Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2024

Để tưởng nhớ mùi hương 1

Để tưởng nhớ mùi hương 1

Chương một
Mỗi mùa, nàng lại cài
một bông hoàng lan lên mái tóc.
Để tưởng nhớ mùi hương
(Thạch Lam)
Chiếc xe hàng cũ kỹ chậm đà lại ở một đầu lối vào khấp khểnh, lác đác cỏ mọc. Lối đi dẫn tới một khoảng đất trống. Khoảng đất ngập ngựa rác rưởi, cao hơn những thửa ruộng láng nước chung quanh. Phía bên kia, sát cạnh một cây xăng sơn màu vàng khè, một cỗ ba chiếc xe, cũng cũ kỹ, già yếu như chiếc xe vừa tới bến, nằm im lìm.
Một đứa nhỏ, trần truồng, chân tay khẳng khiu, đen thui, ngồi chồm chỗm trên một mui xe, ngó thao láo chiếc xe từ từ lượn vòng rồi đậu lại trước cây xăng. Ngày đã về chiều. Nắng trải nhẹ. Vòm trời cao, có một vẻ gì hoang vu ở những dải mây màu trắng đục. Thoáng nghe thấy, từ thật xa, vọng lại trong không gian yên tĩnh của buổi chiều tàn nắng, tiếng còi hú dài, buồn bã, của một con tàu nào, trên một dòng sông.
Ninh cúi lom khom trong khoang xe thấp trần, đi theo sau lưng một người đàn bà ôm trên tay một bọc đồ nặng trĩu. Chờ cho người đàn bà bước xuống, rồi Ninh vịn tay vào thành cửa xe lấy đà, đu mình nhảy mạnh xuống mặt đất bến. Chiếc va-li của chàng được chuyển xuống theo. Ninh đỡ lấy, đặt nó bên chân. Đoạn, chàng đứng thẳng người, ưởn ngực, thở ra một hơi dài khoan khoái.
Từ chuyến xe di chuyển nặng nề trong ngột ngạt choáng váng trên những đoạn đường rực nắng, tới bước chân đầu tiên đặt xuống mặt đất trống trải, thân thể Ninh giãn ra, nhẹ đi, trong một cảm giác dễ chịu. Cuộc hành trình mệt và dài. Sự mỏi mệt chập chờn thiêm thiếp. Những hình ảnh nối đuôi nhau lùi ngược hai bên lề đường trở thành một đè nặng lên thần trí rã rời. Qua những dốc cầu. Men những bờ đê. Con đường dài thẳm phơi mình cho nắng đốt. Không khí hầm hập, nóng bỏng. Nhịp xe lắc lư, vật vã. Mùi khói từ gầm xe bốc lên, khét lẹt. Mi mắt tê cứng, nặng trịu. Mồ hôi ướt đầm những khoảng trũng trong người. Cổ áo láp nháp, đính đầy bụi cát.
Bây giờ thì cuộc hành trình đã chấm đứt, chiếc xe đã đậu lại trên mặt đất trống, và gió mát từng đợt hây hây lùa vào da thịt khiến Ninh tỉnh táo lại phần nào. Chỉ có nơi cổ và hai bả vai chàng là còn ê ẩm.
Ninh châm một điếu thuốc, ngó quanh, ngước hỏi người lơ đứng ngất ngưởng trên nóc xe cao ngất:
– Không có xe kéo rước khách vào tỉnh sao?
Người lơ chỉ tay:
– Kia.
Ở đầu lối một con đường khác, cũng khấp khểnh và lác đác cỏ mọc, mà lúc này, theo hướng tay trỏ của người lơ, Ninh mới nhìn thấy, một chiếc xích-lô từ từ tiến vào. Ninh ngắm nhìn chiếc xích-lô bằng một nhìn ngắm tò mò và bỡ ngỡ. Kiểu xe này, dáng điệu khác biệt hẳn với kiểu xe cùng loại ở cái thành phố lớn, chàng vừa rời bỏ sáng nay. Nó kềnh càng. Không gọn mắt chút nào. Và cao lênh khêah, cũng lênh khênh như dáng điệu anh lơ gầy nhom còn đứng trên nóc xe chưa chịu xuống.
Ninh rút túi áo, lấy ra một cuốn sổ tay nhỏ, xem lại một địa chỉ. Chàng thân mật hỏi ông lão già vừa ngừng xích-lô trước mặt:
– Đường Đinh Tiên Hoàng?
– Thầy lên đi.
– Biết đường Đình Tiên Hoàng không đã?
Ông lão cau mày, trả lời như gắt:
– Sao không biết. Nhà ai?
– Tiệm Quảng Hưng. Biết không?
Ninh nghe thấy tiếng cười giòn giã vui thú của người lơ đứng chống tay vào sườn trên nóc cao, và tiếng y ném xuống:
– Đường Đinh Tiên Hoàng và tiệm Quảng Hưng thì thằng nhỏ ở truồng kia nó cũng biết. Thày cứ lên đi, già Tám sẽ đưa thầy đến nơi mà.
Ninh lắc đầu, lẩm bẩm: “Lạ thật. Lạ thật “.
Nhưng chàng không dám gặng hỏi thêm nữa, mà xách va-li lẳng lặng bước lên xe. Chiếc xích-lô hơi chúi mũi về đằng trước, lấy lại quân bình, từ từ ra khỏi bến. Ninh nhìn đồng hồ tay. Đúng năm giờ chiều. Trước mắt Ninh, dần dần mở ra những cảnh tượng thứ nhất của tỉnh nhỏ yên tĩnh. Những lòng đường rộng thoáng như từng dòng sông khoan thai chảy qua những ngôi nhà im lìm. Ông lão già bắt chuyện:
– Chừng thầy mới tới đây lần đầu?
– Phải. Lần đầu.
– Thầy muốn đi một vòng quanh tỉnh không?
Ninh đã toan nghe theo. Nhưng nghĩ lại, lại thôi.
Chàng có cả một khoảng thời gian lê thê dài rộng trước mặt để sống với bến tàu, dòng sông, những buổi chiều nhạt nắng, những con đường cỏ mọc, và vòm trời lặng lờ bất động của nơi chốn mới tới.
– Lần khác. Tôi còn ở đây lâu.
Ông lão già chợt hỏi một câu thật tò mò:
– Thầy về làm chi đây?
Ninh đùa:
– Tôi người vùng này mà. Về lấy vợ.
– Bậy. Thầy làm như tôi không biết. Thầy ở tỉnh khác tới.
– Sao ông biết?
– Sao chẳng biết. Ở đây ai cũng biết ai, mọi người đều biết nhau. Thầy là một người lạ mặt.
Thầy là một người lạ mặt! Ninh sửng sốt nghĩ thầm, và có cảm tưởng, qua câu nói của ông lão già, bắt đầu khám phá thấy thế nào là cái vòm trời, cái không khí, cái thế giới riêng tây tạo nên linh hồn và những đặc thù của một thàah phố nhỏ. Một không khí lắng đọng như hình ảnh một mặt hồ mùa thu. Ném xuống đó một hòn đá nhỏ, mặt nước đã xao động sóng sánh. Một thế giới khép kín, rất bên trong, không ngạc nhiên, không bất ngờ, mà bất cứ một mới lạ nào cũng là một có mặt đầy chấn động. Những con đường cỏ đại. Đường như là cũ lắm. Cỏ như là lâu đời, như thế, qua những sáng nắng, những chiều mưa, cho dẫu là mùa xuân hoa nở, cho dẫu là mùa thu lá vàng, cho dẫu là mùa hè phượng đỏ, đời nối đời, không bao giờ thay đổi. Một linh hồn u sầu, lặng chìm, thiêm thiếp. Không có những tiếng động lớn, chỉ có những tiếng thì thầm. Như những bước chân rón rén bước qua, bước chân nhẹ như một niềm ngờ vực.
– Phải, tôi là một người lạ mặt.
Ninh trầm giọng, nói tiếp, cho riêng mình:
– Lạ mặt trước hết với chính tôi.
Chặt đứt một quá khứ. Chôn vùi từng kỷ niệm. Đánh loãng trí nhớ, vít kín con đường trở lại với sau lưng, nơi vẫn những xâu chuỗi ám ảnh chập chờn theo đuổi. Giết chết cái tôi cũ. Khởi đầu cái tôi mới. Làm một kẻ lạ mặt với chính mình, trong đổi thay một con đường khác với con đường của những dấu chân, những cỏ hoa và những bờ bến thưở xưa. Sống là một làm lại. Tôi thí nghiệm đời tôi thêm một lần này. Trên ý nghĩ đó về một thí nghiệm sống bắt đầu bằng những triệu chứng dò thăm thứ nhất, Ninh nhận chìm một nỗi buồn vừa thấp thoáng, lớn tiếng vui vẻ bảo người phu xe già:
– Bây giờ, ông đạp mau cho tôi về đường Đinh Tiên Hoàng.
Trang ngồi, xõa tóc, bên thành đá nhẵn bóng của cái bể non bộ chính giữa vùng lát gạch bát tràng của khoảng sân sau nhỏ hẹp. Từ chỗ nàng nhìn lên, bầu trời xa lạ trên cao chỉ hiện hình trong ruột phiến thật nhỏ, màu xanh lơ. Những đám mây trắng bay qua phiến trời nhỏ vừa bằng một khoảng sân sau, phía dưới này, những lúc nàng bất chợt nhìn lên, như lúc này, chỉ là một thoáng hiện mơ hồ trong khoảng khắc. Khoảng sân sâu hút, dưới chân ba phía tường dựng, cao vút. Ánh sáng không lọt tới, sáng cũng như chiều, bóng mát đằm đằm. Bóng mát này dã bao nhiêu năm, là sự lưu đày êm ái đời Trang. Nàng ở trong đó, như một bóng hình, gần như lãng quên hẳn cái thế giới bên ngoài xa lạ.
Trang mặc một cái áo cánh ngắn. Vải phin trắng nõn, ôm lấy một thân hình tròn lẳn. Cổ áo hình trái tim. Trái tim này vây quanh một cái cổ rất thanh và trắng ngần. Người đàn bà chừng ba mươi tuổi. Có thể hơn một chút, ở cái nhìn tuy còn trong suốt, đen láy, nhưng thăm thẳm phảng phất buồn như màu đen nhìn thấy giữa lòng một đài hoa. Buổi chiều đi qua trên đầu nàng, trên mái tóc Trang, trên cuộc đời nàng, nàng ngồi đó một mình, trầm tư trong mơ màng, và nàng vừa gội đầu xong. Những sợi tóc lướt thướt toát ra mùi bồ kết thơm cay, được những ngón tay cong vút lùa vào, hất nhẹ, cho thả dài thành một dòng suối mun từ đỉnh đầu xuống gần sát mặt đất.
Trang ngồi như thế, hơi cúi xuống, soi dung nhan nàng trên mặt nước giới hạn và trong vắt của cái bể non bộ. Đường mũi, vành môi, gò má, trũng mắt mờ mờ hiện. Đẹp. Trang biết nàng đẹp. Khuôn mặt phản chiếu lên từ đáy nước, đã mất đi ánh hào quang rực rỡ của những xuân đời. Trang đã bỏ lại, nhưng Trang biết nàng còn đẹp, một nhan sắc vô ích, một mình, lặng lẽ, nó biết nó đẹp, nhưng không biết đẹp cho ai và dùng để làm gì. Ngày tháng đi qua cuộc đời Trang không tiếng vang. Ngày tháng đi qua cuộc sống Trang hờ hững. Nàng nghĩ như thế, đôi khi, để chảy nước mắt. Những giọt lệ len lén thầm thầm, quay trở vào. Nàng nghĩ, như thế, thường để thở dài, rất nhẹ, tâm hồn tê đi, như một dần dần khép mắt.
Trang bất chợt dúng một ngón tay vào lòng nước, khoắng mạnh. Mặt nước tan tác. Phiến trời mất biến. Khuôn mặt Trang vỡ tan.
Tiếng chuông điện từ ngoài cửa truyền vào, vang lên trong cái thế giới thu mình hoàn toàn im lặng. Tiếng chuông vang vang không dứt làm Trang giật mình, đứng vụt lên.
Nằm thiêm thiếp trên một bộ ghế ngựa bóng loáng ở căn nhà thờ bên trong, bà Quảng Hưng cũng nghe thấy tiếng chuông. Trang nghe thấy vọng ra, tiếng hỏi hụt hơi và khàn khàn của người mẹ chồng:
– Ai đó, mợ Quýnh?
Trang quấn vội lại mớ tóc thành một vòng trễ nải trên đầu, lớn tiếng trả lời. Biết mẹ chồng nặng tai, Trang phải nói thật lớn bà mới nghe rõ:
-Thưa mẹ, con chưa biết ai.
– Chúng nó đâu cả thế?
– Đi phố hết rồi ạ! Để con ra xem.
Cho chân vào đôi dép Nhật Bản, Trang xem lại những chiếc khuy nơi cổ áo, đoạn đi rảo theo bờ tường, ở đó, tiếng chuông vẫn reo hoài chưa dứt, ra phía cửa ngoài,
Ngoài thềm, Ninh buông ngón tay khỏi nút diện, sửa soạn lại cho chàng một dáng đứng ngay ngắn, chỉnh đốn. Tiếng chuông vang vang, chạy theo chiều dài của căn nhà đoán thấy được sự im lặng đầy và lớn. Ninh nghe thấy tiếng lạt sạt của một đôi dép trên nền đá hoa. Một phút. Rồi là tiếng một gióng gỗ cài cửa được nhấc đi, đầu gióng hạ xuống, dội lên một âm thanh khô gọn. Tiếng mở cửa. Một cánh cửa hé ra, thận trọng như một niềm ngờ vực.
Ninh ngó vào. Trên một nền bóng tối mờ mờ không cho đoán thấy những hình ảnh bên trong, khoảng cách nhỏ chỉ vừa đủ cho Hinh nhìn thấy một nửa khuôn mặt, ở nửa khuôn mặt đó là một sóng mũi dọc dừa, rất thanh thoát. Và một vực mắt tròn. Vực mắt chiếu thẳng vào Ninh.
Ninh gật đầu chào, lễ phép:
– Thưa, đây có phải nhà cụ Quảng Hưng.
Vực mắt vẫn mở 1ớn, vây mọc bởi bóng tối, khẽ chớp:
– Phải.
Cánh cửa mở rộng thêm một chút. Tất cả sáng và rõ hơn. Ninh ngó xuống bàn tay tròn dầy, nhưng không thô kệch chút nào, trắng nuốt, thoáng những vết hồng của máu. Bàn tay đẹp ấy là tận cùng của một đường cong mềm mại chạy xuống từ một bờ vai thanh thoát. Ninh chớp mắt. Một nét đẹp nào cũng làm chàng rung động. Người đàn bà thu vội bàn tay về. Nàng đứng thẳng. Nghiêm trang và đợi chờ. Sự thật là Trang đang bối rối. Sự nghiêm trang trên nét mặt chỉ là một cố gắng trấn tĩnh. Làm ra bộ thản nhiên là lúc người ta không thản nhiên. Bao giờ Trang cũng bối rối như vậy trước một người lạ mặt. Người đàn ông trẻ tuổi đứng đó, trước mặt nàng, trên một nền nắng phố đang tàn dần, Trang chưa nhìn thấy lần nào. Chiếc va-li đặt dưới chân trên thềm cửa nói y từ xa tới.
Ninh nhìn thấy sự thận trọng của người đàn bà đứng im sau cánh cửa chỉ mở ra nửa chừng, như một trấn giữ. Chàng thấy cần phải nói rõ ngay:
– Tôi đã gởi xuống trước một bức điện tín. Chiều hôm qua. Chắc cụ nhà đã nhận được?
Ninh mỉm cười nói tiếp:
– Tôi là Ninh.
Trang kêu lên một tiếng nhỏ. Cánh cửa mở rộng hẳn. Ánh sáng từ sau lưng Ninh bây giờ làm rực rỡ toàn vẹn một khuôn mặt không còn nghiêm trang nữa. Trang luống cuống đứng tránh sang một bên.
– Chết thật. Mời anh vào. Dạ, vâng, chúng tôi đã nhận được điện tín. Nhưng điện tín lại nói là…
Ninh xách va-li bước vào, nói theo vào câu Trang bỏ đở:
– Là đầu tuần sau tôi mới tới, phải thế không ạ! Nhưng rồi tôi đã đi ngay. Tôi đang rỗi rãi, không có việc gì, muốn tới trước mấy ngày. Có phiền gì không ạ?
– Đâu có. Căn buồng trên lầu, ở phía sau, dành cho anh đã sửa soạn sẵn. Buồng vẫn bỏ không. Chỉ hơi bụi bậm một chút, nhưng sáng nay mẹ tôi đã cho người nhà lên quét dọn tươm tất. Mời anh ngồi.
Trong khi Trang chạy đến cửa sổ, mở rộng hai cánh, Ninh đặt va-li vào một góc nhà, ngồi xuống ghế. Bóng tối bị đuổi dạt. Căn phòng sáng bừng như một ngạc nhiên mừng rỡ.
Trang nói:
– Anh ngồi chơi. Tôi vào trong nhà cho mẹ tôi hay anh đã xuống.
Nhìn theo người đàn bà rảo bước đi vào nhà trong, Ninh ngồi thẳng lại, rút thuốc lá châm lửa hút. Căn buồng khách rất rộng. Tường màu vàng. Sàn đá hoa bóng loáng. Bài trí kiểu cổ. Một bộ ghế chạm trổ, gỗ gụ đã ngả màu, kê ngay ngắn ở chính giữa. Trên tường, hoành phi và câu đối cách nhau bằng những khoảng cách đều đặn. Ninh miết nhẹ ngón tay lên mặt bàn. Không một hạt bụi. Căn buồng hơi lạnh lẽo trong sự sạch sẽ và ngăn nắp trống trải buồn bã. Tấm hình một ông lão già, nét mặt thờ ơ, đặt trên cái tủ che lồng kính cho Ninh đoán thấy dễ đàng đó là ông Quảng Hưng, tạ thế đã lâu, theo như cha mẹ chàng đã nói chuyện.
Trang trở ra phòng khách với một khay nước bốc khói thơm ngát bưng ở trên tay. Ở nàng, vừa có một thay đổi nhỏ, về làm đẹp, mà Ninh nhận thấy liền tức khắc. Trang đã chải tóc. Mái tóc đen mượt bây giờ được cuốn lại thành một vòng tròn gọn ghẽ, cao hơn trước. Khi Trang cúi xuống rót rước từ ấm lớn vào chén; khói trà toả nhẹ qua một đường gáy trắng ngần. Nàng mím môi, như muốn lấy lại vẻ nghiêm trang lúc ban đầu:
– Mời anh xơi nước.
Nước trà nóng hổi. Ninh nâng chén, uống từng ngụm nhỏ. Chàng thấy chàng đang sống với một không khí thật khác lạ. Đặt chén trà xuống, Ninh đưa mắt nhìn vào phía nhà trong:
– Chị cho tôi vào chào cụ.
Trang ngăn lại:
– Mẹ tôi hơi khó ở trong người, anh thứ lỗi cho. Mẹ tôi nói mời anh rửa mặt. Lên lầu nằm nghỉ. Chiều dùng cơm. Mẹ tôi ăn chay, sáng mai sẽ gặp anh sau.
Ninh hỏi, nghĩ đến mẹ chàng:
– Cụ nhà theo đạo Phật?
– Dạ. Mẹ tôi thường nói trẻ vui nhà, già vui chùa. Mẹ tôi ở chùa nhiều hơn ở nhà.
Trang nói tiếp, nửa như vui thú, nửa như xin lỗi:
– Chỉ có tôi là chẳng biết đến cửa chùa là thế nào.
– Vì chúng ta chưa đến được cái tuổi già nhàn nhã của các cụ. Sau này có lẽ rồi chúng ta cũng như thế. Cũng trẻ vui nhà, già vui chùa. Cụ nhà với mẹ tôi bạn thân với nhau là đúng lắm. Mẹ tôi cũng chùa nhiều hơn nhà.
Trang và Ninh cùng cười vì câu nói ngụ ý giễu cợt tuổi già ẩy. Không khí cởi mở và thân mật hơn, khiến Trang cũng trở nên bạo dạn hơn. Kín đáo quan sát Ninh, nàng không khám phá ghi nhận được gì trong quan sát khởi đầu, ngoài cái cảm giác mơ hồ, là Ninh đến, như một luồng gió mới, luồng gió thổi đạt đi sự lặng lẽ âm thầm trước đó. Ninh vào nhà, mang vào theo một thứ ánh sáng, một sự sống nào đó. Làm xao động một cái gì, và cái đó như một đổi thay.
– Anh đi đường có mệt lắm không?
Ninh cười thành tiếng, nhớ lại những đoạn đường nắng dãi chói chang, những dốc cầu khấp khểnh, chiếc xe hàng cũ và yếu, lăn từng vòng nhọc mỏi trong tiếng máy hổn hển đứt quãng:
– Xe cộ gì mà khổ quá. Nhưng tới bến thì mệt mỏi cũng hết.
Ninh chỉ tay ra phía bên ngoài cửa sổ:
– Thành phố này yên tĩnh lạ thường. Lâu lắm tôi mới thấy một buổi chiều đẹp như chiều nay. Xe chở tôi về đây qua những đường phố thật buồn. Chiều yên tĩnh, không một tiếng động. Người đi lại, khoan thai từng bước, như chẳng có gì làm cho vội vã. Chiều nào ở đây cũng đẹp, cũng yên tĩnh như thế sao?
Trang nghĩ đến những buổi chiều lặng lẽ vây quanh đời nàng đã bao nhiêu năm. Đến sự yên tĩnh đấy, thoạt đầu như một thư thái dễ chịu vô cùng, lâu dần trở thành một đè nặng ngột ngạt. Vậy mà người đàn ông trẻ tuổi đang ngồi trước mặt nàng lại ngợi ca sự yên tĩnh ấy. Trang nhìn Ninh bằng một cái nhìn tò mò. Nàng hỏi:
– Anh thích lắm sao?
– Thích gì ạ?
– Sự yên tĩnh ở đây. Như anh vừa nói.
Giọng Ninh sôi nổi, thành thật:
– Vâng. Thích. Thích lắm chứ.
Trang tủm tỉm cười:
– Chúng tôi ở đây quen với sự yên tĩnh này qua rồi. Nên cũng thích. Nhưng vừa thôi. Không thích lắm như anh.
Ninh nhìn Trang chăm chú trong lúc nàng nói. Chàng nhìn miệng nàng, hàm răng trắng bóng của nàng, khiến Trang ngượng. Thân thể nàng nóng ran đồng thời với một sự châm đốt dịu dàng ở gáy.
Trang ngừng bặt lại. Nàng có cảm tưởng bàng hoàng như ngồi nói chuyện với Ninh lần đầu, nàng vừa dùng một thứ ngôn ngữ mới lạ, nói những câu nói không hề nói tới hàng ngày.
Bên kia làn khói trà tỏa nhẹ, Ninh chợt nhớ ra một điều trong những điều cha mẹ chàng đã thuật qua cho biết về gia đình bà Quảng Hưng. Người đàn bà có nét mặt trầm buồn và dáng điệu đài các đang ngồi trước mặt chàng là nàng dâu trưởng?
– Chị Quýnh? – Ninh hơi nghiêng đầu, giọng chàng thân mật.
– Dạ. Trang đáp nhỏ, trong cổ họng.
Tên của người chồng vừa được nói tới, như nhắc cho Trang biết về một cảnh ngộ, một thân phận, một sự thật. Của một người đàn bà buồn phiền thầm kín và đã có chồng.
– Anh đâu?
Giọng Trang đáp, vẫn rất nhỏ, thật mau, cho qua, cho xong:
– Nhà tôi đi vắng. Đi xa.
Bỗng nhiều tiếng chân trẻ nhỏ chạy tới ngoài hè đường, trước cửa. Trang và Ninh cùng ngừng nói nhìn ra. Hai đứa trẻ, đầu húi ngắn, mặc quần soọc, tay cắp cặp, dắt tay nhau chạy vào. Thấy người lạ, chúng đứng lại, lúng túng ngơ ngác.
Trang nhìn Ninh, giải thích:
– Các cháu đi học về.
Vẫy hai đứa nhỏ lại gần, nàng xoa đầu chúng, dịu dàng:
– Phương và Phi chào bác Ninh đi. Bác Ninh về đây buôn bán và bà nội đã mời bác đến ở nhà ta.
Hai đứa nhỏ chắp tay cúi đầu, chào lễ phép. Đoạn chúng quay gót chạy ùa vào nhà trong. Trang đứng lên theo:
– Mời anh vào sân trong rửa mặt. Rồi lên lầu nằm nghỉ.
Nước mát rượi trong thau đồng gây cho Ninh một cảm giác sãng knoái. Trang đứng sau, vịn một tay lên thành tường. Nàng lặng lẽ và kín đáo theo dõi Ninh trong từng cử chỉ nhỏ nhặt của chàng. Thái độ này làm Trang ngạc nhiên với chính nàng. Xưa nay, hình như không có một điều gì trong căn nhà có thể làm Trang lưu ý tới. Mọi chuyện đã thành nếp, những cái nếp bất động trong một thế giới thu nhỏ đã đóng khuôn. Yên lặng dửng dưng. Bóng tối chìm chìm. Những giọt nắng đọng. Những làn gió thoáng. Từng phút trầm trầm, từng giây lặng lẽ. Bỗng chiều nay một hồi chuông rung, một khuôn mặt hiện, một tiếng nói cất lên, chàng trẻ tuổi đến như một đột nhập bất ngờ, và Trang thì cảm thấy rất rõ, lòng nàng đang xôn xao vì sự đột nhập bất ngờ ấy.
Từ dưới sân ngó lên, tầm mắt Ninh bắt gặp một hành lang rộng chạy dài chung quanh một dẫy buồng, từ ba mặt trên cao ngó xuống khoảng sân phía dưới. So với mặt tiền, căn nhà phình rộng ở phía trong và mở vào thật sâu.
Trang chỉ tay lên một cánh cửa buồng trên lầu:
– Phòng anh đó ạ! Cạnh phòng mẹ con bà Phán Địch.
Ninh ngạc nhiên:
– Bà Phán Địch? Tôi tưởng…
– Vâng. Bà Phán là bạn thân của mẹ chồng tôi. Bà ở trên lầu với cô con gái. Cô Hoa.
Rồi như đoán trước được sự ngại ngùng của Ninh, Trang lắc đầu, mỉm cười, nói tiếp:
– Anh đừng lo. Anh yêu thích một không khí yên tĩnh, anh sẽ được yên tĩnh. Mẹ con bà Phán ra cửa hàng từ sáng sớm, chiều tối mới về. Bà Phán mới đến từ đầu tháng. Chỗ bạn thân, mẹ tôi nể, không tiện từ chối.
Ninh vội đáp:
– Không sao đâu. Ở có người nọ người kia càng vui chứ sao. Bây giờ xin phép chị cho tôi được lên nằm nghỉ một lát.
Lầu trên có cả thảy bốn căn phòng. Căn đành cho Ninh là căn cuối cùng. Phòng Trang là căn đầu, ngay sát cầu thang đi lên.
Trang chỉ vào căn thứ hai, đóng kín cả cửa vào lẫn cửa sổ.
– Đây là buồng của ông giáo Điển. Người cùng làng với mẹ tôi. Ông Giáo dạy ở trường học cuối tỉnh. Ở đây đã lâu.
Ninh chăm chú nghe. Sự giới thiệu sơ lược không gợi cho chàng một cảm tưởng gì. Chàng chỉ mới nghe thấy những cái tên. Chưa nhìn thấy những khuôn mặt. Tuy vậy căn nhà nói chung đã có với chàng một liên hệ khởi đầu. Dễ chịu, thoải mái. Chàng vốn yêu thích những cái cũ kỹ, những cái lắng đọng. Ở đây thảy đều cũ kỹ, thảy đều lắng đọng.
Hai người cùng đứng lại trước căn buồng nhỏ ở cuối dẫy. Trang tra chìa khóa vào ổ. Một tiếng lách tách khô gọn. Nàng đẩy nhẹ. Cánh cửa mở ra từ từ. Trang né mình sang một bên, mỉm cười
– Mời anh vào. Hơi chật hẹp một chút. Chắc anh khó lòng ưng ý.
Ninh lặng thinh, bước vào. Đặt va-li, đến mở cửa sổ, Ninh kêu lên một tiếng nhỏ vui thích. Cửa sổ buồng chàng mở ra một khoảng rộng, không lắp vướng tầm mắt chút nào. Bến tàu hiện lên ở xa xa. Cùng với nắng chiều chiếu nghiêng, gió từ phía xa xa đó, từ phía dòng sông, từ phía bến tàu thổi tới, mát rượi. Trời xanh và cao. Mây trời tỉnh lẻ khoan thai bay. Ninh quay lại:
– Tôi rất ưng ý. Từ chỗ cửa sổ này tôi có được một cái nhìn đẹp lắm.
Chàng quan sát căn buồng. Một cái giường nhỏ. Một cái tủ gương. Một cái bàn viết kê ở một góc. Bỗng Trang từ thềm cửa đi vào, bước mau mấy bước, đến tháo một tấm hình treo trên tường xuống. Ninh chưa kịp hiểu, Trang đã giải thích:
– Hình nhà tôi. Căn buồng này trước là buồng nhà tôi dành cho bạn hữu anh ấy ở các tỉnh xa về chơi, và cũng là nơi làm việc. Từ ngày nhà tôi đi xa, căn buồng đóng lại, cho đến bây giờ có anh, nó mới được dùng đến.
Giọng Trang thoáng một chút ngậm ngùi buồn bã. Nhưng đó chỉ là một tỏ lộ ngắn ngủi. Cắp khung ảnh trong tay, Trang đi mau trở ra. Vừa đi nàng vừa nói:
– Anh nằm nghỉ. Tòi sẽ bảo cháu lên mời anh xuống xơi cơm.

Ninh nhìn theo Trang nhanh nhẹn đi ra. Một niềm vui bé nhỏ, tròn và long lanh như một hạt ngọc, làm sáng láng ở Ninh một ý nghĩ ấm áp. Ý nghĩ về một may mắn đầu tiên. Chàng vừa đột nhập vào một gia đình xa lạ. Chàng vừa gặp người đàn bà thứ nhất của cái gia đình xa lạ này. Và người đàn bà này đã gây cho Ninh một cảm giác dễ chịu. Người đàn bà thường lắm điều lắm nhời. Và phát hiện ngay ở lần gặp gỡ những cái tầm thường khó che giấu. Trang không thế. Nàng nhẹ nhõm, tế nhị. Và điều này, đối với Ninh đã là một ngạc nhiên.
Chàng mỉm cười với ý nghĩ này, và mở va-li lấy đồ dùng và quần áo ra. Khi quần áo, những đồ đùng lặt vặt và mấy cuốn tiểu thuyết đã được nhắc ra, đáy va-li để lộ ra một tấm hình đóng khung. Ninh nhẹ nhàng nhấc khung ảnh lên, ánh mắt chàng đằm lại, gờn gợn buồn. Người thiếu nữ mỉm cười trong tấm hình chỉ còn là kỷ niệm. Nàng đã thuộc về một cái gì đã qua. Đã lỡ. Đã thôi. Đã rồi. Nàng chỉ còn là một dấu vết của trí nhớ, một khuôn mặt của quá khứ. Nàng là hình ảnh một đoạn đời Ninh đã sống, đã bỏ lại, một trong nhiều nguyên nhân xui chàng giã từ thành phố lớn để đến với cái vùng trời lặng lẽ của tỉnh nhỏ này không tiếng vang.
Ninh nhìn quanh quẩn, tìm một chỗ đặt tấm hình. Chàng đặt nó lên mặt cái tủ ngăn thấp kê ở một góc phòng. Nụ cười trong tấm hình như một giễu cợt. Và tấm hình tối lại dần dần. Chiều tỉnh nhỏ đã xuống hản. Nắng đã tắt trên những lùm cây bên ngoài cửa sổ. Con đường phía dưới hoang vắng hơn. Tỉnh nhỏ trong cái nhá nhem của ngày tàn rụng chứa đựng một vẻ gì âm thầm phiền muộn.
Ninh bật đèn. Ánh đèn tỉnh nhỏ cũng khác biệt. Nó vàng vọt, yếu ớt, như lúc nào cũng có thể tắt đi. Ninh đứng trầm ngâm bên thành cửa sổ, nghĩ đến những cái chàng đã bỏ lại, ở một nơi chốn khác, bây giờ đã ở thật xa chỗ chàng đang đứng đây, nhìn đêm tối dần buông những mắt lưới đầu tiên. Một tiếng chuông nhà thờ vang lên đâu đó, gợi lên hình ảnh một nóc tháp chuông cô độc in lên nền trời. Tiếng chuông đó, buồn bã. Ninh nhớ lại. Chàng đã sống. Đã bỏ lại. Đã đổi thay một nơi chốn. Đã giã từ những thói quen. Một cuộc tình lỡ dở, tưởng sâu nặng vững bền mà tan vỡ thật dễ dàng và mau chóng. Thuần đi lấy chồng. Thuần là người thiếu nữ trong tấm hình Ninh mang theo như dấu vết cuối cùng của một phần đời đã hết. Nụ cười của Thuần lúc nào cũng thấp thoáng một nét giễu cợt. Nàng nói nàng yêu Ninh. Từng đã ngả đầu vào vai chàng mà khóc. Từng đã nói đến chuyện sống chung một kiếp, sống hết một đời. Những buổi đi chơi trong công viên. Lá biếc trên đầu. Thảm cỏ dưới chân. Những đêm trăng tự tình. Vai kề vai nhau. Tóc lẫn trong tóc. Thế mà dễ dàng và nhanh chóng, chia tay nhau thành riêng biệt những ngả đường.
Ninh bật cười một tiếng ngắn. Một tiếng cười nửa vui thú, nửa chua chát. Thì ra yêu nhau là thế. Chỉ là những lời nói. Chỉ là những danh từ. Những lời nói hoa mỹ mà giả đối. Những danh từ ghê gớm nhưng chỉ là những danh từ trống rỗng. Cũng may mà vết thương không trầm trọng. Nó chưa là một đau đớn. Nó chỉ là một ngậm ngùi. Nó sẽ được hàn gắn dần. Nó sẽ là một lãng qưên.
Một đứa nhỏ đứng thập thò ngoài cửa buồng. Ninh thân mật:
– Gì đó cháu?
– Mẹ bảo mời bác xuống xơi cơm.
– Bác xuống ngay. Vào đây đã.
Đứa nhỏ ngập ngừng, rồi bước vào. Nó đứng im, dáng điệu ngoan ngoãn, để cho Ninh vuốt tóc.
– Tên cháu là gì?
– Phương.
– À Phương. Em cháu là Phi phải không?
Đứa nhỏ gật. Ninh nghĩ đến chuyện một người chồng đi xa, chàng vừa được Trang nói qua cho biết. Chàng hỏi:
– Bố đi xa, cháu nhớ không?
– Không.
Đứa nhỏ trả lời gọn lỏn làm Ninh bật cười:
– Phải nhớ chứ, tại sao không?
– Bố đi lâu quá, Phương không nhớ nữa. Chỉ có bà nội nhớ bố. Bà nhắc đến bố luôn. Nhưng mẹ bảo bố đi xa, bố không về nữa. Mẹ bảo bố chết rồi.
Chợt, có tiếng chân chạy mau ngoài hành lang. Rồi là tiếng lách tách của một chìa khóa tra vào ổ. Tiếng một cánh cửa mở mạnh. Vệt ánh đèn từ căn buồng bên chiếu ra hành lang. Ninh nhìn thấy từ chỗ chàng đứng. Hai cái bóng đàn bà in lên dòng ánh sáng ấy. Một cái bóng gầy guộc, bé nhỏ. Cái bóng kia mập mạp, đoán thấy trẻ trung và nhanh nhẹn.
Ninh đưa mắt nhìn bé Phương, có ý hỏi. Đứa nhỏ hiểu. Nó trả lời:
– Bà Phán và cô Hoa ở cửa hàng về.
Nó nói thêm, tay trỏ ra phía cửa sổ:
– Cửa hàng bà Phán ở ngoài bến tầu.
Ngoài hành lang, tiếng bà Phán Địch, yếu ớt trong một phiền trách dịu dàng:
– Mày làm gì mà cứ chạy huỳnh huych như voi ấy.
Ninh mỉm cười vì người mẹ mắng con gái chạy huỳnh huych như voi. Hoa nghe mẹ mắng, phá lên cười ngặt nghẻo. Tiếng cười vang động, có một cái gì bất thường và quá đáng trước sự yên lặng đó.
– Đi như mẹ ấy à! Cả ngày không bước được một bước.
Tiếng người mẹ, yếu nhỏ và mệt mỏi hơn:
– Tao mệt chết người. Cả ngày ở ngoài bến, chịu hết nổi. Bọn phu phen ồn ào. Bụi. Nắng. Cân hàng không lúc nào ngơi tay. Có mày cũng như không. Suốt ngày mày chỉ vùi đầu vào mấy cuốn tiểu thuyết. Cụ Quảng Hưng ở dưới nhà đau mấy ngày nay rồi đó. Tao rồi cũng đến đau mất thôi.
Tiếng Hoa, vẫn lẫn trong tiếng cười không dứt:
– Mẹ và cụ Quảng Hưng đi chùa suốt ngày. Các cụ có cái thú của các cụ. Con cháu cũng có cái thú của con cháu chứ. Ở cái tỉnh thổ tả này, buồn thấy mồ. Không đọc truyện, con dùng thì giờ rỗi rãi của con làm gì đây. Tám chín giờ tối đã chui vào mùng. Con thích đọc tiểu thuyết. Ngày nào con cũng đọc hết một cuốn tiểu thuyết. Mẹ có biết ông Lê Văn Trương là ai không?
– Ai đó? Ông ta đến hỏi mua hàng sao?
Tiếng cười của Hoa lại vang động, vui thú:
– Mua hàng nào? Lúc nào mẹ cũng chỉ hàng với họ, mua với bán. Ông ta viết tiểu thuyết. Ông Lê Văn Trương viết tiểu thuyết hay không chê được.
Câu chuyện ngộ nghĩnh giữa hai mẹ con ngoài hành lang vọng vào khiến Ninh phải mím môi lại để khỏi bật cười thành tiếng. Chàng nghĩ thầm: thiếu nữ tỉnh nhỏ này không ngờ là một độc giả trung thành của Lê Văn Trương, và có một lối ăn nói thật tự do. Chàng kéo bé Phương lại gần, lắng tai nghe tiếp. Người mẹ gắt:
– Mày đừng nói chuyện ông văn chương văn chung nào đó với tao. Tưởng hay lắm đấy hả. Con gái như mày là hư thân, mất nết. Xem như bà Trang đó. Đứng đắn. Trầm tĩnh. Bà ấy có suốt ngày vùi đầu vào mấy cuốn tiểu thuyết như mày không?
Tiếng giẫm chân giận dữ của Hoa. Và Hoa lớn tiếng:
– Lúc nào mẹ cũng đưa chị Trang ra. Chị Trang là nhất. Không ai bằng chị Trang. Chị Trang cái gì cũng hay cũng đẹp.
Giọng nói trở lên hằn học, hỗn xược:
– Nhưng hay đẹp mà làm gì. Có chồng cũng như không có chồng. Con không phải là chị Trang. Con không thích là chị Trang, mẹ biết thế không?
Bà Phán Địch dịu giọng:
– Nói khẽ chứ. Con khỉ. Hơi một tí là làm ầm lên. Bà Trang nghe thấy thì còn ra làm sao không? Thôi, rửa mặt thay quần áo đi. Xuống ăn cơm cho tao còn lên nằm một chút. Mệt chết đi thế này.
Hai mẹ con đi vào buồng. Câu chuyện ngoài hành lang chấm dứt. Ninh xoa đầu thằng Phương:
– Thôi, chúng ta đi xuống.
Qua cửa buồng bà Phán Địch, Ninh kín đáo nhìn vào. Chàng nhìn vào và quay vội đi ngay. Trong buồng, đứng trước một mặt gương, mặc dầu cửa buồng vẫn mở, Hoa rất tự nhiên thay áo dài, để lộ một khoảng lưng trần nhễ nhại. Bên cạnh, bà Phán Địch đứng lặng nhìn con gái. Bà khẽ lắc đầu. Nhẫn nhục và ngao ngán.
Dưới nhà, tiếng bát đũa lách tách vọng lên.
Hai mẹ con bà Phán Địch xuống sau Ninh chừng năm phút, và khi thấy người đàn ông lạ mặt, cùng đứng dừng lại trước cửa buồng. Bà Phán Địch dáng diệu thanh nhã, nét mặt dịu dàng, là một trái ngược hoàn toàn với con gái bà. Hoa còn trẻ lắm. Chỉ mới chừng mười bảy, mười tám. Ninh nhìn cái khổ người sớm đã đẫy đà của thiếu nữ, đã hình dung được ra người đàn bà mập hú sau này, khi thiếu nữ lấy chồng, thành mẹ, và đã có năm bảy đứa con. Trái với nước da trắng muốt của Trang, Hoa ngâm đen, hai gò má ửng hồng màu nắng. Khổ người thô và nặng.
Ninh đẩy vội ghế đứng lên. Trang đứng bên cạnh Ninh. Nàng nói nhỏ:
– Anh cứ ngồi.
Ninh mỉm cười:
– Tôi chờ chị giới thiệu.
Từ thềm cửa, Hoa đi vượt mẹ, bạo dạn tiến thẳng đến trước mặt Ninh. Thiếu nữ bước từng bước dài mạnh mẽ, xô chuyển chung quanh nàng rất nhiều không khí. Ánh mắt và bộ ngực Hoa là hai sự khiêu khích đồng thời và sỗ sàng. Một ánh mắt long lanh. Một bộ ngực dậy thì nhọn hoắt. Nó đến trước, tới trước thân thể. Ninh nhìn thấy Trang hơi cau mặt lại. Bà Phán Địch rụt rè bước sau con gái. Ninh nghĩ thầm: sai rồi, không phải là mẹ nào con ấy. Mà là mẹ thế này và con thế kia.
Trang giới thiệu ba người với nhau. Ninh nghiêng đầu, lễ độ nói với bà Phán Địch:
– Tôi ở bên cạnh. Mong không có gì làm phiền cụ và cô.
Trong khi bà Phán Địch đáp lại Ninh bằng mấy câu thăm hỏi xã giao thường lệ, Hoa vẫn ở nguyên trong một thái độ khiêu khích lộ liễu. Cô gái nhìn Ninh chòng chọc, không chớp. Ninh thản nhiên chịu đựng cái nhìn ấy. Chàng chợt nghĩ đến mẩu chuyện giữa hai mẹ con ngoài hành lang trên lầu. Chàng hỏi Hoa bằng một giọng trêu cợt:
– Cô thích đọc tiểu thuyết Lê Văn Trương?
Hoa chẳng những đã không bối rối chút nào, còn gật đầu liền và hỏi lại liền:
– Thích. Còn ông?
Bà Phán Địch nhíu mày, mắng con gái:
– Hoa!
Mọi người ngồi xuống ghế. Hoa chọn ngay cái ghế sát cạnh, bên tay mặt Ninh, thản nhiên ngồi xuống. Trang ngồi ở bên kia bàn, đối điện với người vừa tới từ xa. Nàng ngồi giữa hai con. Mới ở trong bếp ra hai gò má Trang phớt hồng màu lửa. Mái tóc nàng bây giờ đã búi lại, kéo về sau gáy, làm nổi bật khuôn mặt đều đặn tươi sáng dưới ánh đèn. Thiếu phụ để nguyên khuôn mặt trần không son phấn. Nàng đẹp, chững chạc và đài các trong vẻ đơn giản mát mẻ khiến Ninh nghĩ đến một làn gió chiều thổi nhẹ, một dòng sông hiền hòa chứa đựng một vẻ gì rất đáng yêu giữa nàng và cái thế giới tỉnh nhỏ bình yên nàng sống. Trong ý nghĩ này, Hoa trở thành một hiện tượng lạc lõng khó chịu. Cô gái xức nước hoa thơm lừng. Bôi son đỏ chói. Đánh phấn trắng toát.
Mọi người vừa ngồi thì một tiếng ho khan nổi lên và ông giáo Điển vừa ho vừa che miệng vừa bước vào. Đầu hói, để lộ một vừng trán nhẵn bóng, bụng phệ, dáng đi mềm nhẽo, hai tay buông thõng. Người nhà giáo đi thẳng lại bắt tay Ninh, không chờ giới thiệu, như đã biết trước về sự có mặt của chàng, và sự có mặt này hình như không gây được ở ông ta một chút ngạc nhiên nào hết. Cái bắt tay thờ ơ và chiếu lệ. Xong, ông giáo Điển lại thẳng cái ghế ở đầu bàn, ngồi xuống.
Bữa ăn đầu tiên có Ninh, thiếu tự nhiên, đứt quãng trong những trao đổi nhát gừng về thời tiết, mưa nắng. Mọi người cùng cố gắng ở yên trong một thái độ khoan thai và bình tĩnh. Nhưng Ninh biết là mọi người đều đang vừa ăn vừa đổ dồn tất cả sự chú ý vào chàng. Nhất là Hoa. Không nhìn sang, nhưng Ninh biết chàng là đối tượng cho một quan sát tò mò ở người thiếu nữ này. Đến nửa bữa ăn, Hoa bắt đầu tấn công:
– Tỉnh này buồn chết được. Ông đã thấy như thế chưa?
– Tôi không thấy như thế. Có lẽ tại tôi mới đến.
– Phải đó. Ông ở lâu, ông sẽ thấy như chúng tôi. Sẽ thấy cái tỉnh này buồn chết đi được.
Ninh đưa mắt nhìn sang Trang. Chàng bắt gặp cái nhìn của Trang, nhưng không đoán được ý nghĩa cái nhìn đó. Chàng thận trọng phát biểu ý kiến:
– Tôi tưởng buồn vui là tự mình. Cái chung quanh bao giờ cũng ảnh hưởng đến tâm trạng mình. Cố nhiên như thế. Nhưng chỉ một phần rất nhỏ. Người nào có một đời sống mãnh liệt và toàn vẹn, người ấy tạo lấy những vui buồn cho riêng mình. Cái chung quanh vui hay buồn không ăn thua gì hết.
Hoa mím môi ngồi yên. Thiếu nữ như đang tìm kiếm một câu để trả lời. Rằng nàng không đồng ý. Ninh không để cho Hoa nói. Chàng cười thành tiếng:
– Vả lại tôi về đây cũng không phải để vui hay để buồn. Mà để làm việc. Một công việc rất tầm thường và rất thực tế.
Câu trả lời chừng như làm Hoa hậm hực. Nhưng hình như lại làm Trang bằng lòng. Nàng hơi tủm tỉm cười. Suốt bữa ăn, nàng chỉ nghe mọi người nói chuyện mà không phát biểu một ý kiến nào hết. Suốt từ hồi chiều đến lúc này, nàng cảm thấy và sống với một niềm xôn xao diu nhẹ trong lòng, nàng giấu kín nó như một nỗi vui kín thầm không tỏ lộ.
Một người lạ mặt đã tới đây. Đem theo sự xáo động. Đem theo ánh sáng và đem theo tiếng nói. Với sự có mặt của người đàn ông này, tất cả, trước đó lặng chìm chợt như đấy động hẳn lên. Trang cảm thấy sự đổi thay lạ lùng này. Những vùng bóng tối vụt tan biến. Những đồ đạc thiêm thiếp thức giấc. Bữa ăn này nữa. Bữa ăn này cũng khác lạ với bữa ăn buổi sáng, cũng không giống như bữa ăn chiều hôm qua.
Nàng lắng nghe, thêm nữa, niềm vui trong lòng nàng, nở thành một đài hoa thơm ngát.
Mọi người lục tục đứng lên. Hoa có ý còn muốn ngồi lại. Nhưng rồi cô gái phải theo mẹ lên lầu. Những đứa nhỏ chạy vào buồng trong. Chỉ còn lại Trang và Ninh.
Ninh châm một điếu thuốc, thở khói lên trần nhà. Chàng nghe ngóng sự im lặng dàn rộng. Và nói về sự im lặng đó:
– Đêm tỉnh nhỏ thật yên tĩnh.
Bên kia bàn, Trang đáp:
– Yên tĩnh như một lãng quên.
Nàng muốn nói thêm: “Đêm tỉnh nhỏ dài lâu không cùng “. Nhưng ý nghĩ như là một tỏ lộ quá thân mật khiến Trang ngại ngùng không dám nói. Mà tưởng chừng như nàng cũng không cần phải nói. Lời nói lúc này chỉ là một kinh động. Lúc này lời nói là một âm thanh lạ tai. Im lặng tràn đầy đang nói chuyện với người bằng cái tiếng nói thầm lặng không lời của im lặng. Một cơn gió nhẹ thoảng qua ngoài khoảng sân tối là một dấu chân bước hờ của đêm đang dịu dàng về. Khói từ điếu thuốc trên tay Ninh bay thành một vệt nhỏ, chập chờn và xanh biếc. Tỉnh nhỏ đâu đó, trên những mái nhà, ngoài những con đường, ngó xuống bẳng cái nhìn thăm thẳm. Ninh gạt tàn thuốc. Chàng cần phải nói chuyện để phá tan sự im lặng đã nhen lên một cái gì ngượng ngùng, thiếu tự nhiên:
– Chị có hay đi đâu xa?
– Xa là thế nào ạ!
– Ra khỏi thành phố này. Đến một thành phố khác. Du lịch. Thăm viếng một người bà con.
Tiếng Trang, ngậm ngùi:
– Tôi không bao giờ có cơ hội đó.
– Chị không thích du lịch?
– Tôi nghĩ là tôi thích chứ. Thích lắm. Thay đổi một bầu không khí quá quen thuộc đến trở thành nhàm chán, tầm mắt được nhìn thấy những điều mới lạ. Đó là một kỳ thú. Nhưng tôi không được sống như thế. Người đàn bà không đi du lịch một mình bao giờ, phải thế không anh?
– Không được nếu không muốn. – Ninh chữa lại câu nói của Trang.
Trang chữa lại câu Ninh vừa nói:
– Có muốn cũng không được.
Chợt Ninh nhớ đến một người chồng ở xa. Chàng hỏi:
– Chị không đi thăm anh bao giờ sao?
Trang lắc đầu, đáp rất nhanh:
– Không ạ!
Không hiểu tại sao nàng lại nói thêm, lại thấy cần phải nói thêm:
– Không bao giờ.

Cùng với câu nói, hình ảnh một người chồng hiện lên trong đầu óc nàng như một hình ảnh xa xôi và hoàn toàn xa lạ. Nó chỉ còn là một kỷ niệm. Nàng cũmg ít khi nghĩ tới, nhớ tới. Bao nhiêu năm tháng đã trôi qua từ đó. Thời gian làm loãng nhạt trí nhớ, đánh nhòe mọi kỷ niệm. Bây giờ chỉ còn một bâng khuâng mơ hồ. Rồi bắt đầu cho đời nàng những đêm dài cô đơn, rồi khởi sự cho đời nàng một nếp sống hắt hủi. Trang nhớ nàng đã đau đớn, đã tan nát, đã khóc lóc, đã tuyệt vọng. Đã tưởng chết. Lệ ướt đẫm gối. Hồn là sa mạc. Nàng rối loạn, nàng quằn quại, nàng vật vã, niềm đau tột đỉnh tàn phá nàng như một trận bão rừng hung dữ thổi qua, và nàng nghĩ rằng nàng sẽ ngã xuống trong cô đơn, hãi hùng hành hạ nàng như một cực hình. Nhưng cuộc đời mạnh hơn. Người ta phải sống. Bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ điều kiện nào người ta phải sống. Và nàng đã nương theo năm tháng mà đi, cùng với niềm đau âm thầm lắng dịu dần, lặn chìm vào thổn thức. Khoảng sân sau kín khuất của căn nhà đóng kín trở thành cái thế giới nương náu nhỏ bé của đời nàng. Đời nàng thôi đã lỡ những nắng hồng và những mưa lụa của mùa xuân. Cái bể non bộ. Những con cá vàng. Những bờ tường phủ rêu. Những góc nhà bóng tối. Nàng sống như thế, làm một chiếc bóng âm thầm, và nghe thấy trong hồn nàng tàn dần những hy vọng, tắt dần những xôn xao, xa dần những chờ mong. Người chồng bỏ đi không bao giờ trở về đến nay không hơn gì một người lạ mặt. Y còn sống ư? Thế nào? Tôi không biết. Y ở dâu? Tôi hay biết để làm gì. Y còn sống. Nhưng với tôi quá khứ là một khoảng trống không, và tôi sống lạnh lùng có khác nào như tôi đã chết.
Bên kia bàn, tiếng Ninh cất lên, cắt đứt ở Trang một ôn lại buồn rầu:
– Anh ở xa?
– Vâng. Xa lắm. Xa lắm.
Xa lắm. Xa như một đời một kiếp xa nhau. Xa như một tương lai nào mịt mùng không thấy. Xa như một dĩ vãng nào không tìm được đường về. Chừng như sợ hãi, Trang thay đổi câu chuyện:
– Chắc anh đi luôn.
– Vâng.
Đi là một hiện tượng sống tất nhiên phải có ở những người trẻ tuổi. Đi như một tìm đời. Đi như một thấy mình. Khi nào thấy chán ngấy những chân trời, dửng dưng với những dặm đường thì người ta dừng lại. Khi đó tuổi trẻ đã hết. Người đàn ông lập gia đình và đoạn tuyệt với nếp sống cũ.
Chuông đồng hồ thong thả buông xuống vùng yên lặng ngưng đọng chín tiếng ngân nga. Ninh lắng nghe từng tiếng chuông ngân, hình dung thấy một dấu chân của thời gian nhẹ nhàng bước. Thời gian ở đây cũng khác. Nó khoan thai, lững lờ. Nó ung dung nhàn hạ. Nó không xô đẩy người. Người không chạy theo nó, chóng mặt, choáng váng, đứt hơi như thời gian dồn đập nơi thành phố lớn Ninh vừa rời bỏ. Người đàn bà ngồi bên kia bàn cũng vậy. Nàng cũng là một hình ảnh của thời gian hồ thu. Thời gian ở đây như chứa đựng trong một lòng giếng khơi thăm thẳm mát, với một thoáng mây trời lãng đãng trôi qua; với những giọt nước từ thành đá thánh thót nhỏ xuống, từng giọt, theo một nhịp đều đặn không ngừng.
– Còn sớm quá. Tôi tưởng đã khuya lắm.
Trang đứng lên. Cái bóng Trang in lên thành tường, thành một đường nét thanh thoát đẹp.
– Mời anh lên nghỉ.
Ninh gần như kêu lên:
– Ở đây, giờ này tất cả mọi người đã vào màn hết?
Nụ cười trên môi, Trang thoáng một chút vui thú tinh quái:
– Anh chưa buồn ngủ?
– Ngủ sao được? Lúc này là lúc tôi tỉnh táo nhất.
Tự nhiên Trang thấy nàng bị thúc đẩy bởi một tò mò mãnh liệt. Nàng nói:
– Thường thường anh thức khuya lắm?
– Tôi yêu đêm. Một vòm trời sao, tôi yêu hơn một vòm trời ban ngày chói nắng. Đêm có một vẻ gì hư ảo. Cái gì trong đêm cũng trở thành sâu xa và ý nghĩa hơn. Bóng tối có một thứ linh hồn nào đó của bóng tối. Chị không thấy như thế?
Trang muốn nói: tôi không thấy như thế, tôi không thấy được như anh. Đêm không đẹp cho tôi cô đơn. Đêm không vui vì tôi âm thầm, đêm với tôi chỉ là một thế giới của những phút giây lê thê thao thức không cùng. Đêm là của những tiếng thở dài, não nuột, của những hình bóng vô hình ám ảnh, tròng mắt tôi mở lớn cùng bóng tối giăng lưới tâm hồn tôi buốt lạnh như một tảng băng. Đêm là giờ tôi lặng lẽ khóc thầm. Đêm là lúc tôi xót xa đau đớn. Đêm là lúc tôi lúc tôi nương theo cái âm thanh lạnh lùng của những chiếc lá rụng xuống ngoài khoảng sân khuya; và nghĩ đến tôi, đến đời tôi trôi qua, trôi từ một sáng sớm của đời tôi đã lỡ, trôi đến một cuối chiều của đời tôi sắp tàn. Nhưng Trang nghĩ mà không bao giờ nói được. Có những điều nàng không bao giờ tỏ lộ được với ai. Nàng là một nấm mồ. Đêm tỉnh lẻ là một nấm mồ khác. Đêm tỉnh lẻ là một vùi chôn cuộc đời nàng thôi những xuân hồng đã trôi qua.
Trang lắc lắc đầu. Ninh nhìn theo những sợi tóc mềm mại rủ xuống gò má người đàn bà.
– Đêm ở đây không đẹp như anh tưởng. Thành phố thiếu ánh sáng. Đêm tối tăm. Đêm buồn bã.
– Tôi không tin như thế. Buồn vui tùy theo ở lòng người.
Ninh nói và đứng lên theo:
– Tôi muốn ra phố một lát. Có phiền gì không chị?
– Không sao hết. Mời anh cứ đi chơi.
Trang cười:
– Nhưng tôi nói trước cho anh biết: Không có gì đâu. Lúc nào về, anh cứ bấm chuông.
Cánh cửa khép lại sau lưng Ninh. Bên kia cánh cửa, chàng nghe thấy bước chân Trang đi trở vào. Châm một điếu thuốc hút, Ninh đút hai tay vào túi quần men theo bờ tường, rẽ về con đường phía tay phải. Từ con đường này, nhìn lên, nhìn thấy được khung ánh sáng vuông nhỏ trên cao là cửa buồng chàng. Cửa buồng bên cạnh, một cái bóng thiếu nữ in hình. Đó là Hoa. Hoa đứng trên cửa sổ, tự lúc nào, tưởng như thiếu nữ đứng đó từ rất lâu, chờ rình sự xuất hiện của Ninh trên hè đường phía dưới. Ninh thản nhiên bước rảo qua. Chàng nhẹ hẳn người khi đã ra khỏi tầm mắt mà chàng biết đang chăm chú dõi theo của thiếu nữ. Ninh lắc đầu mỉm cười. Chàng nghĩ đến những cuốn tiểu thuyết của Lê Văn Trương với cái thế giới hoang đường không có thật, trong đó là thần trí Hoa mơ mộng chìm đắm.
Đi được một quãng, Ninh nhận thức lại được sự im lặng lớn, đầy và khác thường vây bọc lấy chàng qua bước chân chàng, tuy đặt nhẹ mà như vang vang trên lòng phố. Tỉnh nhỏ đã thật sớm tắt mọi hình thái đời sống. Những mặt tiền im lìm. Thoảng hắt ra đâu đó, một vài vệt ánh sáng mờ đục. Điện đường vàng vọt và bóng tối ở đây làm chủ. Lác đác một vài bóng người đi lại, đầu cúi xuống, khép kín trong nín thinh.
Từ những lòng phố hẹp chật, theo một dòng ánh sáng rõ hơn, Ninh đi dần vào phố chính. Con đường thẳng tắp. Những chùm đèn lớn treo ở chính giữa chạy suốt từ ngoài bến tàu vào tới chân con đê phía bắc. Nó gần như cắt đôi thành phố thành hai khu vực đồng đều nhau về diện tích. Kiến trúc đường xá ở một tỉnh nhỏ bao giờ cũng vậy. Con đường này là con đường mạch máu, con đường xương sống. Nó giống như những con đường mạch máu, những con đường xương sống ở những tỉnh nhỏ khác Ninh đã có dịp đi qua. Sinh hoạt ban đêm thu lại trên hai vỉa hè của con đường lớn này trong khi những con đường nhỏ hai bên đã mất đi những tiếng động, lắng chìm trong bóng tối.
Vỉa hè của con đường lớn thật rộng. Những cửa hàng còn sáng đèn. Tiệm tạp hóa. Tiệm ăn của người Trung Hoa với những tờ giấy đỏ treo la liệt trên những bờ tường. Chủ quán bụng phệ, khăn bông vắt vai, đứng sau quầy. Hầu sáng đi lại, lớn tiếng. Bàn thờ thần tài với ngọn đèn đỏ như màu máu ở một góc nhà. Những người đàn bà Trưng Hoa, mặc áo ngắn màu tối, ngồi trên những cái ghế đẩu kê sát tường, ném ra ngoài những cái nhìn thờ ơ. Lác đác mấy tiệm bánh, mấy hiệu sách. Những cuốn sách bụi bậm nằm buồn phiền trong nhữug ô kính bụi bậm như những đồ vật vô ích bị hất hủi, bị lãng quên. Ninh bước vào một hiệu sách. Tất cả đều cũ, vàng ố, lăn lóc. Ninh cầm lên một cuốn tiểu thuyết. Cuốn Trường Đời của Lê Văn Trương. Chàng mỉm cười lật một vài trang không xem, chợt nghĩ đến Hoa, đến cái nhìn dõi theo của thiếu nữ lúc chàng vừa ra khỏi cửa.
Bỗng có tiếng âm nhạc trầm bổng từ đâu đó vọng lại. Ninh lắng tai nghe, ngạc nhiên. Âm nhạc này là thứ âm nhạc rõ nhịp, thứ âm nhạc đặc biệt rót xuống từ một giàn nhạc vũ trường. Vô lý, Ninh nghĩ thầm. Tỉnh nhỏ này làm sao có được một tiệm nhảy. Tiếng nhạc vẫn bổng trầm không dứt. Ninh lắng nghe một chút nữa. Chàng hỏi người bán sách:
– Ở đây có phòng trà?
– Không. Một tiệm nhảy.
Thì ra âm nhạc của một tiệm nhảy thật sự. Ninh bật cười một tiếng ngạc nhiên và vui thú:
– Ở đây cũng có người mở vũ trường?
– Mới từ năm ngoái thôi.
– Đông khách không ông?
Người bán sách, vẫn cúi xuống với quầy hàng:
– Tôi có đến đó bao giờ đâu mà biết. Nhưng chưa đóng cửa chắc là phát tài.
Y lẩm bẩm giọng gắt gỏng:
– Nhạc gì mà nhạc hoài từ chập tối đến giờ.
Đặt cuốn tiểu thuyết của Lê Văn Trương vào chỗ cũ Ninh bước ra. Chàng đi theo hướng vọng lại tiếng nhạc, trong đầu đã thấy nổi lên hình ảnh trơn nhẫy của một sàn nhảy với những màu đèn xanh đỏ đổi thay, với những tà áo màu và những khuôn mặt vũ nữ đầy son phấn.
Đến trước một cánh cổng sắt mở rộng, mở vào một lối đi hai bên trồng hoa, Ninh đứng lại, tần ngần. Tiếng nhạc phát ra từ cuối lối đường nhỏ trồng hoa, ở một khúc phình rộng khuất lấp nào đó tận tít bên trong mà Ninh không nhìn thấy. Nhưng đúng trong đó là một vũ trường rồi. Ninh không nhầm được. Chàng đã nhìn thấy những vệt đèn màu đặc biệt của vũ trường hắt lên những chùm lá.
Một đứa nhỏ tựa lưng vào thành cổng, ngủ gật. Ninh cúi xuống vỗ vai nó. Thằng nhỏ giật mình chồm dậy. Tròng mắt đục lờ, ngơ ngác. Ninh mỉm cười thân mật, chỉ tay vào phía bên trong:
– Gì trong đó thế em?
– Nhảy đầm.
Thằng nhỏ đáp cộc lốc. Nó nhìn Ninh từ đầu đến chân, và nhìn rất nghi ngờ, rất khó chịu. Đối với nó, Ninh cũng là một khuôn mặt hoàn toàn xa lạ, một khuôn mặt tối nay nó mới nhìn thấy lần đầu.
– Vào được không em? Ninh hỏi đùa.
Đứa nhỏ cau mặt:
– Muốn nhảy đầm thì vào.
Bỏ thẳng nhỏ cau có và cánh cổng sắt mở rộng lại sau lưng, Ninh bước vào lối đi trồng hoa hai bên. Chàng chưa từng thấy một lối vào vũ trường nào lại như thế. Không có những vệt đèn màu hắt lên vòm lá, không có tiếng âm nhạc vọng ra, lối đi chỉ có thể dẫn tới một biệt thự trang nghiêm và kín khuất, của một ông tuần phủ hồi hưu nào đó.
Con đường từ đầu lối vào tối mờ mờ, sáng dần cùng với tiếng nhạc rõ hơn, Ninh phân biệt được tiếng dương cầm và tiếng tây ban cầm, và thoang thoáng những tiếng cười nói. Một mùi thơm phảng phất trong không khí. Không đoán được là mùi thơm của một loài hoa đêm hay là mùi thơm của hương phấn đàn bà. Điều này không làm Ninh bận tâm lắm. Quan trọng là ở đây có một vũ trường cho những buổi tối tỉnh lẻ của chàng đỡ trống rỗng.

Với một niềm vui bé nhỏ trong lòng, Ninh rảo bước mau hơn trên lối đi trồng hoa, tới chỗ có đèn màu và âm nhạc.
Đã tới khúc phình rộng. Ninh đứng sững, tròn mắt. Chàng vừa từ một bất ngờ này rơi thẳng vào một bất ngờ khác. Đã có mặt ở rất nhiều tiệm nhảy, nhưng Ninh chưa từng thấy một tiệm nhảy nào giống với cái tiệm nhảy tỉnh nhỏ uày. Nó không có mái, không có nhà. Nó là một căn vườn được sửa sang lại. Nó là một vũ trường lộ thiên.
Sàn nhảy lát xi-măng, hình bầu dục, được bao bọc bởi một lối đi chạy vòng trải cuội trắng. Những giàn đèn mắc lửng lơ trong không khí, lẫn lẫn với những vì sao trời lấp lánh trên cao. Ở chính giữa, và cũng treo lửng lơ trong không khí, một khung nê-ông đỏ chói. Giữa cái khung đỏ chói này là một chữ Paradis màu xanh.
Paradis! Ninh lẩm bẩm. Một thiên đường lạ lùng. Chàng mỉm cười nghĩ thầm và lững thững đặt chân vào con đường trải cuội trắng.
Dưới gót giày Ninh, cuội lạo xạo kêu lên. Khu vườn chung quanh tối hơn sàn nhảy. Những bóng cây um tùm. Vũ trường được ngăn cách với chung quanh bằng một vì tường rất thấp, chỉ ngang tầm người, có thể nhún mình dễ dàng nhảy qua. Ninh nhìn thấy phía bên kia bức tường thấp, hành lang và cửa sổ trên lầu của những căn nhà còn sáng đèn. Nhiều bóng người lố nhố ở những cửa sổ và hành lang ấy. Họ cùng hướng tầm mắt xuống sàn nhảy lộ thiên, tò mò dõi theo một cảnh tượng lạ mắt.
Phải nhìn quanh một vòng, Ninh mới quy định được chỗ phát ra tiếng nhạc. Đó là một cái máy hát kiểu cổ, đặt trên một chiếc ghế đẩu, kê dưới một gốc cây. Bên cạnh cái máy hát, một thằng nhỏ ngồi chồm chỗm. Đĩa quay hết vòng, thằng nhỏ nhấc kim lên, thay một cái đĩa mới. Nó làm công việc này, rất yên lặng và thản nhiên. Nó không đưa mắt nhìn ai. Cũng không có ai tỏ vẻ lưu tâm đến sự có mặt của thường nhỏ.
Đám vũ nữ, chừng năm bảy người, ngồi lùi khuất sau cái thân sù sì to lớn của một thân cây khác. Ngoài sàn nhảy, chỉ có một cặp ôm nhau nhún nhảy lui tới theo một điệu tango Ninh đã nghe thấy chúng bạn huýt sáo từ hồi chàng còn đi học.
Ninh bước vào và mọi người đều chăm chú nhìn chàng. Những tiếng cười nói rì rầm im bặt. Cả đến cặp đang ôm nhau trên sàn nhảy cũng đứng lại. Người đàn ông đầu hói, thân hình mập ú, đứng ngay người, hất hàm với cô vũ nữ gầy nhom, như có ý hỏi xem có biết người lạ mặt mới xuất hiện là ai không. Cô vũ nữ gầy nhún vai lắc đầu. Mọi hoạt động ngưng lại trước người lạ mặt vừa tới.
Ninh đứng lại trên giữa lối đi trải đá cuội, khoan thai chờ người chủ nhà từ chỗ mấy cô vũ nữ ngồi sau góc cây, hớt hãi chạy lại. Người chủ tiệm cũng lại là một ngạc nhiên mới cho Ninh. Đó là một thiếu phụ, đã đứng tuổi, trông không lẳng lơ diêm đúa chút nào, trái lại rất khép nép hòa nhã.
– Thưa ông kiếm ai?
– Đây là một vũ trường?
Người đàn bà vấn khăn nhung, ném cho Ninh một cái nhìn thăm dò đầy ngờ vực. Giọng nói của người đàn bà thận trọng:
– Dạ phải.
– Tôi uống nước và nghe nhạc một chút được không?
– Dạ được chứ ạ! Dạ được chứ ạ! Mời ông lại đằng này.
Người đàn bà đáp hấp tấp, và dẫn Ninh đến trước một cái bàn thấp, cũng sau một gốc cây.
Ninh ngồi xuống. Chàng chỉ một cái ghế đối diện mời người đàn bà ngồi. Cách chàng chừng ba thước đám vữ nữ chạm đầu vào nhau thì thào bàn tán. Thoáng thấy một miệng cười khúc khích mà một lòng bàn tay nào đó đã bịt lại mau chóng.
Ninh nghiêng đầu, tủm tỉm cười, hỏi người đàn bà:
– Bà là bà chủ?
– Dạ….
– Sao bà lại hỏi tôi đến đây kiếm ai. Vũ trường mở ra để cho đàn ông chúng tôi tới. Tôi tới xem chừng làm mọi người đều hết sức ngạc nhiên. Tại sao lại như thế?
Người đàn bà nở một nụ cười thay cho một lời xin lỗi và cắt nghĩa:
– Thưa, chả là các ông đến chơi đây, chúng tôi đều biết mặt hết. Ông..thì thú thật, chúng tôi chưa từng được hân hạnh tiếp đón bao giờ. Chúng tôi hỏi khí không phải, ông ở xa tới?
Ninh gật đầu:
– Tôi vừa tới đây hôm nay. Tôi về đây buôn bán. Tôi ở nhà cụ Quảng Hưng.
– Cụ Quảng Hưng thì chúng tôi biết lắm ạ. Ban đầu lạ lùng, bây giờ quen biết rồi. Mời ông ngồi chơi, muốn gì xin cứ cho biết.
Ninh nhìn theo người đàn bà lễ phép đứng lên, nghĩ đến cái không khí đặc biệt của tỉnh nhỏ, đặc biệt luôn ở cảnh trí và những khuôn mặt chàng vừa gặp gỡ lần đầu ở cái vũ trường lộ thiên này.
Nhạc nổi lên, tắt, rồi nổi lên. Âm thanh đục vỡ, rời rạc. Nổi rõ cả tiếng kim rè rè quét lê trên mặt đĩa mòn. Bầu không khí thờ ơ, tẻ nhạt. Tiếng nhạc lạc lõng, chìm lặng. Người bồi lặng lẽ đưa lại một ly rượu. Ninh nhấp một chút. Rượu dáng chừng để đã lâu, không ai uống, men đã bay, vị rượu nhạt phèo, Ninh đặt ly xuống, duỗi thẳng hai chân dưới gầm bàn, thở ra một hơi dài khoan khoái. Nửa thân trên ngả hẳn vào thành ghế, Ninh cảm thấy thân thể nhẹ nhõm, thần trí dễ chịu. Gió đêm mơn man tuôn đầy trên da thịt khơi khơi. Thành phố nhỏ được cái ít bụi bậm. Đêm, những thước không khí chung quanh trong vắt.
Từ lúc Ninh đến, không có ai bước ra sàn nhảy nữa. Mọi người làm ra bộ thản nhiên như không, nhưng Ninh thừa biết, trong những bóng tối kia, sau những thân cây kia, dưới những mái đầu chụm lại kia, vẫn có những cái miệng đang thì thầm bàn tán về chàng, về sự lạ mặt của vũ trường này, của tỉnh nhỏ này. Càng về khuya, cảnh trí càng đìu hiu. Sàn nhảy chỉ còn là một cái khung bầu dục trơ trẽn, vắng tanh, vắng ngắt. Bên kia vì tường thấp bao bọc vũ trường, những bóng người lố nhố đã đi mất sau những cánh cửa đã đóng lại. Vũ trường lộ thiên le lói những ánh đèn tưởng như bắt đầu run rẩy lạnh. Những khoảng ánh sáng phai dần. Những vùng bóng tối đọng lại, đầy hơn. Tiếng nhạc đĩa vẫn lăn chậm từng vòng nhọc mệt.
Ninh gọi bồi trả tiền, đứng lên. Bà chủ chạy lại xem chừng băn khoăn về sự không vừa ý của người khách lạ. Ninh mỉm cười nói cho bà ta vui lòng. Chàng chỉ tay vào cái cảnh tượng trước mắt:
– Thoáng mát và đẹp lắm. Lần sau tôi trở lại.
Đám vũ nữ tiều tụy nhổm người ngó theo. Ninh lững thững đi ra. Vũ trường lưu trong Ninh một cảm giác nhẹ nhàng không xúc động. Như những con đường, những bóng cây, những đồi cỏ hoang của thành phố này lắng sâu vào đêm như một lòng giếng. Ở đây, không có gì làm cho người xúc động. Tất cả đều như đã có từ lâu, không ngạc nhiên. Một toàn thể khoan thai, dửng đưng và mờ nhạt. Đút hai tay vào túi quần, Ninh bước từng bước nhẹ, ung dung, trên hè đường của con đường phố lớn. Chàng nghĩ đến nhiều điều.
Đến nét đẹp thấp thoáng của những chùm lá trên đầu. Đến sự trống trải như một con mắt trừng mở lớn của con đường thẳng tắp một vệt dưới những ánh đèn đứng im cùng đêm thiêm thiếp về khuya. Đến sự chàng vừa có mặt ở tỉnh nhỏ này. Cô Hoa, Trang. Làn da trắng mịn, mang hình ảnh lưu đày và dấu vết khuất lánh của người đàn bà đã lỡ một thanh xuân, nhưng còn đằm thắm dung nhan. Đến sự đổi thay một chỗ ở, một thành phố. Cốt nhất là ở lòng mình. Cốt yếu không phải là một đổi thay địa chỉ, một căn nhà. Có đúng như thế? Một vài mảnh vụn của một dĩ vãng đầy náo động lại hiện về trong tâm tưởng. Một vài cuộc tình. Một vài cuộc tình dở dang, nửa vời, nghĩ lại vui không ra vui, buồn không ra buồn, bâng khuâng khó nói. Một vài khuôn mặt đàn bà đã đi qua đời bằng khoé mắt, nụ cười, những đam mê và những giận dỗi. Thảy đều đi qua. Thời gian cướp hết. Thảy đều lặng chìm. Sau trí nhớ sâu thẳm và quên lãng mênh mông.
Ninh cúi đầu xuống. Bước chân chàng, nghe dội lên, lạ tai trong cái vang động đều nhịp giữa nín thinh đêm. Gần tới nhà cũng là gần thêm với bờ sông và với bến tầu. Gió mát hơn. Không khí thoáng hơn. Ninh lắc đầu, như muốn dồn đuổi bằng hết mọi ý nghĩ phiền hà ra khỏi đầu óc. Phút này, trên hè đường đêm tịch mịch, lòng hướng vào lòng, mình nghĩ về mình, Ninh cũng muốn chàng giống với tỉnh nhỏ lạ lùng mới tới. Rưng rưng. Bình yên và khép kín. Sống như một vây bọc lại. Sống như một thu nhỏ về. Sống như một cánh cổng thâm nghiêm, như sau một cánh cửa đóng kín. Không náo nức đợi chờ. Không động và không tiếng.
Con phố chạy dài sau lưng Ninh. Đèn tỉnh nhỏ ngó theo chàng, bất động.
Chương hai
Trang nằm thao thức trong bóng tối, trong căn buồng chỉ còn lại tiếng thở điều hòa của hai đứa nhỏ, nằm bên, ngủ rất ngoan và rất yên. Tiếng chuông đồng hồ thả giọt. Tiếng chuông đồng hồ thả giọt vào không cùng lặng lẽ.
Trang nghe đêm đi, từng bước đêm đi. Trên mái nhà. Trên trời cao mênh mông. Trong lòng nàng lạnh buốt bấy lâu, đêm nay bỗng thấy bồi hồi xao xuyến. Một mặt hồ thu nào đó đang xôn xao những đợt sóng ngầm. Trong một lòng đất nín câm nào đó, đang cựa mình một mầm hạt nhỏ. Mầm hạt đó Trang tưởng như đang lớn dần lên.
Nàng nhớ lại đời nàng. Từng đoạn đã qua, từng mùa đã hết. Mỗi ngày tháng là một cánh lá. Lá đã bao nhiêu cánh rụng xuống? Đời đã bao nhiêu mùa xuân qua? Thuở dậy thì, tuổi thiếu nữ, ngày bước lên xe hoa, buổi đổi thay một đời, tất cả đều hiện về trong đêm nay, tất cả đêm nay trong hồn Trang nhớ lại. Nàng đã lớn lên như một cô gái tỉnh lẻ. Trên những lòng đường cỏ mọc. Dưới những hàng cây âm thầm.
Trong tiếng còi tàu chiều chiều vang lên ngoài bến xa. Trong nhịp guốc gõ đều trên vỉa hè những buổi trưa thiêm thiếp nắng. Những ngày đi học là phần thời gian thiên đường, lộng lẫy nhất của đời Trang. Nghĩ lại còn thấy đẹp. Nhớ lại còn thở dài, còn chảy ra những hàng nước mắt. Trường có bóng phượng vĩ rực rỡ, có sách vở thơm ngát hương thơm những giấc mộng đầu mùa. Có bạn có thầy. Có cái thế giới thân yêu đó của bảng đen và phấn trắng. Chúng nó, đám bạn gái, theo nhau lên từng lớp, đi chung một đường, về chung một lối, ríu rít vui như một đàn chim.
Lớn hơn, ra khỏi cửa trường, gió đời cướp lấy ném từng thân thế vào từng ngả đường cách biệt Người con gái tỉnh nhỏ lấy chồng. Rất sớm. Như một định luật. Như một bắt buộc. Và cũng như một tình cờ, một may rủi. Người đàn bà tỉnh nhỏ cũng như người thiếu nữ trong ca dao xưa, như một hạt mưa. Mưa tự trời mưa xuống, không biết rơi vào đâu. Hạt vào ruộng móc, hạt ra vườn đào.
Đám cưới đến. Đám cưới không có bởi tình yêu. Đám cưới như một đặt định, một thỏa ước giữa hai gia đình mà Trang không có quyền được có ý kiến. Ngày lên xe hoa là một ngày buồn. Trang khóc. Bạn gái, có mấy cô phù đâu, thấy Trang khóc, cũng khóc theo.
Đời người thiếu nữ tỉnh nhỏ như thế. Buồn như mùa thu. Sầu như lá rụng. Chỉ thấy mưa bay, không thấy nắng hồng. Chỉ có mây mù, không có trời xanh. Thế là cô Trang đã chết. Cô Trang trở thành mợ Quýnh, người nàng dâu trưởng của gia đình Quảng Hưng.
Ý nghĩ miên man, bộn bề lần lượt hiện hình trong đầu óc Trang như một xâu chuỗi của những hình ảnh và những sự việc buồn thảm. Nỗi buồn thầm kín ấy ở với Trang đã bao nhiêu năm. Không tăng lên. Cũng không bớt đi. Không ra vẫn còn mà cũng không ra đã mất. Sự lặng lờ này như biến thái của một tâm trạng bình tĩnh có vương vương đôi chút ngậm ngùi. Tôi không khóc nữa. Những giọt nước mắt đã chạy trở vào. Tôi không vật vã, không quằn quại nữa. Tôi đã mệt, đã im, và nghe mãi, bao nhiều chiều buồn, bao nhiêu đêm đen, những xúc động trong tôi dần dần lắng xuống. Dĩ vãng trở thành mặt hồ. Lạnh tanh. Trong suốt. Nhìn thấu tới cái đáy thăm thẳm của nó. Cụộc hôn nhân không có bởi tình yêu, vợ chồng chỉ còn là một chung sống gượng ép nghiêng dần vào tẻ nhạt.
Lúc trở thành mẹ, lúc sinh ra đời đứa con thứ nhất, Trang đã ôm chặt lấy một hy vọng cuối cùng. Là đứa con sẽ trở thành lẽ sống mới của đời nàng. Trẻ thơ sẽ thay cho người lớn, ở bên nàng như một an ủi. Nàng đã có một đối tượng thân yêu mới. Nàng sẽ trút hết tâm hồn nàng cho đứa con. Nhưng rồi Trang thất vọng. Thấy là sự thật không phải thế. Thấy là nàng lầm. Nàng đã trở thành mẹ. Nàng thương yêu con thật tình. Như tất cả những người mẹ. Nhưng có điều này, là tình thương con không đủ cho người đàn bà, mỗi buổi sáng còn ngây ngất vì chính cái nhan sắc đương xuân của mình phản chiếu trong gương. Đôi mắt tôi trong suốt, tình tứ và nồng nàn. Đôi mắt ấy để cho ai, cho ai nhìn thấy? Thân thể tôi còn là một biển hiến dâng, một nguồn ham muốn, thân thể tôi dùng để làm gì? Những buổi tắm, khỏa thân ngó xuống, thấy da thịt mình tròn đầy và trắng muốt như sữa đọng. Những lần gội đầu, thả mái tóc cho chảy dài thành suối, sợi tóc nào cũng đen ánh, chưa một sợi nào ngả màu tháng năm. Thảm kịch dấy lên, âm thầm, nhưng nung nấu và cực kỳ mãnh liệt. Tấn thảm kịch muôn đời của người đàn bà. Tấn thảm kịch của thân thể. Thân thể vừa như một lưu đầy, vừa như một phá vỡ. Nó vừa bảo Trang hãy kìm giữ lại, nó vừa bảo Trang nổi loạn đi thôi.
Nhiều lúc, thường vào ban đêm, giữa tiếng đồng hồ thả giọt và giữa bóng tối, Trang trống trải với sự vùng vẫy của thân thể bốc lửa da thịt bồn chồn, Trang có cảm tưởng nàng là hai sự kiện trái ngược nhau, trong một. Nàng vừa là một con đê, vừa là một ngọn triều. Con đê ngăn lại một ngọn triều hung dữ. Và ngọn triều thì xô chuyển liên hồi một bờ đê mong manh.
Những lúc thấy mình vừa thoạt nghĩ đã tràn đầy tội lỗi, Trang quay sang, ôm chặt lấy con. Nàng ôm chặt, thật chặt, đứa nhỏ vào lòng. Như một bám víu, như một cầu cứu.
Vô ích. Nàng không phải là một người đàn bà của luân lý đạo đức. Nàng cũng không phải là một người đàn bà dâm ô điên cuồng, với những chứng tật kỳ quái. Nàng chỉ giản đơn là một người đàn bà có một thân thể chưa từng chết những đường dây cảm giác ấy đã rung lên. Thân thể kia chưa khô héo chút nào. Và nó đòi hỏi. Nó đòi hỏi được ve vuốt, được thỏa mãn. Nó đòi hỏi được sống với cái trạng thái bình thường của một thân thể lành mạnh.
Những đêm mùa hè! Trang sợ nhất những đêm mùa hè, nồng nực bốc lửa và da thịt nàng cũng bừng bừng bốc lửa theo. Những đêm mùa hè muốn khỏa thân mà ngủ, muốn mở toang cửa sổ đón gió đêm tự trời sao đáp xuống, lọt vào, tỏa đầy da thịt như muôn ngàn ngón tay âu yếm của một người tình bí mật ban đêm. Những đêm mùa hè. Những đêm mùa hè như một cực hình. Nhiều lúc không nhịn được, Trang vật vã bật lên những tiếng rên nho nhỏ như con vật bị thương. Những đêm mùa hè. Như đêm nay. Cái nóng thúc giục. Cái nóng ma quái. Một thoáng gió hây hây. Mồ hôi ở những khoảng trũng. Thái đương hầm hập. Cái nhìn tức tối, muốn khóc. Giấc ngủ không đến. Trời ơi! sao giấc ngủ không đến, và đêm ráo hoảnh mở lớn hàng nghìn cặp mắt nhìn ngó giễu cợt người đàn bà còn trẻ đẹp vô ngần phải sống cô đơn.
Tiếng chuông từ ngoài cửa, vang lên thật sâu, trong căn nhà yên tĩnh. Ông ấy đi dạo và ông ấy đã trở về. Trang nhủ thầm, và bước xuống khỏi giường. Nàng cài lại hàng khuy áo trước ngực. Thốt nhiên, Trang đỏ bừng mặt. Nàng bật đèn.
Căn buồng ngủ sáng chói làm Trang hoa mắt trong khoảnh khắc. Đã toan mở cửa đi xuống, nghĩ thế nào, Trang lại chạy vội đến trước gương. Nàng cầm lược chải vội mái tóc. Nhìn lại nàng trong gương một lần nữa, Trang yên tâm mở cửa, bước mau xuống cầu thang. Khói thuốc lá từ ngoài đường, theo Ninh vào cùng cánh cửa mở hé. Ninh tươi cười:
– Xin lỗi. Tôi về muộn quá.
– Không sao đâu ạ! Tôi chưa ngủ.
– Không ngờ chị cũng thức khuya. Chị đọc sách?
Trang đáp “ dạ ” cho qua vì nàng không tìm được câu trả lời nào khác để chứng tỏ được cho sự thức khuya của mình. Nàng yên lặng dẫn đường cho Ninh lên lầu, như hồi chiều, lúc chàng mới tới.
Yên tĩnh của đêm khuya tỏa lên một cái gì thân mật. Một thân mật riêng tư giữa hai người thức trong khi tất cả những người khác đều đã ngủ yên. Yên lặng trở thành một có mặt đồng lõa. Trang và Ninh như cùng nhận thức được sự thân mật đồng lõa này. Hai người nhẹ bước trên từng bực thang. Nhớ đến vũ trường chàng vừa đến, thốt nhiên Ninh bật cười một tiếng ngắn vui thú.
Trang quay lại:
– Anh cười gì thế?
– Tỉnh nhỏ này đầy dẫy những ngạc nhiên không ngờ. Chị biết không, ở đây cũng có một tiệm nhảy. Tôi vừa đến đó. Chị đã đến đó bao giờ chưa?
– Tôi có nghe thấy nói. Cố nhiên tôi không đến đó bao giờ.
Trang nhấn mạnh vào hai tiếng “ cố nhiên ” khiến Ninh nhận thấy ngay câu hỏi của chàng vô lý. Chàng nhìn sang Trang, nghĩ đến một thế giới khép kín. Một thế giới đẹp buồn rầu, ở đó có những gót chân son hồng di động trên nền đá hoa, một căn buồng riêng, ở đó là những tấm rèm cửa buông rủ, tiếng chuông đồng hồ ngân nga thả giọt, thế giới đó khuất lặng đã bao nhiêu năm mà chàng vừa hé thấy bằng một hé nhìn thứ nhất. Trang với tỉnh nhỏ này, cũng là một xa lạ. Tỉnh nhỏ với người, linh hồn giống nhau, nhưng sống bên nhau mà là sống cực kỳ cách biệt.
Hành lang tối mờ mờ. Bưồng Hoa, cửa đóng tối đen. Buồng Trang, lọt ra một tia sáng nhỏ như một tơ chỉ. Ninh đứng tựa lưng vào tường. Trang đối điện Ninh, ngả mình vào lan can. Mái óc nàng in lên một nền trời sao thưa thớt. Bóng tối làm cho Trang tự nhiên hơn.
Nàng nhìn chàng trẻ tuổi và nghĩ đến nột cái gì thật trẻ, thật sáng. Trẻ như đời nàng thưở trước..Sáng như hồn nàng trhở xưa. Chàng trẻ tuổi đứng đó, chợt như khiến Trang ngậm ngùi và tiếc thương rất nhiều điều. Những dấu chân xưa trên lối mùa xuân thơm. Những buổi đẹp trời đã mất. Những mộng vàng lỡ. Những mây trắng, những hoa nắng một thời. Trang đưa tay lên vuốt một làn tóc lòa xòa, đầu nàng cúi xuống, ánh mắt mờ đi. Yên lặng hoàn toàn. Tất cả là một dõi theo và một nghe ngóng đêm đi. Đêm mở những con mắt. Nhìn người. Nín thinh.
– Anh định bao giờ ra chăm cửa hàng?
– Ngoài bến phải không chị?
– Dạ. Cùng một dẫy với cửa hàng bà Phán Địch. Ngoài bến vui hơn trong phố. Nhưng ồn ào và bụi bậm lắm.
Trang cười nhỏ:
– Anh chịu khó thật.
Ninh cãi:
– Tôi đã làm được gì đâu mà chị khen tôi chịu khó.
– Về đây. Buôn bán. Thế là chịu khó. Tỉnh nhỏ này không phải để cho những người như anh.
– Như thế không phải là chịu khó. Chỉ là tôi muốn thay đổi.
Ninh cười:
– Tuy chẳng hiểu là thay cái gì, đổi cái gì. Người ta sống lắm lúc kỳ quái và lạ lùng ghê lắm. Không biết mình muốn cái gì nữa. Có lẽ là thầy mẹ tôi thấy tôi chơi bời hư hỏng qưá, đày tôi về đây ít lâu cho nó đứng đắn lại con người. Tôi có thể từ chối không chịu xuống đây. Nhưng tôi đã không từ chối.
– Bây giờ anh hối hận?
– Trái lại. Tôi rất bằng lòng. Về đây không phải là một lưu đày. Tôi nghĩ rằng tôi đã yêu tỉnh nhỏ này, với những cái tưởng như không có gì đáng yêu của nó. Tôi nghĩ tỉnh nhỏ này sẽ làm cho tôi thay đổi. Không chừng nó đã đổi thay tôi rồi, ở một điểm nào còn mơ hồ tôi chưa tìm hiểu được nguyên nhân. Những cái gì mình yêu thì mình phải biết. Rõ lắm. Không nhầm lẫn được. Bến tàu lúc tàn nắng, tàu về, đám phu vác tấp nập, những con đường cỏ mọc, đêm yên tĩnh, những thước không khí trong vắt, đó là những vẻ đẹp riêng của thành phố này mà tôi yêu. Không, tôi không ân hận.
Ninh đưa tay lên nhìn đồng hồ. Chàng nói, dịu dàng:
– Đã khuya, mời chị đi nghỉ.
– Anh cũng nên đi nghỉ kẻo mệt.
– Tôi quen thức khuya đã bao nhiêu năm nay.
– Về đây, anh phải đổi khác. Anh phải quen đi ngủ thật sớm.
Ninh mỉm cười, gật đầu:
– Có lẽ thế. Có lẽ phải như thế.
Ninh đứng nguyên ở chỗ cũ, với điếu thuốc cháy trên tay, nhìn theo Trang uyển chuyển đi về buồng riêng. Cánh cửa mở ra, ánh sáng, rồi cánh cửa đóng lại. Ninh đứng đó, giữa hành lang vây phủ bởi bóng tối hòan tòan. Rồi chàng lững thững đi lại chỗ lan can, nơi Trang vừa rời bỏ. Thoang thoảng trong không một mùi thơm vương lại của tóc, của da thịt người đàn bà. Ninh xua đuổi mau chóng một ý nghĩ vẩn đục. Lòng chàng lắng đọng, êm ả, nhẹ nhàng bâng khuâng. Giữa những vì tường, một phiến trời đen như mực tầu. Những vì sao thưa thớt thả xuống một ấn tượng lung linh hư ảo. Khoảng sân phía dưới cũng tối đen như nền trời.
Ninh đứng thật lâu, cảm nhận được toàn vẹn sự cô đơn của chàng đêm đầu tiên giữa một tỉnh nhỏ lạ lùng và bỡ ngỡ. Chàng nhớ đến một người tình đã mất, mà tất cả hình ảnh, dấu vết và kỷ niệm chỉ còn là một tấm hình mang cheo. Ninh trở vào phòng, bật đèn.
Tấm hình cầm trên tay, Ninh ngắm nhìn cái khuôn mặt đã thuộc về một thế giới khác, trở thành sở hữu của một người đàn ông khác. Sự buốt nhói chợt gợn lên như một mũi kim đâm suốt qua tim. Ninh nâng tấm hình lên gần, nói nhỏ với khuôn mặt trong đó. “ Anh còn yêu em thật sao?” Tiếng nói vang lên trong căn phòng, dội ngược trở lại tâm hồn Ninh phút này cũng như một căn phòng mênh mông và trống trải. Không, người ta không thể sống trọn đời với một niềm đau, một vết thương quá khứ. Phải đuổi dạt đi những bóng ma. Phải nhận chìm hết thảy vào quá khứ. Về đây làm gì nếu không là để sống khác đi, khởi sự cho mình những ngày tháng mới.
Ninh nhìn tấm hình một lần cuối cùng. Sống không thể là một tưởng niệm. Người ta không sống mãi mãi với một tấm hình. Không thể, Ninh nghĩ như vậy, và chàng mở va-li, đặt tấm hình xuống đáy, lật úp xuống. Đèn tắt, Ninh nằm xuống giường. Chàng cảm thấy buồn rầu hơn. Nhưng yên tâm hơn. Giấc ngủ không đến khó khăn như Ninh tưởng. Chàng ngủ thiếp đi.
 
Từ nhà bà Quảng Hưng, xuống bến tàu, con đường dài chừng một cây số trở lại. Nắng vừa đấy. Ánh nắng ấm áp chưa làm mất đi sự trong mát của sớm mai. Trang và Ninh đi thong thả bên nhau. Trang im lặng để mặc cho Ninh ngắm nhìn sự thức dậy muộn màng của những hè đường tỉnh nhỏ. Người đi lại thưa thớt. Nhiều cửa tiệm còn đóng kín. Những chiếc xe chở nước từ mạn bờ sông tiến vào. Bánh gỗ lăn trên mặt đường lộc cộc. Những giọt nước nhỏ xuống thành những vệt ngòng ngoèo trên mặt nhựa lồi lõm.
Trang mặc một cái áo dài bằng hàng lụa màu ngà. Quần đen.Tóc cuốn cao. Đôi guốc nàng đi để lộ hai gót chân trắng nuốt. Đã lâu lắm, Trang mới ra phố. Phố xá nàng nhìn thấy hai bên vẫn vậy, nhưng lòng nàng xôn xao trong một niềm vui bỡ ngỡ không ngờ.
Buổi sáng Ninh xuống nhà dưới, rửa mặt, ăn điểm tâm và đã gặp bà Quảng Hưng. Bà lão vẫn còn đau, ho từng hồi rũ rượi, và nói chuyện với Ninh từ trong màn. Bà cụ đau, nhà không có ai, mẹ con Hoa ra cửa hàng từ sáng sớm, và bà Quảng Hưng đã bảo Trang mặc áo, lấy chìa khóa ra mở cửa hàng ngoài bến cho Ninh tiếp nhận.
Tới gần bến tàu, sinh hoạt ồn ào tấp nập hơn. Người đi lại đông đúc. Bến chưa nhìn thấy nhưng không khí của bến đã lan rộng vào những phố kế liền với bến như một vòng đai chạy dài phía sau. Một đoàn xe vận tải nối hàng. Mui xe mở toang. Hàng được đưa từ mặt bến vào, chất lên xe từng đống bao tải lớn. Những bao tải căng phình nằm trên bờ vai lực lưỡng cháy nắng của đám phu cởi trần chạy huỳnh huỵch. Những giọt mồ hôi óng ánh trong nắng. Mùi ngô, gạo ngai ngai bốc lên. Bụi cám bay đầy trong không khí. Cùng với từng bao hàng được ném từ vai đám phu khuân vác lên mặt xe, là tiếng lách tách đều nhịp của những chiếc thẻ gỗ được ném xuống thùng. Thẻ thay cho đếm. Mỗi thẻ là một bao hàng. Một cái thẻ nằm trong thùng gỗ là một bao hàng đã nhận xong. Ninh đứng lại, ngắm nhìn cảnh tượng sinh hoạt nhộn nhịp, nghĩ rằng sinh hoạt này đã trở thành khung cảnh đời sống thường nhật của chàng, bắt đầu từ sáng nay.
– Anh thấy thế nào? – Tiếng Trang hỏi sang.
Ninh cười:
– Lạ. Nhưng trước lạ sau quen.
Chàng chỉ tay vào đám phu khuân vác chạy đi chay lại không ngừng:
– Họ làm việc mệt nhọc. Trưa về lăn ra ngủ. Chiều làm việc nữa. Tối, họp nhau ngồi nhậu đế, mặt mũi đỏ sậm, cười nói ba hoa, đêm về lại lăn ra ngủ. Một đời sống giản đơn, không bao giờ có những phiền hà nhiều mặt như đời sống chúng ta. Những đầu óc không bận tâm bao giờ về những suy nghĩ nhiều khi tôi thấy là cần có, nhiều khi lại thấy là vô ích lắm. Chắc chắn một điều này, giấc ngủ của họ ngon lành hơn giấc ngủ chúng ta. Họ yên ổn. Sống lâu hơn. Và như thế, sung sướng hơn.
– Có thật sung sướng hơn không?
Ninh đáp, thành thật:
– Hơn chứ. Tôi hằng muốn được sống như thế. Bình thường, không lo âu, không xao xuyến. Như mọi người. Khi mình nghĩ là mình không giống với mọi người, khi đó những vấn đề, những khó khăn bắt đầu.
Hai người đã đi tới cuối phố. Một khoảng trống mở rộng như một giải phóng bất ngờ cho tầm mắt. Bên kia một bức kè xi-măng thấp chạy dài, mặt sông lớn hiện ra. Ninh đứng sững, gần như muốn kêu lên một tiếng ngạc nhiên vui thích. Chiều qua Ninh đã nhìn thấy mặt sông trong hoàng hôn, dưới ráng chiều. Một mặt sông dịu dàng như một dải lụa có những màu sắc lóng lánh đổi thay, trải rộng trong một không gian tàn nắng. Mặt sông buổi chiều dịu dàng, hiền lành, như một đời sống đã lắng nghiêng vào thư thái nghỉ ngơi. Những màu sắc lồng, và chìm. Những gợn nước lăn tăn. Bãi bờ của dòng sông chiều cũng như mang linh hồn trầm tư của mặt nước, bãi bờ đìu hiu như có một tiếng thở dài của cây cỏ toát lên.
Buổi sáng, dòng sông mang một khuôn mặt hoàn toàn khác biệt. Nó là hình ảnh một đời sống đương triều, chan hòa sinh khí. Nắng rực rỡ. Nắng bay múa. Nắng như một dòng máu hồng tuôn chảy thao thao. Nắng hát, nắng ca trên mặt sông nhảy nhót. Nước buổi sáng là một tấm gương cực kỳ sáng láng của trời. Một vài cánh buồm lướt qua. Buồm căng gió, thuyền xuôi băng băng.
– Đẹp. – Ninh thốt lên.
Ninh ngây ngát trước vẻ đẹp của dòng sông rực rỡ khiếr Trang cảm thấy như nàng cũng lần đầu chợt khám phá thấy cái dòng sông tỉnh nhỏ đẹp không biết chừng nào.
Đưa mắt nhìn nhau, cái nhìn là một đồng ý, Ninh và Trang cùng vượt đường đi sang. Một chiếc xe vận tải bất chợt từ phía tay phải ầm ầm lao tới. Trang giật mình luống cuống chưa biết tiến lui thế nào. Ninh nắm tay nàng kéo lùi lại. Chiếc xe băng sát qua người Trang. Trang hoàn hồn, nhưng trống ngực nàng còn đập mạnh. Nàng vừa sống một khoảng khắc hồi hộp. Da thịt bao nhiêu năm im lìm trống không thức tỉnh trong va chạm bất ngờ, hơi nóng truyền lan bàng hoàng vào cảm giác. Trang mỉm cười vuốt lại tóc, thở ra:
– Ghê quá!
Hai người bước lêa cái kè xi-măng thấp chạy dài cheo bờ sông. Gió đột nhiên thổi mạnh. Tà áo Trang bay phất phơ trong nắng. Nàng ngửa mặt cho nắng gội chan hòa trên tóc, trên cổ. Nàng nghe sự xôn xao khởi dậy trong lòng nàng, nàng nghe sự ngây ngất đó của thân thể nàng như suốt bấy lâu lưu đày vừa được giải phóng, nàng nghe theo tiếng đập như một reo vui của tà áo lụa. Và nàng sống với một hạnh phúc, hạnh phúc đó còn mong manh, hạnh phúc đó thoạt nhú lên chỉ là một ý niệm, nhưng hạnh phúc đó có, đích thực, Trang biết như thế. Nàng cảm thấy nó sáng láng và rõ rệt trong nàng. Không, cuộc đời nàng chưa hết đâu, thân thể nàng chưa lịm chết, cái chết bấy lâu chỉ là một giả chết, im lặng bấy lâu chỉ là một trạng thái đợi chờ, dòng sông rực rỡ dưới thấp kia, cái nắng gió này, trời xanh biếc trên đầu, niềm vui nở hoa trong thân thể, tất cả cùng đồng loạt cao giọng nói cho Trang biết nàng vẫn còn một đời sống, nàng vẫn có một tâm hồn, nàng vẫn có quyền được sống, được đợi chờ và được thương yêu. Dòng sông hắt trả tấm gương mênh mông của nắng sáng chói lòa lên cao. Trang có cảm tưởng như nó còn hắt trả cho nàng nhìn thấy nột khuôn mặt mới, khuôn mặt đó là nàng, chợt thức tỉnh bởi đất trời đẹp quá, chợt ra khỏi cái thế giới lưu đày để thấy cuộc đời còn đầy đặc những quyến rũ, những chào mời, những trái chín trên cành chưa kịp hái, những hoa hồng thơm ngát, ở đó, rung rinh, lộng lẫy, trước tầm tay.
Ninh chỉ xuống mặt nước lòa chói:
– Tôi không thể nghĩ tỉnh nhỏ này không có dòng sông kia.
Trang cười:
– Dân chúng ở đây chắc không ai có những ý nghĩ như anh. Dòng sông không thuộc về ai. Nó vô thừa nhận. Biếu anh đây.
– Tôi yêu những dòng sông, chị biết không? Có người chỉ yêu những con đường trải nhựa, những ánh điện. Có người chỉ thích được cả đời sống với núi cao. Riêng tôi, tôi yêu những dòng sông. Yêu từ thuở nhỏ. Yêu từ những con sông thật nhỏ, thật hiền, yêu đến những dòng sông thật mênh mông, có sóng, có triều, lúc đầy lúc vơi, nó gợi cho mình cái ấn tượng của biển ca. Hồi nhỏ, tôi ở gần biển. Nhà cách biển có một cây số, đêm nằm nghe thấy rõ tiếng sóng đổ hồi. Lớn lên, không bao giờ tôi được trở về nơi chốn đã ra đời. Nhưng ở mãi trong tôi là tình yêu biển, yêu sông, yêu nước, yêu sóng đó. Chị có như thế?
Trang thành thực đáp:
– Không. Tuổi nhỏ của tôi thường lắm. Tôi lớn lên, đi học, lấy chồng, vẫn ở trong lòng những con đường cũ. Những con đường mà anh đã thấy đó, buồn bã, khuất nẽo. Tôi không cảm thấy gì hết. Người đàn bà tỉnh nhỏ như chúng tôi, không có một đời sống riêng.
Ninh lắc đầu nhìn Trang:
– Tôi không đồng ý. Ai cũng có một đời sống riêng. Đó là đời sống lạ lùng và phong phú nhất.
Trang cười:
– Nhưng tôi đã nói với anh là tôi không có.
– Thế là chưa biết. Chưa nhìn thấy. Có khi là vì nhìn thấy mà không dám sống với nó. Ai cũng có một đời sống riêng. Nó là gia tài, là sở hữu của mình mà không kẻ nào cướp được.
Ninh bước xuống bực xi-măng, và rất tự nhiên, chúng đưa tay cho Trang, đỡ nàng bước xuống. Trang ngập ngừng một giây. Nàng nắm lấy tay Ninh. Hai gò má nàng đã ửng đỏ. Nàng biết có nhiều cặp mắt đâu đó, bên kia đường, từ trong những căn nhà, những cửa tiệm đang nhìn ra bằng những cái nhìn soi mói. Cử chỉ thân mật giữa Trang và Ninh chợt mang ý nghĩa một hành động thách thức táo bạo.
 
Cửa hàng bà Quảng Hưng nhường lại cho Ninh là một căn nhà một tầng, trông thẳng ra mặt bến. Nó ở giữa một dẫy căn nhà giống nhau, chỉ khác ở số nhà, màu sơn và những tấm bảng kẻ tên hiệu treo nghiêng trên thành cửa. Trang mở khóa. Cáah cửa cót két mở rộng. Chung quanh chỗ hai người đứng, một đám đông đã tò mò xúm lại. Trẻ nhỏ đứng lẫn với người lớn. Ninh trở thành cái đích của một ngắm nhìn hiếu kỳ. Bến tàu nhìn Ninh như một người lạ mặt. Ninh cúi xuống, xoa đầu một đứa nhỏ. Nhiều tiếng cười khúc khích nổi lên. Trang cũng cười và Ninh cũng cười theo. Không khí đượm một vẻ gì thân mật quê mùa Ninh không thấy ở những thành phố lớn. Đời sống ở thành phố lớn khác. Liên hệ giữa người và người cũng khác biệt lắm ở những thành phố lớn. Mỗi cá nhân là một hoang đảo. Người với người dầu hàng xóm, người với người dầu láng giềng, nhưng vĩnh viễn là những lạnh lùng và những xa lạ nhau. Ở đây khác. Từ những cái nhìn tò mò kia, Ninh biết chàng sáng nay còn là một kẻ lạ mặt, nhưng rồi trong những ngày tháng tới, sự xa lạ sẽ thành thân quen, những biên thùy cách biệt sẽ không còn nữa.
Tâm trí nhẹ nhỏm trong ý nghĩ ngọt ngào, Ninh theo Trang bước vào cửa tiệm. Trái với dự đoán của Ninh, căn nhà tuy đã lâu ngày, không bụi bậm như chàng tưởng. Trước khi chàng đến, đã có một sự thu dọn lại. Trên tường, một cái lịch treo, xinh xắn. Bàn làm việc sạch sẽ. Cái ghế bành bọc da nâu kê ngay ngắn. Góc bàn, một cái gạt tàn thuốc. Ninh đi lại mấy bước trong căn nhà, nhìn thấy dấu vết đó của sự săn sóc chỉ có thể có bởi một bàn tay đàn bà mà thôi. Chàng quay lại:
– Cám ơn chị!
Trang cười sung sướng, vì thấy Ninh tỏ vẻ hài lòng:
– Có gì đâu mà anh cám ơn. Hơi chật. Nhưng như anh thấy đó, cửa tiệm nào ở bến tàu nào cũng như thế cả. Nơi này chỉ để anh giao dịch. Còn hàng đã có kho chứa riêng.
Đám trẻ con bâu kín ngoài cửa, vẫn mở lớn những con mắt tò mò nhìn vào khiến Trang nghĩ nàng không nên ở lâu. Nàng trao chìa khóa lại cho Ninh, dặn chàng một vài điều nho nhỏ cần nhớ rồi cáo cừ. Ninh đưa Trang ra cửa. Chờ cho Trang đã khuất ở đầu phố, Ninh từ cửa hàng đi dạo một vòng hết khu vực bến tầu. Đi qua cửa bàng bà Phán Địch, Ninh thấy mẹ con Hoa đứng ở cửa. Bà Phán Địch mời Ninh vào chơi, nhưng chàng xin lỗi và tiếp tục cuộc đi dạo. Nắng đã lên, gay gắy hơn.
Mặt sông ngời ngời như nắng đốt lửa ở đó, và lửa làm bốc lên một thứ hơi chập chờn choáng váng. Những con thuyền, mui phủ kín bưng nằm im lìm. Những cây cầu được nhấc lên. Giờ dỡ hàng đã chấm dứt. Đám phu cởi trần ngồi từng tốp trên những trụ đá, trong những quán hàng xếp hàng theo dọc bến, đang chia tiền công. Họ nói lớn tiếng như cãi nhau, và không một ai ngẩng đầu khi Ninh đi qua.
Trước mọi sinh hoạt hầu như tạm thời ngừng nghỉ, có một tốp phu còn xúm xít chung quanh một cái cân bàn, khiến Ninh ngạc nhiên tiến lại. Ngồi sau cái cân là một thiếu nữ. Y phục của thiếu nữ cho Ninh biết ngay cô ta là người Trung Hoa. Áo ngắn, xẻ hai bên, tay ngắn, vải hoa, quần bó chẽn cùng một thứ vải hoa như áo. Thiếu nữ có một thân hình thật nở nang. Hai cánh tay để trần, tròn lẳn, rám nắng. Mắt to, sáng. Môi hồng và dày. Thiếu nữ vừa cân hàng vừa cười đùa rất tự nhiên với đám phu. Tiếng cười của nàng hồn nhiên. Cái miệng rộng. Mỗi khi thiếu nữ ngửa cổ cười lớn, cặp môi ướt lại để lộ một hàm răng đều và trắng óng ánh.
Một người phu giậm chân giục:
– Cân mau lên cô Sầu. Đói quá chừng rồi. Mà để đến chiều có được không cô Sầu?
Thiếu nữ lắc đầu, cương quyết:
– Không được. Phải cân hết trưa nay cho kịp giờ tầu về.
Ninh đứng sau đám phu, nhìn thiếu nữ làm việc dưới nắng. Một cuốn sổ nhỏ đặt trên đùi, một cái bút chì trên tay, thiếu nữ cân hàng, ghi sổ bằng những cử chỉ nhanh nhẹn thành thạo chưa từng thấy. Hàng đặt xuống cân, thoăn thoắt, hết bao này đến bao khác. Những đám plu làm vội, thật nhanh tay, mà thiếu nữ cân hàng còn nhanh tay hơn. Cảnh tượng này có một vẻ đẹp riêng, khiến Ninh còn muốn đứng lại ngắm nhìn thêm nữa. Một lát như thế. Rồi thiếu nữ Trung Hoa chợt ngừng tay ghi sổ. Nàng đã phát giác sự có mặt của chàng trẻ tuổi. Thiếu nữ ngước mắt nhìn, nàng hơi cau mày lại. Nụ cười tưởng như bất tuyệt trên cặp môi đỏ hồng, chợt biến đi trong khoảnh khắc. Ninh cúi đầu chào, chàng mỉm cười như xin lỗi về sự có mặt của mình.
Đột nhiên, thiếu nữ thay đổi ý kiến. Nàng gập sổ, khóa cân và bảo người cai phu:
– Để chiều cân tiếp.
Đám phu nhao nhao phản đối:
– Cô Sầu lạ thật. Lúc cân lúc lại thôi. Đồng bóng vừa vừa chứ nhé.
Sầu đã lấy lại được nụ cười:
– Đồng bóng đấy. Đã làm sao chưa?
Đám phu giải tán. Họ kéo nhau băng qua mặt bến phơi dãi dưới nắng, đến ăn ở hàng hiên rộng bên kia đường. Sầu đứng lên, đánh rớt cuốn sổ tay xuống đất. Ninh cúi xuống nhặt. Thiếu nữ cười; nét mặt nàng đỏ bừng, trông thật khả ái. Nàng nói nhỏ “ cám ơn”. Và lững thững đi, mắt nhìn thẳng nhưng nụ cười vẫn nguyên vẹn trên môi. Ninh đi bên cạnh, bắt chuyện:
– Ngày nào cô Sầu cũng cân hàng ở đây?
– Trừ những ngày mưa. Ông về đây buôn bán với chúng tôi?
Ninh ngạc nhiên:
– Đúng như thế. Sao cô biết?
– Đám phu họ nói. Cái gì xẩy ra ở bến tầu này đám phu họ cũng nói chuyện với nhau ngay.
Sầu cười thành tiếng, giòn giã:
– Và họ nói gì tôi cũng biết ngay. Tôi còn nhìn thấy nữa. Lúc bà Trang mở cửa hàng cho ông vào. Ông ở nhà cụ Quảng Hưng phải không. Ông về đây buôn bán, đừng có cạnh tranh với nhà tôi đấy nhé.
Sự thân mật mau chóng và không ngờ. Ninh nói đùa:
– Cạnh tranh làm sao được. Cạnh tranh chắc thua quá. Tôi mới về, cái gì cũng bỡ ngỡ. Chỉ lo những người địa phương tinh khôn như cô Sầu bắt nạt.
Sầu chúm chím:
– Ai bắt nạt được ông.
Giọng nói của Sầu lơ lớ, trầm bổng, có nhạc, nghe rất lạ tai. Người thiếu nữ Trung Hoa tự nhiên trong vẻ đằm thắm riêng biệt của nàng, vẻ riêng biệt ấy hơi ngây ngô khờ dại, nhưng ngộ nghĩnh và rất đáng yêu. Thiếu nữ có một dáng đi mạnh dạn, tràn đầy sinh lực. Cái áo ngắn bó chẽn ở phần dưới, làm nổi hình những đường cong. Phía trước, vải áo căng thẳng, là sự giam giữ chật vật một bộ ngực dậy thì nhọn hoắt. Bộ ngực phập phồng lên xuống theo hơi thở.
Thiến nữ thở ra sự hồng hào, toát ra vẻ thanh xuân. Ở Sầu là nét đẹp nấu chín ngoài thiên nhiên, trong gió nắng, gợi nghĩ đến những bãi biển mùa hè, gió bay lồng lộng trên nuớc xanh, đó là cái đẹp của tiếng cười giòn giã thả giọt trong những khoảng mênh mông sáng láng rười rượi ánh sáng. Của những cánh buồm đập tiếng đập lồng lộng dưới trời vàng. Của những dấu chân nhảy nhót trên đồng cỏ, của môi hồng và của da nâu, một thân thể đương hoa phơi phới như một khoảng vườn xuân muôn hoa cùng nở. Ninh nhìn Sầu, nghĩ đến một vẻ đẹp khác. Vẻ đẹp đài các, kiêu hãnh. Tưởng như lạnh lùng nhưng không thiếu những nét khêu gợi riêng. Vẻ đẹp thiếu phụ của Trang.
Sầu là đẹp của ngày. Phơi bày và lộ liễu. Đẹp của mặt trời chói chang rực rỡ, nó phô bầy hết không che giấu, nó phơi mở hết không bắt người nhìn phải kiếm tìm thêm bằng những khám phá riêng. Đó là cái đẹp của Thúy Vân. Tròn, đầy, mạnh khỏe, rất vui và rất tươi, rất nhiều những cái mời chào, nhưng thiếu vắng những điều huyền hoặc. Đẹp của ngày như một con đường thẳng suốt, nhìn đầu đường gần thấy luôn được cuối đường xa. Nó nổi hết lên bề mặt. Nó nói hết trong một lần, ta nhận được đầy tay, nhận được hết từ một lần thứ nhất.
Trang trái lại, Trang là đẹp của đêm. Của một vòm trời sao đêm thăm thẳm. Thứ đẹp cao vút, không đáy, gây mơ mộng, và gây tưởng tượng. Đẹp của những con đường thấp thoáng bóng lá, không lộng lẫy nhưng huyền ảo, không thực tế mà bao phủ trong một không khí hoang đường. Đẹp cho người mơ màng. Chính cái đẹp là một mơ màng đẹp. Cái đẹp xui người ta nghĩ tới một cái gì không tới được, một cái gì chẳng thành hình thành nét như khói loãng như sương lan, cái đẹp không phân tích nhưng cảm thấy nó rõ ràng hơn mọi cái gì có thể thấy bằng phân tích.
Sầu ung dung đi bên Ninh, không một chút e dè ngượng ngập. Lúc Ninh trở lại cửa hàng, thiếu nữ Trung Hoa cũng vào theo. Sầu đi đi lại lại, nhìn ngắm bằng cặp mắt tò mò. Nàng gọi Ninh bằng “ anh”, ngon lành:
– Anh Ninh à!
– Gì đó?
– Ở đây không có được đâu?
– Tại sao không được?
– Tôi biết không được mà. Buồn chết.
Ninh gật gù, trêu nghịch:
– Tôi ở được.
Sầu vênh mặt:
– Chắc không?
– Chắc.
– Cuộc gì nào?
Ninh bật cười:
– Cô Sầu muốn đánh cuộc gì?
– Cuộc cái này. Nhưng chỉ sợ anh không chịu.
Ninh không sợ đánh cuộc. Nhưng chàng im vì chợt nhận thấy câu chuyện hồn nhiên sắp nghiêng vào một địa hạt nguy hiểm, không lường trước. Chàng nói, nghiêm trang:
– Đó rồi cô Sầu coi. Tôi không thích buồn. Nhưng tỉnh nhỏ này không buồn đâu. Hay chỉ buồn ở cái bề ngoài không đáng kể. Tôi về đây cũng không tìm cái buồn, tìm cái vui. Tôi về đây để làm giầu.
Sầu cười phá:
– Để làm giầu? Ở đây có gì đâu để anh làm giầu. Thôi tôi về. Về cho anh nghĩ đến chuyện làm giầu.
Sầu nhanh nhẹn đi ra. Nhìn từ phía sau lưng, cô gái Trung Hoa có một đáng đi uyển chuyển và trườn lăn của loài rắn. Sầu để lại trong không khí một mùi thơm của da thịt tươi, da thịt đó là một trái chín tròn đầy trong nắng. Một trái chín đợi chờ tay hái, rung rinh và mời mọc ở một đầu cành.
Nhìn theo Sầu, Ninh lắc đầu, mỉm cười và ngồi xuống ghế. Những khuôn mặt mới của tỉnh nhỏ, những khuôn mặt mới mà chàng vừa gặp, mang riêng từng hình ảnh của tâm tính, bản chất, lứa tuổi khác biệt nhau. Như ở bất cứ nơi nào. Tỉnh nhỏ này hay tỉnh nhỏ khác. Thành phố này hay thành phố kia. Người ta sống, mỗi người một lối. Và bởi vậy mà ở đâu cũng có những ngạc nhiên và những bất ngờ.
Duỗi dài chân dưới gầm bàn, Ninh vừa hút thuốc, vừa nhìn ra ngoài đường. Nắng đã thịnh. Buổi sáng đã muộn. Nhưng thành phố ở yên trong sự thư thái cố hữu. Một vài chiếc xe hơi chạy qua. Còi xe vang vang, lắng thấy thật lâu chưa mất.
Liền đó từ gian hàng bên cạnh, Hoa sang. Cô gái vẫn cầm trên tay một cuốn tiểu thuyết. Ăn mặc thật chải chuốt. Son và phấn lộ liễu. Hoa mặc một chiếc áo dài lòe loẹt, có những bông hoa lớn, đỏ chói.
Hoa bước vào, hơi cười cười, không chào, ném cho Ninh cái nhìn dò xét:
– Anh đang làm gì thế.
Sự có mặt của Hoa làm Ninh khó chịu. Chàng đang muốn được ngồi một mình, nghĩ ngợi vẩn vơ. Cau mặt, giọng Ninh lạnh lùng:
– Tôi không đang làm gì hết.
– Sầu vừa ở đây mà.
– Vừa ở đây. Nhưng không còn ở đây nữa.
– Nó là bạn tôi đó.
Giọng Hoa giễu cợt, lờ lững:
– Bạn thân lắm.
Hoa đi vòng lại phía sau lưng Ninh. Ninh vẫn ngồi yên, không quay lại. Tiếng Hoa, phía sau, nói chuyện về Sầu:
– Nó ghê lắm, mới bỏ nhà đi với trai đấy. Những một tuần lễ. Đi theo con ông chủ tầu Nam Kinh. Ồn lên. Cả tỉnh này ai cũng biết. Nó đi một tuần lễ rồi nó về, xem chừng cái thằng con trai ông chủ tàu Nam Kinh bỏ rơi nó sao đó. Nó bỏ nhà đi hoài à. Lúc nào chán lại mò về, Bố nó dữ đòn có tiếng, Trói vào hai chân giường mà đánh. Đánh bằng gậy lớn. Trói hai ngày liền. Mỗi ngày đánh đủ ba trận. Anh có nghe tôi nói chuyện không?
Ninh lạnh lùng:
– Vẫn.
Hoa cười, rất vô duyên:
– Thế mà tôi lại tưởng anh chẳng thèm nghe. Đánh mỗi ngày đủ ba trận. Trận nào cũng tan xương nát thịt. Nghĩ mà rùng mình. Chưa hết đâu, ông bố ông ấy đánh, còn dọa gọt trọc đầu, bắt trần truồng đuổi ra ngoài đường nữa: Cho ăn cơm, nhưng đổ cơm xuống đất, đói thì quỳ xuống, gục mặt xuống, ăn như chó ăn vậy. Thể mà Sầu nó cũng không có sợ đâu nhé. Mấy hôm sau ra bến cân hàng lại cười toe toét như không.
Không muốn nghe Hoa nói xấu Sầu hơn nữa, Ninh đứng lên:
– Cô Hoa không về bán hàng sao?
Hoa cười ngặt nghẽo:
– Anh định đuổi khéo tôi.
– Gần như thế. Tôi đóng cửa hàng đây.
– Anh về nhà?
– Chưa. Tôi đi đằng này.
Hoa chưa chịu thôi:
– Đi đâu?
– Đến một chỗ đàn bà không đến được.
Hoa bỏ đi rồi, Ninh cảm thấy cái hứng thú được ngồi trầm ngâm một mình đã tan biến. Chàng đi ra, khóa cửa lại. Buổi sáng kéo dài, chậm chạp và thừa thãi. Không khí lặng lờ và thời gian lê thê của châu thành bé nhỏ khiến Ninh liên tưởng tới Huế mà chàng đã có dịp viếng thăm một lần cách đây đã nhiều năm. Bấy giờ chàng vừa thi đậu, được cha mẹ thưởng bằng một chuyến du lịch thăm đền đài và lăng tẩm cố đô cũ. Vòm trời của sông Hương và của núi Ngự; của lăng tẩm và của những dẫy cổ thành trầm tư để lại trong trí nhớ Ninh hình ảnh một nghỉ ngơi buồn bã, lâu dài và vĩnh viễn. Đến Huế người ta bàng hoàng trước sư lặng lờ bất động của Huế. Đời sống lắng xuống. Hiện tại lảng xa cho quá khứ làm chủ.
Ninh còn nhớ mãi cái cảm giác đó; khi chàng đi từng bước trầm ngâm giữa vùng trang nghiêm thành tượng của lăng Tự Đức. Lần đầu tiên trong đời, mặc dầu năm đó, Ninh mới hai mươi tuổi, sức sống còn chan hòa, nhiệt tình còn lửa đỏ, Ninh chợt nghĩ đến cái chết. Ý nghĩ về cái chết làm hiện rõ cái ý nghĩa cuối cùng của một đời người. Mày đang sống, nhưng rồi mày phải chết. Mày còn trẻ nhưng rồi mày sẽ già. Mày còn đây hôm nay, nhưng ngày mai, mày tươi khỏe một đời, mày hồng hào một kiếp, mày cũng chỉ còn là hư vô và cát bụi. Chân lý đơn giản về cái mong manh hữu hạn của kiếp người; phải chờ đến một buổi trưa đìu hiu đi dạo một mình trong lăng Tự Đức, Ninh mới khám phá thấy. Một khám phá làm Ninh ngây ngất.
Nhớ ngày hôm đó, Ninh đã ở lại trong cái chu vi tĩnh mịch rêu phong của lăng Tự Đức rất lâu. Lòng lắng xuống. Trí bâng khuâng và hồn mơ màng. Buổi trưa trong lăng Tự Đức phảng phất bầu không khí nhẹ thênh của một cảm thông thoát tục. Những ý nghĩa khác về những vấn đề lớn lao hằng cửu của một đời người hiện ra. Hiện ra nhất loạt và đồng thời sáng tỏ. Sự sống. Cái chết. Cái hữu hạn và cái vô cùng.
Buổi chiều, đi chơi thuyền với một người bạn gái Huế vừa quen trên dòng sông Hương, Ninh nhớ chàng đã nói với cô bạn gái có mái tóc thề lướt thướt như một dòng suối là chàng yêu Huế, chính là ở chỗ xa vắng mọi dấu tích ồn ào bề mặt về đời sống thường nhật của Huế. Chàng cũng nhớ chàng đã nói đến sự mầu nhiệm của một ý nghĩ. Cô bạn Huế còn trẻ quá, nàng không hiểu được. Nàng chỉ cười. Nàng sung sướng vì chàng trẻ tuổi mới viếng thăm Huế lần đầu đã tỏ ra mến yêu thành thật thành phố thâm trầm và cổ kính là nơi nàng đã sống, đã lớn lên và muốn bỏ đi. Thuyền trôi lững lờ, dòng chảy dịu đàng. Ngự Bình xa xa cắt một nét buồn bã lên nền trời âm u. Thuyền trôi qua Linh Mụ. Chiều xuống. Sương lan đi trên mặt nước. Chiều mênh mông và sâu thẳm trong trời. Đó là một trong những buổi chiều đối với Ninh đáng ghi nhớ nhất. Và Ninh đã nhớ. Nhớ mãi không quên. Khuôn mặt dịu dàng và thanh xuân cửa người bạn gái in lên một nền chảy lặng lờ của con sông tưởng như không bao giờ gợn sóng. Cái đẹp của Huế, nhẹ, đã mất. Thoáng như khói sương, mang mang như một niềm ngờ vực.
Chuyến đi đó là một kỷ niệm. Ninh chỉ tiếc là nó quá ngắn. Chàng không đủ thời gian để đắm mình thêm nữa vào cái mà chàng muốn gọi là cái vùng hư không vô bờ và không màu sắc không tiếng vang của Huế. Hôm chàng trở về, cô bạn gái tiễn Ninh ra ga. Mưa phùn nhỏ hạt. Cô bạn nói:
– Bao giờ cũng vậy. Huế như thế.
Ninh không hiểu và cô bạn giải chích:
– Anh không thấy Huế đang mưa?
– Nghĩa là bao giờ Huế cũng mưa?
– Huế có những sáng nắng, những chiều mưa, không phải là lúc nào Huế cũng lướt thướt. Nhưng hình như Huế mưa, Huế phải mưa trong bất cứ một cuộc tiễn đưa, giữa bất cứ một phút chia ly nào.
Sân ga ướt loáng. Con tàu đội mưa, thở khói, chờ phút khởi hành. Chung quanh Ninh là những hình bóng áo tơi và những mái đầu nón lá. Cô bạn chỉ tay nói:
– Đó. Tiễn anh đi, và Huế đang mưa.
Tiếng người bạn gái đang vui, thốt nhiên trầm xuống, buồn lạ lùng:
– Huế khóc. Bao giờ Huế cũng khóc người đi.
Nhớ khi còi đã hú, con tầu rời sân ga, bánh sắt đã lăn mau trên đường sắt, mà ninh còn nhìn Huế một lần cuối cùng trong một cái nhìn dài. Mỗi thành phố có một đời sống, một định mệnh, một linh hồn riêng. Huế cũng vậy. Ra khỏi Huế và Huế đã mất. Như một vùng trời lùi xa. Một thế giới khép kín.
Sau đó, bao nhiêu lần Ninh đã tự hẹn với chàng là sẽ trở lại thăm viếng Huế như gặp lại một cố nhân. Để trầm tư với dòng sông Hương. Để đặt lại những bước chân trên con đường xưa vào lăng Tự Đức. Nhưng Ninh chưa được trở lại như chàng mong. Cuộc sống đẩy người ta đến những phương trời và những thành phố khác.
Những hình ảnh xưa cũ của một thành phố cỏ mọc từ một cuộc viếng thăm niên thiếu năm nào; trở lại trong hồi tưởng Ninh như một niềm ngậm ngùi dịu nhẹ. Tôi yêu những cái phảng phất. Tôi thích những cái mơ hồ. Những vang bóng bao giờ cũng làm tôi xúc động, những cái đã qua rồi, với tôi bao giờ cũng còn mãi cái đẹp mơ màng và buồn bã của những tàn hương.
Nhiều lần, giữa những buổi chiều mà nắng vàng bỗng vương màu thương nhớ, mái tóc thề trôi dài như một dòng suối của người con gái Huế gặp chỉ một lần lại chảy tới, lại trôi vào hồi tưởng Ninh. Như một dòng thơm. Như một ảo giác. Nhiều năm tháng qua đi trong cuộc đời chàng, trí nhớ như một tấm gương trong suốt nay đã mờ đần. Ninh không còn nhớ rõ được nét mặt của người thiếu nữ Huế mà chàng biết là thanh thoát như một nhành lan núi. Có gặp lại, không chừng Ninh chẳng nhận được ra. Quá khứ xa thẳm trở thành một khoảng thời gian xa lạ. Trắng toát. Không màu sắc. Quá khứ đó đã hoàn toàn thuộc về quá khứ. Với bây giờ, quá khứ đó ở bên kia những đại dương và những chân trời. Nhưng một vài mẩu một vài đoạn của cái hiện tượng mịt mùng thăm thẳm ấy còn vương sâu trong tiềm thức. Một nửa khuôn mặt. Một phần mái tóc. Một góc nụ cười. Một đầu ngón tay. Những hình ảnh không toàn vẹn đó lặn lặn chìm chìm, ẩn ẩn hiện hiện, lúc thoáng hiện như chiêm bao, thoát sau đã mất tăm, đã nhạt nhoà dấu tích. Ninh thường nghĩ, chàng thường muốn nghĩ như vậy, không hiểu tại sao, có lẽ tại vì nó buồn và nó mộng, là người thiếu nữ sông Hương xưa đã lấy chồng. Từ lâu. Và từ lâu đã quên chàng. Quên. Hẳn thế.
Chính chàng với Huế cũng chỉ còn là một ảnh hình quá khứ. Nàng đã sang sông. Lên xe hoa. Về nhà chồng. Người thiếu nữ tiễn chàng đi trên sân ga của Huế mưa bay đã chết. Cuộc đời giết chết, làm đứt đoạn và bắt phải trôi qua, bắt thành quá khứ nhiều cái đẹp lắm. Những cái đẹp, đẹp nhất của một đời người. Một tuổi vàng lộng lẫy. Một niên thiếu bông hoa. Một mối tình đầu. Một mùa xuân cũ. Ý nghĩa của quá khứ này sinh từ những cái nghìn vàng đã mất. Quá khứ là nhớ thương. Quá khứ nõn nà buồn. Quá khứ là chớp chớp hàng mi tơ liễu, rưng rưng khóe mắt, nghiêng nghiêng mái đầu, quá khứ là cái đã qua rồi trở thành mộng tưởng.
Phải, trăm ngàn người thiếu nữ, như Hoa, như Sầu, chân mười chín chưa đi trên màu hồng pháo cưới nhưng người thiếu nữ Huế năm xưa, nàng đã xuống thuyền sang với nhữag bờ bãi bên kia, từ lâu. Rất lâu. Lâu lắm. Ngay năm đó.
Ngay năm Ninh gặp nàng. Ngay sau trận mưa phùn thả giọt trên sân ga và trên chuyến tàu tiễn biệt. Và Ninh tưởng tượng. Thế nầy: nhà nàng xinh nhỏ, có nhiều bóng cây, có nhiều bóng mát, căn nhà nghiêng bóng xuống dòng sông Hương, sông Hương như nỗi yên tâm êm ái nhất của tâm hồn. Căn nhà có vườn vây quanh. Buổi sáng chim hót. Buổi chiều nắng tàn. Đêm nghe thấy vọng vào tiếng nước rì rào trên bãi. Vùng trời quê hương êm ả ấy là cái thế giới của nàng, mãi mãi. Không xao xuyến. Không đổi thay. Vẫn những đám mây ấy. Vẫn nền trời xanh kia. Vẫn những con đường cỏ mọc, dẫy núi tím về chiều, gió thổi đưa triều lên, Hương Giang nghìn xưa, Ngự Bình quen thuộc. Đời người đàn bà đã có chồng là một mặt hồ khuất lánh trong nội địa. Nó buồn bã êm ả như không. Nó không còn ngạc nhiên. Nó đã hết bàng hoàng. Nó đã thôi xao động. Nàng sống sau một bức mành trúc, trong lãng quên, nàng sống trong cái thế giới vĩnh viễn của nàng là hình ảnh một lưu đày êm ái. Nàng quên hết rồi. Ngày lại ngày qua. Huy hoàng cũ và lộng lẫy xưa chỉ còn là những kỷ niệm gói kín như những đồ vật bỏ quên lâu ngày. Bụi phủ xuống. Nắng tàn đi. Mưa phùn rồi mưa phùn. Từng mùa qua từng mùa qua. Đôi khi nàng ra đứng trên bờ sông, ngó xuống mặt nước, thấy mây trời bay, nàng mơ hồ nghĩ rằng có một khuôn mặt nào đó, rất xưa, nàng gợi lại mà không thành hình nét.
Chương ba
Sầu đứng lại một giây nhìn đứa bé con trần truồng đang đùa nghịch với dòng nước tung tóe xuống từ cái máy nước công cộng đầu ngõ. Khoảng hè đường ở đây trũng vẹt vì sức nước xoi mòn. Trên cái vòi nước chảy tràn là những mái hiên. Con phố nhỏ phơi bày mọi vẻ tiều tụy lộ liễu không che giấu. Những bức tường loang lở. Những cánh cửa ám khói. Những bên trong thấp chật, tối đen, đoán thấy được sự ngột ngạt choáng váng nung nấu nhễ nhại. Đoán thấy ở những bên trong bình dân và lao động ấy mùi mồ hôi, mùi quần áo bẩn, tiếng muỗi ngày vo ve ở những xó góc nhầy nhụa..
– Đi về! – Sầu quát lớn với đứa nhỏ.
Nó là em, một trong những đứa em nhỏ của Sầu. Thằng nhỏ vênh mặt, tiếp tục đùa với dòng nước, coi lời Sầu như không. Sầu lắc đầu, đặt chân vào ngõ. Phố chạy qua bên ngoài đã tiều tụy, cái ngõ cụt khuất khúc còn tiều tụy gấp mười lần. Những căn nhà nhô ra thụt vào. Mái xiêu. Tường cũ.
Căn nhà nào cũng như cái ổ chuột. Quần áo, tã lót, những đống bao vải cũ rách phơi đầy trên lối đi. Cách từng quãng, là từng đống rác lớn. Khói bếp xanh đặc bay ra, trùm lấp. Sầu bưng miệng ho sặc sụa, nước mắt chảy lồng ngực tức thở. Thiếu nữ đi sâu vào đáy con ngõ nhỏ bị vít kín bởi một vì tường cao ngất. Nàng đứng lại trước một trong những căn nhà ổ chuột. Căn nhà cuối cùng.
- Sầu đã về đó à mày?
Người đàn bà đẫy đà, nét mặt hung ác dữ dằn ngồi trên cái ghế thấp, như một đống thịt nhăn nhúm chảy xệ không hình thù, cất tiếng the thé hỏi Sầu.
Sầu đáp:
– Chưa cân xong đâu má.
Lách mình qua cánh cửa hẹp lòng, Sâu đi qua mặt mẹ vào phía trong. Mùi thuốc phiện từ một phía trong cùng tối thẳm chưa nhìn thấy thoảng tới. Cha đang dỡ bữa hút, Sầu nghĩ thầm. Hút gì mà hút lắm thế. Hút cả đêm cả ngày. Hút hết tiền hết bạc. Hút đến khánh kiệt đến điêu đứng. Sầu nghe thấy nàng thở dài. Không hiểu vì buồn hay vì mệt.
Tiếng mẹ, the thé sau lưng:
– Sao chưa xong?
Sầu đáp hỗn xược.
– Chưa xong là chưa xoag. Chiều cân tiếp....
– Con này nói hay nhỉ. Ngộ nhỡ mưa xuống thì làm sao bây giờ?
Sầu lại gần một tấm gương nhỏ treo trên tường. Nhìn vào, thấy mình. Một khuôn mặt đỏ hồng, nhễ nhại mồ hôi, với những sợi tóc dính bết vào hai bên thái dương hầm hập như ở đó có một hơi nóng đang ngùn ngụt bốc lửa. Đôi mắt long lanh sáng quắc. Nhìn mình lúc này trong gương, Sầu chợt nhớ đến cái tuần lễ trốn theo gã con trai. Y đi theo tầu của cha y. Sầu xuống tầu theo y, điên cuồng và liều lĩnh. Không tính toán. Những đêm trên mặt sông. Tầu trườn trong đêm vô bờ. Tiếng sóng chảy rì rào quanh mạn. Còi hú vang, dồn dập thật xa vào những bờ bến vắng. Và trong một căn phòng kín ở đầu mũi tầu, là thân thể Sầu, da thịt Sầu, cảm giác Sầu tan nát bốc lửa.
Một tuần lễ như thế. Bảy đêm như thế. Bảy đêm tầu đi tầu về trên dòng sông mênh mông. Rồi là cực hình.
Mẹ réo chửi cả làng phố nghe thấy. Những câu chửi rủa tục tằn, ghê rợn. Cha bỏ dở bữa hút, chồm tới, nắm lấy tóc Sầu quật Sầu ngã xuống.. Cha hàng ngày ốm yếu như một bóng hình hấp hối, một ngọn đèn dầu đã lu, sắp tắt. Vậy mà cơn giận dữ khủng khiếp đã làm cha hung hãn lạ thường.
Trận mưa đòn ấy lưu dấu trên thân thể Sầu những vết thâm tím rướm máu, và trong tâm trí Sầu niềm mê hoảng ấy của một ác mộng. Bị đánh xong Sầu ngất đi. Khi Sầu tỉnh dậy, thấy mình bị trói như một con chó ở chân giường. Cha sai đổ cơm xuống đất. Thật nhục nhã thà chết còn hơn. Nhưng Sầu vục đầu xuống ăn, nhai nuốt ngấu nghiến.
Tiếng mẹ, không buông tha:
– Sầu. Tao bỏi, mày câm hả.
– Thì con bảo là cân chưa xong mà. Chiều...
– Chiều không xong thì sao.
– Mai.
– Tầu của nhà mày hả? Hàng của nhà mày hả? Thế này thì chết đói đến nơi rồi. Muốn sống muốn tốt...
– Làm ồn. Làm ồn. Chúng mày muốn chết cả sao?
Tiếng nói khàn khàn, yếu ớt, nhưng đầy quyền uy bất khả kháng của một chúa tể từ phía đáy sâu của căn nhà hẹp lòng ném ra, khiến người đàn bà im bặt. Thím Lềnh ngước quay lại nhìn và thấy ông chồng Tầu nghiện hút của thím từ trên giường bước xuống và lết bước đi ra. Chú Lềnh là một người Tầu, có thể chưa già lắm, nhưng tật nguyền đã biến thành một thứ người không có tuổi. Đầu y hói, nhẵn bóng, không một sợi tóc. Cái trán cao, nối liền với cái nhọn hoắt của đỉnh đầu, cũng bóng loáng. Nhưng đó là sự bóng loáng độc nhất của một khuôn mặt mà tất cả đều sỉn lại thành một màu tro. Người đàn ông đã sống gần hết một cuộc đời nằm bên bàn đèn, có một vẻ gì thật kỳ dị khác với người thường. Da mặt y nhăn nhúm như một trái táo úa héo chín nẫu. Gò má nhô cao. Cái cằm cũng nhọn hoắt như đỉnh đầu búp lại, lưa thưa một vài sợi râu bạc. Cổ chú Lềnh dài như cổ cò. Thân thể chú là một tập thể của những khúc xương chồng, nối vào nhau bao bọc bởi một lớp da buộc chặt và dán chặt lấy, không có thịt ở giữa. Bữa hút ý chừng bị gián đoạn. Nét mặt người Tầu già đầy vẻ cáu giận độc ác. Chú Lềnh cởi trần. Cái quần màu cháo lòng, xốc xếch, ống thấp, ống cao. Một cái khăn mặt cáu bẩn đoán thấy tất cả sự hôi hám lưu cữu lâu ngày vắt toòng teng trên một bờ vai.
Chú Lềnh bước thêm mấy bước nữa ra tới chỗ có ánh sáng từ ngoài cửa hắt vào. Đó là thứ ánh sáng yếu ớt nhất, gần như bóng tối. Nhưng thứ ánh sáng yếu ớt này cũng thừa đủ chói chang đối với một người chỉ biết độc một thứ ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn đầu lạc như chú Lềnh. Cái ánh sáng ban ngày làm chú Lềnh hấp háy cặp mắt. Chú đứng đó, như một con chuột vừa từ dưới lòng đất chui lên. Như một bóng ma vừa từ địa ngục đi tới. Cái bóng ma đó chỉ sống được với giường chiếu và bóng tối. Kẻ thù của nó là ánh sáng. Là nắng ngoài đường, trời xanh trên những mái nhà, gió múa trong những lùm cây. Chú Lềnh thù ghét ánh sáng từ hơn hai mươi năm nay, kể từ ngày chú chọn á phiện làm tình nhân và trở thành nô lệ một đời cho nó.
Người của tỉnh nhỏ làm ăn buôn bán cần cù này còn nhớ mãi, nói mãi, ở những cửa tiệm, sau những bàn cân, bàn tính, ngoài bến tầu về cái thời vinh quang hiển lộng của chú Lềnh từ đâu tới đây, không hay, nhưng đã tay trắng làm nên sự nghiệp. Chú bắt đầu như một mại bản. Làm thuê cho một người Tầu khác.
Khấm khá đần, có chút dấn vốn, chú Lềnh bỏ chủ ra mở một tiệm buôn riêng. Thời gian làm cho chủ, nhờ thông minh và chịu khó, chú đã nắm được mọi bí quyết và xảo thuật của mãi dịch. Làm thế nào cho hàng đang thừa thải bỗng trở thành khan hiếm. Giá đang như bèo giá đắt như vàng. Hàng đang phải lạy người mua cho chiều nay, sáng mai đã có kẻ đến lạy mình bán cho một ít. Những cái mánh khóe của gian thương và đầu cơ tích trữ đó, chú Lềnh nắm được hết. Chú lại có một đức tính. Là liều. Dám được ăn cả ngã về không. Một là trắng tay hai là phất lớn.
Người đã có chí, trời còn đến giúp một tay bằng sự may mắn nữa. Trong một năm, chú Lềnh trúng luôn mấy vụ buôn lớn. Mua một bán hai; mua thì là đất, bán ra là vàng. Chỉ cuối năm, tiền lời đã đủ cho chú Lềnh mua liền được ba cửa tiệm. Chú trở thành một chúa tể ngoài khu bến tầu. Hàng nào đi?Hàng nào về? Còn hỏi làm gì nữa. Của chú Lềnh hết. Chính là trong khoảng thời gian lẫy lừng này của chú Lềnh mà người Tầu doanh thương đã vương phải một hệ lụy tình cảm, mà mãi sau này, mới biết là một thảm bọa. Chú mê một người đàn bà sau này là thím Lềnh đó. Cũng chẳng thể gọi là mê. Một đêm theo hàng đi tầu. Trời lạnh. Lòng trống trải. Con tầu dập đình, tiếng sóng vỗ, ngủ không được. Lại có một người đàn bà nằm ngay bên cạnh. Da thịt nó ấm nóng. Thân thể nó đẫy đà, chan chứa dục tình. Lại không rõ là nó có ngủ mê hay không, mà nó cứ quay sang, quặp chặt lấy, dán cái bộ ngực phập phồng nhọn hoắt của nó vào mình. Nhột nhạt, kích thích quá thể, quá chừng, chịu không được nữa. Thế là chú Lềnh làm tình với người đàn bà Việt cái đêm hôm đó, cái đêm của một con tầu xuôi trên sông.
Sáng sớm sau, tỉnh dậy, con cá đã cắn câu. Cũng chẳng làm sao hết. Chú Lềnh từng đã sống cuộc đời tứ chiếng, lấy một ả giang hồ làm vợ cũng là chuyện thường. Duy bất hạnh là ở điểm này: người đàn bà khi đã trở thành vợ của chú Lềnh rồi vẫn không bỏ được một đam mê xưa cũ. Đó là cái đam mê đỏ đen, cái thú đánh bạc. Giết chết cũng thế thôi, thím Lềnh không làm sao đoạn tuyệt được với những con bài.
Cái hiện tượng phá của bắt đầu. Chú Lềnh kiếm được một, thím Lềnh phá đến mười. Khuyên nhủ, lạy van, làm dữ đến mấy cũng là cái chuyện nước đổ đầu vịt. Sáng sáng, chú Lềnh ra cửa hàng, thì thím Lềnh cũng mặc quần áo đến những cửa hàng của thần tài. Sóc đĩa, sì phé, chắn cạ, thím Lềnh chơi không thiếu một món nào. Đánh lớn, đánh nhỏ, thím đều có mặt. Thế rồi là cái chuyện chồng ăn chả vợ ăn nem, mày ham mê cờ bạc, bộ tao đầu tắt mặt tối cho mày đốt tiền của tao mãi sao? Chú Lềnh bắt đầu kết giao với đám người chơi bời trong tỉnh. Như thím Lềnh chơi đủ các loại cờ bạc, chú Lềnh cũng đắm mình vào đủ mọi thú vui.
Sau thời gian miệt mài, chú Lềnh tỉnh lại để thấy mình không đám đuối mãi với một thói quen nào. Ngoại trừ một. Một thói quen tàn hại thể xác và tâm hồn ghê gớm nhất. Thuốc phiện. Người ta thường nói sư thăng trầm của một đời người như hình ảnh một hành trình leo núi. Ở trường hợp chú Lềnh, đúng không tả được. Lúc leo lên, muôn vàn cực nhọc. Từng bước rồi từng bước. Lúc đổ xuống từ đỉnh cao ngất rớt xuống vực thẳm không cùng, chỉ là khoảng khắc mà thôi. Bất hạnh đến liền không đứt. Cái bàn thờ ông Thần Tài vẫn le lói ánh nến ở một góc nhà. Nhưng ông Thần Tài đã bỏ chú Lềnh mà đi, thật xa, thật xa không bao giờ trở lại. Tiền không có cánh nhưng tiền bay mất. Nhà bán. Bán hết cái nọ đến cái kia. Những cửa tiệm sang đi để trả nợ.
Chú Lềnh trở thành một người đàn ông khác. Sau những biến cố dồn dập mà nhớ lại, như nhớ lại một cơn mê hoảng chập chờn, người đàn ông vật lộn với đời sống chỉ còn là một ông lão già. Một hình bóng. Một cái giẻ rách. Một cái thân xác chình ình cùng năm tháng lạnh lùng trôi qua. Một cái xác chết. Một con số không.
Từ ngoài đường lớn, chú Lềnh thu nhỏ sự thất thế của mình vào ngõ hẻm một căn nhà ổ chưột, rất nhiều hôi hám, rất nhiều bóng tối và một cái bàn đèn.
Thím Lềnh tỉnh ngộ, nhận thức được tất cả sự ngu dại của mình. Nhưng như bất cứ một thứ tỉnh ngộ muộn màng nào, sự đổ vỡ đã toàn diện đã tan tành thành trăm ngàn mảnh nhỏ, và vô phương cứu vãn. Xưa thím phá tan sản nghiệp của chồng. Giờ đến lượt thím phải làm lụng, phải đầu tắt mặt tối để nuôi chồng nuôi con.
Gánh thật nặng ghê gớm. Chồng đã nghiện hút, nhà lại con đàn con đống. Mình thím Lềnh không làm gì được. Thế là Sầu phải gánh đỡ cho mẹ một tay.
Ngày ngày, thím Lềnh đi tim mối hàng, còn Sầu phải ở ngoài bến. Hàag mua ra bán vào thường thường là của người. Thím Lềnh chỉ làm thuê. Cân hàng, nhận hàng, giao hàng đi cho thân chủ, lấy một khoản tiền nào đó. Cuộc sống cơ cực biến không khí gia đình nhà vợ chồng chú Lềnh thành một không khí nhà ma, một không khí địa ngục. Những cuộc cãi vã xẩy ra luôn. Vì những chuyện áo cơm. Vì những chuyện không đâu. Tiếng to, tiếng nhỏ cả ngày. Sáng. Trưa. Chiều. Đêm.
Chú Lềnh nằm bẹp dí trên giường, chỉ gắt mắng những khi bữa hút của chú bị gián đoạn. Như trưa nay.
– Nó ra bến nó về không đấy.
– Ai?
– Con Sầu chứ còn ai!
Chú Lềnh lạnh lùng gọi tên con gái:
– Sầu!
– Con đây.
– Mẹ mày nói đúng không?
Kinh nghiệm trận đòn nhớ đời khiến Sầu bất giác lùi xa ra mấy bước. Đứng gần, ông bố nổi giận thuận tay cho ăn đòn như chơi.
– Mày chạy đi đâu, con kia!
– Con đứng đây mà thầy.
– Mày trả lời mẹ mày, mày trả lời tao.
– Phu họ không chịu làm. Không phải tại con bỏ dở..
– Phu nào không chịu làm. Trả tiền súp là phu nó làm tất. Đêm cũng làm. Ngày cũng làm. Mưa cũng làm. Nắng cũng làm. Tao già nửa đời người lăn lộn ngoài bến, mày còn định bịp cả tao nữa sao? Lại có thằng khốn nạn nào rủ rê đi ngủ với nó, phải không đồ đĩ dại.
Sầu uất ức muốn chảy nước mắt. Hơi thở nghẹn ứ rơi xuống họng không ra thoát. Mặt Sầu tái đi. Nhưng thân thể bừng bừng. Chảy nước mắt, được khóc, khóc nức nở, khóc như mưa gió, nhẹ nhõm dễ chịu biết bao nhiêu. Nước mắt chảy ra sẽ làm chảy theo ra những đắng cay, tủi nhục chồng chất suốt bấy lâu, những đắng cay tủi nhục chồng chất lên cuộc đời thiếu nữ ôm ấp mộng tưởng và ước mơ hoa bướm của Sầu.
Uất muốn chết đi được. Mang tiếng đi theo trai một lần, rồi từ đó, cái gì cha mẹ cũng đổ cho đi theo trai. Nhưng Sầu đã thề không bao giờ khóc. Khóc chứ, nhưng dòng nước mắt cho một lúc nào được òa lên vì sung sướng, vì hạnh phúc, trên vai một người yêu. Chớ nhất quyết không khóc vì bị hành hạ, chửi mắng, đánh đập. Bố đổ cơm xuống đất, đói thì ăn như một con chó, tủi nhục ngần nào, Sầu còn chẳng khóc nữa là!
Nghĩ vậy, Sầu mím chặt môi lại, đứng im. Cử chỉ nhẫn nhục bị hiểu lầm như một thách thức hỗn xược.
-A! Con này giỏi.
Sầu chưa kip né tránh, một cái tát như trời giáng đã làm cho Sầu loạng choạng, tối tăm mặt mũi. Sầu gượng đứng lại liền.
– Sầu.
Sầu hất đầu cho mái tóc ném lại sau gáy, đứng im. Mắt nàng sáng quắc.
– Thằng nào?
Sầu chợt nghĩ đến chàng trẻ tuổi đứng nhìn nàng cân hàng. Đến đoạn đường ngắn ngủi Sầu đi với chàng ở ngoài bến.
Lũ trẻ nhỏ, mặt tái xanh, đứng ở góc nhà, ngó nhìn bằng những cặp mắt run sợ. Sầu vuốt lại tóc, đi ra phía cửa. Cái tát như trời giáng còn làm cho gò má nàng bỏng rát. Thím Lềnh thấy chồng đánh con như đánh kẻ thù, bắt đầu cảm thấy hối hận đã gây chuyện ồn ào. Thím dịu giọng:
– Mày đi đâu?
– Ra bến.
– Làm gì?
– Cân hàng.
– Thôi, ở nhà nghỉ trưa đi. Nắng chết người thế này. Để chiều cũng được.
Sầu ném cho mẹ một cái nhìn đầy oán trách khiến thím Lềnh phải quay nhìn chỗ khác. Thiếu nữ đi thẳng ra ngoài. Nắng chói chang chụp lấy Sầu vào vùng chín nẫu ngột ngạt. Sầu như mê đi. Trong đầu óc rã rời, những ý nghĩ bàng hoàng không chủ định. Mắt nhìn hoang mang. Trong không khi bốc hơi, có những bóng quái dị chập chờn nhảy múa. Sầu bước đều đều trên hè đường, cũng không biết nàng đi đâu. Ra khỏi nhà để làm gì. Nhưng rồi theo một thói quen, nàng vẫn đi về hướng bến tầu. “Mù à? ”. Một tiếng quát dữ làm Sầu giật mình. Nàng vừa xô phải một bà lão già ngã chúi đầu vào cột đèn. Sầu chịu đựng câu chửi thề tục tỉu, cắm đầu rảo bước sang hè đường bên kia. Thốt nhiên, Sầu thấy thù ghét thành phố nầy. Hết thẩy. Cảnh và người. Gia đình nàng và những kẻ khác, những hàng cây, những cột điện, những khung cửa sổ, những bức tường nầy, những mái nhà, những tấm biển, những khuôn mặt, những bóng người từng đã làm nên cái thế giới quen thuộc của Sầu, từ thật xa xưa, từ những ngày ấu thơ hoa mộng. Những lúc buồn tủi Sầu thường một mình trở lại viếng thăm, trong mơ màng tưởng tượng, cái thời kỳ thơ dại ấy, như một cõi thần tiên.
Cha mẹ bấy giờ mới lấy nhau, hạnh phúc còn xanh ngắt. Đứa con gái đầu lòng là Sầu ra đời như hình ảnh lộng lẫy nhất của một hạnh phúc còn xanh. Sầu được nuông chiều đủ thứ. Đòi gì được nấy liền. Chị hai nâng niu cả ngày trên tay. Quần áo toàn thứ đắt tiền. Sầu là đứa nhỏ xinh đẹp nhất và cũng sung sướng nhất của cả khu phố.
Rồi cặp mắt đứa nhỏ từ thơ dại hồn nhiên bắt đầu nhìn thấy thực tế cuộc đời qua thực tế gia đình. Thực tế nào cũng tàn nhẫn. Thực tế nào cũng rất xấu xa. Người ta đối xử với nhau, tốt hay xấu cũng tùy theo vật chất. Những đứa em sau lần lượt ra đời. Sầu trở thành chị lớn của một gia đình đông con. Phận người chị lớn trong một gia đình đông con là cái phận thiệt thòi nhất. Cái gì cũng phải nhường phải nhịn. Lớn khôn thêm, Sầu phải đỡ cha mẹ một tay. Ra bến. Nhận hàng. Cân hàng. Cặp má hồng bắt đầu rám nắng. Tay chân trắng nõn bắt đầu bụi bậm. Nhưng cùng với những khổ cực là sự nẩy nở của thân thể. Thân thể Sầu trở thành một vấn đề cho chính Sầu. Những rạo rực nổi sóng. Những xôn xao bốc lửa. Những quằn quại lên hình. Đùi rất thon và ngực rất đầy, thịt rất chắc và da rất ấm không nằm im, không ngoan ngoãn nữa, mà cựa quậy, làm dữ, và đòi hỏi.
Đứa con trai ông chủ tầu Nam Kinh cũng là tầu lai như Sầu. Sầu đâu có yêu thương gì nó. Nó trai lơ, đàng điếm. Nó cười thật đểu giả và có một lối nói chuyện thật mất dạy, thật sỗ sàng. Vậy mà Sầu đã theo nó xuống tầu. Đâu phải là Sầu theo. Chỉ là thân thể Sầu nổi loạn với chính Sầu, chạy theo sự réo gọi điên cuồng của ham muốn. Sầu từng nghĩ Sầu không bao giờ hối hận.
Chuyện đã xẩy ra, dù sao cũng đã xẩy ra. Nhưng thực tình là đứa con trai gã chủ tầu cũng chỉ chiếm giữ được Sầu trong khoảng thời gian bảy ngày của một chuyến đi trên sông. Thế thôi. Không bơn. Đôi khi Sầu cũng nhớ lại. Như việc gì đã xẩy ra, dù tầm thường vô nghĩa đến đâu cũng đôi khi làm nhớ lại. Nhưng nhẹ nhõm, thoảng qua, không bàng hoàng, không đau đớn. Đứa con trai ông chủ tầu Nam Kinh sau đó, có tìm gặp lại Sầu nhiều lần. Tán tỉnh. Gạ gẫm. Dỗ dành. Nhưng Sầu đều từ chối. Sự từ chối làm cho gã con trai sững sờ không hiểu được. Buồn cười thật. Đàn ông như nó cả sao? Tưởng chiếm được người đàn bà một lần, là lần nào cũng chiếm đoạt được? Lầm. Lầm quá.
Những xâu chuỗi ý nghĩ miên man chở dần những bước chân vô định của Sầu ra đến bến tầu. Tỉnh nhỏ lắng chìm và cách biệt này có một điểm thật lạ lùng mà Sầu vừa nhận thấy: đi đâu rồi cuối cùng cũng ra tới bến tầu. Dòng sông chảy qua đây dòng sông buổi sáng rực rỡ, buổi chiều mơ màng, ở nơi chốn này là một hiện hữu thường trực.
Sầu thấy nàng đi một mình trên hè phố vắng ngắt đứng bóng. Đám phu không còn nữa. Ai nấy đã về nhà. Những cửa tiệm đóng lại. Cảnh tượng mỏi mệt thiêm thiếp. Bụi đường lưởng vưởng, tản mạn trong nắng. Sầu đứng lại dưới một bóng rợp mái hiên không biết làm gì, đi đâu. Những ý nghĩ nhạt loãng xúc động mơ hồ không phân biệt. Lần thứ nhất trong đời, tôi thấy tôi cô độc, lủi thủi, đáng thương. Tôi đáng thương như một con vật bị hất hủi, lang thang qua những gốc cây qua những hè đường. Tôi thiếu tình thương tôi chỉ có tình thương khi tôi còn nhỏ. Mái gia đình bây giờ là địa ngục. Mẹ tôi dữ dằn, cha tôi độc ác. Tôi không có đất đứng, tôi không tìm được an ủi và trú ẩn trong gia đình tôi, nơi có một cái hố sâu đã khơi đào, hố thẳm đó càng ngày càng mở rộng. Khám phá thấy cô đơn, Sầu như đã đồng thời, giữa buổi trưa nắng lang thang nhìn thấu suốt tới tương lai để thấy được cái mai sau của đời nàng. Một thứ mai sau tối đen hãi hùng. Một thứ cuối đường chồng chất những bất hạnh chờ đón.
Cúi đầu xuống như một linh hồn thảm sầu chịu tội, Sầu đi qua đường. Nàng đến ngồi trên trụ xi măng, đối điện với dòng sông như một dòng lửa băng qua. Nàng thu cao đầu gối, tỳ cằm xuống, hai cánh tay ôm chặt lấy hai ống chân, đăm đăm ngó xuống dòng nước. Thành phố quê hương thốt nhiên trở thành một xa lạ quá chừng. Và Sầu hình dung mơ hồ ra một thoát ly. Đi. Bỏ đi. Không phải chỉ một đêm, một ngày, một tuần. Mà suốt đời, đến chết.
Trong cánh tay che chở của một người đàn ông thương yêu nàng mãi mãi, che chở cho nàng đến trọn đời, Sầu thoát ly, Sầu ra khỏi vùng lưu đày buồn bã này. Sầu chắp cho Sầu một đôi cánh thần và Sầu bay đi, nhẹ nhõm, sảng khoái biết là chừng nào, cuộc viễn du theo chiều cao vút ấy, tới những chân trời hạnh phúc có những con đường trải ngọc của sao, những con đường trải mộng của cây. Ở đó, sống là một ân huệ, sống là một tận hưởng, sống là một tiếng cười vui bát ngát không cùng.
Sầu mơ những đêm mới. Sầu mơ những ngày mới. Đêm được gối tay chàng. Vùi đầu vào trong vùng hơi thở ấm áp của chàng. Những đêm mưa to gió lớn, Sầu thức giác, òa khóc vì hoảng sợ, chàng sẽ ôm chặt lấy Sầu, dỗ dành “ anh đây, em đừng sợ ”. Và Sầu sẽ không sợ nữa, chàng đuổi dạt gió bão, Sầu được yên tâm, và Sầu sẽ ngủ tiếp, giấc ngủ thơ ngây vô tội của trẻ thơ. Chưa từng bao giờ, Sầu thực hiện được mộng tưởng muôn thuở đó của một đứa con gái nhà nghèo mới lớn. Nhưng mộng tưởng đó vẫn ám ảnh không rời.
Thốt nhiên, dòng sông đang rực rỡ, bỗng nhòe đi. Như có một hơi sương thình lình bao phủ. Chẳng có màn sương nào hết giữa trưa này. Chỉ là cái nhìn mơ màng của Sầu đã đẫm lệ.
Thấy mình đang khóc, đang chảy nước mắt là điều làm cho Sầu kinh ngạc đến cực điểm. Nàng đã thề nguyền. Chỉ khóc vì sung sướng, không khóc vì đau khổ bao giờ. Trua nay, lời thề không còn giữ được nữa. Khổ đau tích lũy, khổ đau tràn bờ đã dâng lên, đọng lại, và tràn ra, chan hòa bằng những hàng nước mắt. Thôi không giữ nữa. Thề nguyền làm gì. Tôi khóc, tôi đang khóc đây! Tôi khóc, giản dị vì tôi khổ đau quá lắm. Tôi khóc, giản đơn vì trái tim tôi, tưởng đã rắn lại, thực ra, vẫn mềm yếu quá chừng.
Trong nắng trưa, ngồi một mình, Sầu nhìn xuống dòng sông. Và khóc. Khóc. Khóc. Thành phố xa lạ chung quanh.
Chương bốn
Trong căn nhà kín khuất như một thế giới riêng tây khép đóng của cụ Quảng Hưng, giữa những ngọn cỏ phố hắt hiu của con đường Đinh Tiên Hoàng, có một nơi chốn rộng thoáng mà Trang đã lựa chọn làm nơi chốn cho mơ màng và tưởng tượng của nàng. Nàng tới đó một mình. Ở đó rất lâu, không ai hay biết. Đó là cái khoảng sân thượng, từ tầng lầu đi lên bằng một cầu thang gỗ nhỏ. Sân thượng cao ngang tầm mái nhà, đứng trên đó, ném tầm mắt đi, tầm mắt nhìn thấy một khoảng thật rộng của thành phố dưới chân. Thấy được những đỉnh cây chập chùng. Những ống khói nhà máy phía dưới khu bến tầu. Những ruộng đồng và những làng xóm xanh biếc bên kia bờ sông. Thấy được những bóng người thật nhỏ trên những lòng phố thật xa. Và thấy được sao đêm, thấy được mây trời.
Những lúc nhàn rỗi, các con đã đến trường, mẹ chồng đã đến chùa, mọi công việc nội trợ trong ngày đã thu xếp xong, Trang thường lên đó. Sân thượng khuất lánh đối với Trang như một căn buồng riêng, ở đó nàng tự do, nàng được là nàng, nàng được lãng quên những điều nàng muốn lãng quên, nàng được đắm hồn vào những vùng ảo tưởng. Mơ màng và tưởng tượng. Kỳ thú biết là ngần nào, cái trạng thái của lim dim mơ màng, cái bồng bềnh của phiêu du tưởng tượng.
Trang sống không đợi chờ. Người chồng bỏ đi, giữa nàng và chồng không có tình yêu, xa cách nhiều tháng nhiều năm đã giết chết mối liên hệ vốn đã hết sức mong manh, liên hệ đó bấy giờ Trang nghĩ thật không còn gì nữa. Không phải là nàng không buồn. Nàng không phải là gỗ đá. Nàng có một trái tim, một trái tim lớn hơn những trái tim thường, đo theo chiều của kích thước rung động. Nàng có một khối óc, và khối óc đó tạo bất hạnh cho nó bằng những suy nghĩ nát óc. Nhưng buồn thoảng thôi. Như một nửa bâng khuâng, một phần luyến tiếc. Đó là một tiếng thở dài thật nhẹ, như chính nỗi buồn vẫn xâm chiếm mà vẫn bị đuổi đi, mơ mơ hồ hồ, không phân biệt. Trang thường tìm lên sân thượng, ngắm nhìn tỉnh nhỏ nằm dài ngoan ngoãn dưới chân, làm bạn với mơ màng, kết thân cùng tưởng tượng như đêm nay.
Một tiếng đằng hắng nhẹ làm Trang giật mình quay lại. Nàng nhìn thấy một điểm lửa sáng hồng. Điểm lửa cháy trên một đầu thuốc lá. Ninh lên, êm nhẹ, khiến Trang không hay.
– Chị còn thức?
Trang cười, trả lời gián tiếp.
Điểm lửa trên một đầu thuốc lá lại tiến gần, Trang đoán thấy được tất cả sự trẻ trung của người đàn ông toát ra chung quanh điểm lửa lấp lánh trên nền đêm bao la.
Đã một tuần lễ qua. Trang thầm kín theo dõi Ninh. Từ sự theo dõi này, nàng gần như đã hiểu được một phần lối sống của chàng. Có nhiều lúc, Trang bắt gặp ở Ninh một thoáng buồn bã. Thường là khi chiều tới. Ninh hay đứng ở sau thành cửa sổ. Thuốc lá trên môi, khói tỏa trên mặt. Một khuôn mặt trầm tư, trên đó lắng đọng những suy nghĩ mơ màng mà Trang không đoán được.
Trước khi về đây, Ninh làm gì? Đã sống ở những vùng trời nào? Đã có những trận tình nào, những người đàn bà nào? Trang thường đặt cho nàng những câu hỏi như thế! Nàng cũng không hiểu tại sao. Xưa nay, nàng không hề bị kích thích bởi tò mò muốn biết về một người khác bao giờ. Bất chợt được sự tò mò lạ lùng của nàng, đã làm Trang nhiều lần tự thẹn. Nhưng nàng vẫn không bỏ được. Nàng lại đoán. Chắc Ninh có một thời sống phóng đãng lắm. Hẳn thế. Còn trẻ tuổi. Lại độc thân nữa. Chắc chàng phải có đến hàng tá nhân tình. Ý nghĩ này làm Trang mỉm cười.
Điều làm cho Trang lạ lùng nhất là tại sao Ninh lại về đây, để buôn bán. Buôn bán quái gì, nàng nghĩ thầm. Chắc buôn bán chỉ là một cái cớ. Nhưng không, một tuần qua đã cho Trang thấy là Ninh làm việc rất chăm chỉ cẩn thận. Sáng Ninh dậy thật sớm. Ăn sáng xong, là ra ngay cửa hàng. Trưa về, nghỉ một lát, lại ra cửa hàng đến tận chiều. Ninh có vẻ yêu thích thật công việc chàng đang làm.
Những ý nghĩ này trở lại trong đầu Trang, khoảng khắc im lặng cả hai người cùng ngó xuống thành phố.
Ninh cất tiếng:
– Tôi thích đứng ở dây. Trên một tầng cao. Chị có thích như vậy không? Lên cao, tâm hồn nhẹ bơn, đầu óc cũng như sáng tốt hơn là ở dưới thấp. Những vùng trên cao và những miền dưới thấp cũng ảnh hưởng đến đầu óc người ta nhiều lắm.
Trang dịu đàng:
– Anh nhận xét rất đúng.
Nàng ngẫm nghĩ rồi cười thành tiếng:
– Anh tài thật. Không ngờ đấy. Tôi phục anh lắm.
– Chị nói rõ hơn. Tôi chưa hiểu.
– Anh mới về được một tuần. Bến tàu đã đồn ầm lên.
– Tôi sợ nhất những lời đồn.
– Tại sao anh sợ? – Trang hỏi bằng một giọng tinh nghịch.
– Lời đồn đại không bao giờ là sự thật. Quá khứ tôi được nói đến?
– Quá khứ anh có những điều ghê gớm lắm sao?
– Tầm thường như bất cứ một quá khứ nào. Vô nghĩa như bất cứ một cái gì đã xẩy ra và đã qua đi. Nhưng quá khứ là một của riêng. Nó là phần tượng trưng đằm thắm nhất của đời tư một người.
– Tôi muốn hiểu được như anh lắm.
– Chị không hiểu như thế?
– Vì tôi không có quá khứ.
– Cái đã qua là quá khứ.
– Nhưng phải là cái đã qua của những lưu luyến, những kỷ niệm. Tôi không có kỷ niệm.
Giọng Trang ngậm ngùi, buồn bã. Ninh nhận thấy những lúc tiếng nói của nàng đang thanh cao thốt trầm hẳn xuống, tiếng nói ấy có một âm điệu riêng. Sang và quý vô cùng. Âm điệu của những giọt mưa trời thả xuống một lòng giếng khơi sâu thẳm, tưởng đã chìm bặt, nhưng lắng tai theo dõi, còn là một dư vang thật dài ngân mãi không thôi. Người đàn bà này đáng tội nghiệp lắm cho cuộc đời nàng, Ninh nghĩ thầm. Nàng không có hạnh phúc. Và sống khổ sở trong mặc cảm đó, mặc cảm của người đàn bà không hạnh phúc. Không quá khứ. Không có tương lai. Và đẹp. Cái đẹp thừa dư vô ích làm tăng thêm tính chất bi đát não nùng của thảm kịch.
Ninh nói, lời chàng dịu dàng, an ủi:
– Chị đừng nên lấy thế làm phàn nàn. Kỷ niệm là một lưu luyến phiền hà, một vướng bận vô ích. Tôi không muốn có quá khứ. Như thế sống nhẹ nhõm hơn. Tôi có thật nhiều kỷ niệm. Và muốn giết chết những kỷ niệm đó.
Vòng tay Ninh chuyển đi từ từ theo một hình vòng cung, bao quát cả một vùng tỉnh nhỏ chung quanh:
– Đó cũng là một phần lý đo tôi về đây.
Ninh xoay mình lại, ngả lưng vào thành tường thấp. Chàng thở ra một hơi thuốc thật dài. Điểm lửa đầu thuốc sáng rực, soi tỏ khuôn mặt Ninh trong một giây lòe sáng ngắn ngủi. Chợt Trang thấy lạnh. Không phải vì trời. Không phải vì đêm. Mà tự đâu đó, trong nàng lạnh ra. Tấm áo cánh mình mặc mỏng quá, Trang nghĩ thầm. Cũng may có bóng tối. Ý nghĩ làm Trang đỏ mặt. Nàng thu người cho nhỏ lại. Và nghĩ đến thân thể, đến da thịt nàng, xôn xao rạo rực. Trang rùng mình, kìm giữ một tiếng kêu bất chợt. Bất thình lình, như một niềm kinh dị, thảng thốt không bờ bến, một niềm ham mưốn mãnh liệt tràn ngập. Trang như một ngọn triều ào ạt mãnh liệt trùm qua. Nàng muốn. Nàng muốn được như thế, cảm thấy như thế, được một cánh tay thật khỏe ôm lấy nàng. Thật chặt. Chặt đến nỗi làm nàng đau đớn, chặt đến nỗi nàng không thở được. Một cánh tay ôm ghì, thắt lại, thắt lại. Và thân thể nàng chỉ còn là một sự quằn quại nhầu nát kỳ thú không muốn chấm dứt.
– Chị làm sao thế.
– Không.
Trang thấy cần phải cãi, cãi bằng được. Chẳng hiểu tại sao:
– Tôi có sao đâu.
Bỗng Ninh như chợt nhớ ra điều gì. Chàng hỏi:
– Buổi sáng chị đi đâu.
Câu chuyên xoay chiều đem lại cho Trang sự trấn tỉnh cần thiết. Nàng nhẹ hẳn người đi. Sự ham muốn đột ngột đã qua như một triệu chứng bất thường, chốc lát.
– Tôi đi chợ.
Trang không hiểu Ninh nhìn thấy nàng ra khỏi nhà lúc nào. Nàng đi từ sớm. Có lẽ chàng đứng trên lầu nhìn xuống và thấy nàng ở dưới đường.
– Cái áo chị mặc sáng nay màu thật đẹp.
Trang đỏ mặt, bối rối. Nàng mặc một cái áo màu hồng nhạt. Lâu lắm, Trang không mặc cái áo đó. Và cái áo màu hồng trẻ trung đã khiến cho bà mẹ chồng cau mặt không bằng lòng. Lúc Trang nói với mẹ chồng nàng ra chợ, nàng nhớ bà mẹ chồng ngồi trên sập gụ đã nhìn cái áo màu hồng, rất lâu, hơi ngạc nhiên. Nàng chỉ mặc trắng, nàng chỉ mặc đen, như thế, đã từ bao nhiêu năm.
– Áo cũ đấy anh ạ.
– Chắc chị ít mặc áo màu.
– Vâng. Tôi ưa màu đen.
Trang vùng nói, như để giải thích:
– Tôi cũng ưa áo màu. Nhưng mẹ tôi bảo áo màu là để cho những người trẻ tuổi.
Ninh cười:
– Mầu hồng của áo đối với chị thế là đúng quá.
– Cho ngày xưa mà không phải bây giờ.
Trang nói đến ngày xưa và nàng nghĩ đến cái ngày xưa của nàng. Chưa lấy chồng. Còn trẻ. Mầu hồng. Tuổi của nắng. Thời của bướm. Tiếng guốc học sinh giòn giã trên những hè đường có màu đỏ thắm tươi của những chùm phượng vĩ. Những đêm mùa hè cũ, khác hẳn với những đêm mùa hè có tiếng ve ran ran trong những chùm lá nóng, và nhất là có những giấc mộng, có những hình ảnh nõn nà và phảng phất hương thơm. Phút này, Trang muốn kể hết cho Ninh nghe về quãng đời ngắn ngủi ấy cũng là quãng đời duy nhất thuộc về nàng, sau đó cuộc đời nàng đã trở thành sở hữu của kẻ khác. Ở Trang, là một ao ước được tâm sự, cởi mở, được nói ra. Cái thế giới âm thầm phủ kín bóng đêm và bao trùm trong yên lặng suốt bấy lâu cái thế giới ấy nghe chừng như muốn cựa mình, thoát ra và lên tiếng. Lên tiếng đòi cho nó cái quyền được sống. Cho màu tóc kia được óng trong một tấm gương soi. Cho gò má kia được hồng, cho ánh mắt kia được trong, cho tâm hồn kia được trẻ, cho cõi lòng này được đẹp.
Một tiếng ho khan từ tận tầng dưới vọng lên. Trang giật mình. Bà Quảng Hưng vẫn thức.
Ninh hỏi:
– Cụ chưa ngủ.
– Mẹ tôi ngủ ít lắm. Nhiều đêm mẹ tôi để đèn thức đến sáng.
Trang đổi câu chuyện:
– Mai anh có phải ra bến?
– Tôi đã cho cân hết hàng chiều nay. Mai rỗi cả buổi sáng. Không biết làm gì.
– Anh ngủ cho khỏe.
– Tôi về đây, ngủ như mọi ngày đã là quá nhiều.
Ninh kiễng chân, chỉ tay về phía bến tàu, về bên kia dòng sông chảy qua bến tàu:
– Có một vùng làng xóm ở bên kia sông, cây cối um tùm, chắc là đẹp lắm. Tôi định sáng mai nếu trời đẹp, qua sông sang bên ấy chơi. Tôi thích đến những làng xóm ven sông. Có một thời kỳ loạn lạc, tôi tản cư chỉ thích chọn những làng xóm ven sông mà ở. Xuống bến. Bến có những con thuyền đậu, ban đêm le lói lửa chài. Tiếng nước đập róc rách dưới chân những cây cầu đá. Hình như dân chúng ở những làng xóm ven sông sống cũng dễ chịu hơn là những làng xóm không có sông ngòi chảy qua. Sông nước là một hình ảnh trù phú, trái với ruộng đất. Chỉ có ruộng đất không, làng xóm cằn cỗi và nghèo nàn.
Trang còn muốn ngồi lại, nói chuyện với Ninh. Nói bất cứ chuyện gì cũng được. Như chuyện làng xóm, chuyện sông ngòi như Ninh vừa nói. Hay không nói chuyện gì cũng được. Ngồi đó thôi, trong một thứ im lặng ngọt ngào. Nhưng đêm đã khuya.
Nàng đành đứng lên:
– Mời anh đi nghỉ.
– Chị xuống trước. Tôi muốn hút hết điếu thuốc.
Cái bóng trắng của Trang thấp thoáng di động về phía cầu thang đi xuống. Tới hết cầu thang, nàng lại nghe thấy tiếng ho khan của bà mẹ chồng. Trang nghiêng đầu nhìn xuống khoảng sân nhỏ.
Một ánh đèn từ trong một căn buồng hắt ra. Ánh sáng yếu ớt. Thoáng một mùi hương. Rồi Trang phân biệt được một âm thanh đều đều, lâm râm, nhỏ nhỏ. Bà Quảng Hưng đang tụng kinh.
Lần đầu tiên trong đời, tiếng tụng kinh trầm trầm từ dưới nhà vẳng lên làm cho Trang bàng hoàng đứng lại. Nàng lặng người đi. Không phải là tiếng kinh cầu đêm nay đã gây nổi ở Trang một xúc động thành kính. Trái lại. Tuy nhiều lần thco mẹ chồng đến chùa, và yêu mến cái không khí thoát tục, cái cảnh trí thư thái của chùa chiền, nhưng Trang phảị tự thú với nàng, là trước sau nàng không hề có được niềm tín mộ đó của bà Quảng Hưng. Điều này, Trang đã tìm ngay được cho nàng một giải thích đơn giản.
Tiếng cầu kinh của bà mẹ chồng đêm nay làm Trang bàng hoàng xúc động, nhắc thêm cho Trang về sự thực nầy. Nàng chợt khám phá được rằng tiếng cầu kinh bao nhiêu năm nàng nghe thấy, nhưng nó vẫn là âm thanh của một thế giới khác. Một thế giới khác, tôi tuy ở gần nhưng không có tôi trong đó. Một thế giới khác tuy giam cầm tôi, nhưng kỳ thực là tâm hồn tôi không hòa lẫn và vẫn thoát đi. Trang không muốn nghe thấy tiếng kinh cầu nữa. Mà muốn được nghe thấy sự ấm nóng đó của những tiếng người.
Sau giây phút bàng hoàng, lòng Trang nhẹ hẳn đi. Tiếng cầu kinh không còn réo gọi ở Trang một an phận âm thầm như trước. Tuổi già mới an phận. Mới cơi trầu và bình vôi. Mới sập gụ và tủ chè. Mới ho khan và mới tóc bạc. Mới siêu thoát và mới chùa chiền. Với Trang, còn phải là những dòng sông nắng, những bãi cỏ non, những bóng cây, những bóng lá, những bóng nắng và những bóng người.
Phải như thế. Cuộc đời còn dài phải được làm bằng những chặng đường thắm tươi của hơi thở, ánh sáng và hoa hương. Ném lại tiếng cầu kinh cho một thế giới lắng chìm đã trở thành một thế giới xa lạ, Trang bước thật nhanh về buồng riêng.
Nàng bật hết mọi ngọn đèn. Đèn giữa phòng, đầu giường ngủ, trước bàn phấn. Khuôn mặt phản chiếu trong gương không in hằn một thoáng mỏi mệt. Trang yên lặng mỉm cười với nàng.
Đoạn nàng cúi xuống, cầm lên một tờ giấy gập tư. Nàng nhìn tờ giấy nhưng không mở ra coi. Đó là một lá thư. Nàng đã biết lá thư ấy nói gì. Đó là thư của người chồng ở xa. Vẫn những hỏi thăm chiếu lệ, giọng điệu mến thương hời hợt giả dối. Vẫn lời hẹn vu vơ một ngày trở về không bao giờ là sự thật. Hồi chiều, Trang đã đọc lá thư cho mẹ chồng nghe, như tất cả những lá thư của chồng gửi về, Trang đều phải đọc cho mẹ chồng như vậy. Con dâu đọc thư xong, bà Quảng Hưng thở đài:
– Chắc cậu nó sắp về.
Trang thản nhiên:
– Con không biết.
– Mợ nói gì?
– Không ạ! Vâng, chắc nhà con về.
Nàng không khổ đau, không hy vọng, không đợi chờ nữa. Một cái gì đã hết. Thực sự. Hoàn toàn. Hết hẳn. Trang xé vụn lá thư thành nhiều mảnh nhỏ. Đoạn nàng ngồi yên, và chờ đợi ngày mai.
Chương năm
Tháng ngày tỉnh nhỏ xuôi chảy êm ái, là hình ảnh của một dòng nước lặng chảy khoan thai giữa hai bờ sông hiền. Từng ngày rồi từng ngày qua. Ninh đã quen dần với một nếp sống thoạt đầu xa lạ. Chàng nhập dần vào hiện tại; quên dần được quá khứ. Quá khứ ấy có một khuôn mặt đàn bà như một vết thương, từng đã cướp mất của Ninh bao nhiêu đêm thao thức. Quá khứ ấy nhạt nhòa dần như một buổi chiều mù sương. Ninh nghĩ chàng đã ra khỏi được nó, đẩy lui dần được sự ám ảnh như một hiện hữu bao trùm trước mặt về mơ hồ và quên lãng sau lưng.
Nhớ lại đoạn đời cũ, Ninh thở dài. Một tiếng thở dài nhẹ, bâng khuâng, ngậm ngùi. Cũng xong. Cũng mất, cũng hết. Cũng là. Đào thật sâu. Chôn thật chặt. Đặt bước chân vào một con đường mới. Làm lại. Làm lại tình cảm và rung động mình. Không khí tỉnh nhỏ khởi đầu đối với Ninh như một không khí nhà thương.
Chàng đến đây. Chàng đau. Và chàng dưỡng bệnh. Bây giờ trong bầu không khí êm ả đó, Ninh có cảm tưởng chàng đang hồi phục dần dần. Có da có thịt. Có màu hồng của máu. Màu xanh của hồn. Mỗi buổi sáng thức đậy, buổi sáng không còn là sự nối dài buồn bã của đêm, mà là một khởi đầu ngày, đầy náo nức và ngạc nhiên. Và Ninh, Ninh đang học tập lại một lối sống. Một lối sống có ánh sáng chói lòa, như căn phòng Ninh mở rộng mọi cánh cửa khi buổi sáng từ giường bước xuống, tai rất vui nghe thấy tiếng chim hót trên mái, mắt rất ấm nhìn nắng vàng bay múa trong cây.
Đôi khi Ninh mở va-li, lấy lên tấm hình của Phương, nhìn tấm hình xưa và sung sướng thấy lòng chàng đã vững. Nụ cười của em vẫn mê hoặc. Nhan sắc em vẫn mê đắm. Ánh mắt em vẫn mê hồn. Nhưng Phương, ly rượu say và liều thuốc độc ngày cũ của anh, em không làm gì anh được nữa. Em làm anh còn nhớ đến. Nhưng em không còn làm cho anh khổ đau.
– Anh không bao giờ quên được em.
Phương từng nói như vậy. Với một giọng nói đầy tự nhiên và tin tưởng. Nàng nắm vững chàng trong mười ngón tay ngà ngọc của nàng. Chàng thuộc về nàng. Chàng là sở hữu vĩnh viễn, một đời của nàng.
– Thật không? Tại sao em biết?
– Chẳng tại sao. Nhưng em biết. Lối nhìn của anh, lối anh yêu em, cho em biết như thế.
– Ai cũng thay đổi.
– Riêng anh, không. Không bao giờ anh quên được em. Góc biển, chân trời nào của anh, cũng vẫn em có mặt.
Lời nói lạ lùng. Lời nói độc ác. Lời nói vững vàng như đinh đóng cột. Lời nói chẳng bằng như một mũi nhọn đâm suốt vào tim. Và Ninh xao xuyến, đã nghi ngờ chàng. Có lẽ. Có lẽ Phương nói đúng.
Bây giờ thì Ninh đã thấy khác. Người cũ không làm gì chàng được nữa.
Khi nắng dấy trên những trụ xi măng ướt sương, bờ sông bắt đầu ồn ào, cũng là lúc Ninh lững thững từ con đường Đinh Tiên Hoàng ra bến. Cửa hàng mở rộng. Những chiếc thẻ gỗ ném xuống một đáy thùng. Hàng chuyển từ thuyền lên mặt cân bàn.
Đám phu đàn bà cầm những cây kim lớn, tơ chỉ là những sợi đay dài thòng, thoăn thoắt khâu kín những miệng bao bằng những đường kim bắt chéo. Rồi hàng từ cân bàn được chuyển lên xe vận tải. Những chiếc Dodge đẹp và khỏe. Những chiếc T45 và T55 kềnh càng. Máy nổ giòn tan. Bụi dấy mù mịt trong nắng. Trả tiền và thu tiền. Mua hàng vào và bán hàng ra. Làm những con tính và cộng những con số. Đầu óc bận rộn, bớt suy nghĩ, đời sống đối với Ninh trở nên thảnh thơi và nhẹ nhõm hơn. Chàng đã trở thành một nhà buôn. Chưa chuyên nghiệp. Còn tài tử. Nhưng đã là một nhà buôn.
Nhiều lúc ngồi trên sân thượng ban đêm, nói chuyện với Trang về sự đổi thay của đời chàng, Ninh cười:
– Ghét của nào trời trao ngay cho của ấy. Lạ thật.
– Anh không thích đi buôn?
– Trước kia, tôi ghét thậm tệ cái nghề này. Tôi ghét đếm tiền. Tôi ghét những con số. Tôi là người của những tính toán nhầm lẫn, tôi không thực tế chút nào hết. Bây giờ mới nhận thấy cái gì cũng do thói quen! Mấy rồi người ta cũng quen đi.
Trang ngẫm nghĩ và lắc đầu:
– Không phải cái gì người ta cũng quen được.
– Tôi hiểu chị. Như sự cô đơn chẳng hạn. Làm thân với đau khổ hay làm quen với cô đơn, đó chỉ là một lối nói. Để an ủi mình. Khi người ta phải chịu lụy cảnh ngộ không thể làm được gì khác.
– Và đành chịu đựng.
Ninh cười lớn. Chàng đi đi lại lại trước mặt Trang, điểm lửa trên đầu thuốc theo bước đi, vẽ một vệt đỏ rực lên nền trời.
– Thế là thua. Và thế là tối thậm vô lý.
Trang ngạc nhiên, thành thực ngạc nhiên. Nàng nói:
– Tôi không thấy cách khác.
– Sức chịu đựng của con người rất hữu hạn. Người ta có thể chịu đựng được năm năm, mười năm. Nhưng không chịu đựng được trọn một đời người.
Trang cười, không hiểu cười vui hay cười buồn:
– Sức chịu đựng của tôi vô hạn.
– Nếu thế chị là một mẫu người phi thường.
– Những người không phi thường làm khác hay sao?
– Cố nhiên.
Trang lắc lắc đầu:
– Bằng cách nào tôi không biết đấy.
– Bằng phá vỡ. Không chịu khuất phục vĩnh viễn cảnh ngộ. Không chịu lưu đày một đời trong nếp cũ. Nghĩa là phải dám sống như một người tự do. Được đổi thay khi mình muốn thay đổi. Trời không bắt ai thu hẹp trong cơ hội duy nhất và cuối cùng.
– Nhưng phá vỡ nào cũng đầy nguy hiểm.
– Hẳn thế. Nguy hiểm ghê gớm. Nhưng mọi người không muốn thế cả sao? Là được sống nguy hiểm. Sống nguy hiểm là dám tạo ra những thử thách, đến với những tình cờ. Một cuộc đời nguy hiểm là một cuộc đời toàn vẹn.
Tôi hằng mong muốn được sống như thế. Sống bất ngờ và sống nguy hiểm, Trang nghĩ thầm. Nhưng tôi chưa phá vỡ được. Cái lưới vô hình mà dầy đặc. Sự lưu đày êm ái mà bền vững. Tôi muốn, nhưng chưa thoát được ra. Tôi muốn nép mình vào vùng nguy hiểm nhưng lại sợ những gió bão bất thường của vùng nguy hiểm ấy. Trong khoảng khắc, Trang nhận được thế nào là sự thực về thân phận của một người đàn bà. Một người đàn bà tỉnh nhỏ. Nhất là một người đàn bà đã có chồng. Con chim sống trong lồng. Tấm ván đã đóng thưyền. Bến đậu một ngày là bến đậu một đời. Chuyện chốc lát thuở nào, mãi mãi, bây giờ, mai sau, đã trở thành vĩnh viễn. Những chân trời kia tôi chưa tới được. Những con dường thật đẹp tôi chưa có cơ hội nào thăm viếng. Những huy hoàng đời và những lộng lẫy ở những hội vui nào không có mặt tôi.. Trang nghĩ mà thèm muốn. Nhưng cũng nghĩ mà run sợ thế nào. Mâu thuẫn ở nàng dầy đặc. Nàng trở thành ngoan cố. Thái độ ngoan cố là một chống chế. Dù chỉ là một chống chế yếu ớt.
– Sống nguy hiểm là sống mất tự chủ.
– Có thể. Nhưng đẹp.
Trang mỉm cười:
– Sau đó, người ta hối hận.
– Tại sao hối hận? Tôi chỉ có thể hối hận và không tha thứ cho tôi một điều: bỏ qua những cơ hội nghìn vàng được sống.
Câu chuyện đêm đêm trên sân thượng, dưới những chùm sao, giữa Ninh và Trang thường ngừng lại như vậy, khi những ý kiến phát biểu ra trở nên đữ dằn và quyết liệt. Hai người lại cười xòa với nhau và nói lảng sang chuyện khác. Đối với Trang, Ninh dành cho nàng một quí mến thành thực. Và những ý nghĩ đẹp nhất. Thâm tâm, Ninh tội nghiệp cho nàng.
Còn trẻ, còn đẹp như thế. Còn là buổi sáng, còn là vườn hương, còn là bông hoa, mà Trang đã như tới chiều, đã như xế bóng. Phía Trang, nàng dành cho Ninh những săn sóc đặc biệt. Và cho là một hạnh phúc dịu dàng được đành cho Ninh những săn sóc ấy. Pha cho Ninh một ly cà phê, khâu cho chàng một cái khuy áo, nàng đặt tất cả nâng niu âu yếm vào những việc nhỏ này. Nàng nghe ngóng trong nàng một niềm ngọt ngào vô tận. Như một dòng suối chảy êm giữa lòng đá trắng muốt. Sáng rừng yên tĩnh chung quanh. Chim hót trên cây. Mây bay trên trời. Đời hồng tươi và đời sáng láng.
Buổi sáng hôm ấy Ninh cũng ra khỏi nhà với một cảm giác sảng khoái. Như buổi sáng đã có những dấu hiệu báo trước một ngày vui. Ly cà phê Trang pha cho, mà uống từng ngụm nhỏ, vừa uống vừa nhìn ra khoảng sân nhỏ sáng dần trong nắng, vị thơm ngọt còn đọng trên đầu lưỡi. Thằng Phương, thằng Phi sửa soạn đi học. Nhà trong, bà Quảng Hưng sửa soạn vàng hương đến chùa.
Ninh nhìn vào trong nhà:
– Cụ đi chùa sớm quá.
– Thưa anh hôm nay là ngày rằm.
Trang nói và kéo hai đứa con lại gần, chải lại tóc, sửa sang lại quần áo cho chúng. Thấy Ninh nhìn chăm chú, Trang cười:
– Các cháu hư và nghịch lắm ạ.
– Đâu có. Phương Phi đều ngoan lắm.
Hai đứa nhỏ rời mẹ, lễ độ xin phép đi học và dắt tay nhau ra khỏi nhà. Ninh nhìn theo. Trong khoảng khắc chàng và Trang cùng lắng nghe theo tiếng bước chạy mau của hai đứa nhỏ trên hè phố nắng.
– Tôi chưa bao giờ được hưởng thứ hạnh phúc tôi đang nhìn thấy ở chị.
– Đó là bổn phận. Không phải hạnh phúc.
– Hạnh phúc chứ. Hạnh phúc đích thực.
Trang cười:
– Anh dễ dàng có được hạnh phúc ấy.
– Chị có vẻ không chịu nhận người mẹ có những đứa con kháu khỉnh ngoan ngoãn ở chị như người đàn bà đầy đủ, sung sướng.
Trang đáp, khác đi với câu nói của Ninh, giản dị và bình tĩnh:
– Các cháu là an ủi lớn lao nhất của đời tôi.
Hình ảnh người chồng xa lại hiện lên. Sợ Trang buồn, nếu câu chuyện kéo dài có thể đụng chạm tới niềm cô đơn thầm kín của nàng, Ninh đứng lên.
– Trưa anh có về nhà?
– Có.
– Anh thích ăn bún chả không?
– Thích lắm. Tuổi nhỏ của tôi có màu vàng của bánh tôm chín phồng trên chảo mỡ, giấm chua của thịt bò khô, chua đến độ chua vô lý, và mùi thơm của thịt chả quạt chín trên than hồng. Lúc nào rảnh, tôi sẽ kể chuyện cho chị nghe về một cô hàng bún chả tên là Liên. Ở chợ Đồng Xuân. Hồi còn đi học, có đồng nào tôi nộp cho cô hàng bún chả ấy hết.
– Bún chả tôi làm chắc không bằng bún chả cô Liên của anh được. Trưa nay mời anh về xơi thử.
Bóng Ninh đổ dài trên hè phố. Chàng đút hai tay vào túi quần, nhận thức được sự ấm áp dễ chịu của nắng sớm chan hòa trên da thịt. Nói đến ăn bún chả, Ninh nhớ lại những thú vui, những sở thích tuổi nhỏ của chàng. Và thấy hiện lên một khuôn mặt dĩ vãng, khuôn mặt đằm thắm của cô gái bán hàng, có cái tên trùng với cái tên một loài hoa, từng đã nổi tiếng một thời về nhan sắc mê hồn và về gánh hàng ngon có một không hai. Sau này, Ninh được tin Liên đã chết. Trong một trận oanh tạc. Trên đường tản cư. Tin Liên chết làm cho Ninh ngậm ngùi mãi. Liên chỉ là một kỷ niệm, một hình ảnh tuổi thơ vậy mà tin Liên chết cũng làm Ninh xúc động. Chàng thấy chàng nhiều tình cảm quá. Điều này làm cho Ninh bật cười thành tiếng.
– Anh Ninh vui gì mà cười thế?
Ninh giật mình quay lại. Sầu từ sau lưng rảo bước theo kịp chàng. Sầu đi dép mỏng, không có tiếng. Sầu đã đến gần lúc nào Ninh không hay.
Ninh chậm bước cho Sầu lên tới ngang tầm:
– Tôi cười về những chuyện không đâu. Cô Sầu đừng để ý.
– Chuyện không đâu hẳn là chuyện vui?
– Tất nhiên. Người ta không cười vì những chuyện buồn bao giờ.
– Anh Ninh cười vì chuyện gì?
– Đố cô Sầu đoán được.
– Đàn bà con gái ở cái tỉnh nhỏ này ngớ ngẩn không thương được. Anh đang cười vì chuyện ngớ ngẩn của chúng tôi.
– Cô Sầu đừng bao giờ nói thế. Cô Sầu sáng nay làm dáng quá.
Sầu đỏ mặt vì sung sướng. Sầu cũng mặc như ngày thường thôi, nhưng chăm chút hơn, cẩn thận hơn.
Hàm răng Sầu óng ánh. Tất cả ở Sầu toát ra sự khoẻ mạnh, vẻ thanh xuân, và sự phơi phới hồn nhiên là cái đẹp riêng biệt của Sầu. Tấm áo Tầu cắt ngắn, bó chẽn lấy thân thể, màu xanh nước biển, có những chùm hoa trắng lớn. Nàng thơm mùi xà-phòng. Những chân tóc còn ướt, chứng tỏ nàng vừa tắm xong. Trên ngực cài một khăn tay để lẩn vào trong mép áo. Sầu bước những bước chắc nịch trên hè phố. Nàng khoẻ mạnh, nhưng một khoẻ mạnh đầy uyển chuyển. Ninh nhìn sang Sầu, nghĩ người thiếu nữ Trung Hoa này thật hòa hợp với buổi sáng nắng.
Nàng chính là một buổi sáng nắng. Mang cái tươi mát của ngày vừa bắt đầu. Ở Sầu, như người ta thấy được, liên tưởng được tiếng chim hót trên những đỉnh cây cao, tiếng gió đùa vui trong nắng, tiếng nước reo những âm thanh thủy tinh, nét bay múa của một tà áo trong không khí của trời cũng ấm như hơi thở của người.
– Cô Sầu xuống bến?
– Dạ.
Ninh ngạc nhiên:
– Sao cô Sầu lại đi qua đây?
Sự ngạc nhiên của Ninh rất hữu lý. Đường từ nhà Sầu xuống bến tàu ở phương hướng khác, không phải đi qua con đường Đinh Tiên Hoàng.
Câu hỏi bất ngờ của Ninh làm cho Sầu lúng túng. Buổi sáng, ở nhà đi ra, Sầu đã nghĩ đến Ninh. Nghĩ đến từ lúc nàng trở đậy. Trong ý nghĩ đó, Sầu đã mặc bộ quần áo đẹp nhất. Đã chải mái tóc lâu gấp đôi ngày thường. Đã cài một cái khăn mù-soa trắng tinh lên ngực áo. Cái khăn mù-soa đó, Sầu tỷ mỷ xếp mãi mới được thành hình những cánh hoa. Và cuối cùng, Sầu đã thoa một lớp son mỏng lên môi. Cử chỉ làm dáng này, nàng đã làm một cách lén lút, mắt trước mắt sau, chỉ sợ bố hay mẹ nhìn thấy.
Trên con đường ra bến, Sầu đã định đi con đường nàng thường đi mỗi buổi sáng. Nghĩ như thế, nhưng chân khác. Bước chân mất tự chủ, tràn theo một xô đẩy thầm kín nhưng mãnh liệt, đã dẫn Sầu tới đường Đinh Tiên Hoàng.
Lúc dặt chân vào con đường Đinh Tiên Hoàng, tự nhiên trái tim Sầu đập như vỡ toang lồng ngực. Thật là một bất ngờ. Chưa từng bao giờ Sầu cảm thấy như vậy. Khi đi theo con trai lão chủ tàu Nam Kinh xuống tàu của cha y, biết là mình đang làm một việc ghê gớm, việc ghê gớm nặng trĩu hậu quả khốc liệt, Sầu cũng chỉ cảm thấy xôn xao đôi chút.
Hành động liều lĩnh tuy vậy lại không làm cho Sầu bận tâm. Nhắm mắt đưa chân rồi, coi như đành vậy. Việc đã xẩy ra, tắc lưỡi một cái, thế là xong. Và xem như đã. Đằng này khác. Sự khác biệt này dấy lên trong tâm hồn Sầu như một bàng hoàng kỳ lạ. Nó làm nở thơm ở Sầu hương của một loài hoa mới, một loài hoa chưa từng được thấy nở thơm trong khu vườn tâm hồn Sầu từ trước đến nay. Hương thơm của loài hoa mới nầy hiếm quý và e ấp. Trang trọng và khác thường. Nó như biến Sầu thành một người đàn bà khác. Người đàn bà ấy cảm thấy mình khác; thật rõ ràng, tuy không biết bởi đâu và tại sao, khi nàng đặt chân vào con đường Đinh Tiên Hoàng và nhìn thấy người đàn ông ung dung đi trước mặt
– Con đường này mát lắm.
Ninh cười hóm hỉnh:
– Đường nào buổi sáng chẳng mát.
Sầu đáp, liều lĩnh:
– Con đường này là con đường đẹp nhất.
– Ở chỗ nào?
Sầu nói câu thứ hai, cũng vô lý và liều lĩnh như câu trước:
– Nó lại là tên Đinh Tiên Hoàng. Tôi yêu ông Đinh Tiên Hoàng.
Ninh nhìn sang, bắt gặp cái nhìn của Sầu, thẳng thẳn, không chạy trốn. Chàng điềm tĩnh chịu đựng cái nhìn như ném tới một thách thức táo bạo.
– Cô Sầu ở đường nào.
Sầu lẳng lơ:
– Anh hỏi làm gì?
Ninh cười:
– Tạt vào thăm cô Sầu, nếu tôi đi qua đường đó.
– Thế thì không nói được. Phải giấu, không để cho anh biết được. Vì Sầu không muốn cho ai đến nhà hết. Nhất là anh.
– Tùy cô.
– Anh đừng hiểu lầm, Sầu không muốn cho ai đến nhà, nhà Sầu nghèo lắm. Anh Ninh giầu, đến nhà Sầu anh Ninh cười.
– Nghèo không phải là một cái tội. Tôi không bao giờ biết cười như thế hết.
– Số nhà 15 trên 7. Đường Cửa Tây.
Sầu đọc tên số nhà, tên đường phố, dõng dạc như nàng đã nghe theo lời Ninh, nàng không còn hổ thẹn vì sự sa sút của gia đình nàng, và nàng muốn Ninh đến chơi, nàng không có điều gì phải giấu giếm, kể cả người cha nghiện hút, đàn em nhỏ nhếch nhác và người mẹ tàn ác.
Cả hai cùng cười. Ninh nói:
– Tôi nhớ. Hôm nào rỗi rãi, sẽ lại đường Cửa Tây thăm cô Sầu.
Hai người đã đi được một quãng. Sầu quay lại nhìn nhà Ninh ở. Nàng chưa từng đến nhưng biết đó là nhà cụ Quảng Hưng. Như ở tỉnh nhỏ nầy, ai cũng biết ngôi nhà ấy là nhà cụ Quảng Hưng. Tự nhiên, Sầu thấy ghét ngôi nhà, ghét bà lão già mang tên là Quảng Hưng, mà dân chúng ở đây ai cũng cho là giầu có mà keo bẩn, tuy ăn chay niệm Phật cả ngày.
Thực ra, Sầu không dám thú nhận sự ác cảm của Sầu, có vì một lý do thầm kín khác. Đó là người con dâu của cụ Quảng Hưng mà Sầu biết là rất trẻ và rất đẹp.
– Anh có thích ở nhà cụ Quảng Hưng không? – Sầu chợt hỏi.
– Không thích thì tôi đã không ở. Tôi đã ở chỗ khác.
– Tỉnh nầy xa lạ đối với anh. Anh không thích có khi anh cũng bắt buộc phải ở chứ. Anh không quen ai khác mà.
– Một căn buồng khách sạn là đủ. Một cái giường nhỏ thôi là thừa đủ cho những người độc thân như tôi.
Ninh quay lại nhìn căn nhà. Nhưng căn nhà đã khuất lấp sau những căn nhà khác. Những bước chân đều đều trên hè phố nắng đã đưa Ninh và Sầu ra khỏi con đường Đinh Tiên Hoàng. Chàng cười thân mật với Sầu, nói tiếp:
– Đó là một căn nhà cũ. Tôi yêu những căn nhà cũ. Tôi ghét lắm những căn nhà mới xây cất. Cái mới của một căn nhà mới xây bao giờ cũng có một vẻ kiêu hãnh kệch cỡm rất đáng ghét. Một căn nhà cũ bao giờ cũng lưu luyến và dễ tạo được cảm tình.
Sầu chợt nhớ đến căn nhà tối tăm như một ổ chuột của gia đình nàng trong cái ngõ hẻm lầm than ấy ở đường Cửa Tây. Một căn nhà cũ. Nhưng nàng không yêu mà ghét. Căn nhà với nàng không có một ràng buộc, một kỷ niệm nào. Dửng dưng và xa lạ. Muốn ra thoát và muốn chạy trốn nó, nó chỉ là nơi chốn của một chịu đựng âm thầm và buồn bã. Nàng không đồng ý với Ninh. Nhưng cũng không cãi lại. Và lắng tai nghe Ninh nói tiếp.
– Cô Sầu đã vào nhà cụ Quảng Hưng lần nào chưa. Chưa hả? Hôm nào cô đi qua, nhớ vào chơi. Tôi yêu lắm cái không khí im lặng thư thái của nó. Bóng tối ở đó có nghĩa là bóng mát. Đi lại, nằm ngồi trong căn nhà đó là một điều thật dễ chịu.
Thấy Ninh chợt im lặng như đang đuổi theo trong đầu một hình ảnh đẹp, Sầu muốn phá vỡ ngay sự đuổi theo ấy. Nàng nói, giọng hờn dỗi:
– Không bao giờ tôi vào. Gặp anh Ninh ở bến tàu thôi chứ không ở nhà Quảng Hưng.
– Bà Trang tử tế lắm. Cụ Quảng Hưng cũng vậy.
– Tôi không thích đến những nơi người ta khinh tôi.
– Ai dám khinh cô?
– Có. Người nhà giầu khinh người nhà nghèo.
– Đâu phải ai cũng thế.
Câu chuyện chấm dứt. Họ dã tới con đường bến tầu. Ninh vào cửa hàng. Sầu vượt đường đi thẳng xuống bến.
 
Chiếc xe hàng lượn một vòng nghiêng nghiêng, chậm đà và đậu lại giữa bến. Đám trẻ nhỏ bưng trên tay những thùng quà bánh tíu tít đổ xô đến, vây kín lấy hai bên thành xe. Những tiếng chào hàng inh ỏi, chen lẫn với tiếng chửi thề của người lơ vừa từ mui xe nhảy xuống, đuổi bọn trẻ nhỏ ra xa.
Bây giờ là khoảng bốn giờ chiều. Nắng đã nghiêng đi, nhưng sức nóng còn dữ dội. Ninh đứng dưới bóng rợp của mái cây xăng, rút mù-soa lau mồ hôi. Chàng nghĩ giờ nầy, ngoài bến tầu, Sầu đã cân ít nhất được ba tấn hàng, đám phu cởi trần đang vác hàng chạy huỳnh huỵch từ ngoài bến vào xếp trong cửa tiệm. Buổi sáng gặp Sầu, Ninh mời Sầu uống nước ở cái quán hàng đầu dẫy ngoài bến, và nghĩ tuy chàng không muốn thế, nhưng bắt buộc chiều nay, chàng phải nhờ Sầu một tay. Thuyền hàng đậu ở bến đã hơn một tuần. Mấy ngày trước, mưa thật lớn, liên miên sáng chiều. Cân kê ra bến đã bao nhiêu lần rồi vì mưa, cân lại phải khiêng trở vào. Người chủ thuyền than phiền không dứt lời về sự chậm trễ bất thường. Hôm nay, trời nắng, Ninh nhận thấy không thể vì một lý do nào đình hoãn việc cân hàng đến ngày mai được nữa. Nhưng chàng lại mắc bận. Bất ngờ và ngoài ý muốn. Chàng không thể có mặt ở bến.
– Cô Sầu chiều bận cân hàng nhà không?
Sầu bưng ly nước cam trên tay, tươi cười nhìn Ninh và nói không. Hàng nhà nàng đã cân hết, cân xong từ chiều hôm trước.
– Sao anh?
– Muốn nhờ cô một việc.
Sầu cười, giọng đùa cợt rất dễ thương:
– Việc ghê gớm không?
– Không ghê gớm. Cân giùm tôi một thuyền hàng.
– Bao nhiêu tấn?
– Chừng mười ba hay mười bốn là cùng.
Ninh giải thích ngay cho Sầu hiểu:
– Tôi bận. Chiều không ra bến được.
Tự nhiên, Sầu bị kích thích dữ dội bởi óc tò mò. Bận. Nhưng Ninh bận gì. Ở nhà? Sầu nghĩ ngay đến bà Trang trẻ đẹp, ở chung một mái nhà với Ninh.
Giọng Sầu mất hẳn vui. Thoáng nột chút hờn dỗi:
– Anh ở nhà sao?
Ninh cười:
– Cô Sầu hỏi lạ thật. Ở nhà sao gọi là bận được.
– Vậy anh Ninh bận gì. Bận gì phải nói đã.
Ninh rút ở túi áo ra một tờ giấy màu xanh gập tư. Đó là một bức điện tín. Nhưng chàng không mở tờ điện tín cho Sầu xem, mà chỉ giơ cao tờ giấy:
– Tôi vừa nhận được một bức điện tín.
Ninh hơi ngập ngừng:
– Của một... người bà con. Hẹn chiều nay xuống chơi. Tôi phải ra bến xe đón. Cô Sầu đã hiểu tại sao chiều nay tôi bận, không ra bến tầu được, đành phải phiền cô Sầu cân giúp một chuyến hàng chưa?
Sự tò mò của Sầu chỉ được thỏa mãn một phần. Nhưng cũng đã là thỏa mãn một phần rồi. Thiếu nữ nghiêng nghiêng ly nước trên tay, cười chúm chím.
– Hiểu.
– Được không?
– Được ạ!
– Cám ơn lắm.
Và Ninh đã có mặt ở bến xe từ ba giờ chiều.
Chàng dở tờ giấy xanh gập tư, xem lại bức điện tín một lần nữa. Không thể nhầm lẫn được. Đúng là Phương. Phương báo trước cho chàng là Phương sẽ có mặt ở tỉnh nhỏ này. Dòng điện tín ngắn, nhưng thật rõ nghĩa: “Đón em ở bến xe chiều nay. Yêu. Phương.”
Từ lúc nhận được bức điện tín; từ hồi sáng, câu hỏi mà Ninh đặt ra hàng trăm lần cho chàng là tại sao Phương biết tỉnh chàng đến, lại còn có thể tìm biết được đia chỉ chàng ở. Lúc bỏ đi, trong một chủ ý đoạn tuyệt hoàn toàn với những hệ lụy tình cảm đã có từ quá khứ, Ninh không muốn cho Phương hay. Và Ninh đã làm như thế.
Đàn bà thật lạ lùng, Ninh nghĩ thầm. Chàng nghĩ đến người đàn bà như một sinh vật nhỏ bé, dễ thương khi dịu đàng, khi ác độc, đầy dẫy những mâu thuẫn và những trái chứng bất ngờ, rất vô ích, nhưng lại rất cần thiết cho đời sống người đàn ông, nói rõ là đời sống người đàn ông độc thân.
Người đàn bà hiện lên trong tâm tưởng Ninh như một vướng bận êm ái, một thứ dây hồng khi buộc chặt khi nới lỏng, nhưng là một dõi theo không rời, một chập chờn không mất, một ẩn hiện không thôi. Tưởng giữa chàng và Phương đã đoạn tuyệt. Nghĩ giữa Phương và chàng đã chia ly. Bức điện tin màu xanh nói cho Ninh biết rõ ý nghĩ chàng là một lầm lẫn lớn.
Lúc Ninh nhận được bức điện tín, đã có một chuyện ngộ nghĩnh xảy ra. Người phu trạm gõ cửa, thằng Phi chạy ra. Nó chạy ra mở cửa rồi nó lại lon ton, chạy vào, giật giật tà áo mẹ nó:
– Mẹ.
Trang đang ngồi nhặt rau ở sân sau, ngẩng lên:
– Gì thế con.
– Người ta bảo mẹ ra ký.
Ninh có mặt ở đó.
– Ký gì mới được chứ.
– Không biết. Nhưng phải ký người ta mới đưa.
Trang mỉm cười nhìn Ninh lắc đầu, đứng lên. Nàng ra cửa rồi quay vào, trên tay cầm bức điện tín, và trao cho Ninh.
– Của anh.
Trong lúc Ninh mở tờ giấy xanh ra coi, Trang im lặng nhìn chàng, nửa thản nhiên nửa như tò mò muốn biết.
Nàng thấy Ninh chớp mắt khi đọc xong, và gập tờ giấy lại cho vào túi. Trang nghĩ điện tín báo cho Ninh một tin quan trọng, quan trọng vì nét nặt Ninh thốt trở nên nghiêm trang và suy nghĩ.
– Có chuyện gì thế anh?
– Thưa chị không!
Ninh nói tiếp, câu chàng nói, sau đó, với Sầu:
– Của... một người bà con.
Thằng Phi đứng bên cạnh, chêm vào:
– Quen với bác?
Ninh cúi xuống xoa đầu đứa nhỏ:
– Quen, cháu ạ.
– Có đến ở đây cùng với nhà cháu như bác không?
Ninh bật cười. Chàng nghĩ đến Phương. Nếu chàng đưa Phương đến ở căn nhà này? Chung một buồng với chàng. Không được. Sự có mặt của Phương sẽ như là một trái bom, một chấn động lớn, một kinh ngạc chung. Cũng có thể được, nếu Ninh muốn. Nhưng Ninh không muốn ý nghĩ đầu tiên về sự sẽ tới của Phương ở Ninh là một ý nghĩ khó chịu. Trước hết, chàng rất ghét cái mẩu giấy mầu xanh đó là một bức điện tín. Một bức điện tín báo một tin vui hay một tin buồn, một chuyện quan trọng hay một chuyện tang thương, cũng là một đột ngột. Nhất là lúc nầy. Chàng đang muốn sống yên, phẳng lặng như một mặt hồ thu, không ngạc nhiên và không chờ đợi.
Không thể đuổi Phương về, nghĩa là phải giữ Phương ở lại ít nhất cũng đến ngày hôm sau, nhưng giữ Phương lại thì thu xếp cho Phương ở đâu? Thật là một vấn đề nan giải.
Thốt nhiên, Ninh hỏi:
– Ở đây khách sạn nào đàng hoàng nhất hả chị?
Trang ngạc nhiên:
– Tôi cũng không biết. Anh hỏi để làm gì?
Ninh vội vã lắc đầu:
– Để biết thôi ạ!
Rồi chàng lảng ngay sang chuyện khác.
Chương sáu
Khi chiếc xe chậm đà chạy vòng vào bến, từ trong xe ngó ra Phương đã nhìn thấy Ninh đứng đón nàng ở dưới bến. Sự có mặt của Ninh làm cho Phương rất bằng lòng. Nàng nghĩ thầm trong một niềm kiêu hãnh và tự tin của người đàn bà còn nắm trong tay một vũ khí chinh phục: người đàn ông đứng dưới bến vẫn thuộc về ta. Cặp môi đầy, như một khiêu khích có thừa quyền uy để khiêu khích, nở một nụ cười thỏa mãn. Đoạn, Phương ngồi thẳng người lại, đưa xắc tay lên cao, mở ra nhìn lại phấn son và nhan sắc của nàng trong gương nhỏ. Nhìn lại một lần cuối cùng. Trước khi bước xuống, trước khi gặp Ninh, trước khi đối điện với người đàn ông, mà nàng đang định tâm chinh phục lại. Từ một phòng ngủ đi ra, từ một cửa xe bước xuống, từ một chỗ vắng người đến một chỗ đông người, mở xắc, soi gương, kiểm điểm lại dung nhan, đối với Phương là một quan trọng đã thành thói quen. Và thói quen này đã trở thành một thứ lễ nghi bắt buộc.
Không phải là Phương sợ một lượt phấn mất sẽ làm hiện hình một nét nhăn, một đường son lạt đi sẽ phơi bày một thoáng tàn úa. Phương chưa già. Thời gian chưa làm gì được Phương. Nhan sắc đương mùa của nàng còn là một thành trì vững chắc mà thời gian chưa tàn phá được. Mỗi buổi sáng trở đậy, khỏa thân trước tấm gương đứng lớn dựng trong phòng ngủ, Phương thường làm một kiểm điểm toàn thể về cái vũ khí chinh phục ghê gớm nhất là thân thể và sắc đẹp của nàng. Xem cánh tay còn đầy, cặp đùi còn lẳn, làn da còn mịn, mái tóc còn óng, ánh mắt còn trong, nự cười đã mất, hay vẫn còn là một trời mê hoặc.
Cuộc kiểm điểm trước gương, lâu ít nhất là nửa tiếng đồng hồ. Tỉ mỉ. Không bỏ sót mọi chi tiết. Tận cùng. Không chiếu lệ. Soi sát khuôn mặt vào gương, xem kỹ từng đuôi mắt, từng chân tóc. Tay chân đưa cao trước ánh sáng, miết ngón tay trên da xem da mình mịn mướt như nhung?
Và chưa có buổi sáng nào, Phương phải thất vọng đau khổ vì nhan sắc của mình. Nó còn sớm mai. Nó chưa xế chiều. Nó mơn mởn đương hoa. Nó chưa héo khô, chưa tàn tạ. Không phải là Phương biết tạo cho nàng một đời sống điều độ. Nàng sống rất phóng đãng. Nhiều đêm thức trắng nhiều ngày thả buông. Trăm nghìn đổ một trận cười như không. Đám bạn trai rủ đi đâu, vui là Phương đi theo liền, không nghĩ ngợi. Kẻ mà Phương có cảm tình, Phương cho luôn kẻ đó và thân thể và hoan lạc. Sự khôn ngoan ở Phương là sau một thời trác táng, nàng lại biết tiếp nối bằng một thời kỳ nghỉ ngơi. Thời kỳ nghỉ ngơi thường bắt đầu cho Phương bằng một câu nói đùa báo tin với bạn hữu:
– Bảo cho tất cả là con Phương nó vắng mặt.Nó đi nghỉ mát. Đừng ai tìm nó uổng công.
Mà Phương nghỉ mát thật. Cho thân thể, cho nhan sắc nghỉ mát theo kiểu sống riêng của Phương khi đó rời bỏ những cuộc vui ban đêm, những chiếu bạc những sàn nhẩy vũ trường. Phương ra một bãi biển. Để phơi nắng, về nghỉ ở nhà mẹ nàng, hay vào một bệnh viện. Thời kỳ nghỉ ngơi đó, Phương sống thảnh thơi, không bận tâm, không suy nghĩ, ăn ngủ, nằm dài, tẩm bổ. Dùng những thứ thuốc bổ đắt tiền và kiến hiệu nhất. Da thịt, tay chân, mặt mũi một người đàn bà được săn sóc đến như Phương săn sóc là cùng rồi, không thể là hơn. Vì sự chăm sóc đặc biệt dành cho nhan sắc, một bãi biển chói lọi nắng gió, một bệnh viện chìm trong bình yên đã trở thành hai nơi chốn lâu lâu cần thiết cho Phương muốn mình còn đẹp. Cái thú ở bãi biển là vùng vẫy trong làn nước xanh, nước ôm ấp da thịt như một ve vuốt. Tắm xong, lên bãi nằm. Tìm một chỗ thật vắng. Khỏa thân và phơi nắng. Nắng đốt lửa trên da thịt căng căng. Nắng như một hơi rượu say. Máu trong người thấy chạy mạnh và mau hơn. Nắng ngấm vào da thịt như châm kim tạo cho Phương một cảm giác kỳ thú. Bệnh viện tạo cho Phương một cái thú khác. Cái thú bất động lim dim, nửa thửc nửa ngủ trên giường đệm thơm tho tinh khiết. Thả buông vào lười biếng. Suy nghĩ chập chờn.
Những khuôn mặt đàn ông hiện lên. Những cánh bướm đã qua đời nàng. Kẻ kia dăm ngày. Kẻ này một tháng. Có kẻ chỉ là cái khoảng thời gian ngắn ngủi của một đêm ái ân. Phương nhiều quá những người tình. Họ đứng trong ký ức nàng, kẻ trước, người sau thành một hàng dài, nhớ không hết được. Phương đã từng làm cho ông nhà thầu già này say mê, ông công chức cao cấp kia điêu đứng, anh con trai nhà giầu ấy điên cuồng. Nhưng nàng cho mượn thân thể, tạo ra hoan lạc, mà lòng nàng thì không gửi cho ai. Ngoại trừ một người. Đó là Ninh. Phương cũng không hiểu tại sao, ngoài cái điều mà nàng hiểu rõ là lòng nàng thật khó hiểu. Với Phương, Ninh không đứng lẫn trong cái đám đàn ông nàng đã cho phép được ở gần nàng, biết thế nào là mùi thơm của mái tóc, chất ấm của da thịt nàng. Ninh đứng riêng một chỗ, chỗ đó là nơi duy nhất đã làm cho trái tim nàng rung động.
Nhớ hồi mới gặp Ninh, Phương đang là người tình gần như chính thức của một nhà thầu khoán tỷ phú. Y tiền rừng bạc biển. Y chịu mất một núi vàng để có được Phương. Hống hách, quyền thế ở đâu, nhưng với Phương, y là tên nô lệ. Y quỳ xuống, nghe Phương ra lệnh.. Nàng muốn gì được nấy. Nhà cửa, xe hơi, kim cương. Một sở thích kỳ quái và khó khăn đến đâu, nhưng vừa tỏ ý là sở thích ấy được thi hành tức khắc. Nghĩ mà tội nghiệp cho lão già si tình. Có một tuần, Phương làm mặt giận, không cho gặp, y khổ sở đến khóc òa như một đứa con nít. Tìm được một người tình như thế cũng thật hiếm hoi. Chứ sao.. Đã giầu, lại trung thành.
Nhưng Ninh tới. Ninh tới và Ninh bắt Phương lựa chọn. Chàng ra lệnh:
– Hoặc nó hay anh.
Phương năn nỉ hoài, chỉ xin một thỏa hiệp gọi là mà không được:
– Anh đừng để ý đến nó. Nó không là cái gì hết. Nó chỉ là một phương tiện của em. Anh mới là người em yêu.
Nhưng Ninh không nghe. Chàng thắng. Chàng biết. Chàng khăng khăng không chịu cho Phương thỏa hiệp:
– Cái trường hợp có hai người tình khả ố và khốn nạn lắm. Thằng đến ban ngày, thằng đến ban đêm. Không được. Em bỏ nó đi.
Xưa nay, không có người đàn ông nào dám nói với Phương như một ông trời, như một ông chủ như vậy. Nàng chỉ quen sai khiến đàn ông, chưa từng chịu cho đàn ông sai khiến. Ấy thế mà với Ninh, Phương đã chịu thua. Cũng chẳng hiểu tại sao lại chịu thua, thảm bại và dễ đàng như vậy. Thật ra, Ninh chẳng đem lại cho nàng được gì. Dù một chút hy vọng. Dù một lời hứa suông. Nhiều đêm, ở những phút nồng nàn và thương yêu nhau nhất, Phương hỏi:
– Anh chịu lấy em không?
Ninh thản nhiên trả lời:
– Không. Giữa anh và em không bao giờ có chuyện lấy.
Tức thật. Tức đến phát khóc lên được. Bao nhiêu đứa cầu cạnh nàng. Đến lượt Phương, Phương phải cầu cạnh lại, và còn bị từ chối.
– Tại sao?
– Chẳng tại sao hết.
Cố nén bực tức, Phương vẫn ngọt ngào:
– Anh yêu em thật không.
– Thật.
– Chỉ yêu thôi? không chung sống?
– Em thừa hiểu chúng ta không nên là vợ chồng.
Gắn bó với nhau, nhưng vẫn giữ cho nhau được nhẹ thoáng như mây trời. Hòa lẫn vào nhau, nhưng vẫn sáng suốt dành cho nhau một lối thoát. Thế là yêu ư? Phương hỏi. Và Ninh thản nhiên trả lời, thế mới chính là yêu. Và đích thực yêu. Phương không thể đồng quan điểm với Ninh. Nhưng nàng chịu và nàng nhượng bộ. Thế là lão thầu khoán tỷ phú bị những ngón tay ngà ngọc nhưng tàn nhẫn của người đàn bà ném thẳng ra ngoài cửa sổ. Phương đã nghe chàng. Phương đã lựa chọn. Thay vì kim cương, tiền bạc, những bảo đảm hoàn toàn cho một đời sống vật chất đầy đủ, Phương đã chọn những bất ngờ và những tình cờ của một cuộc tình như một phiêu lưu. Phải nhận, Phương đã được đền bù xứng đáng. Nàng đã sống với Ninh những sáng, những chiều, những đêm, những ngày trở thành kỷ niệm tuyệt vời suốt đời không thể lãng quên. Ninh đã làm cho nàng trẻ lại. Điên cuồng hơn. Mê đắm hơn. Nhưng nghìn lần thực hơn trong cái thực của một người tình.
Khoác tay Ninh, đi bộ với chàng trên hè phố, sung sướng hơn ngồi trên xe hơi lộng lẫy của lão tỷ phú quê mùa thần phục nàng như một tên nô lệ. Ninh dạy cho nàng biết ngắm nhìn những cái đẹp. Và biết mến yêu những cái đẹp. Đêm đi chơi vơi Ninh nàng biết yêu những vì sao lấp lánh trên thăm thẳm nền trời, cái đẹp huyền ảo. Của im lặng. Của hình bóng. Của những xôn xao, những thì thầm không tỏ rõ, chỉ cảm thấy. Nhưng chính vì chỉ cảm thấy nên càng thấy đẹp hơn. Ngày, ngả đầu vào vai chàng, dịu dàng, lững thững. Ninh chỉ thay cho nàng ngó thấy ánh sáng, mầu xanh của lá, mầu vàng của nắng, bảo cho nàng nhớ âm thanh không chỉ là tiếng xe chạy, tiếng tiền rơi, tiếng hát trong phòng trà, tiếng nhạc trong vũ trường, mà còn là tiếng gió than thở trong lá, tiếng chim thánh thót trên cành, tiếng róc rách của nước dưới chân kè đá, tiếng reo vui thầm lặng trong tâm hồn mình thiết tha muốn sống, tiếng của tình yêu nghe thật nhỏ trong tim mà vang động hơn mọi tiếng vang dữ dội nhất của một đời người.
Đi du lịch với Ninh, bằng Ninh Phương như khám phá được một thế giới. Một thế giới với những hiện tượng, những sự vật hằng cửu, nhưng vì Phương chỉ quen sống với chăn gối, với buồng ngủ, phấn son nên không lưu ý tới bao giờ. Như biển thật rộng. Núi thật cao. Những ga xép nào cũng buồn. Những con đường đèo quạnh hiu. Những cánh rừng bát ngát.
Từ cửa ngõ những cái đẹp Ninh đưa nàng vào cõi mộng. Ninh dạy cho nàng biết nhớ nhung, biết bâng khuâng, biết mơ màng và biết tưởng tượng. Phương thấy nàng đổi khác. Tình cảm hơn và cũng thơ ngây hơn.
Bạn hữu của Phương đều xem sự thay đổi của Phương là một lạ lùng ngoài tưởng tượng.
– Con Phương mà sống được với anh Ninh, mày ơi!
– Ủa, thế nó bỏ lão thầu khoán?
– Nó điên.
– Rồi nó sẽ hối hận.
Đám bạn gái phóng đãng thay tình như áo, coi đàn ông như một món hàng, định nghĩa tình yêu như một mua bán, những lúc hỏi thăm nhau về Phương, đều ngạc nhiên và đều chế riễu như vậy. Họ trợn mắt, nhún vai, giơ cả hai tay lên trời và cười rộ lên. Phương biết, cũng mặc. Nàng sống đời nàng. Khoác tay chàng. Đi với chàng. Ở bên chàng. Đóng cửa lại, ở bên trong cánh cửa với chàng. Không biết đến bên ngoài. Như thế, được gần nửa năm. Nửa năm sống đơn giản, cách biệt, nhưng cũng là nửa năm thần tiên nhất. Thế rồi là chia tay. Là cắt đứt.
Một tháng sau, Phương mới thấy nhớ. Nhớ Ninh. Nhớ ghê gớm. Những người đàn ông khác nàng bắt tình luôn sau đó, những người đàn ông đó không một ai thay thế được chàng. Lăn mình trở lại những chốn ăn chơi cũ, giữa những giờ phút tưng bừng náo nhiệt nhất, Phương đều cảm thấy như vậy. Và nàng nhớ. Nhớ đến muốn phát điên luôn. Nhiều đêm, nhớ Ninh, nàng uống rượu thật say, cười đùa thật lớn. Để quên. Tìm kiếm lãng quên. Cố gắng lãng quên. Nhưng Ninh đã xa, mà hình ảnh chàng còn đó. Trước mặt. Trong lòng. Trong trí nhớ. Vòng tay chàng. Ánh mắt. Lối nhìn. Dáng đi. Sự im lặng mơ mộng của chàng. Thảy đều hiện hữu. Gõ cửa buồng Ninh, Phương còn nhớ mãi cái cảm giác sững sờ kéo dài như một hơi lạnh truyền lan khắp cùng thân thể khi cửa buồng vẫn đóng kín và bên trong chỉ là hoàn toàn im lặng. Xuống đường, Phương không lên xe, mà đứng lặng trong suy nghĩ. Phải tìm thấy Ninh. Bằng được. Phải điều tra, phải thăm dò cho ra, dù bằng bất cứ giá nào. Khi một người đàn bà mưốn, ý muốn đó cực kỳ quyết liệt. Phải thực hiện bằng được. Phải theo đuổi đến cùng. Và người đàn ông, dù dạt đến cuối trời, dù trôi đến góc biển, để chạy thoát được, nếu người đàn bà chưa muốn cho y chạy thoát.
Phương quá đẹp, quá lộng lẫy. Sự có mặt của nàng giữa bến xe tỉnh nhỏ tiều tụy, có một vẻ gì lạc lõng không thích hợp. Từ trên xe bước xuống, Phương đứng im, giữa đám trẻ nhỏ, lơ và tài xế, tỉnh táo, thản nhiên như nàng đứng một mình. Nàng mỉm cười với Ninh, chờ Ninh đi lại. Ninh nói:
– Anh đã nhận được điện tín của em.
– Bao giờ?
– Hôm qua.
– Được. Nhưng anh vừa nói một câu thừa,
Ninh mỉm cười, chịu đựng sự trêu chọc của Phương, qua lối nói thẳng băng, ngỗ ngược của nàng. Ninh nhìn Phương nghĩ thầm chàng có thể đã thay đổi một phần nào, nhưng Phương thì vẫn vậy, không thay đổi. Từ hình đáng đến tâm tính.
– Sao lại thừa?
– Phải nhận được điện tín anh mới đứng đây đón em chứ.
Phương nghiêng đầu, ném cho Ninh một cái nhìn đầy tinh quái:
– Ngạc nhiên không?
– Mừng chứ sao lại ngạc nhiên?
– Ngạc nhiên chứ tại sao lại mừng.
Ninh lắc đầu:
– Em lạ thật.
Phương thản nhiên như không:
– Người khó hiểu và người lạ lùng là anh, tại sao là em được. Anh định trốn em. Không dễ dàng như anh tưởng đâu.
Ninh gật đầu công nhận:
– Anh vừa nhận thấy như thế. Nhưng đâu phải là trốn. Chúng mình...
Phương ngắt lời:
– Chúng mình đã đoạn tuyệt với nhau, ý anh muốn thế? Em đã nghĩ lại. Em chưa chịu cho anh đoạn tuyệt thì đã làm sao chưa?
– Không làm sao hết. Nhưng đừng tìm anh chỉ để gây chuyện. Anh không thích gây chuyện.
Phương vùng ngửa cổ, cười ngất:
– Đồng ý. Không gây chuyện nữa. Hay đúng hơn, để lúc khác gây chuyện chưa muộn. Bây giờ thì nhắc cho anh một điều mà anh quên, điều anh quên lại là một điều không thể nào tha thứ được.
– Nhắc đi. Quên thật, xin chịu tội.
Phương tủm tỉm cười, tiến lại một bước. Nàng đã đứng gần Ninh, quá gần. Và Ninh cảm thấy mùi thơm của tóc, của thân thể người đàn bà, mùi thơm một thời kỳ đã làm cho cảm giác chàng ngây ngất và rung động chàng choáng váng.
– Quên chưa hôn em.
Ninh giật mình nhìn quanh. Nhiều cặp mắt tò mò đang theo dõi chàng và Phương. Một cử chỉ thân mật nào cũng làm cho chàng ngượng ngập.
– Đông người quá.
– Xưa kia anh sợ đông người bao giờ đâu.
Lời nói của Phương gần như một mệnh lệnh không cho phép phản đối.
Ninh nhìn quanh, như xin lỗi về cái cử chỉ âu yếm bắt buộc, đoạn chàng cúi xuống hôn thật nhanh lên gò má Phương. Phương đâu có chịu như thế. Nàng "ứ ” một tiếng trong cổ họng như một trách mắng nũng nịu. Và đưa cánh tay lên, vòng lấy gáy Ninh, ghì lấy chàng. Cái hôn nồng nàn gần làm cho Ninh nghẹt thở. Lại như muốn trêu Ninh thêm, Phương giữ chặt vòng tay trên gáy chàng thật lâu.
Nhiều tiếng cười khúc khích nổi lên.
Phương chịu buông Ninh ra. Nàng thản nhiên lấy khăn tay trắng trong xắc, lau vệt son cho Ninh. Phương nháy mắt, cười vui thú:
– Chưa chết mà?
Ninh thở ra:
– Chưa. Nhưng cũng gần.
– Rồi em sẽ cho anh chết thực.
Ninh cười xòa, kéo tay Phương đi. Đằng sau, vẫn những tiếng cười khúc khích của bọn trẻ nhỏ đuổi theo. Cái va-ly của Phương nặng trĩu trong tay Ninh. Chàng hơi giật mình. Va-ly nặng, tức là nhiều quần áo. Mang theo nhiều quần áo, có nghĩa là Phương định ở lại đây lâu. Lâu là bao nhiêu ngày. Dăm ba hôm? Một vài tuần? Hay mãi mãi? Ninh toan hỏi lại thôi. Chàng thấy câu hỏi có vẻ bất lịch sự và có thể làm cho Phương buồn. Những cơn buồn bã và những phen tức giận của Phương là những điều chàng muốn tránh nhất. Tâm tính Phương rất bồng bột. Vui như vỡ trời vỡ đất. Buồn như sống lại như chết đi. Cười ngất đó rồi một phút sau có thể khóc như mưa như gió. Đó là cái khía cạnh bản chất vừa đáng yêu vừa đáng ghét rất riêng biệt của Phương. Nhớ hồi ăn ở với Phương, Ninh đã chịu đựng những cơn giận dữ bất ngờ thảng thốt như một trận bão rừng tàn phá. Tâm tính thoắt vui thoắt buồn, lúc nhu mì hiền hậu, lúc nóng nẩy, hỗn xược của Phương, Ninh nghĩ là do hai nguyên nhân chính yếu. Thứ nhất là do lối sống của Phương, cảnh trí Phương sống, cái chung quanh của Phương. Nếp sống lấy đêm làm ngày, thức khi người ta ngủ, ném mình vào một hiện tại, không có một ý niệm gì về ngày mai. Chúng em sống, sống phút nào biết phút ấy. Phương thường nói với Ninh như vậy. Như một đời hoa, như một đời thuyền. Sớm nở thắm tươi, chiều đã tàn héo. Sớm đậu bên này, chiều dạt bên kia. Nổi trôi vô định.. Lý do thứ hai về tâm tính bất định của Phương, là hẳn nàng đã có một thuở ấu thơ mầu xám. Người ta dễ dàng hình dung được cho Phương những ngày tuổi thơ buồn rầu và khổ cực ấy. Bố chết. Mẹ tái giá. Người bố dượng độc ác. Cảnh gia đình địa ngục. Lớn lên, Phương sống, láo lếu, bừa bãi, gần như là một phản ứng trả thù đời. Ninh cho đó là điều chàng phải nhớ để tha thứ và tội nghiệp cho Phương những lúc Phương có những hành động, những cử chỉ có thể làm chàng phát điên lên. Bù lại, những lúc khác, Phương thật dễ thương, thật đáng yêu.
Hai người ra khỏi bến xe. Phương nhìn quanh:
– Gọi xe cho em di.
Một chiếc cyclo từ đầu phố thủng thẳng tiến lại.
Ninh vẫy lại và đưa mắt tìm một chiếc cyclo thứ hai, với ý định ngồi riêng. Phương tinh ý, biết ngay. Nàng không chịu ưng thuận cho Ninh thực hiện ý định ấy.
– Ngồi chung.
Phương vỗ tay cười giòn giã, nói tiếp:
– Chưa ngồi chung xe với anh bao giờ. Thử xem, cho người tỉnh nhỏ tha hồ nhìn.
Bất đắc dĩ, Ninh phải ngồi chung xe. Đã hai người, lại thêm chiếc va-ly nặng trĩu, chiếc xe lăn từng vòng mệt nhọc. Trên xe, Phương gác đùi lên đùi Ninh, nắm chặt lấy tay chàng. Mọi cử chỉ Phương đều biểu tỏ cho một mừng rỡ nồng nàn của một người tình lâu ngày chưa gặp một người tình. Thân thể Phương đè lên Ninh ấm áp. Tròn lẳn. Nặng một khối nặng êm ái. Mùi nước hoa đắt tiền thơm lừng. Ninh quay sang để gặp một cặp mắt long lanh, hai gò má phơn phớt, và một cặp môi mở hé thật gần. Hàm răng Phương óng ánh.
– Giá trời mưa xuống? – Phương nhìn trời, chép miệng.
Ninh ngạc nhiên chưa hiểu:
– Mưa lúc này thì anh và em ướt như chuột lột, được cái tích sự gì?
– Mưa sẽ buông áo tơi cánh gà.
– Kín mít. Nóng thấy mồ.
– Nóng nhưng tự do. Tự đo hôn nhau.
Ngôn ngữ của Phương tiếp tục là một khiêu khích. Thứ khiêu khích mà khó lòng một người đàn ông nào có thể từ chối, mà ngày xưa Ninh đã rất bằng lòng. Nhưng bây giờ thì không. Từ lúc đón Phương ở bến xe, đến lúc này, ngồi chung một cyclo với nàng, Ninh biết chắc được một điều: Phương thôi không còn là một quyến rũ, một huyễn hoặc, một say đắm đối với chàng như mấy năm về trước nữa. Chàng vẫn bị rung động. Một chút. Phương đến, vẫn làm chàng cảm động. Một chút. Chỉ một chút thôi. Một chút là đủ để Ninh kìm giữ được, và chàng kìm giữ được, nghĩa là chàng còn tỉnh táo, mà khi người ta tỉnh táo, nghĩa là sự nhiệm mầu mê mẩn đã hết. Men đã hả. Hương đã nhạt. Mộng đã tỉnh. Giữa Ninh và Phương, một sợi dây đã đứt. Và mọi chắp nối lại đều vô ích. Chiếc xe lăn chậm chạp trong một im lặng bất chợt.
Phương ôm lấy Ninh.
– Anh đang nghĩ gì thế.
– Không.
– Có. Anh nói dối. Anh đang nghĩ.
– Anh đang nghĩ em vẫn dùng thứ nước hoa ngày xưa. Và màu áo hồng vẫn là mầu anh yêu thích.
Giọng nói của Phương, êm ả hẳn lại:
– Anh!
– Gì em.
– Em về đây kiếm anh, có làm phiền gì anh không?
– Chỉ hơi ngạc nhiên một chút. Điều anh muốn biết, em vẫn chưa trả lời.
– Điều gì?
– Tại sao em tìm ra anh được.
Phương cười, giơ một ngón tay lên trước miệng:
– Bí mật.
Phương lại tìm được lối cười ngửa cổ, giòn giã, tận cùng:
– Anh có chạy đằng giời cũng không thoát được tay em.
Ninh bật cười theo, gật đầu chịu nhận là đúng.
– Anh cho em ở đây với anh bao nhiêu lâu.
– Bao lâu cũng được.
– Anh nói thật đi.
– Anh về đây buôn bán. Thật đấy. Anh hết là anh ngày xưa rồi. Bây giờ là một con buôn. Bận lắm. Vậy hãy cứ tạm định là em ở đây chừng một tuần, được không?
– Được.
Khách sạn kín đáo và khuất lánh như một tòa biệt rhự. Nó nằm thật xa phía trong, ngăn cách với ngoài đường bằng một bức tường cao ngất. Cánh cửa gỗ dày, nặng, đóng kín. Ninh xách va-ly cho Phương, bước xuống. Ninh nhìn cánh cửa gỗ, bức tường, nghe ngóng sự yên tĩnh khác thường, không thể nghĩ chàng đang đứng trước lối vào một khách sạn. Phương cũng vậy. Nàng hỏi:
– Khách sạn gì mà lạ thế này?
– Ở đây, cái gì cũng lạ cũng khác hết. Em cứ sửa soạn sẵn để mà ngạc nhiên.
Nói thế, nhưng chính Ninh cũng hết sức phân vân.
Chàng quay lại hỏi người phu cyclo đã đưa hai người tới:
– Đúng khách sạn không?
Người phu cyclo ngồi thẳng người trên yên xe, thản nhiên:
– Đúng mà.
Phương cau mặt:
– Sao bác biết là đúng.
– Hôm qua tôi cũng chở hai người như cậu mợ từ bến xe tới đây mướn phòng.
Phương đưa mắt nhìn Ninh. Nàng cười, gật đầu:
– Thế thì đúng rồi. Anh bấm chuông đi. Ô hay, anh chưa tới đây bao giờ sao?
– Em hỏi lạ thật. Tất nhiên là chưa. Tới đây để làm gì? Và vì ai?
Câu nói của Ninh làm cho Phương hài lòng. Chàng thường có những câu nói như thế, nàng không cần tìm hiểu là chân thật hay giả dối, nhưng là những câu nói làm cho nàng bằng lòng và sung sướng. Phương lại gần âu yếm khoác lấy tay Ninh. Ý nghĩ về một căn buồng khách sạn sắp đón tiếp họ vào cái thế giới riêng tây thân mật của nó, tạo ở Phương những cử chỉ âu yếm. Giữa Phương và Ninh, đã như dàn ra một thứ không khí thầm kín, một thứ không khí tình nhân.
Cánh cửa gỗ mãi mãi rồi mới hở hé ra, nghi ngờ và thận trọng. Một người đàn ông gầy gò, tóc xõa xuống vai, cái nhìn lèm nhèm, ló đầu ra. Y có vẻ một người đang ngủ say, bất chợt bị đánh thức. Và đang bực mình, đang cau có.
– Tôi muốn thuê phòng.
– Một đêm hay bao lâu?
– Một tuần.
– Chỉ còn một buồng hạng nhất thôi.
– Buồng hạng nào cũng được.
Gã đàn ông quay trở vào. Ninh và Phương đưa mắt nhìn nhau, rồi lặng lẽ theo sau. Họ băng qua một con đường đá xanh, rất sạch sẽ, rồi đến một căn vườn. Mấy hàng cây xếp hàng trên thảm cỏ xanh mướt. Ninh nhìn quanh, nghĩ đến sự yên tĩnh đặc biệt của một bệnh viện.
Căn buồng mà gã bồi phòng nói là căn buồng hạng nhất của khách sạn, là căn cuối cùng của một tòa nhà một tầng, hai bên có hành lang rộng chạy dài, ngó ra một khoảng vườn có những bông hồng đỏ thắm. Cũng khá rộng rãi, sạch sẽ. Khi tất cả những cánh cửa đều được mở rộng, sự thoáng mát theo không khí ùa vào, đưa theo mùi hương thoang thoảng của hoa.
Phương có vẻ mệt. Nàng để nguyên quần áo nằm vật xuống mặt đệm. Ninh theo người bồi phòng đi ra. Chàng lại phải băng qua một con đường khác, và một thửa vườn khác mới tới phòng quản lý.
Người quản lý là một ông già đạo mạo, đeo kính trắng. Ninh theo người bồi phòng bước vào. Ông lão đang cặm cụi với một cuốn sổ dầy cộm mở rộng trước mặt. Trang sổ dày đặc những chữ số.
– Buồng A6. Người bồi phòng nói.
Ông lão già chậm chạp ngửng đầu lên. Cái kính trễ xuống, nằm trên lưng chừng sống mũi. Cái nhìn của lão quản lý khách sạn hấp háy, nghi ngờ, làm Ninh khó chịu.
– Ông mướn phòng?
Câu hỏi thừa, Ninh nghĩ thầm. Nhưng chàng vẫn gật đầu:
– Phải.
– Mình ông?
Ninh ngập ngừng:
– Tôi và... nhà tôi.
Ninh nói và nghĩ nếu Phương có mặt ở đây, hai chữ ” nhà tôi ” có lẽ làm nàng sung sướng.
– Ông đã ở đây lần nào chưa?
Ninh cau mặt:
– Chưa, có làm sao không?
Ông già thản nhiên:
– Ông đừng phật ý. Chúng tôi phải hỏi cho biết vì chúng tôi nhận được lệnh phải báo cáo về những khách trọ lạ mặt.
Ninh ôn tồn:
– Tôi không phải là một người lạ mặt. Tôi ở tỉnh này đã gần một tháng. Tôi ở nhà cụ Quảng Hưng và có cửa tiệm buôn bán ngoài bến tầu. Nhà tôi mới xuống thăm tôi. Nếu nhà tôi bị coi như một người lạ mặt cần điều tra và báo cáo thì tôi xin bảo đảm và chịu hoàn toàn mọi trách nhiệm.
– Thôi được. Ông vui lòng trả tiền trước cho.
Ninh trả tiền. Đọc tên chàng cho ông lão già ghi vào một cuốn sổ khác. Đoạn chàng bước ra, trở lại với Phương. Đẩy cửa bước vào, chàng không nhìn thấy Phương nằm trên giường nữa. Tiếng nước ào ào trong buồng tắm. Ninh mỉm cười, ngồi xuống giường châm một điếu thuốc. Thở khói ra. Ninh quay nhìn khoảng trũng của thân thể Phương còn in hằn nguyên vẹn trên mặt đệm trắng muốt. Thân thể đó lúc này, trút hết mọi thứ vải vóc che đậy nó, đang lướt thướt dưới vòi nước xối mạnh. Hai bờ vai Phương tròn và đầy. Bộ ngực nàng, như một khiêu khích sỗ sàng và rạo rực. Mái tóc nàng chắc đang cuốn cao lên đỉnh đầu cho khỏi ướt. Bỗng dưng Ninh nghĩ đến một mái tóc khác, thả dài như một dòng suối, mái tóc của Trang. Ý nghĩ này làm Ninh giật mình. Nếu chàng không về nhà cụ Quảng Hưng đêm nay? Sự vắng mặt bất thường và khó hiểu của chàng sẽ được bình luận ra sao? Trang sẽ nghĩ thế nào về sự vắng mặt ấy? Người tỉnh nhỏ không ngủ lang, không vắng nhà suốt đêm bao giờ. Một lần nói chuyện về nếp sinh hoạt đứng đắn của người tỉnh nhỏ, Trang đã vừa cười vừa nói với Ninh như vậy.
Ninh lẩm bẩm:
– Phải về nói cho họ biết.
Ninh không muốn làm cho Trang nóng ruột. Chàng đứng lên vừa lúc tiếng Phương từ trong buồng tắm vọng ra:
– Anh đâu?
– Đây. Gì thế?
– Xà bông. Cái thứ xà bông rẻ tiền này dùng không được anh ơi.
Ninh chưa nghĩ ra cách phải nói dối Phương như thế nào về sự chàng sẽ bỏ đi trong chốc lát. May quá, Phương vừa tạo cho chàng một cơ hội:
– Để anh ra phố mua xà-bông thơm cho.
– Lâu không anh? Lâu thì thôi. Đừng để em ở đây một mình, không tiện.
– Mười phút thôi. Không sao đâu. Anh trở về ngay.
Sự nóng nảy lại đến với Ninh khi về tới nhà, chàng bấm chuông, bấm chuông liên hồi mà chưa thấy cánh cửa mở ra. Cửa vừa hé mở, Ninh quên cả lễ độ, đẩy mạnh bước vào. Trang đứng né ra một bên, chớp mắt. Chưa bao giờ nàng thấy Ninh như thế. Sự bực tức hiện rõ trên nét mặt cau có của Ninh, và Trang nhìn thấy ngay. Nàng chợt nhớ đến bức điện tín Ninh vừa nhận được. Sự bực bội của chàng có phải là do bức điện tín? Trang hỏi:
– Có chuyện gì thế anh?
Ninh gượng cười:
– Không. Có chuyện gì đâu chị.
– Chiều nay, anh không ra bến?
Ninh giật mình. Tại sao Trang biết chàng không có mặt ngoài cửa hàng? Hay là nàng đã nhìn thấy chàng và Phương ngồi chung xe?
– Sao chị biết?
– Cô Sầu vừa qua đây.
Trang tủm tỉm cười. Nàng nhìn Ninh, ánh mắt thoáng một chút tinh nghịch:
– Nói đã cân giúp cho anh xong chuyến hàng rồi. Anh Ninh hên thật. Chưa chi đã có người làm giúp.
Ninh hơi ngượng:
– Tôi bận. Thật vạn đắc dĩ.
Trang đi vào trong, vừa đi vừa nói:
– Anh rửa mặt rồi mời anh đi xơi cơm.
– Tôi không ăn cơm đâu chị. Về nói cho chị biết trước tối nay tôi cũng không... về nhà.
Ninh nhìn vội đi chỗ khác, tránh cái nhìn của Trang. Tự nhiên chàng đâm ra lúng túng lạ thường. Từ trước đến nay, chưa từng bao giờ Ninh cảm thấy ngượng ngập và lúng túng như thế. Không ngủ nhà một đêm, chuyện rất thường. Tôi đã trưởng thành, có một đời sống riêng biệt, mà không kẻ nào có quyền đụng chạm tới, tôi không phải chịu trách nhiệm về mọi hành động tôi trước bất cứ một kẻ nào, ngoại trừ đối với riêng tôi, – Ninh tự nhủ thầm. Chàng bỏ Trang đứng lại ở dưới nhà và đi thật mau trên những bực thang. Nhưng tự nhủ là một chuyện. Và thắc mắc, phân vân, như đang sống với một mặc cảm tội lỗi, là một chuyện khác.
Điều Ninh không ngờ, là hơn một tháng sống dưới mái gia đình cụ Quảng Hưng, gần Trang và mấy đứa con ngoan ngoãn của nàng, Ninh đã đổi khác. Chàng biết ở chàng có một thay đổi nào đó, nhưng không ngờ là sự đổi thay lại lớn lao như vậy. Nói là Ninh không dám tự thú và đối điện với sự đổi thay ấy thì đúng hơn. Và đúng nữa còn là điều này: Ninh vẫn còn muốn nuôi dưỡng hình ảnh con người chàng trong quá khứ. Con người của những cuộc vui, những ly rượu mạnh, những đêm thức trắng, những hưởng lạc dễ đàng, những buông thả tầm thường, con người đó không có một nếp sống nào đáng kể, nhưng Ninh không bao giờ phải thắc mắc với chính nó.
Ánh đèn hắt ra từ căn buồng mẹ con bà Phán Địch cắt một vệt dài trên hành lang. Ninh chậm bước lại. Buổi tối đã xuống. Tiếng lách cách của bát đĩa va chạm của bữa ăn đang được sửa soạn từ nhà dưới vọng lên. Ý nghĩ của Ninh trở lại với khách sạn vắng người chàng vừa rời bỏ. Lúc này chắc Phương đã tắm xong. Thân thể nàng mát mẻ, mái tóc buông thả, khuôn mặt rửa sạch mọi phấn son, Phương đã từ buồng tắm ra nằm lại trên mặt đệm và chắc Phương đang nóng ruột đợi chàng.
Mẹ con bà Phán Địch đã về. Hoa vẫn cầm trên tay một cuốn tiểu thuyết, đứng tựa mình vào thành cửa. Hoa đã đứng đó từ lâu và chờ rình Ninh đi lên. Ninh liếc mắt nhìn vào. Bà Phán Địch, nằm quay mặt vào tường, thân hình khô gầy, dáng điệu thiêm thiếp, mỏi mệt. Ánh sáng của ngọn đèn trong phòng chiếu tới từ sau lưng, làm nổi bật sự mỏng manh của bộ đồ ngủ Hoa mặc trên người. Ninh cúi vội đầu bước qua, như không biết có Hoa đứng đó.
– Anh Ninh hôm nay không ra bến nhé!
Ninh đành đứng lại:
– Vâng, chiều nay tôi bận.
– Tôi biết anh Ninh bận việc gì rồi. Lần sau có bận để tôi cân hàng giùm cho, việc gì phải nhờ cô Sầu. Người cùng nhà không nhờ, đi nhờ người khác. Họ dám lấy hàng của anh lắm dấy.
– Ai lấy?
Giọng Hoa lững lờ, bóng gió:
– Ai thì anh biết.
Ninh nghiêm mặt:
– Cô Hoa đừng nói bậy.
– Anh giận?
– Việc gì tôi phải giận cô. Nhưng cô đừng bao giờ nói bậy như thế nữa.
Hoa cười khanh khách, tiếng cười đầy vẻ trêu ghẹo thích thú. Tiếng cười ấy đuổi theo Ninh vào tận buồng chàng. – "Bỗng dưng nhiều chuyện phiền phức quá” – Ninh cau mặt lẩm bẩm. Chàng đứng lại, định thần một lát, xếp đặt lại thứ tự ý nghĩ trong đầu. Đoạn, lấy một bánh xà-bông, một cái khăn mặt, một bộ đồ ngủ, Ninh cuộn tròn lại, cho tất cả vào một cái va-ly nhỏ. Nhìn đồng hồ, từ lúc rời khách sạn, đã hơn nửa giờ trôi qua. Vậy mà Ninh nhớ chàng chỉ hẹn Phương có mười phút là quay lại.
Ninh tắt đèn, đóng cửa buồng, đi thật mau trở ra. Hoa vẫn đứng nguyên ở chỗ cũ, ta mình vào thành cửa. Trước nét mặt lạnh lùng của Ninh, Hoa không dám hỏi thêm gì nữa. Thiếu nữ bỉu môi nhìn thco Ninh chạy mau xuống cầu thang.
Chàng gặp Trang ở dưới chân thang. Nàng đứng cùng với thằng Phi. Đứa nhỏ giữ chàng lại:
– Bác đi đâu?
– Ra phố cháu ạ!
– Bác không ở nhà ăn cơm đã sao?
– Bác phải đi ngay.
Trang nhìn Ninh, gắt nhẹ với con:
– Hư lắm. Để cho bác đi. Bác đang bận.
Nàng đổi giọng:
– Bao giờ anh về?
– Sáng mai chị ạ!
Ninh đã ra đến gần cửa, còn quay lại:
– Chị thưa với cụ hộ cho.
– Được ạ! Mời anh cứ đi.
Trang đứng lặng, nhìn cánh cửa đóng lại sau lưng Ninh. Lắng tai theo dõi tiếng giầy của chàng trên hè đường bên ngoài. Nghe theo cho đến khi tiếng giầy Ninh mất hẳn. Trang dắt tay con, đi lững thững vào buồng trong. Nàng đứng lại trước bàn ăn nhìn những món ăn mới dọn lên, còn nghi ngút bốc khói.
Toàn là những món Ninh yêu thích, hoặc là nàng đoán Ninh yêu thích. Món đậu nhồi thịt này. Những khoanh đậu vàng ánh, chín phồng, thịt băm nhỏ nhồi ở giữa, với những thỏi mục nhĩ đen ánh, sao mỡ nổi đầy xung quanh, trông thật ngon mắt. Món nộm rau muống này. Rau xanh ngắt, trộn với vừng giả nhỏ biến, nàng đã để vào đó thật nhiều tỉ mỉ, thật nhiều công phu. Và bát canh cá giấm mà Trang đã canh bên cạnh cái bếp than cho thật chín vừa độ lửa. Mỗi bữa ăn hàng ngày, với Trang, từ khi có Ninh, là kết quả một sửa soạn và một săn sóc hết sức kín đáo.
Hồi này, buổi sáng mặc áo, xách làn mây đi chợ là một thú vui đặc biệt của nàng. Đi chợ về, nàng đích thân xuống bếp, giành lấy việc củi lửa và nấu nướng là công việc trước kia nàng phó mặc cho người chị hai, hoặc có để mắt tới, cũng chỉ qua loa chiếu lệ.
Nhà có một người khó tính nhất là người mẹ chồng, thì cụ Quảng Hưng đã ăn chay từ ba bốn năm nay. Một lọ muối vừng, một đĩa rau luộc, thế là xong. Riêng Trang ăn uống thế nào cũng được. Bà Phán Địch, hay Hoa, thích ăn món gì, xuống bếp mà làm lấy. Ông giáo Điền thì bữa cơm ngon hay bữa cơm không ngon cũng thế mà thôi. Có Ninh ở trong nhà, bữa ăn đối với Trang trở thành một vấn đề quan trọng. Điều làm cho Trang sung sướng, thầm kín sung sướng, là như nhờ Ninh, nàng được trở lại với một người đàn bà toàn vẹn, theo cái ý nghĩa đằm thắm và tốt đẹp nhất của người đàn bà. Xưa, nàng sống như một âm thầm hình bóng. Bây giờ khác. Chưa phân tích được sự khác biệt ấy như thế nào. Chỉ biết bây giờ khác. Khác với quá khứ. Khác với con người nàng dửng dưng trong sầu muộn ngày trước.
Mọi người từ sau lưng Trang, lục tục ngồi vào bàn ăn. Trang đăm đăm nhìn cái ghế ở đầu bàn bữa nay bỏ trống. Nàng quay vội đi khi thấy Hoa cũng nhìn cái ghế bỏ trống, và bất chợt ngước lại nhìn nàng, như dò xét.
Trang đã định nói nàng mệt không thấy đói bụng, để bỏ bữa ăn. Sợ mọi người có thể thắc mắc, nàng gắng gượng ngồi vào bàn. Nàng vừa ăn vừa nói chuyện với bà Phán Địch, với ông giáo Điền. Nàng cười nói, cố làm ra vẻ tự nhiên. Nhưng cái ghế bỏ trống của Ninh vẫn còn đó. Cuối cùng, Trang ăn thật nhanh, rồi đứng lên, và lên thẳng phòng riêng.
Mai Thảo
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Viết bằng tiếng Anh để ‘xuất khẩu’ văn chương Mới đây, Kiều Bích Hậu đã khiến giới văn chương nước nhà ngạc nhiên khi ‘bỗng đâu’ gặp một...