Nhà văn Bão Vũ: Người kể chuyện cổ tích hiện đại
Bão Vũ đã ngoài 70, ông ít giao du, vẫn lao động miệt mài. Gặp ông để chuyện trò thật khó, đôi khi gặp được ông qua điện thoại, tôi hỏi thăm sức khoẻ và công việc của ông. Với cách nói chậm rãi, rủ rỉ, ông bảo “mọi chuyện vẫn vậy”. Ông vẫn đang viết vì còn nhiều điều thôi thúc. Còn chuyện nhà, chuyện xã hội, chuyện chức tước, danh vọng ông ít quan tâm. Có trách ông lười hoạt động xã hội, ông lại ậm ừ: “Ừ, mình sẽ khắc phục dần dần”…
Nhà văn Bão Vũ xuất hiện trên văn đàn muộn: Năm 1998 anh mới
xuất bản tập truyện ngắn đầu tay “Cánh đồng mơ mộng” và ngay lập tức được coi
là hiện tượng văn chương lúc bấy giờ… Sau đó liên tiếp từ năm 1999 đến năm 2007
Bão Vũ cho ra đời 3 tập truyện ngắn: Biển nổi giận (1999); Mây núi
Thái Hàng (năm 2000); Hoang đường (năm 2003); Hai truyện vừa: Vườn
thuốc (năm 2001), Thị trấn Mỵ Giang (năm 2002) và 2 tiểu thuyết: Vĩnh
biệt vườn địa đàng (năm 2004); Bài hát cỏ vi (năm 2007). Một số
truyện ngắn, truyện vừa của ông được chuyển thể thành kịch bản phim truyện truyền
hình, phim truyện nhựa, kịch truyền thanh như: Trầu têm cánh phượng, Chuyến
taxi cuối cùng, Người muôn năm cũ, Cây bạch đàn xào xạc, Niệm khúc, Rau cải đắng,
Chuyện có thể, Trò đùa của Thiên Lôi v.v… Tác phẩm của ông còn được dịch
ra tiếng Anh: Truyện ngắn Cô gái không biết khóc (năm 2002), Truyện Vết
thương trong không gian (năm 2005). Ông được tặng Giải thưởng của Hội Nhà
văn Việt Nam, báo Văn Nghệ, Giải thưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giải thưởng Văn học
nghệ thuật Hải Phòng v.v…
Ông nổi tiếng nhanh, tạo được ấn tượng mạnh mẽ với đông đảo
người đọc đến mức một nhà văn phải thốt lên ngạc nhiên: “Sao cái ông kiến
trúc sư này cuối đời lại hứng lên lấn sang lĩnh vực văn chương để làm gì?”. Thực
ra, Vũ Bão (tên thật của nhà văn) viết văn từ sớm: Những năm 60 ông đã viết
những truyện ngắn khá hay, nhưng cứ sửa đi sửa lại, bận công việc chuyên môn
nên ông ngại gửi đi như truyện ngắn Những đám mây ông viết từ
năm 1961, sửa lại lần cuối năm 2001 mới gửi đi.
Bão Vũ là người sống khép kín, kiệm lời, khiêm tốn. Việc anh
chậm xuất bản những gì mình viết có nguyên nhân của nó: Vì khi làm công việc
một kiến trúc sư anh hết lòng, luôn có trách nhiệm với những đồ án, bản vẽ hàng
trăm công trình của mình. Chỉ đến khi chuẩn bị nghỉ hưu anh mới lại cầm
bút thường xuyên hơn. Những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời từ năm 1998 đến năm
2014 đã minh chứng tài năng, vốn sống, bút pháp văn chương, khẳng định vị trí của
anh trong văn học Việt Nam.
Ngoài những giải thưởng văn học, anh được cử vào Hội đồng văn
xuôi Hội Nhà văn Việt Nam khoá 7 và là Chi hội Phó Chi hội Nhà văn Việt Nam tại
Hải Phòng.
Đọc Bão Vũ, ta có cảm tưởng anh mới chỉ nói 50% những điều
anh biết, anh cảm nhận. Hai cuốn tiểu thuyết, hai truyện vừa, sáu tập truyện ngắn
và những kịch bản phim làm ta giật mình khi đọc anh… Đọc Bão Vũ không thể vội,
mà phải chậm rãi, nhẩn nha, nhiều khi phải dừng lại bỏ vài ngày cho ngấm rồi mới
đọc, mới thấm được cái hay trong những câu chuyện có vẻ cũ kĩ, cổ xưa nhưng hiện
đại, lôgic, như thời chúng ta đang sống. Đó là những chuyện cổ tích mang dáng dấp
liêu trai, hoài cổ về cuộc đời.
Tôi mê truyện ngắn của Bão Vũ vì cùng một cách viết, cách
nghĩ nhưng đọc anh tôi thấy thú vị hơn đọc Nguyễn Khải, Tô Hoài. Đó là suy nghĩ
của tôi khi đọc những truyện ngắn tiêu biểu của anh trong tập Thung
lũng ngàn sương (năm 2013). Truyện ngắn đầu tay Những đám mây Bão
Vũ viết ở Hà Đông từ năm 1961 khi còn là cậu sinh viên kiến trúc đi thực tập: Một
câu chuyện buồn trong veo đượm màu cổ tích về thằng bé Vũ được bố nó gửi lại ở
với anh khi đi cùng con tàu Hải quân ra biển sáng tác rồi hy sinh không về nữa.
Thằng bé chỉ có một mình, đói và buồn. Những buổi chiều nó thường ngồi bất động
trước nhà ngửa cổ nhìn những đám mây bay trên trời mà tưởng tượng ra các chuyện
cổ tích về những con ngựa, con gấu bay, những vị tướng, dũng sĩ và cả những con
quỷ mà mẹ Vũ khi còn sống đã kể cho nó nghe. Những câu chuyện thần tiên từ hình
thù của những đám mây ấy, trong những giấc mơ bao giờ mẹ nó cũng hiện về
nói với nó những lời âu yếm, ngọt ngào. Anh (tác giả) thương xót Vũ, luôn giúp
thằng bé tưởng tượng những câu chuyện thần tiên từ những đám mây ấy vì có hôm
giông gió bầu trời vần vũ đen ngòm…
Cái kết của truyện ngắn thật buồn thảm: Bố Vũ chết, bác ruột
đến đón nó về quê ở vùng núi nào đó để chăn trâu cắt cỏ. Hình ảnh thằng bé trọc
đầu, gầy gò, ngơ ngác, mặc chiếc áo thụng quá gối, cầm chiếc đồ chơi con ngựa của
bố nó làm từ ống tiêm theo người đàn bà thấp bé, còm nhom mặc bộ đồ đen dắt
nhau rời ngôi nhà nơi nó đã tá túc hàng năm ngồi ngắm những đám mây thật buồn,
khiến trái tim người đọc rưng rưng. Đó chính là tài năng thiên bẩm của
Bão Vũ trong các câu chuyện cổ tích hiện đại của mình. Những câu chuyện hoài cổ
long lanh thoảng mùi hương tinh khiết, thanh tao dành cho những tâm hồn tinh tế
chia sẻ cùng anh.
Hai truyện ngắn Thung lũng ngàn sương, Liễu Chương Đài là
những chuyện kiểu liêu trai hư ảo, nửa thực nửa mơ, như xảy ra từ trăm năm trước
mà vẫn đậm chất đời thường hôm nay. Tình yêu của chàng sinh viên trường Y với
nàng Mai Thi xinh đẹp vợ hoàng tử vua Mèo ở thung lũng Ngàn Sương kia có
thật hay do Bão Vũ tưởng tượng ra có lẽ chỉ nhà văn biết? Cũng như chuyện chàng
thi sĩ đói khát Hàn Hoành với nàng kĩ nữ Liễu Thị ở Trường An có phố Chương Đài
bên dòng sông Lam Thắng có những hàng liễu xanh mướt, chảy dài như dòng suối
xanh, như mái tóc của người thiếu phụ vẫy gọi chồng.
Chương Đài liễu trước xanh xanh
Còn nguyên hay đã bẻ cành cho ai.
Và khi Liễu Thị kĩ nữ bỏ Hàn Hoành đi theo tiếng gọi tình yêu
xác thịt của viên tướng Asá Lợi… Hàn Hoành bán hết nhà cửa đồ đạc lang thang
làm thơ, hát khúc Liễu Chương Đài bất hủ làm dân khắp thiên hạ gặp Hàn Hoành
thi sĩ đều khóc, hát cùng anh khúc “Liễu Chương Đài”.
Ngày trước xanh xanh
Hầy a
Liễu Chương Đài
Ngày trước xanh xanh
Hầy à
Hỏi có còn không
Hầy! Liễu Chương Đài
Câu chuyện cổ xưa “Liễu Chương Đài” như sống lại với Sinh từ
chiến trận trở về (sau việc báo tử nhầm). Nghĩa khuyên Thục về sống với Sinh,
quên chuyện cũ đi, anh bán nhà, đất đai bỏ cả nghề thợ mộc lên đầu nguồn nuôi
cá lồng bè để quên Thục… Nhưng cuối cùng Thục vẫn bỏ Sinh, bỏ cuộc sống đầy đủ
để tìm đến đầu nguồn nơi Nghĩa sống. Chuyện tình xưa và nay có gì thật giống
nhau, đều đau đớn, xót xa, dằn vặt nhưng đậm tình người, tình đời. Đọc 2 truyện
của Bão Vũ, nhiều lúc thức giấc giữa nửa đêm, tôi cứ ám ảnh bởi câu hỏi:
Liệu cô nàng Mai Thi có bỏ hoàng tử con Vua Mèo để tìm đến với Linh, chàng sinh
viên trường thuốc đang chờ đợi nàng suốt cả cuộc đời? Bên tai tôi vang vọng điệu
hát dân dã của người dân Phúc Kiến khi hát khúc “Liễu Chương Đài” của chàng thi
sĩ Hàn Hoành.
Ngày trước xanh xanh
Hầy a
Liễu Chương Đài…
Truyện ngắn của Bão Vũ làm ta ám ảnh, vương vấn rất lâu
bởi những chi tiết độc đáo, tính cách của các nhân vật anh tạo nên như một vết
chém hằn trên gỗ… không thể quên.
Tôi đặc biệt thích truyện ngắn: Cô Láng Giềng trở về và Rau
cải đắng bởi phong vị lãng mạn, nên thơ có dư âm buồn sâu xa, chua chát,
có lúc tàn nhẫn làm trái tim đau thắt…
Truyện Cô Láng Giềng trở về chỉ có chục trang kể lại
chuyện bà Hằng Việt kiều ở Pháp trở về làng mình sau mấy chục năm… hồi tưởng lại
những kỷ niệm của mối tình đầu với chàng Vệ quốc quân, người yêu cô khi mới bước
vào đời. Họ yêu nhau thơ mộng, đẹp như một bài thơ. Nhưng anh kiên quyết lên đường
vào Vệ quốc quân đi cứu nước. Hằng không thể ngăn anh lại, cô yêu anh say đắm,
yêu cả tiếng đàn măng-đô-lin lãng tử của anh. Hôm chia tay anh lên đường, Hằng
đã chủ động hẹn anh buổi trưa đến nhà, quyết hiến tấm thân trong trắng cho mối
tình đầu. Cô nằm xuống ổ rơm có những sợi rơm vàng óng ánh thơm lừng, tự cởi
cúc áo mình… nhưng anh đã cao thượng từ chối. Anh cầm cuốn thơ tặng cô che lên
bộ ngực trần… và anh đã lên đường… Vài năm sau Hằng được tin anh hy sinh ở
mặt trận. Mấy chục năm sau, bà Hằng trở về nhà, nỗi nhớ về anh làm sống lại mối
tình đầu thiêng liêng ấy. Bà Hằng muốn được nằm lại trên chiếc ổ rơm như xưa ấy
chỉ một lần, dù biết bây giờ không ai còn nằm ổ rơm nữa. Một kỉ niệm buồn se sắt,
ta thấy như mê đi trong tiếng đàn măng-đô-lin của anh lính Vệ quốc quân bên cô
Hằng trẻ trung ngày ấy.
Câu chuyện như một giấc mơ hoài cổ, đẹp và buồn đến lạ lùng.
Truyện “Rau cải đắng” cũng hương vị đó, nhưng câu chuyện có cái kết chua chát,
cay đắng hơn: Ba chàng sinh viên sơ tán về xóm Sơn Hạ, nơi có những người dân
theo đạo Thiên Chúa hiền lành, cả tin mộc mạc, chân tình, họ trồng rau cải đắng.
Thục, gã sinh viên thâm độc, bỉ ổi với tài học vẹt, nhớ dai đã đóng vai một thầy
dòng giảng kinh thánh cho đám con chiên ít học ở Sơn Hạ những kiến thức về đức
Chúa trời được dân quý mến, giúp đỡ cho đồ ăn, áo mặc. Và Thục đã lợi dụng điều
đó để lừa gạt Anna Hạ, cô gái có chồng (đi bộ đội đã chết). Thục chiếm đoạt làm
cô có mang, Thục đào tẩu đổ chuyện đó cho ông Độc bố chồng của Hạ, làm ông phải
bỏ nhà đi, còn Hạ đẻ non, con chết, cô thành người ngớ ngẩn… Câu chuyện buồn nẫu
ruột đó được Bão Vũ kể trên nền xanh mùa rau cải đắng ở Sơn Hạ. Những luống cải
xanh rờn điểm hoa vàng rực rỡ bên nỗi đau khôn nguôi của những người dân Sơn Hạ
mà những kẻ xấu xa như Thục tạo ra.
Chuyện sáng tỏ sau 20 năm trở lại Sơn Hạ do chính Thục nói ra
làm Lân, chàng sinh viên yêu cô Hạ ngày xưa đau đớn đến mất ngủ, trước sự vô
luân, đểu giả, tàn nhẫn của Thục, giờ đã trở nên giàu có. Câu chuyện hệt một
bài thánh ca buồn lặng lẽ đánh vào sự vô cảm ích kỉ của con người. Cái xóm đạo
nhỏ bé với mùa rau cải đắng cứ vương vấn, xao xuyến bao trái tim nhạy cảm. Bão
Vũ như một ông cha đạo rửa tội cho các con chiên tội lỗi của mình.
Trong hai truyện vừa và hai tiểu thuyết anh đã xuất bản còn
nhiều điều để nói nếu ta có thời gian đọc như tiểu thuyết “Vĩnh biệt vườn địa
đàng” nói về những người Việt Nam kiếm sống ở nước ngoài. Những bi kịch của Kì,
Vĩ, Di, của chị Nhu thật cực nhọc, đau xót: Có người chết, người bị tù đày, người
phải tìm đường trở về nước và cả những người còn ở lại sống lay lắt để tồn tại
với nỗi nhớ quê hương.
Tiểu thuyết của Bão Vũ có nhiều chi tiết sống động, tái hiện
cuộc sống đời thường khiến người đọc tò mò, chăm chú tìm hiểu số phận các nhân
vật trong truyện. Những cái kết của tiểu thuyết thường buồn, bế tắc vì đó chính
là sự thật của những người Việt tha hương trên đất nước người.
Tôi mê đắm, bị lôi cuốn khi đọc truyện vừa “Miên Giang” của
Bão Vũ. Câu chuyện kể về một thị trấn nhỏ bị bỏ quên nằm đâu đó gần quốc lộ từ
Đông Hải về Hà Nội, nơi còn sót lại vài ngôi nhà cổ xây từ năm 1932 có con sông
Miên Giang kề thị trấn. Những dị nhân mà anh kể trong chuyện là những nhân vật
điển hình có một không hai, đọc một lần không thể quên: đó là lão Thầu Khoán lấy
cả hai chị em ruột và sau đó lại cưới luôn cả đứa con gái xinh đẹp của mình với
lí luận “tao sinh ra nó, nó là của tao”, lão đưa con gái của mình sang Pháp làm
lễ cưới… Rồi chuyện tay nha sĩ, chủ hiệu trồng răng lừa cưỡng hiếp một cô gái
trẻ đến chữa răng, y ra toà bị tù 1 năm, phải bồi thường rất nhiều tiền.
Khi lão ra tù, vợ lão đã đoạt hết tài sản để sống với chồng mới, lão hoá điên,
lẩn thẩn đi khắp thị trấn bới rác sống qua ngày. Y trầm mình chết ở sông Miên
sau khi đã tự nhổ hết các răng của mình. Khi vớt được xác, người ta thấy tay
lão vẫn còn ôm khư khư bọc đồ nghề trồng răng… thật kinh khủng. Và còn những
nhân vật ghê gớm khác như kẻ giết người hàng loạt – thủ kho Đàm Trọng Cuốc, y
giết người bất chợt chẳng có lý do gì, chỉ để thưởng thức nạn nhân bị giết giãy
giụa tuyệt vọng trước khi chết. Hàng chục nạn nhân đã chết dưới bàn tay hộ pháp
của y, vì y giết người chỉ bằng đôi tay của mình. Nếu y không tự nói ra thì sẽ
chẳng ai điều tra được tội ác của y. Chuyện về Cuốc làm ta rùng mình về sự dửng
dưng tàn bạo của cái ác, “một con thú người” như Bão Vũ đặt tên. Một dị nhân
khác của Miên Giang thật ấn tượng là cô Dao người đàn bà cao đến 1m8 xinh đẹp,
hấp dẫn có hàng ria mép, làm nghề bốc vác. Bao chàng trai ở thị trấn mê đắm
nhưng cô Dao, chỉ yêu, thờ phụng, phục vụ Củng nghiện. Cô làm việc quần quật
quanh năm để nuôi Củng ăn, hút. Cô lúc nào cũng rạng rỡ sung sướng như được thờ
phụng một báu vật. Củng nghiện hút quá liều, chết, cô Dao không thiết sống nữa,
cô bỏ việc sống lang thang đói khát, cô đã chết vào một đêm trăng ở sông Miền.
Người ta chôn cô cạnh mồ Củng nghiện. Một câu chuyện về mãnh lực của tình yêu đến
kỳ lạ… Các nhân vật chính trong chuyện “Miên Giang” như kĩ sư Lân, ông Khoái
nhân viên đo đạc lưu vong từ thời Pháp liên quan đến lịch sử nhà bánh đậu xanh
Kim Phượng thật bí hiểm, hấp dẫn. Cái kết không lối thoát của các nhân vật
trong cái thị trấn nhỏ bé tù túng ấy hệt những gì đang diễn ra ở các huyện, thị
trấn hẻo lánh ở các tỉnh, thành phố bây giờ.
Đọc những truyện ngắn và truyện vừa Miên Giang, ta thấy
tài năng đặc biệt của Bão Vũ trên cương vị nhà văn. Ông đã tạo ra những trang
viết ấn tượng, những nhân vật điển hình trong tác phẩm của mình đóng góp vào
dòng văn học hiện đại Việt Nam.
Bão Vũ đã ngoài 70, ông ít giao du, vẫn lao động miệt mài. Gặp
ông để chuyện trò thật khó, đôi khi gặp được ông qua điện thoại, tôi hỏi
thăm sức khoẻ và công việc của ông. Với cách nói chậm rãi, rủ rỉ, ông bảo “mọi
chuyện vẫn vậy”. Ông vẫn đang viết vì còn nhiều điều thôi thúc. Còn chuyện nhà,
chuyện xã hội, chuyện chức tước, danh vọng ông ít quan tâm. Có trách ông lười
hoạt động xã hội, ông lại ậm ừ: “ừ, mình sẽ khắc phục dần dần”.
Chuyện về nhà văn Bão Vũ là thế, ông lặng lẽ, bình dị, miệt
mài sáng tạo những tác phẩm đích thực tặng cuộc sống, cho những người đang sống
hôm nay và thế hệ trẻ mai sau. Những cống hiến của ông thật đáng trân trọng,
làm rạng rỡ nền văn chương Việt Nam.
12/11/2020
Nguyễn Long Khánh
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét