cắp trên tàu. Đây là nhiệm vụ không kém gì sứ mạng một
người lính. Trong gói này có thư chuyển cho bác Vỹ và mọi người. Chú Cục sẽ trực
tiếp mở và làm theo lời tôi dặn. Tôi nhắc lại: Tuyệt đối không được mở thư trên
tàu hoặc dọc đường. Chỉ mở thư khi đã về tới nhà. Chú Cục và cháu Cách đã nghe
rõ chưa?
Cục cùng con trai khoanh hai tay:
- Dạ, bố con em sẽ làm đúng như lời bác dặn.
Vọng xếp gói đồ vào đáy ba lô của Cách.
Trước giờ tàu chạy, Vọng thuê xe taxi. Đích thân anh đưa mẹ
và bố con Cục ra ga Bình Triệu.
Đó là một cuộc chia ly đẫm nước mắt. Một buổi sáng nắng loá
và oi bức đến ngột ngạt. Nắng đến mức những chùm hoa giấy chói gắt và những vầng
phượng vĩ như lửa, không ai dám nhìn.
Tiếng còi tàu hú dài nghe thê lương như tiếng kêu vĩnh biệt.
Con tàu đi khuất mà Vọng vẫn đứng giữa sân ga như người mất hồn.
Lát sau, Vọng như bừng tỉnh. Anh chắp tay vái dài về phương Bắc,
rồi vội vã khoác túi du lịch, hành trang của kẻ vượt biển, lên vai.
Một chiếc taxi trườn tới. Vọng tự mở cửa xe và bảo người tài
xế chạy thẳng Vũng Tàu.
Còn mười lăm tiếng nữa.
Thời gian đủ cho anh có mặt ở nơi tập kết.
Ngày mai, Vọng phó mặc cuộc đời mình cho mù mịt đại dương.
Chương 25
vàng và giấy
Con Cục đưa bà Cử Phúc về quê rồi mà mấy hôm sau vẫn chưa kịp
hoàn hồn vì chuyến tàu khủng khiếp.
Con tàu Thống Nhất phải dừng lại ga Mường Mán một ngày vì tàu
vào trật bánh ở gần ga Diêu Trì, gây ùn tắc cả tuyến. Như cuộc trường chinh
không mệt mỏi, những chuyến tàu ra vẫn kìn kìn chở gạo, hoa quả, vải vóc, nước
mắm, bột ngọt, khung xe đạp, hàng điện tử phế thải và búp bê… Ba chuyến tàu ra
nối đuôi nhau chờ đợi suốt từ Nha Trang vào đến Phan Thiết. Sự nghèo khổ, thiếu
thốn của nửa nước phía bắc không giấu giếm nổi trên tuyến đường sắt xuyên Việt.
Sân ga Mường Mán trở thành một bãi phóng uế khổng lồ, một cái
chợ tạm vĩ đại với đủ loại dịch vụ từ ăn uống, tắm rửa, trao đổi, buôn bán, chửi
bới, cãi lộn. Trẻ con kêu khóc như ri. Đủ thứ rác rưởi, giấy báo, đồ lót vứt đầy
sân ga, đường ray. Nước đái dềnh lên từng vũng. Phân người vung vãi khắp nơi.
Mùi dơ dáy phải đào thải của cả ngàn con người dồn tụ trong một không gian tù
hãm chật hẹp… Bà Cử Phúc mấy lần suýt ngất xỉu vì khát, vì cố nhịn không dám đại
tiểu tiện, cuối cùng không đừng được, đã phịch hết ra quần. Bố con Cục vừa phải
giải quyết hậu quả, vừa phân công nhau canh chiếc ba lô, hai đêm liền không dám
ngủ. Nhiều người réo trưởng tàu, réo lãnh đạo đường sắt chửi rủa thậm tệ. Có
ông chửi thề: "Đ. mẹ. Tàu Thống Nhất đéo gì. Ông mà còn đi con tàu này nữa
thì ông chỉ là con chó".
Về đến Hà Nội mới biết mình vẫn còn là người. Trong thời gian
ở chơi ba ngày với vợ chồng bác Vỹ, mấy lần Cách năn nỉ nói với bố được mở gói
bọc của bác Vọng, nhưng Cục không nghe. Chỉ đến khi về đến nhà, hai bố con mới
vào buồng, đóng chặt cửa, rồi hệt như cha con Quan Công thời Tam quốc, đến Phàn
Thành mới mở bọc hồ lô của Khổng Minh xem Gia Cát Lượng dặn gì.
Hai bố con cùng toá hết mồ hôi. Những lá vàng hình chữ nhật
nhỏ chừng bao diêm, chói loá, tưởng như trong mơ.
Cách thì thào:
- Hồi bên Cămpuchia, con cũng thấy anh trung đội trưởng đơn vị
có những miếng vàng lá thế này. Anh ấy lấy trong ruột tượng Phật ở một ngôi
chùa. Hôm sau anh ấy lại vào một ngôi chùa khác, nhưng không thấy ra. Nghe nói
bọn Khơme Đỏ đã chặt đầu anh, lấy lại số vàng. Người ta bảo, nhặt được vàng là
độc lắm.
- Vàng này khác. Đây là mồ hôi nước mắt của bác Vọng. Cả đời
bác Vọng chỉ biết học hành, đỗ đạt. Người tài như bác Vọng trong ngành giao
thông cầu đường nước ta chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ngày trước, lương một tháng
của bác ấy hàng chục cây vàng. Một vài năm là đủ sắm xe hơi nhà lầu. Con đọc
thư xem bác Vọng dặn thế nào.
Cục đưa cho Cách lá thư của Vọng kẹp giữa những lá vàng.
"U vô vàn kính yêu.
Các anh chị Khôi, Vỹ, chú thím Quặc và các cháu thương mến.
Khi u và đại gia đình ta đọc lá thư này, thì con trai của u,
đứa con bất hiếu, vong bàn của chi họ Nguyễn Kỳ, đang lênh đênh trên biển cả.
Biết đâu, đây là cuộc vĩnh biệt. Nếu số phận run rủi, có thể Vọng sẽ sống sót.
Bằng không thì coi như Vọng đã làm mồi cho cá biển. Và ngày ra đi sẽ là ngày giỗ".
Đọc mấy dòng, Cách đã cắn phải lưỡi đau điếng. Anh dừng lại gọi
với ra nhà ngoài:
- Bà ơi…
Nhưng Cục đã lấy tay bịt miệng con lại.
- Đừng. Bà không chịu nổi đâu. Phải giữ kín chuyện này. Con đọc
tiếp đi.
"Số vàng này do vợ chồng con mấy chục năm dành dụm. Nay
gửi u hai cây để u an dưỡng tuổi già. Con gửi ba gia đình anh Khôi, chị Là, anh
Vỹ chị Khiêm, chú Quặc thím Nhi, mỗi gia đình một cây. Riêng em Hậu một cây.
Còn lại, mẹ nói chú Cục giữ để chuộc lại phần đất và nhà của Nguyễn Kỳ
Viên mà các gia đình bần cố nông đã tịch thu hồi cải cách. Nếu vẫn còn tiền thì
xây mộ cho thầy và sửa sang lại nhà thờ chi họ Nguyễn Kỳ… "
°°°
Người đầu tiên không kịp hưởng số vàng của Vọng để lại là bà
Cử Phúc. Biết tin con trai vượt biên, bà bỏ ăn ba ngày, ốm liệt giường ba tuân,
rồi mất.
Đợi hết trăm ngày bà Cử Phúc, vợ chồng Cục mới đưa lá thư và
số vàng ra báo cáo với vợ chồng bác Lợi bác Vỹ.
Ông Lợi gạt phắt, không thèm nhận cây vàng Vọng gửi tặng. Việc
Vọng vượt biên là một cú đòn đau điếng giáng xuống sự nghiệp chính trị của Lợi.
Vừa thoát khỏi vụ đơn thư khiếu tố chuyện mẹ con bà Cam, Chu, giờ lại phải tường
trình báo cáo với Trung ương về Vọng. Có kẻ kiếm chuyện còn vu cho ông xui em
trai vượt biên để chiếm ngôi biệt thự. Có kẻ vu cho Vọng mang theo nhiều tài liệu
mật về hệ thống cầu đường miền Nam để bán cho Mỹ… Ông Lợi căm Vọng, nhiều đêm nằm
không ngủ, khí uất rực tràn ruột. Bà Cử mất, ông về cho phải phép, chứ ông đã
chán ngấy phải dính líu đến mấy ông con bà vợ hai của bố ông đến tận cổ.
Vỹ cầm lá vàng giơ lên ngắm nghía rất lâu, cái mặt phù thũng
đần ra, tựa như lần đầu trong đời ông nhìn thấy thứ kim loại kì lạ, rồi không
nói gì, đưa lại cho Cục.
- Vợ chồng chúng tôi coi như đã nhận - Khiêm hiểu được ý chồng,
diễn giải - Chú thím cầm lấy để xây mộ cho thầy u.
Cục nhìn cái đầu hói, mấy sợi tóc lơ phơ bết xuống trán khiến
khuôn mặt Vỹ vốn đã bung bủng vàng thêm bì bì một vẻ đần độn, nghĩ thương ông
anh trai đến thắt lòng. Hoàn cảnh gia đình Vỹ so với vợ chồng Cục, còn khó khăn
hơn nhiều. Vỹ không còn đủ sức làm việc, phải về chế độ một cục. Nghe nói cũng
là nhờ công bác Lợi với mấy nhà văn bạn bè, chứ diện chống đối, phản động, phải
đi cải tạo như Vỹ, không mất quyền công dân, lại được tính thâm niên công tác để
hưởng tiền về mất sức, là nhà nước quá ưu ái, nhân đạo. Lại nhớ cái hôm bố con
Cục đưa bà Cử Phúc từ Sài Gòn ra. Bà cụ Ba Yên đang ngồi gò tấm lưng còng xuống
cái mẹt bày dăm đôi dép nhựa, đáng giá nhất là đôi dép nhựa trắng Tiền Phong,
thấy có tiếng chân người, Cách lại mặc quân phục, bà cụ cứ tưởng công an thuế vụ
đuổi, liền quáng quàng vơ mấy đôi dép chạy, vấp ngã, máu me đầy mặt. Khổ, lưng
còng, tai điếc mà cụ Ba Yên vẫn tham công tiếc việc. Bà cụ có trợ cấp liệt sĩ của
cậu Khánh, nhưng thương vợ chồng Khiêm và hai đứa cháu, vẫn muốn buôn bán nhì
nhằng kiếm thêm đồng rau, quả trứng. Đến khi vào tới nhà, nhìn ông Vỹ đang nửa
nằm sấp, nửa quì lom khom trước một cái mông thâm xì, mụn ghẻ như hoa gấm của một
bệnh nhân trĩ, bà Cử bỗng khóc rống lên. Từ ngày Vỹ đi cải tạo về, bây giờ mẹ
con mới gặp nhau. Bà Cử ôm chầm lấy con trai, không thể nhận ra cái bộ mặt phù
thũng lơ phơ tóc, cái đôi mắt với đôi con ngươi bạc phếch đờ đẫn kia lại là cậu
hai Vỹ thông minh đĩnh ngộ của bà. "Ối con ơi, vì sao ra nông nỗi
này"? Tiếng kêu của bà Cử làm bố con Cục cũng khóc theo.
- Nhà em chỉ biết chuyển quà của bác Vọng - Nhi kiên quyết
dúi cây vàng vào tay Khiêm - Các bác không cầm, chúng em có tội với bác Vọng.
- Tôi với nhà tôi coi như đã nhận rồi. Đây là chúng tôi góp để
xây mộ thầy u với sửa sang nhà thờ - Khiêm còn kiên quyết hơn. Cái máu sỹ tiểu
tư sản trí thức của vợ chồng Khiêm làm sao Cục lay chuyển nổi.
- Đến chán cho vợ chồng hai ông anh - Nhi nói với Cục khi
cánh Hà Nội đã về - Chuyện gia đình mà các ông bà ấy cứ khoán trắng cho vợ chồng
mình. Đã thế để tôi lo. Tôi sẽ chuộc lại hết phần đất và nhà cũ của thầy u, còn
bao nhiêu đổi thành tiền gửi tiết kiệm. Đợi khi nào bác Vọng về, bác ấy khắc
xây!
- Bác Vọng làm mồi cho cá biển rồi - Cục nói như thở hắt ra.
- Phỉ phui cái mồm nhà ông. Ai bảo ông thế?
Cục vào lục ngăn tủ, lấy ra một tờ báo nhàu nát, đưa cho Nhi.
- Báo này bác Là mang về cho tôi đấy. Công an người ta gặp
bác Lợi xác nhận con tàu đăng trên báo là tàu vượt biên của bác Vọng. Đúng cái
hôm bố con tôi và bà kẹt tàu hoả ở ga Mường Mán. Thảo nào hôm ấy bà thì ngất,
miệng nôn trôn tháo, còn tôi thì máy mắt liên tục. Con tàu của bác Vọng vượt
biên từ Vũng Tàu, ra đến hải phận quốc tế thì bị bọn hải tặc trực sẵn, xông lên
tàu cướp của. Chúng quẳng hết trẻ con người già xuống biển, giết hết đàn ông,
thi nhau hãm hiếp đàn bà con gái.
- Khiếp quá ông làm tôi sởn hết da gà…
- Thì báo người ta viết thế. Tôi bịa thế nào được.
- Thế còn cái nhà? To vật vã ba bốn tầng như thế, giờ ai ở?
- Bác Là bảo, sau khi biết bác Vọng vượt biên, bác Lợi phải
bay vào ngay. Hoá ra tay Hào với cô Xoan bàn nhau lừa bác Vọng để chiếm ngôi biệt
thự. Tôi biết hai người này. Ngày bà ở trong ấy cứ thì thụt đến, anh em, mẹ
con, ngọt xớt. Bà muốn bác Vọng lấy cô Xoan để khỏi vượt biên. Nhưng tôi liếc mắt
thấy ngay ông Hào với cô Xoan có tình ý với nhau. Tôi chỉ lo bác Vọng nhà mình
bị ăn quả lừa. Y như rằng họ đã nhắm ngôi nhà bác Vọng từ lâu…
- Thế bác Lợi chịu để yên à? Chức vụ quyền hành như bác ấy đời
nào chịu để mất ngôi nhà?
- Thì bác Lợi đã bay vào giải quyết…Trong họ nhà mình, còn ai
có chức quyền, lại khôn ngoan lọc lõi, bằng bác Lợi?
- Thôi, mẹ cái Đất cứ lo cho tôi chuyện đất cát từ đường như
bác Vọng đã dặn. Vạn nhất mà bác Vọng xấu số không về thì vong linh bác cũng
phù hộ cho…
Rất may, vào đúng dịp ấy, làng Động có một chiến dịch di dân
tự do vào vùng cao su Sông Bé và vùng cà phê Lâm Đồng.
Lần đầu tiên, nhiều người làng Động nhận ra cái làng của họ
quá chật. Xưa kia, cáo chết ba năm còn quay đầu về núi. Người làng Động dù đi
đông đi tây, nửa đời, hoặc cuối đời vẫn bằng mọi cách tìm về làng, sửa lại nếp
nhà, chăm tiếp mảnh vườn, rồi chí thú sống với chúng, chết với chúng. Nhưng đến
đận này thì khác hẳn. Sau những trận đói vàng mắt, những vụ thu hoạch của hợp
tác xã mà người đi quét lúa rơi, đi mót lúa sót, nhiều hơn cả người đi gặt, người
ta chán ngấy ruộng đồng, bỏ đi buôn, bỏ ra Hà Nội làm người ở, phu hồ, buôn ve
chai… Vụ Chỉ thị 100, cho nông nghiệp cả nước khoán sản phẩm, kéo được vài gia
đình trở về. Nhưng nhận dăm sào ruộng khoán, cũng cầm bằng như làm thuê. Trừ
công cày bừa, giống, phân, thuốc trừ sâu, thuỷ lợi phí, thuế nông nghiệp, tiền
cho ban quản trị đãi khách, họp hành… mỗi sào còn được đăm chục cân. Rõ là ông
thầy ăn một, bà cốt ăn hai. Cá năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà cái bồ
vẫn trống rỗng.
Thế nên nói như Ngạnh Vẩu: Tam thập lục kế, tấu vi thương
sách. Ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn. Cái anh chàng nhà quê một cục mà
giờ học được ở đâu ba chữ Hán, ra ve thâm nho. Lại chuồn ngay chính trên quê
hương mình, mới ngược mớ đời.
Số là Ngạnh Vẩu, sau mấy năm đi bộ đội, về phục viên, được cơ
cấu làm chủ nhiệm hợp tác xã. Vụ làng Động khoán chui năm 1979, do Ngạnh Vẩu chỉ
đạo, bị đài báo phanh phui, cả bộ sậu lãnh đạo địa phương, trong đó có cả Nguyễn
Kỳ Quặc, phó chủ nhiệm phụ trách chăn nuôi, bị huyện kỷ luật.
Chán quá, Ngạnh Vẩu bỏ làng vào Sông Bé chơi với một người bạn
trước cùng quân ngũ, nay đang làm công đoàn nông trường cao su Phú Riềng. Hai
tháng sau Ngạnh trở về quê, bán thốc bán tháo nhà cửa vườn tược, đưa vợ con vào
Phước Long lập nghiệp.
Ngạnh tuyên bố xanh rì: "Thì ra, ngày học phổ thông mình
từng nghe: Cao su đi dễ khó về. Khi đi trai tráng khi về bủng beo… Rồi, Bán
thân đổi lấy đồng xu. Thịt xương vùi xác cao su mấy tầng… Toàn là lối tuyên
truyền lấy được. Ngày xưa thì ở đâu chẳng sốt rét, thương hàn? Cánh thợ xẻ làng
Động chết vì ngã nước trên Võ Nhai, Đại Từ hàng đống đấy thôi. Lử khử lừ khừ,
chẳng Đại Từ thì cũng Võ Nhai, là gì? Trong Sông Bé cơ man nào là đất. Làm ba
tháng, sống cả năm. Dễ sống bằng vạn cái làng Động nhà mình. Mười ba gia đình,
bỏ làng theo Ngạnh Vẩu vào Sông Bé.
Tám gia đình khác theo Cu Sộp vào Lâm Đồng. Vợ chồng, con cái
từng dây từng đống, chồng ba lô, bao tải, vợ tay nải, quang sọt, con cái đứa lớn
cõng đứa bé, đứa choai choai dắt đứa nhỏ, lũ lượt kéo nhau ra ga Hàng Cỏ theo
tàu vào Nam.
Cả một góc xóm Thượng kéo đi hết. Sáu bẩy nhà liền kề đóng cửa
im ỉm, để vườn hoang cho chó ỉa, rêu, cỏ mọc vào tận cửa nhà Các xóm khác, lỗ
chỗ từng khoảnh, từng chòm, vườn không nhà trống. Nhà Hiển Hồng, bốn đứa con
gái, đứa nào cũng học giỏi, bị bố mẹ bắt nghỉ học để đi Sông Bé, chị em ôm nhau
khóc như ri. Vợ chồng nhà Hoán Bang, nhà ngói, sân trị bể cạn đề huề, cũng bỏ lại
cho ông bố già và thằng em tật nguyền, dắt ba đứa con ra ga Hàng Cỏ. Cứ dắt díu
nhau đi kiếm ăn cái đã. Vài ba năm, dăm bẩy năm, khấm khá thì ở lại khó khăn
thì lại về quê theo đít con trâu, bám sào ruộng hợp tác.
Bị Ngạnh Vẩu thuyết phục, Ngộc, tức Lưu Bích Ngọc, cậu em
trai đa tình, đa dâm của Ngạnh, chuyên gia uống rượu pha mủ xương rồng làm cho
huyết áp tăng vọt mỗi lần đi khám tuyển bộ đội, cũng nổi máu ly hương. Cùng đi
bộ đội với Cải một đợt, Ngộc được phân vào bộ đội cao xạ tỉnh, đánh nhau đúng một
trận với máy bay Mỹ thì hiệp định Paris được ký kết. Vậy mà không hiểu sao, khi
xuất ngũ, Ngộc cũng có được cái giấy chứng nhận thương binh loại bốn, được hưởng
trợ cấp hằng tháng. Ngộc về làng, ngựa (thực ra là dê) quen đường cũ, người đàn
bà đầu tiên mà anh muốn ngủ là Nhi.
Nhi, Nhài, Lành…, những vợ bộ đội ngày trước từng ngủ với Ngộc,
thậm chí Nhi còn có thai với Ngộc, luôn gợi cho Ngộc nỗi thèm khát một thời.
- Tôi không thể quên được Nhi. Đêm ngủ, cứ nghĩ đến Nhi là
thèm nhỏ dãi… - Một lần nhân lúc Cục đi vắng, Ngộc sang nhà, vỗ vào cái mông
cong tớn, nần nẫn như mông nái xề của Nhi, giọng sàm sỡ.
- Nghiêm cấm đấy nhớ - Nhi quay ngoắt, trừng mắt cảnh cáo Ngộc
- Này, tôi nói thật nhớ. Ông Cục nhà tôi lấy đĩ về làm vợ chứ không lấy vợ về
làm đĩ đâu mà tưởng bở.
- Nhưng mà ông Cục bằng thế nào được Lưu Bích Ngọc này…
- Ối giời ôi! Làm sao bì phấn với vôi. Bì l. con đĩ với môi
anh thợ kèn. Này, tôi bảo thật nhé. Anh chỉ đáng xách dép cho ông Cục nhà tôi.
Với lại ông Cục không phải là cái loại đàn ông dễ để cho vợ ngứa nghề. Hãy chôn
chuyện cũ đi. Di xuống đất rồi vứt vào chuồng xí. Đừng có đụng vào con dâu nhà
họ Nguyễn Kỳ. Thằng Cách, thằng Tác nó thì lấy dao rạch mặt.
- Khiếp! Nói mà phát hãi… Nhưng nhớ không chịu được… Hay là…
bắn súng không nên thì đền đạn…
- Nói thế thì được - Nhi hạ hoả. Nghĩ ngợi một lúc rồi bảo -
Hãy gọi tôi bằng dì tôi sẽ gả con Ruộng cho.
- Thật không? Dì Nhi gả Ruộng cho tôi nhé… Mắt Ngộc sáng quắc.
Ngộc không ngờ mấy năm đi bộ đội về, Ruộng đã lớn phồng lên, hai vú như hai quả
bưởi, bộ mông căng tròn, lúc nào cũng chọc vào mắt Ngộc. Rất nhiều lần, Ngộc đứng
lấp sau búi tre ngắm nhìn trộm Ruộng vớt bèo ở bờ ao. Hai ống quần kia vén cao
lên tí nữa thì đã mắt phải biết. Nhớ đến ngày học cấp một hay đi rình phụ nữ tắm
ao nhà ông Xã Duyên, Ngộc cứ ao ước giá nhìn thấy Ruộng tắm truồng: Phải biết
là ngồn ngộn, phây phây. Chao ôi, được ngủ với Ruộng thì sướng hơn tiên. Sướng
gấp vạn lần bà dì ghẻ đanh đá cá cầy kia. Nghĩ thế, Ngộc đã râm ran khắp người.
Tưởng nói chơi, nào ngờ Nhi trở thành mẹ vọ của Ngộc nửa năm sau đó.
Người ngầm phản đối duy nhất cuộc hôn nhân này là Cục. Cục vẫn
ức Ngộc ngày trước đã ngủ với Nhi. Nay lại lấy con gái mình thì thiên hạ họ cười
vào mũi. Nhưng mà Nhi điều khiển được chồng. Chuyện cũ, ôm vào người cho nó
sinh bệnh. Chi cần em yêu mình, chung thuỷ với mình là được rồi. Không yêu,
không chính chuyên mà có những ba đứa, con Đất con Hợp, thằng Tác. Mình không
nghe cái làng Động này có câu vè rất hay về tên các con ông Cục đấy à? "CÔNG
CẢI CÁCH RUỘNG, thành ĐẤT HỢP TÁC. Tưởng thóc của mình. Hoá toàn rơm rác".
Đúng là mình có hai vợ, bẩy đứa con không? Họ bảo, ông Cục là con cụ Cử Phúc có
khác, đặt tên con rất thâm nho. Tưởng ông ấy ghi nhớ công lao cải cách ruộng đất,
công lao của hợp tác xã, nên mới đặt tên con thế, ai dè ông ấy xỏ xiên. Nông
dân đừng có tưởng bở. Tưởng cải cách, giảm tô, ruộng đất về tay mình, hoá ra của
thiên lại trả địa, mọi thứ về hợp tác hết, công của nông dân thành công cốc.
Bây giờ mình muốn giữ con Ruộng chứ gì? Thách đấy. Hợp tác tan rồi, người ta
đang bỏ ruộng kéo nhau ra tỉnh. Con Ruộng đến tuổi lấy chồng rồi. Để trong nhà
như chứa bom nổ chậm, mình chớ có trách.
Đến nước ấy thì Cục không ưng cũng không xong. Vá lại, cô Ruộng
lâu nay cũng ngầm để ý Ngộc. Hai nhà lại liền kề. Đống rơm đã đánh sẵn. Xoè que
diêm là cháy đùng đùng.
Gả Ruộng cho Ngộc, Nhi đã ngầm nuôi ý định thu lại khu đất
các gia đình ông bà nông dân tịch thu hồi cải cách, trà về cho Nguyễn Kỳ Viên.
Quả nhiên, khi Ngộc và Ruộng có ý định theo Ngạnh Vẩu vào Sông Bé, chính là lúc
người con dâu của chi họ Nguyễn Kỳ thực thi toàn bộ ý định của mình. Với sự
giúp sức tận tình của Ngộc và Ruộng, tất nhiên họ cũng được hưởng quyền lợi
đích đáng, chỉ cần hơn một phần hai số vàng Vọng để lại, châu đã về Hợp Phố,
toàn bộ khu khuôn viên của Nguyễn Kỳ Viên bị mất trước đây không những
đã được thu hồi lại mà còn mua thêm được một sào tám thước đất thổ cư của hai
gia đình liền kề.
Chuộc lại được đất rồi, Nhi muốn nhân cơ hội, sửa lại ngôi
nhà thờ, khai lại cái hồ bán nguyệt và dựng lại nguyên trạng cái cung Nguyễn
Kỳ Viên. Nhi đã đi hỏi những người già trong làng về cái cổng, nhờ người có hoa
tay vẽ lại hình dáng, viết lại cả ba chữ nho ngày xưa.
Cục bảo:
- Chuộc được đất của tổ tiên là bước đầu thành công rồi.
Nhưng sang bước hai mới là quan trọng. Mình là con thứ, lại là con nuôi con
đòi, nói trắng ra tức là đứa ở… Không thể tự ý xây nhà thờ được.
- Nhưng tôi thấy bà với các bác, có ai coi mình như con nuôi
đâu? Nếu kể công với nhà này thì mình xứng đáng xếp thứ nhất. Hai bác đi kháng
chiến, một bác đi Nam. Chỉ còn nhà mình ở lại hương khói, nuôi bà và cô Hậu.
Trong mấy người con, bà chỉ thích ở với vợ chồng mình.
- Mà chính tôi cũng cứ nghĩ mình do u đẻ ra đấy chứ. U cứ một
mực bảo, tôi với bác Vọng là anh em sinh đôi.
- Thế thì mình còn sợ gì điều tiếng. Các bác ấy không lo được
thì mình đứng ra xây nhà thờ. Tiền bác Vọng đã để lại sẵn rồi. Mình chỉ bỏ công
sức…
Nhi cứ sùng sục thúc ép Cục bao lần. Cái số Cục được nhờ vợ.
Đời Cục có hai người vợ, thì được cả hai. So với Bính, Nhi không dịu dàng bằng,
nhưng lại xốc vác, đảm đang hơn. Lo cho con Ruộng chồng con nhà cửa đề huề rồi,
Nhi lo tiếp vợ cho thằng Cách. Cách lấy Bống, con bà Đạt lớn, tức là em gái nhà
Bang, mấy năm trước theo chồng là Hoán vào nông trường cao su Phú Riềng. Vừa cưới
vợ xong, nghe theo chị Ruộng, chị Bang rủ rê, Bống ráo riết giục Cách xin vợ chồng
ông Cục cho vào Sông Bé làm ăn. Nhi tán đồng ngay, cho hẳn hai vợ chồng Cách
năm chỉ vàng, phần của bác Vọng cho, mang đi làm vốn. Lo cho con riêng của chồng,
như Nhi, làng Động chỉ có một.
Nhưng rồi việc xây nhà thờ vẫn chưa thành.
Vợ chồng hai ông anh Khôi, Vỹ không có ý kiến, nói tuỳ chú
thím muốn làm gì thì làm. Nói thế, có bằng thách đố, bố ai dám tự tiện. Thời buổi
khó khăn, các bác ấy phải lo miếng cơm manh áo, lo học hành công việc làm ăn
cho con cái, chưa ai nghĩ đến chuyện tâm linh, chuyện mồ mả tổ tiên, từ đường
gia tộc.
- Giữ vàng trong nhà tôi hãi lắm thầy nó ạ!
Nhì nằm bên chồng mà cứ thở dài thườn thượt. Bằng mọi cách
Nhi đã dúi vào tay bác Là, bác Khiêm mỗi người một cây vàng, giải quyết xong
xuôi quà cáp bác Vọng nhờ chuyển rồi. Chỉ còn số vàng của bà Cử Phúc và cô Hậu
cộng với ba cây còn lại sau khi đã chuộc được đất. Nghĩ nát nước mà vẫn không
biết sử dụng ra sao - Hay là đem đổi hết thành thóc, rồi tôi góp họ, hoặc cho
vay lấy lãi, dành tiền tậu cái xe đạp cho bọn trẻ đi học, thầy nó nhỉ?
- Làm thế khác nào mình lợi dụng để vun vén làm giàu cho
riêng nhà mình - Cục gạt phắt.
- Thế thì tôi mang ra Hà Nội gửi cô Tài Tiến, chứ không để
vàng ở nhà được đâu. Về đằng ngoại, cô Tài Tiến với u là con cô con cậu. Ngày
trước cô có tiệm vàng lớn nhất phố Hàng Đào chú ấy có xe khách chạy tuyến Hà Nội
- Phương Đình. Từ ngày nhà nước cấm buôn bán vàng, cô ấy vẫn buôn chui đấy. Gửi
cô Tài là chắc ăn nhất.
- Mẹ mày muốn làm gì thì làm - Cục xoay người, thọc bàn tay
lành vào vú Nhi, vê cho đầu vú săn cứng như hạt nhãn. Ấy là dấu hiệu Cục đã
phê, sẵn sàng thoả hiệp vô điều kiện.
Ngày hôm sau, Nhi ôm cái bị cói trong có sáu cây vàng gói
trong cái áo rách, để lẫn với mớ khoai sọ, bắt xe ra Hà Nội.
Vừa gặp cô Tài Tiến, Nhi đã vội kéo bà cô vào trong buồng,
thì thào to nhỏ. Bà Tài Tiến hốt hoảng nhìn xung quanh, chối đây đấy:
- Chục năm nay cô có nhìn thấy vảy vàng nào đâu? Đừng gieo
tai hoạ cho nhà cô, nguy hiểm lắm. Vàng là thứ hàng quốc cấm, không được buôn
bán. Không có vảy vàng nào mà tài chính thuế vụ cứ vào khám nhà luôn xoành xoạch.
Moi hết bàn ghế, giường tủ, gối nệm, góc bếp, nhà xí… Chổi cùn rể rách không có
cãi gì là họ bỏ qua. Tởm lợm nhất là cái thằng Sành, con rể lão Thước tổ hợp cắt
tóc Cờ Đô ở Phố Huế. Nó làm chức gì ở cơ quan thuế vụ to lắm. Lần nào nó cũng
ghé cái mồm thối hoắc như nhà cầu vào mặt cô và bảo:
"Bà không buôn vàng và thuốc phiện lậu thì tôi đi đầu xuống
đất! ứ đợi đấy, có ngày tôi sẽ cho bà lấm lưng, trắng bụng chẻ hoe cái tổ con
chuồn chuồn cho coi". Họ cứ nghi cô vẫn còn buôn vàng. Giời ôi, vụ kiểm
tra hành chính Z30 vừa rồi, suýt nữa là cô đi tù…
- Z30 là gì hả cô?
Thì họ đặt ra mật danh mật diếc gì ấy, chứ cô biết thế nào được
Nói nôm na là kiểm tra hành chính những gia đình giàu có. Mấy trăm gia đình Hà
Nội buôn bán có máu mặt, mới xây nhà hai tầng trở lên trong vài năm nay đều nằm
trong diện phải kiểm tra hành chính. Tiền của chúng mày ở đâu ra? Chúng tao đi
đánh Mỹ, giải phóng đất nước, chết mấy triệu người mà bây giờ cơm độn bo bo
cũng không có mà ăn, cớ sao chúng mày xây nhà lầu, mua xe máy, ăn trên ngồi trốc,
con cái chúng mày nhơn nhơn ăn diện? Chúng tao đang phấn đấu cả xã hội đều vô sản
ngang nhau mà chúng mày dám rắn mặt chống lại à? Thế là công an, dân phố đến
bao vây khám nhà, tịch thu tài sản. Trẻ con, người già khóc như ri. Còn ghê hơn
cả thời cải cách ruộng đất. Mấy người oan ức, tiếc của quá đã uống thuốc sâu,
treo cổ tự tử…
- Thật thế hả cô? Ở quê chúng cháu chả biết gì…
- Nghe nói cái lão Chiến Thắng Lợi, người quê nhà mình có
chân trong ban chỉ đạo cái vụ này đấy. Ông ta vào trong Sài Gòn chỉ đạo cải tạo
công thương, rồi ra Bắc làm tiếp vụ Z30… Thiên hạ đang kháo ầm lên: "Nhà
thơ đi làm kinh tế. Thống chế thì đi đặt vòng". Toàn làm chuyện ngược
đời. Khó sống lắm cháu ạ. Mang vàng về mà đổi thành thóc cho vay lấy lãi. Cô
không dám giữ hộ cháu đâu…
Nhi đành ôm vàng về, đào hố chôn dưới chân ông táo trong bếp.
Nửa tháng sau, nghĩ thế nào lại đào lên, bí mật mang lên phố Phương Đình đổi hết
thành tiền, gửi vào quỹ tiết kiệm của xã.
Sau này, tức hai năm sau, Nhi mới rụng rời nhận ra rằng, đây
là hành động ngu xuẩn nhất của đời mình. Việc nông nổi đổi vàng ra tiền rồi gửi
tiết kiệm, đã mặc nhiên phá huỷ toàn bộ ý định xây dựng lại từ đường dòng họ mà
ông kỹ sư công chánh Nguyễn Kỳ Vọng đã ký thác trước khi tự nguyện làm mồi cho
cá biển.
Vụ đồi tiền năm 1985, đã biến những cục vàng thành đất sét,
biến tất cả những bao tải tiền cũ thành giấy lộn.
Ông Nông Ích Ló, cậu ruột chị Là, quê Định Hoá, Thái Nguyên,
vừa bán mười hai con trâu, cơ nghiệp cả một đời làm lụng vất vả, để giành tiền
làm nhà. Chưa kịp mua gỗ, mua vôi, gạch, lá cọ, thì đổi tiền, mười đồng cũ ăn một
đồng mới. Ba tháng sau, tiền đổi mười hai con trâu không mua nổi một con gà.
Đau quá, tiếc của quá, ông Ló ăn lá ngón tự tử.
Nhi còn đau đớn hơn cả ông Ló cậu ruột chị Là. Bởi vì tiền
vàng này là của dòng họ, là của bác Vọng nhờ giữ hộ. Nhi là con dâu họ. Lại là
con dâu nuôi. Từ ngày về làm dâu chi họ Nguyễn Kỳ, Nhi luôn làm mọi cách để chồng
mình không bị tủi hổ là đứa con nuôi con đòi. Nhi có ý thức và quyết tâm sắt đá
sẽ làm chồng con rạng danh với họ hàng, làng nước. Vậy mà, bỗng chốc Nhi làm
tiêu tán cả một sản nghiệp. Nhi bán trời không văn tự. Nhi giết chồng con, anh
em, họ hàng không dao. Nhi mất ăn mất ngủ, người gầy tọp. Rất nhiều đêm Nhi nằm
mơ. Toàn giấc mơ lạ mà người Nhi thường gặp là một bóng trắng toát, lúc thì trồng
cây chuối, đi đầu xuống đất, lúc thì xoã tóc bước từ dưới đáy ao lên. Người ấy
nói như khóc, bảo rằng không có chỗ ở, nghe nói con cháu sắp xây nhà mà chờ mãi
không thấy.
Thế rồi một đêm, vào quãng gần sáng, Nhi bỗng thấy người áo
trắng hiện về gọi đúng tên mình. Hình như có chuyện gì gấp gáp lắm, đến nỗi Nhi
không kịp nói với Cục, không kịp nhắn lại với các con. Theo người áo trắng, Nhi
đi vòng qua bờ ao, đến chỗ cây dừa đổ, Nhi còn dừng lại soi mình xuống bóng nước.
Nhi định lội xuống, nhưng nghĩ thế nào, chỉ vục nước lên rửa mặt, vuốt lại tóc,
rồi theo hút bóng người áo trắng đến nhà thờ. Dọc đường, suýt nữa thì Nhi vấp
ngã bởi một vật cản chắn ngang đường. Nhi cúi xuống, nhận ra đó là sợi dây thừng
trâu thằng Tác mới thay lúc chiều. Thuận tay, Nhi cầm theo luôn.
Thấy tiếng chân người, đàn chuột chạy túa lên mái nhà, kêu
chí choé. Tiếng tắc kè từ cây muỗm cổ thụ điềm năm tiếng. Bóng áo trắng đến khe
cửa nhà thờ thì mất hút. Một ô cửa trống như đợi Nhi sẵn. Chị lách vào nhà thờ
như một cái bóng. Hoàn toàn như một kê mộng du, Nhi bật lửa, thắp ba nén hương,
quì trước ban thờ, miệng lẩm bầm: "Con có tội. Con là kê phá tán cơ nghiệp
chi họ Nguyễn Kỳ. Con xin về hầu chịu tội…" Rồi rất chậm rãi, Nhi trèo lên
chiếc ghế đẩu, luồn sợi dây thừng qua thanh xà ngang…
°°°
Nhờ mùi hương phả trong đêm khuya, Cục nhanh chóng phán đoán
ra Nhi có thể đang ở trên nhà thờ.
Trước đó chừng dăm bẩy phút, khi tỉnh dậy, không thấy vợ nằm
bên, máu nghi ngờ ghen tuông đã tràn khắp người Cục, đầy ứ một cục như bát nguội
chèn ngang cổ họng, nuốt mãi không trôi. Cục nghi cái tính lẳng lơ của Nhi lại
trỗi dậy. Hơn tháng nay tính khí Nhi rất lạ. Lúc nào cũng có vẻ lên lút giấu giếm
chồng. Lạ nhất là mỗi lần Cục thèm muốn, Nhi cứ đẩy hắt ra. Chó chê cứt là có vấn
đề. Cục lại nhớ cái đận cải cách ruộng đất. Nếu Cục không sớm cảnh giác, rất có
thể Bính đã ngã vào tay lão đội Phèng Cửu Tựu. Giờ với Nhi càng chớ có lơ là.
Nhi còn phây phây mà Cục thì đã có tuổi, nhiều khi lực bất tòng tâm. Biết đâu
có một thằng đực lạ mới xuất hiện ở làng Động? Đang ngủ bên chồng mà len lén bỏ
đi là cớ làm sao? Loạn rồi. Nó cắm sừng lên đầu mình rồi.
Ánh đèn pin trong tay Cục khi đến trước nhà thờ bỗng loé lên,
lia loang loáng. Khi ngửi thấy mùi hương, biết chắc Nhi ở bên trong, Cục liền rảo
chân, rọi hẳn đèn vào nhà thờ.
- Trời ơi, ai kia? Ai đang treo cổ lủng lẳng trước ban thờ?
Cục rụng rời chân tay, vấp ngã ở bậu cửa. Nhi, Nhi ơi! Sao em
lại làm thế? Có ai làm gì em mà em lại nỡ huỷ hoại đời, nỡ bỏ mấy bố con anh? Ới
các con… Đất, Hợp, Tác ơi! Lên đây cứu mẹ!
Cục hét lên, nhảy bổ đến bên vợ. Cuống cuồng, nhưng khôn
khéo, Cục trèo lên chiếc ghế đẩu ôm thốc Nhi lên.
Chương 26
đến miền đất hứa
(Trích hồi ký "Kẻ tha hương")
Buổi chiều Vũng Tàu cuối mùa mưa ấy sao nhiều hoa và nắng đến
thế. Cứ ngỡ như cái nóng của ca xứ sở dồn tụ về đây hoa của mọi miền ùa về đây
để đưa tiễn một đứa con xa xứ. Những bông điệp cuối mùa đỏ như máu. Hoa giấy
đủ màu, từ trắng ngà đến da cam, tím Huế, xơ xác bung từng búi, từng chùm như
giấy màu học trò. Và hoa sứ trắng muốt, đỏ bầm trong những vòm xanh, toà hương
nồng nàn như không còn cơ hội nào dâng hiến.
Giờ này u tôi và bố con chú Cục trên con tàu Thống Nhất chắc
đã ra tới Tháp Chàm? Chỉ vài ngày nữa u và mọi người sẽ biết tôi vượt biên. Biết
đâu, khi họ xôn xao oán thán, trách cứ thương cảm… thì tôi đã chìm nghỉm giữa
biển khơi, làm mồi cho cá…
Tôi đặt cược cho cuộc đi này năm ăn năm thua. Vì có quá nhiều
người vượt biển không thành. Kia, nhỡn tiền trước mắt tôi kia, ngay trên đường
Võ Tánh, gần bãi Dứa, một bãi tắm xinh đẹp cạnh Niết Bàn Tịnh Xá, bốn xác
chết vừa từ ngoài khơi dạt vào. Nghe mọi người kháo nhau, dọc bờ biển Núi Đúng
0 giờ ngày X, tức là chỉ còn không đầy mấy giờ nữa tôi sẽ có mặt ở bến Cửa Cạn.
Con tàu định mệnh chờ chúng tôi ở ngoài bãi sú vẹt. Trong đêm
tối, nó lù lù một khối đen như bóng tử thần. Dù là tàu bán công khai,
có người bảo lãnh, chúng tôi vẫn phải lén lút theo ghe chèo chạy bằng máy
đuôi tôm đến tàu từng tốp một. Trong ánh đèn pin loang loáng, lố nhố người lớn
trẻ con mang vác đồ đạc, bồng bế dắt díu nhau. Chủ tàu đôi chiếc nón nỉ, không
rõ mặt, chỉ nghe giọng miền Trung nằng nặng, ồm ồm. Bãi đỗ đã được mua trước,
có an ninh canh chừng. Chủ tàu đưa danh sách những người còn thiếu vàng cho an
ninh.
An ninh gọi tên những người còn thiếu. Ai không có nộp sê phải
ở lại. Không thấy đọc tên mình, tôi biết Khuất Sỹ Hào, sau khi tôi đưa giấy tờ
nhà, đã giữ đúng lời hứa, lo cho tôi đi chuyến này trót lọt.
Gần đến giờ xuất phát thì tàu bị mắc cạn. Tiếng la hét ầm
ầm phản đối chủ tàu. Tiếng đông cơ gầm rú, chân vịt sục nước hối hả. Lúc sau mọi
người nhận ra đó là mánh khoé của chủ tàu để kéo dài thời gian chờ người nhà.
Khi toán người nhà cuối cùng của chủ tàu tới, cùng với sự hỗ trợ của tàu kéo,
con tàu bắt đầu rời bãi sú vẹt, nhằm hướng hừng đông thẳng tiến.
Tảng sáng, nhưng tàu vẫn chưa ra đến hải phận quốc tế. Nhìn
mãi vẫn chưa dứt khói tầm chiếu của ngọn hải đăng trên mỏm Núi Nhỏ. Tôi có cảm
giác như tàu đang vòng trở lại.
Hay là một trăm chín mươi mốt con người trên con tàu này đang
bị lừa? Đi mãi mà toà Bạch Dinh và tương Thánh Pôn sau mũi Nghinh Phong vẫn còn
trong tâm mắt.
Bây giờ thì tôi đã nhìn ngắm rõ con tàu mang biển số VT 1413.
Chín nút. Con số đen. Nhưng nhìn kỹ thì con tàu đánh cá này thuộc diện chỉ đánh
bắt ven bờ và sắp đến kỳ thải loại.
Nước sơn xanh hai bên mạn tàu đã tróc từng máng: Thành tàu và
sàn tàu có chỗ ván đã mục được vá víu lại bằng nhũng thanh gỗ đẽo sơ sài.
Con tàu rệu rã này làm sao vượt nổi biển Đông để đến In đô hay Úc. Tôi cứ vân
vi một nỗi sợ mơ hồ.
- Moi người xuống hết hầm tàu đi – Chủ tàu luôn mồm quát
tháo - Đ. mẹ, ông nội này muốn bướng hả. Ống nhòm tàu biên phòng phát hiện
không phải tàu đánh cá, họ đuổi theo liền. Muốn ngồi trên boong ngắm kiểng, hả?
Vậy thì ông nội lấy lưới phủ kín giùm đi. Lát nữa hết phao zêrô tha hồ mà ngắm
kiểng.
Giờ thì tôi mới nhìn rõ chủ tàu. Mặt bự thịt, mắt ti hí,
râu cằm lưa thưa, đi chân chữ bát. Ông ta chừng ngoài năm mươi, tên là Kiếng.
Cùng phụ giúp chủ tàu là hai tài công tên là Cón và Hiêu, cùng to như hộ pháp,
ngực vồng như tảng gỗ lim bắp tay nâu bóng vặn như chão bện. Riêng anh thợ máy
tên Thạch thì lại bé loắt choắt, nhưng rất lanh lợi. Người phụ nữ tóc xoăn tên
Chiên lúc nào cũng cặp kè với chủ tàu, còn khá trẻ đáng tuổi con, cao dong dỏng,
có đôi mắt sắc như dao rất quyến rũ.
Sau này, khi lâm cuộc, tôi mới biết, chủ tàu hoàn toàn
không biết gì đến nghề đi biển. Nghe chú thợ máy nói, Kiếng vốn là cán bộ đi tập
kết, đã có vợ ở quê, nhưng ra Bắc lại lấy vợ mới.
Sau năm 1975, Kiếng đưa vợ con về quê, được giữ một chức
lãnh đạo phòng phong nghiệp huyện. Do buôn bán gian lận hay sao đó, Kiếng bị kỷ
luật, bị cách chúc. Cũng thời gian này Kiếng bắt bồ với Chiên, người đàn bà
buôn cá có đôi mắt dao cau quyến rũ. Quá bất mãn và chán nản, Kiếng quyết bỏ vợ
con, quê hương, rủ Chiên vào Vũng Tàu. Gặp người bà con làm ở sở Vôi Vụ mách mối,
Kiếng hùn tiền mua tàu đánh cá, đứng ra làm chủ tàu, móc nối với an ninh, tổ chức
người vượt biên.
Khi bờ biển Vũng Tàu đã mờ xa, mọi người bỗng nháo nhác thì
tài công Cón phát hiện ra một con tàu biên phòng đang phóng đuổi. Chủ tàu cuống
cuồng, hét thợ máy và tài công mở máy hết cỡ, con tàu xả khói đen mù mịt
trốn chạy. Cuộc rượt đuổi chỉ dừng lại khi tàu đã ra tới hải phận quốc tế.
Một cơn mưa bất chợt ập đến. Những ngọn sóng lừng lũng từ đâu
bỗng đổ ập xuống. Con tàu chao đào, nhảy cẫng lên cao rồi rơi hẫng xuống, như
chui hun hút xuống đáy đại dương.
Tự nhiên tôi bỗng nhớ tới cái nồi cám lợn u tôi nấu ngày
xưa. Cám sôi lục bục, tạo ra những lỗ sâu hoáy, những đinh bọt cao ngang miệng
nồi. Một vài chiếc vỏ trấu giữa nồi lúc bị bọt tung lên cao, lúc chìm nghỉm dưới
xoáy sâu. Con tàu của chúng tôi lúc này cũng hệt như vỏ trấu trong nồi cám sôi
của u tôi ngày xưa. Nó sẽ chìm bất cứ lúc nào.
Mưa mịt mù không thấy trời. Nước mưa, sóng biển tràn qua sàn
tàu, chảy như xối xuống hầm tàu. Đàn ông hò nhau tát nước bằng tất cả những
phương tiện có được. Hết đợt mưa này lại ào đến trận mưa khác. Trời mù đặc trên
đầu và biển đen đặc dưới chân. Cũng là lúc màn đêm ập xuống và con tàu chết
máy.
Tôi đã quá khiếp nhược và mệt lả vì nỗi sợ hãi bị bắt trở lại
vì nôn oẹ mật xanh mật vàng. Tất cà những người xung quanh tôi, người lớn,
trẻ con ai cũng nôn mửa, mặt xanh mét, nằm ngồi chồng lên nhau như những đống rẻ
rách. Con tàu vốn dùng để câu cá ngừ vùng biển gần, có chiều rộng hơn ba mét,
chiều dài khoảng mười lăm mét, chồng chất gần hai trăm con người mới đủ thứ đồ
đạc, vật dụng, giờ lại nồng nặc mùi người mùi phế thải theo đường miệng nôn,
trôn tháo… càng trở thành một cái hòm khủng khiếp. Trong ánh sáng ngọn đèn đỏ
quạch ngóc hầm, tôi nhận ra một đôi mắt xanh lè như mắt mèo. Không ai khác,
ngoài gã trai có bộ mặt choắt với cái mũi khoằm và đôi mắt lồi mà chủ tàu đã
văng tục vào mặt lúc mờ sáng. Gã là người duy nhất trong đám người vượt biên
không bị say sóng. Chính tôi cũng nổi máu nghi ngờ rằng mục đích của gã không
giống như chúng tôi. Gã lên tàu để làm một việc khác. Hay gã chính là người của
an ninh gài vào? Gã mắt lồi không biết tôi đang theo dõi gã, nên gã mặc nhiên
thọc tay sờ nắn người đàn bà đang nằm ôm đứa con gái nhỏ. Chị đi cùng hai đứa
con gái sinh đôi suýt soát năm, sáu tuổi đứa chị cao gầy, đứa em thấp và mập
hơn. Hôm qua đứa em uống phải sữa thiu, đi ngoài đến mệt lả, sau đó sốt nóng
đùng đùng. Người mẹ lo cho con đến trũng mắt, mệt quá, ngủ say như chết. Chị ta
không hay biết rằng có kẻ đang sờ soạng lục lọi mình, hay cũng hứng chí vì được
ve vuốt. Tôi mở cuốn sổ bé bằng bàn tay, được đóng bìa ni lông, có phecmơtuya
kéo. Đây là cuốn nhật ký tôi đã chuẩn bị sẵn, để ghi lại cuộc hành trình tha
hương, giống như phần hồi ký tôi viết ngày tôi rời đất Bắc, năm 1954, vào Sài
Gòn để sống cuộc đời tự lập. Cuốn nhất ký này được bắt đầu vào 0 giờ ngày X.
Để đề phòng cuốn sổ có thể bị sóng biển cuốn trôi, hoặc nhòe
mờ không đọc được, tôi còn có một sợi dây dù buộc ngang người. Mỗi ngày một
thắt một nút để ghi nhớ ngày tháng lênh đênh trên biển. Kinh nghiệm này tôi học
được ở Rôbinsơn Crusô, nhân vật của Danien Đêphô.
Ngày… tháng… năm…
Tàu vẫn bị chết máy. Thợ máy Thạch và mấy người biết nghề cơ
khí xoay trần dưới hầm tàu, đánh vật hàng ngày trời vẫn không làm cho động cơ
khởi động nổi. Tháo máy ra mới biết hầu hết phụ tùng đã bị thay thế. Trước
khi bán tàu cho Kiếng, chủ tàu cũ đã rút hết ruột máy, mua ngoài chợ trời một
máy rỏm lắp vào. Không có phụ tùng thay thế. Đành bó tay.
Thợ máy Thạch buồn rũ, bỏ ăn, suất ăn mà cả tàu chắt bóp ưu
tiên nhường, chú nhìn mọi người đầy hối hận như chính chú có lỗi.
Đành phải chờ tàu cứu hộ, hoặc đón tàu quốc tế trợ giúp. Có một
con tàu trắng treo cờ Panama. Đàn bà, trẻ em nhảy cá lên boong tàu, đốt lửa, lấy
khăn trắng vẫy. Nhưng bọn thuỷ thủ chỉ ngó lơ, bỏ đi.
Kiếng lôi từ dưới hầm tàu lên một khẩu M16 bóng loáng vẫn những
băng đạn vàng choé. Gã chĩa súng lên trời nổ ba phát đuổi theo chiếc tàu
Panama, khiến ai nấy xanh mắt.
Thằng này từng là xạ thủ khét tiếng miền Đông thời chống
Pháp. Khẩu này mua hai cây. Phải bí mật lắm mới qua nổi bọn Cá. Vùng biển này bắt
đầu thuộc quyền kiểm soát của hải tặc. Phải có món này phòng thân… Kiếng lên đạn
rôm rốp, bô bô cho mọi người nghe thấy. Sau khi đã bắn súng thị uy, hắn bàn với
Chiên và Hiêu, kêu tất cả mọi người phải nộp thêm tiền, bù chi phí sửa máy,
xăng dầu và thời gian chờ đợi. Ai không nộp sẽ bị ném xuống biển.
Ai cũng phải bấm bụng nộp thêm nữ trang, tiền bạc. Tôi lột
chiếc đồng hồ Longdin mạ vàng đeo trên tay. "Chiếc đồng hồ này
giá hơn một lượng, ưng không?" Kiếng liếc nhìn, gật đầu. Bỗng có tiếng
chu chéo của người đàn bà có hai đứa con sinh đôi: "Có ai nhặt được vàng của
tôi không Tôi mất hai lượng". Chị mếu máo sờ nắn khắp người, rũ tung mọi đồ
đạc tư trang. Đứa chị đang trông đứa em vẫn sốt cao, thấy mẹ khóc, vội đến ôm lấy
mẹ khóc theo.
Tôi nhìn gã mắt lồi mũi khoằm. Gã cúi gằm mặt lẩn ra phía
sau. Tôi biết, tối qua gã đã chôm chỉa hai cây vàng khi sờ soạng người đàn
bà. Vạch mặt gã lúc này ư? Gã sẽ chối biến. Dây với hủi làm gì? Gã sẽ thù, ném
tôi xuống biển. Nghĩ vậy và tôi cũng như gã, cúi gằm mặt. Đã bị dồn tới tình
cánh này mà còn hèn nữa, thì còn gì để nói nữa…
Ngày… tháng… năm…
Tài công Cón có sáng kiến làm buồm dã chiến bằng các tấm chăn
ghép lại để tàu xuôi về hướng đông nam. Gió quẩn.
Tàu như chạy vòng tròn. Cứ kiệu này bao giờ mới tới bờ
Inđonêxia hay Mã Lai. Lương thực mang theo đã cạn. Những chiếc bánh chưng bị
sũng nước, nhão nhoét, bốc hơi thiu. Bánh mì, lương khô cũng bị nước ngấm, mún
nhão, cố lắm mới nuốt nổi. Tình trạng thiếu nước đã bắt đầu. Bọn chủ tàu vẫn
cơm hai bữa. Thỉnh thoảng Kiếng bảo Chiên phát chẩn cho trẻ con và người ốm mỗi
người một nắm cơm vừa sống vừa khê.
Ngày… tháng… năm…
Nắng như đổ lửa. Kể ca chủ tàu cũng đã hết lương thực và nước
ngọt. Môi tôi khô rộp, mắt mờ nổ đom đóm. Mọi người bất động. Chẳng còn gì để
tranh giành nhau, trừ ăn thịt đồng loại để sống.
Bác sĩ Thuần nhóm những que củi cuối cùng để biến chai nước
biển thành ly nước ngọt. Thấy tôi nhìn thòm thèm, anh cho tôi vài giọt để thấm
ướt môi. Ở góc tàu, gã mắt lồi vạch quần đái vào vỏ chai cô ca rồi uống. Mấy
người đan bà cũng bảo trẻ đái vào ca để uống.
Ai đó reo lên khi lờ mờ nhìn thấy hòn đao phía trước. Bác sĩ
Thuần nói với chủ tàu:
- Cho tàu cập đảo để sửa máy và lấy nước, thực phẩm.
- Cha nội có biết đấy là Côn Đảo hay Phú Quốc không? Muốn rơi
trở lại vào tay cộng sản phải không?
- Thà bị cộng sản bắt lại còn hơn chờ chết - Ai đó nói.
Nói vậy nhưng tấp vào đảo đâu có dễ khi con tàu chết máy, dù có buồm dã chiến
nhưng hầu thư tàu trôi tự do.
Ngày… tháng… năm…
Đang ngủ vật vờ, một tiếng súng bỗng dựng tôi dậy. Tôi tự hỏi:
Kiếng bắn ai hay bọn cướp biển đã tới? Quả nhiên, một con tàu lạ đã áp sát bên
hông. Tiếng quát tháo thỉnh thoảng chen một câu tiếng Anh. Tỏi bủn rủn người.
Chợt nghĩ đến những bộ mặt cổ quái, những mắt chột, thọt chân trong truyện
"Đảo giấu vàng". Tàu chúng còn nhỏ hơn cả tàu chúng tôi.
Chúng chỉ có hơn chục đứa, trang bị toàn bằng mã tấu, dao
găm. Chỉ có duy nhất một khẩu súng lục trong tay một gã râu cằm đen kịt mà tôi
đoán chắc là thằng chỉ huy. Thằng này súng lục lăm lăm. mặt đầy sẹo, dữ dằn.
Những thằng khác cũng sát khí đằng đằng.
Người đầu tiên mà chúng bắt phải đi sang tàu cướp là Chiên.
Liếc thấy Chiên thằng chỉ huy đã thèm. Những người phụ nữ khác, từ hôm qua, sau
khi nghe bác sĩ Thuần kể về bọn hải tặc vùng biển Malácca đã tự bôi mặt lọ lem
đầu tóc rũ rượi, nên chưa lọt vào mắt bọn cướp biển.
- Thằng Hiêu vào lấy khẩu súng cho tao. Tao sống chết với
chúng. Bọn này chỉ toàn dao thôi. Mười chọi một sợ gì!
Đang nói, thằng chỉ huy chĩa súng vào cổ. Kiếng vội im bặt.
Lần lượt từng người sang tàu bọn cướp cho chúng khám xét. Thấy
thùng nước ngọt, thuyền nhân xô nhau đến uống no nê.
Có tiếng phụ nữ kêu thét trong phòng tên chỉ huy. Tôi đoán là
Chiên đang bị làm nhục. Đành bất lực thay cho Kiếng.
Cuộc khám xét chóng vánh. Số phụ nữ bôi mặt không ai bị
cởi quần áo khi tự nguyện tháo đồ trang sức nộp. Bọn cướp không ngờ là chúng
thu được nhiều đồ nữ trang và tiền vàng đến thế. Thằng chỉ huy cười như lợn kêu
khi đệ tử nộp hắn khẩu M16 của Kiếng. Chúng giật cả chiếc đồng hồ Longdin của
tôi trên tay Kiếng dâng cho thằng chỉ huy. Khốn khổ thân Chiên. Cô bị hành hạ đến
nhàu nát. Mắt cô sưng húp, má có nhiều vết cắn. Một vết máu chảy từ háng xuống
tưới bàn chân.
Vừa từ tàu bọn cướp về, Chiên đã nhảy bổ đến Kiếng, tát đánh
bốp vào mặt gã.
Cả bọn nhìn Chiên cười sằng sặc. Thằng chỉ huy ra lệnh cho
tay chân mang ra ít đồ ăn và cơm nguội. Thuyền nhân tranh nhau giành giật. Bọn
cướp nhìn, cười khinh bỉ: "Vietnam no good". Rồi chúng cắt dây,
nổ máy bỏ đi.
Ngày… tháng… năm…
Chiều tối, tàu bị cướp lần thứ hai. Lần này bọn hải tặc đông
hơn. Chúng có nhiều súng, cả một khẩu B40, không biết thạt hay giả. Chúng nhốt
tất cả đàn ông trong hầm lạnh để dễ dàng lục soát, hãm hiếp đàn bà. Tất nhiên
cô chủ tàu xinh đẹp không thể lọt khỏi mắt cú vọ của chúng. Dưới hầm tàu, chúng
tôi nghe rõ tiếng kêu khóc, tiếng vật lộn của cánh đàn bà con gái với lũ hải
tặc.
Trong bọn cướp biển, có thằng nói được tiếng Anh. Tôi
thay mặt tàu nói chuyên với bọn chúng.
"Chúng tôi là thuyền nhân, được chính phủ Hoa Kỳ bảo
lãnh - Tôi nói – Hiện nay máy tàu chúng tôi bị hỏng. Lương thực, nước ngọt đã hết.
Chúng tôi nhờ các ông kéo tàu tới đảo tị nạn gần nhất.
- 5000 USD - Thằng trưởng tàu xoè năm ngón tay ra.
Tôi nói lại với Kiếng. Kiếng lắc đầu:
- Tiền bạc của tôi cũng bị cướp sạch. Có ai còn 5000 mỹ kim
thì ứng ra.
Cuộc thương thảo thất bại. Bọn hải tặc cắt dây. Con tàu hỏng
máy lại vật vờ giữa đại dương.
Ngày… tháng… năm…
Hầu như tàu vẫn đứng nguyên tại chỗ. Nắng như đổ lửa. Trời im
gió như trước một cơn bão. Lại lâm vào tình cánh đói và khát.
Đói quá. Bây giờ thì mọi người lại trông chờ cho bọn hải tặc
tới. Thà để cho chúng cướp và hãm hiếp, may ra còn có ngụm nước, miếng cơm qua
con đói và khát. "Tôi mong cho bọn cướp biển tới" - Gã mắt lồi
như con thú đói lồng lộn trên sàn tàu, gào lên. Hình như gã muốn điên. Cái dạ
dày rỗng không của gã chừng như không chịu được. Sáng sớm tôi đã thấy gã uống
nước đái và ngồi câu suốt buổi. được một con cá bằng ngón tay, mắt gã sáng rực.
Gã mút con cá như trẻ con mút kẹo kéo.
Ngày… tháng… năm…
Cả tàu đói lả. Không ai muốn nhúc nhích.
Cứ tình trạng này, chỉ vài ngày nữa, cô thế giới sẽ hoảng hốt
lên khi phát hiện thấy một con tàu ma vật vờ trên đại dương mà bên trong
là gần hai trăm xác người thối rữa…
Không biết ở giữa đại dương thế này, kền kền và dòi bọ có đến được
không?
Ngày… tháng… năm…
Cơn bão bất ngờ ập đến giữa nửa đêm. Chưa bao giờ tôi thấy khủng
khiếp đến thế. Ai cũng tin chắc mình sẽ chết.
Không còn cách gì chống đỡ được. Đến như vịn tay vào
thành tàu hay vật cố định nào đó cho khôi bị quăng quật cũng không còn đủ sức.
Trẻ con thôi không thấy gào thét. Chúng được bố mẹ ôm chặt hoặc như quả bóng bật
từ chỗ này sang chỗ khác.
Không biết ngoài kia sóng gió gầm rít như thế nào? Con tàu có
lật úp chìm xuống đáy biển không? Tự nhiên tôi nhớ đến u tôi, đến Miên và hai
con Vân, Vy.
Bây giờ chắc chắn u tôi và bố con Cục đã về đến quê. Đã chín
ngày tôi lênh đênh trên biển rồi. Ở quê chắc đã biết tôi vượt biên, đã sắp tới
miền đất hứa. Ôi, miền đất hứa là thế này đây?"
May mà cơn bão qua nhanh. Chắc là một cơn lốc biển chứ nếu là
bão thì con tàu này không trụ nổi.
Nước tràn các khoang. Đàn ông, dù đói là, cũng phải tát nước,
nếu không muốn tàu chìm.
Ngày… tháng… năm…
Đã trữ được một ít nước mưa, nhưng lương thực thì cạn kiệt.
Đói vàng mắt. Lại ao ước có tàu hải tặc, để chúng cho ăn, và may ra chúng kéo
tàu tới đảo.
Trong cơn đói lả, tôi mơ màng ngửi thấy mùi thịt nướng. Hay
là tôi mơ? Nhưng rõ ràng khứu giác tôi không lầm. Mùi thịt nướng thơm muốn tứa
nước chân răng. Ngày xưa Tào Tháo làm cho quân lính tứa nước chân răng vì câu
chuyện rừng mơ phía trước mặt. Bây giờ tôi tứa nước chân răng vì có vị thịt nướng
ngay phía đuôi con tàu này.
Bác sĩ Thuần nằm kề bên tôi cũng cưa quậy trở dậy. "Có
mùi thịt nướng ông ạ. Tay nào mới câu được cá. " "Không phải mùi
cá. Mùi thịt nướng hẳn hoi. Hay tay nào vừa bắt đuốc chuột?".
Bỗng có tiếng thét khản đặc:
- Ối trời đất ơi, có ai thấy con bé Huệ nhà tôi đâu không? Suốt
đêm qua tôi ôm nó trong tay… Hai chị em, con Lan một bên, con Huệ một bên…
Bé Huệ bị mất tích. Có thể bị lăn xuống biển. Cả tàu như bị
điện giật. Nhưng cũng chẳng biết làm cách nào vì ai cũng đói lả không thể nhúc
nhích gì được.
- Ối các ông các bà các cô các chú ơi, tìm cháu Huệ giúp
tôi với! Ối Huệ ơi. Con đi đâu rồi? Tôi biết ăn nói làm sao với anh ấy ở bên
kia…
Sau này tôi biết chị Bẩy Trà, tên người đàn bà sinh đôi, vốn
là vợ nhỏ của một thiếu tá quân đội cộng hoà. Ngày viên thiếu tá di tản theo
quân đội Mỹ, Bẩy Trà đang có mang hai đứa nhỏ. Giờ viên thiếu tá đang làm ăn
khá giả trên đất Mỹ, nhắn tin về đón ba mẹ con sang.
Bỗng có tiếng huỳnh huỵch trên boong tàu. Tôi cố gương dậy,
nhìn lên. Tài công Cón với thân hình hộ pháp đang lôi gã mắt lồi xềnh xệch trên
sàn tàu, thỉnh thoảng lại thoi một quà đấm tròi giáng giữa mặt. Môi gã mắt lồi
sưng vù, bê bết máu. Cái mũi khoằm như vẹo sang một bên.
- Nói đi. Mày vừa nướng thịt gì? Mày quăng xác con bé xuống
biển rồi phải không?
Thông tin rợn người xộc lên óc tôi nhức buốt. Tôi lấy
hai tay bưng lấy đầu. Chẳng lẽ con người đang biến thành thú vật?
- Đ. mẹ. Nói! Tao sẽ quăng mày xuống biển - Cón giật mảnh
áo vất lên sàn, để lộ những tảng ngực nâu bóng - Nghe tiếng vật gì ném xuống biển
cha mày đã sinh nghi. Không ngờ mày chó má thế. Mày vừa nướng thịt gì?
- Dạ, nướng tôm. Em bắt được con tôm…
- Mày tưởng lừa được cha mày hả? - Cón vòng chân đá móc,
hất gã mắt lồi khỏi sàn tàu - Cho mày sẽ cho mày xuống ngủ với tôm.
Cón cúi xuống bế bổng gã mắt lồi lên, toan lăng xuống biển.
Nhưng Chiên đã kịp ngăn lại. Thằng mắt lồi đã được tha. Gã nằm co rúm trên
sàn tàu như một con chó ghẻ.
Tôi nằm bưng mặt khóc. Đau đớn quá chừng thân phận người
Việt
Ngày… tháng… năm…
Tiếng động cơ bỗng vang lên. Những ngọn đèn bật sáng.
Cả tàu như được gặp cứu tinh.
Thì ra suốt mấy ngày nay, thợ máy Thạch cùng kỹ sư Hoàng vẫn
lặng lẽ mày mò cách cứu máy tàu. Và họ đã thành công. Con tàu đã có thể thoát
khói vùng biển quẩn để tới một đảo gần nhất.
Niềm vui vừa loé lên, liền bị vụt tắt. Một tàu hái tặc lại lù
lù xuất hiện. Chúng bôi số tàu để không bị nhận diện. Chúng cho tàu chạy vòng
quanh, như con thú trước khi thịt con mồi.
Cũng có thể chúng dè chừng vì sợ có súng. Đến khi biết chắc
những thuyền nhân người Việt đang thoi thóp vì đói, chúng mới sáp gần, quăng
dây và bắc cầu tràn sang. Tên chủ tàu trông gian giảo và hung bạo. Gã cầm lăm
lăm chiếc búa sắc lém trong tay, ra hiệu cho bọn lâu la lục soát từng người.
Chẳng cần che đậy, cách li, chúng bắt tất cả đàn bà cời quần
áo vạch kỹ từng silip xu chiêng, soi từng ngóc ngách xem có giấu tư trang hay hạt
xoàn vào chỗ kín. Thằng chủ tàu dùng búa nậy cá thành tàu vì nghi có giấu vàng.
Lục soát chán, chúng biết rằng chỉ còn ăn cái xái vì bọn cướp trước đã lột
hết. Chúng chửi bới loạn xạ, vơ vét một ít quần áo, đồ đạc, rồi bó đi.
Ngày… tháng… năm…
Tàu nhằm hướng tây đi miết. Thấy đàn chim bay lượn, chúng tôi
đoán đất liền đã gần đâu đây.
Ánh trăng như dát vàng trên mặt biển. Tôi khóc thầm vì cảnh
chẳng chiều lòng người. Tói nửa đêm, thấy cồn cát và hàng dừa mờ mờ hiện
ra. Không biết đây là đâu: Phú Quốc, Côn Đảo, hay Thái Lan, Mã Lai. Đâu cũng được.
Miễn là đất liền. Mười ngày trên biển đã vãi hết cả linh hồn. Moi người xô nhau
lội nước lên bờ. Riêng bọn chủ tàu ở lại. Có lẽ Kiếng đợi mọi người lên bờ hết
mới mở kho cất giấu vàng. Hoặc họ sẽ cho tàu đi một nơi khác. Gần sáng, dân
trên đảo chạy tới. Hoá ra đây là đất Thái.
Ngày… tháng… năm…
Hoá ra, các nước bạn láng giềng, chăng ai vui sướng gì khi phải
đón tiếp những người khách không mời Việt Nam. Bằng chứng là hầu hết những người
dân đều tỏ ý xa lánh và nhìn đám người tị nạn chúng tôi như bọn hủi, bọn thương
hàn, dịch hạch. Cũng đáng thôi. Người Việt mình còn không đùm bọc cưu mang
nhau, gà cùng một me dứt tình hại nhau, thì người ngoài đối xử như thế là phải
thôi.
Sau này tôi được biết rằng, chúng tôi không phải là những người
khách đầu tiên. Từ mấy năm nay đã có hàng chục con tàu hàng nghìn thuyền nhân
Việt Nam dạt vào hòn đảo nhỏ bé này. Cuộc sống của những người dân đánh cá lập
tức bị đảo lộn. Khan hiếm lương thực, thực phẩm. Phóng uế bừa bãi. Trộm cắp,
đánh lộn. Câu nói của người xưa: "Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo
tặc" quà không sai. Người Việt cùng đường đi đến đâu cũng gieo rắc tai hoạ.
Nhà chức trách địa phương tỏ ra rất phiền lòng. Họ cho dẫn cả
chủ tàu tới, giam lỏng tất cả trên một doi cát được quây xung quanh bỏi
cây phi lao và dây kẽm gai. Mỗi người được phát một chén cơm với một con cá khô
mỗi ngày. Mỗi gia đình tự tìm cây que, lá dừa khô để tự làm những chiếc lều che
tạm.
Đến lúc này mọi người mới phát hiện ra gã rnắt lồi đã biến
đâu mất. Gã không dám nhìn mặt đồng loại, hay đã cuỗm được vô số của cải
và tìm cách trốn về nước. Nhưng thôi, còn 189 người, thế là may. Tránh xa được
một con thú ăn thịt người.
Mười một ngày trời sống trên doi cát, như thời Rôbinsơn
Cruxô, dài hàng thế kỷ. Tôi gầy tọp như một que củi. Khắp người ghẻ lở. Tóc và
râu tôi rậm rì chẳng khác nào ác quỷ…
Ngày… tháng… năm…
Có tin đồn các thuyền nhân sẽ được đưa tới trại ty nạn
đao Songkla rồi được đưa đi Hồng kông hoặc Mỹ, Canada. Ai cũng mừng và nhanh
chóng quên đi mười ngày sống nhu những kẻ hành khất trong những túp lều trống
hoang với những đêm mưa nhiệt đói ướt sũng không thể nào chợp mắt.
Nhưng rồi tình hình có vẻ nghiêm trọng khác hẳn một cuộc chuyển
địa điểm bình thường. Lính Thái quần áo rằn ri, có chó becgiê đi theo, tiểu
liên lăm lăm, áp giải bọn chủ tàu và thuyền nhân đi một chặng đường thật xa.
Thuyền nhân sẽ bị đưa đi đâu? Đi đày biệt xứ hay đi thủ tiêu như hồi thế chiến
thứ hai Híttle đã làm với người Do Thái. Chúng tôi hoang mang đến cực điểm.
Ngay từ thời Tây Sơn thắng trận Rạch Gầm, Xoài Mút, tiêu diệt gần hai mươi vạn
quân Xiêm, người Thái đã chẳng ưa gì người Việt. Khi cộng sàn tràn xuống phía
nam, lấn sang Campuchia thì họ càng thất kinh, lúc nào cũng lo một hiểm hoạ
luôn rình rập.
Đoàn người rồng rắn đi chừng ba giờ đồng hồ thì đến một bến
cá với hơn chục nóc nhà. Nhìn thấy con tàu cũ của chúng tôi mang biển số VT
1413 thì tất cả đều thất kinh. Thì ra suốt mười ngày nay người Thái điều
nhũng thợ giỏi nhất đến để chữa tàu là muốn nhanh chóng tống khứ con tàu ma và
những người bạn Việt không mời này ra khỏi đất nước họ.
Không ai bảo ai, người lớn trẻ con đều ngồi phịch xuống đường.
Chúng tôi biểu tình, quyết không lên con tàu cũ của mình, quyết không ra biển nữa.
Phải đưa chúng tôi đến Songkla, phải cho chúng tôi gặp Hôi Chữ thập đỏ, gặp Uỷ
ban người tị nạn của Hôi đồng Bào an Liên Hợp Quốc.
Tôi đã dùng tất cà vốn liếng tiếng Anh và một vài tiếng Thái
cùng những động tác chân tay để đàm phán ngoại giao với viên chỉ huy, nêu rõ
nguyên vọng của mọi người, nhưng vô ich. Viên chỉ huy với bộ mặt sắt chỉ
biết đúng ba từ tiếng Anh "Vietnam no good ", xua tay như xua tà, ra
lệnh cho binh lính thi hành nhiệm vụ.
Đạn rôm rốp lên nòng. Lưỡi lê sáng quắc. Chó becgiê vừa
gầm gừ vừa lùa đoàn người ra cầu tàu. Cứ hai người lính Thái một cặp, khuân từng
người quăng xuống tàu. Tiếng khóc, tiếng gào thét như sắp phải xuống địa ngục.
Rồi tàu hải quân Thái nổ máy, kéo con tàu VT 1413 ra khơi, giữa
đêm tối mịt mùng.
Ngày… tháng… năm…
Sau khi tàu hài quân Thái cắt dây, tàu chúng tôi chạy tiếp một
ngày một đêm nữa thì đụng một hòn đảo. Lần này là đất Mã Lai. Thấy bãi cát trắng
trải dài dọc hàng dừa xanh, thấp thoáng những toà nhà ven biển có cắm cờ, chúng
tôi đoán đây là một khu nghỉ mát.
Trước khi đổ bộ lên bờ, chúng tôi bàn nhau tìm cách phá tàu đục
cho tàu chìm, làm cho máy hỏng để khỏi bị kéo ra khơi thêm lần nữa. Trăm lạy
ngàn lạy vua Thuỳ Tề, chúng con không dám đùa rỡn với người nữa rồi.
Người Mã đã chuẩn bị sẵn để đón tiếp những bạn Việt. Lính Mã,
quần áo rằn ri, trang bị như thuỷ quân lục chiến Mỹ tập trung chúng tôi trên
bãi cát, lần lượt gọi tùng người đến một cái lều bạt để khám. Họ tuyên bố: Đây
là vấn đề an ninh.
Tiền bạc nữ trang họ sẽ giữ hộ. Đám đàn bà con gái sợ co rúm.
Ho biết chắc bon lính lại giở trò ma. Sau bao phen tam khoanh tứ đốm bị hai tặc
nhiều lần lột truồng cuỗm sạch, nào ngờ vẫn còn nhiều người giấu lại được
vàng và hạt xoàn. Một số người tinh khôn, lùi lại giấu của dưới bãi cát. Nào ngờ
sau một hồi khám xét, tất cả thuyền nhân phải chuyển đi ngay. Những người giấu
của dưới cát đành không có cơ hội tìm lại.
Chúng tôi bị lính Mã áp giải như bọn tù nhân. Dân Mã nhìn người
Việt bằng ánh mắt khinh bỉ, hằn học. Du khách phương Tây chạy theo chụp hình.
Ngày mai trên các kênh thông tin toàn cầu, hình ảnh chúng tôi sẽ bị bêu lên như
những kẻ mạt vận đáng thương nhất của nhân loại.
Ngày… tháng… năm…
Chúng tôi trở thành tù nhân trên xứ người theo đúng nghĩa đen
của từ này. Lính Mã nhốt chúng tôi trên một khu đất một bên là con lạch sâu, một
bên là rừng dừa nước, phía trước là đồn canh biên phòng. Đến trước chúng tôi đã
có 37 thuyền nhân của con tàu mang biển số ĐN 2067 đi từ Cần Giờ. Tàu ĐN
2067 nhỏ hơn tàu chúng tôi, khởi hành trước chín ngày, chở 83 người, nhưng chỉ
còn 37 người sống sót. Bọn hai tặc đã cướp tàu, giết chết và quăng 46 người xuống
biển.
Để trừng trị tội phá tàu, nhà chức trách Mã bỏ đói chúng tôi
ba ngày, không tiếp tế lương thực, thuốc men. Người của tàu ĐN 2067 thương hại
sẽ chia trong cơn hoạn nạn. Một vài phụ nữ phải lén vào đồn cho lính Mã giải buồn
để có một chút đồ ăn, thuốc ngừa. Bẩy Trà cũng vào tình cảnh này.
Mười bẩy ngày bị cầm tù trên xứ người, phải đi chặt dừa nước,
kiếm cây dựng lều, kiếm củi, mò ốc bán lấy tiền đổi gạo… khiến tôi bị ho ra
máu. May mà có phái đoàn Hồng thập tự đến cho thuốc kịp thời, cơn ho của tôi đã
tạm dứt.
Ngày… tháng… năm…
Con tàu biển số VY 1413 của chúng tôi, đã được nhà chức trách
Mã sửa chữa xong, đang đứng trực sẵn ở cầu tầu. Nhìn thấy nó là thấy bóng tử thần.
Tất cả đều kinh hoàng táng đởm khi phải bước chân lên sàn tàu kia. Nhưng định mệnh
đã sắp đặt. Làm sao mà cưỡng nổi. Ra khơi lần này, tàu chúng tôi còn có bạn đồng
hành là tàu ĐN 2067 chở theo 37 người số may còn lại.
Dây được buộc lần lượt từ tàu hải quân Mã vào tàu chúng
tôi tiếp đó từ tàu chúng tôi lại buộc sang tàu ĐN 2057, mỗi tàu cách nhau chừng
một trăm mét.
Buổi sáng nắng chói chang. Nếu tôi không lầm thì đúng vào những
ngày này bẩy năm về trước, Sài Gòn thất thủ. Sáng 30 tháng tư ấy mẹ con Miên đã
ra cửa chờ sẵn để theo bố và anh trai di tản. Nhưng tôi đã hiên quyết ngăn cuộc
ra đi này. Vì tôi phải gặp lại u và nhũng người ruột thịt. Tôi phải trở về làng
Động. Tôi yêu nước Việt.
Bây giờ, cuộc ra đi của tôi đã quá muộn và hình như không thuận
ý trời. Chúng tôi đến đâu cũng bị xua đuổi. Không có nơi nào cho chúng tôi dung
thân…
Tàu hải quân Mã kéo hai tàu chúng tôi về phía đông nam với vận
tốc chóng mặt. Đã quen sóng gió rồi, tàu lắc khủng khiếp, nhung chỉ ít người
nôn oẹ. Mà có gì trong bụng nữa đâu Chỉ có cơn khát cồn cào. Nhiều người xin nước
uống. Lính Mã chỉ xuống biển.
Gần sáng, chắc đã đi xa hải phận Mã Lai, tàu chiến Mã cắt
dây. Chính lúc này chúng tôi đã rơi vào thảm hoạ.
Số là đang chạy với tốc độ quá lớn, trời lại tối, sóng lớn mù
mịt, bị cắt dây bất ngờ, tàu chúng tôi hẫng lại, vừa quay tròn, vừa dụng lên
cao. Tàu ĐN 2067 cũng mất đà, chồm tới, đâm sầm vào hông tàu tôi. Con tàu bật
trở lại. Tôi nghe thấy một tiếng động khủng khiếp. Rồi ngất đi.
Tỉnh lại, thấy mọi người im như chết. Tôi bò đi lay từng người.
Thì ra sự va đập quá mạnh, nhiều người cũng giống tôi, bị chết ngất. Hơn một giờ
sau, chúng tôi mới hiểu ra sự tình. Đúng giây phút con tàu của chúng tôi mười
mươi bị chìm thì tài công Hiêu đã nhanh chóng cắt dây, nên cuộc va đập không bị
vỡ tàu. Nhưng con tàu xấu số phía sau, do không chắc tay lái, đã không giữ được
thăng bằng, quay tròn với sức văng ly tâm cực lớn, bị sóng tung lên cao rồi lật
úp xuống. Sự cố xảy ra rất nhanh. Đến khi tàu chúng tôi hoàn hồn, nhìn lại phía
sau thì không thấy bóng dáng con tàu đồng hương đâu nữa.
Thương thay 37 thuyền nhân xấu số. Tưởng họ may hơn 46
người cùng hội cùng thuyền, ai ngờ họ cũng bị chôn vùi dưới đáy biển…
Ngày… tháng… năm…
Con tàu của chúng tôi bị mất la bàn, như con tàu mù, lao bừa
về hướng mặt trời mọc.
Buổi chiều, trời bỗng đen kịt, giông gió nổi lên. Mưa trút xối
xả. Tàu lại như mảnh vỏ trấu trên nồi cám lợn đang sôi. Moi người lầm rầm khấn
Phật. Tôi làm dấu Thánh. Chỉ còn biết cầu mong ở đấng tối cao.
Có ánh đèn phía trước. Biết là tàu đã tấp vào một hòn đảo. Mọi
người háo hức lội vào bờ. Vừa đặt chân xuống nước, nhiều người đã kêu thét vì
đáy biển lởm chởm đá san hô cứa chân toé máu.
Lần này thì tròi đã có mắt. Chúng tôi đã đến đất
Nam Dương. Người dân ở đây đón chúng tôi thân thiện và cỏi mở.
Một người đàn ông biết tiếng Anh tình nguyện làm hướng dẫn
viên đưa tàu chúng tôi tới Le Tung cách đây không xa. Theo lời người dẫn đường
thì Le Tung là nơi có cơ man người tị nạn Việt Nam.
°°°
Sau hai mươi chín ngày thập tử nhất sinh, nhiều lần tưởng rơi
vào móng vuốt thuỷ thần, tới Le Tung, con đường đến miền đất hứa của tôi mới phần
nào hé lộ. Tôi gặp khá nhiều người quen, nghe biết tin tức thời sự và tình
hình ở nhiều nơi. Tôi gửi tin ngay cho Miên và các con và cho địa chỉ liên lạc.
Le Tung là trung tâm một quần đảo có bốn đảo nhỏ, thuộc đất
Nam Dương. rất gần Mã Lai và Singapore. Từ năm 1975 tới nay, do dòng người tị nạn
Việt Nam ồ ạt đến, nơi đây đã trở thành một khu đô thị sầm uất.
Phố xá hẹp, chạy ngoằn ngoèo ven đáo, nhưng san sát các sạp
hàng, bày bán đủ thứ như chợ Nguyễn Thông gần ga Hoà Hưng, Sài Gòn. Người bán
chủ yếu là người Hoa, người In đô, người mua là thuyền nhân Việt. Theo nhà chức
trách, tàu chúng tôi là tàu thứ 372 đến đảo. Đã có hàng nghìn người đủ tiêu chuẩn được
chuyển sang Singapore để đáp máy bay đi Mỹ. Nhưng cũng có cả nghìn người phải ở
lại, vì sức khoẻ không đảm bảo, vì thân nhân không rõ ràng, vì thiếu người bảo
lãnh… Số người này xoay ra tìm cách kiếm sống lâu dài.
Họ làm đủ nghề, từ khuân vác, gánh nước thuê, vào rừng chặt củi
chặt cây dựng nhà, xuống bãi mò cua sò, mở hiệu tạp hoá, làm đầu, đi trích ngừa,
dạy tiếng Anh, ăn xin, trộm cắp, làm đĩ. Rất nhiều người đã đến trước chúng tôi
hàng nửa năm. Họ đang xếp lốt chờ khám sức khoẻ và phỏng vấn.
Ơ Le Tung một tuần, chúng tôi lại được chở sang đao Ruồi,
cách chừng hơn hải lý, nơi có trại tị nạn do Liên Hợp Quốc bảo trợ. Từ đây
chúng tôi đã được sống bằng tiền bố thí của Liên Hợp Quốc với tiêu chuẩn 3 USD
một người một ngày.
Gọi là đảo Ruồi, vì ở đây cơ man nào là ruồi. Dân tị nạn hàng
chục ngàn người, ở tràn lan, các lán trại hàng hàng san sát. Sáng sáng người ngồi
chồm hỗm đen đặc bãi biển. Lính In đô cầm roi đuổi, nhưng không xuể. Một dải
bãi cát dài bốc mùi khai thối nồng nặc. Tệ phóng uế bừa bãi, khiến ruồi bọ phát
sinh, bu theo từng đàn đen kịt. Ban ngày cũng phải ngồi ăn trong mùng. Nhiều
người bị mụn nhọt, không có bông băng phải lấy giấy báo quấn đầy chân tay để
tránh ruồi. Ruồi kéo theo bệnh tả và thương hàn, làm chết hàng chục người. Phái
đoàn HCR đến phỏng vấn, phái đoàn Mỹ đến thăm, phới bỏ nửa chừng vì ruồi quấy
nhiễu…
Một thanh niên của tàu MH 1172 mới đến, bị người In đô treo cổ
trên cây dừa vì tội vào nhà thờ Hồi Giáo ăn trộm thùng tiền công đức. Người bản
địa ngày càng khinh ghét dân tị nạn. Một lần đi bắt sò, bị một thanh niên In đô
chửi vỗ mặt bằng tiếng Anh: "Vietnames is the doges" (Dân Việt
Nam là đồ chó ghẻ), tôi đã toan xông đến đấm vào mõm hắn ta.
Tôi mở lớp dạy tiếng Anh cho các cháu con em người quen để chờ
đợi.
Hơn năm tháng đợi chờ. Làm các thủ tục. Khám sức khỏe. Chụp
hình. Trả lời phỏng vấn. Cuối cùng tin vui đã đến: Tôi có tên đi Mỹ.
Vậy là sau sáu tháng mười hai ngày, trong đó có hai mươi
chín ngày thập tử nhất sinh nồi chìm trên biển và trong nanh vuốt tử thần, buổi
sáng thần tiên ấy, chiếc máy bay Boeing 747 mang cờ hiệu Hoa Kỳ đã chở những
thuyền nhân khốn khổ chúng tôi từ phi trường quốc tế Singapore băng qua Thái
Bình Dương tới Los Angeles. Chỉ hơn chục tiếng đồng hồ nữa thôim tôi sẽ gặp vợ
con tôi sau bốn năm xa cách. Tôi sẽ đặt chân tới miền đất hứa, nơi mà để tới được,
tôi đã tìm sự sống trong cái chết, đã phải đổi bằng sinh mạng, với tất cả nỗi tủi
nhục ê chề và những ngày vô cùng khủng khiếp mà chỉ những ai đã vượt qua địa ngục
mới hình dung ra nổi.
Nhìn xuống Thái Bình Dương hun hút dưới cánh máy bay, mấy lần
tôi bật khóc. Ước gì tôi có một vòng hoa và mở cửa để thả xuống, để cầu
chúc cho hàng vạn đồng bào xấu số của tôi đã tan hoà vào mịt mùng biển thẳm.
Chương 27
đối thoại đông tây
Mười hai năm sau, phần II hồi ký "Kẻ tha
hương", mới được tác giả Nguyễn Kỳ Vọng hoàn thành tại Mỹ. Ông viết trong
dịp nằm bệnh viện hai tháng vì vụ tai nạn dập bàn chân khi chỉ huy thi công một
công trình cho cộng đồng người Việt ở New Orleans. Lật giở lại cuốn sổ tay nhoè
nát vì thời gian, vì nước biển ghi lại sáu tháng mười hai ngày địa ngục trần
gian ấy, vừa viết, nước mắt ông vừa nhỏ thánh thót xuống các con chữ.
Độc giả đầu tiên có may mắn được đọc những dòng hồi ký độc nhất
vô nhị trên thế gian này, là nhà văn cộng sản Châu Hà.
Theo lời mời của tổ chức "Các nhà văn viết về chiến
tranh" của Mỹ, gồm phần lớn những người từng tham chiến ở Việt Nam, đoàn
nhà văn Việt nam đầu tiên do nhà văn Tổng biên tập báo Văn Chương, dẫn đầu,
đã sang thăm Hoa Kỳ một tháng hai mươi bẩy ngày.
Cuộc viếng thăm có tính chất ngoại giao nhân dân để chuẩn bị
cho tiến trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, đã bị hoãn đi hoãn lai tới
ba lần vì không hề đơn giản. Bởi phía Mỹ đưa ra một danh sách chín nhà văn do họ
chọn, trong đó có nhà văn Châu Hà và nhà thơ Trần Nhân Ảnh.
Văn phòng đại diện Mỹ tại Hà Nội chỉ cấp hộ chiếu cho những
người khách này. Phía Việt Nam muốn rút một số tên, muốn thêm một số tên khác.
Người mà phía Việt Nam đề nghị rút tên đầu tiên là Châu Hà, với lý do ông đang
là Tổng biên tập báo Văn Chương, một tờ báo hàng đầu, cơ quan ngôn luận
của trí thức, văn nghệ sĩ. Bản thân ông là một yếu nhân, là cán bộ lãnh đạo cấp
cao thuộc diện Trung ương quản lý. Ông phải có đanh sách trong một phái đoàn cấp
nhà nước, Chính phủ Hoa Kỳ phải có lời mời chính thức theo đường ngoại giao chứ
không thể đi theo cách dân dã thế này.
Nhưng, nguyên nhân đề nghị rút tên Châu Hà, thực chất, không
sang trọng đến như vậy.
Người hiểu rõ chuyện này, như nằm trong chăn, không ai khác
là Văn Quyền. Từ ngày tạp chí Văn chương đổi thành tuần báo Văn Chương và
cái chức Tổng biên tập tuột khỏi Văn Quyền để rơi vào tay Châu Hà, Quyền thù Hà
ra mặt. Số báo Văn Chương nào vừa ra, Quyền cũng đeo kính lúp
xăm soi từng chữ, từng dấu phẩy. Ai báo cáo với Trung ương vụ đăng truyện ngắn "Thần
linh" báng bổ lãnh tụ, hạ bệ thần tượng? Ai trực tiếp lên gặp cấp lãnh đạo
tối cao cảnh báo về loạt bài: "Chủ nghĩa phải đạo trong văn chương",
"Khúc ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ", "Hãy cáo
chung dòng văn chương cổ động", "Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội
chủ nghĩa, hay là nửa chiếc bánh mỳ" v.v và vv… Văn Quyền chứ ai. Quyền vừa
báo cáo vừa khóc trước mặt Trưởng ban X. rằng, cả bọn viết loạt bài này lẫn kẻ
cho đăng loạt bài này, mà cụ thể là ông Tổng biên tập Châu Hà, đang bán đứng Chủ
nghĩa xã hội, đang tiếp tay cho thế lực thù địch làm cuộc diễn biến hoà bình một
cách tinh vi và xảo quyệt. Rằng, nếu Trung ương không đề cao cảnh giác thì Việt
Nam sẽ giống như các nước Đông Âu và Liên Xô, mọi thành quả của cách mạng sẽ sụp
đổ tan tành. Công sức, máu xương của hàng triệu triệu người sẽ thành công cốc.
Rằng, đây là động thái dạo đầu cho thứ chủ nghĩa đa nguyên đang ngấm ngầm hình
thành trong trí thức và văn nghệ sĩ. Lịch sử từ cổ chí kim, bọn văn sĩ trí thức
thường khơi mào cho những cuộc lật đổ, quân sư đắc lực cho bọn phiến loạn…
Đồng chí Trưởng ban nói:
- Trung ương có biết những vấn đề này. Nhưng văn nghệ là một
lĩnh vực nhạy cảm. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói văn nghệ sĩ hãy tự cởi trói.
Hãy tự cứu mình trước khi trời cứu. Chúng ta xiết chặt, sẽ vi phạm quyền tự do,
dân chủ, sẽ tạo cớ cho Mỹ và các nước Tây Âu tố cáo ta về nhân quyền. Vả lại
Châu Hà đã kinh qua thử thách chiến trường ác liệt, phải tin đồng chí ấy.
Văn Quyền đấm ngực thùm thụp:
- Đồng chí ơi, tôi xin lấy danh dự người cộng sản, một người
lính Cụ Hồ vẫn còn mang trong đầu mảnh đạn quân thù, xin báo cáo với Trung ương
rằng, nhà văn Châu Hà bây giờ đã trở thành một người hoàn toàn khác, đã thay
máu gần hết rồi. Sang Mỹ, chắc chắn Châu Hà sẽ gặp Xuyên Sơn, tên bồi bút chiêu
hồi phản động. Vì họ từng là bạn chí cốt của nhau. Từ ngày nắm tờ báo, tuần nào
Hà cũng tụ tập ở nhà Nguyễn Kỳ Vỹ những nhân vật tiền chiến và nhân văn… Loạt
bài lý luận về "Chủ nghĩa hiện thục vô bờ bến" của Garôdi, về Freud,
Nietzche, Chủ nghĩa hiện sinh, Hậu hiện đại… là do Châu Hà đặt hàng Nguyễn Kỳ Vỹ
dịch. Nếu đồng chí không tin thì tôi buộc phải đưa đồng chí đọc bản đề dẫn do
chính tay Châu Hà viết định trình bày trước Đại hội các nhà văn, nhưng rất may
là đã không được thông qua…
Bản đề dẫn Văn Quyền trịnh trọng đặt trên bàn Trưởng ban X,
có tựa đề: "Vì một nền văn học đậm bản sắc dân tộc, đồng hành với nhân
dân", do Châu Hà khởi thảo bằng chữ viết tay. Đọc xong, Trưởng ban lạnh
toát người. Ông thầm biết ơn Văn Quyền đã cho ông thấy những vấn đề cực kỳ gai
góc phức tạp của giới văn nghệ sĩ, mà ông, vốn trưởng thành từ một cán bộ phong
trào ở địa phương mới được Trung ương điều động lên, chưa nắm bắt được. Kiểu
này mất nước như chơi. Để bọn văn nghệ sĩ nắm được quyền lãnh đạo, chúng sẽ thiết
lập lại chế độ tư bản, hô hào đa nguyên đa đảng, đi theo vết xe đổ của các nước
Đông Âu, thì tất cả những ai đang nắm giữ các chức vụ trong chính quyền sẽ phải
dựa cột hết. Chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp sẽ không còn đất chôn…
Chỉ một cú điện thoại của Trưởng ban X, Châu Hà đã bị loại ra
khỏi danh sách.
Nhưng phía Mỹ không chịu nhượng bộ. Đại diện chính phủ Hoa Kỳ
ở Hà Nội từ chối cấp visa cho đoàn nhà văn, nếu không có tên Tổng biên tập
báo Văn Chương.
Trưởng ban X. vốn không phải là dân am hiểu văn hoá văn nghệ.
Ông trưởng thành từ nông thôn, từng làm chủ nhiệm một hợp tác xã nông nghiệp nổi
tiếng nhất miền Bắc. Bị phía Mỹ và Bộ Ngoại giao ta thúc ép, ông phải có ý kiến
chính thức. Vốn là người chín chắn và thận trọng, trước khi đưa ra quyết định
cuối cùng, ông đến gặp đồng chí Tư Vuông.
Mặc dù đã nghỉ hưu, nhưng vai trò và ảnh hưởng của Anh Tư đối
với ê kíp lãnh đạo đương nhiệm vẫn cực kỳ quan trọng. Ông có chân trong Hội đồng
cố vấn Tối cao, là thành viên Ban nghiên cứu Chiến lược năm 2000.
- Tôi đã có ý kiến về bản đề dẫn của anh Châu Hà ngay từ khi
nó được khởi thảo - Đồng chí Tư Vuông nói - Đây quả là một hệ thống luận điểm
văn hoá văn nghệ có nhiều vấn đề mới mẻ, đi trước thời cuộc. Tôi nhớ tới cuộc
tranh luận với Châu Hà về giới văn nghệ sĩ, khi cậu ấy mới ở chiến trường ra.
Lúc ấy cậu ta có trách cứ rằng, cách mạng chúng ta ngoài khả năng bách chiến
bách thắng còn có khả năng hoài nghi, nhất là hoài nghi văn nghệ sĩ. Và cậu ta
công khai chính kiến, dám lên diễn đàn trong các cuộc thảo luận nghị quyết, dám
đối thoại với cả Tổng Bí thư. Con người này uy vũ bất năng khuất lúc nào cũng
nói thẳng nói thật. Bản đề dẫn này khó thông qua không phải vì nó sai mà chỉ vì
quan điểm và tư tưởng của nó chưa thể phù hợp với hoàn cảnh cách mạng nước ta
trong bối cảnh Liên Xô vừa tan rã, phe Xã hội chủ nghĩa sụp đổ, Việt Nam đang
muốn vào WTO, đang tìm hiểu kinh tế thị trường…
- Như vậy, việc anh Châu Hà sang Mỹ đợt này càng không có lợi.
- Đấy là theo cách hiểu của đồng chí - Nhà thơ Ngô Sỹ Liên,
cái bút danh mà rất lâu rồi đồng chí Tư Vuông hầu như không dùng đến, cảm thấy
người kế nhiệm không hiểu ý mình - Theo tôi, nếu cần một gương mặt đại diện cho
văn chương chống Mỹ thì Châu Hà rất xứng đáng…
- Nhưng nhỡ anh ta ở lại, hoặc phát ngôn bừa bãi? Trường hợp
hai ca sỹ sang biểu diễn ở châu âu đã chuồn ở lại, tìm cách sang Mỹ…
Đồng chí Tư Vuông cười khẩy, thương hại sự non nớt của ông
Trưởng ban mới được đề bạt:
- Văn nghệ sĩ cũng có dăm bẩy đường Nhưng phàm đã là nhà văn
chân chính, lấy tiếng Việt mẹ đẻ để nhào nặn thành tác phẩm nghệ thuật, thì có
đuổi người ta cũng không chịu bỏ Tổ quốc. Châu Hà là người như vậy. Để Châu Hà
đi chuyến này, hoặc là Kinh Kha nhập Tần, hoặc là điệu hổ ly sơn. Đấy chính là
một mũi tên mà nhắm hai đích. Đằng nào thì ông cũng tìm ra đối sách với Châu
Hà. Ông còn muốn gì hơn nữa?
Trưởng ban ngớ ra không hiểu:
- Anh nói thế có nghĩa là…
Tư Vuông lại cười khẩy, vít cổ, rỉ vào tai anh bạn vàng.
Trưởng ban X, hấp hay mắt cười, gật đầu bái phục người tiền
nhiệm sát đất.
Ngay hôm sau ông gặp Văn Quyền đả thông tư tưởng, rồi làm quyết
định để Châu Hà đi Mỹ.
°°°
Ở California, nơi tập trung đông nhất người Việt tị nạn, ngày
đầu tiên đến nước Mỹ, năm nhà văn Việt Nam được đón tiếp nồng nhiệt bằng cà
chua và trứng thối, cùng những lời la ó đả đảo thậm tệ. Nhà thơ Tiến Khanh bị một
quả cà chua giữa trán, suýt phải đi bệnh viện.
Đến bang Lousiana, quê hương nhà thơ cựu chiến binh Uyliam
Bôtơn, tưởng sẽ được tiếp đón ân cần, nào ngờ một nhóm người Việt quá khích trưởng
cờ ba sọc, cũng đón tiếp đoàn bằng cà chua và trứng thối cùng một loạt băng rôn
biểu ngữ với lời lẽ chống cộng điên cuồng.
Cầm đầu nhóm lưu vong phản động này là chuẩn tướng nguỵ
Trương Phiên và bộ sậu của tờ báo "Máu đỏ da vàng" một tờ
lá cải của tổ chức "Mặt trận Phục quốc" do nhà văn chiêu hồi Xuyên
Sơn làm chủ bút.
Trương Phiên đã ngoài bẩy mươi, tóc bạc ánh kim, mắt sâu màu
đồng thau, mỗi ngày uống nửa lít rượu, nên da mặt lúc nào cũng đỏ như gà chọi
và chân đi lảo đảo. Có cảm giác như lão sẽ ngã bất cứ lúc nào nếu không có cây
can bịt bạc, vật bất ly thân. Từ ngày chạy sang Mỹ, được chính phủ Hoa Kỳ trả
phụ cấp đặc biệt theo diện những chiến hữu có công trạng chiến đấu cho thế giới
tự do, cộng với lương hưu cao ngất ngưởng, vô công rồi nghề, lão tham gia vào
nhiều tổ chức: "Gươm thiêng ái quốc", "Chuyển lửa về
quê", "Hận núi sông", vv Khi tờ báo "Máu đỏ da vàng" ra
đời, Trương Phiên khoái quá, tình nguyện làm cố vấn, đi vận động tài trợ và
tham gia phát hành báo.
So với nhà văn Du San gầy gò ngày xưa, Xuyên Sơn bây giờ có vẻ
xôi thịt và phàm phu tục tử quá chừng. Các chiến hữu ở quán nhậu bảo cái bụng của
Xuyên Sơn là thùng tô nô đựng bia. Thực ra, nó đựng đủ thứ tạp pí lù. Bia và đủ
loại rượu, ngoài ra là sản phẩm thuộc đủ các trường phái ẩm thực.
Tác giả tập bút ký bóp méo cuộc kháng chiến chống Mỹ: "Xương
trắng đất Việt", vừa viết xong thiên tuỳ bút: "Tử thủ cùng Sài
Gòn", phát ông ổng trên đài Quốc gia chưa trọn hai mươi tư giờ, đã vội
bỏ tử thủ luôn, chuồn theo máy bay trực thăng quan thầy Mỹ, ra Hạm đội 7 đang đợi
ngoài khơi. Sang Mỹ, Xuyên Sơn càng có đất dụng… văn. Hơn hai triệu người Việt
thiếu quê hương, chữ quốc ngữ và tiếng mẹ đẻ là hồn thiêng gắn kết và lưu giữ họ
với cố hương. Nhưng viết văn quá tốn công sức và tâm huyết, những thứ mà Xuyên
Sơn đã mòn kiệt. Viết báo mì ăn liền phục vụ các độc giả thừa thời gian nhưng
đói thông tin, thích chuyện giật gân, chửi bới, vừa nhanh, vừa dễ có tiền. Nhà
văn Xuyên Sơn chuyển sang làm báo chuyên nghiệp. Ông lấy nhiều bút danh, có lúc
không có người viết, ông phải biến báo vừa viết tin, vừa viết bài, ký năm, sáu
tên trên một số báo.
Được ông chủ tịch "Mặt trận Phục quốc", vốn là Tổng
trưởng Chiêu hồi kiêm nhà tài phiệt giàu nhất Sài Gòn, mời, Xuyên Sơn đứng ra tổ
chức tờ "Máu đỏ da vàng", một cái tên gợi nhớ con Rồng cháu Tiên, rất
dễ đánh lừa người Việt hải ngoại.
Thế mạnh của Xuyên Sơn là văn học. Cho nên, khi nghe tin có
đoàn nhà văn Việt Nam sẽ đến thăm New Orleans, ông chủ bút tờ "Máu đỏ da
vàng" đã cho đăng lại toàn bộ loạt bài "có vấn đề" trên
báo Văn Chương:: "Chủ nghĩa phải đạo trong văn chương",
"Khúc ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ", "Hãy cáo
chung dòng văn chương cổ động", "Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội
chủ nghĩa, hay là nửa chiếc bánh mỳ"… Tất nhiên, có cả truyện ngắn "Thần
linh", thủ phạm nguy hiểm nhất, suýt làm Tổng biên tập Châu Hà bị cách chức.
Với tất cả những người say mê văn học và những người làm báo
hải ngoại, mấy năm gần đây, báo Văn Chương là tờ báo duy nhất
trong nước, đã thổi vào họ một luồng gió mới. Họ cảm nhận được thời tiết chính
trị trong nước qua bài vở và những sáng tác mới của các nhà văn. Họ coi Tổng
biên tập Châu Hà, người chấn hưng báo Văn Chương, là người anh hùng của
sự nghiệp đổi mới, nhà cách mạng đang dũng cảm hé mở bức màn đen của một trong
những dinh luỹ cộng sản cuối cùng…
Xuyên Sơn không hề hay biết trong đoàn nhà văn sang thăm Mỹ
có Châu Hà. Ngoài tình bạn, Nguyễn Kỳ Vỹ và Châu Hà là những nhà văn Xuyên Sơn
kính trọng. Từ ngày Châu Hà làm báo Văn Chương, ông càng kính trọng.
Đăng loạt bài này, toà soạn "Máu đỏ da vàng" đã
bộc lộ thái độ nhiệt liệt đồng tình với quan điểm: văn nghệ cần phải tách khỏi
chính trị, phải là lực lượng xã hội phụng sự nhân quần, văn học và báo chí phải
là quyền lực thứ tư, góp phần đẩy mạnh tiến trình tự do, dân chủ. Những
dòng Shapeau in chữ to, chiếm gần hết trang nhất, là những lời quảng
cáo nồng nhiệt: "Trong chế độ kìm kẹp hà khắc của chế độ cộng sản, mọi
phương tiện thông tin tuyên truyền đều cùng một giọng điêu lừa phỉnh, giả dối,
thì báo Văn Chương, tiếng nói của các nhà văn Việt Nam, đã dũng cam đăng một
loạt bài chấn đông, làm nức lòng bạn đọc ca nước, vạch một lộ trình mói: tự do
dân chủ cho văn chương, một sứ mạng mới của nhà văn: viết lên sự thật, phụng sự
Tổ quốc và Dân tộc".
Để cho số báo đặc biệt thêm xôm trò, thu hút độc giả, Xuyên
Sơn còn cho đăng hẳn một đoạn hồi ký về tình bạn giữa ông và Tổng biên tập
báo Văn Chương. Bài này vừa có ý khoe rằng Xuyên Sơn đã có một người
bạn như Châu Hà, nhưng đồng thời cũng như một cảnh báo: Chúng tôi tẩy chay văn
chương cộng sản. Chúng tôi chỉ kính trọng những nhà văn có tâm huyết và dũng
khí như Tổng biên tập báo Văn Chương…
Đoạn hồi ký nhắc lại kỷ niệm về mấy nhà văn, trong đó có Đà
Giang (Châu Hà), Hàn Thâm Nho (Trần Nhân Ảnh), Du San (Xuyên Sơn), và Nguyễn Kỳ
Vỹ. Vào thời kỳ Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam, leo thang bắn phá miền Bắc, họ đã
tụ tập tại nhà Vỹ, bàn nhau viết đơn bằng máu xin ra mặt trận.
Mấy anh chàng, có tác phẩm phơi bày sự thật về cải cách ruộng
đất, từng bị ghi sổ đen, sách bị thu hồi, rất muốn nịnh nọt để được Đảng tin
dùng. Khi thấy Đà Giang viết đơn băng máu, Du San bèn nói kháy rằng có thể đó
là máu đỉa hoặc nước quả mồng tơi. Đà Giang liền nổi điên cầm chiếc điếu cày
phang túi bụi. Rồi cả bọn ôm nhau khóc. Thương cho thân phận những anh văn sĩ
tiểu tư sản bị nghi kị, bị ném ra ngoài rìa thời cuộc. Du San bảo: "Nhiều
khi tao cứ ngỡ mặt mình dính cứt. Ấy là những lúc chi bộ họp, đuổi mình ra
ngoài. Nhục không chịu được. Sau mới biết đó chỉ là cuộc họp để phân phối một
cái lốp xe đạp, một mảnh xô màn… Viết đơn bằng máu, nếu được tin dùng, sướng
còn hơn lau sạch đống cứt trên mặt, các bố ạ…".
Một nghìn tờ báo "Máu đỏ da vàng" số đặc biệt được
phát không để thu hút mọi người tẩy chay bọn bồi bút cộng sản.
Đoàn người biểu tình đi rồng rắn trong khu Vợc-sai, phía đông
thành phố, khu phố làng nổi tiếng với hơn năm nghìn người Việt sinh sống. Cảnh
sát Mỹ phải vào cuộc, sẵn sàng tống giam những phần tử gây rối.
Lâu lắm rồi Trương Phiên mới lại có một ngày phấn khích đến
cao độ. Cổ lão khản đặc vì hò hét, đả đảo. Lão đeo một túi cà chua lệch một bên
sườn. Đến khi nhìn thấy năm thằng nhà văn cộng sản, trong đó có hai thằng mặc đồ
quân giải phóng, đội mũ tai bèo, đi cùng hai nhà văn cựu chiến binh Mỹ trên chiếc
xe mui trần có cảnh sát Mỹ hộ tống, thì cả người lão run lên cầm cập. Cái bộ
quân phục màu cỏ úa cùng chiếc mũ tai bèo kia, bao giờ xuất hiện cũng gây cho
lão sự táng đởm kinh hồn. Đó là hung tinh của đời lão, là hình bóng của tử thần,
nỗi ám ảnh mang màu lửa và máu. Trời ơi, lão đã trốn biệt sang tận cái xứ sở xa
xôi bên kia bán cầu này mà vẫn không thoát nổi chiếc mũ tai bèo. Cả một rừng mũ
tai bèo, trùng trùng điệp điệp, như thiên la địa võng bủa vây lão tứ phía.
Những cái tên Khe Sanh, Cồn Tiên, Dốc Miếu ở vùng chiến thuật
I; Đắc Tô, Pleyku, Ya Súp… ở cao nguyên Trung phần, Bình Long, Đồng Xoài, Bến
Cát… ở Miền Đông, cứ ong ong, toé lửa trong đầu lão, tựa như có hàng trăm mối
dây điện nhằng nhịt bỗng chập vào nhau…
Trương Phiên cầm sẵn trên tay quả cà chua, định nhằm một cái
mũ tai bèo trên xe. Nhưng lão không thể nào ném đi nổi. Lão đảo người, như bị
trúng gió, rồi ngã vật xuống đường.
°°°
Cuộc biểu tình phản đối các nhà văn bồi bút cộng sản, thoắt
cái, đã quay ngoắt một trăm tám mươi độ.
Không phải vì cú ngã của ngài chuẩn tướng Trương Phiên. Chủ
bút báo "Máu đỏ da vàng" đã tự đốt cháy kịch bản.
Ấy là khi Xuyên Sơn bỗng nhìn thấy Châu Hà trong bộ quân phục
giải phóng, đội mũ tai bèo, đang trên xe đi về hướng Nhà sinh hoạt văn hoá Tre
Việt.
- Đà Giang… Châu Hà… Nhà văn Châu Hà!… - Xuyên Sơn vừa gọi, vừa
đuổi theo xe, tay vẫy rối rít.
Cảnh sát chặn Xuyên Sơn lại.
- Hãy để cho tao đến với bạn tao, cái thằng cộng sản trên xe
kia - Xuyên Sơn xổ ra một tràng tiếng Anh không kịp chia vecbờ với anh chàng cảnh
sát da đen - - Dừng lại, Đà Giang… Châu Hà… Du San… đ… â… y…
Nghe gọi tên mình, Châu Hà ngoái lại. Đúng là Du San rồi. Gã
chạy lạch bạch như vịt, cái bụng cóc lắc lư. Hình như gã quá sung sướng như bố
gã đang sống lại. Châu Hà nói với tài xế cho xe chạy chầm chậm.
- Trời ơi, tôi không ngờ là ông lại đặt chân tới nước Mỹ… -
Xuyên Sơn vừa thở, vừa chới với đưa tay về phía Châu Hà - Nhận ra ông, tôi mừng
quá. Hoá ra linh cảm của tôi đúng. Tôi đã tổ chức hẳn một số báo đặc biệt để
chào đón ông.
Một tay Xuyên Sơn nắm lấy tay Châu Hà, còn tay kia chìa ra tờ
báo "Máu đỏ da vàng".
- Có gì mà phải chào đón… Chúng tôi chỉ là những mẩu xương trắng
Đất Việt…
- Thôi mà! Đừng mai mỉa tao nữa, Đà Giang ơi… Xí xoá đi! Anh
em mình sẽ còn gặp nhau tại nước Mỹ này…
Chiếc xe ấn còi đi tiếp. Xuyên Sơn quay lại đám đông như rắn
mất đầu, đang vón lại hai bên đường:
- Giải tán thôi anh em! Người phía ta đó? Tổng biên tập
báo Văn Chương, bạn tôi đó! Chúng ta ra số báo đặc biệt này là để
chào mừng họ… Nào, cùng đến Nhà Tre Việt, anh em ơi!…
Cờ ba sọc, biểu ngũ, băng rôn… bị ném lại dọc đường. Mọi người
theo Xuyên Sơn nhảy lên xe buýt.
Nhà Tre Việt là nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động văn
hoá, văn nghệ, các sự kiện lớn của cộng đồng người Việt tại New Orleans. Hội
trường lớn có sức chứa sáu trăm người, khi năm nhà văn Việt Nam đến, đã chật cứng.
Đón tiếp họ là Hội người Việt tại bang Lousiana, mà Chủ tịch Ban chấp hành là kỹ
sư đặc hạng Nguyễn Kỳ Vọng.
Không thể kể xiết nỗi vui mừng khi Châu Hà gặp lại Nguyễn Kỳ
Vọng tại ngôi nhà Tre Việt, cách xa quê hưong nửa vòng trái đất.
Họ ôm chầm lấy nhau, gục mặt vào vai nhau, lặng lẽ khóc. Thấm
thoắt đã hơn mười sáu năm, kể từ ngày Châu Hà gặp Vọng ở nhà Khiêm. Lần ấy, ông
đã cố thu xếp một chuyến xe để Vọng lên K27 thăm Nguyễn Kỳ Vỹ. Xe Vonga đen hẳn
hoi. Tồng biên tập báo Tia Sáng, bạn ông, sẽ đích thân hộ tống hai anh em lên
thăm "phần tử Xét lại nguy hiểm, chống phá cách mạng" là anh trai của
Vọng. Thế rồi chuyến đi đành phải hoãn lại. Vọng có điện khẩn phải về Sài Gòn.
Vợ và hai con gái ông di tản. Bốn năm sau, Vọng lại tiếp tục vượt biển. Vậy là
qua hai cuộc chiến, rồi tiếp mười mấy năm đằng đẵng, hai anh em Vọng và Vỹ vẫn
biền biệt xa nhau.
- Lúc nhìn thấy anh, tôi cứ ngỡ trong mơ. Không ngờ anh em
mình lại có ngày hội ngộ… Anh với anh Vỹ hồi này có hay gặp nhau không?
- Tuần nào cũng gặp… Biết mình gặp Vọng thế này, Vỹ thèm lắm.
- Bên này, tôi có theo dõi báo Văn Chương… Ba tháng
trước có tin đồn anh bị tù, giống như anh Vỹ…
- Đồn thổi đến thế kia ư? Thế là vu oan cho cộng sản chúng
mình đấy.
- Bên này chúng tôi vẫn không tin cộng sản các anh… Hôm nay
anh phải nói chuyện về tờ báo của anh, về tình hình đất nước. Anh có thấy bà
con chào đón các anh như thế nào không?
- Tuyệt vời! Quá tuyệt vời! - Châu Hà trả lời Vọng mà như nói
với chính mình khi ông nhìn xuống hội trường chật kín không còn một ghế trống.
Không có một ánh mắt thù hận.
Tràn ngập hội trường là tình thân ái, đồng bào.
Trong đời, đã bao nhiêu lần nhà văn Châu Hà đăng đàn diễn
thuyết trước hàng nghìn học sinh, sinh viên các trường phổ thông, đại học, hàng
vạn thợ mỏ, công nhân nhà máy, nông trường, thanh niên xung phong, bộ đội, xã
viên hợp tác xã nhưng chưa bao giờ ông xúc động như hôm nay. Bởi lần đầu tiên,
ông thoát xác khỏi một anh nhà văn tuyên huấn, nói những điều không phải của
chính ông nghĩ, mà là của ai đó của tổ chức, của đoàn thể… Bây giờ, ông đang là
chính ông, anh nông dân, anh bộ đội Cụ Hồ tên khai sinh là Mai Văn Nhạ, là người
cầm bút có tên Đà Giang và Châu Hà. Ông đang trò chuyện với những người đồng
bào cùng một dòng máu, một quê hương, một nước Việt mến yêu. Trước mặt ông là
những người còn mang trên mình đầy thương tích của cuộc chiến đẫm máu, còn mang
nguyên vẹn nỗi hoảng loạn cùng cơn đói khát tột cùng của những ngày vượt biển.
Họ phải từ bỏ quê hương, từ bỏ anh em ruột thịt, từ bỏ ngôi nhà, mảnh vườn mà cả
đời chắt chiu mới dành dụm được, để đến đây, đất khách quê người, để ngửa tay cầu
xin sự bố thí, đe chịu sự ghẻ lạnh, khinh miệt, kỳ thị…Và bây giờ thì họ đang
ngồi dưới mái nhà của họ để nghe ông, kẻ đã từng ở phía bên kia, có tên là Việt
cộng. Kẻ đã góp phần đẩy họ ra khỏi Tổ quốc…
- Thưa bà con cô bác… Sự hiện diện của năm anh em chúng tôi
cùng hai bạn nhà văn Mỹ, Uyliam Bôtơn và Tôm Joyxơ, hai cựu chiến binh đã từng
tham chiến tại chiến trường Việt Nam, tại cuộc họp mặt vô cùng đầm ấm và chân
tình này, đủ cho thấy rằng chúng ta gặp nhau hôm nay là để xoá bỏ hận thù. Tôi
mặc bộ quân phục này, cũng như Tôm và Uyliam mặc bộ quân phục kia, chỉ cốt để
nói rằng chúng tôi từng ở hai phía. Nếu tôi không lầm, chính tôi đã gặp anh bạn
Uyliam đây tại chiến trường Quảng Đà mùa hè năm 1970. Chúng tôi đã chĩa súng
vào nhau, đã bóp cò. Nhưng lạy trời, cả hai cùng bắn trượt.
- Riêng tôi thì lại toàn bắn lên trời - Nhà thơ Tiến Khanh ngồi
bên đế vào, khiến hội trường cười ồ.
Châu Hà nói tiếp:
- Vì thế bây giờ Uyliam, Tôm và chúng tôi mới gặp nhau ở đây
cùng khép lại quá khứ, coi nhau như những người bạn. Và chúng tôi đến với bà
con cô bác mang dòng máu Việt tại thành phố New Orleans này, để nói về điều
này: Đã đến lúc chúng ta phải cùng nhau bàn cách khép lại quá khứ, để hướng tới
tương lai, xây dựng một nước Việt mến yêu đàng hoàng hơn, to đẹp hơn…
Những tràng vỗ tay vang dội, khiến Châu Hà phải dừng bài diễn
thuyết nhiều lần.
Những tiếng sụt sịt của phụ nữ và người già.
Có một tràng vỗ tay lạ ở phía cuối hội trường. Châu Hà nhìn
xuống. Ông nhận ra bộ mặt đầy phấn khích của Xuyên Sơn.
Thì ra, chủ bút tờ "Máu đỏ da vàng, được xếp vào diện
quá khích, không có giấy mời. Đích thân ông Nguyễn Kỳ Vọng phải can thiệp với
ban tổ chức, tác giả "Xương trắng Đất Việt" mới vào được.
°°°
Ngày mưa ở New Orleans.
Kế hoạch đi thăm cầu Pontchartrain, sân vận động Superdome,
khu French Quarter, rồi công viên quốc gia lịch sử Jean Laffltte… đành phải
hoãn lại. Bốn nhà văn đáp xe lửa đến thăm trang trại nhà Tôm Joyxơ. Riêng Châu
Hà đến chơi nhà ông Vọng.
Đã sáu năm nay ông Vọng ở độc thân. Hầu như bạn bè thân
thích, rất ít người biết chuyện này. Đây là nỗi đau riêng mà ông không muốn
chia sẻ với ai.
- Tôi muốn được thăm Miên và hai cháu Vân, Vy…
Chưa nói hết câu, Châu Hà đã biết mình lỡ lời khi ông nhìn thấy
trên giá, tấm ảnh một cô bé chừng hơn mười tuổi lồng trong khung đen.
- Cháu Nguyễn Lê Kỳ Vân, chị con Vy đấy bác ạ. Nếu sống, bây
giờ đã vào tuổi ba mươi rồi. Cháu mất trên biển, trong chuyến ba mẹ con di tản.
Miên và cháu Vỹ giấu tôi, cho tới khi tới Mỹ tôi mới biết. Mỗi lần viết thư về
cho tôi, Vỹ đều giả chữ viết của chị. Suốt bốn năm, tôi cứ tin con bé vẫn còn sống…
- Cháu mất trên biển? - Châu Hà như không nghe rõ, hỏi lại.
- Vâng. Cháu Vân chỉ là một thuyền nhân xấu số. Anh có biết
bao nhiêu mạng người Việt mình đã bị làm mồi cho cá biển trong cuộc chạy trốn
khỏi Tổ quốc vừa qua không?
Ánh mắt Vọng vằn lên, dữ dội. Đôi mắt như hai móc xoáy, dọi
thẳng vào Châu Hà, khiến ông hốt hoảng, quay đi.
- Chưa ai thống kê con số này - Vọng nói tiếp - Mười nghìn?
Trăm nghìn hay hơn nữa? Hãy thử làm một phép tính: Hai triệu người vượt biển, nếu
chỉ cần một phần trăm trong số đó rớt xuống biển…
- Sẽ là 20.000 người…
- Đó một nấm mồ khổng lồ dưới biển không ai hương khói. Nhưng
sao lại một phần trăm? Sao lại chỉ có 20.000? Phải hàng trăm nghìn. Một vết đau
của lịch sử đang cố bị quên đi. Thật khủng khiếp. Thật vô cảm.
- Có nhiều đến thế không? - Châu Hà bỗng choáng váng với những
con số.
- Anh là một nhà văn, không thể không biết sự thật về cuộc di
tản đau đớn và khủng khiếp nhất của lịch sử người Việt. Cuốn hồi ký này, tôi viết
tặng anh Vỹ tôi. Nhưng anh ấy đã là phế nhân rồi…
Nguyễn Kỳ Vọng lấy trong tủ đưa cho Châu Hà tập bản thảo vi
tính, bìa xanh màu nước biển, có tựa đề: Hồi ký "Kẻ tha hương".
Suốt buổi chiều, rồi cả buổi tối, Châu Hà như lên cơn sốt. Những
trang hồi ký thiêu đốt ông. Ông muốn cấu xé, đập vỡ một cái gì đó. Ông tu rượu
Brandy ừng ực. Kể từ hôm nay, cuộc đời ông sẽ không thể yên ổn.
- Cái chết của cháu Vân bi thảm quá - Vọng nói - Bọn hải tặc
đã nhảy lên cướp tàu và hãm hiếp đàn bà con gái. Cháu Vân, mười ba tuổi, bắt đầu
tuổi dậy thì. Bị làm nhục, cháu nó phát điên, gào thét, hoảng loạn, rồi cháu
gieo mình xuống biển…
Mắt Châu Hà đỏ hoe. Ông đảo xung quanh, tìm một nén hương,
nhưng không có. Ông chắp hai tay, đến trước tấm ảnh cô bé.
- Vân ơi, cháu tha lỗi cho bác. Bác có tội… Bác không biết
làm gì để cứu cháu…
- Có lẽ tình cảm của Miên đối với tôi đã rạn nứt từ sau cái
chết của cháu Vân - Vọng như tìm thấy người đồng cảm, muốn trút bầu tâm sự -
Miên oán trách tôi vô trách nhiệm. Miên mệt mỏi vì bốn năm chờ đợi, phải một
mình chống chọi với biết bao gian nan thử thách trên xứ người. Đến khi hai vợ
chồng gặp lại nhau, gia đình sum họp, thì tình yêu của Miên đã chết…
- Không thuần tuý là như vậy… Tôi cảm thấy còn có một nguyên
nhân khác?
- Đúng là không thể giấu được anh… Trong thời gian nhà tôi và
cháu Vỹ đến ở Cali để chờ tôi, có một anh người gốc Mễ Tây Cơ luôn săn đón,
giúp đỡ. Họ phải lòng nhau. Miên bảo, cô ấy dị ứng với tất cả mọi đàn ông người
Việt. Toàn một lũ vô trách nhiệm và hèn hạ. Miên viết đơn ra toà đòi li hôn nhiều
lần, nhưng tôi cố trì hoãn cho đến khi cháu Vỹ tốt nghiệp bác sĩ đi làm và xây
dựng gia đình, tôi mới chính thức ly dị.
- Kết cục bi thảm vậy ư?
- Không còn cách nào khác. Tôi phải lấy công việc để khuây
khoả. Thời gian này tôi được thăng kỹ sư công chánh đặc hạng, được Hội đồng
thành phố New Orleans tuyên dương công trạng vì đã có công lao xây dựng tuyến
hành lang dọc bờ sông Misissippi… Cũng may, cuộc đời không quá bất công. Người
bạn gái Hà Nội thời trẻ đã bù đắp cho tôi quãng đời còn lại… Chúng tôi sống với
nhau như những người bạn tri kỷ. Thỉnh thoảng nàng lại từ Bôtxtơn xuống, hoặc
tôi từ đây lên…
- Có phải Tạ Thu Uyên, người đàn bà kiều diễm trong hồi ký
"Kẻ tha hương" và là người trong bức ảnh kia không?
- Thu Uyên đấy. Nàng là mối tình đầu của tôi. Đã cùng tôi di
cư vào Nam. Quá hận vì tôi đã khước từ nàng để lấy Lê Thuỳ Miên, Tạ Thu Uyên đã
lấy viên thiếu uý theo đuổi nàng. Ông ta đã được thăng tới quân hàm đại tá.
Nhưng rồi, viên đại tá ấy tử trận ở cửa ngõ Dầu Giây trước ngày Sài Gòn thất thủ.
- Xin chúc mừng cuộc tái hồi Kim Kiều - Châu Hà rót rượu ra
hai ly, cầm một ly đưa cho Vọng. Hy vọng trong những ngày ở Mỹ, tôi sẽ được gặp
Thu Uyên. Tôi hình dung ra một thiếu nữ Hà Nội thời trẻ. Bao nhiêu thương hải
tang điền mà nàng vẫn kiều diễm, dịu dàng…
- Tôi hiểu anh đang nói đến nền tảng văn hoá, bản sắc dân tộc.
Dù đi đến cùng trời cuối đất, người Việt mình cũng không thể hoà tan, biến mất
trong biển lớn nhân loại. Anh đến Sài gòn Little ở Cali, hay đến Vécsai ở New
Orleans vừa rồi, đã thấy rõ điều đó. Người Việt dù bị văng ra khỏi Tổ quốc thì
họ cũng sẽ trở thành những tiểu vệ tinh luôn quay quanh đất Mẹ…
- Ông thực sự là một nhà văn. Ông có cái gien của Nguyễn Kỳ Vỹ.
Đọc hồi ký của ông, rồi nghe ông nói, tôi tin như vậy. Ông có định viết một cuốn
tiểu thuyết không?
- Tôi không có ý định. Vả lại số người Việt ở hải ngoại nhiều
người đã chuyển sang đọc tiếng Anh. Nhà văn ở đây không có độc giả. Các anh có
lợi thế là có tới tám mươi triệu người đọc…Vậy mà thật tiếc. Sao văn chương của
chúng ta lại nhạt nhẽo, giống như văn kiện?
Châu Hà giật mình. Ông thấy má mình, hoặc ở đâu đó trên mặt,
như có vết nhơ.
- Tôi nói anh đừng giận. Bời tôi từng có bốn năm ăn lương
công chức cộng sản. Trong thời gian ấy tôi đã tìm đọc hầu hết các tác giả văn học
thế hệ các anh… Tôi rất mừng vì báo Văn Chương của anh đã cho
đăng loạt bài mà tờ báo của Xuyên Sơn ở bên này vừa in lại. Các anh đã tìm thấy
căn bệnh. Nhưng các anh không dám dũng cảm chữa trị…
- Căn bệnh xã hội hay căn bệnh văn chương?
- Cả hai. Bởi văn chương của các anh chỉ là sự minh hoạ… Văn
chương cũng như xã hội, mắc phải căn bệnh giả dối trầm trọng. Đời sống xã hội
nước ta không tự nhiên như nó cần phải có. Lúc nào người ta cũng lên gân với
nhau. Cha lên gân với con, chồng lên gân với vợ. Cấp trên lên gân với cấp dưới…
Trẻ học mẫu giáo mà toàn như cụ non, cũng lên gân để cố yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào, học vẹt những điều lớn lao, sáo rỗng. Chúng không được dạy yêu ông bà, cha
mẹ, yêu cái gia đình nhỏ bé của mình, trước khi yêu những gì rộng lớn hơn… Văn
chương thì chỉ một gam tô hồng, coi cách mạng Việt Nam là nhất thế giới, là
tiên phong của nhân loại. Chủ nghĩa xã hội là thiên đường, Tư bản là xấu xa,
đang giãy chết… Căn bệnh chủ quan giáo điều, bệnh thành tích là nguyên nhân của
thói giả dối, đạo đức giả. Hồi ở Phân Cục đường bộ phía Nam, mấy năm liền tôi đọc
báo cáo tổng kết đều thấy viết năm sau thành công hơn, xuất sắc hơn năm trước.
Nhưng thực tế đều ngược lại - Nguyễn Kỳ Vọng ngừng lại, gõ trán, rồi quay sang
Châu Hà - Cái ông Phó Thủ tướng nước mình chuyên vác rá đi xin khối SEV tên là
gì ấy anh nhỉ?
- Ông Lê Thanh Nghị.
- Đúng rồi. Ông Lê Thanh Nghị là một người đi xin vĩ đại. Bên
này cứ tưởng khi Liên Xô tan rã thì các anh không trụ vững được nửa năm.
- Đó là thời kỳ khốn khó nhất của đất nước - Châu Hà rót một
ly rượu uống cạn, mắt nhìn xa tít về phía cánh rừng sau nhà - Các ông chỉ nhìn
thấy niêu cơm của nhà mình mà không nhìn ra vận nước. Cả nửa thập kỷ 70, 80, có
ai để cho chúng ta yên để xây dựng hoà bình? Biên giới Tây Nam. Rồi biên giới
phía Bắc. Mỹ bao vây cấm vận hơn chục năm trời. Anh em trong phe thì cắn xé
nhau… Nhìn vào đâu cũng thấy mờ mịt, không xác định ra phương hướng… Ông có biết
sau vụ đổi tiền, tình hình kinh tế như thế nào không? Năm 1986, lạm phát phi mã
đến mức kỷ lục thế giới, kỷ lục mọi thời đại: bẩy trăm tám mươi phần trăm
(780%)..
- Sao? Anh nói lại đi. Mức lạm phát ấy tôi chưa nghe nói đến
bao giờ.
- Vậy mà nền kinh tế chúng ta đã thảm hại như thế. Năm 1987,
Nghệ An, Thanh Hoá có người chết đói. Giáo viên nhận lương bằng phân đạm, mỳ
chính. Trẻ em sơ sinh, phải có chứng nhận của bác sĩ, thừa nhận mẹ mất sữa mới
được mua phân phôi bốn hộp sữa ông Thọ một tháng…
- Trời đất, hoá ra người tị nạn chúng tôi, ăn bố thí của Liên
Hợp Quốc còn khá hơn…
- Ngày ấy nếu mở cửa tự do, sẽ có nửa nước ra đi. Tức là vài
chục triệu người. Không phải chỉ sang Mỹ, Tây Âu, mà nơi nào dễ sống hơn là ào
ào đến. Khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, gần nửa triệu người không về. Thà sống
lưu vong, bất hợp pháp chứ quyết không về nước để bám đít con trâu, theo tiếng
kẻng hợp tác, ăn bo bo, bột mì viện trợ. Ba mươi năm chiến tranh, hậu hoạ bây
giờ mới ngấm…
- Vậy mà tôi không thể hình dung nổi. Công của Đảng hay công
của Dân?
- Cả hai. Đó là thành tựu của công cuộc Đổi Mới. Từ chỗ đi
xin ăn, chuyên nhập lương thực, năm 1989 ta đã bắt đầu xuất khẩu gạo. Năm 1990
đã xuất gần hai triệu tấn… Và bây giờ là bốn, năm triệu tấn, đứng hàng thứ hai
thế giới, chỉ sau Thái Lan. Chúng ta không những trụ vững mà còn trên đà phát
triển…
- Nếu tôi không lầm thì sự thoát khỏi cái đói là do sự vận động
của dân. Làm kinh tế tư nhân bây giờ cũng là do dân. Dân mình vĩ đại hơn là
lãnh đạo các anh tưởng. Anh có hay xem đấu Quyền Anh không? Các võ sĩ lên võ
đài, bị nockout, bị thâm tím mặt khi gượng dậy có anh nào bảo rằng sẽ cạch đến
già, sẽ giải nghệ đâu? Tôi thua là do khi ấy tôi chủ quan không chú ý cú đòn
móc phải. Tái đấu, nhất định tôi sẽ thắng… Làm chính trị là thế, cà cuống chết
đến đít vẫn còn cay. Không đổ vỡ, không tan rã là do dân mình quá tốt. Dân mình
quá tin yêu cách mạng chứ không phải do các anh tài giỏi gì đâu. Cụ Hồ nói Dân
là nước, Đảng là thuyền, là chí lý đấy Các anh lái thuyền đi vòng vèo, đổi hướng
xoành xoạch. Người ta làm một lần là xong, nhưng các anh luôn sửa sai, điều chỉnh.
Nghị quyết này phủ định nghị quyết khác. Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930, Nam Kỳ Khởi
nghĩa năm 1940, rồi Mậu Thân 1968, thành cổ Quảng Trị 1972… hy sinh toàn bộ lực
lượng cốt cán, hàng vạn tinh hoa ưu tú nhất của dân tộc, thì các anh bảo là tập
dượt, là tiền khởi nghĩa, là đêm trước của cách mạng… Nhân dân luôn là vật thí
nghiệm… Và các vị, giống như người đẽo cày giữa đường, người gọt chân cho vừa
giày… ở bên này nhưng chúng tôi vẫn thuộc câu ca: "Mất mùa là tại
thiên tai. Được mùa là bởi thiên tài Đáng ta". Dân biết hết cả. Nhưng dân
mình hiền. Không nỡ giận con chuột mà đập vỡ cái bình quí. Lấy đại cục làm trọng,
chứ không câu nệ cái tiểu tiết. Dân tộc mình như thế, văn hoá lịch sứ mình như
thế, đất đai sông núi như thế, có kém gì nước Nhật, nước Hàn, nước Thái… mà mãi
vẫn không trở thành cường quốc được, vẫn luôn xếp hàng cuối sổ của thế giới?…
Đau lắm chứ…
Châu Hà không ngờ Vọng lại quyết liệt và đáo để đến thế. Ông
ta đang muốn trút tất cả những ẩn ức, bực dọc lên đầu cái tay nhà văn bồi bút cộng
sản.
- Nói như ông thì chúng tôi chịu. Bởi vì cuộc cách mạng của
dân tộc Việt Nam mình không hề có kịch bản viết sẵn. Nhưng sao ông vô can, ông
đứng ngoài cuộc? Lúc khó khăn nhất thì các ông rũ tay áo, bỏ nước ra đi? - Châu
Hà chua chát. Ông cảm thấy mình đang bị thương tổn.
- Ai tin tôi? Ai cho tôi cống hiến? - Vọng cũng rót một ly rượu
ngửa cổ uống cạn, rồi bỗng xấn xổ, như muốn dồn Châu Hà vào chân tường - Các vị
có cả một hệ thống tổ chức từ cơ sở tới Trung ương để chọn lọc những người được
cầm quyền. Từ tổ phó trở lên đã phải qua hệ thống sàng lọc trước khi đề bạt.
Dân thường chẳng ai chen vào được. Đất nước của các vị chứ đâu phải của mọi người
Việt? Anh có biết bạn tôi, nhà sử học Võ An Thới nói gì không? Anh ta bảo rằng
các anh sổ toẹt hết lịch sử. Giành được nước là các anh đút túi như của cải
riêng của mình. Các anh vô ơn, chẳng cần biết rằng đất nước này có tới bốn
nghìn năm dựng nước và giữ nước, mà các anh mới chỉ là khoảng khắc, công lao
như cái móng tay. Nếu không có công lao mở cõi của tổ tiên từ thời Lý, Trần, nếu
không có Đoan Quận công Nguyễn Hoàng với cuộc vượt biển vào Ái Tử, Quảng Trị
năm 1558, rồi tiếp đời các chúa Nguyễn đưa dân Việt vào mở mang khai khẩn, thì
ranh giới nước Việt còn ở tận Châu ô, Châu Rí, tận Thuận Quảng, Phú Yên, chứ
đâu có Sài Gòn, Cà Mau, Hà Tiên, Phú Quốc… cho các anh giải phóng? Vậy mà vừa
vào Sài Gòn, việc đầu tiên của các hậu sinh là xoá sổ hết những con đường, những
địa danh mang tên Nguyễn Hoàng và các hậu duệ, các công thần nhà Nguyễn… Trong
câu chuyện này, người Nga họ sòng phẳng và tín nghĩa hơn chúng ta. Họ lấy lại
tên Sankt Peterburg thay Leningrad để vinh danh Pier Đại đế, người anh hùng vĩ
đại đã sáng lập nên thành phố bên bờ biển Ban Tích, đã đưa nước Nga lạc hậu trở
thành cường quốc ở châu âu… Chúng ta thì khác. Độc quyền tất cả. Đến như một
tình yêu nước nhỏ nhoi, thiêng liêng… - Nguyễn Kỳ Vọng uất nghẹn, trào nước mắt
- Sang bên này, từ một kẻ tha hương, lê lết hết cửa này đến cửa khác để xin việc,
thi lấy đủ thứ chứng chỉ, nhưng khi đã chứng tỏ được năng lực, thì tôi lại được
tin dùng như mọi công dân Mỹ, trở thành kỹ sư công chánh đặc hạng, hưởng mức
lương cao không kém thị trưởng thành phố. Người ta không cần biết tôi là người
Việt, ghét hay thân cộng sản, chỉ biết tôi có năng lực làm việc, có lương tâm
nghề nghiệp… là họ sẵn sàng tin dùng và trao cho những trọng trách. Còn hồi làm
việc ở Phân cục Cầu đường, tôi không nhìn thấy tương lai. Tôi không thể nào
thích ứng với một lối sống luôn bị áp đặt, luôn bị ức chế. Độc quyền trong
thương hiệu hàng hoá, trong phát minh sáng chế, chiếm lĩnh tài năng, sẽ tạo ra
sự cạnh tranh, sáng tạo, nhưng độc quyền yêu nước… sẽ tiêu diệt mọi khát vọng,
tự do, dân chủ… Anh có khi nào nghĩ rằng mình đang là một tín đồ tôn giáo
không? Được làm việc mấy năm với các anh, tôi hiểu ra rằng người ta đang biến học
thuyết của Mác thành một thứ tôn giáo, lãnh tụ thành giáo chủ. Vì thế mọi hình
thái của nhà nước, bầu bán nọ kia đều là giả vờ. Nhà báo nhà văn các anh cũng
giả vờ viết. Các anh thụt lùi so với các cụ Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố
một khoảng rất xa… Anh Châu Hà, tôi hỏi thật, có khi nào anh trăn trở rằng
chúng ta đang rơi vào bi kịch của kẻ lập dị không? Trong khi thế giới đang đi
trên một đại lộ rộng lớn, với đủ làn đường cho các loại phương tiện có động cơ,
tốc độ khác nhau, thì riêng chúng ta lại chọn một con đường vô định… Thật quái
đản, khi cuối cùng người ta đã phải thừa nhận nền kinh tế thị trường, nhưng lại
cố gắn sau đó một cái đuôi…
- Nhận thức là một quá trình… Cái thời ấu trĩ trong tư duy,
trong nhận thức và hành động sắp qua rồi… Chúng ta đã rút ra những bài học
trong xây dựng kinh tế. Chúng ta sắp vào WTO. Việt Nam đang được thế giới đánh
giá là nước có tốc độ phát triển thần kỳ…
- Anh đã mắc phải căn bệnh thích tổng kết và rút kinh nghiệm.
Khi các anh kịp thời tổng kết và rút kinh nghiệm, thì lịch sử đã tiến một bước
xa. Cải cách ruộng đất là một ví dụ. Khi chúng ta kịp sửa sai thì hàng vạn đảng
viên ưu tú, hàng vạn những nhà quản lý nông nghiệp giỏi, đã bị nghi oan là địa
chủ cường hào gian ác và bị hành quyết. Thầy tôi là một nạn nhân của tội ác lịch
sử đó. Vụ khoán ruộng của ông Kim Ngọc ở Vĩnh Phú là một ví dụ khác. Đến khi nhận
ra sai lầm, thì nông nghiệp, nông thôn đã kiệt quệ. Bây giờ, khi chúng ta đang
rút kinh nghiệm tại sao Liên Xô và Đông Âu sụp đổ thì nước Nga, các nước Ba
Lan, Hunggari, Bungari và kề cận ta là các nước Thái Lan, Malaixia, Singapore…
đã tiến một bước xa vượt chúng ta hàng mấy thập kỷ… Rồi ai sẽ chịu trách nhiệm
trước lịch sử về sự tụt hậu này?
- Thôi, chúng ta không nói chuyện chính trị… Nhức đấu lắm -
Châu Hà thở dài, giơ hai tay lên như xua ruồi. Ông biết, Nguyễn Kỳ Vọng có kiến
thức sâu rộng chẳng kém gì một nhà xã hội học. Ông ta đưa ra những chứng cớ rất
khó phản bác.
- Hiếm khi anh em mình gặp nhau, nên tôi muốn được trút bầu
tâm sự để nhẹ lòng. Anh là nhà văn, chắc anh phải trăn trở hơn tôi rất nhiều. Bởi
văn chương sẽ là vô bổ, nếu không ký thác được điều gì. Nhà văn nếu không phải
là người phản biện của xã hội thì anh ta còn có ích gì? Anh có biết rằng sau
đêm đón các anh ở nhà Tre Việt, tôi mơ thấy gì không?
- Mơ gì?
- Anh đừng giận. Anh đừng cho tôi là thằng xỏ xiên thì tôi mới
nói.
- Mình đang ở trên đất Mỹ, đất nước được coi là tự do nhất thế
giới…
- Tôi mơ gặp anh Vỹ tôi. Anh Vỹ mặc bộ quần áo trắng, treo
ngược người, như trồng cây chuối trước nhà thờ ở Nguyễn Kỳ Viên. Tôi đến định
cởi dây thừng cho Vỹ. Nhưng Vỹ xua tay và bảo: "Anh không muốn sống nữa".
Tôi hỏi vì sao? Vỹ bảo: "Có nhà sử học vừa viết rằng Cách mạng nước ta
không phải mãi tháng Tám năm 1945 mới thành công mà đã giành chính quyền từ tay
thực dân Pháp từ năm 1930… Đọc đến đây anh không muốn sống nữa. Vì nếu như vậy
thì văn học nghệ thuật nước nhà làm sao có được những trào lưu như Thơ Mới, Tiểu
thuyết Thứ Bẩy, Tự lực Văn đoàn, những Tân nhạc, Mỹ thuật Đông Dương… mà hàng
loạt tên tuổi lừng danh đã làm vẻ vang cho xứ sở, như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Văn
Cao, Đoàn Chuẩn, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc
Vân, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên…" Đến
đây, thì tôi giật mình tỉnh dậy. Người toát hết mồ hôi.
Châu Hà không biết Vọng mơ như thế hay bịa ra một giấc mơ.
Và đến lượt ông, cũng toát hết mồ hôi.
°°°
Trước khi đoàn nhà văn Việt Nam rời New Orleans để đến
Washington DC, Xuyên Sơn gọi điện cho Châu Hà, tha thiết xin được gặp đoàn.
Châu Hà một mực khước từ. Ông thấy không có điều gì để nói với
con người phản bội lý tưởng ấy nữa. Nhưng ông ta khóc lóc quá trời. Chiếc máy
điện thoại tưởng như tuôn đầy vào tai Châu Hà nước dãi và nước mắt. Vốn thương
người và không nỡ bất nhẫn, Châu Hà đành nhận lời.
Họ hẹn nhau ở Hà Nội quán, gần khu Shadow Brook. Xuyên Sơn và
Trương Phiên cùng mấy người bạn đã đến từ trước và chuẩn bị một bữa ăn khá thịnh
soạn.
- Hôm nay chúng ta sẽ sống một không khí thuần Việt để nhớ cố
hương. Đây là sáng kiến của ông Trương Phiên, chuyên gia ẩm thực - Xuyên Sơn giới
thiệu Trương Phiên và nhóm bạn bè với các nhà văn.
Trong khi mọi người làm quen, chụp ảnh, Xuyên Sơn kéo Châu Hà
ra một góc, ra sức trổ tài khuyển mã để mong Châu Hà hãy tha thứ cho mọi tội lỗi
của mình. Rồi ông ta vẫy tay, một cô gái mặc áo dài hoa hiên bước lại, đưa một
tờ báo kèm một phong bì trên chiếc khay sứ.
- Ông có thể căm thù, hoặc khinh ghét tôi, đấy là quyền của
ông. Nhưng lòng tôi đối với ông vẫn như thăng Du San đối với Đà Giang ngày nào.
Nhân ông sang đây, tôi mạn phép đăng lại loạt bài của báo Văn Chương.
Và gọi là có chút nhuận bút còm, 1.000 đô la…
Như bị điện giật, Châu Hà rụt phắt tay lại.
- Tôi đâu phải là tác giả? Và chúng tôi cũng không gửi bài
cho các ông.
- Ông cứ cầm lấy mà tiêu. Đây là nguyên tắc báo chí. Lẽ ra
chúng tôi phải xin phép trước khi đăng - Xuyên Sơn cầm chiếc phong bì dúi vào
tay Hà, giọng nhỏ lại - Còn đây là 500 đô la của riêng tôi, nhờ ông chuyển cho
Vỹ. Bên này bồi bút như tôi cũng không sống nổi đâu. Kiếm được tiền là nhờ trồng
cần sa đấy… Nghe nói từ khi Vỹ ra tù, sức khoẻ yếu lắm?
- Cũng bình thường lại rồi. Biết tôi sang đây, Vỹ nó cấm
không muốn tôi gặp ông… Ông gửi người khác đi.
- Giời ơi - Mắt Xuyên Sơn ướt nhoẻn - Cái thằng đã thành kiến
với ai thì xúc đất đồ đi. Tôi phản động chứ đồng đô la nó có tội tình gì? Nó
làm thế tôi càng thấy tội mình đáng chết. Đà Giang ơi, cứ cầm về đưa cho Vỹ dưỡng
bệnh. Đừng nói tôi gửi.
- Kỳ cục chưa? Sao mấy văn sĩ lại uỷ mị thế này? - Chủ quán một
trung niên có bộ râu đen ánh đến bên Xuyên Sơn từ lúc nào - Thôi, mời hai ông
anh cùng các vị quan khách vào tiệc.
- Chúng tôi muốn chiêu đãi quí vị đặc sản thịt cầy bẩy món, nấu
theo vùng ẩm thực trứ danh Phương Đình - Trương Phiên trịnh trọng nói lời phi lộ
- Hồi tôi đóng quân ở làng Động, cụ Lý Phúc, thân sinh nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ và
ông chủ tịch Hội người Việt ở New Orleans Nguyễn Kỳ Vọng đã dạy tôi thưởng thức
món này. Và tôi nghiện cho đến bây giờ…
Mấy ông nhà văn cộng sản ngỡ như mình đang ngồi ở quán Trần Mục,
Nhật Tân, hay ở một ngôi nhà đâu đó có hàng sau luỹ tre, và văng vẳng bên sông
một tiếng ru hời. Mâm đặc sản thịt cầy với đĩa hấp bốc khói hôi hổi, đĩa dồi nướng
màu cánh dán, bát nhựa mận ngào ngạt vị riềng, tô xáo măng vàng suộm, bát mắm
tôm ngào bọt… rồi rau húng quế xanh rờn, lá mơ hồng tía, riềng thái lát, ớt đỏ
tươi… một hoà sắc, quện hương, đầy quyến rũ…
- Đã là quốc hồn quốc tuý thì phải dùng thứ quốc tửu chính hiệu
- Chủ quán lấy ra chai rượu nút lá chuối trong vắt - Giới thiệu với quý vị, đây
là rượu Vân chính hãng, một người bạn từ Bắc Ninh vừa gửi sang. Có đủ các loại
rượu ngoại hảo hạng và bia, nước giải khát trên bàn, xin dùng tự do, nhưng
chúng ta phải mở đầu cuộc vui này bằng chén rượu quê nhà.
Rượu rót đầy các ly.
- Và để cho thấm đẫm tình quê hương xứ sở, mở đầu cuộc vui,
các liền anh liền chị Quan họ của Hà Nội quán chúng tôi xin có màn chào hỏi.
Chủ quán Hà Nội vừa dứt lời, tiếng đàn nhị bỗng ngân vang.
Sáu thiếu nữ, áo tứ thân, tóc bỏ đuôi gà, như từ quê hương Quan họ vừa sang,
tha thướt nâng rượu mời khách.
Khách đến… ì… chơi… ì… i… ì… nhà, Hôm nay đây hỏi cô mình ơi…
khách đến… ì… chén… ì. ~ i… nhà, Rượu ngon em nay đã rót… Rượu ngon em nay
đã rót, mà này để… ối a… tay ngà, tay ngà chúng em trao…
- Nào, xin nâng cốc. Chúc mừng đất nước yên bình. Chúc
con dân nước Việt xoá bỏ hận thù, hướng về nguồn cội…
- Chúc mừng.
- Xin chúc mừng…
Tiến Khanh bấm Châu Hà, nói thầm:
- Phải đề phòng diễn biến hoà bình…
Châu Hà gật gù:
- Thì chúng ta đang là sứ giả hoà bình. Người Việt tha hương
tội nghiệp lắm…
Bèo dạt mây… ì… i… trôi…
Chốn xa xôi… anh ơi, em vẫn đợi ì… i… bèo dạt… mây… trôi Chim
sa… tang tính tình… cá… i… vờn…
Hẹn một… tin trông… hai tin đợi… ba bốn tin chờ…
Sao chẳng thấy… ì… i… anh…
Tiếng hát làm Châu Hà cay mắt. Tiếng hát như lời trách cứ thổn
thức, rưng rưng. Ở bên này đại dương, xa quê nhà ngàn trùng dặm thẳm này, nghe
tiếng Quan họ, không thể cầm lòng được. Ôi, thật kỳ diệu là nền văn hoá Việt.
Nó trói buộc người ta. Nó cởi bỏ phiền muộn, hận thù.
- Đà Giang ơi, bây giờ thì ông đã tha thứ cho tôi chưa? - Mắt
Xuyên Sơn ướt nhoẻn, ông đến bên Châu Hà - Tôi mắc tội là kẻ phản bội, kẻ chiêu
hồi. Nhưng ngày ấy, thực tình tôi không tin rằng chúng ta sẽ thắng. Gian khổ
quá. Khốc liệt quá. Tôi không chịu đựng nổi…
Thôi, chuyện qua rồi… Tôi mừng vì ông vẫn là một người Việt.
- Tôi không dám viết văn nữa ông ạ. Không đủ tư cách cầm bút.
Giờ tôi chỉ là một bồi bút kiếm ăn. Như thơ Nhã Ca: "Đổi họ thay tên viết
văn làm báo. Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo". Nhưng mà ông có tin không, tôi
yêu nước Việt. Tôi muốn về thăm quê. Ông có giúp tôi trở về quê Việt không?
- Đất nước đang mở vòng tay đón những người con xa…
- Thật thế chứ? Các ông cho chúng tôi được yêu nước cùng với
chứ? Tôi nghe nói Chính phủ Việt Nam đã nhìn nhận Việt kiều như một bộ phận
không tách rời của dân tộc. Nhưng nghe ông nói tôi mới tin…
- Tôi cũng xin được về quê với - Trương Phiên có vẻ ngà say.
Lão kéo Xuyên Sơn ra, ngồi cạnh Châu Hà, rót thêm rượu vào hai ly - Từ lâu tôi
đã ra khỏi tổ chức "Việt Nam Phục quốc" rồi… Tôi đã có khoảng cách để
nhìn rõ tội ác của mình. Tôi đáng tội tùng xẻo vì đã giết bao mạng người Việt
vô tội. Tôi là tên đồ tể mang dòng máu Việt. Nhưng biết sao được? Chúng ta chỉ
là những con tốt trên bàn cờ thế sự… Thôi, tha tội cho lão già gần đất xa trời
này nhé… Tôi uống để tỏ lòng kính trọng một nhà văn bản lĩnh như ông… Cạn nhé…
Cám ơn Bây giờ, tôi muốn hỏi ông chuyện này. Ông trong giới lãnh đạo chắc có biết
bà Đào Thị Cam…
Châu Hà chau mày nhìn Trương Phiên.
- Bà Đào Thị Cam hồi chống Pháp hoạt động ở Sơn Minh… Nghe
nói làm chức gì to lắm, trong ban lãnh đạo phụ nữ… Đấy là nguyên mẫu văn học của
tôi - Châu Hà bỗng nhớ tới truyện ký "Người đẹp Sơn Minh hay là huyền
thoại về Ni cô Đàm Hiên" - ông quen chị Cam à? Chị ấy từng trong Ban lãnh
đạo Hiệp hội Phụ nữ. Nhưng đã nghỉ hưu lâu rồi.
- Đó là người đàn bà tôi không thể nào quên được… - Trương
Phiên đờ đẫn, như thể lão đang sống lại những năm tháng tuổi trẻ - Nửa cuộc đời
của tôi đã để lại ở Sơn Minh đấy ông ạ. Nghe nói ngôi đình làng Động nổi tiếng,
sau khi chúng tôi rút quân đã bị giật đổ… Thề có thánh thần, tôi không làm việc
ấy. Tôi có tội lớn với làng Động, với bà Cam… Ông ơi, cho tôi gửi lời hỏi thăm
bà ấy nhé - Trương Phiên lấy từ trong tủi áo một chiếc hộp nhỏ đã được chuẩn bị
từ trước – Nếu ông thấy không phiền thì cho tôi gửi đến bà ấy một chút quà.
Không có gì phải bí mật đâu. Đó chỉ là một sợi dây thánh giá con gái tôi đã tặng
tôi để cầu phúc. Tôi gửi bà Cam để cầu mong cho bà ấy sức khoẻ và tha thứ cho
tôi mọi tội lỗi…
- Không biết tôi có xứng đáng là người mang trọng trách giao
liên này không - Châu Hà nhìn Trương Phiên với cái nhìn cảm thông.
- Ông cố giúp tôi nhé - Trương Phiên nài nỉ và lại lấy trong
túi ra một tấm ảnh - Còn đây, là kỷ niệm tôi muốn tặng ông. Ông có thể xem đây
như một tư liệu để viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh. Người lính giải
phóng trong bức ảnh này, ảm ảnh tôi cho mãi tới bây giờ.
Châu Hà chăm chú nhìn tấm ảnh đen trắng đã ố vàng. Một bãi đất
trống nhô lên bẩy cái đầu. Cận cảnh là một thanh niên còn rất trẻ, bị chôn tới
ngực, cao hơn sáu đồng đội có lẽ vì anh quá cao. Anh có đôi mắt thật sáng, mở
trừng trừng đầy căm thù.
- Ông có tấm ảnh này ở đâu?
- Đây là bẩy trinh sát Việt cộng bị chúng tôi bắt trước ngày
quân miền Bắc tấn công vào An Lộc, nơi tôi làm tỉnh trưởng.
Chính ông trưởng ty Cóng chánh Nguyễn Kỳ Vọng đã cứu họ khỏi
bị hành hình. Ngay đêm ấy, quân miền Bắc ào vào thị xã. Và anh lính này cùng
sáu trinh sát đã được giải thoát… Bức ảnh này do thuộc hạ của tôi chụp. Hồi ấy
tôi mắc chứng điên ông ạ. Tôi thích hành hạ con người… Cố lẽ do anh lính trong ảnh
này giống tôi quá chăng? Và tự nhiên tôi nổi máu điên muốn hành hạ bằng nhục
hình kẻ nào dám giống mình. Ông nhìn kỹ đi? Anh ta có giống tôi ngày trẻ không?
Nhìn ảnh, tôi lại giật mình nghĩ, cậu ta hình như là con trai mình, cháu ruột
mình. Ồ, rất có thể. Đời binh nghiệp tôi đã ngủ với không biết bao đàn bà. Xin
lỗi ông, bỏ qua cho sự quái gở này… Và suốt từ đó tôi luôn ám ảnh bởi ý nghĩ
suýt nữa mình đã giết một người ruột thịt. Tôi sám hối. Đến đâu, nhà thờ hay
chùa chiền nào, tôi cũng cúng bái, cầu xin tha tội. Tôi luôn coi mình là tên
sát nhân kinh tởm nhất trên thế gian này…
Trương Phiên ngửa cổ, nốc cạn ly rượu. Mắt nhắm nghiền đau đớn.
Rồi lão bỗng đấm ngực thùm thụp, bật khóc ồ ồ.
Chương 28
huynh đệ như thủ túc
Cuối cùng thì dân làng Động cũng biết người chuộc đất Nguyễn
Kỳ Viên và sẽ xây lại nhà thờ chi họ Nguyễn Kỳ, chính là ông Nguyễn Kỳ Vọng,
Việt kiều yêu nước tại Mỹ. Họ kháo nhau: "Trước khi di tản ông Vọng mang về
cho nhà Cục một thùng vàng. Sang Mỹ, ông Vọng gửi về mấy thùng đô la. Làng này
suýt bé cái nhầm. Đợi con ông Lợi chịu nhả tiền ra thì còn xơi nhé. Vợ chồng
con cái nhà Cục, thì ăn cũng chẳng xong. Có xây cái… đánh chịn".
Lần ông Vọng trở về làng đầu tiên, bà Nhi như gà phải cáo: Bà
bắt gà, đồ xôi làm một mâm cơm cúng, bắt ông Cục phải mặc áo dài, đội khăn xếp
lên nhà thờ khấn cha mẹ tổ tiên trước khi anh em ngồi vào mâm, bà phủ phục lạy
ông Vọng ba lạy. Vừa lạy vừa khóc như cha chết:
- Nếu bác không tha tội thì bác bắt em chết, em cũng phải chết.
Em là đứa con dâu hư hỏng của nhà họ Nguyễn Kỳ. Chỉ tại em ngu. Bao nhiêu vàng
của bác em bán, gửi tiết kiệm. Ngày đổi tiền, mất sạch. Suốt đời vợ chồng con
cái em có kéo cày thay trâu cũng không chuộc lại được…
Ông Vọng vội đỡ bà Nhi dậy.
- Thím đừng băn khoăn. Chị Khiêm, chị Là đã kể cho tôi nghe hết
rồi. Hôm ấy không có chú Cục sớm phát hiện ra, cứu được thím, thì họ nhà mình lại
chết oan một người. Thời buổi biến động, làm sao mà tránh được tai hoạ?
- Dạ, thế là bác tha tội cho em?… - Bà Nhi nhìn ông anh chồng,
tưởng đang mơ.
- Đến như tôi cũng suýt làm mồi cho cá biển cái đận ấy, chứ
nói gì đến tiền bạc. Thôi, chú thím quên chuyện cũ đi. Chuộc được đất là phúc lớn
rồi. Chuyến này tôi về, ta lại bàn tiếp chuyện xây lại nhà thờ…
Ông Vọng ra Hà Nội xin ý kiến vợ chồng hai ông anh. Nhà ông Vỹ
đã chuyển xuống Trung Hoà. Bà cụ Ba Yên được nhà nước đền bù chính sách, trong
cuộc cải tạo công tư hợp doanh, một căn hộ ở Giảng Võ. Cô giáo Khiêm bán căn
nhà cũ, và căn nhà đền bù của mẹ, gộp tiền mua đất, xây ngôi nhà ba tầng, một
tum. Về hưu, nhưng cô giáo Khiêm vẫn có học trò. Mái tum nóc tầng ba, dành
riêng làm lớp dạy thêm. Mỗi tháng thu nhập gấp hai lần lương hưu.
Chuyển nhà mới, ông Vỹ thất nghiệp, vì bệnh trĩ chữa ở bệnh
viện hiệu quả hơn. Bà Khiêm cũng không muốn chồng làm cái công việc vừa bệ rạc,
vừa mất vệ sinh. Với lại, ông Vỹ càng có tuổi càng như người chập cheng. Bây giờ,
một bên tai lại nghễnh ngãng. Nhà hai người khiếm thính. Bà mẹ vợ thì điếc đặc
lưng còng như con tôm, lúc mào cũng lủi thủi dưới tầng một, trong gian bếp. Anh
con rể thì bịt tai này cũng không nghe rõ tai kia.
Đang hí hoáy với xấp bản thảo cũ nát, bốn góc đã quăn tít, chứng
tỏ chúng được viết từ rất lâu, nhưng có lẽ không bao giờ kết thúc. Đó là phác
thảo tiểu thuyết "Chân trời hoang tưởng", mà ngày nào tác giả
cũng đánh vật với nó hàng giờ, thấy có người đứng sau, ông Vỹ mới chậm rãi quay
lại, giương đôi kính nhìn chằm chằm.
- Ai đây nhỉ?
Anh em xa nhau biền biệt bốn mươi năm mà gặp nhau cứ như người
dưng nước lã thế này sao? Ông Vọng đứng lặng, nỗi túi dâng đầy cổ.
Ông Vỹ lùi lại, nhòm từ đầu đến chân.
- Có đúng là Vọng không? Ở đâu về?
- Em đây. Thằng Vọng đây.
Vọng ôm chặt ông anh, khóc rưng rức. Thương cho một tài năng
bị thui chột. Thông minh, sắc sảo là thế, mà giờ, như người cổ xưa.
Bà Khiêm nhìn hai anh em, cũng khóc theo.
- Chú Vọng vừa ở Mỹ về. Anh Châu Hà đến kể chuyện về chú ấy
mãi, anh không nhớ à?
Ông Vỹ vỗ bồm bộp vào cái trán còn lưa thưa vài sợi tóc.
- A tôi nhớ ra rồi. Việt kiều có khác, béo tốt quá. Hôm Châu
Hà nó đi Mỹ về, có mang tiền của chú gửi biếu tôi. Cám ơn lắm. Tôi bảo nhà tôi
cất đi để góp với chú Cục xây nhà thờ.
Bà Khiêm mở tủ mang ra chiếc phong bì.
- Tiền chú gửi anh Châu Hà đem về, tôi vẫn để nguyên đây Anh
chú nhất định bắt mang về đưa chú Cục. Tôi bảo đợi chú về xin ý kiến chú. Đưa
cho thím Nhi, khéo lại như cái năm nào… Tôi bàn với chú thế này, hay là dành tiền
để xây cho chú ngôi nhà, hoặc là mua cho chú căn hộ ở Hà Nội. Già rồi, về quê
mà ở, anh em chú cháu có nhau. Con Mai với thằng Phong nhà này lúc nào nhắc đến
chú cũng xuýt xoa thương chú. Chúng nó bảo, nhà này chỉ chú có tình cảm với quê
hương làng xóm nhất. Chúng nó bảo, chỉ thương chú ở một mình. Con Vy, cũng phải
chăm cho gia đình riêng của nó chứ. Có tuổi rồi, bơ vơ đất khách quê người, tội
lắm…
Nhìn đôi mắt bà Khiêm hoe đỏ, ông Vọng thấy bùi ngùi. Thời
gian chẳng chừa một ai, kể cả người chị dâu mà ông cứ tưởng sẽ chẳng bao giờ
già. Ngày mới thống nhất, ông ra Hà Nội, cô giáo Khiêm còn tươi tắn, đoan
trang, vậy mà bây giờ, trông đã xơ xác, tóc bạc, da mồi. Cũng may ông Vỹ đắc địa
cung thê. Văn chương nghèo kiết xác, lại tù tội, bệnh tật dề dề. Không có chị
Khiêm chèo chống bươn chải, nuôi hai đứa con cùng tốt nghiệp đại học, có công
ăn việc làm, thì không biết đời còn khốn nạn đến đâu?
- Sang năm em nghỉ hưu. Rồi sẽ tính. Có khi em về quê ở với
cô Hậu. Trong nhà mình, chỉ cô Hậu là khổ nhất.
- Hồi con Trinh Mai lấy chồng, nhà tự nhiên rộng vung vinh.
Bà cụ nhà tôi bảo về đón cô Hậu ra ở, nhưng cô ấy nhất định không đi.
- À, cháu Mai với cháu Phong thế nào? Nghe nói con Mai lấy chồng
người Úc?
- Vâng. Cháu Mai làm ở Vietnam News. Chồng nó là chuyên gia dự
án của FAO. Hai đứa về ở bên Úc rồi chú ạ. Còn cháu Phong, tốt nghiệp tin học
Bách Khoa, đang chờ một suất học bổng đi Nhật.
- Em mừng cho anh chị. Qua cơn bĩ cực rồi - ông Vọng đưa lại
phong bì cho chị dâu - Đợt về này em muốn bàn với các anh chị việc xây lại ngôi
từ đường…
Ông Vỹ nói:
- Tốt lắm… Không phải bàn. Cứ thế mà làm.
Bà Khiêm, như chợt nhớ ra điều gì:
- Chú Vọng có người bạn nào ở Hà Nội tên là Lê Đoàn không nhỉ?
- Chị biết cậu ta à? Cậu ta ở đâu mà hôm vừa rồi em đi hỏi
thăm khắp khu vườn hoa Tập Kèn, nhưng không ai nhớ.
- Lê Đoàn là bạn chí cốt với cậu Đào Phan Khánh nhà tôi. Cả một
đại đội thanh niên Hà Nội ở Nông trường Quan Chi vào chiến trường Quảng Trị, chỉ
có Đoàn và hai người nữa trở về. Hôm Đoàn mang về cho mẹ tôi những kỷ vật của cậu
Khánh, mẹ tôi tưởng không sống nổi…
- Từ năm mười hai tuổi Đoàn đã nói tiếng Pháp làu làu. Em nhớ
trước ngày em đi Nam, cậu ấy lấy trộm của bọn lính Lê Dương một khẩu Ru lô và
167 viên đạn, nói sẽ bắn chào mừng bộ đội về tiếp quản Hà Nội…
- Sau khi xuất ngũ, Lê Đoàn lấy cô vợ Hoa kiều ở phố Hàng Buồm
và dạy tiếng Pháp ở Đại học Sư phạm Hà Nội. Nhưng rồi xảy ra sự kiện người Hoa,
vợ chồng cậu ấy phải chạy sang Hồng Công. Rồi sang định cư ở Pháp… Mới đây cậu ấy
về nước, đến nhà chơi. Cậu ấy hỏi thăm và xin địa chỉ chú…
- Vậy ư? Không ngờ cậu bé ghét cay ghét đắng thực dân Pháp
ngày nào, giờ lại sang nương nhờ nước Pháp…
Ông Vọng buồn ngơ ngẩn. Ông bỗng nhớ lại cái ngày Lê Đoàn dẫn
mình qua bãi phân bắc thối khắm ở gần khu Giảng Võ và khinh bỉ nói với ông về
món hàng mà nước mẹ Đại Pháp kiếm được đóng thùng gửi về Mẫu quốc làm giàu cho
những xưởng rượu nho ở Boocđô, ở Brơtanhơ… Về Hà Nội lần này, ông cố tìm lại
khu bãi phân bắc ngày xưa. Nơi ấy, giờ đã mọc lên một khách sạn bốn sao…
Bà Khiêm xoay sang câu chuyện khác:
- Anh Ký Lạng và họ hàng nhà tôi ở Mỹ cũng mới về. Việt kiều
hồi này được nhà nước đón tiếp như những thượng khách. À, mà chú biết tin gì về
nhà văn Châu Hà chưa?
- Em cũng đang muốn gặp bác ấy, nhưng điện thoại đến
báo Văn Chương, họ nói ông ấy chuyền công tác rồi.
- Đúng là chuyển công tác. Tổ chức điều ông ấy lên vị trí cao
hơn. Nhà văn Châu Hà bây giờ thế mà sướng. Cơ quan mới này tám mươi tuổi mới phải
về hưu…
- Có chuyện ấy ư? Anh Châu Hà thôi chức Tổng biên tập
báo Văn Chương?
Ông Vỹ nghiêng bên tai lệnh, chăm chú. Rồi mắt ông bỗng loé
lên như công tắc đèn vừa bật.
- Cái chức mới của Châu Hà chỉ là hữu danh vô thực… Thằng Văn
Quyền tìm cách lật đổ để ngồi vào ghế Tổng biên tập báo Văn Chương.
Nó khai man bốn tuổi, cưa sừng làm nghé… Châu Hà đi Mỹ là vào bẫy của nó. Nó
gài người, chụp được ảnh Châu Hà nhận tiền của thằng Du San. Tiền nhuận bút hẳn
hoi đấy chứ. Oan ở mấy trăm đồng thằng Du San nó gửi biếu tôi. Cái thằng nhà
văn, khi biết mình phản bội, nó đau đớn lắm… Dẫu sao nó cũng là thằng bạn cũ.
Thằng Châu Hà tránh sao được? Vậy mà phải dùng tới kế "điệu hổ ly
sơn" với Châu Hà. Lừa cho nó đi để thay ngựa giữa đường… Văn nghệ mà lại.
Đấu đá, tranh giành quyền chức, giải thưởng, thì… hết ý…
Nói chuyện một lúc, hình như não bộ của Vỹ mới vận hành suôn
sẻ. Ông lại tỏ ra sắc sảo và hóm hỉnh đáo để. Hoá ra bộ phận Enter của ông bị
trục trặc. Ông Vọng nghĩ thế.
°°°
Ông Vọng lại mang chuyện xây nhà thờ bàn với ông Lợi.
Từ ngày nghỉ hưu, đồng chí Chiến Thắng Lợi hụt hẫng, như người
đang ở trên cao bỗng rơi bịch xuống đất. Lẽ ra ông Lợi phải làm một khoá Trung
ương nữa. Ông đã khai lại lý lịch, rút được ba tuổi, so với quy định, vẫn còn
trong diện tái cử. Nhưng thói đời ghen ăn tức ở. Phe chống đối cuồng lên như hổ
đói. Hết moi chuyện lý lịch khai man, không rõ ràng, lại đến chuyện quan hệ bất
chính với bà Cam. Rồi đùng một cái, xảy ra chuyện bức tường Berlin sụp đổ. Lê Kỳ
Chu, con ngoài giá thú của ông với bà Đào Thị Cam, được gửi sang Đông Đức học để
làm luận án tiến sĩ, đã trốn sang Tây Đức. Ông Lợi bị loại hẳn khỏi chính trường:
Thậm chí còn bị loại không được cơ cấu trong Ban soạn thảo Chiến lược năm 2000.
Về vườn với nỗi buồn của kẻ vẫn ưu thời mẫn thế, bị thải loài
cộng với nỗi day dứt, đau đớn, hoang mang phe ta bị tan rã, ông anh cả, trụ cột,
đầu tầu của cả hệ thống, như người khổng lồ, nhưng chân đất sét, bỗng biến khỏi
mặt đất, không còn chút dấu vết.
Mấy tháng đầu, ông Lợi tham gia câu lạc bộ hưu trí Ba Đình
cho khuây khoả. Hết cầu lông, cờ tướng, bóng bàn, bơi lội lại vào căng tin uống
bia, đọc báo, bàn chuyện thời sự thế giới trong nước. Hai ông chung nhau một vại
bia hơi, hoặc hai ông ba cốc. Vì ông nào cũng đái đường, huyết áp, tim mạch.
Riêng tướng Quảng Lạc, chiều nào cũng bơi năm vòng, uống ba vại với một gói lạc
rang. Càng uống, mặt càng tái, nói càng hăng. Ông Lợi thấy lạ cho cái ông tướng
này, mồm như cái loa. Chuyện nhà, chuyện con cái, cứ bô bô giữa quán bia, quá vạch
áo cho người xem lưng.
- Ông Lợi ơi, thằng Chu nó đang tìm cách nhập quốc tịch Đức
cho vợ với con nó đấy ông ạ. Con Linh điện về hỏi ý kiến tôi tôi bảo, tốn kém
gì cũng cứ nhập. Sinh sống ở đất người ta mà cứ bị coi là dân ngụ cư, dân hạng
bét, thì thà về nhà mà làm ăn buôn bán. Mang đô la, mang DMác về đây mà mua đất
kinh doanh bất động sản. Ở nước mình, có đô la tiêu bây giờ là sướng nhất… Ông
Lợi ơi, vợ chồng thằng Chu nó đang tính về Nga mua lại cái chợ Vòm thành lập một
siêu thị của người Việt. Con Linh, con dâu ông đấy ai ngờ lại giỏi kinh doanh
hơn cả chồng. Ý định chuyển về Nga là do con Linh đề xuất đấy. Chúng nó có kế
hoạch xây một nhà máy sản xuất mì ăn liền ở Mát. Hợp đồng liên doanh với công
ty Hoa Sơn trong nước, coi như xong. Bọn trẻ bây giờ táo tợn thật. Rồi chúng nó
sẽ thay thế chúng ta làm lại hết. Tôi thấy chán cho các ông. Sắp đi hầu các cụ
Các Mác, Lê Nin đến nơi, mà mở mồm là lo diễn biến hoà bình, cách mạng vô sản
thế giới lâm nguy. Tôi thì khoái nhất câu này của Mác: Không có gì lịch sử đặt
ra mà con người không giai quyết được. Chúng ta đã làm xong việc của mình. Đừng
áp đặt. Đừng như một ông bố bảo thủ, giáo điều sĩ diện hão khi thấy mình sai.
Thế hệ trẻ nó khắc biết cách đưa nước ta hội nhập với thế giới…
Nghe tướng Quảng Lạc khoe con, bàn về thời cuộc, ông Lợi chỉ
muốn chui xuống đất. Thật chả ra làm sao. Không còn lập trường tư tưởng gì sất.
Trong khi con người ta ra mặt trận, thì con mình lủi, được gửi "cái
gáo" sang Liên Xô, rồi lại được đào tạo bài bản, trở thành sĩ quan tên lửa.
Đánh một vài trận đã được Đảng, nhà nước cho đi học đại học, rồi lại được cử đi
tu nghiệp nước ngoài. Giờ chuồn sang nước tư bản. Đã vong ơn bội nghĩa còn
không biết thẹn, thế mà ông bố cứ oang oang làm như con rể con gái mình thức thời,
tài giỏi. Rác tai quá, chối quá, ông Lợi bỏ, không đến câu lạc bộ Ba Đình nữa.
Có những đêm không ngủ, ông Lợi nằm chong mắt, nhìn mãi vào bức
ảnh Bác Hồ. Đêm nào ông cũng thắp chiếc bóng đèn đỏ ba vôn thay cho ngọn nến
trên bàn thờ Bác. Ngọn nến hắt thứ ánh sáng hồng rực, khiến ông Lợi cảm thấy
ông Cụ như tiên ông giữa vừng hào quang. Có lúc đôi mắt ông Cụ nhìn ông Lợi đăm
đăm. Ông nhắm mắt lại. Thấy hiển hiện những hình ảnh từ hồi chiến khu Việt Bắc,
đến những lần được gặp Bác sau này. Đời đồng chí Chiến Thắng Lợi, diễm phúc lớn
nhất là được gần gũi, thụ giáo trực tiếp từ Bác nhiều lần. Thánh nhân như ông Cụ
trên đời chỉ có một. Phúc đức cho nước Việt có một vĩ nhân như ông Cụ. Nếu ông
Cụ còn sống, phe mình, nước mình hẳn sẽ khác. Có khi mà Chủ nghĩa xã hội sẽ trụ
lại được. Có khi mà tình hình tham nhũng, bè cánh phai nhạt lý tưởng, suy thoái
đạo đức, chệch choạc. phương hướng sẽ được ngăn chặn? Xưa nay các vĩ nhân thường
có những tác động quyết định làm thay đồi lịch sử. Ông Cụ đi rồi, tương lai đất
nước giao vào tay bọn trẻ như thằng Chu thằng Nhất nhà ông, rồi sẽ ra sao?
Ông Lợi buồn dai dẳng về chuyện vợ chồng Chu bỏ sang Đức Có
khác nào thằng em vong bản Nguyễn Kỳ Vọng của ông bỏ nước di tản sang Mỹ? Có
lúc ông Lợi chợt lởn vởn ý nghĩ: Giá như ông không quá vội vàng tổ chức cái lễ
nhận cha con họ hàng, lại đỡ day dứt. Vợ chồng thằng Chu nó làm cho cả ông và
bà Cam như cùng đeo mo vào mặt…
Đã thế mấy mẹ con bà Là lại hùa nhau chống lại ông. Từ hồi thằng
Nhất lấy vợ, bốn mẹ con về hẳn một phe. Họ công khai giễu ông là cổ hủ, lỗi thời.
Mẹ con thường túm tụm nhau như buôn bạc giả. Ông cô độc như con hồ già trong vườn
bách thú, mắt đầy gỉ, nhìn qua song sắt. Thì ra, trong khi ông âm thầm gặm nhấm
nỗi đau thời thế, thì mẹ con họ đã làm những việc tày đình: Thằng Chiến Thống
Nhất, vừa chân trong, vừa chân ngoài. Chân trong là do ông bố trí, gài cắm: Vừa
tốt nghiệp Đại học Bách khoa, ông đã lo cho vào Bộ Kinh tế lo cho chân đảng
viên, làm con rể ông Thứ trưởng thường trực rồi chỉ một năm đã lên trợ lý Tổng
giám đốc Dự án TC 99. Vừa có tí máu mặt, ai ngờ anh chàng có vẻ ngờ nghệch phổi
bò này lại xoạc ngay một chân ra ngoài, làm Phó giám đốc Công ty kinh doanh tổng
hợp Đại Việt. Ông còn lạ gì cái công ty Đại Việt này. Có mà Đại Việt gian. Sân
sau của bọn tham nhũng. Ông cảnh báo ngay: "Liệu liệu mà làm ăn. Buôn gian
bán lận, móc ngoặc, tham nhũng là không xong với tôi!". Thằng Nhất đưa mắt
cho vợ. Con Thuý vội hớt lẻo chồng: "Bố yên tâm đi. Ba con còn lo cho Nhất
nhà con hơn cả bố". Ông Lợi định nói: "Chỉ sợ đến lúc ba con chúng
mày vào nhà đá thì lại cầu cứu tao", nhưng lại thôi.
Nhà ông Lợi, trừ ông, bây giờ đang trở thành một "lò sản
xuất" tiền. Cao thủ nhất, đúng hơn là siêu cao thủ, phải kể đến bà Là, vợ
ông. Cái cô Ma Thị Là người dân tộc, hiền lành, thật thà như đếm ngày xưa, nào
ngờ giờ đã ba đầu sáu tay, nổi tiếng trong giới kinh doanh địa ốc. Từ hồi nghỉ
hưu, bà Là xoay ra công khai buôn đất, mua nhà. Tiền đâu ra? Chỉ có ăn cắp hay
buôn hàng trắng, chứ tham ô tham nhũng đâu đến cái thá bà? Ông Lợi tra hỏi. Phải
dùng thủ đoạn ép cung, mớm cung, doạ có người nói bà buôn thuốc phiện từ trên
quê xuống, lại có người bảo bà ngủ với mấy thằng cha Tổng giám đốc. Cuối cùng
bà Là sợ quá, vừa khóc, vừa khai tuồn tuột:
- Thương ông làm cán bộ cấp cao, lại giữ trọng trách, tôi
không dám ỷ thế chồng để làm bừa. Tôi chỉ làm ăn cò con, lương thiện. Cũng là
nhờ cái cửa hàng Tôn Đản mà ông đã xin cho tôi về đấy. Ở đâu thiếu đói chứ lọt
vào đấy quá chuột sa chĩnh gạo. Sướng, nhưng tôi có tính lo xa, chịu khó nhặt
nhạnh, ăn dè, tích cóp. Mua tem phiếu. Dồn từng gam, từng lạng tem phiếu khách
mua thừa. Bớt xén bộ lòng, quả bồ dục, cân đường, gói mì chính, bìa đậu phụ… Mỗi
tháng tôi lại đến bà Tài Tiến ở Hàng Đào, đổi thành vàng, cất đi. Ăn xẻn để dè
hàng chục năm, được vài chục cây. Tôi cất vàng trong cái làn rẻ rách ở đáy tủ,
ông toàn nghĩ chuyện đại sự, làm sao mà biết được. Cho đến khi ông có chân
trong Ban đổi tiền Trung ương, biết được thông tin qua ông nói, sẵn vàng trong
tay, tôi tung ra thu mua tiền cũ, rồi chuyền ngay thành vàng. Đến khi tiền mất
giá thì trong cái làn rẻ rách của tôi, như có hàng trăm con gà đè trứng vàng.
Tôi lại dùng vàng để đổi thành đất, thành nhà…
- Có thật thế không? - ông Lợi bàng hoàng.
- Tôi nói sai tôi chết. Chỉ thương cậu Ló, em ruột mẹ tôi.
Bán mười hai con trâu để giành tiền làm nhà. Tin nhà nước, gửi tiết kiệm, sau đổi
tiền, mười hai con trâu không mua nổi một con gà. Cậu Ló tiếc trâu quá, uất
quá, ăn lá ngón tự tử… Giá biết cậu bán trâu, tôi đã đổi thành vàng cho cậu,
thì đâu đến nỗi…
Thương ông cậu, bà Là khóc như mưa, làm ông Lợi phát hoảng.
Như cậu học trò nhỏ vừa qua một giờ khai tâm, ông Lợi nằm úp thìa, vòng tay ôm
vợ và nghĩ ngợi. Cái trí lự đàn bà ghê thật. Ông Lợi có xách dép cho vợ cũng
không đáng. Rõ là làm ăn chân chính chứ còn gì nữa? Chi lợi dụng khe hở của
chính Bách. Thiết thực mà không ảo tưởng hão huyền. Biết kinh doanh, xoay xở,
biết chớp đúng thời cơ, là đã chuyển bại thành thắng. Bà Là chỉ là quân tốt
đen, nhưng đã dám sang sông, dám luồn lách tránh được xe pháo mã đối phương để
nhập cung bắt tướng.
Câu chuyện làm ăn của bà Là đã làm đầu óc ông Lợi sáng ra. Nó
khai thông cho ông mọi bế tắc về lập trường quan điểm và những hệ thống lý luận
cao siêu và rối rắm, mà ông như con nhện, bị cái bẫy của chính mình quấn vào.
Ông thấy mình bỗng thoát xác khỏi nhà chính trị, trở thành một ông chồng yêu vợ
cảm phục vợ tận đáy lòng. Không cần nói, bà Là cũng hiểu ông đang tự thú lỗi.
Lâu lắm rồi, đêm ấy, bà mới gặp lại anh chàng Chiến Thắng Lợi đương trai.
°°°
Cảm hứng của ông Lợi còn dư âm tới khi ông Vọng đến nhà.
Vừa thây ông Vọng ở cổng, ông Lợi đã chạy ra, chầm bập mừng rỡ.
Ông chủ động kéo em trai về phía mình, ôm rất lâu, với tất cả nỗi xót xa, mừng
tủi của tình cốt nhục bị xa cách, còn hơn cả cuộc chia ly rồi đoàn tụ thời chống
Mỹ…
- Các anh ở Bộ Ngoại giao khen phong trào Việt kiều ở New
Orleans và vai trò của chú lắm. Lần tôi sang thăm Cuba có ghé qua New York,
nhưng không xuống chỗ chú được. Với lại dạo ấy nghe tin chú thím bỏ nhau, tôi
chán quá… Chú thì tôi tin. Nhưng thím ấy sang bên đó, bập vào lối sống thực dụng
kiểu Mỹ, khó giữ lắm…
Bà Là mang nho khô và hoa quả ra, thấy nét mặt ông Vọng không
vui, vội đá vào chân chồng, nói:
- Hôm nay chú nhất định phải ở lại ăn cơm với anh. Lát nữa gọi
điện thoại mời cả chú Vỹ thím Khiêm nữa. Anh chú từ hồi về hưu, hiền hẳn ra… À,
phải khoe với chú. Cháu Chiến Huyền Ly được sang Mỹ du học rồi. Trường Hơ-vát
hay Hu-vớt gì đó, nghe nói chỉ chuyên đào tạo cho con nhà giàu. Nhưng cháu chú
thi đỗ, được học bổng chứ không phải đi du học tự túc như con em các ông Bộ, Thứ
trưởng, Tổng giám đốc nhiều tiền. Còn cháu Nhất của chú hồi này tiến bộ lắm. Vợ
chồng cháu mới có cái chòi hóng mát trên Hoà Lạc. Tối cháu nó đánh xe lên, anh
em chú cháu nghỉ trên ấy cho thoáng…
- Em còn ở nhà lâu. Ăn uống lúc nào chả được - Vọng nói - Có
chuyện này em băn khoăn quá, muốn trình bày với chị.
- Chuyện muốn về Việt Nam kiếm cô vợ nhỏ phải không? - ông Lợi
nheo mắt cười tinh quái, như muốn nối tiếp câu chuyện vừa bỏ dở.
Bà Là lại véo chân chồng.
- Chuyện gì, ông cứ để chú nói. Chú Vọng bây giờ là ưu tiên
nhất.
- Suốt mấy đêm nằm ở nhà thờ mà em không thể chợp mắt được.
- Thảo nào trông chú không được khoẻ - Bà Là nói - Hay là chú
Cục, thím Nhi lại kể chuyện ma áo trắng trồng cây chuối? Thím Nhi bịa ra chuyện
đổi tiền, tôi lạ gì. Nghe bà Tài Tiến nói thím ấy mang vàng ra gửi, tôi đã nghi
ngay. Người như thím Nhi mà chịu mất trắng số vàng chú gửi lại để xây nhà thờ
thì tôi chẳng tin…
- Một mất mười ngờ, chị ạ. Em tin thím Nhi nói. Chuyện cũ cho
qua đi chị. Em muốn nói ngôi từ đường nhà mình sắp sập. Hồi cải cách, gia đình
ông Cỏn phá hai gian bên, làm xiêu một phía hồi. Với lại từ hồi cụ nội, quan Đốc
học Nguyễn Kỳ Đồng, cho dựng ngôi từ đường, tới nay đã gần một trăm năm mươi
năm…
Ông Lợi bỗng giật mình.
- Đã lâu thế kia à? Vốn cổ đấy. Tôi biết quanh Hà Nội có ngôi
nhà cụ Phí ở Hương Ngải là cổ nhất, hơn hai trăm năm, bên văn hoá xếp hạng nhà
cổ, đang có dự án tôn tạo. Hồi còn mồ ma thầy, ông cụ vẫn bảo ba chữ Nguyễn Kỳ
Viên là chữ của cụ Tam nguyên Yên Đổ… - Đang nói, ông Lợi bỗng ngẩn ra, cố moi
trong trí nhớ - Còn bức hoành phi viết ba chữ đại khảm trai trên ban thờ, cũng
nghe nói của nhà thơ Nguyễn Khuyến, là chữ gì, chú có nhớ không?
- Dạ, Dưỡng Nhất Chân. Đấy là ý lấy trong hai câu thơ của
Danh y Lê Hữu Trác viết trên đường từ Hương Sơn ra kinh đô Thăng Long: "Độn
thế tòng y dưỡng nhất chân. Bất tri vi phú khởi tri ban".
- Các cụ thâm nho thật - ông Lợi gật gù - Trốn đời theo
nghề thuốc để giữ cái thuần nhất của mình. Không cần biết đến sự giàu thì có sá
chi cái sự nghèo. Câu ấy có phải dịch như thế không?
- Dạ, đúng vậy. Cụ Tam Nguyên có ý nói chi họ Nguyễn Kỳ nhà
ta sẽ có người theo nghề y, việc này quả ứng ngay với thầy mình.
- Cả với ông lang trĩ Nguyễn Kỳ Vỹ của chúng ta nữa chứ? -
Ông Lợi bỗng bật cười khục khục. Lâu lắm mới thấy ông cười - Mà này, bức hoành
phi ấy, nghe nói nhà Cón tháo xuống làm ván chắn chuồng lợn. Bậy quá, bức ấy là
bảo vật quốc gia đấy nếu còn thì vô giá…
Ông Vọng bỗng thở dài. Nhìn ông anh hả hê, khoáng hoạt, ông
chợt nhớ tới nhân vật Quỷ Vương trong "Tây du ký", bắt Đường Tăng định
ăn thịt, rồi lại giả làm thiếu nữ để đánh lừa Trư Bát Giới. Ông anh trai của
ông thời cải cách ruộng đất từng là Quỷ Vương, đoàn phó cải cách ở Thái Bình,
ký lệnh giết oan bao địa chủ, giờ lại phủi tay như kẻ vô can…
Chuyện xây lại ngôi nhà thờ, không ngờ được ông Lợi ủng hộ
nhiệt liệt.
- Chú đứng ra làm là hợp lẽ nhất. Tôi nghĩ mãi rồi, việc này
phải chú làm cầu đường. Lâu lắm, sau ngày nghỉ hưu tôi mới về làng, có thời
gian thăm thú. Hoá ra sức sống của một ngôi làng Việt nó trường tồn hơn anh em
mình tưởng nhiều. Đã đi vợi nửa làng ra Hà Nội, lên Nghĩa Lộ, vào Lâm Đồng,
Bình Phước, sang cả Nga, Tiệp, Pháp, Mỹ, Canada… làm đủ nghề, khoác đủ màu cờ sắc
áo để kiếm kế sinh nhai, mà giờ cái làng mình lại sinh sôi, phát triển, lại trù
phú, đông đúc hơn cả ngày xưa. Tốc độ đô thị hoá nhanh quá chú ạ. Cái rãnh trước
cửa đình anh với các chú vẫn bơi hồi bé, vẫn tranh nhau leo cầu phao đốt pháo
ngày Tết, giờ lấp hết, biến thành một dãy phố sầm uất. Ngôi đình các cụ mới dựng,
còn to hơn cả đình Đụn ngày xưa. Riêng các ngôi nhà thờ mấy họ Hoàng, họ Trần,
họ Phan làng ta thì đua nhau xây cất khiếp quá. Đợt này chú cho cải tạo lại Nguyễn
Kỳ Viên nhà mình cũng phải… Tôi trao toàn quyền cho chú về bàn với chú Quặc
họp xin ý kiến các vị cao niên trong họ, rồi lên kế hoạch tiến hành…
- Dạ, có ý kiến chỉ giáo của anh, em sẽ cố gắng hết sức…- ông
Vọng rưng rưng nắm mãi bàn tay ông Lợi. Tự nhiên ông thấy ân hận vì lâu nay
chưa hiểu đúng anh trai mình.
Trước lúc tiễn ông Vọng về, ông Lợi ghé tai nói nhỏ:
- Lẽ ra, tôi là anh trưởng, lại là trưởng chi, tôi phải đứng
ra quán xuyến công việc. Nhưng dầu sao tôi cũng là anh cán bộ cách mạng tiền khởi
nghĩa…, đứng ra không tiện. Còn chuyện đóng góp… Biết là chú có tiền, nhưng
không thể để mình chú. Chú Vỹ với chú Cục thì không nói làm gì. Vợ chồng tôi,
cán bộ hưu trí, chẳng giàu có gì, nhưng sẽ góp cùng với chú.
- Chuyện này, anh cứ để em lo. Em tự nguyện mà…
- Không được. Chú phải để tôi góp phần. Nhà tôi với cháu Nhất
hồi này làm ăn được… Với lại, cái nhà của chú trong Sài Gòn…
- Em đã quên ngôi nhà ấy rồi… Trước khi đi em đã sang tay cho
Khuất Sỹ Hào.
- Cái thằng cha Hào ấy với cái cô Xoan nhân tình của nó là lũ
lưu manh. Nó lừa chú để cướp không ngôi biệt thự ấy. Sau khi chú đi, tôi phải
bay vào ngay. May cho nó, tôi thương tình không tống nó ngồi tù. Người của tôi
bắt Hào với cô Xoan khai đã lợi dụng chú để chiếm đoạt tài sản người vượt biên
như thế nào… Tôi đã cho tịch thu sung công ngôi nhà. Tất nhiên các anh ở thành
phố sau này đã bố trí cho tôi một căn nhà khác.
Ông Vọng toát hết mồ hôi hột. Không ngờ ông anh của ông mưu
ma chước quỷ khôn lường.
- Cái lộc của ngôi nhà ấy, tôi cũng chẳng ăn một mình - ông Lợi
nói tiếp - Trả chú thì đời nào chú lấy. Tôi đã bàn với bà nhà tôi góp vài vạn gạch
để chú xây nhà thờ. Chuyện này chỉ nói riêng chú biết, chú cũng không cần phải
tuyên bố với ai…
Trên đường ngồi taxi về nhà ông Vỹ, ông Vọng cứ nghĩ mãi về
câu chuyện với ông Lợi vừa rồi. Chẳng còn một chút tính cách nào của tông anh cả
Nguyễn Kỳ Khôi ngày xưa.
- Chẳng còn gì… Ông Vọng lẩm bẩm mãi.
Đến khi anh lái xe hỏi, đi về đâu, ông mới ngẩn ra. Ông đã
quên béng tên đường phố, số nhà của Vỹ.
- Thôi, chú cứ cho đi lòng vòng quanh Hà Nội, đường nào tuỳ
chú, coi như một cuộc dạo chơi thòi mà. Hà Nội hồi này thay đổi nhiều quá. Đi một
lúc, có khi tôi lại nhớ ra phố nhà ông anh tôi…
°°°
Phải đến lần về nước tiếp theo, khi ông Vọng hoàn tất cảc thủ
tục nghỉ hưu tại Mỹ, việc xây dựng Nguyễn Kỳ Viên mới vào kỳ nước
rút.
Suốt hai năm, khu đất bẩy nghìn mét vuông đầu làng Động như một
đại công trường. Cái xưởng mộc của Đinh Mạn ở cổng đình, chỉ giữ lại một vài thợ
làm cầm chừng, còn máy móc chuyển hết vào khu từ đường, sản xuất và lắp ráp
luôn tại chỗ.
Mạn thuê hẳn một kíp thợ lành nghề trên Sơn Đồng, Thạch Thất
chuyên làm các chi tiết kỹ, mỹ thuật tinh vi: lọng, vuốt, chạm, trổ. Nhóm thợ
này do ông thợ cả có cụ nội từng đứng đầu hiệp thợ tu tạo chùa Tây Phương, tác
giả của những pho tượng La Hán bất hủ. Nhóm thợ thứ hai gồm những chuyên gia mộc
nổi tiếng làng Đồng Kỵ, chuyên về khung nhà với nóc, câu đầu, xà gồ, quá giang,
trụ, đấu… mà giữa các bộ phận gắn với nhau chỉ bằng các hãm, chốt, con trỏ, tuyệt
không dùng tới một cái đinh sắt nào. Đây là nhóm thợ vừa hoàn thành khu nhà
Thái học ở Văn miếu Quốc Tử giám, Hà Nội.
Phần nề, sử dụng xi măng Hoàng Thạch mác 400, cát vàng Kim
Bôi, sản phẩm đất nung thượng hạng của Bát Tràng và Giếng Đáy, bao gồm ngói mũi
hài, gạch đỏ lát nền, gạch hoa văn trang trí… Phần gạch xây đại trà, ước tính
vài chục vạn viên, được sản xuất tại chỗ. Một lò gạch nung theo kiểu Triều Tiên
dựng ngay trong vườn, đất vượt hồ được đưa lên để sản xuất gạch mộc.
Nếu như ông Vọng là tổng công trình sư của Nguyễn Kỳ
Viên, thì kiến trúc sư trẻ tuổi Nguyễn Kỳ Tác là giám sát kỹ thuật, bà Nhi làm
thủ quỹ, kiêm giám đốc hậu cần, còn ông Cục chỉ như người chuyên để sai vặt.
Visa của ông Vọng chỉ có thời hạn ba tháng mỗi lần, ông không thể thường xuyên
về Việt Nam. Vì thế, người có vai trò cực kỳ quan trọng, miệng nói tay làm, lo
đủ các khâu từ vật tư đến tiến độ công trình, tuy không chính danh, nhưng thực
chất là giám đốc điều hành, đó là Đinh Mạn, chồng cô Hợp.
Bà Nhi quả là có con mắt xanh khi chọn chồng cho con gái. Hồi
Đinh Mạn bị thương ở mặt trận Hà Giang, về phục viên, cô Hợp cứ chê ỏng chê eo.
Cái vết chạm trổ ở cánh tay Mạn hình trái tim có mũi tên xuyên qua khiến Hợp
thành kiến với anh chàng ngay từ ngày chạm mặt. Người thế ắt phải yêu hàng tạ
cô. Cằm vuông, mũi tẹt, lầm lì, ít nói, cục phải biết. Khéo mà lại giống ông Kều,
chồng chị Đất, đánh vợ như két.
Hợp chê Mạn, vì khi ấy đang tơ tưởng đến anh chàng đẹp trai
con ông tiệm vàng trên thị trấn. Bà Nhi phải ngọt nhạt, tỉ tê mãi, đến khi anh
chàng tiệm vàng lấy con gái ông phó chủ tịch huyện, Hợp mới chịu hạ tiêu chuẩn.
Hợp kiêu cũng phải thôi. Cô nàng đẹp nhất làng Động. Dáng cao, da trắng, mũi thẳng,
môi hồng, như đầm lai. Nếu đỗ đại học, ra tỉnh, thì Hợp chẳng chịu lấy Mạn đâu.
Nhưng duyên số trời định, tránh sao cho thoát.
Ai ngờ, lấy Mạn hơn một năm, Hợp đã thành bà chủ xưởng mộc. Vừa
khai trương mấy tháng, xưởng mộc của Mạn đã hút hết khách trong vùng. Mạn trúng
liền mấy hợp đồng đóng bàn ghế cho các trường học, làm khung cửa, cầu thang cho
các nhà cao tầng ở Hà Nội. Bí quyết làm ăn của Mạn: Uy tín, chất lượng lên hàng
đầu. Và, lại quả cho các đối tác thật hậu hĩnh.
Vào ngày cất nóc gian chính điện thì Chiến Thống Nhất lái chiếc
BMW đen bóng, cùng bà Là và cô vợ Thanh Thuý xinh đẹp con ông Thứ trưởng, về
làng.
Dân làng Động đã mấy lần lác mắt vì những cái xe con cửa Chiến
Thống Nhất, nhưng lần này mắt còn lác nhiều hơn vì cô vợ của Nhất quá đẹp,
không khác gì hoa hậu. Trẻ con trong làng rồng rắn chạy theo xe, có đứa hét
lên: "Hoa hậu chúng mày ơi. Đẹp đéo chịu được".
Thanh Thuý đỏ bừng mặt, cười đắc ý, nhưng lại lầm bầm:
"Đồ mất dạy".
Bà Là sung sướng ra mặt. Không ngờ cơ ngơi xây dựng bề thế
quá. Chú Cục lờ khờ thế mà tuyển được toàn thợ khéo tay.
Chiến Thống Nhất và cô vợ giống hoa hậu, ban đầu cũng tấm tắc
khen, nhưng sau một hồi đi quanh làng, nhìn thấy mấy ngôi từ đường của họ Trần,
họ Đặng, họ Hoàng cũng vừa xây xong, thì bỗng thay đổi ý kiến.
Nhất bị choáng ngợp bới ngôi nhà thờ của họ Đặng, lừng lững
như Thiên An Môn, Bắc Kinh, với một ngôi mộ lớn như mộ Tào Tháo ngay cổng vào,
có bia công đức cụ thượng tổ, tạc trên tấm đá xanh nguyên khối cỡ bằng cầu môn
sân bóng đá. Còn chiếc cổng của nhà thờ họ Hoàng mới vĩ đại làm sao! Không kém
gì cổng thành Cửa Bắc, Hà Nội. Đến như hai cái ao sen mắt rồng của nhà thờ họ
Trần, thì khó tính như Thanh Thuý cũng phải xuýt xoa, trầm trồ. Nàng như trở lại
tuổi thơ, vội xắn quần lội xuống bậc cầu ao, xoài người ra định hái một búp
sen. Búp chân nõn nà làm anh chàng đang đi xe đạp bị hút hồn, đâm sầm cả người
và xe vào gốc cây phượng vỹ.
- Phải dỡ xuống làm lại thôi chú Quặc ạ - Sau khi đứng ngắm
nghía, nheo đôi mắt sau cặp kính dày như đít chai, đo lường cự li, tầm cao, bộ
khung ngôi chính điện, Nhất tuyên bố xanh rờn.
Những ai biết Nhất hơn chục năm trước, hẳn là sẽ rất ngạc
nhiên về anh chàng có biệt danh là Pie Bêdukhốp này.
Từ một cậu học sinh phổ thông chậm chạp và có phần ngờ nghệch
thật thà, từ ngày lấy được cô con gái ông Thứ trưởng, làm trợ lý Tổng giám đốc,
rồi Phó giám đốc công ty Đại Việt, Nhất bỗng biến đổi tính nết, tự tin thái
quá, trở nên kênh kiệu rởm đời, nói năng hách dịch.
- Anh Nhất bảo sao? - ông Cục chưa kịp hiểu mô tê gì, chưa kịp
phản ứng, Mạn đã đến bên, yểm trợ cho bố vợ.
- Tao không nói chuyện với chú - Nhất phẩy tay, như không muốn
nói chuyện với trẻ con, nhưng lại nhìn ông Cục - Phải dỡ xuống làm lại.
- Chú chưa hiểu ý anh - ông Cục ngơ ngác - Dỡ xuống tức là thế
nào?
- Tức là dỡ xuống chứ còn thế nào. Chú chậm hiểu quá. Tức là
không đạt yêu cầu. Phải làm lại!
Mọi người dồn mắt về phía ông con đích tôn của chi họ Nguyễn
Kỳ. Ông phó ngoã, nhìn mấy ông thợ mộc lắc đầu.
Hầu hết người làng Động, dù biết ông Chiến Thắng Lợi có con
ngoài giá thú là Lê Kỳ Chu, anh trai của Nhất, nhưng người ta vẫn cho đó là con
không chính thức. Anh Chiến Thống Nhất này mới chính hiệu là đích tôn.
Mạn đã nóng mặt, mắt vằn những tia máu:
- Anh nói úp mở mãi. Vì sao phải làm lại? Làm lại chỗ nào?
Nói toạc ra đi.
- Em Mạn nó nói đúng đấy. Chú cũng không hiểu phải làm lại chỗ
nào? - ông Cục phụ hoạ.
- Thì nói toạc nhé - Nhất khoát tay về phía trước - Tôi đề
nghị ngôi nhà chính điện kia phải thêm hai gian, thánh bẩy. Không ai làm nhà thờ
họ năm gian. Phải bẩy hoặc chín gian mới. bề thế.
- Sao ông anh không có ý kiến với ông Ba Vọng từ hồi vẽ mẫu
thiết kế? - Mạn cười khẩy, bĩu môi. Tưởng ông anh hợm của thắc mắc về kỹ thuật,
chứ việc này thì vô tư đi. Mạn chẳng thèm tranh cãi cho phí nhời. Cứ theo ý bác
Vọng mà làm. Nghĩ thế, nên Mạn búng móng tay đánh tách, toan bỏ đi.
- Ai cho tôi xem bản vẽ? Các người quá coi thường cái thằng
đích tôn này.
- Thì ai có cái quyền ấy, ngoài ông Việt kiều yêu nước Ba Vọng?
- Mạn vẫn thủng thẳng nói chơi.
- Chú Vọng ở đây tôi cũng đề nghị làm lại. Chứ ai lại như cái
trò trẻ con thế kia. Xem mấy nhà từ đường trong làng của người ta đấy, vừa
hoành tráng vừa vĩ đại. Làm kiểu này, thì họ Nguyễn Kỳ mình hèn quá, lép vế
quá.
- Nhưng người ta nhiều tiền. Họ Đặng có những năm Việt kiều ở
Mỹ, Canada và Úc. Họ Trần, riêng con ông trưởng họ, làm chức tổng gì to lắm,
cung tiến ba tỷ. Họ Hoàng, to nhất làng có cô con gái họ lấy chồng Thuỵ Điển,
xin cung tiến một trăm ba mươi ngàn Eurô, nhưng họ chê nữ nhi ngoại tộc, gạt phắt.
Cuối cùng bổ đầu đinh, mỗi suất hai triệu rưởi - ông Cục chậm rãi giảng giải
cho ông cháu.
- Họ mình ít Việt kiều thì tôi chi. Bố con tôi chi. Cứ dỡ ra
làm lại! Hết bao nhiêu tiền tôi chịu tất - Nhất nói oang oang, tay vung chém
vào không khí, như ngay tắp lự muốn giật đổ năm gian khung nhà đang đứng chênh
vênh như bộ khung xương.
- Điên. Đồ điên! - Mạn nhổ một bãi nước bọt, bỏ đi.
- Ai điên hả cháu? - Lúc ấy bà Là và cô con dâu cũng vừa ra
nghĩa địa thắp hương về. Thấy con to tiếng, bà Là hoảng quá, chạy lại.
- Thằng này láo. Nó là cái thá gì ở cái nhà này? - Nhất giơ nắm
đấm lên.
- Mẹ xin - Bà Là chắp tay - Có chuyện gì con phải ôn tồn nói
chứ, ai lại thế?
- Nhưng con không chịu xây kiểu cò con thế này. Con là trưởng
tộc.
- Bậy nào - Bà Là nói khẽ với con trai - Còn anh Chu con nữa
chứ. Anh Chu con mới là trưởng đích tôn con ạ.
- Đã thế thì con sẽ điện cho anh Chu về…
Nhất làu bầu một hồi, doạ sẽ báo với chính quyền cho ngừng
thi công, rồi cùng mẹ và vợ lên xe về Hà Nội.
°°°
Đó mới là khúc dạo đầu.
Mấy tháng sau, không biết có phải Nhất điện sang bên Nga cho
anh trai không, mà vừa xuống sân bay Nội Bài, Chu đã bảo phải về gấp làng Động.
Lê Kỳ Chu, trước khi sang học ở Cộng hoà Dân chủ Đức, đã làm
thủ tục xin thay đổi họ. Năm 1985, bước chân ra khỏi biên giới, lý lịch, hộ chiếu
của anh mang tên mới: Nguyễn Kỳ Chu.
Chỉ còn một năm nữa Chu sẽ lấy cái bằng tiến sĩ điện tử, thì
bức tường Berlin sụp đồ. Lẽ ra anh sẽ về nước làm tiếp luận văn, hoặc xin chuyển
tiếp sinh sang một nước khác. Nhưng Chu bỏ luôn bằng cấp, học vị, cùng hứa hẹn
một chân trợ giảng ở Đại học Bách khoa, một hàm giáo sư tương lai. Chu chuồn
sang Tây Đức, tình nguyện vào trại tị nạn chính trị. Đó là những ngày cực kỳ
gian khổ. Anh có thể mất hết: Bố mẹ, gia đình, vợ con, danh dự, nghề nghiệp,
và, tất nhiên cả Tổ quốc. Nhưng anh quyết phải tìm đường thoát khỏi cái nghèo.
Thoát khỏi những tem phiếu và những cuộc họp lê thê vô bổ để chỉ bàn những chuyện
trời ơi đất hời. Chu tin, ở Đức anh sẽ tìm ra lối thoát, bởi người Đức, sau tội
ác man rợ của Hitle, họ biết cách làm lành với thế giới, bởi đây là nơi sản
sinh ra Các Mác, nhưng họ biết ông ta chỉ là khoảnh khắc của lịch sử… Sau này
nghe Linh kể lại, cả hai ông bố đẻ và bố vợ vừa biết tin Chu xin tị nạn, đều gầm
lên phỉ nhổ đứa con phản Đảng, phản bội Tổ quốc. Ông Lợi ân hận vì trót làm lễ
nhận cha, con. Bà Cam, bỏ ăn ba ngày, suýt uống seduxen tự tử. Linh bị
trường cho nghỉ dạy. Bè bạn, anh em xa lánh hết. Ông tướng Quảng Lạc, thỉnh thoảng
lại mở khẩu K54, vung lên, bảo gặp thằng con rể ông sẽ bắn vỡ sọ.
Ra khỏi trại tị nạn, Chu đi làm thuê, bốc vác, quét tuyết, dọn
nhà xí… thượng vàng hạ cám, miễn kiếm ra tiền. Rồi Chu tập hợp bạn bè, lập một
đường dây buôn áo da, áo bay, buôn thuốc tây chuyển qua Nga về nước. Có những
chuyến đánh xe luồn rừng, băng qua Tiệp, Ba Lan, bị cảnh sát và lính biên phòng
đuổi bắt, suýt bỏ mạng. Cho đến khi có một gian hàng, trụ được ở Dresden, thì
Chu móc nối cho vợ con qua đường đây du lịch lậu từ Hungary sang. Rồi Linh kéo
thêm anh em họ hàng, Chu đưa ông cậu Quách Liêu cùng anh em dây mơ rễ má ở Mường
Bi sang, lập thành một làng người Việt ở Đức. Mô hình một doanh nghiệp bắt đầu
manh nha hình thành.
Cho đến khi hai vợ chồng chuyển hướng kinh doanh về Nga, thì
Chu nổi lên như một thế lực mới của người Việt trong thương trường và cả trong
các hoạt động xã hội. Làm chủ được khu chợ Vòm, khống chế được cả một hệ thống
buôn bán của người Việt trên lãnh thổ toàn Nga và các nước Đông Âu.
Bạn bè đặt cho Chu biệt danh Tavarits Trâu (Đồng
chí Trâu), do âm Chu, tiếng miền Trung, chỉ con trâu. Tavarits Trâu nổi lên như
một Bố già, làm bọn đầu trọc Nga cũng phải kiêng nể.
Kiếm tiền ở Nga dưới thời Tổng thống Bôrit Enxin thật dễ
dàng. Dân Nga suốt bẩy mươi năm dưới chính thể Xã hội chủ nghĩa, lớ ngớ như gà
công nghiệp. Các cửa hàng mậu dịch quốc doanh trống trơn. Bao nhiêu nồi áp suất,
bàn là, dây may so, tủ lạnh Saratop… đã bị dân đầu đen cuỗm sạch. Các cựu chiến
binh vệ quốc mang hàng rổ huân chương, đồ kỷ niệm đi bán để lấy vài rúp mua
bánh mỳ. Dân đầu đen Việt Nam được ví như Do Thái phương Đông chăn dắt gà công
nghiệp bằng những gói mì sợi Vị Hương, bằng quần áo may sẵn, đồ nhựa, dệt kim
và đủ thứ thực phẩm hàng hoá Việt Nam, Thái Lan, Hồng Công, Trung Quốc…
Bây giờ, Tổng công ty liên doanh của vợ chồng Chu mang tên Thắng
Lợi, do Nguyễn Kỳ Chu làm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Quản Thị Linh làm Tổng
giám đốc, là một doanh nghiệp đa ngành, liên quốc gia, có trụ sở tại Nga, Đức,
Việt Nam. Công ty Đại Việt của Chiến Thống Nhất là một thành viên, chuyên về
kinh doanh ô tô, nhập thiết bị phụ tùng, sản xuất vật liệu xây dựng. Đón trước
xu thế hội nhập, Việt Nam vào WTO, Chu vừa có một quyết định chiến lược: Chuyển
vốn về quê kinh doanh bất động sản, khách sạn du lịch và sản xuất thép. Một tổ
hợp trung tâm giao dịch, văn phòng cho thuê và siêu thị, gồm một tháp đôi ba
mươi sáu tầng đang hoàn thiện thủ tục để xây dựng tại khu Mỹ Đình. Các nhà
chuyên môn nhận định, khoảng dăm năm nữa, Liên doanh Thắng Lợi của Chu sẽ ở
trong tốp 10 doanh nghiệp tư nhân hàng đầu Việt Nam, ngang với Hoàng Anh Gia
Lai, Gạch Đồng Tâm Long An, Hoà Phát Hà Nội, Cà phê Trung Nguyên, Dệt Thái Tuấn,
May Việt Tiến, Thuỷ sản Minh Phú, ô tô Trường Hải, Gốm sứ Minh Long v.v…
Hai anh em, cùng bố khác mẹ, mang hai cái họ lạ hoắc Chiến,
Lê, lại hợp tính nhau, quý nhau hết sảy. Nếu như cái thế của ông bố đẻ Chiến Thắng
Lợi, cái quyền lực của ông bố vợ Thứ trưởng Bộ Kinh tế, cái sắc đẹp và sự quyến
rũ của cô vợ Thanh Thuý khôn ngoan, ranh mãnh cho Nhất những lợi thế trong quan
hệ, giao tiếp thì Nguyễn Kỳ Chu lại cho em trai mình những kinh nghiệm vô giá về
kinh doanh nơi thương trường. Ngược lại, có thêm Nhất làm phó cho mình tại Việt
Nam, Liên doanh của Chu như mọc thêm hàng trăm vòi bạch tuộc, thâm nhập sâu vào
các chính sách kinh tế vĩ mô, các lĩnh vực kinh doanh, các khu chế xuất… mà các
công ty nước ngoài và các liên doanh khác không thể có.
- Ông bố vợ em vừa tiết lộ, đề nghị của Bộ giao thông và Bộ
Kinh tế cho tăng thuế nhập khẩu xe con lên tám mươi phần trăm để tránh ách tắc
giao thông đã được Bộ Tài chính trình Chính phủ đồng ý rồi - Nhất thông báo
ngay với ông anh khi hai anh em trên đường về làng Động - Anh phải giải quyết sớm
vụ nhập hai trăm chiếc Mercedes, đế đưa hàng về cảng Sài Gòn trước tháng tám.
Các anh Hai Nam Bộ giờ đang lắm tiền, toàn thích xài sang. Em đã làm việc với hải
quan xong rồi.
- Yên tâm đi. Anh sẽ điện cho cậu Quách Liêu lo vụ này. Mai
anh với chú phải lên chỗ tay Hoạt. Hắn đã ra giá. Mỗi đầu xe phải chi ba phần
trăm. Rồi còn chỗ tay Từ, mụ Oanh nữa… Chi phí vụ nhập xe này không dưới hai
triệu USD. Trực tiếp anh với chú phải đi giải ngân…
Đó chỉ là một trong những câu chuyện làm ăn của hai anh em.
Thường thì trên xe, họ ít bàn về công việc. Lái xe đường trường, chỉ chuyện tiếu
lâm, chuyện bù khú mới đỡ buồn ngủ.
- Tối qua, chú có ưng em Xônhia không? Thằng Pêtukhin bạn
anh, nó bảo atlittrờna(°), số một đấy.
Nhất biết ông anh đang nhắc tới vụ tươi mát ở khách sạn Thiên
Nga Trắng, bên Hồ Tây. Nguồn hàng mới từ chính quốc do đường dây của bạn ông
anh điều sang. Ba thằng, một chai Smirrnov, hai chai Whysky Wall Street vuông
và ba cô gái Nga vừa tốt nghiệp phổ thông trung học. Sướng hơn lên thiên đường.
- Về nhà Thuý nhà em bảo toàn ngửi thấy mùi Tây, cứ thấy gây
gây, ghê ghê. Cô nàng tinh ra phết. Em đã tắm kỹ trước khi ra khỏi khách sạn,
mà sao vẫn biết. Em phải nói dối là cùng với anh đi uống rượu với mấy thằng một-go Chả
là hồi học phổ thông, vợ em toàn đọc Igo là một-go, Iran, Irắc là
một răng, một rắc. Trêu thế cho cô nàng buồn cười, quên đi cái mùi gái
Nga.
- Sao chú không nói trước? Sáng nay Thuý hỏi, anh cứ ngớ ra.
- Anh giết em rồi. Anh nói với Thuý thế nào?
- Mãi rồi anh cũng đoán ra. Anh bảo, anh có việc bận. Chú Nhất
đi với thằng Pêtukhin và mấy thằng mới sang.
Nhất cười khì khì.
- Hú vía. Chị Linh dễ, chứ Thuý nhà em dữ như cọp cái. Nó mà
biết em "ăn phở" là nó xé xác. À, anh chưa biết khu nghỉ mát Thuỷ
Tiên nhỉ? Nước hơi đục, nhưng tươi mát cực kỳ. Mới khai trưởng, giá rẻ bất ngờ.
Anh có biết bao nhiêu không? Tám mươi nghìn trọn gói từ A đến Z. Tuần vừa rồi bọn
em đánh một xe sáu tên giặc lái xuống. Toàn loại "rau sạch" mười tám
mười chín, tha hồ chọn. Kỳ nhất là tự dưng thấy một ông già ngoài bẩy mươi ngồi
ở phòng đợi. Cụ Khốt này đến đây làm gì nhỉ? Đợi ai? Hay là nhân viên
phục vụ? Em phân vân định hỏi, nhưng lại sợ ông cụ ngượng. Một lúc thấy bà chủ
quán gọi với ra: "Ông tóc bạc kia vào đi. Có phòng rồi đấy!". Em tá
hoả. Té ra cũng dân làng chơi như mình. Lát sau thấy một thằng cha đeo sợi dây
vàng ở cổ như cái xích chó đến ngồi cạnh, bắt chuyện: "Ông bố đẻ tôi đấy.
Mẹ tôi mất từ năm tôi mười hai tuổi, ông cụ quyết ở vậy nuôi con. Vượt biên
sang Hồng Công, rồi Canada, suốt bao nhiêu năm tôi chỉ nghĩ đến chuyện làm sao
báo hiếu được bố. Kỳ này về nước, tôi quyết đưa ông cụ vào đời…"
Hai anh em cười đến vỡ xe.
- Hay là chuyến này anh em mình mời chú Vọng xuống Thuỷ Tiên
đãi chú một chầu? - Chu gợi ý - Anh thấy thương chú Vọng. Ông chú chắc cũng
chay tịnh hàng chục năm nay?
- Đừng dại. Ăn mắng đấy. Chú Vọng còn Bôn sệt hơn cả bố mình.
Gặp chú, mình chỉ bàn chuyện sửa lại khu Nguyễn Kỳ Viên thôi…
- Để về xem công trình thế nào đã…
- Còn xem gì nữa. Theo em phải dỡ ra xây cất lại. Mồ mả ông
cha, nhà thờ tổ họ mà không chăm sóc, hương khói cho chu đáo, làm ăn chỉ có lụn
bại. Em vừa xuống xem khu từ đường của ông bố vợ em dưới Hải Dương. Không kém
gì Di Hoà Viên ở Bắc Kinh anh ạ. Nhà mình rộng hơn bẩy nghìn mét vuông, có thể
chở đất đồi về làm hòn giả sơn, rồi trồng cỏ Mỹ. Cái hồ phải khơi rộng gấp bốn,
xung quanh làm đường đi dạo. Rồi ít ra cũng phải xây một khách sạn mini cỡ 5
sao để anh em mình làm khu nghỉ cuối tuần, tiếp đối tác, bạn bè. Phải có một
khu ẩm thực anh ạ. Cứ mộc tồn với thịt vịt đặc sản Phương Đình là hết ý. Xây kiểu
chú Vọng đang làm, vẫn theo lối cò con, cổ hủ lắm.
- Đợt này anh có mang tiền về góp thêm với chú Vọng. Coi như
chú Vọng ứng trước, rồi anh sẽ thanh toán hết. Anh muốn chứng tỏ cho thiên hạ
biết thằng con rơi này sẽ làm rạng danh tổ tiên, làm vẻ vang dòng họ Nguyễn Kỳ.
Chứ để riêng chú Vọng gánh là dã man. Chú Vỹ chú Cục không nói làm gì, chứ ông
bô chúng mình mà cũng giả ngây điếc, thì rồi thiên hạ người ta ỉa vào mặt. Tiếng
là Việt kiều Mỹ, nhưng chú ấy cũng phải làm ăn chắt bóp mấy chục năm mới được
ít vốn liếng. Chỉ bằng anh với chú làm một phi vụ.
- Cả em cũng đóng góp, để lấy phúc lộc… Nghĩ mà thương chú Vọng.
Em hỏi, chú kiếm bằng cách nào mà có tiền mang về xây nhà thờ? Chú xoè tay,
tính với em: "Bí quyết của đời chú là tiết kiệm. Sống khắc khổ, giản dị với
bản thân nhưng lại rộng rãi với mọi người. Từ ngày di cư vào Sài Gòn, đến khi
sang Mỹ, chỉ một thói quen đi làm bằng xe buýt, nhường xe con cho vợ, cho con
đi học. Chú có thói quen đến sở từ 6 giờ sáng, vừa không kẹt đường, vừa có thời
giờ sắp xếp công việc trong ngày. Đi làm thường mang theo hai gamen cơm, một
cho bữa lót dạ, một cho bữa trưa, nên ít khi dùng đến tiền bạc. Thử tính xem. Một
người Mỹ trung lưu ăn sáng hết 5 USD, ăn trưa hết 8 USD, vậy là chú tiết kiệm
được 13 USD một ngày. Nhân 15 năm, sẽ tính ra một khoản tiết kiệm của chú.
- Thế mới biết anh em mình kiếm tiền dễ gấp mấy ở Mỹ. Vụ ô tô
này mà trót lọt, cũng bằng chú Vọng kiếm cả đời…
- Anh là trưởng, em không dám vượt quyền. Phần em, em xin góp
một tỷ. Tiền này để dành xây cái cổng và khai lại cái hồ. Em vẫn cú cái cổng lắm.
Phải xoay lại hướng. Ngày trước cụ Nhiêu Biểu bảo cái cổng nhà mình ở hướng ấy,
anh em sẽ lục đục với nhau suốt. Chú Vọng bảo ông nội mình ngày trước dạy: Anh
em như thể chân tay. Câu chữ Hán là thế nào anh nhỉ?
- Huynh đệ như thủ túc. Thê thiếp như y phục.
- Đúng rồi, anh em như đầu với chân tay. Vợ như áo quần. Áo
quần có thể thay lúc nào cũng được, còn anh em ruột thịt, không thể tay này chặt
tay kia.
- Cho nên anh với chú phải đùm bọc lấy nhau, phải gánh vác phần
việc bố chúng mình còn dở…
- Thế hệ các ông bô bà bô chúng mình đáng cho lên bàn thờ cả
rồi. Em còn nghĩ đến hướng mở tour du lịch làng quê về Nguyễn Kỳ Viên nhà
ta nữa anh ạ.
- Thì về nhà anh em cùng bàn. Nếu gặp được chú Vọng thì hay
quá…
°°°
Trước khi về làng Động, hai anh em rẽ vào thị trấn Phương
Đình đánh chén một chầu thịt vịt đặc sản. Về đến nhà mặt mũi còn đỏ lênh láng
như hai ông Trương Phi.
Vợ chồng ông Cục vừa nhìn thấy chiếc Camry xanh lục, đã đon đả
chạy ra. Đây là lần thứ hai Chu về làng. Lần đầu, sau đám giỗ ông Cử Phúc và lễ
nhận anh em họ hàng ở nhà ông Lợi. Lần ấy Chu cho cả vợ và con về, mời cả ông
tướng bố vợ về cùng.
- Cả nhà cùng mong anh trưởng đỏ cả mắt - Bà Nhi nói đỡ chồng,
khi thấy ông Cục cứ lóng ngóng đứng nhìn Chu với ánh nhìn rất khó tả. Từ ngày
biết Chu là con ông Lợi, ông Cục thấy đặc biệt cảm tình với ông cháu trưởng.
Ông Cục nhận quà từ tay Chu, xuýt xoa vì cảm động. Một gói
quà rất to, có cả quần áo, kẹo bánh, đường sữa mà tự tay bà Cam đã chuẩn bị sẵn
cho Chu khi biết anh về làng.
- Đợt này anh về lâu, thể nào cũng gặp bác Vọng - ông Cục nói
- Bác Vọng điện từ Mỹ về, đã lo xong giấy tờ để có thể về nước lâu dài. Tuần
sau là bác ấy bay về đấy.
Chu nhìn ông chú từ đầu đến chân, vẻ đầy thương hại và quí mến,
tựa như người chủ nhân quí tộc trà tuổi phiêu bạt đi rất xa, nay về gặp lại người
gia nô của ông nội mình. Ở ông Cục vừa có nét của người xuất thân từ một dòng họ
có thế lực bị sa sút, vừa có dáng dấp của một nô bộc trung thành, luôn bằng
lòng với thân phận của mình. Rõ ràng khác hẳn với phong thái của chú Vỹ, chú Vọng,
ở chú Cục có nét gì đó thiếu tự tin, nhưng mộc mạc chân chất, và rất vị tha. Từ
ngày nhận chú cháu họ hàng, Chu chưa có dịp nào trò chuyện với ông Cục nhưng
nghe mẹ anh nói, thì đây là một người rất tuyệt vời Chi họ Nguyễn Kỳ này, còn
giữ được gốc gác, nề nếp gia phong, gắn kết, anh em được đến bây giờ là nhờ ông
con nuôi tật nguyền này. Mẹ bảo Chu: "Con đừng cho chú ấy là con nuôi con
đòi mà đối xử hách dịch. Ngày trước, mỗi lần đến làm việc với ông nội con, mẹ vẫn
cho hai anh em Vện, Cục quà đấy! Mẹ thấy có cảm tình và thương chú Cục. Con có
điều kiện thì nên giúp thêm cho chú thím ấy…" Lạ thật, Chu thấy khi nào nhắc
đến chú Cục, mẹ cũng dành cho chú những tình cảm rất đặc biệt.
Lần đầu nhìn thấy ngôi từ đường và các phần phụ trợ đã lên
hình hài, với toà ngang dãy dọc mái ngói đỏ au, với hồ nước, khuôn viên, tường
rào bao quanh… Chu không khôi choáng ngợp. Cái thằng Nhất chỉ phổi bò. Nghe nó
điện sang, thì đến phải về dỡ ra làm lại. Nào là nhà thờ chính điện thấp tè bé
như cái chuồng gà. Nào là cái ao trước cửa choen hoẻn như vũng trâu đầm. So với
các họ trong làng mà xấu hổ… Nói thế là không công bằng. May mà Nhất hăng máu vịt,
đùng đùng như cháy nhà rồi xẹp luôn. Không xáy ra kiện tụng, xô xát. Công bằng
mà nói, thiết kế tồng thể một khu từ đường dòng họ như thế này là quá hoành
tráng. Công chú Vọng với vợ chồng chú Cục đáng tạc bia đá.
Hai chú cháu đang trò chuyện, thăm hỏi nhau thì Chu bỗng thấy
cô Hậu chạy đến kéo tay anh, miệng ú ở điều gì. Rồi nghe tiếng Nhất oang oang
như cãi nhau ngoài chỗ thợ đang đổ bê tông phía cổng:
- Tao đã nói là không để cái cổng hướng này. Hướng này là hướng
sát chủ. Ông thầy tao đã nói rồi. Với lại, cổng nhìn thắng ra bãi tha ma, lại bị
chắn bởi cái rãnh nước thối, có ngửi được không? Ngu hết chỗ nói.
- Ông bảo ai ngu? - Đinh Mạn vừa đi uống rượu đâu về, mặt tái
mét, sấn đến vung nắm tay lên. Rõ ràng là Mạn từ lúc nhìn thấy mặt Nhắt, đã cố
ý sinh sự - Bố con thằng này ngu nên mới đứng ra xin làm mõ cái nhà này.
- Làm mõ nhà này là phúc bẩy mươi đời. Tao nói cho chú mày biết,
mày là thằng em rể, là thằng làm thuê, đừng có rỡn mặt chủ.
- Muốn là chủ thì bỏ tiền đây. Nghe nói bố mẹ ông góp được
năm vạn gạch. Chỉ đủ xây cái hố xí, nhá. Đừng có lên mặt rởm! Thối lắm.
- Đ. mẹ, cái thằng chó. Mày bảo ai xây hố xí? Ai chỉ góp vài
vạn viên gạch?
- Thì ông đi mà gặp ông Vọng. Làng này người ta biết ai là
người bỏ công bỏ của ra xây cơ ngơi này. Bố con tôi chỉ biết làm theo lệnh ông
Vọng.
- Tao chỉ biết mày chỉ đạo thi công. Mày dừng ngay cái cồng lại
cho tao. Phá đi, làm sang chỗ kia, thẳng ra đường bêtông.
- Đừng có chỉ tay năm ngón với thằng này. Mấy năm trời bạc mặt,
thủng đũng quần, sao không thấy thằng nào về mà chỉ đạo?
- Thì bây giờ ông anh trưởng tao về đây. Tao về đây. Anh em
tao là trưởng…
- Cái ông anh phát vãng kia ấy hả? Con rơi, con vãi, đâu đáng
mặt trường…
- Đ. mẹ cái thằng mất dạy. Mày bảo ai con rơi? Anh Chu ơi, phải
cho thằng này ra bã.
Nhất sấn đến, túm lấy cổ áo Mạn.
Mạn xé đánh soạt, chiếc áo rách toang, để lộ vết trổ trên
cánh tay có mũi tên xuyên qua và mảng ngực với hai con rồng xoắn lấy nhau. Bằng
một thế võ, Mạn vung một quả đấm trời giáng vào quai hàm Nhất. Cặp kính cận bay
vèo, vỡ tan.
Thấy Nhất gọi, nhanh như cắt, Chu tiến đến, túm tóc Mạn lẳng
một phát. Nhưng Mạn quá khoẻ, chỉ chúi xuống rồi lại trụ vững, tung một cú song
phi, một trúng gáy Chu, một trúng vai Nhất đang lồm cồm bò dậy.
Hăng máu, Nhất khua tay tìm kính và bỗng vớ một cục gạch gần
đấy. Nhưng Mạn còn nhanh hơn, nhảy tránh được, thuận tay vớ chiếc xẻng huơ lên.
- Nhất cúi xuống! - Chu gầm lên, liếc mắt thấy thanh gỗ bên cạnh,
liền lẳng một phát bay vút về phía chiếc xẻng.
Một tiếng hét rợn óc. Ông Cục ôm đầu gục xuống. Thì ra ông Cục
nhảy vào can, vừa lúc thanh gỗ lao tới.
Bà Nhi kêu hét lên, ôm lấy ông Cục đang nằm gục trên vũng
máu.
- Ối làng nước ôi! Cứu lấy ông Cục nhà tôi… Anh trưởng Chu giết
chết ông Cục rồi…ôi… ồi…
Chú thích:
(1) Tiếng Nga: Tuyệt vời, số một.
Chương 29
người mẹ việt
Bức ảnh mà chuẩn tướng Trương Phiên tặng nhà văn Châu Hà mang
về nước đã góp một chi tiết quan trọng để bổ sung cho cuốn sử của sư đoàn K bộ
đội Miền Đông Nam Bộ đang được gấp rút hoàn thành. Các nhà sử học quân đội đã
tìm ra mũi trinh sát thâm nhập thị xã An Lộc gồm sáu chiến sĩ, do thượng sĩ
Nguyễn Kỳ Công làm nhóm trưởng. Thoát cảnh bị máy ủi cán đầu, đêm ấy họ tìm
cách đào thoát, nhưng không thành. Cả sáu chiến sĩ và Tám Báu đều hy sinh, sau
khi Công kịp thông tin về chỉ huy sở. Tư lệnh mặt trận biết kế hoạch bị lộ, đã
quyết định bất ngờ tấn công ào ạt vào thị xã, đề phòng đối phương tìm cách ngăn
chặn. Và cuộc bao vây An Lộc mười tám ngày đêm đã kết thúc thắng lợi. Toàn bộ
sư đoàn 5 bộ binh, lực lượng tăng viện của các sư đoàn 25, 18, 21 bộ binh quân
lực Cộng hoà và lực lượng tại chỗ của chuẩn tướng Trương Phiên, người vừa được
Chính quyền Sài Gòn thăng cấp tốc từ đại tá lên chuẩn tướng để khích lệ tinh thần
tử thủ, bị đại bại. Cửa tử quốc lộ 13 được khai thông từ Lộc Ninh xuống tới
Chân Thành, Bến Cát…
Mũi trinh sát của công đã góp Công lớn vào chiến thắng An Lộc.
Liệt sĩ Nguyễn Kỳ Công được lập hồ sơ để truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang.
Những thông tin trên bà Cam biết được từ chuyến đến thăm đột
ngột của nhà văn Châu Hà. Sau khi bị miễn nhiệm chức Tồng biên tập báo Văn Chương,
nhà văn Châu Hà được điều lên làm Chủ tịch Hiệp hội Hữu nghị thay vị Chủ tịch
cũ vừa mất. Trong thời gian chờ nhận bàn giao công việc, ông đã đến nhiều nơi,
từ các cơ quan Bộ Quốc phòng, tới các quân đoàn, quân khu, sư đoàn có liên
quan, dồn hết tâm sức để làm rõ sự thật về bức ảnh bẩy chiến sĩ suýt bị máy ủi
hành hình trước cuộc tấn công vào thị xã An Lộc.
- Ảnh gốc tôi đã nộp cho Tổng cục Chính trị. Đây là bức ảnh
chụp lại.
Bà Cam lặng đi khi nhận ra đứa cháu nội của mình cao vọt lên
trong số bẩy chiến sĩ bị chôn sống.
- Cấp trên đã xác định được chàng trai Nguyễn Kỳ Công này là
con ông Nguyễn Kỳ Quặc ở làng Động, cháu ruột nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ và ông Chiến
Thắng Lợi - Châu Hà nói - Nếu không có gì thay đổi, danh sách tuyên dương Anh
hùng sẽ được công bố vào Quốc khánh 2 tháng 9.
Bà Cam hơi cúi xuống như đang chặn một cơn đau tim. Nước mắt
bà trào ra. Không phải vì cơn đau mà vì quá thương tiếc tự hào. Đúng là thằng
Công, con trai cả của Cục, cháu nội bà. Nó xung phong đi bộ đội để trả thù cho
mẹ nó bị máy bay Mỹ giết hại, khi chưa đầy mười bẩy tuổi. Tiếp đến là hai em
nó, Nguyễn Kỳ Cải, rồi Nguyễn Kỳ Cách. Hai thằng anh nằm lại chiến trường. Chi
mình thằng Cách trở về. Nguyễn Kỳ Cải đã có giấy báo tử. Còn Nguyễn Kỳ Công, biền
biệt từ ấy may mà bây giờ mới biết tin tức.
- Để tôi nhắn ông Lợi báo tin về làng Động cho ông Cục biết -
Bà Cam nói và cứ băn khoăn không hiếu sao Châu Hà lại báo tin này với mình.
- Chắc ông Lợi cũng biết tin này rồi - Châu Hà nói - Tôi đến
thăm, nhân tiện kể với chị về tắm ảnh, mà người tặng tôi, cũng là người gửi tặng
chị món quà tôi mang theo đây. Không hiếu sao tôi cứ có linh cảm ông ta phải có
một mối quan hệ bí ẩn nào đó với liệt sĩ Nguyễn Kỳ Công. Chính ông ta cũng bảo:
"Tôi giữ mãi bức ảnh này vì nhìn ảnh, tôi cứ nghĩ, cậu ta hình như là con
trai mình, cháu ruột mình. Suýt nữa thì tôi lại giết một người ruột thịt…"
Châu Hà đưa chiếc hộp đá chạm cho bà Cam.
- Ai gửi cho tôi? Món quà gì thế này?
- Thì chị thử mở ra xem.
Châu Hà lặng lẽ theo dõi phản ứng và tâm lý của bà Cam, với
cái nhìn và óc phán đoán của nhà tiểu thuyết. Quả nhiên, vừa nhìn thấy chiếc
dây thánh giá bạch kim có khắc chìm hai chữ TP, thì sắc mặt bà Cam tái dại, hai
khoé mép bà run rẩy.
- Tôi không nhận đâu. Sao anh lại chuyển cho tôi món quà này?
Chắc có sự nhầm lẫn…
- Tôi cũng định không nhận, vì lỡ chị từ chối… Nhưng ông ta
nài nỉ tha thiết quá. Ông ta nói đây không phải là một món quà tặng mà là biểu
hiện của lời cầu chúc, là sự ăn năn, sám hối…
Đôi mắt bà Cam đau đáu như nhìn sâu vào cõi xa xăm nào của
quá khứ.
- Hồi anh gặp tôi ở Đại hội Chiến sĩ thi đua để viết bài, tôi
vẫn chưa kể hết với anh. Vì sao tôi đến chùa Phổ Hướng? Vì sao tôi lại trở
thành Ni cô Đàm Hiên?
- Có một khoảng trống đầy bí ẩn ở chị mà hồi ấy tôi không tiện
hỏi. Bây giờ chắc là lúc chị có thể kể…
- Là người giàu óc tưởng tượng như nhà văn các anh, chắc cũng
không thể nghĩ đời tôi lại có nỗi truân chuyên đến thế…
- Con người mà anh gặp, đã đẩy tôi phải tìm đến cái chết. May
mà Đức Phật đã ra tay cứu giúp… - Bà Cam dừng hồi lâu, cố nén những tiếng thở
dài. Rồi đột ngột hỏi - Các anh sang bên Mỹ, lão Trương Phiên và bọn phản động
lưu vong có làm khó dễ nhiều không?
- Ở New Orleans, ngày đầu có một vài nhóm biểu tình. Nhưng
sau lại rất thân ái. Chuẩn tướng Trương Phiên chủ động nhờ người giới thiệu đến
gặp chúng tôi. Ông ấy ân hận và muốn được tha thứ…
- Rồi tôi sẽ kể với anh… Cả về bức ảnh anh bộ đội giải phóng
sắp được tuyên dương anh hùng này… Nhưng bây giờ chưa phải lúc… - Tránh cái
nhìn như mũi dao săm soi của nhà tiểu thuyết, bà Cam lim dim mắt như nhìn vào
chính đáy tâm hồn mình.
Bà nghe có tiếng vang từ đâu đó, như những chuỗi câu hỏi, âm
âm trong đầu: Vậy thì đến bao giờ? Bao giờ vết thương mới vỡ bung ra? Sự thật của
đời ta phải được phơi bày. Nhưng khi nào? Hôm nay? Ngày mai? Hoặc không bao giờ?
- Kìa ông ơi, bà cháu… - Cô cháu gái nãy giờ vẫn đứng lảng vảng
canh chừng, bỗng nhảy bổ lại - Bà cháu có bệnh tụt huyết áp…
- Chị ơi. Chị mệt lắm phải không? - Châu Hà hốt hoảng khi thấy
mặt bà Cam tái nhợt, đang muốn xỉu đi. Ông bảo cô gái đi lấy dầu xoa và cốc nước
trà gừng rồi đưa bà vào giường nằm.
Lúc sau, bà Cam tỉnh dần.
- Tôi đau đầu quá. Tôi con nợ nhà văn và nợ mọi người… - Bà
Cam thều thào nói trước khi Châu Hà ra về.
°°°
Cái tin Cục đi cấp cứu bệnh viện. Và người suýt gây ra án mạng,
lại là Chu, khiến bà Cam đột quỵ. Một tuần trong bệnh viện, nhiều lúc bà Cam
hôn mê sâu, phải thở bằng máy. Chu phải huỷ kế hoạch bay sang Nga để ở lại chăm
sóc mẹ.
- Ông Cục sao rồi hả con? - Đó là những tiếng thều thào duy
nhất mỗi lần bà Cam hồi tỉnh. Bà hỏi Chu, nhưng lại nhìn anh như trách móc.
- Vẫn đang nằm ở không cấp cứu hồi sức bệnh viện tỉnh. Nhưng
chú ấy tỉnh rồi mẹ ạ. Mảng sọ bên trái bị rạn. Não bị tụ máu. Mấy hôm đầu tưởng
không qua khôi… Lỗi tại con. Con không có ý đánh chú ấy mà chỉ cứu em Nhất. Nếu
con không gạt lưỡi xẻng của Mạn thì em Nhất đi rồi…
Bà Cam muốn nói điều gì, nhưng không thể diễn tả nổi. Trong đầu
bà âm u như một buổi chiều đầy sương mù. Tất cả chỉ một màu tro xám. Văng vẳng
đâu đây như có tiếng gió rít từng hồi, tiếng những bụi tre kẽo kẹt. Tiếng con
chim lợn buông mấy tiếng rợn người. Rồi lờ mờ hiện ra một gò ông Đống đầy những
bụi tầm xuân. Con chim lợn vô cánh bay quạt theo cơn gió lạnh tử thần. Rồi tiếng
trẻ con bỗng khóc ré. Tiếng khóc như xé màng nhĩ. Bà Cam bỗng hốt hoảng giật bắn
người, vã hết mồ hôi.
- Kìa mẹ. Mẹ thấy trong người thế nào? Chu cúi xuống, ôm ghì
lấy mẹ. Anh thấy như chính mình đau đớn mỗi khi mẹ cựa mình. Suốt mười mấy năm
phiêu bạt xứ người, những lúc anh yếu đuối nhất, lo lắng nhất là khi nghe tin mẹ
ốm, hay có sự cố gì xảy ra với mẹ.
Chu lấy khăn lau nước mắt cho mẹ. Cứ lần nào nhìn thấy Chu là
nước mắt mẹ lại giàn giụa. Mẹ thương Chu hay có điều gì muốn nói với anh?
- Con điện cho Linh đưa hai cháu về thăm mẹ rồi. Nhà con đang
thu xếp công việc. Cậu Quách Liêu nghe tin mẹ ốm nặng cũng đòi về. Riêng cháu
Liên của bà có khi không về được vì đang mắc kỳ thi cuối khoá…
Bà Cam gật đầu.
- Mấy hôm nay bao nhiêu người đến thăm mẹ, mẹ có biết không?
Tất cả những cô dì hồi làm ở Hội Phụ nữ với mẹ, không thiếu một ai. Ban Tổ chúc
Trung ương, Mặt trận Tổ Quốc, Văn phòng Quốc hội, Uỷ ban tỉnh Sơn Minh đều đến
thăm và có quà cho mẹ này. Bố con và dì Là, em Nhất ngày nào cũng vào viện. Rồi
bố mẹ vợ con, chú Vỹ, thím Khiêm. Chú Vọng mới ở Mỹ về cũng đến ngay… Trong quê
thì không thiếu một ai. Cả Mường Bi, cả làng Động… Đủ hết thành phần. Mẹ cố khoẻ,
mẹ nhé…
Chu nghẹn giọng. Mắt ướt nhoè. Anh có cảm giác như mọi người
đến để tiễn biệt mẹ anh lần cuối.
Bà Cam quay mặt vào tường. Giữa cơn mơ chập chờn, bà lại nghe
có tiếng trẻ khóc ở trong búi tầm xuân gò ông Đống giữa đồng. Có rất nhiều tiếng
chí choé của đàn chuột đồng, nhiều tiếng quạ như xé nát màn sương. Rồi lào rào
như tiếng gió tiếng lá khô bị xô đẩy. Đó là dấu hiệu hành quân của kiến. Đàn kiến
lửa đông tới triệu triệư con, nối đuôi nhau, đỏ như một vệt máu đông di động…
Tiếng trẻ bỗng kêu thét lên, tựa hồ như cùng một lúc, bọn chuột, bầy quạ và đàn
kiến cùng nhất tề tấn công thằng bé.
Bà Cam ú ớ, đưa tay chới với như bắt chuồn chuồn.
Chu hốt hoảng vội gọi bác sĩ.
- Tôi cảm thấy mẹ tôi có những biểu hiện bệnh lý lạ. Xin các
bác sĩ cho hội chẩn để tìm nguyên nhân - Chu gặp bác sĩ trưởng, nài nỉ. Anh
cũng không quên đưa chục chiếc phong bì cho một bác sĩ quen để nhờ lo liệu công
việc.
Bốn ngày sau, bác sĩ trưởng gọi Chu vào phòng riêng và báo:
- Lần đầu tiên trong đời làm bác sĩ, tôi mói thấy một bệnh
nhân có biểu hiện bệnh lý kỳ lạ thế này.
Chu run bắn người.
- Dạ xin bác sĩ cứ nói. Mẹ tôi…
- Anh phải hết sức bình tĩnh. Tôi biết anh rất yêu mẹ… Nhưng
chúng ta phải dám nhìn thẳng vào sự thật. Tiến triển bệnh của bà cụ rất lạ. Hôm
đầu vào viện chúng tôi đã chiếu chụp toàn bộ, nhưng không hề thấy dấu hiệu gì ở
gan. Vậy mà, bây giờ, tình hình đã khác hẳn. Khối u của bà cụ phát triển rất
nhanh…
- Thưa bác sĩ, mẹ tôi đã… - Chu bật khóc - Các bác sĩ đã cho
làm sinh tiết chưa? Có cần gửi sang bệnh viện K không, thưa bác sĩ?
- Chúng tôi đã gửi sinh tiết sang bên K. Đã mời bác sĩ đầu
ngành ở K đến hội chẩn. Và chúng tôi đã cùng thống nhất trong bệnh án…
Chu như đổ sụp xuống ghế. Anh không thể kìm mình được. Anh
khóc tức tưởi. Con đau quá mẹ ơi. Vì con mà mẹ chịu trăm bề cơ cực. Con là một
đứa bé bơ vơ, côi cút của Mường Bi. Tuổi thơ của con tưởng chừng như vắng bóng
mẹ. Con là đứa trẻ mồ côi, bao nhiêu năm khát tình cha mẹ. Rồi con dần hiểu ra.
Con biết mẹ phải hy sinh tình cảm mẹ con để phụng sự cho một sự nghiệp lớn lao
hơn… Cho đến khi con có mẹ và có cha, thì mẹ lại chịu biết bao thua thiệt. Con
biết, khi viết lá đơn xin ra khỏi tổ chức, xin gửi lại hết huân chương, bằng
khen, danh hiệu… mẹ đã đau đớn biết nhường nào… Mẹ không phải là kẻ phản bội lý
tưởng, phản bội con đường đã lựa chọn. Nhưng vì con, mẹ đành chịu mất mát lớn,
chịu những thương tổn mà với một người như mẹ, là vượt quá sức, là đau đến tận
cùng… Con biết mẹ vẫn chưa hết nỗi đau. Mẹ vẫn giấu con một cái gì. Đó là nỗi
đau gì hả mẹ?
Chu muốn gào lên. Muốn hỏi trời xanh. Anh loạng choạng bước
ra khỏi phòng bác sĩ, nhưng lại đâm bổ vào thành cửa.
Bệnh tình bà Cam trở nên rất nguy kịch.
°°°
Chu quyết định đưa mẹ sang Singapore hay Trung Quốc. Nhưng
các bác sĩ khuyên anh nên cân nhắc kỹ. Bởi bà Cam không chịu đựng nồi một cuộc
di chuyển đường dài, dù trên một chuyến chuyên cơ đặc biệt.
Sau mấy tuần xạ trị, tóc bà Cam rụng hết. Bà chỉ càn như một
bộ khung xương nằm thoi thóp trong căn phòng dịch vụ trắng toát của bệnh viện.
Một sáng tinh mơ, bà Cam bỗng gượng dậy, đưa mắt hê nhìn.
- Ôi mẹ, mẹ tỉnh lại rồi! Cả Chu và Linh đều reo lên - Con
Linh đây. Con dâu và hai cháu nội của mẹ, Nguyễn Kỳ Châu, Nguyền Thu Liên của
bà đã về đây.
- Đầy đủ cả rồi à? - Bà Cam nhìn quanh, như tìm kiếm một ai
đó - Thế chú Quặc đâu?
- Dạ chú Cục đã ra viện rồi mẹ ạ. Nhà nước vừa công bố tên em
Nguyễn Kỳ Công trong danh sách truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
đợt này. Chú Cục và cả họ, cả làng Động phấn khởi lắm…
Nụ cười trên môi bà Cam méo xệch. Lâu lắm rồi Chu mới thấy mẹ
cười.
- Mẹ muốn gặp chú Quặc. Muốn được mừng cháu Công anh hùng…
Bà Cam một mực đòi về nhà. Vợ chồng Chu đành thu xếp cho bà
ra viện.
Căn nhà đã được tu sửa, quét vôi sáng trắng để đón bà Cam.
Từ hôm đó, bà Cam như khoé lại. Bà gượng ngồi tựa lưng hàng
giờ. Bà đòi được tắm rửa, mặc quần áo mới.
Chu biết, ngày hệ trọng của đời mẹ sắp đến.
Hôm ấy, theo lời dặn của mẹ, Chu đã mời đông đủ anh em chú
bác chi họ Nguyễn Kỳ: ông bà Chiến Thắng Lợi, ông bà Nguyễn Kỳ Vỹ, ông Nguyễn Kỳ
Vọng, ông bà Nguyễn Kỳ Quặc, cùng cậu Quách Liêu và tướng Quảng Lạc, thông gia
của bà Cam. Một người ngoài gia tộc duy nhất mà bà Cam dặn phải mời đến là nhà
văn Châu Hà.
Ai cũng lặng lẽ như bước vào một lễ cầu siêu.
Bà Cam nằm, mảnh chăn mỏng đắp ngang người, như ngủ. Gương mặt
đã bị thời gian và bệnh tật tàn phá chỉ còn là bộ khung xương, với hai hốc mắt
trũng sâu, tuy vậy, vẫn thấp thoáng những đường nét của một thời xuân sắc.
Riêng mảnh khăn nâu mà cô cháu gái đã khéo che cái đầu rụng tóc khiến cả ông Lợi
và nhà vãn Châu Hà vừa bước vào đã giật mình, cùng nghĩ tới ni sư Đàm Hiên chùa
Phổ Hướng năm nào.
Nằm yên đó, nhưng dường như bà Cam biết hết. Bà như cảm nhận
được ánh mắt của ông Lợi đang nhìn mình. Bà biết tiếng bước chân hơi lệch của
ông Quặc đang đi đến bên cạnh, ngay sát bên Chu.
Khi mọi người đã tề tựu đông đủ quanh giường bệnh, bà Cam gượng
chống tay ngồi dậy. Chu, Linh rồi bà Nhi, bà Khiêm, bà Là cùng xúm lại, người đỡ
vai, người xốc nách.
- Tôi cám ơn mọi người đã đến - Bằng một giọng trầm, nhỏ,
nhưng khúc triết đến không ngờ, bà Cam mở đầu - Tôi biết mình không còn được ở
với mọi người lâu nữa, nên bảo vợ chồng cháu Nguyễn Kỳ Chu tổ chức cuộc gặp
này. Người xưa nói, con chim trước lúc chết thì cất tiếng kêu thương. Con người
trước khi chết thì cất lời nói thật. Có phải thế không chú Châu Hà nhỉ?
- Dạ, đây là câu trong Luận Ngữ. Tăng Tử bị ốm nặng, đã nói với
Mạnh Tử Kính như vậy - Châu Hà nói.
- Nay tôi mời mọi người đến đây để chứng kiến cho một lời nói
thật. Điều này tôi tưởng sẽ phải đem theo xuống mồ. Nhưng tôi không thể…
Nước mắt bà Cam chan hoà, chảy thành dòng theo gò má.
Chu khóc nấc lên, ôm lấy mẹ. Những người đàn bà đều thút
thít.
- Đừng khóc…- Bà Cam lại nói - Anh Quặc đâu, Chu đâu, đưa tay
cho mẹ.
Linh cảm điều gì từ lúc đến, ông Cục quỳ xuống bên giường.
Bà Cam cầm tay Chu đặt vào tay Cục.
- Chu con. Đây là anh trai của con. Giọt máu của mẹ sinh ra.
Con hãy thương yêu anh Quặc con, hai anh em hãy thương yêu nhau như hai nhánh
cây cùng một nguồn cội. Xin mọi người hãy chứng giám cho hai đứa con của tôi.
Chúng có hai người cha, hai kẻ thù ở hai phía, nhưng chúng lại được sinh ra từ
một người mẹ lương thiện nhưng khốn khổ và chồng chất những bi kịch. Ông Khôi
ơi, nếu ông khinh bỉ tôi, coi tôi như đồ chung chạ, như người đàn bà hư hông,
thì tôi cũng đành chịu. Thời cuộc sinh ra thế. Đất nước chúng ta từng trải qua
những khúc nhôi bi đát thế. Chúng ta đều là những đứa con khốn khổ của mẹ Việt
Nam. Mẹ Việt không chối bỏ đứa con nào. Vậy thì hai con tôi có tội tình gì mà
bao nhiêu năm tôi phải chối bỏ? Tôi sẽ không xứng đáng là người mẹ, nếu tôi
không dám thừa nhận rằng chính tôi đã sinh ra chúng, không dám đối diện với những
lầm lỗi, không vượt qua được sự ích kỳ, giả dối, hèn nhát… Mọi thứ trên đời sẽ
còn có ý nghĩa gì, khi hai đứa con của tôi không biết rằng chúng là anh em cốt
nhục. Quặc ơi, con có một cái bớt màu tro ở dưới rốn, đúng không? Suýt nữa thì
mẹ đã giết chết người bố của một anh hùng. Con Kỳ Quặc tới mức cha thế, mẹ thế,
mà đẻ ra được Anh hùng. Con phải cám ơn nhà văn Châu Hà đã mang từ nước Mỹ về tấm
ảnh của cháu Công để Nhà nước có chứng cứ truy tặng cháu danh hiệu cao quý nhất.
Nhân đây tôi cám ơn chú Nguyễn Kỳ Vọng. Giờ thì chú và mọi người có mặt ở đây
có cho phép tôi làm chị dâu của chú, con dâu của họ Nguyễn Kỳ không? Tôi vẫn nhớ
mãi hai anh em Vện, Cục, như hai đứa trẻ sinh đôi của ông bà Cử Phúc… Chú Vọng
đã cứu cháu Công khỏi rơi đầu từ lòng hận thù mù quáng của ông nội nó… Bây giờ
cháu Công đã trở thành Anh hùng. Nhưng cả tôi và cháu, cùng hàng triệu người
ngã xuống, không được chứng kiến cái ngày phong tặng danh hiệu thiêng liêng ấy.
Dòng họ Nguyễn Kỳ hãy nhận niềm vinh quang… Hãy xoá bỏ hận thù để thương yêu
đùm bọc lấy nhau… Quặc ơi, từ nước Mỹ, đất nước mà một thời đã gây cho chúng ta
biết bao đau khổ, chú Châu Hà mang về cho con cái này. Đây là bằng chứng của sự
sám hối, là lời cầu xin tha thứ…
Bà Cam luồn tay dưới gối, lấy ra sợi dây thánh giá bạch kim,
đặt vào tay Cục.
Từ lúc nào, Cục cũng đã cầm sẵn trên tay chiếc vòng bạc có vuốt
hổ. Ông đặt kỷ vật mà ông đã cất giữ bao nhiêu năm, vào tay bà Cam. Và gào lên:
- Mẹ… mẹ… mẹ…! Mẹ ơi!
Tiếng gọi mẹ đầu tiên của Cục, cũng là tiếng khóc tiễn cuối
cùng của đứa con sau sáu mươi mốt năm mới được nhận mặt người đẻ ra mình.
Khắp người bà Cam đã lạnh giá. Bà buông xuôi tay, đầu ngật hẳn
vào vai Chu, trên môi thoáng một nụ cười. Nụ cười mãn nguyện của người mẹ trước
lúc ra đi.
Hà nội 16h16 ngày 1.6.2008.
(Khởi thảo thảo 2005, viết tại Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Nha
Trang, Bình Phước. TP Hồ Chí Minh)
HOÀNG MINH TƯỜNG
Lời cuối sách
Cuốn tiểu thuyết "Thời của Thánh Thần" viết về
một gia đình làng quê châu thổ sông Hồng, được tác giã nuôi dưỡng trong âm hướng
sử thi của Nước Việt suốt nửa sau thế kỷ vì thế, nhiều sự kiện, nhiều nhân vật,
có bóng dáng như ở đâu đó như giống ai đó…
Thực ra, không gian và nhân vật đều là hư cấu tiểu thuyết,
tác giả không ám chỉ một ai, một nơi nào trong đời thực. Vì thế, bạn đọc hãy
vui lòng thể tất mọi điều…
Viết "Thời của Thánh Thần", tác giả đã nhận được sự
ủng hộ của Hội Nhà văn Việt nam, sự chỉ giáo và chia sẻ của các văn nghệ sỹ,
các nhà khoa học: Hoàng Yến, Nguyễn Xuân Khánh, Ma Văn Kháng, Bùi Đức Hợp, Nguyễn
Quang Thân, Đỗ Chu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Quang Hà, Hiền Phương, Đức Hậu,
Quang Khải, Trịnh Thanh Sơn, Trần Hoài Dương, Tô Đức Chiêu, Trần Nhương, Vũ
Nho, Đoàn Chấn, Nguyễn Việt Hưng, Lê Cao Đoàn, Nguyễn Vũ Tiềm…
Xin gửi lời tri ân và biết ơn tới các bậc cao niên, bạn bè,
cũng như sự cảm thông và chia sẻ của bạn đọc.
TÁC GIẢ
______________________
THAM KHẢO
(Do Nguyễn Học sưu tầm)
Sách bị thu hồi
Theo BBCVietnamese ngày 03/9/2008, cuốn tiểu thuyết “Thời
của thánh thần” của nhà văn Hoàng Minh Tường viết về những đổ vỡ của một
dòng họ suốt nửa thế kỷ đã bị thu hồi sau khi ra mắt được vài ngày.
Trước đó, “Thời của thánh thần” được tờ báo mạng Vietimes (là
một phụ trang của Vietnamnet, trực thuộc Bộ Thông tin - Truyền thông) khen ngợi
là “tiếng nổ của văn xuôi”, nhưng hiện nay, Vietimes xóa đi bài viết
sau khi có lệnh cấm lưu hành cuốn sách.
“Tiểu thuyết Thời của thánh thần được nhà xuất bản Hội Nhà
Văn ấn hành.
Thông tin trong sách ghi người chịu trách nhiệm xuất bản là
Giám đốc Trung Trung Đỉnh, chịu trách nhiệm bản thảo, ông Nguyễn Khắc Trường.
Người biên tập cuốn sách là nhà văn Tạ Duy Anh, bản thân từng
viết tiểu thuyết cũng bị thu hồi năm 2002, "Đi tìm nhân vật".
Ông Hoàng Minh Tường, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, sinh năm
1948 ở Hà Tây, tốt nghiệp cử nhân Địa lý.
Ông đã viết 11 tiểu thuyết, ba tập truyện ngắn cùng bốn tập
bút ký phóng sự”.
Trang mạng của nhà thơ Trần Nhương cho biết Cục Xuất bản
chính thức có lệnh thu hồi sách. Ngày 28/8/2008, tác giả Hoàng Minh Tường cùng
nhà văn Nguyễn Khắc Trường (người chịu trách nhiệm bản thảo) đã “đi tất cả các
hiệu sách Hà Nội để thu hồi sách trôi nổi”. “Tác giả tiểu thuyết xác nhận với
BBC tin này nhưng không muốn trả lời phỏng vấn”.
“Vụ thu hồi diễn ra khá lặng lẽ và ngay cả ở Hà Nội, nhiều
nhà văn cũng chưa kịp đọc cuốn sách dày 648 trang.
Nhưng một số người đã đọc thì cho rằng đây có lẽ là một trong
số rất ít tác phẩm văn học trong nước gần đây phê phán chủ nghĩa cộng sản công
khai nhất, mạnh bạo nhất, đau đớn nhất.
Cũng có người ở Sài Gòn cho biết sau khi có lệnh cấm, khi ra
hiệu sách hỏi tên tác phẩm, ông vẫn được người bán "đi vào trong lấy sách
đem ra đưa cho"”.
Chuyện xoay quanh số phận của dòng họ Nguyễn Kỳ suốt mấy chục
năm từ Cách mạng tháng Tám đến ngày nay.
Người cha, Cử Phúc, được Việt Minh gài vào làm lý trưởng, hoạt
động hai mang, vừa cho Pháp vừa cho Việt Minh.
Đến hồi cải cách ruộng đất, Lý Phúc bị quy là địa chủ của giặc,
bị người con nuôi vu cho bố ngủ với vợ mình. Lý Phúc phải tự sát.
Ba người con trai ruột của ông có số phận khác nhau.
Nguyễn Kỳ Khôi trở thành cán bộ cao cấp ngành tuyên huấn.
Người thứ hai, Kỳ Vỹ, nhà thơ có tài, ban đầu được đưa lên
làm ngọn cờ thơ ca cách mạng.
Nhưng sau vì nói thật, dám chê thơ của một cán bộ cao cấp,
nên ông bị thất sủng, đi tù mấy năm, trở nên buồn chán, bất lực.
Người thứ ba, Kỳ Vọng, di cư vào Nam, trở thành phó giám đốc
sở công chính Sài Gòn. Sau khi thống nhất, anh ở lại nhưng bị o ép, chịu không
nổi đã vượt biên sang Mỹ.
Riêng người con nuôi lại có số phận khác lạ. Là người đã quay
lại bán đứng bố mẹ, nhưng sau hối hận, anh ta trở thành người xây dựng lại họ tộc.
Hoàng Minh Tường
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét