Xuân Diệu là một nhà thơ lớn.
Nhiều người đã viết về ông và nhiều nhất là về thơ tình của ông. Nhưng trong
thơ tình của Xuân Diệu, những đối tượng nào được ông yêu thì hình như chưa có
ai bàn đến. Trong khi, đó lại chính là điểm hứa hẹn nhiều chuyện thú vị.
Chúng ta nên biết là suốt đời Xuân
Diệu không có vợ, không có con. Ông sống độc thân cho đến lúc mất, vào năm
1985, lúc 69 tuổi. Trong bài 'Khung cửa sổ', Xuân Diệu tả cuộc sống của mình
như sau:
Anh có
nhà, có cửa
Nhưng
không vợ, không con
Sợ cái bếp
không lửa
Sợ cái cửa
không đèn.
Những đêm
đi xa về
Tận xa
nhìn cửa đóng
Không ánh
sáng đón mình
Cảm giác ngậm ngùi mỗi lần nói đến
chuyện tình yêu đã xuất hiện trong thơ Xuân Diệu ngay trước năm 1945, lúc
Xuân Diệu còn là một thanh niên. Lúc đó, khi nhìn những người đẹp, ông đã
chua chát tự nhủ thầm:
Ta thấy em
xinh khẽ lắc đầu
Bởi vì ta
có được em đâu.
Cũng có
khi ông trách móc:
Lòng ta là
một cơn mưa lũ
Đã gặp
lòng em là lá khoai.
Mưa biếc
tha hồ tuôn giọt ngọc
Lá khoai
không ướt đến da ngoài.
Những cảm giác như vậy xuất hiện
nhiều lần trong thơ Xuân Diệu. Có thể nói là mặc dù rất đa tình, Xuân Diệu ít
khi được thoả mãn. Lý do chính của tình trạng này có thể làm nhiều người kinh
ngạc: Xuân Diệu là một người đồng tính luyến ái.
Ở Hà Nội, trong giới quen biết với
Xuân Diệu, hình như đã có nhiều người biết chuyện này. Tuy nhiên, ít ai dám
công khai nói ra, có lẽ vì sợ cái uy thế của Xuân Diệu và của Huy Cận. Người
đầu tiên dám đề cập đến chuyện này một cách công khai chính là Tô Hoài trong
cuốn Cát bụi chân ai xuất bản năm 1993 tại Hà Nội. Tô Hoài kể, trước năm
1945, ông được gặp Xuân Diệu vài lần, lần nào cũng diễn ra cái cảnh:
Xuân Diệu
và Huy Cận lên Nghĩa Đô, ở chơi cả buổi và ăn cơm. Dịu dàng, âu yếm, Xuân
Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm
đuối. Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá, hơi lạ với tôi,
nhưng mà tôi cảm động. Tôi sướng mắt nhìn tập thơ Thơ thơ khổ rộng nhà in
Trung Bắc phố Hàng Buồm. Hai chữ Xuân Diệu nét chì sắc gọn, không phải chữ gỗ
dẹp đét.
Thỉnh
thoảng, Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn nắm tay cả buổi, nhìn tha thiết. Xuân
Diệu yêu tôi. (tr. 168-69)
Cũng trong cuốn hồi ký này, Tô
Hoài kể là trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, lúc ở căn cứ Việt Bắc, hằng
đêm Xuân Diệu hay sang giường các bạn trai của ông để tỏ tình, âu yếm. Các
bạn trai của ông rất sợ, vì vậy cứ đêm đến là họ...đi tị nạn sang các nhà
khác, không ai dám ở chung với Xuân Diệu:
Mọi công
việc cơ quan lặng lẽ, nhưng cứ tối đến thì nháo lên, nháo lên một cách âm
thầm. Các chàng trai trẻ vào ngủ lang trong xóm. Thằng Đại trắng trẻo, mũm
mĩm thì biến là phải. Nhưng cả thằng Nghiêm Bình cao to hiên ngang thế, tối
cũng lẳng lặng vác cái ghi ta đi. Bốn bên lặng lẽ như tờ. (tr. 171)
Mặc dù Tô Hoài đã được Xuân Diệu
vuốt tay và nhìn đắm đuối trước năm 1945 như ông đã kể, nhưng hình như ông
cũng chưa hiểu hết mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Cho nên đêm đầu tiên ghé
lại khu văn nghệ sĩ ở căn cứ địa Việt Bắc, ông đã an nhiên ngủ lại trong căn
nhà này chung với Xuân Diệu. Nửa đêm, lúc ông đang ngủ mê, thì:
Bàn tay ma
ở đâu sờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay người đầy đặn, ấm ấm. Hai bàn
tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần xuống dần [...].
Trời rạng
sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết. Tôi he hé mắt nhớ lại
những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối
đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa mưa. (tr. 170)
Cuối cùng, khi chuyện vỡ lỡ, tổ
chức đem Xuân Diệu ra kiểm thảo. Tô Hoài viết tiếp:
Cuộc kiểm
điểm Xuân Diệu kéo dài hai tối. Hồi ấy chưa biết phương pháp chỉnh huấn,
nhưng hàng ngày chúng tôi làm việc giờ giấc nghiêm ngặt, mỗi tổ buổi chiều
trước giờ tăng gia lại hội ý rút kinh nghiệm, hướng sửa chữa và công việc
ngày mai của từng người. Cả cơ quan họp đến khuya. Chỉ có ông Phan Khôi lên
buồng vẫn mắc màn sẵn đi ngủ từ chặp tối, bỏ ngoài tai mọi việc.
Xuân Diệu
chỉ ngồi khóc, chẳng biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Nguyễn Văn
Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, thằng Đại và mấy thằng nữa, có ai ngủ
với Xuân Diệu không, nhưng cũng không ai nói ra. Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ
lên, trong đêm tối quyến rũ, mình cũng điên kia mà. Không nói cụ thể việc ấy,
nhưng ai cũng to tiếng gay gắt “tư tưởng tư sản, phải chừa đi.” Xuân Diệu nức
nở “tình trai của tôi... tình trai” rồi nghẹn lời, nước mắt lại ứa ra.
Ít lâu
sau, trong một cuộc họp ban chấp hành, Xuân Diệu bị đưa ra khỏi ban thường
vụ. Và cũng thành một cái nếp kéo dài, từ đấy không ai nhắc nhở đến những
việc chủ chốt trước kia Xuân Diệu đã phụ trách. Bỗng dưng, Xuân Diệu thành
một người hiếm thì giờ chỉ chuyên đi viết. Mà Xuân Diệu cũng tự xa lánh mọi
công tác. (tr. 171-2)
Đó là chuyện ngoài đời. Chuyện này
tuy có thể thoả mãn óc tò mò của chúng ta, tuy nhiên nó lại không đáng bàn và
cũng không nên bàn nhiều. Dù sao nó cũng là chuyện riêng tư và chúng ta có
bổn phận phải tôn trọng chuyện riêng tư đó. Điều đáng nói hơn là chúng ta thử
tìm những biểu hiện đồng tính luyến ái trong thơ của Xuân Diệu.
Trong đoạn hồi ký trên, Tô Hoài có
nhắc đến chi tiết: Xuân Diệu nức nở nói về 'tình trai' của mình. Tình trai là
tình giữa hai người con trai với nhau. Chữ 'tình trai' gợi cho chúng ta nhớ,
trong tập Thơ thơ, tác phẩm đầu tay xuất bản năm 1938 của Xuân Diệu, có một
bài thơ nhan đề là ‘Tình trai’ như sau:
Tôi nhớ
Rimbaud với Verlaine
Hai chàng
thi sĩ choáng hơi men
Say thơ xa
lạ, mê tình bạn
Khinh rẻ
khuôn mòn, bỏ lối quen.
...
Kể chi
chuyện trước với ngày sau
Quên ngó
môi son với áo màu
Thây kệ
thiên đường và địa ngục
Không hề
mặc cả, họ yêu nhau.
Bài thơ viết về chuyện hai nhà thơ
Rimbaud và Verlaine của Pháp nhưng qua đó ngụ ý của Xuân Diệu là nói đến
chuyện của mình. Yêu bạn trai, ông quên cả chuyện “ngó môi son với áo màu”,
tức là phụ nữ. Mối tình trai này tha thiết đến độ “Thây kệ thiên đường và địa
ngục / Không hề mặc cả, họ yêu nhau.”
Cũng trước năm 45, Xuân Diệu có
bài thơ nhan đề là ‘Tặng bạn bây giờ’:
Ta biết
ngày mai em có vợ
Đi làm hai
bữa, tối về thăm
Cơm xong,
chén nước chờ bên cạnh;
Em bế
thằng con được mấy năm.
Chỉ mấy
năm thôi, đủ phận chồng
Chàng trai
tơ mởn đã thành ông
Không còn
mộng dễ ngày tươi trẻ
Mắt sáng
phai rồi, má hóp không.
Em ngồi
trông vợ thấy nàng tiên
Là một
người thôi, mộng hão huyền
Ta bước
bên đường kêu gọi mãi
Nhớ người
bạn cũ thuở anh niên.
Em nghe tê
tái dưới hàng mi
Tiếc thuở
say nồng, nhớ bạn si
Khép mắt
buồn xa, em sẽ bảo:
- Có chàng
Xuân Diệu thuở xưa kia...
Từ trước đến nay, đọc bài thơ
trên, ít ai chú ý đó là bài thơ tả mối tình của một người đồng tính luyến ái.
Người được tác giả gọi bằng em một cách tha thiết lại là một người con trai.
Nhà thơ yêu người con trai đó và ghen tức trước viễn tượng là một ngày kia
người con trai sẽ lấy vợ “Ta biết ngày mai em có vợ.”
Sau này, có thời gian Xuân Diệu
sống hẳn với một thanh niên tên là Hoàng Cát. Ông làm bài ‘Đời anh em đã đi
qua’ tả lại quãng đời hạnh phúc này:
Đời anh em
đã đi qua
Sáng thơm
như một luồng hoa giữa đời
Hiểu làm
sao hết, em ơi
Bốn năm kỳ
diệu đất trời nhờ em
Ngôi nhà,
cánh cổng, trái tim
Khóm cây,
con mắt ngày đêm đón mừng.
Em đi, anh
ngóng trông chừng
Anh về,
miệng đã gọi lừng: em ơi !
Bữa ăn
thành một hội vui
Có em gắp
với, rau thôi cũng tình
Cảnh
thường cũng hoá ra xinh
Có em, anh
hết nghĩ mình bơ vơ ...
Khi Hoàng Cát đi bộ đội rồi phải
rời Hà Nội vào chiến trường miền Nam, Xuân Diệu làm bài thơ đưa tiễn đầy nước
mắt nhan đề là ‘Em đi’ với lời đề “Tặng Hoàng Cát” như sau:
Em đi, để
tấm lòng son mãi
Như ánh
đèn chong, như ngôi sao.
Em đi, một
tấm lòng lưu lại
Anh nhớ
thương em, lệ muốn trào.
Ôi Cát!
Hôm vừa tiễn ở ga
Chưa chi
ta đã phải chia xa !
Nụ cười em
nở, tay em vẫy
Ôi mặt em
thương như đoá hoa.
Em hỡi!
Đường kia vướng những gì
Mà anh
mang nặng bước em đi
Em ơi, anh
thấy như anh đứng
Ôm mãi
chân em chẳng chịu lìa.
Nhưng bóng
em đi khuất rồi,
Đứa lìa
khúc ruột của anh thôi!
Tình ta
như mối dây muôn dặm
Buộc mãi
đôi chân, dẫu cách vời.
Em hẹn sau
đây sẽ trở về
Sống cùng
anh lại những say mê
Aùo chăn
em gửi cho anh giữ
Xin gửi
cùng em cả hẹn thề!
Một tấm
lòng em sâu biết bao
Để anh
thương mãi, biết làm sao!
Em đi xa
cách, em ơi Cát
Em chớ
buồn, nghe! Anh nhớ, yêu...
(Đêm
11/7/1965, 23 giờ 30)
Hoàng Cát đi rồi, Xuân Diệu buồn
vô cùng. Trong bài ‘Đời anh em đã đi qua’, còn có một đoạn cuối nói đến nỗi
buồn trống vắng người yêu của Xuân Diệu:
Từ đây anh
lại trong đời
Bữa ăn
ngồi với một đôi đũa cầm
Giường kia
một bóng anh nằm
Phòng văn
một sách đăm đăm sớm chiều.
Xin nhắc lại là Hoàng Cát, người
được Xuân Diệu gọi là 'em', em Cát,người em có khuôn mặt như đoá hoa, là một
người con trai. Và chúng ta thấy, dù người yêu là con trai thì tình cảm của
Xuân Diệu vẫn dạt dào và nồng cháy. Nếu chúng ta đừng để ý đến chuyện đồng
tính luyến ái của nhà thơ thì đây là một bài thơ tình rất mực đằm thắm. Nó
góp một tiếng nói tương đối đẹp vào kho tàng thơ tình vô cùng giàu có của
Xuân Diệu.
⊆
Một vấn đề khác cũng rất quan
trọng là: ai cũng biết người bạn thân nhất của Xuân Diệu là Huy Cận. Chúng ta
không thể không thắc mắc: nếu Xuân Diệu là người đồng tính luyến ái, vậy thì
Huy Cận là người như thế nào?
Chúng ta nên biết là Huy Cận có
hai đời vợ, mà người vợ trước không ai khác hơn là chính em gái ruột của Xuân
Diệu. Tuy nhiên, cái chuyện Huy Cận có vợ, một hay hai đời vợ cũng vậy, không
có ảnh hưởng gì đến cái kết luận có thể có: ông cũng là một người đồng tính
luyến ái, hoặc ít nhất là lưỡng tính luyến ái (bisexual).
Một điều nữa chúng ta cũng cần
biết là suốt đời, lúc nào Xuân Diệu và Huy Cận cũng ở bên nhau, như hình với
bóng. Từ giữa thập niên 30, họ đã chơi thân với nhau, khi cả hai còn là học
sinh trung học. Lúc nào họ cũng cặp kè bên nhau. Trừ khoảng thời gian Xuân
Diệu phải đi làm việc ở Mỹ Thọ, họ sống chung với nhau một nhà. Có thời gian,
từ năm 1939 đến 1940, Xuân Diệu và Huy Cận sống tại số 40 phố Hàng Than, Hà
Nội. Hai người sống trên gác, phía dưới là vợ chồng nhà thơ Lưu Trọng Lư. Rồi
đến thời kháng chiến chống Pháp, họ cũng quanh quẩn với nhau ở chiến khu Việt
Bắc. Sau năm 1954, họ sống với nhau trong căn nhà ở số 24 Cột Cờ, sau đó đổi
thành đường Điện Biên Phủ ở Hà Nội. Huy Cận và vợ con ở trên gác, Xuân Diệu
sống phía dưới. Trong một bài thơ, Huy Cận tả:
Đêm đêm
trên gác chong đèn
Cận ngồi
cặm cụi viết dòng thơ bay
Dưới nhà
bút chẳng ngừng tay
Bên bàn
Diệu cũng miệt mài trang thơ
Bạn từ lúc
tuổi còn thơ
Hai ta hạt
chín chung mùa nắng trong
Ánh đèn
trên gác, dưới phòng
Cũng là
đôi kén nằm trong kén trời
Sáng ra gõ
cửa: “Diệu ơi,
Nghe dùm
thơ viết đêm rồi xem sao”.
Diệu còn
ngái ngủ: “Đọc mau!
Nghe rồi,
xem lại từng câu mới tường”.
Dưới nhà
trên gác thông thương
Dòng thơ
không dứt giữa luồng tháng năm...
Trong bài thơ, Huy Cận dùng chữ
‘hai ta’, ‘Hai ta hạt chín chung mùa nắng trong’. Người Việt Nam không ai
dùng chữ ‘hai ta’ hay ‘đôi ta’ để chỉ hai người bạn cùng phái. Cách xưng hô
như vậy rất lạ. Trong bài ‘Nửa thế kỷ tình bạn’ in trong tập Xuân Diệu, con
người và tác phẩm xuất bản tại Hà Nội năm 1987, Huy Cận kể tỉ mỉ hơn về mối
quan hệ giữa ‘hai ta’ đó như sau:
Tựu trường
năm 1936, chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên ở trường tú tài Khải Định, Huế. Anh
Diệu học năm thứ ba, tôi vào học năm thứ nhất. Hai đứa đọc thơ cho nhau nghe,
và ‘đồng thanh tương ứng’, kết bạn với nhau gần như tức khắc... Tựu trường
1937, anh Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo Ngày nay, tôi học năm
thứ hai ban tú tài... Anh Diệu và tôi viết thư cho nhau hàng tuần... Năm
1938, tôi ra sống với Diệu ở chân đê Yên Phụ. Ở đó Diệu viết ‘Truyện cái
giường’, một số bài thơ, còn tôi thì viết ‘Buồn đêm mưa’, ‘Trông lên’, ‘Đi
giữa đường thơm’ và mấy bài khác... Tựu trường năm 1939,... hai chúng tôi
cùng sống ở gác 40 phố Hàng Than, Hà Nội... Cuối năm 1940, Diệu đi làm tham
tá thương chánh ở Mỹ Tho... Chúng tôi tạm sống xa nhau, buồn đứt ruột, hàng
tuần viết thư cho nhau, có tuần hai, ba lá thư... Hè 1942, tôi đậu kỹ sư canh
nông và cuối năm bắt đầu đi làm ở Sở nghiên cứu tầm tang. Diệu điện hỏi tôi:
‘Diệu từ chức được chưa?’, tôi điện trả lời: ‘Từ chức ngay! Về ngay Hà Nội!’.
Chúng tôi sống trên gác Hàng Bông (số nhà 61), tiếp tục làm thơ.
Xuân Diệu và Huy Cận sống với
nhau, gắn bó với nhau đến nỗi nhà xuất bản họ lập ra hồi đó cũng mang tên là
Huy-Xuân, tức là ghép hai chữ đầu của tên hai người lại với nhau, như tên của
một tình nhân hay một cặp vợ chồng trẻ. Rồi trong bài ‘Mai sau’, Huy Cận lại
giới thiệu Xuân Diệu như người bạn thân thiết, hay đúng hơn, như một tình
nhân thân thiết của mình:
Người ta
bảo bà mẹ chàng hay khóc
Chia gia
tài cho con quí: lệ đau
Chàng là
con một bà mẹ hay sầu
Nên trọn
kiếp mắt chàng thường đẫm lệ
[...]
Chiều nay
đây nửa thế kỷ hai mươi
Viết dăm
câu tôi gửi lại vài người
Những thế
hệ mai sau, làm bè bạn
Hỡi ai đó,
có nhớ lòng Huy Cận
Gọi gió
trăng mà thỏ thẻ lời trên
Rất thương
yêu, xin nhớ gọi giùm tên
Rất an ủi
của bạn chàng: Xuân Diệu.
Bài thơ trên đã công khai bày tỏ
tình cảm của Huy Cận đối với Xuân Diệu. Ngoài ra, bài ‘Vạn lý tình’ rất nổi
tiếng của Huy Cận cũng hé lộ một số chi tiết rất đáng chú ý:
Người ở
bên này, ta ở đây
Chờ mong
phương nọ, ngóng phương này
Tương tư
đôi chốn, tình ngàn dặm
Vạn lý sầu
lên núi tiếp mây
Nắng đã xế
về bên xứ bạn
Chiều mưa
trên bãi, nước sông đầy
Trông vời
bốn phía không nguôi nhớ
Dơi động
hoàng hôn thấp thoáng bay
Cơn gió
hiu hiu buồn tiễn biệt
Xa nhau
chỉ biết nhớ vơi ngày
Chiếu chăn
không ấm người nằm một
Thương bạn
chiều ôm, sầu gối tay.
Chi tiết đáng chú ý nhất chính là
chữ ‘bạn’ được lặp lại hai lần trong bài thơ, trong câu ‘Nắng đã xế về bên xứ
bạn’ và câu ‘Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay’. ‘Bạn’ chứ không phải là
người yêu. Chúng ta nhớ lại sự kiện khi Xuân Diệu phải đi làm việc ở Mỹ Tho,
Huy Cận sống ở Hà Nội, và lời kể của Huy Cận: "Hai đứa phải sống xa
nhau, buồn đứt ruột." Một chi tiết khác quan trọng không kém, đó là câu
'Chiếu chăn không ấm người nằm một'. Lúc này Huy Cận còn là học trò, chưa lập
gia đình, chưa có vợ con. Người nằm chung chăn, chung chiếu với ông không
phải là vợ ông, mà chính là người bạn trai của ông. Điều này sẽ rõ hơn,
thuyết phục hơn, khi chúng ta đọc thêm bài ‘Ngủ chung’ cũng của Huy Cận, in
trong tập Lửa Thiêng, xuất bản năm 1940:
Ôi rét đêm
nay mấy học trò
Ngủ chung
giường hẹp, trốn bơ vơ
Cô hồn vạn
thuở buồn đơn chiếc
Có lẽ đêm
nay cũng ngủ nhờ.
Lạnh lùng
biết mấy tấm thân xương!
Ân ái xưa
kia kiếp ngủ giường.
Đâu nữa
tay choàng làm gối ấm,
Còn đâu
đôi lứa chuyện canh sương
Trốn tránh
bơ vơ, chạy ngủ lang,
Hồn ơi! có
nhớ giấc trần gian
Nệm là hơi
thở, da: chăn ấm,
Xương cọ
vào xương bớt nỗi hàn?
Bài thơ tả cảnh ngủ chung của học
trò cùng phái tính, giữa những người bạn trai với nhau. Ở Việt Nam, đó là
chuyện bình thường. Nhưng chúng ta hãy để ý kỹ: cả ngôn ngữ lẫn cảm xúc trong
bài thơ này lại thấp thoáng những dấu hiệu không bình thường, chẳng hạn như
chuyện ‘ân ái’: 'Ân ái xưa kia kiếp ngủ giường'; rồi ‘đôi lứa’: 'Còn đâu đôi
lứa chuyệän canh sương', Rồi chuyện ‘nệm là hơi thở’, ‘da là chăn ấm’, rồi
chuyện ‘xương cọ vào xương’, v.v... Đọc kỹ bài thơ, chúng ta thấy ngay tính
chất không bình thường của nó. Có lẽ, cùng với bài ‘Tình trai’ và bài ‘Em đi’
của Xuân Diệu, bài ‘Ngủ chung’ này của Huy Cận là những bài thơ tiêu biểu
nhất cho chuyện đồng tính luyến ái trong thơ Việt Nam.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét