Nguyễn Anh Tuấn,
thơ là phúng dụ - Phúng dụ là thơ
(Nhân đọc nhanh tập thơ “Phúng dụ từ
1- Đọc nhanh một cuốn thơ mới của một tác giả mới
Là hạnh phúc cho những người yêu thơ; thường là vậy. Tôi luôn
gắng giữ mình hạnh phúc yêu ấy. Bất kể thơ nào, tác giả nào…
Nguyễn Anh Tuấn là tác giả không mới trong làng thơ Việt hiện
nay nhưng duyên tôi vừa mới tới được, nhờ thi phẩm đầu tay của anh sau hơn 25
năm sống thơ [1].
Nhớ, lâu rồi trong các lần đọc trước. Trên mạng, nhất là giữa
“siêu thị thơ” Facebook, những chùm “thơ lạ” của tác giả lạ Nguyễn Anh Tuấn. Lạ,
bởi bài thơ nào thấy cũng có tên bắt đầu bằng từ “Phúng dụ” [2], và mỗi
bài thơ con con thôi mà đủ thứ sự đời. Tôi cho chúng vào kho thơ của riêng
mình, cả phúng dụ cùng không phúng dụ. Rồi… quên! Cho đến tháng trước.
Ở đời rất nhiều cái lạ một khi quá ngưỡng, hết còn lạ. Thì
cũng phải thôi. Trong nghệ thuật càng đúng. Bởi nghệ thuật là gì? Ở mức độ căn
bản, là biến cái quen thành cái lạ; tới tầm trung cấp làm cho cái lạ trở nên
quen thuộc. Lên tầng cao thượng, nghệ thuật không phân biệt lạ và quen.
Khi Nguyễn Anh Tuấn thẳng tay (nhắm mắt hay mở mắt, ta không
thể biết; có thể chàng mắt nhắm mắt mở cũng nên!) tạo dựng một tập thơ ngót 100
bài lẻ, và tất nhiên cả tên sách, đồng phục bằng nghệ thuật phúng dụ như một thủ
pháp, ít nhất về hình thức. Thì đó không phải dạng vừa, ít nhất về hình thức. Riêng
tôi, hết còn thấy lạ trước từ khóa “phúng dụ” một khi nó đã là rừng phúng dụ.
2- Thủ pháp phúng dụ của Nguyễn Anh Tuấn là một phát kiến
trong cách làm thơ tiếng Việt hiện nay
Đó là theo quan sát không thể toàn diện nhưng trọng điểm của
tôi. Và đồng ý với quả quyết của nhà phê bình Ngô Đức Hành: “Chỉ riêng điều này
cho thấy, Nguyễn Anh Tuấn là nhà thơ duy nhất về phúng dụ.” [3]; và Ban
biên tập Văn chương phương Nam: “Nguyễn Anh Tuấn là nhà thơ tiên phong
(avant-garde) về phúng dụ.” [4]
Như một thi sĩ (chất thi sĩ ở con người tác giả chứ chưa hẳn ở
tác phẩm), cao vọng của anh là trở thành chủ nhân thi pháp phúng dụ. Lúc đó nhà
thơ này sẽ là một trong không nhiều nhà thơ cách tân thi ca Việt Nam bằng việc
“phát minh thành công” một phương pháp làm nghệ thuật mới, với một dòng thơ
mang hệ mỹ học mới trong phong cách mới có nghệ thuật ngôn ngữ mới ở hình thức
diễn ngôn mới, v.v. mới và, v.v... mới. Mọi điều mới đến từ một hình thức tu từ
không bao giờ xưa cũ trong văn nghệ: phúng dụ.
Tất cả đang ở thì tương lai. Còn hiện tai, như nhà nghiên cứu
- phê bình Hoàng Thụy Anh cũng vừa xác nhận thủ pháp phúng dụ chính là phương
thức nghệ thuật đặc trưng tạo thành tập thơ, và đã dẫn lại định nghĩa:
“Phúng dụ là hệ thống những ẩn dụ, nhân hóa, vật hóa (thường
là vật hóa) được sử dụng để biểu đạt một nội dung triết lí hay bài học luân lí
mà người ta không muốn trình bày trực tiếp… Phúng dụ sớm đi vào nghệ thuật văn
chương trong những bài đồng dao, ca dao, truyện ngụ ngôn… mà dân tộc nào cũng
lưu giữ trong kho tàng văn hóa của mình, trước khi thể loại tiểu thuyết xuất hiện.” [5]
Thành hay bại, tôi ủng hộ đến cùng nẻo thơ Nguyễn Anh Tuấn! Bởi
không quá bất ngờ, khi thấy cũng như quan niệm thơ là một tổ hợp các kiểu cách
phúng dụ bằng các hình thái “ngôn ngữ quái đản”.
Dùng lại chữ “quái đản” vốn rất nổi tiếng (mà không được đồng
thuận trong giới phê bình thơ) của nhà nghiên cứu - lý luận Phan Ngọc, cũng hàm
ý rằng, ngôn ngữ và diễn ngôn trong thơ Nguyễn Anh Tuấn nhiều phần “quai quái”,
nổi lên là vấn đề phúng dụ đã được/bị phơi trần.
3- Đọc tập thơ “Phúng dụ từ những đám mây” như một… trường
ca!
Tôi những muốn gợi ý vậy. Và vững tin hơn khi mà bài viết gần
xong thì thêm được câu “chỉ đạo” từ nhà nghiên cứu - lý luận La Khắc Hòa: “Hiện
nay, nhiều thể loại chui tọt vào một tác phẩm.” [6]
Chủ đề thơ Nguyễn Anh Tuấn tuy biến động đến khôn lường, đa dạng
như nồi lẩu thiên địa (“sông, làng, phố, biển, lửa, cõi niết bàn, trăng, hạt bụi,
bông hồng, tờ lịch, giấc mơ, con ếch, người mẫu” [7]), song liền mạch nhất
quán, từ thủ pháp đến ngôn ngữ nghệ thuật, từ giọng điệu tới tự sự thi ca, từ
nhân vật trữ tình đến nhân vật điển tích… Tất cả các bài thơ như những vật đồng
dạng phối cảnh với nhau.
Nhờ sự nhất quán đó ta có thể đan ghép cả một tập các bài thơ
bình thường, ngăn ngắn [8] thành một trường ca (hiểu theo hướng hiện
đại). Tức là, ở đây thi pháp thực hành văn bản không chỉ là phương pháp sáng tạo,
là nghệ thuật thơ mà còn là hình thái thể loại [9].
Với thứ thơ lạ mà từng bài thơ có nhiều tương đồng về hình thức
và nội dung như dòng thơ phúng dụ này, nên chăng đọc chúng trong tổng thể của một
phương pháp viết cũng như một tâm thế cảm thụ, ngoài việc đặt chúng trong một
không gian nghệ thuật. Việc trường ca hóa “Phúng dụ từ những đám mây” trong ý
nghĩa đó.
Cảm ơn Hoàng Thụy Anh đã chọn ra và lý giải:
“Lấy ví dụ về hình ảnh lửa trong các bài thơ “Phúng dụ mẹ”,
“Phúng dụ ánh mắt”, “Phúng dụ biển”, “Phúng dụ bonne nuit”, “Phúng dụ thần lửa”,
“Phúng dụ về lửa”, “Phúng dụ eden”, “Phúng dụ valentine”, “Phúng dụ hoàng hôn
những cánh dơi” và thử liên kết chúng với nhau. Theo Kinh Thánh, lửa vừa mang yếu
tố tích cực vừa mang yếu tố tiêu cực: “Mọi rực rỡ bắt đầu từ lửa/ Mọi kết thúc
do rực rỡ lửa” (Phúng dụ thần lửa). Dựa vào Kinh Thánh, dựa vào mối quan hệ
tương đồng, Nguyễn Anh Tuấn triển khai giá trị và ý nghĩa ngọn lửa trong đời sống,
ngọn lửa của tình yêu, ngọn lửa của tâm hồn, ngọn lửa của thi ca.” [10]
để rồi từ những bài thơ cụ thể và nội dung trên chúng ta tạo
nên một chương về lửa trong bản “trường ca phúng dụ”.
Đoạn mở đầu chuyên luận [11] cũng đã nhấn mạnh tính
trường ca của một sáng tác thơ được gọi là trường ca cần thể hiện hài hòa qua 6
tiêu chí, trong đó số 1 là “Thể tài: mang tinh thần và nội dung không của từng
cá thể hay giữa các cá thể, mà thuộc về giá trị chung - đất nước, quê
hương, nhân loại, dân tộc, cộng đồng - trong một chủ đề nhân văn có ý
nghĩa xã hội rộng lớn. (Đây nên được xem như kim chỉ nam về tư duy thể
loại trên bản đồ nghệ thuật thơ có tính trường ca)”.
Khoan xét 5 tiêu chí sau (mà chắc tập thơ chúng ta đang bàn
có cái được, có cái không), tiêu chí đầu là thể tài xem như đạt. Lại xin dẫn
bài nghiên cứu ngắn, gọn nhưng đủ sâu, sát nói trên:
“Đa phần các bài thơ gắn với các giá trị văn hóa - văn học -
lịch sử của dân tộc Việt và của thế giới. Anh vay mượn các tư liệu từ Kinh
thánh, Phật giáo, sử thi, ca dao, cổ tích, thần thoại… đưa vào thơ mình và
không lý giải hay trích dẫn nguồn. Các dữ kiện như Chúa, Zeus, Muse, Tazan, các
tầng trời, vầng mây, lửa, niết bàn… là nơi anh nén phần chìm của bài thơ.” [12]
Cuối cùng, liên quan đến chuyện không gian thơ mà tập thơ “Phúng
dụ từ những đám mây” can dự.
Như đọc thơ haiku. Thành thực mà nói giữa chúng ta, trừ các đấng
bậc quá sành thơ ca nói chung hoặc rất am tường văn hóa Nhật Bản, lần đầu đến với
kiệt tác haiku như bài “Con ếch” của Basho, mấy ai mà không thấy nó tầm thường,
nếu không dám nói là kỳ cục? Ếch với chả ao! Nhưng khi đọc “Con ếch” và mọi bài
haiku hay dở nào khác trong cùng một thi giới của thể thơ ngắn nhất trần gian ấy,
ta có thể cảm thụ dần dần cái độc đáo vời vợi, cái “đang là” vĩnh cửu của thiên
nhiên và tâm trạng, rồi cái khôi hài mím môi… đến từ nhân sinh quan và thế giới
quan của thi ca Nhật Bản.
Như đọc thơ Bùi Giáng. Cũng thành thực mà nói giữa chúng ta…
(Nhưng thôi, xin dành dịp khác.)
Thắt lại một câu: Chớ nên đọc một bài thơ phúng dụ nào đó của
tác giả Nguyễn Anh Tuấn như là một sáng tác độc lập.
4- Chất uy-mua/ khôi hài trong “Phúng dụ từ những đám mây” có
cơ đạt gần đến độ Không
Được như thế có thể gọi là khôi hài đen (humour noir), khi điệu
cười đến từ sự nghi vấn và đàm tiếu. Ở tập thơ chính tác giả cũng đã sử dụng
vài lần các từ “umua”, “umua đen”.
Trong thơ Việt Nam đương đại, và cả hiện đại, cực hiếm các cao
nhân đưa được khôi hài đen vào thơ trữ tình. Đây là khác biệt lớn giữa thơ Việt
và thơ Mỹ. Còn ở loại thơ phi trữ tình thì người Việt là số dách trên trái đất
này! Như Tú Mỡ, Xuân Sách (với tập thơ truyền đời “Chân dung nhà văn”) trong thể
thơ châm biếm, trào phúng. Gần đây là Nguyễn Bảo Sinh ở thể thơ dân gian. Trường
hợp độc nhất vô nhị - ở Việt Nam và có lẽ toàn cầu - là trường phái Bút Tre
nhưng tiếc thay không được tính là thơ; nó vè.
Các tác giả Nguyễn Đình Chính (với lối thơ “Thơ chẹc chẹc” rất
đỗi đặc hiệu), Nguyễn Quốc Chánh, Bùi Chát đại diện nhóm Mở Miệng; và Đinh
Linh, Lê Đình Nhất Lang, Nguyễn Hoàng Nam, Đỗ Kh. đều có thơ khuynh hướng khôi
hài đen theo những giai điệu khác nhau. Tôi thống khoái lối thơ Đinh Linh -
uymua đen đặc phong thái ngạo nghễ gác chân góc bàn coffee Mẽo mà phê phê khói
thuốc lào vặn vẹo ngôn ngữ An Nam. Tiếc (vâng, lại tiếc nữa!), với ba tác giả đầu
tiên lắm lúc thơ “đen” quá cảnh giới khi cảm hứng thời cuộc thăng thiên, ẩn ức
chính trị cao vọt. Chuyển thành “khôi hài thâm”. Chất hài hước ở sắc thái mới
nó đục hơn về tâm tư dễ chuyển đổi nội dung thành thơ tranh đấu và thơ
phản biện/ phản kháng/ phản v.v. Hai/ba/bốn “thái độ thơ” đó khiến
tính trữ tình suy giảm, nhưng lại không đủ ý thức mới mẻ, suy tư cao sâu để trở
thành loại hình thơ trữ tình chính trị [13] (như ở nhân vật xuất
chúng dị thường sẽ xuất hiện cuối đoạn này.) Và lâu nay cả ba vị đã cùng ngưng
bút thơ. Cần nhấn mạnh tới Nguyễn Đức Tùng của mươi năm trước, như một tay bút
hiếm hoi gần đạt độ Không trữ tình khôi hài đen, trong một lối thơ thử nghiệm;
đọc không ra thơ - nghĩ mới thành thơ. Tiếc (biết rồi, khổ lắm, tiếc mãi!) nó
không được tác giả hoàn thiện, với các bài đủ “đen” thì ít tình. Cho đến nay với
bốn vị sau cùng trong khối G7 trữ tình đen kể trên, kẻ thì xa dời người thì ít
còn thơ thẩn. Dường như thơ đương đại Việt lúc này chỉ còn hai tài năng: Lê
Vĩnh Tài và Phan Nhiên Hạo, tương đối khả ái khoản black humor/ dark
humor khi chủ tâm phất phơ nhếch mép trong vài ý tứ mà không thành hẳn giọng
điệu hài hước; và cũng chỉ ở một số bài thơ chứ chưa thành phong cách viết. Với
Nguyễn Hàn Chung, âm vực giễu hài cao, ngôn từ dân dã thuần thục, dưng mà độ
vui tếu phồn thực xếch xì Nam Bộ pha Huê Kỳ cũng ngất ngưởng, thành
thử khôi hài đen bị giảm vẻ nghiêm trang. Thôi thì khỏi tiếc. Dồn nỗi tiếc
thương cho Sơn Núi - Nguyễn Đức Sơn: Thi bá vừa nằm xuống tháng trước, kéo theo
một đỉnh thơ đủ ba cung bậc bi-hài-tráng như hiện tượng kỳ quái đầy nhân bản của
văn chương và xã hội Việt Nam suốt thế kỷ chiến tranh và hậu chiến. Khôi hài
đen trong thơ trữ tình nói chung và thơ trữ tình chính trị nói riêng ở Nguyễn Đức
Sơn là gì? Là “táo bón” từ bốn thứ thực phẩm chức năng trong cái dạ dày bốn mùa
khoai ngô: đè nén thời cuộc, bùng nổ tình dục, dung hòa thiên nhiên và, cuối
cùng, an nhiên thiền đạo [14].
Vậy Nguyễn Anh Tuấn của chúng ta thì sao ạ? Nếu dạn tay phê lối
viết phúng dụ đang như một thử nghiệm; cũng chẳng quá sai. Nhưng là thử nghiệm
với các điều khác (xem Mục 6), còn về chất humor kể như ổn.
Quý là ở chỗ tác giả giữ độ đậm nhạt dìu dịu về khả năng khiêu khích (điều tất
yếu của khôi hài), nghĩa là tính tri thức cao. Gọi là “khôi hài nâu” cho nó
lành! Hài hước mà không giễu nhạo, châm biếm, chỉ trích (nên không thuộc về
dòng uymua hậu hiện đại - Xem tiếp Mục 5).
Một trong các thành phần thơ làm nên chất khôi hài nâu ấy, là
việc chêm, đệm chữ cửa phật câu nhà thờ tiếng cư dân mạng, nhất là các từ ngoại
ngữ (Anh, Pháp, Latinh… khi thì chuẩn lúc lại lung tung beng). Đa phần có ngữ
nghĩa đơn giản. Ở thời đại 4.0 dường như không là vấn đề với đại chúng. Về nội
hàm, các chữ đó không có nội dung ngoại ngữ, và càng không có nội dung văn
chương tự thân.
Nhưng, thái quá bất cập. Hơn đâu hết, ở thơ phúng dụ Nguyễn
Anh Tuấn, cách dụng ngôn quai quái (từ cú pháp thơ đến điển tích, kiến thức,
kinh sách) - ở các bài không thành đạt - đang trở thành rối rít. Tiếc, làm giảm
chất khôi hài đen (điều trong thơ vốn rất khó tới như đã nói) cùng lúc cản trở
tiếp cận thơ ở lần đọc đầu tiên.
Trữ tình ngoại đề: Sau một loạt còm trên FB rằng
chẳng thấy phúng dụ ở đâu trong một bài thơ anh vừa đăng trong một tút,
tác giả bảo (riêng với tôi): “Sự nghi thức càng chuẩn mực sẽ càng hài hước một
cách rất nghiêm chỉnh”. Tôi bảo (cũng riêng với tác giả): “Bài thơ đó dùng cách
nói và lối viết chân chỉ khẩu hiệu, và khôi hài đen thành quả.” Của đáng tội,
hai chúng tôi vung chuột thì thụt bên trong, bởi người còm phát
hỏa là nghiên cứu gia tầm cỡ, chừng 30 năm trước từng làm tự điển văn học (chắc
trong đó có từ nguyên “phúng dụ”). Một thi sĩ có số đã ôkê ngay tắp lự. Nhị vị
tôi đều quen biết. Rồi 2-3 bạn “phây” khác cũng ngay tắp lự ôkê. Tôi mừng; tác
giả được nhận các phản hồi (dù âm tính) trước trò phúng dụ của anh ta.
Trong tập thơ ít nhất có sáu bài tôi từng đọc mang, hoặc muốn
mang, con mèo khôi hài đen. Theo thứ tự thành công, đó là “Umua đen ở bãi biển”, “Phúng
dụ mẫu nhân vật umua”, “Phúng dụ J. Fucik”, “Phúng dụ Di Lặc”, “Phúng
dụ những bông hồng umua đen”, và “Phúng dụ nỗi trác tuyệt” (bài sau cùng hơi
phô về nội dung).
5- Các điểm son khác hiển lộ nơi tập thơ
- Thủ pháp phúng dụ rất riêng của tác giả khiến một điều
quan yếu phải chậm bàn đến: Là chủ nhân một tập thơ trữ tình với mật độ thơ
tình yêu đủ cao, Nguyễn Anh Tuấn hoàn toàn bứt khỏi hàng ngũ các nhà thơ lãng mạn
- hiện thực truyền thống và bài bản, từ tâm tư văn chương đến thể loại viết
lách. Đây là một cây bút hiện đại của trữ tình và hiện thực - có phần không tưởng
nhưng không lý tưởng kiểu cũ. Dù với lên những cao thiêng trên trời (Phật,
Chúa, Thần lửa, mây…) thơ này có các mặt hàng siêu thị bát nháo kinh tế thị trường
toàn cầu hóa. Dẫu mang đôi nét ngẫu nhiên của kỹ thuật văn chương hậu hiện đại
(thậm chí cả tính liên bản như đã được bàn xét kỹ ở bài trong Ct 5), thơ này tỏ
ra không ham trò phá phách của cuộc chơi lớn lao mà bát nháo mang tên Hậu hiện
đại, xét về tâm thức. Chân - Thiện - Mỹ vẫn là chân đế cho tập thơ. Đường thơ vọng
tới chân lý không hoài nghi. Một nẻo xa của tân cổ điển?
- Hầu hết các bài thơ tôi đọc đều có độ bất ngờ cao, mà không
hề khiên cưỡng hoặc dụng công (dùng tứ có hình ảnh, tình tiết lạ lẫm hoặc từ/câu
cuối cùng bất ngờ như thông thường). Tôi ngờ rằng tay thơ này có bí kíp của
chàng, tạm gọi là cú pháp bất ngờ. Thế là ăn tiền rồi! (Ôi, giá như thơ
sinh ra tiền!?) Thơ, căn bản là một cuộc chiến du kích của ngôn ngữ; nó bí mật
bất ngờ.
Đi trước và gần giống ý trên, nhà nghiên cứu - phê bình Văn
Giá cũng từng khẳng quyết điểm son tương tự, khi sách vừa ra lò: “Nguyễn Anh Tuấn
đầu tư vào những liên tưởng xa, bất ngờ, không tính lý do, tạo ra những vùng mờ,
khơi gợi. Theo đó, ở những chỗ thành công, ngôn từ luôn được lạ hóa, đủ làm nên
những ngạc nhiên.” [15]
- Một cách cực đoan, toàn tập thơ là một cuộc chơi của các ma
trận ý tưởng và bản đồ cảm xúc. Nội dung, chủ đề thơ chỉ là cái đinh theo
tranh.
- Từng bài thơ được tác giả tự biên tập đủ kỹ (nhất là bây giờ
hầu hết nhà xuất bản không làm trọn bổn phận). Người đọc có thể hiểu/cảm; thích
hoặc không, nhưng đâu dễ thò mắt vào để sửa chữa các lỗi câu chữ dư, thừa, lạc,
đuối, lép… thường thấy ở các tập thơ đầu tay. (Vả, với một lối thơ “quai quái”
mấy ai đủ “quai quái” mà vào cuộc như là đồng tác giả?)
- Vần điệu tương đối tự nhiên, không lụa nhưng chảy. Đa phần
là thơ tự do; hứng lên thi sĩ vần điệu thì cũng điệu đà như ai (“Umua đen ở bãi
biển”, “Phúng dụ trăng”…). Chưa thấy bài thơ vần điệu nào điệu nghệ?
- Ảnh hưởng từ thi bá Lê Đạt rõ, còn hơi phô (xem tiếp mục
sau). Có một bài thơ (không trong tập thơ) giăng hẳn tên Lê Đạt thì ôkê… con gà
nâu. Hóm!
6- Những vấn đề tồn tại trong thơ Nguyễn Anh Tuấn phải chăng
cũng không ít, nặng ký?
Ngay cả khi che khuất (chứ không thể bứng hẳn ra) các chữ
“phúng dụ” cho vừa tầm đón đợi nơi các độc giả chưa kịp làm quen, câu hỏi trên
vẫn đặt ra. Tôi thử nêu vài điểm:
- Lớn nhất là vấn đề sử dụng kiến thức “ngoài văn bản” (kinh
sách, điển tích, nhân vật, sự kiện, tiếng nước ngoài…). Riêng vụ này, tôi đồ rằng
có nhẽ cần “đầu tư” một chương thật là “khủng” nếu như liều mình làm hẳn một
chuyên luận!? Nói theo kiểu hành chính, phải có Hội đồng khen thưởng cấp Bộ hoặc
Hội đồng kỷ luật cũng cấp Bộ, tùy thành bại trong từng bài mà xử lý. Ở đó xin sẽ
bàn thêm về hai trọng điểm mà Hoàng Thụy Anh từng nhận định (“Phúng dụ từ những
đám mây”, với tôi, là thi ca của vẻ đẹp tư tưởng.”, và “Như vậy, tính liên
văn bản trong thơ Nguyễn Anh Tuấn diễn ra từ vi mô đến vĩ mô […]” [16].
- Thứ đến là vấn đề ngôn ngữ nói riêng và hiệu quả của diễn
ngôn, tầm đón đợi từ người đọc nói chung.
Theo hướng này, có thể ví “Phúng dụ từ những đám mây” như một
khoảng không gian của sân vận động Hàng Đẫy (chưa tới tầm sân Mỹ Đình), nơi các
môn “thể thao ngôn ngữ” tập dượt. Nghiêm chỉnh: bên cạnh thủ pháp phúng dụ
như biện pháp chuyển nghĩa trên bình diện rộng toàn tác phẩm chứ không chỉ từng
bài/ đoạn, thơ Nguyễn Anh Tuấn - hay dở chưa xét đến - có thể còn nghiêng về
khuynh hướng thơ ngôn ngữ (vốn là một trào lưu mạnh của Âu-Mỹ nửa sau
thế kỷ trước).
Trên toàn cảnh thi ca Việt Nam hiện đại và đương đại, tuy
không thành hình như một phong trào, song tùy thời kỳ cũng có một tập hợp sáng
tác với vài tác giả đại biểu ở đôi ba yếu tố phụ của dòng thơ ngôn ngữ: Đoàn
Phú Tứ và nhóm Xuân Thu nhã tập; Bùi Giáng, Đinh Hùng và Thanh Tâm Tuyền trong
“khối thi ca miền Nam trước 75”; Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Dương Tường và Lê Đạt
trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm… Cần kể thêm một số tác giả đương đại “đánh lẻ”
như Du Tử Lê (thơ thể nghiệm với dấu gạch chéo/ slash “/”, dấu gạch nối/ hyphen
“-”, cách đặt dấu chấm, phẩy, không viết hoa tất cả các chữ), Nguyễn Linh Khiếu
(trường ca “Phồn sinh”), Nguyễn Quang Thiều, Đinh Linh… “Thơ hũ nút” - đó là định
danh phê phán từ dư luận độc giả khi các tác giả đó mới xuất hiện (và còn đến tận
bây giờ với các “Thượng đế” đã khó tính lại nhớ dai).
Chữ nghĩa ở tập thơ đang bàn không bí hiểm, kỳ khu về mỹ học
ngôn từ; mà rậm rịt, chi chít đơn thuần ở hình thức tu từ. Nhiều nội hàm, ít nội
dung; chúng chưa tinh luyện. Nói vui là hơi rối rít. Rất ít những bài thơ
tinh khiết. Ở người thơ chẳng biết tâm hồn thống khổ hay phơi phới ra sao, mà
trên tay tôi trong mắt tôi là những trang thơ lôi cuốn như sách truyện? Theo những
bài đậm đặc vấn nạn cõi tạm nhất (“Phúng dụ cảnh giới của Buddha”), ái tình gái
trai đau xót nhất (“Umua đen ở bãi biển”), hay thân phận văn nhân trớ trêu nhất
(“Phúng dụ J. Fucik”) thì mảng thuyền thi ca của người vẫn lươn lướt. Như muốn
cập tới bến đậu nào đó cho con đò chữ nghĩa của riêng mình, mà không hoài ngoái
sóng gió xao động đằng sau - nơi lòng độc giả. Thơ mà đọc như truyện; hay đấy,
và cũng không hay đâu!
Trên một đỉnh “Thơ hũ nút”, Trần Dần và Lê Đạt là hai sư ông
giữ kho từ vựng tiếng ta hiểm và tinh, theo hai sườn dốc khác hẳn nhau (mà tác
giả của chúng ta có vẻ đang lần theo vết Lê tiên sinh). Nhị vị thi nhân Trần và
Lê như đã làm theo chỉ đạo vọng về từ nhóm Xuân Thu nhã tập khi “đào luyện
trong cái đặc biệt của ngôn ngữ Việt Nam…” [17]
Vậy, Nguyễn Anh Tuấn có chọn cho mình một lớp độc giả chung
nào đó, hoặc độc giả riêng cho từng bài không? Hay bất chấp; như các sư phụ,
các liền anh? Thơ Tuấn, Tuấn cứ “phúng” cứ “dụ”…
- Rồi là vấn đề cú pháp thơ, ở toàn tập sách, khi mạnh
khi yếu, chưa đều tay. Theo tôi thấy trong thơ nói chung, cú pháp quyết định
hình thức (như phong cách và nhất là nhịp điệu); còn ngữ pháp ảnh hưởng đến nội
dung (ý tưởng, nhất là cấu tứ). Ẩn mật hoặc tối nghĩa ở thơ Nguyễn Anh Tuấn dường
như đến từ một cú pháp riêng nào đó mà chúng ta cần tìm hiểu. À rõ ràng là, việc
dịch thơ của các tác giả có cú pháp thơ riêng biệt sẽ gặp khó khăn hơn với các
tác giả khác. Dịch Đặng Đình Hưng, Bùi Giáng, Lê Đạt chắc sẽ khổ hơn dịch Tô
Thùy Yên, Trần Dần; và còn khốn khổ hơn nữa nếu so với khi dịch các tác giả
“bình thường” như Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu…
- Chưa hết. Vì kiểu làm thơ hai phần theo lý tính, một phần cảm
tính, lại chao chao trong các ma trận ngôn ngữ và điển cố, thơ của tác giả này
không ham hoặc chưa/không đạt tới các câu thơ hay, các câu “nhãn tự - thần cú”
vốn luôn là chứng chỉ mà Nàng thơ và Trời đất cấp cho mọi nhà thơ thành
danh [18]. Thi nhân làm nên các câu hay; hay là, các câu thơ làm nên thi
nhân. Thì cũng vậy thôi…
- Đôi điều nữa lấn cấn. Có thể chỉ là chuyện nhỏ. Như việc chấm,
phẩy sai luật, dấu ngoặc khép không cần thiết… Thiển ý tôi, không nên xem như
thuật lạ hóa, tạo mới:
“Mà, không thêu con người/ Bỗng. hiện lên một viên
phấn trắng” (“Phúng dụ viên phấn trắng”); hay “Bỗng. buốt lừng “trăng
sáng” (“Phúng dụ Sentiment”); rồi “Kìa, ngòi bút của đấng thi nhân/ Bỗng.
thơm biếc ngôi từ nỗi hát” (“Phúng dụ Vũ khúc bạch dương”) [19]. Cá rằng
nhiều bạn đọc sẽ bảo đó chỉ là “lỗi của cậu đánh máy”!
Ôkê con gà đen, Nguyễn Anh Tuấn! Chắc là Đỗ Quyên tôi, ở những
lần đọc tiếp, sẽ làm thẳng dần những dấu hỏi nhấp nhô kể trên đang rải rắc khắp
trong ngoài tập thơ. Nhược bằng không, chúng sẽ là các nhược điểm, với cá nhân
tôi. Hy vọng không vậy. Amen! Nhân danh Cha, Con và các Thánh thần. Oh non, xin
lỗi sir poet… Nhân danh Thượng đế Bạn đọc và Nữ thần Phúng dụ Muse!
7- Thi pháp ngập ngừng/ lảm nhảm
Một lý thú về phong cách ở tập thơ. Nay mới bàn, chẳng muốn
nó che lấp thi pháp phúng dụ mà thơ Nguyễn Anh Tuấn hướng tới. Phần vì ở thơ
anh, nó - thi pháp ngập ngừng/ lảm nhảm - không nổi trội, nhưng tôi tin đấy sẽ
là một đòn bẩy trong tầm tay góp phần thúc đẩy nghệ thuật phúng dụ đạt đỉnh khi
đang còn lưng chừng dốc.
Thì cũng chỉ là một cách nói, tôi bày đặt ra: Thi pháp
ngập ngừng/ lảm nhảm và Thi pháp rành mạch/ tư biện. (Cảm phiền tác
giả và Quý độc giả, chữ “lảm nhảm” trông lem nhem thật đấy, nhưng đắc địa. Gốc
khoa học của lảm nhảm là gì, nếu không là vô thức, tiềm thức?)
Thử lập danh sách nhà thơ Việt Nam thời nay viết theo Thi
pháp ngập ngừng/ lảm nhảm: Nguyễn Vỹ, Lê Đạt, Nguyễn Hoàng Nam, Vương Ngọc
Minh/ Lưu Hy Lạc, Thường Quán, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Kh, Tuyết Nga, Du Tử Lê
(đã chú giải ở phần trên), Khế Iêm (trước giai đoạn thơ Tân hình thức [20]),
Chân Phương, Hoàng Xuân Sơn…
Đối ngược là Thi pháp rành mạch/ tư biện với nhiều,
rất nhiều đại biểu (thường là các thi sĩ mang giọng điệu xa hay gần từ âm hưởng
bi tráng ca). Ở đây chỉ nêu tượng trưng: Thâm Tâm và Trần Dần; Trần Mạnh Hảo và
Phùng Quán; Hữu Thỉnh và Phạm Đình Ân; Chế Lan Viên và Bùi Chí Vinh; Nguyễn Viện
và Hải Như; Cao Tần và Đặng Huy Giang; Trần Nhuận Minh và vân vân…
Dòng thi ca ngập ngừng, lảm nhảm được thấy rõ nhất qua cú
pháp thơ không trùng với cú pháp tiếng Việt bình thường; sau đó là ý tản mạn,
nghĩa mờ; hình ảnh phân tán “tranh nhau” làm hình tượng khiến một bài thơ có
2-3 tứ (thường gọi là nhiều bài thơ trong một bài thơ); tự sự dông dài, chuyện
nọ xọ cảnh kia… Cách viết này dễ bị nhấn chìm. Người đọc khó đón nhận thông điệp,
nếu thơ quả thực có cái gọi là thông điệp.
“Ngập ngừng lảm nhảm” là lối viết hiếm. Như một thứ tật, tật
hành văn. Mà tật này vẫy gọi tài. Có những tài thơ oái ăm vậy đấy. Không thể
quên cái kỳ khôi khó coi mà hấp dẫn trong thơ Nguyễn Vỹ, theo nhìn nhận của
tôi, có phần đắc lực của thứ thi pháp đang được bàn [21].
Khá nhiều bài được Nguyễn Anh Tuấn nghiêng theo lối viết này,
và thành đạt: “Phúng dụ Hà Nội”, “Phúng dụ những tiếng gà”, “Phúng dụ niết bàn”, “Phúng
dụ Styx”, “Phúng dụ người đêm”, “Phúng dụ phép màu”…
Trước đây tôi đã thử bàn đến thi pháp ngập ngừng/ lảm nhảm ở
một số bài viết, và tới nay chỉ mới phác thảo được thế này. Âu cũng nhờ gặp tập
thơ mới. Và biết thêm được hai ý kiến hay hỗ trợ:
Một là, luận điểm “Tính phi đối xứng làm nên nét độc đáo của
thơ” đến từ nhà nghiên cứu Hoàng Kim Ngọc [22]. Mệnh đề đó có thể triển
khai thành một chương hoặc cả một tiểu luận mà phong cách nói trên trở thành ví
dụ tốt. Vâng, phi đối xứng chính là tật, xa hơn nữa là “quái đản”.
Hai là, bàn về thơ Thường Quán, nhà thơ Vũ Thành Sơn viết:
“[...] tôi thích ở chỗ, những khoảng lặng. Những khoảng lặng hay có thể
nói là những khoảng trống ấy được tạo ra từ những ngắt đoạn, những chuyển
hướng đột ngột, những bỏ lửng, khiến cho người đọc có cảm tưởng bài thơ
như “tối nghĩa”, “khó hiểu” (tôi cố ý để trong ngoặc kép “nghĩa” và “hiểu” dành
nói về cách đọc, cách viết phổ biến trong khá đông người Việt Nam hiện thời).
Đó là những khoảng trống làm cho người ta kinh sợ (Blaise
Pascal).” [23]
8- Khoảng 60 bài thơ tôi đã đọc trong và ngoài tập thơ
Tự tin mà nói tôi “cảm” được gần như tất cả, dù không thích
chừng 1/3 số bài. Và thú thật, tôi không “hiểu” được tới 1/5 số bài trong
đó không ít bài có lẽ hay. Lỗi tại tôi mọi đàng! Cuốn thơ chúng ta đang ngự
trên nó là ví dụ rõ cho cá nhân tôi thử nghiệm nhanh, nhiều trạng thái thơ: cảm,
hiểu/ không hiểu, hay/ không hay, thích /không thích, v.v...
Nhưng không có trạng thái chán. Các nhà bình thơ Trung Hoa
thường bảo, văn chương chán nhất là bởi nhạt. Thơ nhạt còn tệ hơn thơ dở. Nguyễn
Anh Tuấn đã vượt thắng cửa ải đầu tiên. Với thơ được/bị viết theo phương cách
nhất quán, như một kiểu “chế tạo thơ”. Đồng điệu mà không đơn điệu. Tài!
Mời xem Phụ lục gồm bốn bài rút từ tập thơ mà người
viết mạn phép làm theo bảng điểm Hay, OK, Đạt, Chưa đạt với cách đọc của mình.
Dòng thơ này dường như không có các bài yếu/ dở? Và tôi chưa đọc được bài nào rất
hay/ xuất sắc thì phải? Sao vậy ta?
9- Bài viết được hình thành từ các cảm nghĩ ban đầu của bản
thân, kèm nhận định từ một số tác giả nghiên cứu, phê bình…
Tôi hạ bút trong khi đọc nhanh những gì trong và ngoài “Phúng
dụ từ những đám mây”.
Tới những lần đọc lại và chậm, liệu sẽ thấy nhiều điều hay
hơn của loại thơ còn đang lạ này? Tôi không thể biết. Trải nghiệm đọc thơ đâu
phải là con dao pha để thực hành với đủ loại thịt cá rau quả?
Mong tác giả cho tôi và mọi người được chờ các sáng tác mới,
chuyển đổi từ thủ pháp phúng dụ thành công như đang là sang thi pháp phúng dụ.
Không hề dễ, không thể nhanh. Không sao tính được bằng số lượng bài thơ, trang
sách hoặc số năm tháng sắp tới.
Làm một người đọc, chờ thơ cũng là hạnh phúc; và mang hơi hướng
khôi hài đen.
Để chúng ta cùng an tâm “trong khi chờ Godot”, nên chăng dùng
các lời sau, vẫn là đến từ tác giả Văn Giá (X. Ct 1):
“Cái chữ “phúng dụ” [...] có thể gây cản trở
ít nhiều đối với ai đó [...] Suy cho cùng, những bài thơ hay (vâng,
chỉ những bài thơ hay) nào chẳng hàm chứa một ý nghĩa khái quát nào đó. Cho
nên, thiết nghĩ, cũng chẳng chấp vào cái chữ phúng dụ làm gì.
Thơ Nguyễn Anh Tuấn thường hay có mặt lớp ngôn từ trực tiếp
hoặc liên quan đến văn hóa/văn chương Đông Tây kim cổ [...] Điều đó
ít nhiều cũng gây cản trở người đọc, nhất là bạn đọc khi không có đủ một tri thức
rộng làm nền. Tuy nhiên, điều này cũng chưa phải là cốt yếu.
Cái làm nên những bài thơ thành công nhất [...] nằm
ở chỗ có sự kết phối nhuần nhị, tự nhiên giữa những cảm xúc và suy tưởng, giữa
hình ảnh và ý tưởng, giữa ngôn từ và cấu trúc, giữa hiển ngôn và hàm ẩn. Nặng về
suy tưởng, dễ gò ép. Ngả về cảm xúc, dễ bị miên man. Không ít những bài thơ
trong tập thơ này chưa đầy chưa nhuyễn hai điểm cốt yếu đó.”
10- Bonus tới Quý bạn nào phản cảm từ “phúng dụ”
Chỉ cần thay “Phúng dụ” bằng “Thơ”.
Tin là bạn sẽ hiểu đúng đến 96% tập sách “Phúng dụ từ những
đám mây” gồm 96 bài thơ từ một người thích ký tên như sau trong các thư
email: Nguyễn Anh Tuấn, Nhân Vật Phúng Dụ Trữ Tình, Thơ Phúng Dụ.
Thì vẫn, thơ là phúng dụ - phúng dụ là thơ.
PHỤ LỤC
- Bài hay:
PHÚNG DỤ TỪ NHỮNG ĐÁM MÂY
Mặt đất một ngày rêu
Xanh những giấc mơ xanh huyền thoại
Rối vào nhau hạnh phúc gồm khổ đau
Mặt đất một ngày hoa
Em xinh đẹp như bài thơ tôi viết
nhưng không hiểu được
Và, trở về, tưởng tượng biếc màu đêm
Mặt đất một ngày trăng
Tôi sẽ giã từ với niềm nuối tiếc
Chưa lắng đọng được cho em một chút ấm nồng
Mặt đất một ngày tinh cầu số
Ngày đó, phép thiêng ngôn ngữ mở
Câu chuyện loài người được kể bởi những đám mây.
- Bài OK:
UMUA ĐEN Ở BÃI BIỂN
Bãi tắm đông đúc vắng
Biển động êm ái sóng
Em mảnh khảnh đẫy đà
Sải dài từng bước ngắn
Những thô thô duyên dáng
Những trắng trắng đen đen
Những giá băng nóng bỏng
Những lạ lùng thật quen
Bao năm gần thăm thẳm
Cùng chung sống đơn phương
Kẻ rạch ròi lẫn lộn
Người mạch lạc lung tung
Đành bên nhau cách biệt
Em xa hút trong tay
Đất trời yên vun vút
Gió ngừng. Tóc lộng bay.
- Bài đạt:
PHÚNG DỤ HÀ NỘI
Hà Nội
Phồn hoa lắm
Người đi
Bóng dẫm bóng
Mỗi nét văn trống đồng luôn kể rõ thiên cơ.
- Bài chưa đạt:
PHÚNG DỤ SENTIMENT
Biếc ngắm người đàn ông, buổi sáng
Nhặt sâu trên lóng lánh nụ hôn
Đêm hôm qua, sự kì diệu
Cô chuột lãng mạn làm với bông cúc trắng
Phập phồng mây ở não người
Bỗng. buốt lừng “trăng sáng”
Chữ viết mọc linh hồn làm thơm biếc bàn tay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ CHÚ THÍCH:
[1] Ngoài tập thơ “Phúng dụ từ những đám mây” - Nguyễn Anh Tuấn,
Nxb Hội Nhà văn, 2020 - có thể xem thêm những bài thơ theo kiểu “phúng dụ” và
“không phúng dụ” của cùng tác giả ở một số trang mạng:
+ Phúng dụ
- FB Thơ hiện thời Plus (Văn Giá giới thiệu và tuyển chọn)
https://www.facebook.com/86
- vanviet.info 8/2/2019
http://vanviet.info//
- trangngaunhien.wordpress.com
https://trangngaunhien.wordpress.com/
- vanchuongphuongnam.vn 2/4/2020:
https://vanchuongphuongnam.vn/
+ Không phúng dụ
- Blog Ánh sáng lời
http://anhsangloi.blogspot.com/2018/
- Trang thơ Thi Viện https://www.thivien.net/
[2] Trên file bản thảo (không rõ trùng với bản in sách hay
không), tôi thấy tập thơ gồm tổng cộng 96 bài, với bài số 1 “Phúng dụ vầng mây”;
từng bài nối tiếp nhau cho đến bài thứ 96 “Phúng dụ người mẫu” không phân chia
theo phần/mục khác nhau (như đa số sách thơ hiện nay). Ba trường hợp ngoại lệ:
duy nhất không có từ “Phúng dụ” ở nhan đề là bài “Umua đen ở bãi biển”, và
2 bài có từ “Phúng dụ” ở nhan đề nhưng không ở từ đầu tiên, “Ly café phúng dụ”
và “Chim phúng dụ”.
[3] Ngô Đức Hành; “Nguyễn
Anh Tuấn và tập thơ Phúng dụ từ những đám mây“, vanchuongphuongnam.vn
25/3/2020.
[4] “Nguyễn
Anh Tuấn - Phúng dụ các tầng trời“, vanchuongphuongnam.vn 2/4/2020.
[5] Hoàng Thụy Anh; “Nguyễn
Tuấn Anh làm biếc non tiếng hát“, vanchuongphuongnam.vn 22/4/2020.
Tham khảo thêm: Ngô Đức Hành (X. Ct 3)
“Khái niệm phúng dụ (chữ Hy Lạp là allègoria) đã xuất hiện từ
thời cổ đại. Nguyên tắc phúng dụ được dùng phổ biến trong mỹ học và nghệ thuật
trung đại châu Âu. [...] Phúng dụ (hay nói bóng hoặc ám chỉ), là một biện
pháp chuyển nghĩa trong nghệ thuật ngôn từ; một kiểu hình tượng,
một nguyên tắc tư duy và tổ chức trong nghệ thuật nói chung.
Theo nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân, ngay trong ca dao,
hò vè xưa, cha ông ta đã dùng cách nói ám chỉ, đó là mức sơ khai của
phúng dụ. Ví dụ: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi
cao” diễn tả một triết lý về sự đoàn kết. Có thể coi phúng dụ là dạng thức ẩn
dụ nhưng với quy mô lớn hơn, không chỉ ở cấp độ câu, đoạn mà còn bao
quát toàn bộ tác phẩm. Phúng dụ dựa trên cơ sở lối nói ngụ ý, bóng gió, biểu đạt
một ý tưởng trừu tượng, khái quát bằng hình ảnh trực quan.” (ĐQ nhấn mạnh)
[6] Vũ Gia Hà; “Nhà
phê bình văn học La Khắc Hòa không có đối thủ trong việc gây cười“,
vanhien.vn 3/7/2020.
[7] X. Chú thích 5.
[8] Đa số các bài trong tập thơ đều ngắn với trung bình 120 từ,
được trình bày vừa một trang sách nhỏ; bài dài nhất (và nằm trong số các bài “dễ
hiểu” nhất) là “Phúng dụ đêm mùa hạ”, chừng 390 từ, ở các tr.53-56.
[9] Vẫn biết gán ghép này sẽ là chênh vênh trên mặt bằng quan
niệm về thể thơ trường ca hiện đại, tôi vẫn mạnh dạn mà ghép gán, với ý thức
thường trực nơi một người quan tâm - gần như từ A đến Z - các vấn đề thơ dài và
trường ca Việt Nam từ thời Thơ mới tới nay. (X. các chuyên luận “Trường
ca Việt Nam: Tác giả và tác phẩm“, vanviet.info 28-30/4/2015; và “Đến
sự hiện đại hóa thơ Việt từ “trường phái trường ca Việt“
vanchuongviet.org 11/5/2016).
Nếu cách nhìn trên phần nào đúng thì kẻ viết bài này (từng có
vài trường ca được làm theo phương thức đó) cũng là “đồng minh” của tác giả. Dù
hai chúng tôi khác nhau ở đích sáng tác: ĐQ chủ tâm viết trường ca bằng cách
làm một chuỗi thơ rời rạc rồi cắt ghép chúng lại gần nhau theo cùng chủ điểm.
Còn Nguyễn Anh Tuấn ắt là khi viết đã vô thức và khi biên tập, sắp xếp tập thơ
đã không chủ ý ghép nối các bài thơ độc lập để hình thành chương hồi.
Trữ tình ngoại đề: Hơn chục năm trước, có bạn thơ (sau này trở
thành một nhà nghiên cứu văn học tạo tiếng vang) đã ngạc nhiên khi thấy trong
danh sách thơ dài và trường ca Việt Nam ở biên khảo nói trên lại có tập thơ “Vỉa
từ” của nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh. Chúng tôi tranh biện: “Tập thơ đó có thể
độc đáo nhưng không thể ở thể loại trường ca!” – “Thì vẫn. Chính cái độc đáo đã
chuyển hóa thể loại cho nó, bởi mọi thể loại văn học không bao giờ ổn định; còn
riêng với trường ca thì như nghiên cứu gia văn học Nga Y. N. Tynhianov khẳng định:
‘Hãy thử định nghĩa khái niệm ‘trường ca’, tức một khái niệm về thể loại. Tất cả
mọi cố gắng đưa ra một định nghĩa thống nhất đều không đạt được!”
[10] X. Ct 5.
[11] X. Ct 9.
[12] X. Ct 5.
[13] Một tư liệu hữu ích, liên hệ xa với chuyện uymua đen
đang bàn: Là người viết sách “Thi pháp thơ Tố Hữu” (1987), Giáo sư Trần Đình Sử
vừa cho đăng “chuyện bây giờ mới kể” về cách phân biệt mà ông từng làm thỏa
đáng ở “thái độ” tuy không kết quả ở “nội dung”, khi trao đổi trực tiếp với nhà
thơ cách mạng Tố Hữu trong vấn đề loại hình thi ca và điệu thức thể hiện:
“Thơ trữ tình chính trị là một thuật ngữ có tính thế giới
để chỉ một loại thơ, thơ chính trị, tức là thơ tuyên truyền chính trị.
Đối lập với nó là thơ trữ tình bình thường. Mấy chữ trữ tình cách mạng chỉ
nói về nội dung, không nói về lọaị hình. Đối lập với cách mạng
chỉ có thể là không cách mạng hoặc phản cách mạng, mà đều mang nghĩa xấu.
[...] Giọng thơ quyền uy cũng khác với quyết liệt. Quyết liệt
là tính chất của lời nói, còn quyền uy là thái đội đối với
người nghe, thái độ đối với chân lí [...] (Trần Đình Sử; “May
mà tôi không xin gặp nhà thơ Tố Hữu“, vanviet.info 11/6/2020 – ĐQ nhấn mạnh)
[14] Nói thêm: Không hẳn hễ thơ “phản biện” thì humour
noir. Tập trường ca “Văn đàn bi tráng” của thi sĩ Nguyễn Vũ Tiềm là một ví
dụ lớn. Rất nghiêm trang và thê thiết, rất trực diện và cụ thể, rất hệ thống và
dông dài (trường ca mà lị!) như người trong cuộc, tác giả đã lập một bàn tròn bằng
thơ tổng kiểm thảo đủ các sự kiện, nhân vật chủ yếu là của văn chương hiện đại
miền Bắc Việt Nam từng bị “bi” suốt thời gian góp phần làm “tráng” thi ca
và xã hội, đất nước. Và cũng không hẳn có “bi” có “tráng” thì không “hài”. Một
câu ai cũng biết của K. Marx: “Giai đoạn cuối cùng của một hình thái lịch sử,
chính là tấn hài kịch của nó.”
[15] Văn Giá (tuyển chọn và giới thiệu); “Chùm
thơ phúng dụ của Nguyễn Anh Tuấn“, FB Thơ hiện thời Plus (X. Ct 1).
[16] X. Ct 5.
[17] “Ngăn cái họa mất gốc. Văn chương, tư tưởng lấy quốc văn
làm khí cụ độc nhất, đào luyện trong cái đặc biệt của ngôn ngữ Việt Nam…” –
Trích bài “Quan niệm”. (“Xuân
Thu nhã tập“; vi.wikipedia.org)
[18] Thành thực mà nói, các câu”Chữ trỗi lên loạt gà gáy/
Vang lên không trung những tia mặt trời”, và “Sau đêm biếc kỉ niệm/
Những chồi non bỗng thức giấc thành người” như đã được chọn trích ở đoạn
giới thiệu trong FB Thơ hiện thời Plus (X. Ct 1), tôi cũng”đọc rất thích”mà
chưa khoái tỷ. Chúng chưa là các câu-thơ-hay.
[19] Các chỗ nhấn mạnh là bởi ĐQ.
[20] Thơ Tân hình thức Việt cũng có giọng “lảm nhảm” nhờ kỹ
thuật lặp lại, bên cạnh 4 yếu tố khác với mấu chốt là kỹ thuật vắt dòng để cùng
tạo nên thi pháp cho thể thơ mới này của nền thi ca Việt Nam từ trước đến nay.
Khế Iêm từng dùng cách nói ấn tượng rằng, dòng thơ này có “vũ điệu không vần”
(cũng là tên cuốn sách mới, quan trọng nhất của ông về lý luận và thực hành thơ
Tân hình thức Việt).
So sánh với các điều ở đây, ta có thể thấy cú pháp “vũ điệu” ở
thơ Tân hình thức (vốn là thể thơ không vần) như một kiểu đối ngược với cú pháp
“ngập ngừng” của thơ vần điệu và thơ tự do bình thường. Và nó là đối ngược
về nhịp chảy ngôn từ; khác với đối ngược của cú pháp “rành mạch/ tư biện” (ở
thơ vần điệu và thơ tự do bình thường) lại là đối ngược về phong cách diễn đạt.
[21] Về một trường hợp quý hiếm như thế ở kỷ nguyên Thơ mới,
vài trích dẫn dưới đây cho thấy sự lúng túng bất cập của giới phê bình đương thời
và cả sau này:
“Ở Sài Gòn, trong quyển Hồn Thơ nước Việt thế kỷ XX [1967]
tác giả Lam Giang đã nhận định như sau: “Phê bình Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh
phát biểu một ý kiến võ đoán: “Nguyễn Vỹ chí lớn mà tài nhỏ nên
hay lập dị, chứ thật sự ít có thành tích văn chương”.
Riêng về thơ, ông nhận được nhiều lời khen
chê: [...] Nguyễn Vỹ có [...] một lối thơ mới trên thi đàn [Như:]
“Đến ngày nay cảnh non sông đã phủ mấy lớp sương mù
Mà còn rên dưới rễ cỏ những vết hận lòng lai láng…” [...]
Vì lẽ đó, Thế Lữ cho rằng ông có ý định toan lòe và bịp
mọi người [...], còn Vũ Ngọc Phan thì viết: [...] tầm thường, chỉ cầu kỳ
có bề mặt.
Giới thiệu Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh và Hoài Chân cũng đã viết
như sau: “Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng trống, xập xoèng
inh cả tai. Chúng ta đổ nhau xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài
cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta thấy con người ấy không
có gì…” Chê bai, nhưng ngay sau đó hai ông cũng phải nhìn nhận: “Một
bài như bài “Sương rơi” được rất nhiều người thích. Người ta thấy
Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để diễn tả một cái gì
đương rơi. Cái gì đó có thể là những giọt lệ… Nhưng “Sương rơi” còn
có vẻ một bài văn. “Gửi Trương Tửu” mới thực là kiệt tác của
Nguyễn Vỹ. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẫn cho
cả một hạng người.”
(“Nguyễn Vỹ“;
vi.wikipedia.org - ĐQ nhấn mạnh các chỗ liên quan đến Thi pháp ngập ngừng/ lảm
nhảm. Riêng 2 câu thơ trên của Nguyễn Vỹ, tôi còn thấy dù ở nhịp thơ và thi ảnh
cũ, nhưng cách diễn đạt rậm rịt lại… giống trong tập thơ “Phúng dụ từ những đám
mây”.)
[22] Hoàng Kim Ngọc (Chủ biên) và Hoàng Trọng Phiến; “Ngôn ngữ
văn chương”, Nxb Đại học Quốc gia, 2011; tr.113.
[23] Vũ Thành Sơn; “Hải đảo, trở lại“,
FB Thành Sơn Vũ 28/6/2020 - ĐQ nhấn mạnh.
19/6 - 8/7/2020
Đỗ Quyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét