Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2020

Ca khúc vượt thời gian 1

Ca khúc vượt thời gian 1
Dẫn nhập
Mỗi khi mệt mỏi và muốn thư giãn, tôi thường tìm về âm nhạc. Theo năm tháng, bộ sưu tập của tôi có những ca khúc mà mình yêu thích nhất theo cảm quan của mình, nhưng tôi nghĩ cũng được nhiều người yêu thích qua thời gian dài. Những ca khúc được giới thiệu ở đây nằm trong số đó.
Thế hệ thời xưa thích ca khúc thời xưa đã đành, nhưng tôi nhận thấy thế hệ bây giờ cũng thích hát ca khúc thời xưa và họ được tán thưởng thật sự. Vì thế tôi dùng cụm từ “vượt thời gian” cho dù đó chỉ là một cách nói mà bạn có thể không đồng ý; tôi chủ quan mà! Không thể nào làm vừa lòng mọi người.
Việc chọn lựa những bản thu âm và video ở đây theo một số tiêu chí riêng.
Tôi có chủ ý tránh cách trình diễn quá sầu não. Tôi có thể cảm nhận ca khúc mang tâm tình bâng khuâng, một ít da diết, nhưng diễn tả thành u buồn áo não thì thấy khó đi vào hồn mình. Cuộc đời đã mệt mỏi rồi, khi cần thư giãn lại mệt mỏi vì âm nhạc làm gì! Như lời Đức Huy tâm sự: “Những bài nhạc buồn thì tôi… vứt hết. Không nên cứ sống mãi trong kỷ niệm buồn”. Vả lại, tôi nghĩ khi soạn nhạc, tuy ca từ có ý buồn nhưng nhiều tác giả không hẳn đặt tâm trạng quá sầu não vào sáng tác của họ – trừ một ít trường hợp ca khúc có tâm trạng nặng nề thật sự.
Tôi có chủ ý chọn video có âm thanh hay và hình ảnh đẹp. Tuy nhiên, một số video tuy mờ nhòe về hình ảnh nhưng có âm thanh quá hay, hoặc thể hiện một tư liệu về lịch sử âm nhạc, thì tôi cũng đưa vào đây. Trong trường hợp này, bạn nên nhắm mắt lại, mở rộng tâm tư mà thưởng thức âm nhạc.
Tôi cũng có chủ ý loại ra những giọng hát tuy là nghe hay nhưng không tạo đồng cảm cho mình vì sai đối tượng. Thường thấy nhất là tâm trạng ca khúc xuất phát từ người nam, nhưng lại do nữ ca sĩ trình bày. Đúng là trong âm nhạc Việt Nam có hiện tượng “âm thịnh dương suy”, nhưng có những nữ ca sĩ tôi yêu mến lại “lấn sân” thì vẫn thấy khó mà cảm nhận. Một số trường hợp có thể chấp nhận được, nhưng giọng nữ mà da diết với câu Vắng em đời còn ai với ai, ngất ngây men rượu say thì nghe khó chịu quá! Ông ấy say vì nhớ đến người vợ quá cố, còn cô uống rượu dùm ông ấy hay sao? Hoặc là, trong một ca khúc khác, các cô cứ hát Một chiều em khóc trong hồn tôi thì thật là khó cảm nhận!
Còn nữa: một anh sửa ca từ để nỉ non hát Bèo dạt mây trôi em ơi anh vẫn đợi thì nghe cũng kỳ kỳ! Tương tự, lời thơ của một nữ sĩ được phổ nhạc Đừng nhìn em nữa anh ơi đầy tâm trạng đau khổ trong nữ tính, bị nam ca sĩ đổi thành Đừng nhìn anh nữa em ơi nghe đã thiếu đồng cảm, đến câu kế về thân phận người phụ nữ Hoa xanh đã phai rồi, Hương trinh đã tan rồi, thế mà các anh vẫn tỉ tê cho được!
Ví dụ khác là trẻ em hát như người lớn, như trường hợp bé gái hát bài Bóng cây kơ nia với câu Về nhớ anh, không ngủ, thì quả thật tôi không thể thưởng thức được. Hoặc bé gái 10 tuổi hát lên câu nhìn hết một mối tình … để buốt trái tim. Hoặc bài độc tấu piano Diễm xưa của một em bé 5 tuổi 6 tháng cũng lâm vào tình trạng đó.
Một lý do khác phải loại video là hình ảnh không thích hợp với nội dung âm nhạc, như cứ cố tình đưa những hình ảnh cô gái mặc áo yếm không nội y, trông nửa kín nửa lồ lộ mà chẳng liên quan gì tới nội dung bài hát.
Những phần trình diễn mà tôi vô cùng yêu thích thì tôi ghi một dấu cộng + ở đầu mục, lại cũng do chủ quan của tôi.
Về miêu tả bối cảnh đằng sau ca khúc, khi tôi thấy tư liệu nào xem ra đáng tin thì tóm tắt ở đây mà không thể kiểm chứng hoặc tìm kiếm thêm tư liệu đầy đủ, chỉ vì không có đủ phương tiện và thời giờ. Vì thế, nội dung về tác giả và ca khúc có thể chỉ là một vài khía cạnh có liên quan. Tùy bạn tìm hiểu thêm tư liệu về tác giả và ca khúc bạn quan tâm.
Trong những phần dưới đây, các hình thức trình bày gồm có:
Bản thu âm: chỉ để nghe âm thanh, như bạn nghe đĩa CD, cho âm thanh trong trẻo lại không có tiếng ồn bên ngoài. Để thưởng thức trọn vẹn âm nhạc thì tôi nghĩ bản thu âm là thích hợp nhất: ta có thể đắm mình vào âm thanh, lòng không bị xáo trộn bởi hình ảnh nào cả.
Video âm thanh: âm thanh tương tự như Bản thu âm nhưng có thêm hình ảnh.
MV: viết tắt của “music video”, có thể hiện phần trình diễn của ca sĩ hoặc ban nhạc.
Video trình diễn sống, như trình diễn trên sân khấu hoặc trường quay, tuy trong một số trường hợp khó phân biệt với MV.
Tôi cảm ơn các bạn Bình, Hội và Long đã giới thiệu bổ sung một số ca khúc, nhưng việc tuyển chọn ca khúc để giới thiệu ở đây là trách nhiệm của một mình tôi.
Ghi chú: ca khúc mới hoặc ca sĩ mới được thêm vào trong 3 tháng gần đây được đánh dấu sao (*).
Ca khúc tuyển chọn
60 năm cuộc đời – Y Vân
Y Vân thời còn trẻ
Vào thời miền Nam ngập tràn những giai điệu bolero hoặc slow rock ủy mị, ca khúc 60 năm cuộc đời như thổi một luồng gió mới và - khởi đầu với tiếng hát Hùng Cường - trở thành một bản hit đúng nghĩa, lan rộng trên các sóng phát thanh và sân khấu ca nhạc.  Đó là do sự nhạy bén của Y Vân đối với thể loại nhạc “đợt sống mới”. Khi đó ở Sài Gòn, ca khúc Let’s twist again rất được ưa chuộng trong giới trẻ, nên Hãng đĩa Sóng Nhạc đặt hàng nhạc sĩ Y Vân viết một ca khúc theo điệu twist. Chỉ trong vòng một tuần miệt mài, nhạc sĩ Y Vân đem nộp đến… ba ca khúc: 60 năm cuộc đời, 20 và 40, Kim. Với tiếng hát Hùng Cường, ba ca khúc của nhạc sĩ Y Vân mang lại cho Hãng đĩa Sóng Nhạc một nguồn thu lớn. Vì vậy, ngoài thù lao theo giao kèo, nhạc sĩ Y Vân còn được thưởng thêm khoản tiền đủ mua một căn nhà.
Ngoài Hùng Cường, một số ca sĩ khác trình bày ba ca khúc nêu trên qua những phong cách rock hoặc twist khác nhau, khá mới lạ ở Việt Nam thời bấy giờ và tạo niềm hứng khởi cho nhiều tầng lớp khán giả, cho đến ngày nay vẫn còn tạo niềm hứng khởi cho ca sĩ và ban nhạc thể hiện cung cách mới lạ.
Bản ghi âm, Miu Lê, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/60-nam-cuoc-doi-miu-le-so8N5mO
+ Video trình diễn sống, Angel Gia Hân, với phụ đề Anh ngữ, phong cách và nhạc đệm tái hiện không khí sân khấu và phòng trà vào thời của tác giả ca khúc:
https://www.youtube.com/watch?v=Nxw86EixZfI
+ Video trình diễn sống, Như Loan & Nguyễn Hưng, trong chương trình “Paris By Night 108”, Liên khúc 60 năm cuộc đời & 20 và 40, theo phong cách kiểu Mỹ vào thời bắt đầu du nhập vào Việt Nam:
https://www.youtube.com/watch?v=EzsAto7Lccc
Anh cho em mùa xuân – Kim Tuấn & Nguyễn Hiền
Anh cho em mùa xuân là một ca khúc xuân nổi tiếng từ thập niên 1960, do nhạc sĩ Nguyễn Hiền (1927-2005) phổ thơ của Kim Tuấn (1938-2003).
Kim Tuấn tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh Khuê, sinh tại Huế nhưng quê gốc ở Hà Tĩnh. Ông là hậu duệ 5 đời Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, là con trai duy nhất của gia đình, thuở nhỏ sống cùng gia đình ở Phan Thiết, lớn lên vào Sài Gòn học.
Nguyễn Hiền, năm 2004
Nguyễn Hiền người Hà Nội. Nhạc của ông thường dìu dặt, sâu lắng, như trong các ca khúc Buồn ga nhỏ (viết chung với Minh Kỳ), Gửi một cánh chim, Hoa bướm ngày xưa (viết chung với Thanh Nam), Mái tóc dạ hương (thơ Đinh Hùng), Ngàn năm mây bay, Tiếng hát học trò (viết chung với Minh Kỳ), Tìm đâu…
Năm 2004 ông được Trung tâm Thúy Nga mời đến Toronto, Canada, để thực hiện Đại nhạc hội Paris by Night 74 với chủ đề “Hoa bướm ngày xưa” nhằm vinh danh ông cùng với hai nhạc sĩ khác là Huỳnh Anh và Song Ngọc.
Theo Trần Chí Phúc (2015a),
Nhạc sĩ Nguyễn Hiền kể rằng mùng 5 Tết năm Nhâm Dần (1962), ngồi trong phòng làm việc còn bàng bạc không khí mùa xuân, ông mở tập thơ được tặng trong đó có bài thơ 5 chữ mang tên Nụ hoa vàng ngày xuân và chợt có cảm hứng phổ nhạc bài thơ này.
Chỉ trong 3 câu đầu Anh cho em mùa xuân, nụ hoa vàng mới nở, chiều đông nào nhung nhớ, nét nhạc hiện ra thật ngọt ngào, và ông tiếp tục làm xong ca khúc trong buổi sáng hôm đó. Ông giữ gần hết các câu thơ, chỉ sửa vài chữ cho hợp nốt nhạc, và lấy câu thơ đầu đặt tên cho ca khúc là Anh cho em mùa xuân.
Hôm sau thi sĩ Kim Tuấn đến thăm ông và tình cờ có cả ông chủ hãng đĩa Asia. Ba người gặp nhau và đồng ý để bản Anh cho em mùa xuân được thu đĩa với tiếng hát Lệ Thanh. Bài hát phổ biến và được ưa thích từ đó cho đến nay.
Theo Dòng Nhạc Xưa (2012a),
Ít nhất đã có hai thế hệ hát Anh cho em mùa xuân.  Các ca sĩ và ban nhạc của thế hệ thứ hai (ở trong và ngoài nước) có khuynh hướng thay đổi tiết tấu của bài nhạc ấy bằng nhịp điệu nhanh, mạnh, sôi nổi, như muốn làm rộn ràng hơn không khí mùa xuân. Việc “cải biên” này cũng… tốt thôi, và cũng phù hợp với “phong cách trình diễn” trẻ trung, sống động hiện đại, tuy rằng bài nhạc, với âm giai LaTango Habanera dìu dặt ở “thuở ban đầu”, tự nó đã đủ để mang về mùa xuân (mà không cần phải “đánh nhanh, đánh mạnh” bằng điệu nhạc kích động để… mừng đón xuân về). Việc thay đổi tiết tấu và cách trình diễn ấy có phần nào đánh mất khí hậu của bài hát là vẻ lắng đọng của đất trời vừa mới sang xuân, pha lẫn chút thi vị ngọt ngào của “bài thơ còn xao xuyến”, thể hiện qua lời thơ và từng nốt láy mềm mại ở cuối những câu nhạc. trưởng và nhịp điệu.
Mùa xuân của Anh cho em mùa xuân là xuân của trời đất giao mùa, là xuân của “lộc non vừa trẩy lá”, là vẻ e ấp của “nụ hoa vàng mới nở”. Trong cái nắng sớm của ngày đầu xuân có chút se se lạnh của chiều cuối đông còn rớt lại, có chút vấn vương của “chiều đông nào nhung nhớ”, có chút hơi hướng của đông tàn, xuân mới vừa sang…
Đôi lúc việc thay đổi hoặc hát sai lời nhạc cũng làm giảm phần nào cái đẹp và độ truyền cảm của bài nhạc gửi đến người nghe.
Hai câu hát trong bài bị ca sĩ… hát sai nhiều nhất: Đất mẹ gầy có lúa/ đồng ta xanh mấy mùa.
Câu thứ nhất, “đất mẹ gầy có lúa”, là ước mơ đơn sơ của tác giả bài thơ gửi về quê mẹ Hà Tĩnh (vùng “đất cày lên sỏi đá”), bị nhiều ca sĩ đổi thành “đất mẹ gầy… cỏ lúa”, hoặc “đất mẹ gầy… cỏ úa”, hoặc “đất mẹ… đầy cỏ lúa”!
Câu thứ hai, “đồng ta xanh mấy mùa”, ước mơ khác, bị nhiều ca sĩ đổi thành “đồng xa xanh mấy mùa”, hoặc… “đồng xanh xa mấy mùa”!
“Bầy chim lùa vạt nắng…”, chữ “lùa” ấy rất mới, rất đẹp, rất thơ. Làm sao mà Nguyễn Hiền lại có thể nghĩ ra được cái chữ tài tình đến như vậy? Làm sao mà ông lại dùng chữ ấy chứ không phải là chữ nào khác? (“Bầy chim… đùa vạt nắng” chẳng hạn, như thế cũng là hay, nhưng không thể hay bằng “… lùa vạt nắng”). Ngày ấy chưa ai viết những lời như thế trong thơ, trong nhạc. Mãi về sau này ta mới nghe “lùa nắng cho buồn vào tóc em” (Nắng thủy tinh, Trịnh Công Sơn). Điều thú vị, câu kia không phải là câu thơ Kim Tuấn trong Nụ hoa vàng ngày xuân, mà là thơ… Nguyễn Hiền.
“Nhạc, thơ tràn muôn lối”, câu hát cuối của bài hát ấy cũng không thấy trong thơ Kim Tuấn. Trong Nụ hoa vàng ngày xuân không có câu nào nói đến “nhạc” cả. Vậy thì những câu ấy ở đâu ra, nếu không phải là… thơ của Nguyễn Hiền. Trong nhạc có thơ, trong thơ có nhạc. Nhạc quyện vào thơ, thơ quấn lấy nhạc. Nhạc thơ, thơ nhạc đã hòa làm một.
Bài thơ: Nụ hoa vàng mùa xuân – Kim Tuấn (1961)
Kim Tuấn viết về quê mẹ của ông là Hà Tĩnh, vùng đất miền Trung khô cằn, cho nên có câu Đất mẹ gầy có lúa, khi hát chữ ‘có’ bị nốt nhạc làm người nghe lầm tưởng là ‘cỏ’. Bài thơ vẽ ra khung cảnh quê hương thanh bình, có con sông bờ cát trắng, có con đê diều căng gió, có trăng sáng có hàng dừa, có đồng ruộng, có tiếng chim hót, có tiếng chuông chùa, có phố nhỏ đường hoa. Và hòa vào tình yêu non nước có tình yêu đôi lứa thật dễ thương.
Anh cho em mùa xuân
nụ hoa vàng mới nở
chiều đông nào nhung nhớ
đường lao xao lá đầy
chân bước mòn vỉa phố
mắt buồn vin ngọn cây.

Anh cho em mùa xuân
mùa xuân này tất cả
lộc non vừa trẩy lá
thơ còn thương cõi đời
con chim mừng ríu rít
vui khói chiều chơi vơi.
Đất mẹ gầy có lúa
đồng ta xanh mấy mùa
con trâu từ đồng cỏ
giục mõ về rộn khua.
ngoài đê diều thẳng cánh
trong xóm vang chuông chùa
chiều in vào bóng núi
câu hát hò vẳng đưa.
Tóc mẹ già mây bạc
trăng chờ trong liếp dừa
con sông dài mấy nhánh
cát trắng bờ quê xưa.
Anh cho em mùa xuân
bàn tay thơm sữa ngọt
giải đất hiền chim hót
người yêu nhau trọn đời
mái nhà ai mới lợp
trẻ nô đùa nơi nơi
hết buồn mưa phố nhỏ
hẹn cho nhau cuộc đời.
Khi hoa vàng sắp nở
trời sắp sang mùa xuân
anh cho em tất cả
tình yêu non nước này
bài thơ còn xao xuyến
nắng vàng trên ngọn cây.
Trần Chí Phúc (2015a) nhận xét:
Bài thơ đã được phổ nhạc, mối duyên thơ nhạc hội ngộ và, như một lời tiên tri, Nguyễn Hiền cho biết bài hát sẽ nổi tiếng mãi mãi với câu kết “Nhạc thơ tràn muôn lối”.
Nếu bài thơ chỉ nói về quê hương đất nước thì thiếu sự hấp dẫn, nếu bài thơ chỉ nói riêng về tình yêu hai đứa thì thiếu sự bát ngát. Đàng này tình yêu quê hương hòa lẫn vào tình yêu đôi lứa thì thật tròn đầy hạnh phúc. Đó là giá trị của bài thơ.
Sự khéo léo của người phổ nhạc làm cho ca khúc Anh cho em mùa xuân trở thành một trong những ca khúc phổ thơ thành công nhất và cũng là một trong những bản xuân ca được ưa thích nhất.
Video trình diễn sống, Minh Tuyết, Hương Thủy, Mai Thiên Vân, Hạ Vy, Hà Thanh Xuân, Châu Ngọc Hà, Hoàng Nhung, Diễm Sương, trong chương trình “Paris By Night 124”:
https://www.youtube.com/watch?v=nT5TZwBZgM8
Video trình diễn sống, Mai Tiến Dũng & Đức Phúc & Erik, trong chương trình “Cặp đôi hoàn hảo”:
https://www.youtube.com/watch?v=N4NR1GCc0DY&t=129s
Ai đưa em về – Nguyễn Ánh 9
Theo Anon. (2014),
Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 cho biết, các bài hát của ông bị hát sai lời rất nhiều, đặc biệt là Ai đưa em về. Theo nhạc sĩ, ngay tựa đề bài hát cũng có nhiều người nhầm thành Đêm nay ai đưa em về. Lời gốc của bài hát là: “Đêm nay tôi đưa em về/ Đường khuya sao trời lấp lánh … Đêm mai ai đưa em về…”, thế nhưng nhiều người vô tình hát thành “Đêm nay ai đưa em về/ Đường khuya sao trời lấp lánh…” Chỉ cần thay đổi một chút là nội dung ý nghĩa của ca khúc cũng thay đổi. “Sao lại đêm nay ai đưa em về? Phải là tôi thì sao trời mới lấp lánh và mắt em mới sao chiếu long lanh chứ! Còn mai mới là ai đưa em về” - nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 phân tích. Theo nhạc sĩ, nguyên do của việc hát sai này là do ca sĩ lấy nguồn bài hát trên mạng, trong khi đó lời bài hát trên internet bị nhầm lẫn rất nhiều.
Riêng tác giả bài tổng hợp này nhớ lại có lần đi nghe hát trong một phòng trà nổi tiếng ở Quận 1, một nam ca sĩ nổi tiếng hát bài Đêm nay tôi đưa em về với giai điệu dồn dập, vừa hát vừa múa may và cười toe toét. Tôi nói đùa với cô bạn cùng đi nghe hát: Hẳn là anh chàng vui quá vì được thoát nợ do “đêm mai không ai đưa về”! Tôi nghĩ lúc đó nếu Nguyễn Ánh 9 nghe anh chàng kia hát như thế thì hẳn ông càng rầu thúi ruột! Bạn có thể tìm trên Internet một vài video tương tự.
Tình trạng tương tự xảy ra với ca khúc Không của Nguyễn Ánh 9. Ông than phiền về việc trình bày bài hát này:
… Lớp trẻ bây giờ hát nhảy trên sân khấu bài này sai hết giai điệu… Đó là tai hại của việc ca sĩ hát mà không hiểu lời bài hát nói gì. Khán giả họ đâu để ý, nghe nhiều thành quen, vô tình ca sĩ làm cho khán giả tưởng nhầm giai điệu bài hát là như vậy.
Lại có một số nữ ca sĩ hát Đêm nay tôi đưa em về đoạn đầu nghe như là tình chị em, nhưng sau đó kêu lên Người yêu ơi  lại nghe chuệch choạc, nên không được giới thiệu ở đây.
+ Video âm thanh, Elvis Phương:
https://www.youtube.com/watch?v=HM6bSk72Juk
Video âm thanh, Pebe Suri và bạn:
https://www.youtube.com/watch?v=WyLlXjvPRO0
+ Video trình diễn sống, Lương Tùng Quang & Ngọc Liên, trong chương trình “Paris By Night 83”:
https://www.youtube.com/watch?v=jQwmGMzXHbY
Ảo ảnh – Y Vân
Theo Tâm Giao (2019),
Y Vân tên thật là Trần Tấn Hậu (1933-1992), quê gốc Thanh Hóa. Ông là nhạc sĩ tiêu biểu của tân nhạc Việt Nam thập niên 1950s đến 1990s.
Thuở niên thiếu, ông từng theo học nhạc với giáo sư, nhạc sĩ Tạ Phước và sáng tác từ rất sớm. Năm 1952, nhạc sĩ vào Nam, tiếp tục sáng tác, chơi nhạc, hòa âm và dạy nhạc. Ông còn viết sách dạy nhạc và đàn guitar. Y Vân là người đi tiên phong cho dòng nhạc nhẹ với những bài hát có giai điệu cha cha cha, disco, twist như: 60 năm cuộc đời, Ảo ảnh, Kim, Sài Gòn, Thôi…
Bà Minh Lâm, vợ nhạc sĩ Y Vân, nói ông chỉ có mối tình sâu đậm duy nhất trước khi cưới bà. Người con gái đó tên Vân và là nguồn cảm hứng để cố nhạc sĩ lấy làm nghệ danh Y Vân (theo ý ông là Yêu Vân). “Khi đó anh 19 tuổi, cô Vân mới 16. Mối tình của họ kéo dài được mấy năm thì chia cắt do gia đình bên kia không cho cô lấy nhạc sĩ vì sợ nghèo. Sau này, anh vào Nam, cô Vân có gửi thư nhưng vì bận, anh không trả lời, đưa tôi giữ đến tận bây giờ. Mối tình đó tôi rất tôn trọng”.
Con gái của nhạc sĩ Y Vân cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ khi nhắc về tình đầu của bố. Chị Ngọc Tú cho biết: “Bố không liên lạc vì muốn cô Vân hạnh phúc. Cô Vân nguyện sống độc thân nên từ trước đến nay thư từ chỉ một hướng từ cô. Tôi thấy thương cô”. Mối tình đầu sâu nặng đó là cảm hứng để cố nhạc sĩ Y Vân cho ra đời nhiều ca khúc nổi tiếng về sau.
+ Video trình diễn sống, Hồng Gấm, tiểu phẩm trong chương trình “Người kể chuyện tình”:
https://www.youtube.com/watch?v=KAGf_vsO69o
Video trên dựa theo một giai thoại được lan truyền khá rộng rãi. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn, khi được hỏi về bóng hồng đằng sau ca khúc Ảo ảnh, bà Minh Lâm, vợ nhạc sĩ Y Vân, trả lời, theo Tâm Giao (2019):
Bài này ra đời trước khi cô gặp nhạc sĩ Y Vân… Cô cũng có nghe anh nói, mà mình sống bên cạnh mình biết tánh anh rất là nghiêm túc. Ảnh bảo mỗi khi ảnh viết một bài gì thì ảnh phải suy nghĩ, anh phải tưởng tượng ra cái khung cảnh đó hay người đó để anh viết lên. Chứ còn cái tánh lăng nhăng hay gặp người này người kia thì không có. Còn theo báo thì bao nhiêu lâu cứ sao qua sao lại cứ tên Huyền, thì hoàn toàn tôi chưa biết cô Huyền là ai. Mà sự thật thì thấy đúng là không có gì cả, mình sống với chồng 23 năm mà có thấy bóng hồng nào đâu..
Bản ghi âm, Elvis Phương:
https://www.youtube.com/watch?v=pkjsD4-cZWw
Video trình diễn sống, Hoàng Anh Thư - Mai Thanh Sơn, trong chương trình “Asia 72”:
https://www.youtube.com/watch?v=m6aB6XSNRJM
Video trình diễn sống, Ôn Vĩnh Quang, trong chương trình “Người hát tình ca”:
https://www.youtube.com/watch?v=fnAIeIUcOeg
Bà mẹ quê & Em bé quê – Phạm Duy
Trong Hồi ký, Phạm Duy cho biết vào năm 1949 ông sáng tác ca khúc mở đầu cho một bộ ba (trilogie) về con người Việt Nam. Đó là ba bài Bà mẹ quê, Vợ chồng quê, Em bé quê. Cùng với bài Bà mẹ Gio Linh trước đó và với bài Bà Mẹ phù sa sau này, bài Bà mẹ quê là bước đầu của huyền thoại Mẹ, dần dà sẽ được dẫn đến địa vị cao sang nhất trong Trường ca Mẹ Việt Nam. Bài Vợ chồng quê là xu hướng nhạc tình của tác giả, xu hướng này đã khởi đi từ những bài hát nói về cuộc tình đơn sơ để sẽ vươn tới những tình khúc chan chứa hạnh phúc và khổ đau trong huyền thoại Tình Yêu. Bài Em bé quê là tiền thân của loại bé ca sau này, những huyền thoại Tuổi Thơ, lúc nào cũng chỉ muốn nhắc nhở tới sự trinh trắng rất cần thiết cho con người phải sống liên miên trong một xã hội điên đảo vì chiến tranh và thù hận.
Bản thu thanh_Bà mẹ quê, Jacqueline Thuy Tram:
https://www.youtube.com/watch?v=v6_SbU5nfrk
+ MV_Bà mẹ quê, Hoàng Yến Bolero, âm thanh tuyệt vời, dàn dựng hình ảnh công phu:
https://www.youtube.com/watch?v=EAYCbhRre-U
+ Video trình diễn sống_Liên khúc Em bé quê & Bà mẹ quê, Ngọc Khuê, trong chương trình “Giai điệu tự hào”, hai ca khúc đan xen thật nhuần nhuyễn, phong cách và nhạc đệm mới lạ:
https://www.youtube.com/watch?v=ZtdGabiCMsU
Video trình diễn sống_Bà mẹ quê, Trần Kayon Thiên Nhâm, trong chương trình “Giọng hát Việt nhí”:
https://www.youtube.com/watch?v=6YPlSZGAH2g
Video trình diễn sống_ Bà mẹ quê, Nguyên Phượng, trong Liveshow “Nguyên Phượng – Tí tách ngày xưa”:
https://www.youtube.com/watch?v=U4NmDPzaxcY
Bà rằng bà rí – dân ca
Ca khúc này bắt nguồn từ một bài hát xoan bất hủ của vùng Phú Thọ, có nội dung liên quan đến tệ tảo hôn.
Theo Trần Lê Túy Phượng (2015),
Người đưa lối dẫn đường sắp xếp trong tục tảo hôn ở miền Bắc thường được gọi là bà rằng/ bà rí, danh từ này đồng nghĩa với bà mai/bà mối trong miền Nam.
Bài dân ca Phú Thọ Bà rằng bà rí’ vừa có tiết tấu rộn ràng, lại hóm hỉnh. Đây là bài gốc gắn liền với nghi lễ tín ngưỡng của tộc người Mường ở Xuân Sơn, Phú Thọ.
Ðồng bào Mường ở Xuân Sơn xa xưa có hát “bà Dằng bà Dí…”; nhiều địa phương khác ở Phú Thọ cũng hát bài bà Dằng, bà Dí… Sau này các nhạc sĩ sưu tầm nâng cao nên bài hát càng được phổ biến rộng rãi. Trong dân ca xoan ghẹo Phú Thọ được ghi là bà Rí. Lời ca và tiết tấu âm nhạc được nâng cao nhưng vẫn giữ giá trị gốc, bản địa của nó với tính hình tượng biểu hiện cho mối giao hòa âm dương.
Tính phồn thực được biểu hiện đậm nét ở những tình tiết trong nhân vật bà Rí. Từ ông Dằng biến thành bà Rằng và từ các vị thần trong tín ngưỡng thờ cúng được dân gian thế tục hóa thành bài hát để khôi hài giải trí vốn là chuyện thường có trong sinh hoạt văn hóa dân gian thuở xưa.
Video trình diễn sống, Hòa Minzy, tiểu phẩm Liên khúc Bà rằng bà rí & Lạy anh em đi lấy chồng trong chương trình “Gương mặt thân quen”:
https://www.youtube.com/watch?v=tOqJaDwny7w
Bài ca đất phương Nam – Lư Nhất Vũ - Lê Giang
Bài ca đất phương Nam là ca khúc do Lư Nhất Vũ (1936- ) viết nhạc, vợ ông, nhà thơ Lê Giang, tên thật là Trần Thị Kim (1930- ), phổ lời. Ca khúc tạo nên chủ đề của bộ phim truyền hình Đất phương Nam được sản xuất năm 1997, chuyển thể từ tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi (1925-1989).
Lư Nhất Vũ  là nhạc sĩ dân ca, nhà sưu tầm nghiên cứu âm nhạc dân gian Nam Bộ. Ông vốn họ Lê, sinh ra và lớn lên ở Thủ Dầu Một - Bình Dương. Còn Lê Giang là vợ ông. Hai người cùng nhau làm nên những ca khúc được ưa chuộng như Hãy yên lòng mẹ ơi và Bài ca đất phương Nam.
Lư Nhất Vũ thành công trong việc làm nội dung ca khúc thể hiện được hình ảnh ông cha vượt qua bao hiểm nguy, gian khổ đi mở đất từ ba thế kỷ trước, với giai điệu ca khúc mang đậm âm hưởng thiết tha, sâu lắng của dân ca Nam Bộ, xây dựng trên điệu thức “Oán” – một dạng thang âm đặc sắc, tiêu biểu trong âm nhạc tài tử Nam Bộ, còn gọi là điệu thức vọng cổ.
Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ từng đưa ra nhận xét:
Loại thang âm tưởng chừng đơn giản nhưng không phải dân tộc nào cũng có. Và khó tìm gặp trong kho tàng âm nhạc truyền thống của nhiều nước. Nó không thuộc hệ thống ngũ cung của Hán tộc, và ít thấy xuất hiện trong các làn điệu dân ca Bắc Bộ.
Không lâu sau khi ra mắt, ca khúc dứt khỏi bộ phim mà đứng độc lập, không còn chỉ của bộ phim mà trở thành một bài ca đặc trưng cho vùng đất phương Nam. Ca khúc được đánh giá là đã gây xúc động cho đông đảo người xem bộ phim Bài ca đất phương Nam, là một trong những bài nhạc chủ đề phim Việt gây ấn tượng tốt nhất.
+ Video trình diễn sống, Phương Mỹ Chi, trong chương trình “Gala Giai điệu Tự hào”, 2015:
https://www.youtube.com/watch?v=80O5hr6hbzQ
Video trình diễn sống, Tấn Bảo & Nhật Duy, trong chương trình “Tuyệt đỉnh song ca nhí”:
https://www.youtube.com/watch?v=CNa3JRRkQWw
Video trình diễn sống, Nguyễn Tuấn Hoàng, trong chương trình “Solo cùng bolero”:
https://www.youtube.com/watch?v=DPUX9U1fGRo
Những “Bài không tên” – Vũ Thành An
Vũ Thành An (1943- ) sinh tại Nam Định, là một trong những nhạc sĩ nổi bật của miền Nam Việt Nam thời kỳ 1965-1975.
Vũ Thành An cùng với Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương tạo thành một lớp nhạc sĩ mới đầy tài năng.
Theo Wikipedia - Lệ Quyên,
Đầu tháng 6 năm 2014, 10 bài không tên của nhạc sĩ Vũ Thành An chính thức được cấp phép tại Việt Nam.
Tháng 11 năm 2014, ca sĩ Lệ Quyên phát hành album biên tập “Vùng tóc nhớ” gồm 10 bài không tên của nhạc sĩ Vũ Thành An, những tác đã đi sâu vào tâm thức của nhiều người yêu nhạc hơn 50 năm qua. Các thế hệ ca sĩ đã thể hiện thành công nhưng vẫn có những nhầm lẫn, chưa chính xác về ca từ. Vì vậy, đích thân nhạc sĩ cẩn thận chỉnh sửa từng nốt nhạc, lời hát trước khi đưa cho Lệ Quyên thu âm. Ông mong muốn đây là album đúng và hoàn chỉnh nhất để lưu truyền thế hệ sau. Ví dụ, trong Bài không tên số 9 có cụm từ “một lần đã trao nhau” chính xác là “một lần đã cho nhau”. Ngoài ra có thêm câu cuối: “Một đời chỉ nuôi ảo giác mà thôi” ít khi được hát. Trong Bài không tên số 7, có câu “tâm sự rồi đêm đắng”, thật ra là “tâm sự rồi đến đắng”…
Khi được hỏi về giọng hát Lệ Quyên, nhạc sĩ Vũ Thành An chia sẻ: “Mỗi thời đại trời sinh ra những nghệ sĩ vừa đẹp vừa có tài để đem lại niềm vui cho mọi người. Tôi đã nghe rất nhiều ca sĩ hát những bài hát của mình, và mỗi người đều có một thế giới riêng để truyền tải cảm xúc. Lệ Quyên là một vóc dáng hiếm quý. Ở Lệ Quyên, tôi thấy được một nét đẹp và giọng hát hiện đại nhưng đâu đó vẫn lẩn khuất sự chia sẻ giữa tình người muôn thuở!”
Dưới đây là 4 bài được chọn ra từ 10 bài không tên. Chủ ý không chọn video trình diễn sống để bạn có thể cảm nhận tâm tình của Vũ Thành An với dòng nhạc sâu lắng qua những cách diễn đạt khác nhau.
Bản ghi âm - Bài không tên số 2, Lệ Quyên, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/bai-khong-ten-so-2-le-quyen-soYvPG
+ Video âm thanh_Bài không tên số 2, Hồ Hoàng Yến:
https://www.youtube.com/watch?v=979VopK9KL8
Bản ghi âm_Bài không tên số 5, Lệ Quyên, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/bai-khong-ten-so-5-le-quyen-soMDJQ
+ Video âm thanh_Bài không tên số 5, Tuấn Ngọc:
https://www.youtube.com/watch?v=u7G5UCcayO8
+ Bản ghi âm_Bài không tên số 7, Lệ Quyên, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/bai-khong-ten-so-7-le-quyen-soz4qR
Bản ghi âm_Bài không tên số 7, Elvis Phương, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/bai-khong-ten-so-7-elvis-phuong-soNzYJV
+ Bản ghi âm_Bài không tên số 8, Lệ Quyên, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/bai-khong-ten-so-8-le-quyen-soKDww
Bản ghi âm_Bài không tên số 8, Thùy Dương:
https://www.youtube.com/watch?v=yrTDxsGZyFo
Bài không tên cuối cùng – Vũ Thành An
Theo Mai Nhật (2017), Vũ Thành An trải lòng khi chuẩn bị tổ chức Đêm nhạc “Vũ Thành An - Chuyện tình không tên” sẽ diễn ra vào tối 18/8/2017:
Vũ Thành An
Tôi vừa có chuỗi đêm nhạc tại Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Đây là những nơi mấy chục năm tôi mới ghé lại, thậm chí có nơi tôi đến lần đầu. Tôi ngỡ rằng nhạc Vũ Thành An thuộc thể loại nhạc xưa, sáng tác đầu tiên của tôi có tuổi đời ngót 50 năm. Thế nhưng, tôi rất bất ngờ khi đa số khán giả thưởng thức lại là những người trẻ, số người đứng tuổi khá ít. Đi đến đâu, tôi cũng được khán giả đề nghị được chụp ảnh cùng. Tôi ngạc nhiên khi ở tuổi này vẫn được đối đãi như một người mẫu (cười). Tôi cảm động và nghĩ rằng, khi mình viết nhạc từ trái tim, khán giả cũng sẽ đón nhận bằng cả tấm lòng.
Ngoài ra, tôi rất hạnh phúc khi có nhiều nhà hảo tâm đã đồng hành, cùng đóng góp vào hoạt động thiện nguyện của tôi.
Cuộc đời của chúng ta không phải lúc nào cũng là màu hồng, không chỉ có vàng mà còn có đá. Nhưng ta phải nhìn ra sắc hồng, ánh vàng để tìm thấy hy vọng, để sống tiếp. Có một thời, nhiều tác phẩm của tôi phản ánh sự đau buồn của những cuộc tình đổ vỡ. Khi chúng ta mới ngoài 20, chập chững bước vào đời, bao niềm tin đặt vào người mình yêu. Rồi đột ngột, họ bỏ ta đi, thành ra “anh biết tin ai bây giờ” (Bài không tên cuối cùng). Thế nhưng, tôi vẫn hy vọng: “Hãy cố vươn vai mà sống/ Tô son lên môi lạnh lùng” (Bài không tên số 5). Tôi vẫn hay nhắn nhủ với các bạn trẻ: điều đáng sợ là chúng ta không biết yêu ai, chứ không phải yêu mà không được đáp đền. Hãy giữ lấy tình yêu và quý nó. Với tôi, đã yêu ai rồi thì không nên chiếm hữu bằng được người mình yêu. Chỉ cần thấy bóng dáng của em, tôi đã mãn nguyện.
Ý thức được sự hữu hạn của đời người, tôi dành nhiều thời gian cho công việc thiện nguyện. Thu nhập từ tác quyền âm nhạc từ năm 2002 đến nay, tôi đều dành 100% cho quỹ từ thiện của mình. Tôi cũng lớn tuổi rồi, không có nhiều nhu cầu riêng cho bản thân. Nhưng tôi có niềm tin rằng: giúp đỡ người khác tức mình đang bỏ vào trong kho báu của mình ở bên kia đời. Đó chính là mình để dành cho mình, không mất đi đâu cả.
Video trình diễn sống, Triệu Long, trong chương trình “Người kể chuyện tình”:
https://www.youtube.com/watch?v=oOYYNP7Tbtw
+ Video trình diễn sống, Nguyễn Hồng Ân, trong chương trình “Giai điệu vàng”:
https://www.youtube.com/watch?v=crdxol955jw
Video âm thanh, Vũ Khanh:
https://www.youtube.com/watch?v=5cjXtXeo0Pk
Bèo dạt mây trôi – dân ca
Bèo dạt mây trôi là một bài dân ca Việt Nam, với nội dung thể hiện nỗi nhớ của người con gái đối với người yêu ở phương xa. Chưa có nghiên cứu xác định được chính xác nguồn gốc của bài hát này, nhưng một số website âm nhạc Việt Nam phần lớn đều cho rằng bài xuất xứ từ quan họ Bắc Ninh, trong khi đó các phương tiện thông tin đại chúng lại nhận định bài là dân ca đồng bằng Bắc bộ, thậm chí là dân ca Nghệ Tĩnh.
+ Video âm thanh, Thu Hiền:
https://www.youtube.com/watch?v=0kGRfk8yAbw
+ Bản ghi âm, Anh Thơ, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/beo-dat-may-troi-anh-tho-soYyMjG
+  Video âm thanh, Mỹ Tâm, giọng điệu và nhạc đệm theo cung cách hiện đại, nhưng cuốn hút:
https://www.youtube.com/watch?v=58ZpkOH7tKw
Bến xuân – Văn Cao và Phạm Duy
Bến xuân là một thành quả tuyệt vời hiếm hoi do sự cộng tác của hai cây đại thụ trong nền âm nhạc Việt Nam: Văn Cao (1923-1995) và Phạm Duy (1921-2013).
Theo Dòng Nhạc Xưa (2017a),
Đầu thập niên 1940, nhờ các hoạt động văn nghệ với nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng, một tình cảm đẹp nảy sinh giữa nhà nhạc sĩ trẻ tuổi Văn Cao và đóa hoa hương sắc Hoàng Oanh của vùng đất Cảng. Có một lần, nàng Hoàng Oanh ghé thăm Văn Cao, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhà nhạc sĩ. Đó cũng chính là cảm hứng để Văn Cao sáng tác nhạc phẩm bất hủ: Bến xuân.
Ca khúc Bến xuân không chỉ là một bài hát làm xuyến xao lòng người, mà còn là một bức tranh sống động, một bài thơ nhiều biểu cảm. Cả ba năng khiếu (thơ, nhạc, họa) tài hoa của Văn Cao đều dồn vào Bến xuân. Nét nhạc thật nhẹ nhàng và thanh thoát, đưa ta đến cõi mơ, ở đó có thanh, có sắc, có tĩnh, có động, có bóng giai nhân. Bản nhạc được Nhà Xuất bản Tinh Hoa ấn hành năm 1942 với lời ghi “nhạc: Văn Cao, lời: Văn Cao - Phạm Duy”.
Trong khi Cao Minh thể hiện đúng chất nhạc tiền chiến, ba nghệ sĩ kế tiếp chưa nổi tiếng lắm nhưng có cách trình bày Bến xuân thật hay.
+ Video âm thanh, Cao Minh:
https://www.youtube.com/watch?v=EzwYGlBra_0
+ Video âm thanh, Thùy Dương, với ca từ, nhạc đệm và nhóm hát bè đều rất hay:
https://www.youtube.com/watch?v=mCs_m1JKakQ
+ Video âm thanh, Đại Dương, hòa âm piano: Lê Từ Phong, cách trình bày đơn giản mà truyền cảm:
https://www.youtube.com/watch?v=oF-t50Mc6RQ
Video âm thanh, Trần Thái Hoà & Khánh Ly, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=kzzj17P2YmA
Bến xuân xanh – Dương Thiệu Tước - Minh Trang
Theo Wikipedia - Dương Thiệu Tước,
Dương Thiệu Tước (1915-1995) người Hà Nội, là một nhạc sĩ tiền chiến nổi tiếng và được coi là một trong những nhạc sĩ tiền phong của tân nhạc Việt Nam. Ông là người có sáng kiến soạn nhạc “bài Tây theo điệu ta”, những nhạc phẩm đầu tay của ông thường được viết bằng tiếng Pháp. Mặc dù theo học nhạc Tây, nhưng nhạc của ông vẫn thắm đượm hồn dân tộc. Trong một ấn phẩm viết tay, ông ngỏ ý: “Theo tôi tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền”.
Tại Sài Gòn ông làm chủ sự phòng văn nghệ tại Đài phát thanh Sài Gòn đồng thời được mời làm giáo sư dạy guitar tại trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn. Sau ngày nước Việt Nam thống nhất năm 1975, nhạc của ông bị cấm đoán và ông cũng bị mất chỗ dạy học tại trường Quốc gia Âm nhạc.
Những sáng tác được biết đến nhiều nhất của Dương Thiệu Tước là Bến xuân xanh, Bóng chiều xưa, Chiều (thơ Hồ Dzếnh), Đêm tàn bến Ngự, Khúc nhạc dưới trăng (ký cùng với Minh Trang), Kiếp hoa, Ngọc lan, Ơn nghĩa sinh thành (thơ Hồ Dzếnh), Thuyền mơ, Tiếng xưa.
Trang web của Cục Nghệ thuật Biểu diễn được truy cập ngày 26/3/2019 liệt kê 12 ca khúc của Dương Thiệu Tước (kể cả những ca khúc nêu trên) được phép phổ biến tại Việt Nam:
Từ hồi còn nhỏ tôi đã mê bài nhạc Dòng sông xanh của Johann Strauss II. Mời xem bài dưới đây:
Từ đó tôi mê luôn ca khúc Bến xuân xanh của Dương Thiệu Tước (1915-1995). Khác với nhiều ca khúc tân nhạc Việt Nam theo cấu trúc thông thường, A-A-B-A, Bến xuân xanh thay đổi từ đoạn này qua đoạn kia không khác gì Dòng sông xanh!
Cấu trúc Bến xuân xanh có thể được xem như có 3 chương (movement):
Chương 1: kết cấu A-B-A, thanh thoát, tươi vui
Chương 2: kết cấu C-D-E, dịu dàng hơn. Riêng cách chuyển qua E từ “Đây trên bến xuân thướt tha” tạo cảm giác thật thích thú, ở đây ca sĩ và dàn nhạc có thể đi chậm lại để tạo nét nhấn nhá quyến rũ hơn.
Chương 3: trở lại kết cấu A-B-A.
Vào thuở chưa học nhạc lý, chưa học đàn, những lúc lắng nghe Bến xuân xanh qua chiếc radio nhỏ xíu, tôi mơ đến ngày có một nhạc sĩ soạn hòa âm thật hay để một dàn nhạc đại hòa tấu (cách nói lúc đó thay cho “giao hưởng” bây giờ) trình diễn Bến xuân xanh, và tôi nghĩ lúc đó bài nhạc này sẽ không kém Dòng sông xanh! Hóa ra sau này tôi mới biết ý của mình trùng hợp với ý của một nhạc sĩ hòa âm nổi tiếng.
Trải qua nửa thế kỷ, ước mơ của tôi vẫn chưa thành hiện thực, tiếc cho nền âm nhạc Việt Nam nói chung và Dương Thiệu Tước nói riêng!
Theo Dòng Nhạc Xưa (2017b).
Dương Thiệu Tước sáng tác Bến xuân xanh rất công phu. Tác phẩm dài tổng cộng 180 trường canh (gấp ba một bài luân vũ trung bình có 64 trường canh, như Thu vàng của Cung Tiến) và được viết bằng âm giai Do trưởng, loại âm giai được coi là “sáng”. (Xin có đôi lời về nhạc thuật ở đây: giới sáng tác nhạc cho âm giai Re giáng trưởng và La giáng trưởng là âm giai “dịu” nhất; âm giai Sol thứ và Si thứ là âm giai “buồn” nhất, còn âm giai Do trưởng và Fa trưởng là “sáng” nhất)
Vì thế, Bến xuân xanh đòi hỏi ca sĩ phải trình bày đúng âm giai nguyên thủy. Khi nghe một người trình bày không đúng “ton” (thí dụ người hát không lên được những nốt cao nhất của bài hát, phải hạ xuống một hay hai “cung”) thì nhà soạn nhạc hơi hơi buồn. Ðoạn biến khúc của Bến xuân xanh được Dương Thiệu Tước chuyển sang âm giai La giáng trưởng, trở nên êm dịu lạ thường trước khi về lại cung Do trưởng trong sáng.
Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước còn soạn phần nhạc mở đầu (introduction) và kết thúc (coda) thật vi vút, du dương. Lời ca trong Bến xuân xanh tràn đầy thơ, nhạc, hoa, nắng, gió và sóng nước: toàn những biểu tượng lung linh rực rỡ của mùa xuân. Khi Dương Thiệu Tước vừa tạ thế ở trong nước, trong dịp tưởng niệm ông ở hải ngoại, 12 năm về trước, nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi nhắc tới bản luân vũ này với lòng khâm phục, cho rằng không thua kém gì các nhạc khúc về sông nước nổi tiếng của Tây phương!
Ca sĩ Quỳnh Giao nhận xét:
Một bậc sư trong nghệ thuật dung hợp cái rất Tây và rất Ðông trong tân nhạc là Dương Thiệu Tước. Ông vua của tiết điệu bán cổ điển Tây phương trong nhạc Việt cống hiến cho chúng ta bản luân vũ được coi là hay nhất của Việt Nam, ca khúc Bến xuân xanh.
Video âm thanh, Thùy Dương, nhạc đệm khá, nhóm hát bè hay:
https://www.youtube.com/watch?v=ptaZIzAn7Gw
MV theo nền nhạc ghi trên đĩa CD, Thanh Phương thể hiện nỗ lực chăm chút trong sự dàn dựng, nhưng hình ảnh mờ nhòe trước khi có công nghệ HD:
https://www.youtube.com/watch?v=cqZHw1nYXWk
Biết đâu nguồn cội – Trịnh Công Sơn
Trong khi đa số ca khúc Việt Nam có cấu trúc A-A-B-A thì Trịnh Công Sơn thường viết nhạc với cấu trúc ballad, theo nghĩa từng đoạn 4 câu lặp đi lặp lại. Biết đâu nguồn cội là ca khúc đặc trưng theo thể loại này, tạo một niềm sảng khoái giữa rừng ca khúc ủy mị.
Ca khúc này nên do giọng nam hát thì người nghe mới có thể cảm thông nhiều với tâm tình của Trịnh Công Sơn, ví dụ như trong câu Em đi qua chốn này sao em đành vội/ Tôi xin làm đá cuội và lăn theo gót hài.
+ Video âm thanh, Quang Linh:
https://www.youtube.com/watch?v=5NKlYIC1T5Q
Video âm thanh, Thanh Thảo (remix):
https://www.youtube.com/watch?v=UAYl8FyhijU
Biết nói gì đây – Huỳnh Anh
Ban đầu tôi bỏ qua ca khúc này vì nhớ lại, ngày xưa, ca khúc nghe quá ủy mị. Bây giờ, qua thế hệ ca sĩ mới, tôi có cảm nhận khác.
Huỳnh Anh (1932-2013) sinh tại Cần Thơ, là nhạc sĩ, nhạc công vang danh một thời. Năm 1947, Huỳnh Anh chính thức bước vào con đường âm nhạc với vai trò một tay trống trong một ban nhạc tại thành phố Đà Lạt. Từ đó cho tới năm 1957, ông là nhạc công cho những đoàn cải lương, các phòng trà ca nhạc với các ban nhạc Philippines. Huỳnh Anh chơi được nhiều nhạc cụ, từ guitar, piano cho tới kèn, percussion. Năm 1957, ông trở thành trưởng ban nhạc và là một tay trống lừng lẫy trình diễn ở nhiều phòng trà, vũ trường của Sài Gòn.
Những ca khúc khác của ông được biết đến nhiều là Mưa rừng, Kiếp cầm ca và Rừng lá thay chưa.
Năm 2004, Huỳnh Anh cùng với Nguyễn Hiền và Song Ngọc được Trung tâm Thúy Nga vinh danh trong chương trình Paris By Night 74 “Hoa bướm ngày xưa”.
+ Video trình diễn sống, Hoàng Châu: đây là ca sĩ tôi nghe lần đầu tiên khi tổng hợp bài này, và lập tức tôi cảm thấy cuốn hút bởi chất giọng truyền cảm:
https://www.youtube.com/watch?v=EAEK6ue2oJQ
+ Video trình diễn sống, Quỳnh Như, đây là một trong những tiếng hát tôi thích nhất, và cô không gây thất vọng cho tôi trong ca khúc này:
https://www.youtube.com/watch?v=CxIeIY-j33Q
+ Video trình diễn sống, Khánh Hoàng, trong chương trình “Người kể chuyện tình”, 2019, chất giọng trữ tình thế là đạt, mong rằng trong tương lai ca sĩ đừng nhấn nhá thêm, riêng kỹ thuật ghi âm tuyệt vời tạo chiều sâu cho âm thanh (bạn cần dùng headphones):
https://www.youtube.com/watch?v=G8XMuRptBXU
Biển cạn – Kim Tuấn
Theo Wikipedia - Kim Tuấn,
Kim Tuấn tên thật là Nguyễn Kim Tuấn (1961- ), là một nhạc sĩ nổi tiếng với các ca khúc nhạc trẻ, trữ tình. Anh sinh trưởng trong một gia đình âm nhạc, có chị gái là Bảo Yến và Nhã Phương, đều là những ca sĩ nổi tiếng. Anh thuộc những nhạc sĩ thế hệ thứ hai của nhạc trẻ Việt Nam sau thời kì đổi mới. Một số sáng tác được biết đến nhiều của Kim Tuấn là Biển cạn, Tôi ngàn năm đợi, Câu chuyện tình tôi, Thế giới không tình yêu.
Bản thu âm, Quang Dũng, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/bien-can-quang-dung-sopN1V
Video âm thanh, Lệ Quyên:
https://www.youtube.com/watch?v=VGXZOyXyW2s
Video trình diễn sống, Ôn Vĩnh Quang, trong chương trình “Người hát tình ca”:
https://www.youtube.com/watch?v=2FuJONn-tGc
Biển tình – Lam Phương
Theo Wilipedia - Lam Phương
Lam Phương, tên thật Lâm Đình Phùng (1937- ), người tỉnh Rạch Giá, là một nhạc sĩ tiêu biểu của nền tân nhạc Việt Nam với gần 160 tác phẩm.
Ông bắt đầu tự mày mò học nhạc từ hồi còn nhỏ, rồi may mắn được nhạc sĩ Hoàng Lang và nhạc sĩ Lê Thương chỉ dẫn. Ca khúc đầu tay của ông là bài Chiều thu ấy, viết vào năm 15 tuổi. Ông vay tiền của bạn bè để mướn nhà in in nhạc, sau đó thuê xe chở nhạc đi bán lẻ khắp Sài Gòn. Thời gian đầu sáng tác, ông gặp rất nhiều khó khăn về tài chính khi thường xuyên phải vay tiền những người bạn của mình để tự phát hành các tác phẩm âm nhạc. Thành công với tác phẩm đầu tay, Lam Phương càng miệt mài sáng tác. Ba năm sau, Lam Phương tung ra hàng loạt ca khúc viết về quê hương, trong đó nổi tiếng nhất là Khúc ca ngày mùa được hầu hết các trường học ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long chọn để dạy cho học trò ca múa.
Năm 1958, Lam Phương nhập ngũ Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trở về dân sự một thời gian thì ông được lệnh tái ngũ, gia nhập đoàn văn nghệ Bảo An. Sau khi đoàn này giải tán, ông tham gia ban văn nghệ Hoa Tình Thương và sau cùng là Biệt đoàn Văn nghệ Trung ương cho đến sự kiện 30/4/1975.
Một số tình ca của Lam Phương được biết đến nhiều nhất là Biển tình, Chiều tàn, Cho em quên tuổi ngọc, Khúc ca ngày mùa, Kiếp nghèo, Lá thư miền Trung, Ngày em đi, Trăm nhớ ngàn thương, Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi… Một số ca khúc có nội dung u buồn nhưng ca sĩ có thể chuyển qua điệu tango hoặc rumba giúp không khí trình diễn được thanh thoát hơn, như: Kiếp nghèo, Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi…
Vào năm 2017, teaser của phim Cô Ba Sài Gòn dùng một đoạn nhạc Thanh Tuyền hát ca khúc Biển tình (thu âm trước 1975) để làm nhạc nền, tạo nên một làn sóng của giới trẻ tìm về những bản thu âm cũ của nhạc vàng trước năm 1975, đặc biệt là Biển tình.
Trang web của Cục Nghệ thuật Biểu diễn được truy cập ngày 27/3/2019 liệt kê 113 ca khúc của Lam Phương (kể cả những ca khúc nêu trên) được phép phổ biến tại Việt Nam:
Video trình diễn sống, Quốc Khanh & Hoàng Thục Linh:
https://www.youtube.com/watch?v=ZY7ceG7E05E
Bonjour Vietnnam – Marc Lavoine
Cho dù đây không phải là bài hát Việt nhưng trên thế giới có lẽ chỉ có người Việt xúc động với bài hát này, còn người nước ngoài hẳn không mấy ai quan tâm. Vì lẽ đó, tôi giới thiệu bài Bonjour Việt Nam ở đây.
Bonjour Vietnam  (có nghĩa: Thương chào Việt Nam) nguyên là bài hát tiếng Pháp, do Marc Lavoine sáng tác, và do ca sĩ người Bỉ gốc Việt Phạm Quỳnh Anh biểu diễn đầu tiên. Nội dung bài hát nói về tình cảm của một Việt kiều sinh ra xa quê hương dành cho đất nước Việt Nam.
Sau khi ra đời, bài hát gây tiếng vang lớn đặc biệt là trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Từ cuối năm 2005, dù ca khúc chưa được phát hành chính thức nhưng đã được lan truyền rộng rãi trên các phương tiện Internet, và được nhiều người yêu thích.
Trang web Toplist.vn xếp Bonjour Vietnam  vào hạng nhất trong danh sách “Top 10 bài hát Việt Nam hay nhất mọi thời đại”.
Ca từ gốc Pháp ngữ: Bonjour Vietnam 
Raconte moi ce nom étrange et difficile à prononcer
Que je porte depuis que je suis née
Raconte moi le vieil empire et le trait de mes yeux bridés
Qui disent mieux que moi ce que tu n’oses dire
Je ne sais de toi que des images de la guerre
Un film de Coppola, des hélicoptères en colère.
Un jour, j’irai là bas, un jour dire bonjour à ton âme
Un jour, j’irai là bas te dire bonjour, Vietnam.
Raconte moi ma couleur, mes cheveux et mes petits pieds
Qui me portent depuis que je suis née
Raconte moi ta maison, ta rue, raconte moi cet inconnu
Les marchés flottants et les sampans de bois
Je ne connais de mon pays que des photos de la guerre
Un film de Coppola, des hélicoptères en colère
Un jour, j’irai là bas, un jour dire bonjour à mon âme
Un jour, j’firai là bas te dire bonjour, Vietnam.
Les temples et les Boudhas de pierre pour mes pères
Les femmes courbées dans les rizières pour mes mères
Dans la prière, dans la lumière, revoir mes frères
Toucher mon âme, mes racines, ma terre.
Un jour, j’irai là bas, un jour dire bonjour à mon âme
Un jour, j’irai là bas te dire bonjour, Vietnam (2 fois)
Bản dịch: Thương chào Việt Nam - Đào Hùng, Diệp Minh Tâm chỉnh lý
Hãy kể tôi nghe về cái tên xa lạ và khó gọi
mà tôi mang tự thuở chào đời
Hãy kể tôi nghe về vương triều cũ và đôi mắt xếch của tôi
vốn nói rõ hơn tôi về những gì người không dám thốt ra
Tôi chỉ biết về người qua hình ảnh của chiến tranh
Một cuốn phim của Coppola, trực thăng trong cơn thịnh nộ.
Một ngày kia, tôi sẽ đến nơi ấy để chào hỏi hồn người
Một ngày kia, tôi sẽ đến nơi ấy để thương chào Việt Nam
Hãy kể tôi nghe về màu da, mái tóc và đôi bàn chân của tôi
đã mang tôi tự thuở chào đời
Hãy kể tôi nghe về ngôi nhà, con đường, hãy kể tôi nghe những điều chưa biết đó
Về chợ nổi trên sông và thuyền tam bản bằng gỗ
Tôi chỉ biết quê hương qua hình ảnh của chiến tranh
Một cuốn phim của Coppola, trực thăng trong cơn thịnh nộ…
Một ngày kia, tôi sẽ đến nơi ấy để chào hỏi hồn tôi
Một ngày kia, tôi sẽ đến nơi ấy để thương chào Việt Nam
Chào hỏi giùm những người cha của tôi
những ngôi chùa và những tượng Phật bằng đá
Chào hỏi giùm những bà mẹ của tôi
những phụ nữ đang còng lưng trên ruộng lúa
Trong lời nguyện cầu, trong ánh sáng, tôi thấy lại những người anh,
thấm vào tâm hồn, vào cội nguồn, vào đất mẹ quê cha.
Một ngày kia, tôi sẽ đến nơi ấy để chào hỏi hồn tôi
Một ngày kia, tôi sẽ đến nơi ấy để thương chào Việt Nam (2 lần)
Ca từ Anh ngữ: Hello Vietnam - Marc Lavoine/ Yvan Coriat/ Guy Balbaert
Tell me all about this name, that is difficult to say
It was given me the day I was born
Want to know about the stories of the empire of old
My eyes say more of me than what you dare to say
All I know of you is all the sights of war
A film by Coppola, the helicopter’s roar
One day I’ll touch your soil, one day I’ll finally know your soul
One day I’ll come to you, To say hello Vietnam
Tell me all about my colour, my hair and my little feet
That have carried me every mile of the way
Want to see your house, your streets
Show me all I do not know
Wooden sampans, floatings markets, light of gold
All I know of you is the sights of war
A film by Coppola, the helicopter’s roar
And Buddha’s made of stone watch over me
My dreams they lead me through the fields of rice
In prayer, in the light, I see my kin
I touch my tree, my roots, my begin
One day I’ll touch your soil, one day I’ll finally know your soul
One day I’ll come to you, To say hello… Vietnam
One day I’ll walk your soil, one day I’ll finally know my soul
One day I’ll come to you, to say hello… Vietnam
To say hello… Vietnam, to say xin chao… Vietnam
Video âm thanh_Bonjour Vietnam, Phạm Quỳnh Anh, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=WwOY1o16T4s
Bản thu âm_Hello Vietnam, Phạm Quỳnh Anh, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=KhPNX5dw-RI
+ Video trình diễn sống_lời Việt, MC Nguyên Khang, trong chương trình “Tuyệt đỉnh song ca nhí”:
https://www.youtube.com/watch?v=re2dy53pnG0
Video âm thanh_Hello Vietnam, Trần Thái Hòa, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=5GE9qG2lfsk
Bóng cây kơ-nia – Ngọc Anh và Phan Huỳnh Điểu
Bài thơ Bóng cây Kơ-nia được sáng tác trong những năm 1957-1958 bởi nhà thơ, nhà báo Ngọc Anh, tên thật Nguyễn Ngọc Anh (1932-1964). Bài thơ được phỏng dịch theo điệu Kachoi của dân ca Hrê. Nguyên văn bài thơ:
Trời sáng em lên rẫy
Thấy bóng cây Kơ nia
Bóng ngả che ngực em
Về nhớ anh, không ngủ…
Buổi chiều mẹ lên rẫy
Thấy bóng cây Kơ nia
Bóng tròn che lưng mẹ
Về nhớ anh mẹ khóc…
Em hỏi cây Kơ nia:
– Gió mày thổi về đâu?
– Về phương mặt trời mọc,
Mẹ hỏi cây Kơ nia:
– Rễ mày uống nước đâu?
– Uống nước nguồn miền Bắc.
Con giun sống nhờ đất
Chim phí sống nhờ rừng
Em và mẹ nhớ anh
Uống theo nguồn miền Bắc
Như bóng cây Kơ nia
Như gió cây Kơ nia.
Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu (1924-2015) phổ thơ Bóng cây Kơ-nia vào năm 1971.
Bản thu âm, Lan Anh, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/bong-cay-ko-nia-lan-anh-soQBVnj
Video trình diễn sống, Hoài Thu:
https://www.youtube.com/watch?v=xEXDV748Z-U
Video trình diễn sống, Kim Ngân, giống như hát kaorake nhưng cuốn hút:
https://www.youtube.com/watch?v=QS_1JUpg0Wk

Bông hồng cài áo – Thích Nhất Hạnh - Phạm Thế Mỹ
Theo Hà Thu (2019)
Năm 1962, khi thiền sư Thích Nhất Hạnh đi nghỉ hè cùng với các sinh viên tại Camp Ockanickon ở Medford thuộc tiểu bang New Jersey, Mỹ, ông viết một số đoản văn gửi cho đoàn sinh viên Phật tử Sài Gòn. Một trong số những bài được chép tay, lưu truyền nhiều nhất của ông là Bông hồng cài áo. Tiêu đề bài viết là do cảm hứng từ tập tục mà nhà sư gặp khi sang Nhật Bản. Sinh viên Nhật cài một hoa hồng trắng lên áo ông sau khi hỏi ý kiến người bạn đồng hành của thầy. Sau này, thiền sư mới biết trong Ngày của Mẹ theo lịch phương Tây, người Nhật cài hoa trắng lên áo những ai không còn mẹ, và cài hoa đỏ cho những người may mắn còn có mẹ.
Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ vô tình đọc được bài văn của thầy Thích Nhất Hạnh. Năm 1967, ông sáng tác ca khúc Bông hồng cài áo. Bài hát trở thành một trong những nhạc phẩm bất hủ về tình mẫu tử, đặc biệt được yêu thích trong dịp Vu Lan báo hiếu. Tập tục cài hoa hồng lên áo trong ngày rằm tháng bảy cũng được phổ biến, trở thành nét văn hóa đẹp của người Việt.
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nhận xét đoản văn Bông hồng cài áo của thiền sư Thích Nhất Hạnh được viết với ngôn ngữ dung dị, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người. Ông thích nhất phần mở đầu mà thiền sư viết: “Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. “
Ngoài ra, cảm xúc “bơ vơ”, lạc lõng” khi mất mẹ của thầy khiến người đọc đồng cảm. “Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã bắt được tình ý đó để viết nên ca khúc Bông hồng cài áo. Tôi nghĩ giữa thầy Thích Nhất Hạnh và cố tác giả có sự đồng cảm lớn. Vì thế, ca từ bài hát dễ đi vào lòng người”, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nói.
Phần mở đầu ca khúc tựa như một lời nhắn nhủ đến những ai đang còn mẹ, nhắc nhở họ trân trọng từng khoảnh khắc bên người. Giai điệu chậm rãi, khắc khoải khiến người nghe không khỏi day dứt, bâng khuâng.
Từ cảm xúc yên vui của những người đang còn mẹ, ca khúc khiến người nghe đối diện sự thật - mai này mẹ mất đi. Nhạc sĩ không đi sâu miêu tả nỗi đau trong tâm khảm mỗi người mà chọn những hình ảnh ước lệ để khắc họa sự mất mát của mỗi người khi mẹ ra đi. “Đóa hoa”, “trẻ thơ”, “bầu trời” - những sự vật được tác giả nhắc đến - vẫn tồn tại - nhưng cô quạnh, úa tàn, không còn sức sống.
Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ khắc họa tầm vóc lớn lao của người mẹ bằng loạt hình ảnh ẩn dụ mang tính tượng trưng cao: “dòng suối”, “bài hát”, “bóng mát”, “trăng sao”, “ánh đuốc trong đêm”.
Đoản văn của thiền sư Thích Nhất Hạnh giải thích rõ hơn ý nhạc. Thiền sư viết:
Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh như thế này. Chiều nay, khi đi học về, hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ, và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi: ‘Mẹ ơi, mẹ có biết không?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên, và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: “Biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: “Mẹ có biết là con thương mẹ không?”
Sau nửa thế kỷ, Bông hồng cài áo được phổ biến rộng rãi với cộng đồng người Việt trong, ngoài nước. Ca khúc mang đậm giáo lý nhân văn của nhà Phật, khơi gợi sự hiếu thảo, lòng lương thiện trong mỗi con người.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng viết:
“Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên… Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ… Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc Hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc Hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc Hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.”
Video âm thanh, Elvis Phương, với hình ảnh mang nhiều ý nghĩa:
https://www.youtube.com/watch?v=u4lOsu8qAxU
+ Video trình diễn sống, Hồ Văn Cường, có phụ đề, trong chương trình Vietnam idol kids 2016:
https://www.youtube.com/watch?v=MD6dhOq_Gws
Video trình diễn sống, Bằng Kiều, trong chương trình Paris By Night 113:
https://www.youtube.com/watch?v=N3hjKbKAg2A&pbjreload=10
Video trình diễn sống, Lưu Ánh Loan:
https://www.youtube.com/watch?v=1yUXd0MmPiA
Ca dao em và tôi – An Thuyên
An Thuyên
An Thuyên tên đầy đủ là Nguyễn An Thuyên (1949-2015) là một nhạc sĩ, nhạc công, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội. Ông là một trong số các nhạc sĩ đã khai thác, vận dụng và phát triển vốn âm nhạc của dân ca Nghệ Tĩnh cùng với các tên tuổi khác mà ông đã từng học tập như Nguyễn Văn Tý, Trần Hoàn, Đỗ Nhuận, Nguyễn Trọng Tạo, Phó Đức Phương…
Anh Mai (2015) nhận xét:
Những năm cuối của thập niên 1990 – thời kỳ rực rỡ của Làn Sóng Xanh, Ca dao em và tôi cùng Quang Linh nổi lên như một hiện tượng hiếm thấy. Hiếm là bởi vì giữa các bài hát trẻ trung, sôi động, giai điệu mang âm hưởng dân ca cùng những lời hát trữ tình vẫn được khán giả yêu mến không thua kém. Ca dao em và tôi khi đó như một minh chứng cho thấy giới trẻ không quay lưng với dân ca, với những làn hò điệu lý đặc trưng của dân tộc.
Nhiều thế hệ người yêu nhạc Việt Nam hẳn mãi nhớ đến tiếng hát ngọt ngào, dìu dặt của Quang Linh: “Cắt nửa vầng trăng, cắt nửa vầng trăng tôi làm con đò nhỏ…” Đoạn mở đầu êm ái ấy dẫn dắt người nghe thả hồn một cách tự nhiên vào giai điệu như một khúc hát ru cùng những ca từ huyền hoặc, phiêu linh về một mối tình cách trở. Ca dao em và tôi có thể coi là một “di sản tinh thần” đặc biệt của nhạc Việt.
Nhạc sĩ An Thuyên mất tới 10 năm để hoàn thành bài hát. Câu chuyện về vầng trăng cắt nửa, câu thơ bẻ đôi lại chính là ca khúc gửi gắm nhiều tâm trạng day dứt nhất trong cuộc đời và sự nghiệp cống hiến cho âm nhạc của ông.
Ca dao em và tôi lấy ý tưởng từ vở nhạc kịch chưa từng được công bố về chàng Trương Chi mà nhạc sĩ An Thuyên được giao viết vào năm 1980. Nỗi khát khao, tuyệt vọng: “Đưa tôi về, với người tôi yêu” được nhạc sĩ chấp bút từ chính bi kịch bị nàng Mỵ Nương từ chối tình yêu của chàng Trương Chi trong truyền thuyết dân gian.  Quá bi phẫn vì tình yêu không được đền đáp, chàng Trương Chi quay về bến sông, định trẫm mình xuống sông quyên sinh, nhờ trời nước, trăng sao chứng giám. Bi kịch tình yêu kết thúc ở đó nhưng nỗi đau đớn, xót xa của chàng Trương Chi vẫn mãi ám ảnh cùng bài hát của An Thuyên. Mãi sau này, nhạc sĩ không ngần ngại chia sẻ: “Đã có lúc tôi thấy mình giống chàng Trương Chi, cũng một đời đi tìm Mỵ Nương, đi tìm tình yêu”.
Nhiều người cho rằng đây cũng là ca khúc thể hiện rõ nét nhất tinh thần âm nhạc của An Thuyên – sự kết hợp giữa chất dân ca và sự đổi mới, cách tân trong âm nhạc hiện đại.
Bản ghi âm, Quang Linh, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/ca-dao-em-va-toi-quang-linh-soqdWB
Video trình diễn sống, Yên Nhiên & Kim Cương:
https://www.youtube.com/watch?v=HqS6XO0knC4
Ca dao xanh – Quốc Bảo
Quốc Bảo, tên đầy đủ là Bùi Quốc Bảo (1967- ), là nhạc sĩ và nhà sản xuất âm nhạc được biết đến qua nhiều ca khúc trữ tình. Ngoài sáng tác nhạc, anh còn làm cố vấn nghệ thuật cho nhiều ca sĩ,  và viết báo phê bình âm nhạc.
Bài hát đầu tiên của Quốc Bảo là Em về tinh khôi, viết năm 1991. Một số ca khúc nổi tiếng sau đó là Bài tình cho giai nhân, Còn ta với nồng nàn, Dạ khúc, Tóc nâu môi trầm…
+ Video âm thanh, Tik Tik Tak, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=dtCGekr2WZU
Video âm thanh, Vũ Phong Vũ:
https://www.youtube.com/watch?v=jgOaQGo9kQQ
Cát bụi – Trịnh Công Sơn
Vào thời Khánh Ly và Trịnh Công Sơn thích hát không công, ngoài những ca khúc về cuộc chiến còn có những ca khúc về cuộc đời vô thường mà cũng chỉ tiếng hát Khánh Ly mới thể hiện đúng tầm. Cát bụi là một trong những ca khúc như thế.
Nghe ra thì kỳ khôi, nhưng Cát bụi thật sự lan tỏa rộng nhất ở các đám tang. Người ta nghe Cát bụi ở nhiều đám tang, hoặc được phát ra từ băng cassette rồi đĩa CD ngày xưa và đoàn nhạc đám  tang sau này, chủ yếu do yêu cầu của tang quyến. Họ đã thấm thía với bài nhạc và muốn dùng cung điệu đó để tiễn người ra đi. Những người có mặt không khỏi bồi hồi xúc động cho phận vô thường. Mặt khác, tôi nghĩ việc này tạo kết quả không hay: vì quá lan tỏa theo cách đó mà ca sĩ bây giờ có thể ngại hát Cát bụi trên sân khấu!
Trong Tạp chí Thế giới Âm nhạc số 1-1998,  Trịnh Công Sơn viết về bối cảnh ra đời của ca khúc Cát bụi:
Vào một buổi chiều ngày tháng không còn nhớ, tôi một mình đến rạp Casino xem phim Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm tập 6 . Đây là bộ phim nhiều tập, đã xem tập này thì không thể không chờ xem tập khác. Nói chung là tập nào cũng hấp dẫn. Trong 6 tập có đoạn hiệp sĩ mù xuất kiếm giải cứu cho một nàng Kiều xinh đẹp. Cứ mỗi tuyệt chiêu xuất ra là nghe có một tiếng nói bình giảng ca ngợi. Đường kiếm như có thêm sức mạnh mỗi lúc một uyển chuyển huy hoàng hơn. Sau khi cứu được nàng Kiều, hiệp sĩ mù quay về phía tiếng nói vái tay chào hỏi. Hóa ra bên vệ đường dưới gốc cây to có một người mù khác đang ngồi xếp bàn, trên hai chân có cây đàn bọc trong bao vải gác ngang. Người nghệ sĩ mù có nhã ý chơi một bản đàn tặng hiệp sĩ mù. Hai người bèn kéo nhau vào một khu rừng gần đấy. Hình như rừng vào thu nên các cành đều trơ lá, chỉ thấy một đám lá vàng đỏ trải dài trên mặt đất. Hai người ngồi tựa vào hai gốc cây đối diện nhau. Tiếng đàn cất lên như một lời than thở ngậm ngùi về đất trời, về kiếp người. Tiếng đàn nửa chừng bỗng đứt giây. Người nghệ sĩ mù nói: có kẻ bất thiện đang nghe lén. Quả đúng như vậy, có một tên gian đang rình rập hiệp sĩ mù. Thế là hai người lặng lẽ chia tay.
Hết phim, tôi tản bộ ngang trên đường phố. Không hiểu sao cái đoạn phim ngắn ngủi ấy khiến tôi buồn buồn. Chiều tôi về nhà, sau khi ăn, tôi ngồi đọc lại cuốn Zorba le Grec. Đến đoạn Zorba than thở: “Chim đa đa ơi thôi đừng hót nữa, tiếng hót mày làm tan nát tim ta”, tôi bỗng gập sách lại và không đọc nữa. Có một cái gì đó thật trùng hợp trong cùng một buổi chiều. Một nỗi buồn hay một điều gì đó gần với sự rời xa ly biệt đang cựa mình thức dậy trong tôi. Tôi lại ra đường tìm một góc quán quen thuộc ngồi. Trên đường trở về nhà, trong đầu bỗng vang lên một tiếng hát. Tôi lặp đi lặp lại nhiều lần trong đầu, hát thành tiếng khe khẽ. Đến khi về nhà ghi lại thì bài hát đã gần như hoàn chỉnh. Sáng hôm sau mang hát cho một số bạn bè nghe, hầu như ai cũng thích.
Video âm thanh, Thích Pháp Như:
https://www.youtube.com/watch?v=1xcPfMiu6YQ
Video trình diễn sống, Nguyễn Bảo Chương (guitar solo):
https://www.youtube.com/watch?v=FCeRklMSjpQ
Cây đàn bỏ quên – Phạm Duy
Trong hồi ký của mình, Phạm Duy kể về bối cảnh ra đời ca khúc Cây đàn bỏ quên. Vào năm 1946, ông ở vài tháng trong chiến khu Bà Rịa - Vũng Tàu. Ông sống tại nhà của đồng bào có cô con gái rất xinh, vì bấy giờ nghĩ cần phải giữ “đạo đức cách mạng” cho nên ông chỉ soạn ra một bài hát rất rụt rè là bài Cây đàn bỏ quên, bịa ra chuyện ông đến chơi tại nhà cô em rồi ra về mới nhớ rằng quên cây đàn. Rồi ông còn thắc mắc không biết cô gái - hay người đời - yêu ông hay chỉ yêu nhạc của ông mà thôi?
+ Video trình diễn sống, Phan Ngọc Luân, trong chương trình “Chân dung cuộc tình”:
https://www.youtube.com/watch?v=_zVqiRS_pEg
Chiếc lá cuối cùng – Tuấn Khanh
Nguyễn Thụy Kha (2018) kể về Tuấn Khanh:
Tuấn Khanh (1933) tên khai sinh là Trần Trọng Ngọc, người Nam Định. Vào năm 1950, gia đình ông về Hà Nội. Lúc ấy, Tuấn Khanh đã 17 tuổi. Mê âm nhạc từ nhỏ, Tuấn Khanh được người anh cả là Trần Trọng Tuấn dạy chơi violin. Sau đó, học thầy Nguyễn Văn Diệp (vốn là học sinh trường “Pháp quốc Viễn đông âm nhạc viện” từ năm 1927). Từ thầy Diệp, Tuấn Khanh lại được học thầy người Pháp tên là De Haut. Khi thầy về Pháp thì Tuấn Khanh lại được giới thiệu học thầy Rits. Tuy học violin nhưng Tuấn Khanh lại có cả giọng hát bẩm sinh khá hay. Nhân kỳ thi giọng hát hay do Đài Pháp–Á tổ chức năm 1953, Tuấn Khanh (khi ấy vẫn tên là Trần Trọng Ngọc hay Trần Ngọc) đăng ký thi và đoạt giải nhì sau nữ ca sĩ Thanh Hằng (sau này là ca sĩ Lệ Hằng).
Sau Hiệp định Genève, có nhiều người Hà Nội di cư vào Sài Gòn. Mỗi người đều có một lý do riêng. Với Tuấn Khanh, lý do rất đơn giản: mê học violin với thầy Rits nên theo thầy vào Sài Gòn. Ở Sài Gòn, vừa học violin, Tuấn Khanh vừa đi hát để có tiền sinh sống và học tập. Với cái mác ca sĩ á quân cuộc thi Đài Pháp Á, Tuấn Khanh kiếm đủ tiền để vừa sinh sống vừa học violin. Ở Sài Gòn dạo đó, ngoài các nhạc sĩ đã thành danh từ trước, nhiều nhạc sĩ trẻ xuất hiện. Nhờ thân quen với nhạc sĩ Y Vân, đồng niên (cùng sinh năm 1933), Tuấn Khanh được Y Vân vận động viết ca khúc. “Nói thật với chú, khi một mình bơ vơ ở đất Sài thành, tôi nhớ nhà lắm. Y Vân khuyến khích tôi nên viết ca khúc. Vậy là tôi đem nỗi nhớ ra để trang trải cảm xúc vào giai điệu. Cũng may, khi ấy tôi tham gia một ban nhạc ủng hộ các nhạc công nào có tác phẩm mới. Bài nào viết ra cũng được biểu diễn vài lần nên nhiều người nghe được. Họ thích là mình thành công rồi” - nhạc sĩ Tuấn Khanh nhớ lại.
Từ đó, Sài Gòn bắt đầu xuất hiện nhạc sĩ Tuấn Khanh. Ông trở thành một trong những nhạc sĩ thuộc trang lứa các nhạc sĩ đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn sau Hiệp định Genève. Ông cứ viết đều đều như thế cho đến khi viết ra Chiếc lá cuối cùng.
Cô gái 13 tuổi ngây thơ, trinh trắng là học trò thanh nhạc của Tuấn Khanh trong thời gian dài đã ám ảnh thầy. Ngày cưới của mình mà thầy không vui, chỉ thấy bâng khuâng, thẫn thờ, ngơ ngác như kẻ mộng du. Ở bên vợ mới cưới mà lòng cứ ngoái về hình bóng bé nhỏ thân thương. Chính lúc ấy, chàng nhận ra mình đã yêu cô gái ấy tận đáy lòng bằng tình yêu Platonique - tình yêu tâm hồn không xác thịt.
Chiếc lá cuối cùng có trong giáo trình thanh nhạc chính quy của học sinh, sinh viên trường nhạc nhiều năm nay.
Hoàng Thanh Tâm (2012), thuộc thế hệ nhạc sĩ trẻ sau 1975, nhận xét:
Chiếc lá cuối cùng là một tình khúc nổi tiếng, hay có thể nói là nhạc phẩm tiêu biểu trong cuộc đời sáng tác, và gắn liền với tên tuổi của nhạc sĩ Tuấn Khanh. Giống như trường hợp của một số nhạc phẩm nổi tiếng khác, đây là bài hát mà khi nhắc đến tên tác giả, người ta liên tưởng đến ngay tựa đề của bài hát, như một định mệnh gắn liền giữa tác phẩm và tác giả.
Tương tự như Hoàng Thanh Tâm với Tháng Sáu trời mưa, Trần Quảng Nam với Mười năm tình cũ, Trần Trịnh với Lệ đá, Y Vũ với Tôi đưa em sang sông, Trường Sa với Xin còn gọi tên nhau, Trần Quang Lộc với Về đây nghe em, hay Em tôi của Lê Trạch Lựu, Chiều tím của Đan Thọ, Nắng chiều của Lê Trọng Nguyễn, Mùa thu không trở lại của Phạm Trọng Cầu, Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong…, Chiếc lá cuối cùng của Tuấn Khanh phải được viết từ những rung động mãnh liệt và sâu lắng, với bao nỗi niềm khôn nguôi của một mối tình lớn trong đời, mới có thể gây cho người nghe một cảm xúc day dứt, loan tỏa trong tâm hồn như thể vừa uống một ly rượu mạnh…
Tôi đã yêu tình khúc này của Tuấn Khanh từ lúc còn rất bé, qua tiếng hát ca sĩ Lệ Thu vào khoảng năm 1972-1973, lúc cô đang ở trên đỉnh cao chót vót của danh vọng. Cũng không thể phủ nhận rằng tiếng hát của ca sĩ Lệ Thu góp phần rất lớn cho sự thành công của tình khúc tuyệt vời này.
Tâm tình trong ca khúc Chiếc lá cuối cùng nên được diễn đạt qua giọng nam thay vì nữ (Rượu cạn ly uống say lòng còn giá để dành cho nam giới thì thích hợp hơn!)
+ Video âm thanh, Trọng Tấn:
https://www.youtube.com/watch?v=eIizg3Y052U
+ Video âm thanh, Elvis Phương:
https://www.youtube.com/watch?v=91-ohPKcPwA
Video trình diễn sống, Khắc Minh trong chương trình “Chân dung cuộc tình”:
https://www.youtube.com/watch?v=y87xkau4ORo
Video trình diễn sống, Tuấn Anh - Phương Phạm (guitar):
https://www.youtube.com/watch?v=Og4pt4QMliY
+ Video trình diễn sống, Y Phương - Nguyên Khang, với Trúc Hồ (piano), trong chương trình “Nhạc thính phòng SBTN”:
https://www.youtube.com/watch?v=Qtr1IRnK0iQ&list=PLu4zcWA5VP42RrxqwICl51QfFlKcmkEsx&index=47
Chiều – Hồ Dzếnh & Dương Thiệu Tước
Cảm nhận của Cung Mi/ SBTN:
Rất khó mà chọn ra một vài tác phẩm gọi là “tiêu biểu nhất” cho dòng nhạc Dương Thiệu Tước. Nhưng một trong những ca khúc của ông được nhiều người hát nhất, có lẽ là nhạc phẩm Chiều, phổ thơ của thi sĩ tiền chiến Hồ Dzếnh. Có thể nói rằng chính bài nhạc Chiều làm cho bài thơ trở nên nổi tiếng hơn.
Cả bài thơ lẫn ca khúc Chiều đều mang đậm nét lãng mạn theo kiểu Tây Phương. Bài thơ được phổ nhạc gần như giữ nguyên phần lời. Chiều của Dương Thiệu Tước là một trong những ca khúc tango tiêu biểu nhất của nền tân nhạc Việt Nam. Bài hát đơn giản, dễ hát, nhưng hoàn toàn không “dễ dãi”. Nó khoan thai, tao nhã một cách nhẹ nhàng. Để sáng tác một ca khúc để đời mà giản dị như vậy không phải dễ. Để mãi đến bây giờ, sau gần một thế kỷ, nhiều chàng thanh niên Việt Nam vẫn lấy hình ảnh: “nhớ nhà châm điếu thuốc, khói huyền bay lên cây” làm mẫu mực cho sự lãng mạn.
Tôi rất thích ca khúc này, nhưng khi nghe nữ ca sĩ hát câu “Nhớ nhà châm điếu thuốc” thì mạch cảm nhận của tôi bị đứt đoạn! Càng ngày càng có thêm lời khuyên bỏ thuốc lá, thế nên cần vạch rõ rằng hút thuốc là thói quen của giới nghệ sĩ thời tiền chiến.
Bài thơ: Màu cây trong khói - Hồ Dzếnh (1943)
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây…
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây…
Video âm thanh, Khắc Triệu:
https://www.youtube.com/watch?v=pAWbfIQAAEs
Chiều làng em – Trúc Phương
Theo Wikipedia - Trúc Phương
Trúc Phương
Trúc Phương (1933-1995) người Trà Vinh, tên thật Nguyễn Thiên Lộc, bắt đầu học nhạc ở lớp nhạc tại Sài Gòn của nhạc sĩ Trịnh Hưng chung với Đỗ Lễ, Thanh Thúy, Ánh Tuyết… và lập nghiệp luôn ở đó. Những sáng tác đầu tay của Trúc Phương là hai bản Tình thương mái lá và Tình thắm duyên quê được viết vào năm 1957, sau đó là Chiều làng em (1958) và Đò chiều (1959). Trúc Phương có số lượng sáng tác gần 70 ca khúc, được biết đến từ những năm cuối thập niên 1950s và được phổ biến nhiều trong suốt thập niên 1960s và sau này tại Sài Gòn.
Sau 1975, tất cả những ca khúc của Trúc Phương đều bị cấm phổ biến và trình diễn. Ông vẫn còn sáng tác thêm một số bài nói về tình yêu cây lá, tình yêu quê hương nhưng hầu hết ca khúc này, như ông xác nhận, không thành công lắm, chỉ với lý do: không còn cảm hứng dồi dào như những bài tình ca đã được đón nhận từ trước 1975.
Năm 2014, Trung tâm Asia thực hiện chương trình đặc biệt Trúc Phương - Ông hoàng của dòng nhạc bolero (DVD Asia 74) để vinh danh ông.
Những ca khúc của Trúc Phương được biết đến nhiều nhất là: Ai cho tôi tình yêu, Bóng nhỏ đường chiều, Buồn trong kỷ niệm, Chiều làng em, Con đường mang tên em, Hai chuyến tàu đêm, Hai lối mộng, Mưa nửa đêm, Nửa đêm ngoài phố, Tàu đêm năm cũ, Thói đời, Tình thắm duyên quê… Nhiều ca khúc gắn liền với “tiếng hát liêu trai” Thanh Thúy.
Trang web của Cục Nghệ thuật Biểu diễn được truy cập ngày 28/3/2019 liệt kê 21 ca khúc của Trúc Phương (kể cả những ca khúc nêu trên) được phép phổ biến tại Việt Nam:
Trong số những ca khúc bolero bị xem là ủy mị của Trúc Phương, hai bài tình tự quê hương vui tươi Chiều làng em và Tình thắm duyên quê tạo niềm sảng khoái đặc biệt. Có lẽ vì muốn tránh điệu ủy mị, ca sĩ thường trình bày hai ca khúc này theo điệu rumba, nhanh hơn và thanh thoát hơn.
Cả bốn ca sĩ được giới thiệu dưới đây đều thể hiện xuất sắc tinh thần của ca khúc Chiều làng em, được hỗ trợ bởi nhạc đệm thích hợp. Từ đó, tôi cho rằng Chiều làng em là ca khúc có tính giải trí cao nhất của Trúc Phương.
+ Video âm thanh, Như Hảo:
https://www.youtube.com/watch?v=1Bqg_6gpLwo
+ Video trình diễn sống, Mai Thiên Vân, trong DVD Live Show Mai Thiên Vân, với múa minh họa đáng khen:
https://www.youtube.com/watch?v=IfEeRuDXFPw
Video trình diễn sống, Mai Kiều Bolero [Official MV] trong Album Bolero “Trữ tình mới”, với dàn nhạc đơn giản nhưng tiếng hát thì cuốn hút:
https://www.youtube.com/watch?v=tki3yBxGPsQ
Video trình diễn sống, Bảo Hân Bolero, với Vũ đoàn Vầng Trăng:
https://www.youtube.com/watch?v=hwmIPBK4B_Q
Chiều lên bản Thượng – Lê Dinh
Lê Dinh thật là Lê Văn Dinh (1934- ), người Gò Công, là nhạc sĩ hoạt động từ giữa thập kỷ 1950s tại miền Nam Việt Nam và tiếp tục sau này tại hải ngoại. Ông từng là một trong 3 thành viên của nhóm Lê Minh Bằng.
Chiều lên bản Thượng là ca khúc phổ biến nhất của Lê Dinh. Ca khúc thường được dùng làm nhạc nền cho những cách dàn dựng và phối khí khác nhau với trang phục người thiểu số và vũ điệu đa dạng tạo nhiều hứng thú cho người xem.
Bạn nên nghe và xem hết những bản trình diễn dưới đây để cảm nhận sự đa dạng trong ca khúc độc đáo này của Lê Dinh.
+ Video âm thanh, Giáng Tiên, [Official Audio] với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=ywOR87viu5I
+  Video trình diễn sống, Lưu Chí Vỹ - Lưu Ánh Loan, POPS Music:
https://www.youtube.com/watch?v=CvQsfelvE38
Video trình diễn sống, Lê Như, POPS Music:
https://www.youtube.com/watch?v=thjgmsptB2A
Video trình diễn sống, điệu múa của học sinh Trường THPT Thanh Hòa, Bù Đốp, Bình Phước:
https://www.youtube.com/watch?v=_Rrk-aK-57Q
Chiều mưa biên giới – Nguyễn Văn Đông
Nguyễn Văn Đông
Theo Wikipedia - Nguyễn Văn Đông,
Nguyễn Văn Đông (1932-2018), nguyên quán ở Tây Ninh, nổi tiếng qua những ca khúc về người lính như Chiều mưa biên giới, Sắc hoa mầu nhớ… Năm 1972, ông được thăng cấp đại tá, và giữ cấp bậc này cho đến sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Sau ngày đó, vì là một sĩ quan cao cấp của chính thể cũ nên ông bị chính quyền mới bắt đi học tập cải tạo, cho đến khi được trả tự do vào năm 1985. Tuy nhiên, khi có Chương trình Ra đi có Trật tự, ông không xin đi xuất cảnh mà ở lại sống thầm lặng cùng gia đình tại quận Phú Nhuận, Tp HCM.
Ngay từ thập niên 1950, Nguyễn Văn Đông nổi tiếng khi là Trưởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với thành phần ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim… Ông tổ chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội tại Sài Gòn và khắp các tỉnh của Việt Nam Cộng hòa.
Nguyễn Văn Đông là người tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm. Ông thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng trong đó có Giao Linh: Sơn Ca 6, Khánh Ly: Sơn Ca 7, Lệ Thu: Sơn Ca 9, Phương Dung: Sơn Ca 5 và Sơn Ca 11, Thái Thanh và Ban Thăng Long: Sơn Ca 10… cùng một số album riêng cho Trịnh Công Sơn.
Nhiều sáng tác của ông viết về chủ đề người lính miền Nam thời đó. Nhạc phẩm Phiên gác đêm xuân được ông viết vào đêm 30 Tết Nguyên đán năm 1956 khi gác phiên ở khu 9 Đồng Tháp Mười. Chiều mưa biên giới ra đời năm 1956 và nổi tiếng qua tiếng hát của Trần Văn Trạch. Riêng Chiều mưa biên giới và Mấy dặm sơn khê từng gây cho ông nhiều khó khăn khi bị Bộ Thông tin Việt Nam Cộng hòa ra quyết định vào năm 1961 cấm phổ biến vì lý do phản chiến.
Tên tuổi của Nguyễn Văn Đông gắn liền với ca khúc Chiều mưa biên giới. Anh Tú (2018) cho biết bối cảnh ra đời của ca khúc này như sau.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông qua đời để lại cho lòng người ái mộ âm nhạc những tiếc nuối. Một trong những tác phẩm âm nhạc nổi tiếng của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là Chiều mưa biên giới được ông sáng tác năm 1956. Bài hát được mở màn với câu Chiều mưa biên giới anh đi về đâu? Rất nhiều người nghe, thích câu này và cũng thắc mắc “biên giới” mà Nguyễn Văn Đông nhắc đến là “biên giới nào”.
Năm 1956, Nguyễn Văn Đông là trung úy của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tham gia chiến dịch Thoại Ngọc Hầu nhằm đối phó với lực lượng của Ba Cụt (tướng Lê Quang Vinh). Tài liệu đăng trên báo CAND cũng xác nhận: “Vào ngày 5.1.1956, Dương Văn Minh phát lệnh một cuộc tấn công đại quy mô có mật danh là ‘Thoại Ngọc Hầu’ nhằm vào lực lượng của Ba Cụt… Dù đang ‘nước sôi lửa bỏng’, thay vì ém quân thật kỹ, hàng ngày các tay súng của Ba Cụt vẫn ngang nhiên đột nhập vào nhà dân cướp bóc, hãm hiếp”.
Trong một lần trả lời phỏng vấn trước đây với một tờ báo hải ngoại, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông từng kể về hoàn cảnh sáng tác bài Chiều mưa biên giới: “Khi ấy tôi là trung úy trưởng phòng hành quân của chiến khu Đồng Tháp Mười, là người có trách nhiệm đề ra những phương án tác chiến. Lần đó tôi dẫn đầu một nhóm biệt kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo biên giới Miên-Việt và Đồng Tháp Mười. Trên đường về, anh em chúng tôi lâm vào cảnh trời chiều gió lộng, mưa gào như vuốt mặt. Giữa cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối vào tiền đồn thì xa xôi, thoáng ẩn hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở cuối chân trời. Và từng chập gió buốt kéo về như muối sát vào thịt da. Từ cảnh ấy, tận đáy lòng mình đã nghe nẩy lên những cung bậc rung cảm, những trường canh đầu tiên buồn bã: Chiều mưa biên giới anh đi về đâu…”
Câu sâu lắng nhất trong Chiều mưa biên giới phải kể đến đoạn cuối đầy triết lý nhân văn: Người đi khu chiến thương người hậu phương…
Không phải người hậu phương thương người đi ra chiến trường mà ngược lại chính người ra sa trường nghĩ và thương cho người ở hậu phương. Ở đây, có sự đồng cảm rõ giữa Nguyễn Văn Đông và nhà thơ Hữu Loan trong bài Màu tím hoa sim (sáng tác 1949) với câu: Nhỡ khi mình không về / thì thương / người vợ chờ /bé bỏng chiều quê…
Cùng là người khoác áo lính, với những âm hưởng đậm chất lính nhưng lại rất nhân văn, trong tâm trạng rất thật của con người, Nguyễn Văn Đông và Hữu Loan để lại cho chúng ta những tác phẩm bất hủ, lắng đọng mãi trong lòng người.
Cuối tháng 7.2017, ca khúc Chiều mưa biên giới được nam ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng giới thiệu trong album “Tình bơ vơ” sau khi anh xin và được cấp phép biểu diễn.
Video âm thanh, Đàm Vĩnh Hưng:
https://www.youtube.com/watch?v=LpbPLUSjZp8
Video trình diễn sống, Đào Anh Thư, trong chương trình “Bolero nhạc vàng xưa”:
https://www.youtube.com/watch?v=DC5gCWQ7esU
Video trình diễn sống - Liên khúc Chiều mưa biên giới - Sắc hoa màu nhớ, Tiêu Châu Như Quỳnh - Triều Quân, trong chương trình “Cặp đôi hoàn hảo”:
https://www.youtube.com/watch?v=Jbm8JOTIMkg
Chiều tím – Đan Thọ - Đinh Hùng
Như nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn nhận xét về Đan Thọ (1924- ): “… nhạc của ông, vui hay buồn đều chừng mực, lãng mạn nhưng không có vẻ ủy mị, đắm đuối, và nhất là luôn toát ra vẻ lịch sự, sang trọng”, những nốt nhạc cung Fa trưởng mở đầu cho bản Chiều tím của Đan Thọ rồi chuyển nhẹ sang Ré thứ với tiết điệu Valse Lente man mác hoài nhớ.
Chiều tím, chính nhạc sĩ Đan Thọ cho biết, có lời ca do nhà thơ Đinh Hùng (1920-1967) viết chứ không phải là thơ phổ nhạc, theo Nguyễn Đình Toàn ghi lại. Đan Thọ kể lại rằng, trong một bữa uống cà phê tại La Pagoda, Đan Thọ đưa bản nhạc vừa viết xong của mình cho Đinh Hùng và Thanh Nam coi. Đinh Hùng nói, “moi biết chơi mandoline, để moi viết lời ca cho”. Khi Đinh Hùng viết xong lời ca, ba người gặp lại nhau, Thanh Nam đề nghị đặt tên là Chiều tím. Ca sĩ trình bày Chiều tím đầu tiên trên làn sóng điện là Anh Ngọc.
Theo Dòng Nhạc Xưa (2013b):
Nhạc sĩ Đan Thọ tên thật là Đan Đình Thọ, sinh tại Nam Định. Nơi đây, trong những năm 1936-1942, Đan Thọ theo học chữ và học nhạc tại trường Saint Thomas d’Aquin. Qua năm 1942, ông bắt đầu theo học về hòa âm và sáng tác.
Một thời gian ngắn sau khi vào đến Sài Gòn năm 1956, Đan Thọ trở thành nổi tiếng ngay sau khi ông phổ nhạc thành ca khúc một thi phẩm của Đinh Hùng mang tựa đề Chiều tím.  Nhạc phẩm này cho đến nay đã được rất nhiều ca sĩ thuộc nhiều thế hệ ở hải ngọai cũng như trong nước trình bầy.  Và đó cũng là nhạc phẩm đã gắn liền với tên tuổi Đan Thọ với âm điệu du dương và tình tứ đã làm say mê bất cứ ai có dịp thưởng thức.
Chiều tím cũng còn có thể được coi là một trong những nhạc phẩm đặc sắc của nền tân nhạc Việt Nam.
Về mặt sáng tác, Đan Thọ không có một gia tài đồ sộ, mà chỉ cho ra đời không quá 10 nhạc phẩm.  Ông chủ trương không chú trọng nhiều đến số lượng mà đặt trọng tâm vào chất lượng của từng sáng tác của mình. Vì thế, những nhạc phẩm đó đóng góp giá trị vào thế đứng vững vàng của ông trong số những nghệ sĩ có công với âm nhạc. Một điểm đặc biệt cần ghi nhận là quá nửa sáng tác của mình, Đan Thọ phổ nhạc từ thơ và mang đến cho những thơ đó những nét quyến rũ bằng âm thanh và giai điệu.
Những tưởng an hưởng tuổi già với con cháu, năm 2005, trận bão Katrina quét qua New Orleans khiến ông bà Đan Thọ phải dạt về Florida lánh nạn ở nhà trưởng nam Đan Thành. Dịp này, người nhạc sĩ lại mất sạch những nhạc cụ ông yêu quý, trong đó có cây vĩ cầm đến hơn 250 tuổi và cây kèn saxo mạ vàng. Cơn bão qua đi, ông bà dọn về Houston, Texas, cùng nơi cư ngụ của các con gái cho đến ngày nay.
+ Video âm thanh, Thùy Dương, giọng ca ngọt ngào, hình ảnh xuất sắc do Hoàng Khai Nhan thiết kế (tôi vẫn ngưỡng mộ các video của ông):
https://www.youtube.com/watch?v=6eOAGJ1d-LM
Video âm thanh, Hồ Hoàng Yến, ghi âm trình diễn sống, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=cWxAjsy5Xc0
Video âm thanh, Hồng Nhung, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=P52TXFztt9A
* Video trình diễn sống, Nguyên Khang - Y Phương, với Trúc Hồ (piano), trong chương trình “Nhạc thính phòng SBTN”:
https://www.youtube.com/watch?v=USZQDuzhblM
Chị tôi – Trần Tiến
Theo Giao Anh (2016):
Chị tôi kể về cuộc đời của một người chị tảo tần sớm hôm, hy sinh cả tuổi thanh xuân và hạnh phúc riêng của mình để lo cho đàn em. Hát về ca khúc mộc mạc và da diết đến thắt lòng này, nhiều nghệ sĩ như Bằng Kiều, Quang Linh, Tùng Dương… đều từng mang đến cho khán giả sự xúc động và niềm đồng cảm riêng. Tuy nhiên, theo nhiều khán giả, “cha đẻ” của ca khúc - nhạc sĩ Trần Tiến - là người thể hiện ca khúc này thành công nhất.
Trần Tiến
Bài thơ Chị tôi là của một cựu sinh viên trường Xây dựng sáng tác. Sau năm 1980, bài thơ này được Trần Tiến (1947- ) sử dụng để viết thành ca khúc nổi tiếng về số phận của những người thôn nữ. Đây là một tặng phẩm mà Trần Tiến gửi tặng người dân làng cổ Trường Yên (Hoa Lư - Ninh Bình), nơi có địa danh Cầu Đông nổi tiếng.
Theo các cụ cao niên trong làng Yên Thành, nhân vật tôi trong bài hát là con trai út trong gia đình có hai con gái và một con trai. Bố mất sớm, mẹ ông bị ốm liệt, đến năm ông 20 tuổi thì mất. Theo phong tục cũ thì con gái phải để tang cha mẹ 3 năm, đó là lý do khiến người chị cả lỡ bước khi “người đàn ông” trong bài hát không đủ kiên nhẫn để chờ đợi nữa. Không rõ lai lịch người đàn ông này ngoài việc về xây chiếc cầu nối bờ sông.
Sau khi chị cả mất, người em trai theo học đại học xây dựng và thường lui về sống cùng gia đình người chị thứ hai lúc này cũng đã xa giá theo chồng. Vì thế mà những lần trở về cố hương của anh thường mang nhiều cảm xúc khi tất cả chỉ là những kỷ niệm và hồi ức bên nấm mồ người chị. Tác phẩm thơ của người kỹ sư xây dựng này trở lên nổi tiếng khi được đăng tải và nhạc sĩ Trần Tiến sử dụng để sáng tác ra bài hát Chị tôi. Bài hát mang đậm triết lý nhân sinh sâu sắc về thân phận của người con gái khi mà xã hội còn trọng nam khinh nữ, không thể quyết định được số phận của mình.
Video âm thanh, Trần Thu Hà:
https://www.youtube.com/watch?v=Uu05pIY2qLk
Video âm thanh, Bằng Kiều:
https://www.youtube.com/watch?v=RrDaVmFNyQ4
Video trình diễn sống, Trần Tiến:
https://www.youtube.com/watch?v=D-2VJcafLS0
+ Video trình diễn sống (live streaming), Hoàng Anh Khang & khách mời đặc biệt Ngọc Ánh Kim, cách trình bày đơn giản với nhạc đệm đơn giản nhưng vẫn cuốn hút:
https://www.youtube.com/watch?v=aITzu1OfogM
Cho lần cuối & Tình khúc cho em – Lê Uyên - Phương
Lê Uyên và Phương
Năm 1968, anh Lê Minh Lập (1941-1999), thầy dạy triết và Việt văn gặp cô Lâm Phúc Anh (1952- ), rồi năm 1968 hai người thành hôn. Anh tâm sự, lúc hai người từ Đà Lạt xuống Sài Gòn biểu diễn, có nhiều phóng viên hỏi “Lê Uyên Phương là ai?”, anh buộc miệng chỉ cô gái (Phúc Anh) nói: “Đây là Lê Uyên, còn tôi là Phương”. Từ đó, nghệ danh của đôi vợ chồng là Lê Uyên Phương, có khi được gọi “Lê Uyên và Phương”.
Những năm đầu thập niên 1970, cặp đôi này mê hát và thích hát không công cho bạn bè nghe. Có lúc chỉ là một căn phòng nhỏ và chỉ với một cây đàn guitar, 15-20 người trong đó có giáo sư trung học, sinh viên, học sinh ngồi bệt trên sàn nhà say sưa nghe hai người say sưa hát từ bài này đến bài khác. Không khí và âm nhạc lúc đó được cảm nhận hay hơn nhiều so với khi hai người biểu diễn trên sân khấu.
Như là định mệnh, các ca khúc của Lê Uyên và Phương thắm đẫm tình yêu nồng nàn kèm nỗi hãi sợ sẽ xa nhau. Tình khúc cho em, được xem là ca khúc ngọt ngào nhất của hai người, cũng mang tâm tình như thế.
+ Video thu thanh_Tình khúc cho em - Cho lần cuối, Lê Uyên - Phương, trừ dàn nhạc thì tiếng hát gần giống với cách hai người hát thuở ban đầu:
https://www.youtube.com/watch?v=-LhgnYWJCsQ
+ Video trình diễn sống - Cho lần cuối - Tình khúc cho em, Gia Huy - Y Phương, trong chương trình Asia 76:
https://www.youtube.com/watch?v=xkzVIBA7mHM
Video thu thanh - Tình khúc cho em, Thái Hiền - Tuấn Ngọc:
https://www.youtube.com/watch?v=8dZrbBdqNE0
Video thu thanh - Tình khúc cho em, Bằng Kiều, Thiên Tôn, Đình Bảo:
https://www.youtube.com/watch?v=93k9xV0kJho
Cho tôi được một lần – Bảo Thu
Nguyễn Trung Khuyến (1944- ), người Sài Gòn, là một nhân vật đặc biệt. Về sáng tác âm nhạc, ông được biết với nghệ danh Bảo Thu. Về ảo thuật, ông được biết với nghệ danh Nguyễn Khuyến, là một trong số ít ảo thuật gia Việt Nam có bằng Tiến sĩ Ảo thuật do Hiệp hội Ảo thuật gia Quốc tế trao.
Sớm biểu lộ tài năng trong lĩnh vực tạp kỹ, đặc biệt với bộ môn ảo thuật, từ năm 1959, ông thường đi theo làm thành viên dự bị và diễn ảo thuật cho ban nhạc Lâm Tuyền cùng Nguyễn Ánh 9, Duy Khiêm, Phùng Trọng… Năm 1960, với nghệ danh Nguyễn Khuyến, ông nổi tiếng là thần đồng ảo thuật tại Việt Nam khi mới 16 tuổi. Trong khoảng thời gian này, ông học sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau như trống, guitar… Đặc biệt, ông được thọ giáo ngón đàn guitar của giáo sư - nhạc sĩ Hoàng Bửu, một bậc thầy về guitar flamenco.
Năm 1966, ông được mời phụ trách chương trình “Tiếng “K” Thời Đại”, chương trình ca vũ nhạc, ảo thuật xiếc, độc tấu đầu tiên của Đài truyền hình Việt Nam.
Cho tôi được một lần, Giọng ca dĩ vãng, và Nếu xuân này vắng anh là những ca khúc nổi tiếng nhất của Bảo Thu.
+ Video trình diễn sống, Thái Châu, Chí Tài, Quang Ngọc, Nguyễn Hoàng Nam:
https://www.youtube.com/watch?v=dyZvpJ5CIWM
+ Video trình diễn sống, Diễm Thùy:
https://www.youtube.com/watch?v=YrFo-j4Avwc
Chuyến tàu hoàng hôn – Minh Kỳ - Hoài Linh
Mùa hè năm 1962, nhạc phẩm Chuyến tàu hoàng hôn ra đời trong một ngày mưa đầu mùa ly biệt. Nhạc sĩ Minh Kỳ, tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Mỹ (1930-1975) là người đặt nhạc.Khi hoàn tất, ông mang bản nhạc đến nhờ nhạc sĩ Hoài Linh, tên thật Lê Văn Linh (1920-1995) đặt lời. Bản nhạc được viết tại Thị Nghè giữa năm 1962 và ngay sau đó được Nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam (của nhạc sĩ Lê Mộng Bảo) ấn hành và tái bản nhiều lần trong suốt những năm của thập niên 60.
Ca khúc này được xem là vượt thời gian do âm nhạc hay, được thể hiện qua ca từ sâu lắng. Từ ngữ không toát vẻ đau thương nhưng tạo sức hút thấm thía. Ví dụ như sau buổi “Chiều nao, tiễn nhau đi khi bóng ngã xế tà” cho nên “Tâm tư cô đơn trách con tàu nỡ sao đành”, rồi đến “Tà dương khuất trong sương là mỗi lần mong chờ”. Trong nhạc có thơ và trong thơ có nhạc.
+ MV, Quỳnh Trang, tiếng hát làm lay động lòng người mà không quá ủy mị, dàn dựng công phu, kịch bản hấp dẫn:
https://www.youtube.com/watch?v=zn2tsq3-m2o
Video trình diễn sống, Lệ Quyên:
https://www.youtube.com/watch?v=VGn87SE–sU
* + Video trình diễn sống, Phương Anh:
https://www.youtube.com/watch?v=CziIokke8kI
Con đường cái quan – Phạm Duy
Con đường cái quan của Phạm Duy cùng với Hòn vọng phu của Lê Thương và Hội trùng dương của Phạm Đình Chương là ba cây đại thụ của nền âm nhạc Việt Nam trong thể loại trường ca.
Theo Wikipedia - Con đường cái quan
Nhạc sĩ Phạm Duy cho biết Trường ca này được soạn xong phần đầu ở Paris năm 1954, ngay sau Hiệp định Genève, 1954 “để phản đối ngay lập tức sự chia cắt đất nước”, nhưng rồi bỏ dở. Chỉ khi tác giả về lại Sài Gòn, nhờ kiến trúc sư Võ Đức Diên (cũng là chủ tờ báo Sáng Dội Miền Nam lúc đó) giúp đỡ phương tiện để nhạc sĩ đi từ Sài Gòn đến Quảng Trị và lấy cảm hứng để hoàn thành. Khi hoàn tất, Con đường cái quan cũng được in ra đầu tiên trên báo Sáng Dội Miền Nam với bản viết tay của tác giả.
Trường ca này rất dài, chia ra làm 19 bài hát nhỏ (đoản khúc) có thể hát như 19 bài riêng biệt. Nội dung của Trường ca nói về một cuộc du hành của người lữ khách, mà theo Phạm Duy: Trường ca đưa ra một lữ khách đi trên con đường xuyên Việt, đi từ Ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mau, đi từ ngày lập quốc cho tới khi đã hoàn thành xứ sở, đi trong lịch sử và lòng dân, đi tới đâu cũng có tiếng dân chúng địa phương ca hát chúc tụng lữ khách đi nối liền được lòng người và đất nước…
Trường ca Con ðường cái quan gồm có ba phần:
Từ miền Bắc: với hơi hướng của những điệu ca cổ truyền miền Bắc, mang tính chất hào hùng của miền quê cha đất tổ. Các đoản khúc là: Anh đi trên đường cái quan - Tôi đi từ ải Nam Quan - Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa - Người về miền xuôi - Này người ơi - Tôi đi từ lúc trăng tơ.
Qua miền Trung: với hơi hướng hò và ca Huế, mang tình thương yêu chan chứa, đôi khi xót xa. Các đoản khúc là: Ai đi trong gió trong sương - Ai vô xứ Huế thì vô - Ai đi trên dặm đường trường - Nước non ngàn dặm ra đi - Gió đưa cành trúc la đà - Tôi xa quê nghèo ruộng nghèo. Riêng Nước non ngàn dặm ra đi được xem là đoản khúc hay nhất của trường ca, thường được trình diễn như là ca khúc riêng biệt trong các chương trình âm nhạc.
Vào miền Nam: có hơi hướng hò, ru và Vọng Cổ, rất hoan lạc, tỏ sự vui mừng của con người đã cả thắng thiên nhiên để hoàn thành nước Việt… Các đoản khúc là: Anh đi đường vắng đường xa - Nhờ gió đưa về - Đi đâu cho thiếp theo cùng - Đèn cao Châu Đốc gió độc Gò Công - Cửu Long Giang/Về miền Nam - Giã ơn cái cối cái chầy/Về miền Nam - Đường đi đã tới.
Bạn nên nghe thêm diễn giải về Con đường cái quan trong video dưới đây:
Câu chuyện văn nghệ với Quỳnh Giao: https://www.youtube.com/watch?v=DokUdxRt_Ck
Toàn bộ bản trường ca được thu âm lần đầu tiên năm 1965 bởi Ban Hoa Xuân của Đài Phát thanh Sài Gòn (với Thái Thanh, Duy Khánh và Kim Tước, Thái Hằng, Nhật Trường, Trần Ngọc…) và ban nhạc Nghiêm Phú Phi, Y Vân, Đan Thọ, phát hành theo dạng cassette.
Năm 1991, Phạm Duy Cường phát hành một CD nhạc hòa tấu của trường ca này, rồi đến năm 1993, ông bổ túc phần hòa âm phối khí và tái bản cũng theo dạng CD.
Ban Hợp xướng Ngàn Khơi ở Mỹ trình tấu và phát hành CD nhiều trích đoạn từ trường ca này trong hai CD “Đêm Ngàn Khơi 4: 10 năm lưu niệm” và “Đêm Ngàn Khơi: Con đường cái quan - Tình hoài hương” (1994), hợp soạn bởi nhạc trưởng Lê Văn Khoa và Trần Chúc.
Năm 2008, Trung tâm Thúy Nga cho hát lại trích đoạn trường ca này trong chương trình Paris by Night 91 Huế - Sài Gòn - Hà Nội. Phần trình tấu được dàn dựng quy mô với các ca sĩ chủ lực của Trung tâm.
Ở Việt Nam sau 1975, một số trường trung học, cao đằng và đại học dàn dựng trình bày những trích đoạn của Con đường cái quan.
Video âm thanh - toàn bộ trường ca, với lời giới thiệu của Phạm Duy trước mỗi đoạn, 36 phút, có lẽ là bản thu âm đầu tiên của trường ca này:
https://www.youtube.com/watch?v=Cms6anl_XhY&t=205s
Từ miền Bắc: Thái Thanh, Thái Hằng
Qua miền Trung: Duy Khánh, Kim Tước [14:13]
Vào miền Nam: Duy Khánh, Kim Tước [25:32]
+ Video âm thanh - toàn bộ trường ca, Ban Hợp xướng Ngàn Khơi, hợp xướng và hòa âm công phu, 31 phút:
https://www.youtube.com/watch?v=UW0a7NhcSvY
+ Video âm thanh_toàn bộ trường ca, hòa tấu với hòa âm phối khí bởi Duy Cường, 47 phút:
https://www.youtube.com/watch?v=RxQPWWTFZA0
Bản thu âm - “Từ miền Bắc”, Dật Hanh, rất đáng khen cho dù nhạc đệm chủ yếu là guitar, 8 phút:
https://www.youtube.com/watch?v=Bc7Kx1bIBGs
Video trình diễn sống - trích đoạn, trong chương trình “Paris by Night 91”, tiếng hát và dàn dựng hay, chỉ tiếc hình ảnh mờ nhòe, 19 phút:
https://www.youtube.com/watch?v=Gqm4BRnIYqg
Từ Miền Bắc - Quỳnh Vi, Thế Sơn, Bằng Kiều, Quang Lê, Trần Thái Hòa, Dương Triêu Vũ, Trịnh Lam
Qua Miền Trung - Mai Thiên Vân, Trần Thái Hòa, Dương Triệu Vũ, Trịnh Lam, Lưu Việt Hùng, Nguyễn Hoàng Nam [6:46]
Vào Miền Nam - Hương Thủy, Thế Sơn, Quang Lê, Lưu Việt Hùng, Nguyễn Hoàng Nam [13:20]
Video trình diễn sống - “Từ miền Bắc”, sinh viên Trường Đại học Xã hội - Nhân văn Hà Nội, đơn ca và hợp xướng đều đáng khen, tuy vũ khúc có đôi điều cần bàn (như trang phục cổ Việt trong bối cảnh lịch sử Việt nhưng nam ôm nữ nhảy như là múa ballet!) và tiếc là kỹ thuật ghi hình chưa đạt vào thời đã có kỹ thuật HD, và các góc ghi hình cũng chưa khai thác hết vẻ đẹp của vũ khúc:
https://www.youtube.com/watch?v=Bm4HxF0w2TA
+ Bản thu âm - Nước non ngàn dặm ra đi, Tấn Sơn, với ca từ, đơn ca và hát bè xuất sắc:
https://nhac.vn/bai-hat/nuoc-non-ngan-dam-ra-di-tan-son-so01q5l
Video âm thanh - Nước non ngàn dặm ra đi, hòa tấu đàn tranh - guitar:
https://www.youtube.com/watch?v=CMQvXD0m96Q
Video âm thanh - Này người ơi, Nước non ngàn dặm ra đi - Cửu Long Giang, Quỳnh Giao, với nhạc đệm xuất sắc:
https://www.youtube.com/watch?v=Q1MO_kOgEhY
+ Video trình diễn sống - Nước non ngàn dặm ra đi, Quang Lê - Mai Thiên Vân, trong chương trình “Paris by Night 90”:
https://www.youtube.com/watch?v=YVuPqZNpzdw
Video trình diễn sống - Người về miền xuôi, Lành Nguyễn, trong Đêm nhạc Phạm Duy “Mừng sinh nhật lần thứ III” của Hội những người yêu nhạc Phạm Duy, 15-09-2018:
https://www.youtube.com/watch?v=w4qB249sU1I
Video âm thanh - Liên khúc Cửu Long Giang - Mẹ Việt Nam, Mẹ Trùng dương, Quỳnh Giao - Bảo Cơ:
https://www.youtube.com/watch?v=KFJIVz3xh7g
Con đường xưa em đi – Châu Kỳ - Hồ Đình Phương
Theo Wikipedia - Châu Kỳ
Châu Kỳ (1923-2008) là nhạc sĩ Việt Nam thành danh với kho tàng tác phẩm gồm gần 200 ca khúc trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam.
Thuở nhỏ, Châu Kỳ học ở Trường Tiểu học Dưỡng Mong, sau ông lên Huế học ở trường Lycée Khải Định. Ở đây, Châu Kỳ gặp được sư huynh Petrus Thiều, một tu sĩ vừa giỏi về nhạc lý và sáng tác vừa sử dụng thành thạo nhiều loại nhạc cụ phương Tây. Sẵn dòng máu văn nghệ trong người, lại được thầy giỏi hướng dẫn, nên việc học nhạc và học hát của Châu Kỳ rất mau tiến bộ.
Nhạc của ông đã được nhiều thế hệ ca sĩ từ trước 1975 đến nay thể hiện ở Việt Nam và hải ngoại. Năm 2005, trung tâm Thúy Nga thực hiện Paris By Night 78: Đường xưa, vinh danh ông cùng với nhạc sĩ Quốc Dũng và Tùng Giang.
Một số ca khúc nổi tiếng nhất của Châu Kỳ là Cánh nhạn hồi âm, Con đường xưa em đi, Đón xuân này nhớ xuân xưa (với Anh Châu), Đừng nói xa nhau, Giọt lệ đài trang, Khuya nay anh đi rồi (với Hoàng Trang), Sao chưa thấy hồi âm…
Theo Dòng Nhạc Xưa (2015a),
Nhà thơ Hồ Đình Phương (1927-1979) sinh tại huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, được mệnh danh “người đặt lời nhiều nhất trong tân nhạc Việt Nam”, người thổi ca từ thật đẹp vào nét nhạc tuyệt vời của nhạc sĩ Châu Kỳ để tạo thành bản nhạc bất hủ Con đường xưa em đi.
Ông đậu thủ khoa tại Học viện Quốc gia Hành chánh, Sài Gòn năm 1958. Sau khi tốt nghiệp ông được bổ nhiệm làm Trưởng ty Thuế vụ tại tỉnh Long An. Khoảng năm 1960 ông giữ chức vụ Phó Tỉnh trưởng Tỉnh Ninh Thuận.
Một số ca khúc nổi tiếng do Hồ Đình Phương viết ca từ cho các nhạc sĩ sau:
Châu Kỳ: Con đường xưa em đi, Tiếng hát dân Chàm
Hoàng Nguyên: Đường nào lên thiên thai
Hoàng Trọng: Bạn lòng, Bên bờ đại dương, Gió mùa xuân tới, Khúc hát mùa chiêm, Mộng ban đầu, Mộng đẹp ngày xanh, Mộng lành
Lam Phương: Bức tâm thư
Phạm Thế Mỹ: Đường về hai thôn
+ Video trình diễn sống, Hà Thúy Anh, trong chương trình “Người kể chuyện tình”:
https://www.youtube.com/watch?v=3cO9KT9dTcQ
+ Video trình diễn sống, Nguyễn Thị Thu Hằng, trong chương trình “Solo cùng Bolero”:
https://www.youtube.com/watch?v=7S46k3N2VPU
* + Video trình diễn sống, Phương Anh:
https://www.youtube.com/watch?v=4lh0MzpG9EY
Cô đơn – Nguyễn Ánh 9
Theo Wikipedia - Nguyễn Ánh 9
Nguyễn Ánh 9 có tên thật Nguyễn Đình Ánh (1940-2016), là nhạc sĩ sáng tác kiêm nghệ sĩ dương cầm.
Nguyễn Đình Ánh theo học trường Taberd đến năm 1954 rồi lên Đà Lạt, ở nội trú trường Yersin cho đến năm 1958. Ông bỏ nhà đi năm 18 tuổi để theo đuổi con đường âm nhạc. Ông tập chơi dương cầm từ nhỏ và trong thời gian học ở Đà Lạt, Nguyễn Đình Ánh có quen biết với nhạc sĩ Hoàng Nguyên và được Hoàng Nguyên dìu dắt vào con đường âm nhạc.
Sau khi tốt nghiệp Tú tài 2, qua sự giới thiệu của nhạc sĩ Hoàng Nguyên, Nguyễn Ánh 9 được vào tham gia chương trình Tuổi Xanh của Đài phát thanh Sài Gòn và Đài phát thanh Đà Lạt. Ông cũng cộng tác với chương trình Tiếng hát sinh viên do Duy Trác thực hiện. Từ đó, Nguyễn Ánh 9 đi khắp nơi biểu diễn dương cầm ở các bar, các nhà hàng nổi tiếng và những ban nhạc thanh niên.
Nguyễn Ánh 9 bắt đầu sự nghiệp viết nhạc một cách rất tình cờ trong một chuyến đi Nhật biểu diễn cùng ca sĩ Khánh Ly. Sau buổi diễn tại hội chợ Ōsaka, khi cùng với Khánh Ly đứng chờ thang máy lên phòng khách sạn, thấy người bạn mình mang vẻ mặt buồn buồn, Khánh Ly lên tiếng hỏi: “Còn thương nó không bạn?”, ý muốn hỏi về một người bạn gái quen biết Nguyễn Ánh 9 vào thời đó. Sẵn cây đàn ghi-ta trên tay, Nguyễn Ánh 9 gảy ngay rồi cất tiếng hát: “Không! Không! Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa.” Đến khi trở về Việt Nam, Khánh Ly đề nghị ông soạn nhạc phẩm này. Trước đề nghị đó, ông hoàn tất nhạc phẩm đầu tiên của mình trong một thời gian ngắn. Ca khúc Không được Khánh Ly thu lần đầu.
Sau sự kiện tháng 4/1975, thời gian đầu ông đi diễn ở các tỉnh với đoàn văn nghệ của Duy Khánh cùng với nhạc sĩ Quốc Dũng. Từ 1976, ông làm nhân viên kiểm soát xe lưu thông tại Xa cảng miền Tây cho đến năm 1978. Một thời gian Nguyễn Ánh 9 có mở một lớp dạy dương cầm.
Năm 1982, Nguyễn Ánh 9 trở lại với âm nhạc; ông tiếp tục tham gia các chương trình hòa tấu và biểu diễn dương cầm ở nhiều nơi. Nguyễn Ánh 9 còn được mời viết nhạc nền cho một số phim như Mảnh tình nghiệt ngã, Mênh mông tình buồn.
Ngoài bản Không, những ca khúc khác của Nguyễn Ánh 9 được biết đến nhiều nhất là Ai đưa em về, Buồn ơi ta xin chào mi, Cô đơn, Tình khúc chiều mưa, Tình yêu đến trong giã từ.
Nguyễn Ánh 9 từng đệm piano nhiều lần cho Ngọc Mai hát ca khúc Cô đơn. Ông cho biết: “Có nhiều lúc nghe Ngọc Mai hát mà tôi có cảm tưởng là tâm trạng của Ngọc Mai còn hơn tâm trạng của tôi viết trong bài hát đó. Cái hay của Ngọc Mai là không bao giờ hát lại đúng như những lời trước mình hát; mỗi lần hát là mỗi lần khác. Đó là người ca sĩ hát với cảm xúc của mình.”
Dưới đây là bốn ca sĩ có bốn cung cách thể hiện riêng, và cả bốn không thể thiếu tiếng đàn của Nguyễn Ánh 9.
+ Video trình diễn sống, Hà Trần với Nguyễn Ánh 9 (piano), tuyệt vời về mọi mặt:
https://www.youtube.com/watch?v=HzaCsQ0fZOc
Video trình diễn sống, Ngọc Mai, với Nguyễn Ánh 9 (piano), Thiên Hương (violon điện), trong chương trình “Nhịp cầu âm nhạc 2013”, đáng lẽ là tuyệt vời nhưng cảm xúc bị phá hỏng bởi quảng cáo quá nổi bật:
https://www.youtube.com/watch?v=vhobODyCbss
Video trình diễn sống, Thanh Lam với Nguyễn Ánh 9 (piano), tiếc cho hình ảnh mờ nhòe:
https://www.youtube.com/watch?v=6Y8cfH5W7Mc
* Video trình diễn sống, Ánh Tuyết với Nguyễn Ánh 9 (piano):
https://www.youtube.com/watch?v=lrUJeR3VkbY
Cô hàng nước – Vũ Minh
Ca khúc Cô hàng nước do Vũ Minh (? - 1995) sáng tác năm 1952 có đủ chất vui buồn và ngộ nghĩnh. Đây chưa phải là câu chuyện tình mà chỉ là mối tình thầm lặng từ phía chàng trai si tình. Tác giả tên thật là Vũ Huyến; Vũ Minh là tên ghép của ông với người vợ tên Minh Hoan. Vũ Minh là kịch sĩ có tiếng của đất Bắc thời xưa. Người ta kể ông rất sáng sân khấu, da trắng, mặt mũi thanh tú, dấp dáng thư sinh và đóng kịch rất có duyên. Vũ Minh sáng tác một số ca khúc, nổi tiếng nhất là Cô hàng nước.
Vũ Minh từng là thành viên của ban tam ca hài hước AVT cùng với hai nhạc sĩ Lữ Liên và Ngọc Bích. Ngoài ra ông còn là thành viên một thời gian với ban hợp ca Thăng Long Hải Ngoại với hai ca sĩ Hoài Trung và Mai Hương.
+ Video trình diễn sống, tiểu phẩm Hòa Minzy - Quốc Thiên:
https://www.youtube.com/watch?v=EicyPVxnSbk
Video trình diễn sống, Nguyên Phượng, trong Liveshow “Nguyên Phượng - Tí tách ngày xưa”:
https://www.youtube.com/watch?v=hhn5uG2TFPc
Cô hàng cà phê – Canh Thân
Nhạc sĩ Canh Thân là một trong những nhạc sĩ tiên phong của tân nhạc Việt Nam (1928-1975) nhưng có rất ít tài liệu nói về ông.
Nhạc sĩ Canh Thân sinh khoảng năm 1920, không rõ năm mất. Xuất thân từ nghệ sĩ cải lương, thời kỳ đầu ông là một ca sĩ của tân nhạc, ông có tham gia hội ái Tino và lấy biệt danh là Tino Thân, ngoài ra ông cũng là một nhạc công đa tài.
Ông có tham gia vào nhóm Đồng Vọng và cùng nhau sáng tác những bản hùng ca. Về lĩnh vực tình ca ông nổi tiếng nhất với bài Cô hàng cà phê.
MV, Thái Châu - Ái Vân, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=idqquhGWqtQ
Video âm thanh, Thanh Long:
https://www.youtube.com/watch?v=juqfRDIlOkM
Cung đàn xưa – Văn Cao
Theo Wikipedia, Cung đàn xưa là một trong những bản nhạc đầu tay (viết năm 1942) thuộc dòng nhạc tình trước 1945, của nhạc sĩ Văn Cao.
Theo Phạm Duy (Hồi ký):
Văn Cao soạn bài này thì không nói tới mùa thu mà nói tới mùa xuân nhưng lại là một mùa xuân đã tàn, đã chết như mùa thu. tuy là một bài hát ngắn, nhưng Văn Cao cũng chia ra 4 đoản khúc rõ ràng.
Đoạn đầu nói tới cung đàn năm xưa: “Hồn cầm phong hương…”
Đoạn 2 nói tới cung Thương, cung Nam mà Lê Thương, Phạm Duy cũng đều nói tới qua những bài Bản đàn xuân, Khối tình Trương Chi: “Cung Thương là tiếng đàn…”
Đoạn 3 chuyển qua một nhịp điệu khác, nói tới sự buồn rầu trong cung đàn xưa: “Cung đàn ngân/ Buồn xa vắng trong tiếng thầm…”
Thì ra tất cả ba đoạn nói tới một cung đàn xưa đó chỉ muốn nhắc tới một người mà Văn Cao diễn tả một cách tuyệt mỹ, một người tình tưởng tượng có đôi mắt giữ lại mùa xuân, có đôi chân đi tới đâu hoa nở tới đó, có thân hình thơm hương, có tiếng nói khơi dậy thương yêu… khiến cho hiện thân của anh Trương Chi là Văn Cao đó, bây giờ đã phải cất lên tiếng đàn giao hoan và dệt nên không biết bao nhiêu là mộng mị: “Gót hài khai hoa, mắt huyền lưu xuân, dáng hồng thơm hương”. Chỉ cần 12 chữ và dù chỉ để xưng tụng một người tình tưởng tượng mà thôi, Văn Cao đã đưa nhạc tình 1943-44 vượt khỏi những khuôn sáo cũ mèm.
Bản thu âm, Quỳnh Giao, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=niQsTLRwEiY
Dạ cổ hoài lang – Cao Văn Lầu
Dạ cổ hoài lang là bản nhạc cổ do nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác, nói về tâm sự người vợ nhớ chồng lúc về đêm. Từ bản Dạ cổ hoài lang mỗi câu 2 nhịp, các nghệ sĩ sau này chuyển lên 4 nhịp rồi 8 nhịp, mà thành bài vọng cổ đầu tiên.
Bối cảnh ra đời của bài Dạ cổ hoài lang được kể lại với những chi tiết khác nhau. Cũng có nhiều ý kiến không tương đồng về thời điểm ra đời của bài hát; nhiều nghệ sĩ cho rằng đó là năm 1918.
Bởi vì có quá nhiều người hát sai ca từ, tôi chép lại đây bản chuẩn như sau:
Từ là từ phu tướng
Báu kiếm sắc phán lên đàng
Vào ra luống trông tin nhạn
(A)
Năm canh mơ màng
Em luống trông tin chàng
Ôi! Gan vàng thêm đau
Đường dầu xa, ong bướm
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
(B)
Đêm luống trông tin bạn
Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
Vọng phu vọng luống trông tin chàng
Lòng xin chớ phụ phàng
Chàng là chàng có hay
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
Bao thuở đó đây sum vầy?
Duyên sắt cầm đừng lợt phai
Là nguyện cho chàng
Hai chữ an - bình an
Trở lại gia đàng
Cho én nhạn hiệp đôi.
Chú thích:
(A): theo nghĩa cổ, nhạn là ngỗng trời. Tin nhạn: tin tức nói chung, từ điển tích Tô Vũ chăn dê trên hoang mạc, cột thư vào chân ngỗng trời cho bay mang về trung nguyên.
(B): phát âm trại từ tao khang: tao là bã rượu, khang là cám gạo, là những thức ăn của người cùng khổ; nghĩa tao khang là nghĩa tình từ lúc sống khốn khó.
Một số lỗi về ca từ thường thấy là như sau.
“sắc phong lên đàng”: ý nghĩa sai lệch. Đúng ra là “phán” tức là đưa lệnh từ trên xuống cho binh sĩ lên đường, còn “phong” như phong thưởng thì không đúng trong trường hợp này.
“luôn trông”: chữ “luống” hợp với nốt nhạc hơn và cũng hợp với văn cổ hơn.
“Vào ra luống trông tin chàng”, không theo đúng cách dẫn dụ gián tiếp thời xưa: ban đầu phải nói “trông tin nhạn” rồi sau đó mới nói “trông tin chàng” để thể hiện ý tình kín đáo, chứ một phụ nữ có nết na mà từ đầu “trông tin chàng” thì quá đường đột.
“Gan vàng quặn đau” nghe quá mãnh liệt đối với phụ nữ hiền hòa; “thêm đau” vừa thâm trầm vừa nghe như đau triền miên.
“Đường dù xa”: chữ “dù” là tiếng Bắc, tiếng Nam Bộ của ông Cao Văn Lầu là “dầu”.
“Đường dầu say ong bướm”: nói như thế thì đành chấp nhận cho chàng say ong bướm hay sao? “Đường dầu xa, ong bướm” ý nói tuy đường xa xôi và có ong bướm, xin chàng…
Cho nên chỉ thay đổi một chút, ý tình và ngữ cảnh khác nhiều.
Nếu loại ra tất cả những bài trình diễn của nam ca sĩ hát “Em luống trông tin chàng” nghe không đồng cảm và nữ ca sĩ hát sai ca từ thì không còn lại gì để giới thiệu! Đó là hậu quả của người trước hát sai rồi người sau hát sai theo mà không ai tìm hiểu ca từ của người sáng tác. Tôi giới thiệu ở đây hai bài trình diễn tuy vẫn còn sai ca từ nhưng chấp nhận được.
Video trình diễn sống, NSƯT Bích Phượng:
https://www.youtube.com/watch?v=9fB4NV_0n5s
Video âm thanh, nghệ nhân dân gian Bạch Huệ:
https://www.youtube.com/watch?v=CAh3ePdp9DM
Dạ khúc – Nguyễn Mỹ Ca - Hoàng Mai Lưu
Nguyễn Mỹ Ca (1917-1946), nghệ danh khác: Nguyễn My Ca, người Mỹ Tho, anh họ của giáo sư âm nhạc Trần Văn Khê, là nhạc sĩ thời kỳ tiền chiến. Cuộc đời quá ngắn ngủi nên ông sáng tác không nhiều, trong đó bài Dạ khúc (phần lời của Hoàng Mai Lưu) được coi là tác phẩm bất hủ.
Bài hát viết theo nhịp 3/4, điệu waltz chầm chậm đưa người nghe vào một cõi buồn mê hoặc. Lời bài ca nói lên tâm trạng buồn chán và cô đơn của người ta, khi nghe một tiếng đàn chợt vang trong đêm trường.
Nếu ra đời ở một nước phương Tây thì có lẽ bài hát đã được phối khí để trình diễn trở thành thể loại nhạc cổ điển. Đối với người Việt, có vẻ như bài hát kén người nghe nên cũng kén ca sĩ: Thái Thanh, Duy Trác, Quỳnh Dao thời trước; Thu Giang và Thùy Dương sau này.
+ Video âm thanh, Duy Trác:
https://www.youtube.com/watch?v=TBPGBxpu_ns
+ Bản thu âm, Quỳnh Dao (cần bấm biểu tượng “Play”):
https://thanhthuy.me/2014/07/29/da-khuc-nguyen-my-ca-qua-tieng-hat-quynh-giao/
+ Video âm thanh, Thùy Dương, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=EVpbLB1s3Zo
Dạ khúc – Quốc Bảo
Nguyễn Hằng (2017) thuật lại bối cảnh ra đời bản Dạ khúc này như sau.
Trong chương trình “Ca sĩ bí ẩn” tập 23, câu chuyện tình phía sau ca khúc nổi tiếng Dạ khúc lần đầu được nghệ sĩ Chí Tài và nhạc sĩ Vũ Quốc Việt bật mí.
Ca khúc ra đời cũng là một cái duyên mà nhạc sĩ có được. Nhạc sĩ Quốc Bảo gặp được một anh phóng viên để hẹn phỏng vấn vào năm 2001 và vô tình hôm ấy anh chàng phóng viên dắt theo một nữ ca sĩ và có ý định nhờ nhạc sĩ Quốc Bảo sáng tác cho mình một bài hát. Số phận trớ trêu thay, cô ca sĩ có vẻ ngoài xinh đẹp nhưng mắc một chứng bệnh về mắt - nhìn bất cứ vật gì cũng mờ và tối.
Trong một lần vào phòng thu cùng nhạc sĩ Quốc Bảo, dù đèn trong phòng thu rất sáng nhưng nữ ca sĩ vẫn thấy mọi thứ xung quanh tối và mờ. Ngay chính trong hoàn cảnh đó, thương xót cho thân phận của nữ ca sĩ và nhạc sĩ Quốc Bảo đã cho ra đời câu hát đầu tiên trong bài hát: Cần đêm trắng để trút vơi lòng đầy.
+ Video âm thanh, Hiền Thục, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=bHJbkne6xg0
+ Video âm thanh, Lệ Quyên:
https://www.youtube.com/watch?v=43mPEykiRuU
Dấu tình sầu – Ngô Thụy Miên
Video âm thanh, Lều Phương Anh,  với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=iWLmplQoQ00
+ Video trình diễn sống, Y Phương, với Trúc Hồ (piano), trong chương trình “Nhạc thính phòng SBTN”:
https://www.youtube.com/watch?v=0F-GFI9u54Y
Video trình diễn sống, Mai Kiều Bolero:
https://www.youtube.com/watch?v=ZJ3xGj0PmfA
Diễm xưa – Trịnh Công Sơn
Theo T.N. (2013), ngữ nghĩa của Diễm xưa được Trịnh Công Sơn lý giải: “Diễm là đẹp, xưa là ngày xưa”.
Nhân vật được nhắc tới trong ca khúc này là nữ sinh Ngô Thị Bích Diễm của trường Đại học Văn khoa Huế. Nhà Bích Diễm ở bên kia sông qua Cầu Phú Cam, rẽ tay phải về phía đường Phan Chu Trinh, hàng ngày cô gái vẫn đi qua nơi Trịnh Công Sơn ở.
“Ngày xưa, cây cầu Phủ Cam tuy ngắn nhưng đầy duyên nợ. Trịnh Công Sơn ở căn gác tầng 2, số nhà 11/03 đường Nguyễn Trường Tộ. Hàng ngày, chàng cứ đứng lấp ló sau cây cột, lén nhìn một người đẹp. Nàng đi bộ từ bên kia sông, qua cầu Phủ Cam, dạo gót hồng dưới hàng long não, ngang qua chỗ Sơn ở là chàng cứ sướng ran cả người. Một tình yêu ‘hương hoa’ kéo dài cho đến cuối đời chàng. Sau này, mỗi một mối tình tiếp theo của Sơn đều có hình ảnh cô gái đó.” (GS Bửu Ý)
Theo Trí Lực (2018), Diễm xưa còn được đón nhận và yêu thích cả ở xứ Phù tang; ca khúc này ngay khi mới phổ biến đã được dịch sang tiếng Nhật. Với sự thành công của giọng ca được mệnh danh là người thổi hồn cho nhạc Trịnh, ca sĩ Khánh Ly từng gửi tới tất cả những người yêu nhạc ở hội chợ Osaka năm 1970 một Diễm xưa đầy ngọt ngào, sâu lắng.
Một tình khúc Việt phiên bản có tựa đề Utsukushii mukashi trở thành một trong 10 bài tình ca hay nhất mọi thời đại của Nhật Bản, và được xếp hạng 11 trong 20 ca khúc hay nhất trên kênh cáp của Nhật Bản năm 2004. Cũng trong năm 2004, Diễm xưa là nhạc phẩm Châu Á đầu tiên được Đại học Kansai Gakuin đưa vào chương trình giáo dục trong môn Văn hóa và Âm nhạc.
+ Video âm thanh, Khánh Ly với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=mf7mZCxsNyE
Video trình diễn sống, Hạ Vân với Phương Phạm (guitar):
https://www.youtube.com/watch?v=0eoSL4CVfxc
Bản ghi âm, Nguyễn Ánh 9 (piano):
https://www.youtube.com/watch?v=mSkrktJHvTs
MV, Guitar Dương Kim Dũng:
https://www.youtube.com/watch?v=Lz5QYr4znC8
Video trình diễn sống_phiên bản tiếng Nhật:
https://www.youtube.com/watch?v=GLpkhjbgjcw
Duyên quê – Hoàng Thi Thơ
Theo Wikipedia - Hoàng Thi Thơ
Hoàng Thi Thơ
Hoàng Thi Thơ (1929-2001), người Quảng Trị, là một nhạc sĩ Việt Nam có nhiều sáng tác ca ngợi quê hương, đất nước, con người Việt từ trước 1975.
Sau Cách mạng tháng Tám, Hoàng Thi Thơ gia nhập Đoàn Văn nghệ Quảng Trị như một diễn viên ca kịch nhạc do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba làm trưởng đoàn.
Năm 1957, ông bắt đầu tổ chức những kỳ Đại nhạc hội tại rạp Thống Nhất Sài Gòn. Năm 1961, ông thành lập Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm hơn 100 nghệ sĩ tên tuổi và lưu diễn qua nhiều nước Á Châu cũng như nhiều thành phố trên thế giới: Vientian, Hồng Kông, Ðài Bắc, Tokyo, Bangkok, Singapore, Sénégal, Paris, London… và nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Năm 1967, ông thành lập tiếp Đoàn Văn nghệ Maxim, gồm 70 diễn viên ca vũ nhạc kịch, tổ chức những chương trình ca vũ nhạc kịch đặc biệt tại nhà hàng Maxim.
Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là người duy nhất được Bộ Thông tin và Tổng cục Chiến tranh Chính trị Việt Nam Cộng hòa nhiều lần cử thành lập và dẫn các đoàn văn nghệ Việt Nam sang Châu Âu trình diễn…
Tháng 4 năm 1975, đoàn văn nghệ của ông đang lưu diễn ở Nhật Bản thì xảy ra sự kiện lịch sử ngày 30-4-1975. Ông không thể trở về nước được và từ đó phải định cư ở Hoa Kỳ.
Hoàng Thi Thơ sáng tác trên 500 ca khúc từ tình ca đến nhạc quê hương, dân ca đến nhạc thời trang, đoản khúc đến trường ca, nhạc cảnh đến nhạc kịch.
Khoảng năm 1972-1973, ông sử dụng thêm bút danh mới là Tôn Nữ Trà Mi và sáng tác một loạt ca khúc mà báo chí thời đó gọi là “đem lại cho làng tân nhạc Việt Nam luồng sinh khí mới và cảm hứng tân kỳ”.
Sau năm 1975, tại Việt Nam, ông cùng với nhạc sĩ Phạm Duy là hai người bị cấm về nhân thân (cấm toàn bộ tác phẩm). Đến đầu năm 2009, một số bài hát của ông mới được cấp phép phổ biến trở lại.
Những sáng tác được biết đến nhiều nhất của Hoàng Thi Thơ là Ai buồn hơn ai, Ai nhớ chăng ai, Chiều cố đô, Ngày vui lý tưởng, Đường xưa lối cũ, Duyên quê, Gạo trắng trăng thanh, Phố chiều, Rước tình về với quê hương, Ô kìa đời bỗng dưng vui, Túp lều lý tưởng,Việt Nam ơi ngày vui đã tới, Xây nhà bên suối,.
Trang web của Cục Nghệ thuật Biểu diễn được truy cập ngày 26/3/2019 liệt kê 61 ca khúc của Hoàng Thi Thơ (kể cả những ca khúc nêu trên) được phép phổ biến tại Việt Nam:
Duyên quê là ca khúc tiêu biểu của Hoàng Thi Thơ thuộc thể loại tình tự quê hương.
+ Video trình diễn sống, Quang Lê - Ngọc Hạ:
https://www.youtube.com/watch?v=SvrXB61_qCs
Duyên tình – Xuân Tiên - Y Vân
Xuân Tiên
Có thông tin thiếu nhất quán về tác giả của ca khúc Duyên tình: hoặc Xuân Tiên hoặc Y Vân hoặc cả hai. Theo Dòng Nhạc Xưa (2016a):
Không có cơ duyên gặp gỡ hai nhạc sĩ để tìm hiểu nhưng qua những gì chúng tôi sưu tầm trên internet thì có thể tạm kết luận Duyên tình phần chính là được Xuân Tiên sáng tác, nhưng nhạc sỹ Y Vân cũng góp phần. Sinh thời hai nhà nhạc sĩ khả kính của chúng ta không câu nệ “ai chính – ai phụ” và vẫn vui vẻ đứng tên chung thì theo thiển ý của [dongnhacxua.com], thế hệ hậu sinh chúng ta cũng không nên tranh luận quá mức làm gì mà cái chính là những ai yêu nhạc xưa cứ mãi say sưa “Biết nhau giữa độ trăng tròn …” là Y Vân mỉm cười nơi chín suối còn Xuân Tiên chắc cũng thanh thản an hưởng tuổi già ở Úc Châu xa xôi!
+ Video trình diễn sống, Diễm Thùy:
https://www.youtube.com/watch?v=1dlu27fu9fU
+ Video trình diễn sống, Saigon South Revival, với phong cách mới lạ:
https://www.youtube.com/watch?v=rOShAYhHU-0
Dừng bước giang hồ – Hoàng Trọng - Quang Khải
Một ca khúc Việt hiếm hoi theo điệu paso-doble, với nhạc của Hoàng Trọng và lời của Quang Khải, nghe thật sảng khoái. Giai điệu theo phương Tây nhưng ý tình vẫn theo phương Đông.
+ Video âm thanh, Đoan Trang, đúng chất paso-doble:
https://www.youtube.com/watch?v=ddM1IJ59HTE
Video trình diễn sống, Nguyễn Phi Hùng:
https://www.youtube.com/watch?v=NqiMHgs6b2I
Đám cưới đầu xuân – Trần Thiện Thanh
Bài nhạc xuân của Trần Thiện Thanh được nhiều người ở mọi lứa tuổi yêu thích nhất có lẽ là ca khúc Đám cưới đầu xuân. Bởi ca khúc nói về một mối tình mộng mơ và dễ thương, kéo dài từ thuở bé con cho đến tuổi thanh xuân, mà nhiều người hẳn đã từng trải qua trong đời.
+ Video trình diễn sống, Nam Cường, Thúy Huyền, Nguyễn Phú Quí, Hà Thúy Anh, Triệu Long, Thu Trang:
https://www.youtube.com/watch?v=lxSdykIWBQE
Video trình diễn sống, Mai Lệ Quyên - Đoàn Minh:
https://www.youtube.com/watch?v=bSZoLQs56OQ
Đà Lạt hoàng hôn – Minh Kỳ - Dạ Cầm
Một lần tôi đi chơi Đà Lạt trên xe tour, nghe cô hướng dẫn viên du lịch hát ca khúc Đà Lạt hoàng hôn để giúp vui cho du khách. Tuy “giúp vui” bằng ca từ u buồn nhưng việc này cho thấy bài hát có sức lan tỏa rộng.
Ca khúc này trở thành nổi tiếng qua giọng hát của ca sĩ Thanh Tuyền, tuy tôi nghe có phần áo não! Giọng hát của Giao Linh nghe thanh thoát hơn.
Bản ghi âm, Thanh Tuyền, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/da-lat-hoang-hon-thanh-tuyen-sobY0jw
+ Video trình diễn sống, Nam Cường:
https://www.youtube.com/watch?v=SP-S0qNp2lE
Video trình diễn sống, Mai Kiều Bolero:
https://www.youtube.com/watch?v=pBEcviIE8tU
Đêm đô thị – Y Vân
Đêm đô thị cùng với 60 năm cuộc đời, 20 & 40 và Kim là những ca khúc sảng khoái khuấy động giới trẻ miền Nam giữa những dòng nhạc bolero và slow rock ủy mị.
+ Bản thu âm, Phương Vy (movie version), với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/dem-do-thi-movie-version-phuong-vy-soA7K9L
+  Video trình diễn sống, Khánh Thy:
https://www.youtube.com/watch?v=33tP5sbU6Bc
+ Video trình diễn sống, Phan Ngọc Luân - Thu Hằng, tiểu phẩm trong chương trình “Người kể chuyện tình”:
https://www.youtube.com/watch?v=LDcLLKVTqd4
Đêm thấy ta là thác đổ – Trịnh Công Sơn
Cảm nhận của Trần Thanh Hà (2012):
Tôi rất tâm đắc khi giáo sư Hoàng Ngọc Hiến cho rằng: bài hát Đêm thấy ta là thác đổ của Trịnh Công Sơn có thể xem là bài thơ tình hay của thế kỷ. (Thơ Huế với lời bình, tr.112, NXB Thuận Hóa - Tạp chí Sông Hương, 2006). Nhưng, tôi nhìn lại bài thơ ở một góc độ khác. Góc độ mà Trịnh Công Sơn đã quyến rũ bao thế hệ người nghe bằng ca từ trong ca khúc của ông. Đó là sự tài hoa của người nghệ sĩ khi diễn tả những cảm xúc tâm trạng vô hình, khó lòng nói được bằng những hình ảnh rất cụ thể như: Thành phố hoang vu như một lần qua cuộc tình, Có một dòng sông đã qua đời hay Đêm thấy ta là thác đổ …
Đêm thấy ta là thác đổ  là một hình ảnh rất thơ, rất đau và rất đẹp. Thác đổ không chỉ là tình yêu vô cùng mà thực sự còn là nỗi đau vô cùng. Tất cả suối nguồn yêu thương dạt dào bỗng nhiên òa vỡ; rơi, rơi mãi trong một cảm giác chơi vơi, hụt hẫng, không trọng lượng. Đó là tâm trạng bàng hoàng, sửng sốt khi chạm vào hư không. Tâm trạng của người đứng bên kia đời không có tình yêu. Cả khúc ca ngân lên, xuyên suốt một tâm trạng ấy.
Video âm thanh, Nguyễn Hồng Ân:
https://www.youtube.com/watch?v=4xlQtpXjSpc
Video trình diễn sống, Hiển Vinh:
https://www.youtube.com/watch?v=VR3aQBrnO7Y
Để gió cuốn đi – Trịnh Công Sơn
Cần có một ghi chú ở đây. Tôi nhờ một người cháu tên Hải giúp khởi động dùm blog này. Không hỏi ý kiến của tôi, cháu Hải đặt tiêu đề blog này là “Để gió cuốn đi”. Tôi thấy hay hay vì đúng theo tôn chỉ của mình “Góp nhặt từ bốn phương rồi đưa ra bốn phương” khi muốn tạo ra blog này. Thế nên tôi chấp nhận, cũng không muốn làm phiền cháu Hải phải đổi tiêu đề, tuy có băn khoăn trong dạ vì đã “cóp” tên một ca khúc. Tôi hy vọng hương hồn anh Trịnh Công Sơn - mà có lúc hai chúng tôi gặp nhau liên quan đến hoạt động của Phong trào Du ca - lượng thứ cho việc “cóp” này.
Ca khúc Trịnh Công Sơn đã lan tỏa rộng, riêng Để gió cuốn đi càng lan tỏa rộng hơn nữa, thậm chí đi vào quảng cáo thương mại. Ca khúc được viết theo điệu valse dìu dặt, ca từ có ý nghĩa sâu lắng khiến cho người nghe phải suy nghĩ, tạo cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ muốn trình bày theo phong cách riêng của họ với hòa âm nhạc đệm phong phú. Bạn nên nghe qua hết những phiên bản có cách trình bày đa dạng của kiệt tác Trịnh Công Sơn để nhận ra hết cái hồn trong những dòng nhạc đơn giản.
+ Video âm thanh, Khánh Ly:
https://www.youtube.com/watch?v=B7uPKAK7o-s
+ Video âm thanh, Hồng Nhung:
https://www.youtube.com/watch?v=l3pq87BN9Sc
+ Video âm thanh, Hiền Thục - Đức Tuấn, với ca từ, hai giọng hát thích hợp với ca khúc, phần nhạc đệm tuyệt vời, hình ảnh khác lạ:
https://www.youtube.com/watch?v=SmkJ-rRzFaA
+ MV, Nguyên Nhung, khởi đầu bằng ca khúc Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui cũng của Trịnh Công Sơn, phối khí khá (tuy tôi muốn nghe tiếng cello rõ hơn), hát bè và kịch bản đáng khen:
https://www.youtube.com/watch?v=DDfnirltmQg
MV, Hồng Duyên - Hồng Ngọc - Bích Ngọc, ba giọng hát đều hay, hình ảnh đẹp, tuy đôi lúc kịch bản không đi đôi với lời nhạc:
https://www.youtube.com/watch?v=Vz2HhCPEpWY
Đón xuân – Phạm Đình Chương
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương (1929-1991) tức ca sĩ Hoài Bắc, người Hà Nội, là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền tân nhạc Việt Nam. Ông sinh ra trong một gia đình nghệ thuật mà song thân đều là những nghệ sĩ chơi nhạc cổ truyền. Chị của ông là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy, và em gái của ông là Phạm Thị Băng Thanh, tức danh ca Thái Thanh. Ngoài ra, ông còn có một người anh cùng cha khác mẹ là Phạm Đình Viêm, tức ca sĩ Hoài Trung.
Năm 1949, họ họp nhau thành Ban Hợp ca Thăng Long nổi danh cho đến đầu thập kỷ 1970s. Riêng Khánh Ngọc, vợ của Phạm Đình Chương, gia nhập muộn và rút lui sớm. Ban Hợp ca Thăng Long trình bày chủ yếu những ca khúc của Phạm Đình Chương và Phạm Duy, cùng tác phẩm của một số nhạc sĩ khác.
Tên in đậm là ca sĩ thuộc Ban Hợp ca Thăng Long: Từ trái, hàng đứng: Phạm Duy, Hoài Bắc-Phạm Đình ChươngHoài Trung. Hàng ngồi: Thái Hằng, Khánh Ngọc, Thái Thanh.
Phạm Đình Chương đa phần tự học nhạc từ năm 13 tuổi và trên cương vị một nhạc sĩ, ông bắt đầu sáng tác năm 18 tuổi với ca khúc đầu tay Ra đi khi trời vừa sáng (năm 1947) khi đó ông cùng các anh em đang tham gia kháng chiến và gia nhập Ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV. Năm 1951, đại gia đình ông vào Sài Gòn rồi tiếp tục các hoạt động sáng tác và trình diễn với Ban Hợp ca Thăng Long.
Phạm Đình Chương được đánh giá như sau, theo Nguyễn Hoàng Linh (2016):
Trong cả sự nghiệp âm nhạc, Phạm Đình Chương chỉ sáng tác trên dưới 60 ca khúc, nhưng theo nhận xét của nhà thơ Du Tử Lê, “nếu tính phần trăm số lượng ca khúc trở thành bất tử của ông, từ sáng tác đầu tay, tới sáng tác sau cùng, tỷ lệ đó, không dưới 80 phần trăm tổng số sáng tác”. Và đó là “những viên kim cương âm nhạc, bất hoại; hầu hết đã được thời gian thực chứng”.
Sáng tác của Phạm Đình Chương, ngay từ giai đoạn đầu, đã bao gồm nhiều ca khúc để đời như Ly rượu mừng, Xuân tha hương, Thuở ban đầu, Tiếng dân chài và đặc biệt, Trường ca Hội trùng dương với bộ tam khúc Tiếng Sông Hồng, Tiếng Sông Hương và Tiếng Sông Cửu Long.
Thời gian sau đó, Phạm Đình Chương tiếp tục được yêu mến với những bản tình ca vẫn được hát thường xuyên tới ngày nay, mà như lời nhạc sĩ Cung Tiến, là “những khúc hát làm thăng hoa ái tình”.
Đặc biệt, Phạm Đình Chương còn được coi là một “phù thủy” trong việc phổ nhạc cho những vần thơ, biến chúng thành bất tử, như Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Màu kỷ niệm (thơ Nguyên Sa), Người đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ) hay Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng). Trịnh Công Sơn, khi được hỏi, cho rằng Phạm Đình Chương bên cạnh Phạm Duy và Cung Tiến là những người phổ thơ xuất sắc nhất của tân nhạc Việt Nam.
Ca khúc Đón xuân được trình diễn vào dịp Tết hằng năm trên các sân khấu và buổi họp mặt trong nước và cộng đồng người Việt ở nước ngoài, và vì thế có vị trí lâu dài trong tâm hồn các thế hệ người Việt.
+ Video trình diễn sống, Linh Nhi (phối khí và trình bày piano):
https://www.youtube.com/watch?v=75wNriY6ej8
Video trình diễn sống, Minh Hằng:
https://www.youtube.com/watch?v=oB2EH7Rd3UY
Đôi mắt người Sơn Tây – Quang Dũng - Phạm Đình Chương
Theo Nhạc Tương Như (2013):
Quang Dũng (1921-1988) viết bài thơ Đôi mắt người Sơn Tây để tặng cho người tình của ông, một kỹ nữ trước kháng chiến tên là Nhật, còn có mỹ danh khác là Akimi. Vào thời chưa có chiến tranh, khi những giá trị xưa cũ vẫn còn, thi nhân, nhạc sĩ có tình nhân như thế là chuyện thường.
Chiến cuộc nổ ra, nàng lìa thành vào vùng kháng chiến, trở thành một cô bán cafe như trong những bài hát trứ danh Cô hàng cafe, Cô hàng nước… Còn chàng thành quân nhân lên đường chống giặc như bao trai tráng thời tao loạn.
Quang Dũng quê ở Sơn Tây, quê ngoại của Hoài Bắc Phạm Đình Chương (1929-1991) cũng ở Sơn Tây. Vì thế, hai tâm hồn nghệ sĩ lớn tìm thấy sự đồng điệu trong thơ, nhạc. Bài hát Đôi mắt người Sơn Tây được Phạm Đình Chương phổ nhạc vào mùa thu năm 1970 tại Sài Gòn. Riêng những câu mở đầu trong bài hát trên là lời bài thơ Đôi bờ của Quang Dũng.
Giờ đây, nhạc sĩ và thi nhân ắt hẳn đã tương ngộ nhau nơi miền miên viễn, có chăng còn lại cho đời là tuyệt phẩm Đôi mắt người Sơn Tây mà thôi…
Bài thơ: Đôi mắt người Sơn Tây - Quang Dũng (1949)
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy núi Ba Vì
Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em như nước giếng thôn làng
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em đã bao ngày em nhớ thương?…
Mẹ tôi em có gặp đâu không?
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn ơi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều suối lệ
Em đã bao ngày lệ chứa chan?
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Thương vườn ruộng khôn khuây
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta?
Bài thơ này có nhiều dị bản do chính tác giả sửa trong các bản in khác nhau.
Nguồn:
1/ Tuyển tập Quang Dũng, Trần Lê Văn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Văn học, 2000
2/ Quang Dũng - tác phẩm chọn lọc,
NXB Trẻ, 1988
Video âm thanh, Duy Trác, có ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=6RDSB5nHLW0
Video trình diễn sống, Mai Hoa:
https://www.youtube.com/watch?v=ho762jZz9vg
Đưa em tìm động hoa vàng – Phạm Thiên Thư - Phạm Duy
Theo Yến Trinh - Tiến Long (2016),
Những ai say đắm bài thơ Động hoa vàng của nhà thơ Phạm Thiên Thư chắc sẽ bất ngờ khi biết nhiều ý tứ về “động hoa vàng” được ông lấy cảm hứng từ căn gác gỗ ở khu cù lao Phan Xích Long. Ở nơi đây, ông trải qua những năm tháng sáng tác rực rỡ nhất trong cuộc đời mình.
Khu cù lao còn là nơi cư ngụ của nhiều văn nghệ sĩ như Trụ Vũ, Thụy Long, cũng là nơi lui tới bàn chuyện con chữ thế sự của Phạm Duy, Sơn Nam…
Hình ảnh hoa vàng xuất hiện dày đặc trong thơ Phạm Thiên Thư. Nó trở thành một biểu tượng xuyên suốt, một nỗi hoài niệm.
Ông kể: “Năm 1942 khi cả gia đình còn ở xã Chi Ngãi, huyện Chí Linh (Hải Dương), bố tôi mua hẳn ngọn đồi Phượng Hoàng. Hoa cúc dại vàng mênh mông, bát ngát chạy dài che khuất đường chân trời”.
Năm 1968, gia đình nhà thơ mua 400 m2 đất ở khu cù lao. Rồi ông sáng tác thi phẩm Động hoa vàng với 100 đoạn thơ. Mỗi đoản khúc là một tiếng hót của loài dị điểu, sẵn sàng yêu và chết, và để tiếng hót của mình rơi rụng trên sông.
Khi nghe nhắc về cây hoa vàng, Tiến sĩ Nguyễn Nhã xác nhận đúng là trước đây ở đầu ngõ nhà của nhà thơ có cây hoa vàng rực, khung cảnh nên thơ vô cùng.
Phạm Thiên Thư trong đêm thơ nhạc 
của ông và Phạm Duy năm 2011
Trong những năm sống ở khu cù lao, Phạm Thiên Thư và nhạc sĩ Phạm Duy có mối liên hệ mật thiết. Cách đây hơn 40 năm, Phạm Duy lui tới căn gác của Phạm Thiên Thư để phổ nhạc một số bài thơ của ông. Nhạc sĩ và nhà thơ bàn về nhạc, về thơ say sưa, tâm đầu ý hợp.
Theo Mặc Lâm (2009)
Không phải lúc nào nhà thơ cũng theo đuổi tình yêu. Bên cạnh những lời thơ mang bóng sắc của cái ngã, Phạm Thiên Thư mang Thiền vào thơ của ông kể từ bài Động hoa vàng. Tác phẩm mở một hướng nhìn mới vào thế giới của tu trì và từ bên trong người theo gót thiền có cơ hội dàn trải những tình cảm trước thiên nhiên, cuộc sống trong đó không loại trừ tình yêu đôi lứa. Tình yêu trai gái trong thơ ông cũng nhuộm phần nào hơi hướm của tăng sòng và từ đó thơ ông trở nên tĩnh tại và sâu lắng hẳn.
Động hoa vàng có thể là nơi non cao, núi vắng nhưng cũng có thể là một xóm nhỏ nào đó giữa buổi chiều xuân im ắng hanh hao. Kẻ theo Thiền đạo có thể tin rằng mình vừa tìm được một lối nhỏ mong manh giữa cuộc trần dẫn đến sự thoát thai ý thức. Trong khi đó, người trần tục cũng không thể phớt lờ được từng ẩn dụ ý nhị lấp lánh phía sau mỗi câu thơ trong như suối ngàn và xanh như rừng thẳm.
Bài thơ: Động hoa vàng (trích đoạn) - Phạm Thiên Thư
7
Ừ thì mình ngại mưa mau
Cũng đưa anh đến bên cầu nước xuôi
Sông này chảy một dòng thôi
Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông
8
Ngày xưa em chửa theo chồng
Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi
Mùa thu áo biếc da trời
Sang đông em lại đổi dời áo hoa
9
Đường về hái nụ mù sa
Đưa theo dài một nương cà tím thôi
Thôi thì em chẳng yêu tôi
Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng
12
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu
13
Tường thành cũ phiến bia xưa
Hồn dâu biển gọi trong cờ lau bay
Chiều xanh vòng ngọc trao tay
Tặng nhau khăn lụa cuối ngày ráng pha
14
Đêm dài ươm ngát nhụy hoa
Chim kêu cửa mộ trăng tà gõ bia
Em ơi rủ tóc mây về
Nhìn trăng nỡ để lời thề gió bay
15
Đợi nhau tàn cuộc hoa này
Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ
Tìm trang lệ ố hàng thơ
Chữ xưa quyên dục bây giờ chim di
22
Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
Thì thôi mù phố xe đường
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi
25
Chim nào hát giữa thôn hoa
Tay nào hong giữa chiều tà tóc bay
Lụa nào phơi nắng sông tây
Áo xuân hạ nọ xanh hoài thu đông
41
Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
62
Từ hôm em bỏ theo chồng
Áo trắng em cất áo hồng em mang
Chiều nay giở lại bàng hoàng
Mười năm áo cũ hoe vàng lệ xanh
99
Vào hang núi nhập niết bàn
Tinh anh nở đóa hoa vàng cửa khe
Mai sau thí chủ nào nghe
Tìm lên xin hỏi một bè mây xanh
100
Hoa vàng ta để chờ anh
Hiện thân ta hát trên cành tâm mai
Trần gian chào cõi mộng này
Sông Ngân tìm một bến ngoài hóa duyên.
+ Video âm thanh, Sĩ Phú:
https://www.youtube.com/watch?v=Jx7ARlEOw10
Bản ghi âm, Mỹ Linh, trong đêm nhạc “Ngày trở về” (2006), live show đầu tiên của Phạm Duy sau khi ông về sống ở Việt Nam với lời giới thiệu của Phạm Duy và ca từ:
https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/dua-em-tim-dong-hoa-vang-my-linh.WahwvMml8X.html
Video âm thanh, Đức Tuấn:
https://www.youtube.com/watch?v=MVlBWduImjs
MV, Don Ho, Hoàng Thục Linh - Show Huyền Thoại 3:
https://www.youtube.com/watch?v=AWvHZRn2MO0
Video trình diễn sống, Nhật Hạ, trong chương trình “Cặp đôi vàng”:
https://www.youtube.com/watch?v=tOy4uL0THIk
Đường xưa – Quốc Dũng - Nguyễn Đức Cường
Theo Wikipedia - Quốc Dũng,
Quốc Dũng tên thật là Nguyễn Quốc Dũng (1951- ), sinh tại Thái Lan. Năm 1954, gia đình ông hồi hương trở về Việt Nam. Năm 10 tuổi, Quốc Dũng vào học tại trường Quốc gia Âm nhạc ở Sài Gòn, và năm 16 tuổi ông tốt nghiệp thủ khoa môn nhạc pháp Tây phương. Sau khi đỗ Tú tài 2, ông vào học tại Viện Đại học Vạn Hạnh.
Đam mê âm nhạc từ nhỏ, lúc 15 tuổi Quốc Dũng đã trình diễn mandolin trên truyền hình trong dàn nhạc đại hòa tấu. Bản nhạc đầu tiên của Quốc Dũng được ông viết khi mới 11 tuổi. Nhưng đó chỉ là một nhạc phẩm không lời. Phải đến năm 17 tuổi ông mới hoàn chỉnh bản nhạc đó thành ca khúc đầu tay Em đã thấy mùa xuân chưa. Sau đó ông viết nhiều ca khúc nổi tiếng khác như Chuyện ba người, Còn mãi nơi đây, Cơn gió thoảng, Điệp khúc mùa xuân, Đường xưa, Hoang vắng, Mai, Thoát ly…
Vào những năm đầu thập niên 1970, khi phong trào nhạc trẻ phổ biến ở miền Nam Việt Nam, Quốc Dũng cùng Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà là những nhạc sĩ đầu tiên Việt hóa nhạc trẻ, bắt đầu soạn các ca khúc nhạc trẻ bằng tiếng Việt. Khi đó ông cùng với Thanh Mai tạo thành một đôi song ca nổi tiếng. Với khả năng sáng tác, biểu diễn và sử dụng mandolin, guitar, piano, trống, bass, keyboard, organ, Quốc Dũng là một trong những gương mặt tiêu biểu của nhạc trẻ thời đó.
Sau 1975, Quốc Dũng chọn ở lại Việt Nam và kết hôn lần thứ hai với ca sĩ Bảo Yến khi ông làm biên tập, hòa âm phối khí cho Đài truyền hình Tp HCM.
+ Video âm thanh, Quốc Thiên, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=M1yuXyq1SzA
+ Video trình diễn sống, Thúy Huyền trong chương trình “Người kể chuyện tình”:
https://www.youtube.com/watch?v=TXWjMf0uKCQ
Video trình diễn sống, Hồng Gấm trong chương trình “Gương mặt thân quen”:
https://www.youtube.com/watch?v=gMG_idFMXCY
Đường xưa lối cũ – Hoàng Thi Thơ
Một người đàn ông kể câu chuyện cảm động của đời mình. Anh kể đường xưa lối cũ của anh có người em gái tóc xanh hay mơ màng và có bà mẹ run run trong hôn hoàng. Anh ra đi một thời gian nhưng khi anh về, nào ngờ người em sang ngang khi xuân chưa tàn và nào ngờ mẹ tôi ra đi bên kia cuộc đời.
Với ý tình như thế, ca khúc này nên dành cho nam ca sĩ thì dễ truyền cảm hơn.
Hãy nghe bốn người đàn ông kể lại câu chuyện đó qua bốn đường link dưới đây.
Video âm thanh, Vũ Khanh:
https://www.youtube.com/watch?v=_iixMF81rUY
Video trình diễn sống, Quách Tuấn Du:
https://www.youtube.com/watch?v=Z6nyee3u__w
* Video trình diễn sống, Trọng Khương trong chương trình “Solo cùng Bolero”, 2018, dàn dựng công phu nhưng dễ làm phân tâm người xem:
https://www.youtube.com/watch?v=MAuej5hsGOM
Em đến thăm anh một chiều mưa – Tô Vũ
Theo Hà Đình Nguyên (2013)
Tô Vũ
Giáo sư - nhạc sĩ Tô Vũ tên thật là Hoàng Phú (1932- ), sinh tại Bắc Giang nhưng sống từ thời thơ ấu đến hết tuổi thanh niên ở Hải Phòng, tạo dựng sự nghiệp tận Hà Nội và cuối cùng chọn TP.HCM làm nơi an hưởng tuổi già.
Thời niên thiếu (những năm 1930), ông cùng anh ruột là nhạc sĩ Hoàng Quý (tác giả ca khúc Cô láng giềng nổi tiếng) theo học đàn nguyệt, nhưng chính thầy lại khuyên hai anh em nên học một nhạc cụ phương Tây và giới thiệu họ đàn violon. Sau đó, hai anh em gặp một phụ nữ người Pháp tên Leprêtre - chủ cửa hiệu Orphée, chuyên bán nhạc cụ và sách nhạc Tây ở Hải Phòng. Tuy nhiên, người tích cực khuyến khích hai anh em họ Hoàng đi theo “âm nhạc cải cách” (tân nhạc) là thầy dạy môn văn chương Pháp: thầy Ngô Đình Hộ (tức nhạc sĩ Lê Thương, tác giả bài Hòn vọng phu bất hủ), để cùng thầy biểu diễn trong các tiết mục văn nghệ của trường. Thầy cũng hướng dẫn cho các học trò tập tành sáng tác…
Năm 1943, Hoàng Phú lập nhóm Đồng Vọng, quy tụ một số bạn bè, anh em như: Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Hoàng Quý, Văn Cao… Nhóm sáng tác được khoảng 60 ca khúc mang nội dung ca ngợi đất nước, ca ngợi truyền thống anh hùng dân tộc.
Hai anh em họ Hoàng tham gia Việt Minh từ rất sớm. Kháng chiến bùng nổ, Hoàng Phú gia nhập Ban Văn nghệ tuyên truyền Kiến An (Hải Phòng), còn Hoàng Quý cũng tích cực sáng tác và hoạt động cách mạng. Các ca khúc Cảm tử quân, Sa trường hành khúc… ra đời trong giai đoạn này. Nhưng vì mắc bệnh nan y nên Hoàng Quý qua đời rất sớm khi mới 26 tuổi (nhạc sĩ mất ngày 26.6.1946).
Riêng về ca khúc Em đến thăm anh một chiều mưa, nhạc sĩ Tô Vũ kể với người viết trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 11.2002:
“Bản nhạc được tôi viết năm 1947, khi đơn vị tuyên truyền huyện Kiến An chúng tôi tiếp nhận 3 nữ cứu thương của huyện Tiên Lãng đi phục vụ chiến đấu bị lạc đường. Tôi và 2 người bạn ở trong một ngôi đình. Khi chúng tôi tập hát thì các cô này rủ nhau tới xem. Thoạt đầu họ còn e dè nhưng sau đó cũng nhận lời tập múa hát chung với chúng tôi. Trong đó, một cô hát rất hay và vững nhịp nên thường song ca với tôi. Mỗi lần đi biểu diễn, tiết mục của chúng tôi được hoan hô nhiều nhất. Nhưng chỉ khoảng 2 tháng sau thì ba cô gái này phải trở về đơn vị cũ, cách chỗ tôi khoảng 8 km. Khi chia tay, chúng tôi ước hẹn sẽ sang thăm nhau vào chủ nhật mỗi tuần. Nếu họ không qua thì ba đứa tôi sang, nếu cả hai bên cùng sang thì sẽ gặp nhau ở giữa đường, bởi là đường độc đạo và phải qua một bến sông.
Hôm ấy trời mưa, chúng tôi không thể sang bên kia thăm được. Buổi chiều trời vẫn mưa. Tôi đang “trụ trì” ngôi đình (hai ông bạn kia đã đi chơi) thì đột nhiên “em” một mình đội mưa đến. Xúc động đến bồi hồi, tôi đã viết: “Em đến thăm anh một chiều đông. Em đến thăm anh một chiều mưa. Mưa dầm dề, đường trơn ướt tiêu điều. Em đến thăm anh, người em gái…” Ở chữ “gái”, tôi chọn nốt “si bémol” (si giáng) lửng lơ mà khi hát lên, nghe rất… nũng nịu, không chút gì giống với “người em gái” bình thường cả. Tuy nhiên, theo thời gian tôi không tài nào nhớ nổi người nào trong số 3 cô gái đã “hiện ra” trong buổi chiều mưa năm ấy. Sau này, tôi cũng lần lượt gặp lại từng “cố nhân”. Có người nhận “là em đấy!” nhưng tôi không tin. Có người lại chối phắt, người còn lại thì không tiện hỏi… đành phải tan giấc mơ hoa: “…Ta ước mơ một chiều thêu nắng. Em đến chơi quên niềm cay đắng và quên… đường về!”
Riêng nghệ danh Tô Vũ thì:
“Trước đó tôi có 4 học bổng đi học ở Pháp, khi anh Hoàng Quý mất, tôi phải về xin dạy hợp đồng ở Trường Bình Chuẩn (Hải Phòng) để nuôi các em. Lúc ấy, mấy ông bạn từ Hà Nội xuống Hải Phòng chơi với bọn tôi như Văn Cao, Nguyễn Đình Thi đều để râu như một kiểu “mốt”. Tôi cũng bắt chước để râu và mặc bộ quần áo nâu như họ. Có một ông đem cho tôi cái nón Sơn Tây. Trời mưa, đường trơn đi phải chống gậy. Thế là có người bảo tôi giống hệt cái hình vẽ tích ông Tô Vũ chăn dê trên lọ độc bình. Rồi người ta cứ gọi tôi là “ông Tô Vũ chăn dê”. Tôi tức lắm, bèn lấy cho mình cái bí danh là “Hoàng Minh Vọng” nhưng đi đâu người ta cũng cứ: “Ơ… ơ… ông Tô Vũ chăn dê đi đâu đấy? Vào đây hát một bài…” Năm 1948, tôi là đại biểu duy nhất của Chiến khu 3 đi dự Đại hội Văn hóa Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất. Một anh nhanh nhảu giới thiệu: “Có nhạc sĩ Tô Vũ ở Chiến khu 3 lên trình diễn một bài”. Xuống sân khấu tôi vẫn rất hậm hực: Đã giới thiệu mình là Hoàng Minh Vọng mà vẫn bị gọi là Tô Vũ. Tôi đem chuyện này nói với người ngồi bên cạnh (sau này mới biết là nhà thơ Thế Lữ). Thế Lữ trầm ngâm một lúc rồi bảo: “Đấy là tên nhân dân đặt cho anh. Thôi anh bỏ cái tên Hoàng Minh Vọng đi!” Tôi mang cái tên Tô Vũ mà mình không hề tự đặt từ đó”.
Tuy là tâm tình của nhạc sĩ nhưng ca từ thích hợp cho cả giọng hát nam và nữ, vì thế người nghe có thể cảm nhận được cả.
Video âm thanh, Khánh Hà:
https://www.youtube.com/watch?v=AgYhGFVnZJ8
+ Video âm thanh, Cao Minh [Official Audio]:
https://www.youtube.com/watch?v=-reWJ8AXTiw
Video âm thanh, Nguyên Thảo:
https://www.youtube.com/watch?v=dBmtlyiR_e0
Video âm thanh, Quang Tuấn, thiết kế hình ảnh của Hoàng Khai Nhan:
https://www.youtube.com/watch?v=uRGtPUWQTuo
Video trình diễn sống, Hoàng Hải, trong chương trình “Giai điệu tự hào 2016”:
https://www.youtube.com/watch?v=WSSLTR3XZpg
Em lễ chùa này – Phạm Thiên Thư - Phạm Duy
Theo Wikipedia - Phạm Duy
Phạm Duy tại liveshow năm 2010
Phạm Duy (1921-2013), tên thật Phạm Duy Cẩn là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam. Ông thường được coi như nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ sộ cũng như đa dạng về thể loại, trong đó có rất nhiều ca khúc trở nên kinh điển và quen thuộc với người Việt. Nhạc của ông thường sử dụng những yếu tố nền tảng của âm nhạc cổ truyền Việt Nam kết hợp với những kỹ thuật, cấu trúc của nhạc hàn lâm Tây phương, tạo nên một phong cách riêng với nhiều tác phẩm lớn có tính đột phá, giàu ảnh hưởng đối với các nhạc sĩ thuộc nhiều thế hệ. Ông cũng là người khởi xướng, định hướng nhiều trào lưu, phong cách mới mẻ cho nền tân nhạc Việt. Ngoài sáng tác và biểu diễn, ông còn có những công trình khảo cứu về âm nhạc Việt Nam có giá trị. Ông từng giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại Trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Ông còn được coi như một nhà văn với 4 tập hồi ký được giới phê bình đánh giá cao về giá trị văn học lẫn giá trị tư liệu. Với hơn 70 năm sự nghiệp, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước, ông được coi là “cây đại thụ” của nền âm nhạc Việt Nam. Tuy vậy bên cạnh đó, các quan điểm nhìn nhận về ông cũng khác biệt, chủ yếu là do các vấn đề chính trị.
Phạm Duy là tên tuổi lớn và đầy ảnh hưởng tại miền Nam Việt Nam với những hoạt động tích cực dành cho cả âm nhạc và chính trị, và những hoạt động này còn tiếp diễn sau giai đoạn 1975, khi ông di tản sang Hoa Kỳ. Vì lý do chính trị, nhạc của ông bị cấm hoàn toàn tại miền Bắc Việt Nam sau 1954, và toàn Việt Nam sau 1975.
Nhạc của Phạm Duy đến nay phải có gần cả ngàn bài. Nhạc sĩ thú nhận chính ông còn không nhớ chính xác đã sáng tác, phổ nhạc bao nhiêu ca khúc vì: “Sáng tác xong tôi phải quên ngay để không bị lặp lại trong các ca khúc sau. Nếu có ai hỏi đến bài nào thì tôi mới lục lọi lại trí óc của mình”.
Một số ca khúc của Phạm Duy đáng được xem là vượt thời gian gồm có Bà mẹ Gio Linh, Bao giờ biết tương tư (viết cùng Ngọc Chánh), Cây đàn bỏ quên, Chuyện tình buồn (phổ thơ Phạm Thanh Bình), Còn chút gì để nhớ, Con đường tình ta đi, Đưa em tìm động hoa vàng, Kiếp nào có yêu nhau, Ngày xưa Hoàng Thị, Nghìn trùng xa cách, Thuyền viễn xứ, Tình ca, Tình cầm, Tình hoài hương.
Trang web của Cục Nghệ thuật Biểu diễn được truy cập ngày 26/3/2019 liệt kê 259 ca khúc (có một số ca khúc nước ngoài lời Việt) của Phạm Duy được phép phổ biến tại Việt Nam:
Bài thơ Thoáng hương qua của Phạm Thiên Thư được Phạm Duy phổ nhạc thành ca khúc Em lễ chùa này.
Bài thơ: Thoáng hương qua - Phạm Thiên Thư
Ðầu xuân em lễ chùa này
Có búp lan vàng khép nép
Vườn trong thoáng làn hương bay
Bãi sông lạc con bướm đẹp
Vào hạ em lễ chùa này
Trên đồi trái mơ ửng chín
Lò hương có làn trầm bay
Vờn trên bờ tóc bịn rịn
Giữa thu em lễ chùa này
Lầu chuông có con chim hót
Tiếng ca theo làn gió may
Lá vàng sương gieo nhẹ hạt
Sang đông em lễ chùa này
Ngoài sân có mưa bụi bay
Hắt hiu trong cành gió bấc
Vườn chùa rụng cánh lan gầy
Cuối đông đưa em tới đây
Trong lòng áo quan gỗ trắng
Tóc em tợ óng làn mây
Cội hoa tưởng ai trầm lặng
Em vừa nằm xuống đất này
Vườn trong có bông đào nở
Con bướm chập chờn hương bay
Quơ sợi râu vàng bỡ ngỡ
Nắm đất nào vừa lấp mộ
Có con chim hót đầu cành
Tiếng tan trên giòng suối xanh
Nước ơi sao buồn nức nở
Bây giờ tôi biết em đâu
Cuối vườn nụ mai nhiệm mầu
Vừa thoát làn hương trinh bạch
Em ơi! Mây đã qua cầu…
Lê Phú Hải (2016) kể, theo lời Phạm Duy: “Khi Phạm Thiên Thư đưa thêm thơ cho tôi phổ nhạc thì tôi chọn bài Em lễ chùa này vì cả hai chúng tôi đều muốn quay về xưng tụng những gì thuộc về văn minh Việt Nam, như ngôi chùa cổ ở miền Bắc là nơi lúc còn nhỏ tôi thấy đôi kẻ tình nhân thường hẹn nhau tới dâng hương cầu nguyện…” Đây chỉ là cảm nhận riêng của người nhạc sĩ chớ thật ra đọc trên nguyên tác bài thơ ta sẽ thấy cái “tình” kia ảo diệu hơn nhiều. Phạm Thiên Thư là một nhà thơ - tu sĩ, tình của ông là tình của người đứng xa ngắm nhìn và cảm nhận. Phạm Duy là một nhạc sĩ–người tình nên dĩ nhiên tình của ông là tình của người trong cuộc, cũng như nhan đề bài thơ chỉ là Thoáng hương qua chớ không cụ thể như Em lễ chùa này như tên ca khúc.
Phải là giọng hát nam mới lột tả hết tâm trạng của ca khúc này. Giọng hát nữ thì nghe ra như diễn tả tình chị em, như thế chưa thấm sâu vào lòng người nghe.
+ Bản thu âm - Liên khúc Em lễ chùa này - Chuyện tình buồn, Quốc Khanh:
https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/em-le-chua-nay-quoc-khanh.X0rw0CbXin.html
+ Video trình diễn sống, Đức Tuấn:
https://www.youtube.com/watch?v=mttHGwfbNKA
Gánh lúa – Phạm Duy
Phạm Duy kể trong Hồi ký của ông:
Tuy nhìn thấy cái bi, cái khổ trong kháng chiến, nhưng tôi vẫn không quên xưng tụng cái hùng, cái vui của người dân, lúc đó hãy còn rất hăng say tranh đấu cho sự tự do của đất nước. Một bài dân ca nữa được soạn trong kháng chiến là bài Gánh lúa (Thanh Hóa–1949), xưng tụng phong trào dân công. Nhìn thấy hàng ngàn người gánh thóc đi qua nơi tôi ở, tôi soạn bài hát trữ tình này.
Ca khúc có tiết điệu vui tươi, ta có cảm tưởng như đang trong thấy quang gánh đựng lúa nhún nhẩy theo nhịp bước, âm hưởng lại mang làn điệu dân ca. Bài nhạc thích hợp để dàn dựng tiểu phẩm có múa minh họa, ví dụ như màn trình diễn của Hòa Minzy.
Bản thu âm, Thanh Thúy - Dzoãn Minh:
https://www.youtube.com/watch?v=lJjoNomhJ_0
+ Video âm thanh, Hương Lan - Quang Linh: 
https://www.youtube.com/watch?v=DnNCk9G-c0Q
+ Video trình diễn sống, Hòa Minzy: 
https://www.youtube.com/watch?v=OCrcigM_0u8
Giã từ đêm mưa – Văn Phụng
Văn Phụng viết ca từ có những câu như Đôi chân lang thang tâm tư trầm lắng, Hạt mưa reo rắc nỗi buồn cho thế gian sầu, Hoang mang bâng khuâng ai mong từ giã?, Hạt mưa rơi ướt mi nàng, se thắt tim chàng.
Thế mà có một số ca sĩ  trình diễn bài hát này với tiết tấu sôi nổi, nhạc trỗi dồn dập, thêm múa minh họa quay cuồng, cười toe toét, không thấy có vẻ gì là trầm lắng hay bâng khuâng, lại càng không có nỗi buồn và se thắt tim gì cả. Hát dồn dập thì không tránh khỏi việc nuốt chữ, nghe khó hiểu, là điều mà hẳn Văn Phụng không muốn. Cũng chỉ vì ông đánh đố người ta: viết ca từ thì nhẹ nhàng nhưng viết nhạc theo điệu như là rumba!  Thế nên ca sĩ trông giống như đang nhảy nhót ăn mừng chuyện vui trọng đại gì đó chứ không buồn vì sắp từ giã. Mà bài hát nói đến mưa rơi tầm tã thì làm sao các vũ công có thể nhảy nhót tưng bừng như thế được! Có mà vấp phải các vũng nước rồi ngã lăn quay! Tức là người nghệ sĩ không sống với bài nhạc, cứ muốn phô diễn theo ý mình mà tôi thấy khó đồng cảm được. Thế nên đối với những cách trình diễn như thế, tôi đành phải cho điểm trừ!
Tôi thấy Ban Hợp ca Thăng Long trình bày tiết tấu đúng với tinh thần của bài hát nhất.
+ Video âm thanh, Ban Hợp ca Thăng Long: 
https://www.youtube.com/watch?v=2J_z3UJEYhI
+ Video trình diễn sống, Thái Sơn, Tuấn Hoàng, Phương Anh, Vĩnh Quang, trong Chương trình “Người hát tình ca”, 2017: 
https://www.youtube.com/watch?v=t9mi3XbBCdQ
Video trình diễn sống, Nguyên Khang, với Trúc Hồ (piano), trong chương trình “Nhạc thính phòng SBTN”: 
https://www.youtube.com/watch?v=6Nqb9TjLmJ8
Giấc mơ trưa – Giáng Son
Giáng Son (1975- ) thuộc một gia đình mà tất cả thành viên đều làm nghệ thuật. Từ lúc năm tuổi, Giáng Son được cha hướng dẫn cho tập đàn piano. Đến tuổi đi học, Son vào học sơ cấp piano bảy năm tại Nhạc viện Hà Nội. Sau đó chuyển sang học bốn năm trung cấp sáng tác, lên đại học và tốt nghiệp năm 1999, rồi về Trường Đại học Sân khấu–Điện ảnh Hà Nội làm công tác giảng dạy. Là thành viên của nhóm Năm Dòng Kẻ ngay từ ngày đầu thành lập, Giáng Son giúp cho nhóm có được một phong cách và diện mạo như ngày hôm nay. Tuy nhiên, nhóm chủ yếu hoạt động ở Sài Gòn mà công việc chính của Son lại ở Hà Nội. Hơn nữa bản thân là một nhạc sĩ luôn cần một khoảng lặng cho sáng tác. Vì vậy tháng 9/2005, Son tách khỏi nhóm trong sự luyến tiếc của các thành viên.
Ngoài thời gian lên lớp tại Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh, Giáng Son còn tham gia giảng dạy ở Trung tâm Sao Xanh, mô hình đào tạo ca sĩ nhạc nhẹ đầu tiên của Hà Nội.
Tư duy khí nhạc giúp cho những ca khúc của Giáng Son khắc họa được những hình tượng đẹp thấm đượm màu sắc triết lý cuộc sống và tình yêu. Đến khi thành lập nhóm Năm Dòng Kẻ, những sáng tác của Giáng Son được mang ra phối âm phối khí cho các thành viên hát. Thế là những bài hát tưởng chỉ viết cho riêng mình trở nên quen thuộc với nhiều bạn trẻ.
Nguyễn Vĩnh Tiến (1974- ) người Phú Thọ, tốt nghiệp Đại học Kiến trúc Hà Nội năm 1996 và cao học Pháp ngữ chuyên ngành “Thiết kế Đô thị với Di sản và Phát triển bền vững”, là Chủ tịch HĐQT - Tổng Giám đốc Công ty CP Xây dựng Hạ tầng Việt Pháp, và cũng là thành viên của nhóm sáng tác M6. Nguyễn Vĩnh Tiến từng nhận nhiều giải thưởng văn học, đặc biệt nổi tiếng với tư cách là người sáng tác ca khúc kiêm kiến trúc sư. Ông từng hợp tác với Giáng Son trong một số ca khúc như Bóng tối Jazz, Chút nắng vàng bay và Giấc mơ trưa.
Hoàng Nguyên Vũ (2006) phân tích:
Giọng Khánh Linh trong veo với những giai điệu trong veo như xua đi cái oi bức, cái tấp nập của trưa hè Hà Nội. Lâu lâu rồi, thính giả mới được nghe thêm những giai điệu trẻ trung mà lãng mạn như vậy. Giáng Son đã sáng tác khá nhiều ca khúc, nhưng phải đến Giấc mơ trưa, chị mới thực sự “lộ diện” trong làng nhạc với hình hài riêng khó lẫn.
Một số người cho rằng giọng Khánh Linh và nhạc Giáng Son hợp nhau, bởi giọng ca trong trẻo của Linh sẽ tải được nét trong sáng trong giai điệu Giáng Son, làm cho ca khúc dễ thương và lãng mạn hơn. Còn Khánh Linh thì tìm được ở Giáng Son chất nữ tính, sự tinh tế dễ dung hòa.
+ Video trình diễn sống, Thùy Chi: 
https://www.youtube.com/watch?v=cpgjh-kKY9Y
+ Video trình diễn sống, Khánh Linh: 
https://www.youtube.com/watch?v=pUAzieoxFag
Gọi anh – Dương Thụ
Dương Thụ
Dương Thụ (1943- ) là cháu họ nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và Giáo sư Tiến sĩ Dương Thiệu Tống.
Năm 1978, ông chuyển vào miền Nam, làm Giảng viên khoa lý luận tại Đại học Mỹ thuật Tp HCM.
Năm 1982, Dương Thụ chuyển sang hoạt động âm nhạc chính thức, vừa sáng tác vừa chỉ đạo nghệ thuật cho nhiều đoàn biểu diễn, rồi làm biên tập cho Nhà xuất bản Âm nhạc và Ðĩa hát Việt Nam, Tạp chí Âm nhạc.
Vào thập niên 1990, những sáng tác của ông bắt đầu được công chúng biết đến và đón nhận.
+ Video âm thanh, Thanh Lam - Trung Kiên: 
https://www.youtube.com/watch?v=YXrF2Gqg7lQ
Video trình diễn sống, Hoàng Hải (“gọi em”) - Đinh Hương (“gọi em”): 
https://www.youtube.com/watchv=DyPs4HTC4Ec&list=RDDyPs4HTC4Ec&start_radio=1
Gọi tên ngày mới – Võ Hoài Phúc
Theo Wikipedia, Võ Hoài Phúc (1982- ) là một nhạc sĩ Việt Nam có nhiều ca khúc nổi tiếng như Hoang mang, Khi cô đơn em nhớ ai… Anh đã và đang cộng tác với Trung tâm Thúy Nga trong nhiều năm qua.
+ Video trình diễn sống, Mai Tiến Dũng - Chuyện Tối Nay Với Thành: 
https://www.youtube.com/watch?v=oFzgF5TA5jY
+ Video trình diễn sống, Như Quỳnh, Minh Tuyết, Tóc Tiên, Kỳ Phương Uyên: 
https://www.youtube.com/watch?v=vqK5qjMVTyU
+ Video trình diễn sống, Mắt Ngọc: 
https://www.youtube.com/watch?v=6O4ulXk9G9Q.
Tháng 1/2020
Diệp Minh Tâm tổng hợp
Theo https://tamdiepblog.wordpress.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Du Tử Lê, Từ Công Phụng - Con dế buồn tự tử giữa đêm sương

Du Tử Lê, Từ Công Phụng Con dế buồn tự tử giữa đêm sương! Du Tử Lê viết bài thơ 67, Khúc Thêm Cho Huyền Châu vào năm một ngàn chín trăm sá...