Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2020

Ca khúc vượt thời gian 2

Ca khúc vượt thời gian 2
Hai phương trời cách biệt – Hoàng Trọng
Theo tổng hợp của Dòng Nhạc Xưa (2017c)
Hoàng Trọng
Nhạc sĩ Hoàng Trọng được giới nghệ sĩ Miền Nam đặt cho danh hiệu là “Vua Tango”. Thật là một vinh hạnh hiếm hoi, khi trong giới văn nghệ mà lại được công nhận như một vị vua không ngai như vậy. Lý do khá dễ hiểu: Hoàng Trọng là người có nhiều ca khúc viết ở điệu tango nhất. Bài nào cũng đặc sắc, mỗi bài một vẻ: Lạnh lùng, Đường về, Mộng lành, Tiễn bước sang ngang… Một bản tango tiêu biểu của Hoàng Trọng có thể chọn ra đó là bài Hai phương trời cách biệt. Trong tiết điệu tango du dương, giai điệu của Hai phương trời cách biệt trầm bổng mà tha thiết, lời ca lãng mạn tình tứ.
Được xưng tụng “Vua Tango” là một vinh dự lớn. Nhưng đừng tưởng Hoàng Trọng chỉ thành công với thể điệu này. Nếu thế lại là một bất công khác đối với tài năng, và những cống hiến giá trị khác của nhạc sĩ Hoàng Trọng, bởi bên cạnh những ca khúc được coi là tuyệt vời với điệu tango, nhạc sĩ Hoàng Trọng cũng có những ca khúc bất hủ lưu truyền tới hôm nay được viết bằng những thể điệu khác như Ngàn thu áo tím (điệu valse - nhạc Hoàng Trọng, lời Vĩnh Phúc), hoặc như bài Dừng bước giang hồ (điệu paso-doble - nhạc Hoàng Trọng, lời Quang Khải).
+ Bản ghi âm, Quốc Đại, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/hai-phuong-troi-cach-biet-quoc-dai-soDq3D1
* Video trình diễn sống, Hồ Đông Thuyên, trong chương trình “Thần tượng Bolero 2019”:
https://www.youtube.com/watch?v=mZPsMcMVFPs
* Video trình diễn sống, Trọng Khương, trong chương trình “Người kể chuyện tình”:
https://www.youtube.com/watch?v=ze_fPKT2NTk
Hai vì sao lạc – Anh Việt Thu
Theo Wikipedia - Anh Việt Thu
Anh Việt Thu
Anh Việt Thu có tên thật là Huỳnh Hữu Kim Sang (1939-1975), là nhạc sĩ nổi tiếng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Nghệ danh Anh Việt Thu có nghĩa là “anh của Việt Thu”, vì em trai của ông có tên là Việt Thu.
Từ năm 1965 đến năm 1966, ông thành lập đoàn Du ca Phù Sa gồm ông, Anh Việt Thanh, Hà Phương, Phạm Minh Cảnh, hát từ Cần Thơ ra đến Huế.
Năm 1966, ông là huấn luyện viên các khóa huấn luyện Thanh ca Tác động do Bộ Thanh niên tổ chức tại Sài Gòn, cùng với Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Đức Quang, Phương Oanh, Nguyễn Thanh, Ngô Mạnh Thu,.. Khóa sinh do Ty Thanh niên ở các tỉnh tuyển chọn và đưa về dự. Đây tà iền thân của Phong trào Du ca Việt Nam.
Trong các năm 1966-1968, ông được Đài Vô tuyến Việt Nam mời về làm chương trình Phù Sa và Tuần báo văn nghệ truyền thanh. Sang năm 1971, ông có riêng chương trình Giờ âm nhạc Anh Việt Thu trên Đài Vô tuyến Truyền hình Việt Nam.
Giai đoạn 1972-1974, Anh Việt Thu hợp tác với hãng Đĩa hát Việt Nam thực hiện một số băng nhạc cổ vũ tín hiệu hòa bình từ Hiệp định Paris (1973).
Về cuối đời, ông làm việc tại Phòng Văn nghệ Đài phát thanh Quân lực Việt Nam Cộng hòa chung với nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và Phạm Minh Cảnh.
Lương An Cảnh (2016) kể lại:
Nhạc sĩ Anh Việt Thu học khóa đầu tiên về Hòa âm của Trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Khi có lệnh gọi nhập ngũ, anh tình nguyện vào Tâm lý chiến, phòng văn nghệ chuyên sáng tác với cấp bậc bình nhì mặc dù anh có bằng Tú tài.
Anh Việt Thu qua đời khoảng gần 2 tháng trước 30-4-75 do bệnh hoại thận, phải dùng máy lọc thường xuyên.
Trước đó, Anh Việt Thu có ở chung với một người bạn là thi sĩ Anh Phương. Gữa Anh Việt Thu và Anh Phương rất thân nhau, khắn khít như hình với bóng.
Một hôm, gia đình Anh Phương bảo anh ta về vì có việc làm ở địa phương. Trong mấy tuần cuối trước khi chia tay, hai người thường dẫn nhau đi chơi, tâm sự rất khuya mới về. Không biết sự tâm đắc và mật thiết giữa hai người như thế nào mà cả hai lại nghĩ rằng: “Hai người có lẽ là hai vì sao trên trời bị lạc xuống trần gian và vô tình gặp lại nhau”.
Đã từ lâu, khi nói đến nhạc sĩ Anh Việt Thu và những sáng tác của anh đều có nhắc đến ca khúc Hai vì sao lạc, nhưng chưa có ai nói đến hay hiểu ý nghĩa, nội dung của lời ca nói những gì và cũng không muốn tìm hiểu, mà chỉ thích nhạc điệu của bài ca thôi. Trong một chương trình văn nghệ của Đài Truyền Hình SBTN, nhạc sĩ Trần Chí Phúc có nêu lên thắc mắc: trong những bài tình ca, khi viết lời thường dùng từ ANH hay EM. Riêng trong bài Hai vì sao lạc của nhạc sĩ Nhạc sĩ Anh Việt Thu, toàn bản nhạc đều dùng chữ NGƯỜI.
Wikipedia liệt kê danh sách 62 ca khúc phổ thông của Anh Việt Thu. Một số ca khúc nổi tiếng nhất gồm có Đa tạ, Hai vì sao lạc, Người ngoài phố, Tám điệp khúc.
Năm 2019, Đài Truyền hình Vĩnh Long vinh danh Anh Việt Thu trong chương trình “Người kể chuyện tình Tập 4”, được giới thiệu như là “câu chuyện về người nhạc sĩ tài hoa với những bản tình ca nổi tiếng nhưng có cuộc sống riêng thật kín đáo và đã rời xa cuộc đời quá sớm”.
+ Video âm thanh, Hoàng Oanh:
https://www.youtube.com/watch?v=LY9iNDgLmDQ
Video âm thanh, Thái Châu, trong album “Người yêu cô đơn”:
https://www.youtube.com/watch?v=WVORdw3-wo0
Video trình diễn sống, Diễm Thùy, hình ảnh không rõ lắm nhưng tiếng hát đáng thưởng thức:
https://www.youtube.com/watch?v=2zU7qKdVSA0
+ Video trình diễn sống, Huỳnh Thật, POPS Worldwide:
https://www.youtube.com/watch?v=NOTF4MRqWfE
+ * Video âm nhạc đường phố, Thanh Hiền:
https://www.youtube.com/watch?v=HnILgv2WHgQ
Hà Nội mùa vắng những cơn mưa – Trương Quý Hải
Theo Wikipedia - Bùi Thanh Tuấn
Bùi Thanh Tuấn (1974- ) sinh tại Bảo Lộc, Lâm Đồng.
Sau khi tốt nghiệp Trung học, anh theo học Khoa Ngữ văn–Báo chí, Đại học Tổng hợp Tp HCM. Cuối năm 1992, anh viết một bài thơ mà sau này trở nên nổi tiếng để tặng người bạn gái cùng học đại học. Trong một chuyến tập huấn của cán bộ Đoàn các trường đại học, cao đẳng miền Bắc tại Tp HCM Hè năm 1993, Bùi Thanh Tuấn, lúc bấy giờ học khoa Văn, đọc tặng các bạn từ Hà Nội vào bài thơ này. Trong số đó có nhạc sĩ Trương Quý Hải, đang học Hệ bằng 2 ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Sau đó, Trương Quý Hải phổ nhạc bài thơ và đặt tên bài hát là Hà Nội mùa vắng những cơn mưa, phỏng theo câu thơ đầu. Còn về bài thơ gốc, Bùi Thanh Tuấn sau đấy mới đặt tên là Chia tay người Hà Nội.
Bài thơ: Chia tay người Hà Nội - Bùi Thanh Tuấn (phiên bản 2008)
Tặng anh Trần Quang Dũng
Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa
Cái rét đầu đông giật mình bật khóc
Hoa sữa thôi rơi những chiều tan học
Cổ Ngư xưa lặng lẽ dấu chân buồn.
Trúc Bạch giận hờn phía cuối hoàng hôn
Để con nước thả trôi câu lục bát
Quán cóc liêu xiêu dăm ba tiếng nhạc
Phía Hồ Tây vọng lại một câu Kiều.
Hà Nội trời buồn nhớ mắt người yêu
Nhớ góc phố nhớ hàng me kỷ niệm
Nhớ buổi chia tay mắt đầy hoa tím
Ngõ hoa giờ hút dấu gót hài xưa.
Hà Nội mùa này nhớ những cơn mưa…
+ Video âm thanh, Lâm Nhật Tiến:
https://www.youtube.com/watch?v=jBJ5iPUF8uU
Hàn Mạc Tử – Trần Thiện Thanh
Ca khúc Hàn Mặc Tử  được nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác vào năm 1965. Đây là một trong những ca khúc rất thành công của ông, kể về cuộc đời tình ái và sự nghiệp của một thiên tài trong thi ca Việt Nam, là thi sĩ Hàn Mặc Tử (1912-1940).
Video âm thanh, Mai Thiên Vân:
https://www.youtube.com/watch?v=rlcWeBBlWes
+ Video âm thanh, Lệ Quyên:
https://www.youtube.com/watch?v=jUrWo7UxvpU
Video trình diễn sống, Trần Thiên Vũ:
https://www.youtube.com/watch?v=PLUe58yMin8
Hãy yêu nhau đi – Trịnh Công Sơn
Cùng với Văn Cao (1923-1995) và Phạm Duy (1921-2013), Trịnh Công Sơn (1939-2001) được xem là một trong ba cây đại thụ của nền âm nhạc Việt Nam. (Có những nhạc sĩ khác cũng được gọi là đại thụ, và tôi không muốn tranh cãi).
Ngoài ra, Trịnh Công Sơn còn được xem là một nhà thơ, một họa sĩ, một ca sĩ và một diễn viên không chuyên. Sinh ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế, ông theo học ở Lycée Jean Jacques Rousseau, Sài Gòn và tốt nghiệp tú tài tại đây. Ca khúc được công bố đầu tiên của ông là Ướt mi, được in năm 1959.
Wikipedie liệt kê 237 ca khúc của Trịnh Công Sơn được phổ biến và được biết cho đến nay. Một số ca khúc đáng được xem là vượt thời gian gồm có Biển nhớ, Biết đâu nguồn cội, Cát bụi, Diễm xưa, Để gió cuốn đi, Hạ trắng, Hãy yêu nhau đi, Một cõi đi về, Nối vòng tay lớn, Tình nhớ.
Theo Wikipedia - Trịnh Công Sơn
Năm 1957 khi 18 tuổi, Trịnh Công Sơn bị một tai nạn khi đang tập judo với người em trai, ông bị thương nặng ở ngực, suýt chết và phải nằm liệt giường gần hai năm tại Huế. Thời gian nằm bệnh, ông đọc nhiều sách về triết học, văn học, tìm hiểu dân ca. Ông từng thổ lộ: “Khi rời khỏi giường bệnh, trong tôi đã có một niềm đam mê khác - âm nhạc. Nói như vậy hình như không chính xác, có thể những điều mơ ước, khát khao đó đã ẩn chứa từ trong phần sâu kín của tiềm thức bỗng được đánh thức, trỗi dậy.”
Có một đánh giá khá phổ biến cho rằng phần nhạc của Trịnh Công Sơn quá đơn điệu về đề tài, chủ yếu tập trung vào tâm trạng mơ hồ, mộng tưởng. Đánh giá này trùng khớp với lời lý giải của ông về sự sáng tác của mình: “Tôi chỉ là một tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo…”
Trịnh Công Sơn sáng tác được khoảng hơn 600 ca khúc, tuy nhiên trang web của Cục Nghệ thuật Biểu diễn được truy cập ngày 26/3/2019 liệt kê 93 ca khúc của Trịnh Công Sơn được phép phổ biến tại Việt Nam:
Vương Hà (2013) kể về thuở ban đầu giữa Trịnh Công Sơn và Khánh Ly:
Nhớ về Trịnh, Khánh Ly tiết lộ, Trịnh Công Sơn gặp chị trong hộp đêm Tulipe Rouge tại Đà Lạt… Khi nghe giọng hát Khánh Ly, ông bị hút hồn và tìm cách gặp chị. Những bạn bè của Trịnh cũng từng xác nhận chuyện này: vào năm 1965 tại Đà Lạt mộng mơ, Trịnh Công Sơn tình cờ nghe được giọng hát Khánh Ly. Ông biết ngay giọng hát của cô ca sĩ này hợp với những bản nhạc của mình nên mời chị tham gia. Thời gian sau, Khánh Ly rời Đà Lạt xuống Sài Gòn và trở thành giọng ca chuyên hát nhạc Trịnh Công Sơn.
Khi Trịnh Công Sơn gặp Khánh Ly, chị chưa nổi tiếng, đến cuối năm 1965, họ có buổi ra mắt đầu tiên tại trường Đại học Văn khoa với hàng ngàn sinh viên và trí thức… Khánh Ly hát say sưa những bài tự tình quê hương và thân phận con người đã làm đắm say hàng ngàn khán giả đêm đó. (Hẳn Hoàng Ngọc Tuấn cũng ở trong đám đông đó, và anh viết nên truyện ngắn Tiếng hát hoang đường.) Cứ thế, những buổi biểu diễn liên tiếp tại các trường đại học, các tụ điểm ca nhạc công cộng khiến Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành hiện tượng âm nhạc.
Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát không thù lao, chủ yếu cho khán giả trẻ nơi giảng đường của các trường đại học. Trịnh Công Sơn dáng người mảnh khảnh, cặp kính trắng, giọng nói nhỏ nhẹ xứ Huế với cuộc sống của một lãng tử. Khánh Ly khi hát đi chân đất, khiến khán giả quen, yêu quý mà gọi chị là “nữ hoàng chân đất”. Chị hát bằng cả tấm lòng người nghệ sĩ yêu hết mình những giai điệu của nhạc Trịnh.
Có lẽ hình ảnh làm nhiều người thời đó nhớ nhất là Khánh Ly đứng trên một két gỗ (loại dùng để chứa 12 chai bia lớn) trông ọp ẹp như chực ngã đổ, phía trên đầu cô chỉ có một bóng đèn điện treo rũ xuống, Trịnh Công Sơn cầm đàn đứng kế bên, chung quanh là bóng tối, bọn sinh viên và học sinh ngồi bệt trên thảm cỏ trong khuôn viên trường Văn khoa, không gian cách biệt với 4 con đường bao quanh. Đó là vào cuối thập niên 1960s sang đầu thập niên 1970s.
Chỉ có tiếng hát Khánh Ly mới thể hiện đúng ý tình trong những lời ca như Đại bác đêm đêm dội về thành phố/ Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe, hoặc Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn đong đưa phận mình, hoặc Khi đất nước tôi thanh bình tôi sẽ đi thăm…
Đó là những ca khúc về cuộc chiến. Bây giờ, những người muốn quên đi cuộc chiến đón nhận ca khúc mang đầy tính nhân văn nồng nàn như Hãy yêu nhau đi.
+ Video âm thanh, Trần Thu Hà:
https://www.youtube.com/watch?v=KjklEsVDat8
+Video trình diễn sống, Đoan Trang - Thanh Phương:
https://www.youtube.com/watch?v=PokBrVxRPQ8
Video trình diễn sống, Thành Lộc - Kyo York, hai giọng ca hiếm khi được nghe!:
https://www.youtube.com/watch?v=GpiR9ElTo3c
Hoa nở về đêm – Mạnh Phát
Theo Wikipedia - Mạnh Phát
Mạnh Phát (1929-1973) gốc miền Trung, là một ca sĩ, nhạc sĩ có một số sáng tác được yêu thích.
Năm 1940, ông cùng gia đình vào Sài Gòn sinh sống. Sau khi học xong bậc trung học, ông được mời hát cho hai hãng đĩa Béka và Asia. Thời đỉnh cao của sự nghiệp ca sĩ, ông thường hát trên Đài Phát thanh Pháp Á chung với nữ ca sĩ Minh Diệu (vợ ông sau này).
Đầu thập niên 1960s, Mạnh Phát cùng các nhạc sĩ cùng thời khác như Châu Kỳ, Hoài Linh chuyển sang sáng tác nhạc theo điệu nhạc bolero. Phần lớn các ca khúc phổ thông của ông ở giai đoạn này như Hoa nở về đêm, Ngày xưa anh nói, Phố vắng em rồi,, Sương lạnh chiều đông Vọng gác đêm sương… vẫn còn được yêu thích cho đến tận nay. Năm 1962, Nguyễn Văn Đông và Mạnh Phát đưa Phạm Như Mai (ca sĩ Thanh Tuyền) từ Đà Lạt về Sài Gòn lăng-xê, tạo nên sự nghiệp ca hát lẫy lừng cho nữ ca sĩ này.
Theo Tường Bách (2019),
Nhạc sĩ Mạnh Phát được khán giả biết đến qua những ca khúc nổi tiếng như: Hoa nở về đêm, Mong người trở lại, Nỗi buồn gác trọ, Sương lạnh chiều đông… Ông là một nhạc sĩ tài ba, cả đời cống hiến cho nghệ thuật…
Con dâu của nhạc sĩ Mạnh Phát bật mí rằng lúc ra Huế công tác, ông có một mối tình bí mật cùng một người con gái tên Hoa. Cô tâm sự: “Sau này tôi có gặp một người phụ nữ tên Hoa, cô ấy nói là bạn cũ của ba và ca khúc Hoa nở về đêm của ông chính là sáng tác tặng cho người ấy”.
Bởi trong thời gian ở Huế, nhạc sĩ quen biết và say đắm trước nhan sắc của cô gái trẻ tên Hoa, vì công việc mà nhạc sĩ Mạnh Phát và cô Hoa chỉ gặp nhau, hẹn hò vào buổi tối nên ông lấy đó làm cảm hứng ra đời cho ca khúc ngọt ngào, da diết Hoa nở về đêm. Con dâu nhạc sĩ chia sẻ thêm: “Cô Hoa rất nhiều lần cố gắng liên lạc với gia đình tôi, may mắn sao cuối cùng tôi và cô ấy cũng gặp được nhau và nghe lại chính câu chuyện tình ngày xưa của hai người”.
+ Video trình diễn sống, Phương Anh:
https://www.youtube.com/watch?v=48Px6A_xaKU
Video trình diễn sống, Bảo Ngọc, trong chương trình “Duyên dáng bolero”:
https://www.youtube.com/watch?v=w2H_CS4-auA
Video karaoke, anh thợ xây, chất lượng âm thanh tuyệt vời so với máy móc thô sơ nơi công cộng:
https://www.youtube.com/watch?v=RQAtFthmQqU
Hoa soan bên thềm cũ – Tuấn Khanh
Tuấn Khanh
Nếu không tính ca khúc Đò ngang viết chung với nhạc sĩ Y Vân, thì Hoa soan bên thềm cũ là sáng tác thứ nhất của Tuấn Khanh, được mua và in thành sheet nhạc lẻ bởi nhà xuất bản An Phú, năm 1956. Ca khúc được viết để tặng một nữ sĩ, mà sau này là bạn đời - nhanh chóng đưa tên tuổi ông đến với rộng rãi quần chúng.
Ở Mỹ, sinh kế chính của gia đình ông là quán phở mang tên “Hoa soan bên thềm cũ”, là nơi lui tới của nhiều người trong giới văn nghệ sĩ.
Năm 2008, Tuấn Khanh về thăm Việt Nam và cho ra mắt đĩa nhạc “Hoa soan bên thềm cũ”.
Một số ca khúc nổi tiếng khác của Tuấn Khanh là Chiếc lá cuối cùng, Dưới giàn hoa cũ, Đêm này nghỉ đỡ chân, Hoa soan bên thềm cũ, Mộng đêm xuân, Mùa xuân đầu tiên, Nỗi niềm, Quán nửa khuya… Cho đến 1975, ông viết khoảng 120 ca khúc tại Sài Gòn, chủ yếu là tình ca - được xếp vào thế hệ thứ 3 của nền tân nhạc.
Phạm Duy nhận xét: “Trong tất cả những nhạc sĩ đã suốt một đời sáng tác cho quê hương Việt Nam biết bao nhiêu luân lạc, Tuấn Khanh là một nhạc sĩ đã nối tiếp con đường nhạc tiền chiến rất thành công…”
+ Video trình diễn sống, Thái Châu, trong chương trình “Chân dung cuộc tình”:
https://www.youtube.com/watch?v=w037fPpVFjo
Hoa trinh nữ – Trần Thiện Thanh
Đông Kha (2018) cho rằng ca khúc Hoa trinh nữ bắt nguồn từ chuyện tình tan vỡ giữa Trần Thiện Thanh và ca sĩ Minh Hiếu, lúc đó cả hai mới ngoài 20 tuổi. Tình yêu vừa chớm nở giữa hai người nghệ sĩ thì vào năm 1965, Minh Hiếu lọt vào tầm ngắm của tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Vùng 2, trở thành phu nhân chính thất của ông tướng này. Trần Thiện Thanh bị mất người yêu, mối tình tan vỡ, ông đau đớn sáng tác thành bài hát Hoa trinh nữ nổi tiếng. Nhiều khán giả khi nghe nhạc, nếu không biết nội tình sẽ nghĩ bài hát đơn thuần là viết về loài hoa mắc cỡ hèn mọn, không hương không sắc màu. Điệp khúc Tôi không phải là vua… nhằm nhắc tới ông tướng Vĩnh Lộc, vốn được xem là ông vua một cõi, nổi tiếng là thích phô trương, tiền hô hậu ủng với ngọc ngà kiệu hoa. Trần Thiện Thanh tự nhận mình chỉ thích yêu một loài cây bình thường biết xếp lá ngây thơ, chứ không phải là nàng hồng kiêu sa hay cúc vàng tươi. Trần Thiện Thanh như cũng có ý oán trách Minh Hiếu khi ví với loài hoa dạ lý bán hương thơm.
Ý kiến xung quanh Album Trần Thiện Thanh - Một ngày ta được yêu của Đức Tuấn
Việc phát hành Album này gây nên một số ý kiến thú vị mà bạn nên biết qua. Trước nhất, đó là do ca từ mà Đức Tuấn hát: Tôi chỉ là người khách phong trần.
Gia Bảo (2019) cho biết:
Ca sĩ Mỹ Lan (vợ cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh) viết trên trang cá nhân: “Mình không đồng ý với Đức Tuấn sửa lời dù chỉ 2 chữ vì nghe xong đã làm thay đổi ý nghĩa bài hát. “Lính xa nhà” là tác giả đã gợi lên hình ảnh người lính dầm mưa ngoài chiến trường nhưng vẫn nhớ đến người yêu phương xa qua hình ảnh hoa trinh nữ. Khi sửa lời đã làm thay đổi hoàn toàn ý nghĩa của bài hát thì không thể chấp nhận được”.
Ngoài ra, bà cũng đang cân nhắc việc yêu cầu phía Việt Nam cấm lưu hành bài hát này và thông báo cho bên Youtube biết lên quan đến tác quyền.
Theo Thu Thảo (2019),
Đức Tuấn khẳng định mình không sửa lời bài hát Hoa trinh nữ. Tuấn nói: “Trước khi ghi âm bất kỳ ca khúc nào, tôi cũng tìm hiểu rất kỹ về hoàn cảnh sáng tác, từng lời ca. Với nhạc xưa, tôi lại càng cẩn trọng hơn và luôn tham khảo qua rất nhiều tài liệu tham chiếu, các bản ghi cũ. Trong trường hợp ca khúc Hoa trinh nữ, tôi không tự ý sửa lời bài hát lính xa nhà, lính phong trần thành khách phong trần”.
“Tôi nghĩ, ca khúc này cũng như nhiều ca khúc nhạc xưa khác có những dị bản. Ca sĩ Nhật Trường cũng chính là nhạc sĩ Trần Thiện Thanh cũng đã có bản ghi ca khúc Hoa trinh nữ trong album Mười năm tình cũ với lời hát “khách phong trần” đã được phát hành rộng rãi, chính thức cách đây nhiều năm. Vấn đề ở đây là tôi đã chọn hát theo phiên bản nào? Tôi đã chọn hát khách phong trần vì tôi nhận thấy ca từ này phù hợp với tâm tình của cá nhân tôi và những người yêu nhạc có hoàn cảnh giống tôi”.
Cũng có ý kiến cho rằng Đức Tuấn phá cách nhạc của Trần Thiện Thanh.
Theo Gia Bảo (2019), Đức Tuấn trả lời như sau:
Tôi cũng xin lỗi nếu các bản thu của mình không hợp tai lớp khán giả cũ, mong họ sẽ đi tìm nghe các bản khác. Cá nhân tôi nhắm tới đối tượng khán giả hiện đại, cởi mở và tư duy không có định kiến…
Đã đến lúc dẹp bỏ những rào cản, định kiến để các nhạc phẩm đến với công chúng rộng rãi hơn. Tôi không làm đĩa này cho những ai trung thành với cách hát cũ. Tôi cũng không bức tử nhạc sến như những nhận xét cực đoan dành cho mình những ngày vừa qua.
Trọng Thịnh (2019) tường thuật thêm:
Sáng ngày 19/3, đại diện gia đình nhạc sĩ Trần Thiện Thanh là chị Trần Thị Thanh Trúc (sống tại Mỹ) và anh Trần Thiện Anh Châu (sống tại TPHCM) có buổi trao đổi với ca sĩ Đức Tuấn…
Về Album Trần Thiện Thanh - Một ngày ta được yêu của Đức Tuấn, chị Thanh Trúc cho biết chị rất thích sự phá cách của Đức Tuấn. “Từ rất lâu rồi, nhạc của bố không có ca sĩ nào làm mới cả, cứ hát theo lối cũ, cứ cố hát giống bố (Ca sĩ Nhật Trường), nhất là các nam ca sĩ. Với sự phát triển của âm nhạc, tôi ghi nhận sự khám phá, tìm tòi và sáng tạo của Đức Tuấn với nhạc Trần Thiện Thanh, gia đình chúng tôi ủng hộ”.
Về việc thay đổi lời hát trong ca khúc Hoa trinh nữ, nhạc sĩ–ca sĩ Lê Châu (Tức Trần Thiện Anh Châu) cho rằng ngay từ khi cha anh còn ở Việt Nam, ông đã nghe cha thay đổi lời ca khúc đó từ “Lính xa nhà” thành “Khách xa nhà” và bản thân cha anh cũng rất thích hình ảnh người lữ khách. “Khi tôi sinh con, cha tôi đòi đặt tên con là Lữ như thể hiện sự yêu thích của cha. Còn khi sang Mỹ, tôi xác nhận cha tôi cũng từng hát Khách xa nhà nên không thể nói Đức Tuấn sửa lời được”. Ca sĩ Lê Châu cũng khẳng định với việc Đức Tuấn lựa chọn hát “Khách xa nhà” trong ca khúc Hoa trinh nữ  là hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, phù hợp với khán giả hiện nay.
+ Video trình diễn sống, Nam Cường:
https://www.youtube.com/watch?v=-G3TNYO6qEs
Video âm thanh, Đức Tuấn, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=rDL68p7BRxQ
Video trình diễn sống, Trương Quân Bảo:
https://www.youtube.com/watch?v=KPr2ountffY
Hoài cảm – Cung Tiến
Cung Tiến
Cung Tiến tên thật là Cung Thúc Tiến (1938- ), người Hà Nội, nổi tiếng theo dòng nhạc tiền chiến. Thời kỳ trung học, ông học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng Chung Quân và Thẩm Oánh tại hai trường Trung học Chu Văn An và Nguyễn Trãi. Ông được xem như nhạc sĩ trẻ nhất có sáng tác được phổ biến rộng, với bài Hoài cảm năm 14 tuổi. Vào thời kỳ chỉ xem âm nhạc như một thú tiêu khiển của tuổi trẻ, nhưng ông để lại những nhạc phẩm rất giá trị như Hoài cảm, Hương xưa và Thu vàng.
Lúc học xong trung học, năm 1956, ông được học bổng sang Úc học về kinh tế. Trong thời giờ rảnh 1957-1963, ông đi học thêm các khóa về dương cầm, hòa âm, đối điểm, và phối khí ở Nhạc viện Sydney, từ đó khám phá ra những khía cạnh khác của âm nhạc, không phải chỉ một melody, một làn điệu mà còn nhiều yếu tố khác tạo nên âm nhạc.
Trong những năm 1970 đến 1973, với một học bổng cao học của Hội đồng Anh (British Council) để nghiên cứu kinh tế học phát triển tại đại học Cambridge ở Anh quốc, ông dự thêm các lớp nhạc sử, nhạc học, và nhạc lý hiện đại.
Năm 1987, Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm, soạn cho 21 loại nhạc khí phương Tây, được trình diễn lần đầu vào năm 1988 tại San Jose với dàn nhạc thính phòng San Jose, và được giải thưởng Văn học nghệ thuật quốc khánh 1988.
Năm 1992, Cung Tiến soạn tập Ta về, thơ Tô Thùy Yên, cho giọng hát, nói, ngâm và một ban nhạc cụ thính phòng. Năm 2003, Ông thực hiện tác phẩm nhạc đương đại Lơ thơ tơ liễu buông mành dựa trên một điệu dân ca chèo cổ. Ông cũng là hội viên của diễn đàn nhạc sĩ sáng tác Hoa Kỳ.
Trầm Thiên Thu (2014) nhận định: Nhạc sĩ Cung Tiến có cách viết lạ, chất nhạc rất bác học, có nét như giao hưởng. Âm nhạc của ông nhẹ nhàng, giản dị, nhưng vẫn đủ chuyển tải tình cảm sâu lắng khiến người nghe rung nhịp theo từng nốt nhạc. Ca khúc Hoài cảm là một trong các ca khúc nổi tiếng có sức thuyết phục. NS Cung Tiến không xa lạ với nhiều người, nhất là những người trung niên trở lên. Nhạc của ông sâu lắng, có nét riêng độc đáo, buồn mà không ủy mị, ca từ giản dị mà thâm sâu, đặc biệt là ca khúc Hoài cảm.
Dòng Nhạc Xưa (2016b) cho rằng sáng tác đầu tay Hoài cảm của Cung Tiến để lại dấu ấm sâu đậm trong lòng người yêu nhạc nhờ nét nhạc lãng mạn đặc trưng thời tiền chiến cùng ca từ đầy chất thơ.
Riêng Cung Tiến cho biết:
Hoài cảm là bài hát mà tôi viết ra trong tưởng tượng. Tưởng tượng ra là mình nhớ một người nào mình yêu mến thôi, chứ không có ý nghĩ sâu xa gì đằng sau cả. Ðó chỉ hoàn toàn là trí tưởng tượng trong âm nhạc cũng như trong lời ca. Lời ca bị ảnh hưởng từ những bài thơ mình học ở trường, như thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, những nhà thơ lãng mạn của Việt Nam hồi đó.
Âm nhạc hay bất cứ sáng tác nghệ thuật nào, cũng là sự tưởng tượng cả. Tưởng tượng về cái này, tưởng tượng về cái kia, gây lên một mối sầu, mối buồn hay mối vui hay mối khoan thai, hoàn toàn là tưởng tượng của người sáng tác
+ Video âm thanh, Trọng Tấn:
https://www.youtube.com/watch?v=tF1TWBm6b9w
+ Video âm thanh, Sĩ Phú:
https://www.youtube.com/watch?v=4i86rbEzSY8
Video trình diễn sống, Đình Bảo, Ngọc Anh, Thiên Tôn, Trần Thái Hòa (2015):
https://www.youtube.com/watch?v=Hj0n9VCJZXc
Hòn Vọng Phu – Lê Thương
Nhạc sĩ Lê Thương (1914-1996) người gốc tại Nam Định. Mồ côi mẹ từ năm lên 9 tuổi, ông lớn lên nhờ công ơn nuôi dưỡng của bà nội trong một gia đình theo đạo Công giáo có nền nếp luân lý đạo lý tốt đẹp. Tài năng âm nhạc của ông một phần do năng khiếu bẩm sinh, một phần do ảnh hưởng từ những ngày thơ ấu theo học ở một trường dòng. Ca khúc đầu tay ông viết năm 22 tuổi (1936) mang tựa đề Trưng Vương được nhạc sĩ Lưu Hữu Phước giới thiệu trên Báo Lên Đàng. Lê Thương là một trong những nhạc sĩ tiền phong xây dựng nền móng cho âm nhạc Việt Nam cũng là nhạc sĩ tiền phong của nhiều thể loại âm nhạc khác.
Hòn vọng phu là trường ca trứ danh do nhạc sĩ Lê Thương (1914-1996) sáng tác từ năm 1943 đến 1947. Đây là một trong những bản nhạc theo thể loại trường ca đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam.
Hòn Vọng Phu và Lê Thương
Lê Thương nghiền ngẫm đề tài người chinh phụ từ lâu trước khi sáng tác. Nhạc sĩ đọc thuộc Chinh phụ ngâm, cả nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn và bản dịch chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm. Tiếp theo, Lê Thương bắt gặp nhiều hình tượng người chinh phụ ngoài đời thực. Nàng Tô Thị bồng con chờ chồng đến nỗi hóa thành đá ở Lạng Sơn, người chinh phụ trên núi Đá Bia, ở Phú Yên, phía đông đèo Cả, thậm chí là cả Vọng phu thạch ở Trung Quốc (khi ông vượt qua biên giới Việt–Trung). Tất cả những hình tượng này đều khiến Lê Thương đưa ra một chiêm nghiệm: dù ở phương trời nào, chiến tranh gây ra nỗi đau đè nặng lên người phụ nữ. Cảm xúc đó khiến nhạc sĩ xúc động sâu sắc để viết bộ ba bài hát Hòn Vọng Phu.
Trong trường ca này, Lê Thương sử dụng nhuần nhuyễn âm giai ngũ cung của Việt Nam phối hợp với tiết điệu Tây phương để kể về mối tình chia cắt của người chồng và người vợ do chiến tranh loạn lạc. Hòn vọng phu đã thể hiện sự kết hợp khéo léo, hợp lý giữa thang âm 7 bậc của phương Tây và thang âm ngũ cung của châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, kết hợp âm hưởng dân gian với cách tạo cấu trúc, phát triển tư duy âm nhạc phổ biến trong âm nhạc bác học của châu Âu.
Trường ca Hòn vọng phu gồm có ba phần. Mỗi phần có thể được hát như một bài riêng:
Phần 1: Đoàn người ra đi. Khi chiến tranh nổ ra, người chồng theo lệnh vua tòng quân với lời hẹn ước chỉ một thời gian sẽ trở về. Hai vợ chồng, “người đi ngoài vạn lý quan san, người đứng chờ trong bóng cô đơn.”
Phần 2: Ai xuôi vạn lý. Người vợ chờ đợi mãi vẫn không thấy chồng trở về. Chiều nào nàng cũng bồng con ra ngóng tin chồng; vết chân nàng đi dần hằn sâu trên phiến đá. Cỏ cây, hoa lá, sông núi, nước non… cả đất trời đều thương cảm cho nàng, đều giúp nàng ngóng tìm chồng, “xem chàng về hay chưa”. Ngóng trông mãi đến lúc tất cả đều khuyên nàng đừng chờ đợi nữa, hãy “trở về chớ đừng để xuân tàn”. Thế nhưng, nàng vẫn chờ, chờ mãi nơi ấy. Nước mưa, bụi thời gian tuôn xối xả lên nàng, “thấm vào đến tận tâm hồn đứa con”.
Phần 3: Người chinh phu về. Sau khi vượt qua biết bao gian khổ, hiểm nguy, người chồng cuối cùng thực hiện được lời hứa là trở về với nàng, nhưng quá muộn! Nàng không còn gặp chồng, chỉ còn “vết bước đi trên phiến đá mòn còn in dấu” và nỗi cảm thương lưu truyền mãi đến muôn đời sau.
Trường ca Hòn vọng phu khiến giới âm nhạc và công chúng yêu nhạc các thế hệ mãi mãi nhớ đến nhạc sĩ Lê Thương trong kho tàng ca khúc Việt Nam. Riêng ở miền Bắc khi hai miền còn chia cắt, Hòn vọng phu bị cấm hát, hẳn một lẽ vì tác giả đang sống trong Nam, một lẽ vì Phần 2 thiếu tính chiến đấu: người vợ ở nhà sầu khổ chứ không vui vì chồng đi phục vụ đất nước!
Lê Thương cất công viết lời cho trường ca Hòn Vọng Phu vốn dài lại dài thêm vì có những đoạn nhạc giống nhau lặp lại trong mỗi phần. Có lẽ chưa có ai trình diễn hết tất cả ca từ của Lê Thương, như ghi dưới đây để bạn nhận ra từng đoạn và biết phần trình diễn lượt bớt đoạn nào. Hơn nữa, ca từ thật đẹp, có đoạn hào hùng, có đoạn trầm lắng, thiết tha mà bạn nên đọc qua mới thấm hết cái hồn của trường ca này.
Ca từ Hòn Vọng Phu
Phần 1: Đoàn người ra đi
1A
Lệnh vua hành quân trống kêu dồn
Quan với quân lên đường
Đoàn ngựa xe cuối cùng
Vừa đi theo lối sông
Phía cách quan sa trường
quan với quân lên đường
hàng cờ theo trống dồn
ngoài sườn non cuối thôn
phất phơ rợp trời bay.
[Nhạc]
Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn
Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn
Người đi ngoài vạn lý quang sơn
Người đứng chờ trong bóng cô đơn
Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng
Người không rời khỏi kiếp gian nan
Người biến thành tượng đá ôm con.
1B
Ngựa phi ngoài xa hí vang trời
Chiêng trống khua trăm hồi
Ngần ngại trên núi đồi
Rồi vọng ra khắp nơi
Phía cách quan xa vời
chiêng trống khua trăm hồi
ngần ngại trên núi đồi
rồi dậy vang khắp nơi
thắm bao niềm chia phôi.
[Nhạc]
Vui ra đi rồi không ước hẹn ngày về
Ai quên ghi vào gan đã bao nguyện thề
Nhìn chân trời xanh biếc bao la
Người mong chờ vẫn nhớ nơi xa
Bao nhiêu năm bồng con đứng đợi chồng về
Bao nhiêu phen thời gian xóa phai lời thề
Người tung hoành bên núi xa xăm
Người mong chồng còn đứng muôn năm.
Phần 2: Ai xuôi vạn lý
[Ngâm]:
Đời xưa đời xửa vua gì
Có người đứng ngóng chồng về đầu non
Thế rồi mong mỏi mong mòn
Thế rồi hóa đá ôm con đứng chờ
Thế rồi phải chút duyên mơ
Có người đem đặt thành thơ để truyền ơ hờ …
2A
Người vọng phu trong lúc gió mưa
Bế con đã hoài công để đứng chờ
Người chồng đi đã bao năm chưa thấy về
Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ
Có đám cây trên đồi, sống trong trong mơ hồ
Ngày nào tròn trăng, lại nhớ đến tích xưa
Khi tướng quân qua đồi, kéo quân, quân theo cờ
Đoàn cỏ cây hãy còn trẻ thơ
Cho đến bây giờ, đã thành đoàn cổ thụ già
Mà chờ người đi mất từ ngàn xưa, nàng đứng ôm con
Xem chàng về hay chưa, về hay chưa…
Có ai xuôi vạn lý, nhắn đôi câu giúp nàng
Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng
[Nhạc hoặc hò]
Thôi đứng đợi làm chi, thời gian có hứa mấy khi
Sẽ đem đến trả đúng kỳ, những người mang mệnh biệt ly.
2B
Trời chuyển mưa trong tiết tháng ba
Suốt năm nước nguồn tuôn đổ xuống Bà
Hình hài người bế con nước chảy chan hòa
Thấm vào đến tận tâm hồn đứa con
Nên núi non thương tình, kéo nhau đi thăm nàng
Nằm thành Trường Sơn vạn lý xuyên nước Nam
Dâng lá hoa suối nguồn, với muôn chim vô vàn
Bầy cảnh Nam Bắc đầy cỏ hoa
Như cố khuyên nàng trở về, chớ đừng để xuân tàn
Nhiều đồi rủ nhau kéo thành đảo xa, lan tới khơi ngàn
Xem chàng về hay chưa, về hay chưa…
Chín con long thật lớn, muốn đem tin tới nàng
Núi ngăn không được xuống, chúng kêu ca dưới ngàn
[nhạc hoặc hò]
Ta cố đợi nghìn năm, rồi nghìn năm khác sẽ qua
Đến khi núi lở sông mòn, mới mong tới Hòn Vọng Phu
mới mong tới Hòn Vọng Phu.
2C
Một nghìn năm vừa mới thoáng qua
Núi non nao lòng đau lòng nức nở khóc Bà
Một loài chim xứ xa bỗng nhiên vô tình
Báo rằng: Đến lượt sơn hà chiến chinh
Non sông xuyến xao tấc lòng, tiến quân nghe ban truyền
Người đời rủ nhau mài kiếm đi viễn chinh
Dân gian thoát qua mấy lần ách tham ô quan quyền
Vì hồn thanh kiếm vẫn còn linh
Nên khiến sắt son bẽ bàng mắc nợ còn chưa đền
Nhiều người tìm thanh kiếm thần thuở xưa
Đi xuống Phương Nam xem chàng về hay chưa. Về hay chưa.
Có con chim nhỏ bé dám ca câu sấm thề
Cuối thu năm Mậu Tý tướng quân đem kiếm về
[Nhạc hoặc hò]
Đời mong đợi thằng con, ngày nào nó xuống núi non
Xuất chinh với cả mối thù, nối lại giống nòi chinh phu
nối lại giống nòi chinh phu.
Phần 3: Người chinh phu về
[Ngâm]:
Nơi phía Nam giữa núi mờ
Ai bế con mãi đứng chờ
Như nuớc non xưa đến giờ?
[Nhạc]
3A
Đường chiều mịt mù cát bay tỏa buớc ngựa phi
Đường trường nếp tàn y hùng cường vẫn còn bay trong gió
Bóng từ xa sắp dần qua
Bóng chàng chập chùng vượt núi non cũ với hành lương độ đường
Chiếc hùng gươm danh tuớng, dưới tà uy, đếm nhịp đi, vó ngựa phi.
Dấn bước tang bồng giữa nơi núi rừng
Bên nợ tình thâm, bên nợ giang san
Bên đồi ai oán, bên rừng đa đoan đón đưa bóng chàng
Đường về nước chập chùng xa
Nhiều đồi núi cheo leo, cây với rừng rườm rà
Đường Vạn Xuyên, đường Cổ Lũy
Duyên núi sông vẫn như thắm hòa
Đò Vạn Lý, Đò Ải Quan
Đò rừng lá nước trong, bao cá lội từng đàn
Thành Cổ Loa, Đền Vạn Kiếp
Bao tháng năm dấu chưa xóa nhòa.
Tiếng núi non lưu luyến tấc lòng, bao nghìn năm
Tiếng gió cồn như tiếng trống dồn, buổi khuya vắng
Từ bóng cây ngôi mộ bên đường
Từ mái tranh bên đình trong làng
Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thương vang động trong lòng.
Đồi lan, đồi quế rắc kho hương nồng
Rừng sao đua đòi rừng trắc
Lo che ánh lửa vầng dương, tiếp đưa bóng chàng
Đường cao, đường thấp khắp khe chân chàng
Nhìn qua con đường mòn cũ
Quanh co mấy buổi tà dương mới mong tới làng.
Nhớ cố hương xao xuyến tấc lòng, mau dồn chân
Vết bước đi trên phím đá mòn còn in dấu
Từ bóng cây ngôi mộ bên đường
Từ mái tranh bên đỉnh trong làng
Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thương vang dậy trong lòng.
[Nhạc]
3B
Đường rừng gập ghềnh dấu binh lửa chiếu hào quang
Đục ngầu thúc người trong lời gào dẫn đoàn quân trăm chiến
Mấy ngàn binh tới ngoài biên
Thoát vòng ngục tù gọi nước non cũ tiến về Nam miệt mài
Vẫn từ xưa hăng hái, súng lòng vang, dưới cờ bay, lấp trời mây
Núi đá kinh hoàng nhắc câu sấm thề
Hỡi người chinh phu, anh hùng non sông
Trao người con quý, cho người trông nom, thiếp xin lỗi thề
Chàng rảo bước ngoài sườn non
Tìm người đứng cô đơn, đang ngóng đợi chồng về
Vượt Hoành Sơn, vòng thành lũy
Mong tới nơi cô thôn bước về
Từ dải đất miền đồng hoang
Lời hẹn ước tương lai, đang chúc mừng chàng về
Chờ nhìn con, chờ người đón
Bao nét xưa ước mong sẽ còn
Núi đá thu reo ước mơ, bao nghìn xưa
Thấy đứa con xanh ngắt nỗi hùng, còn trong đó
Cầm chiếc gươm chinh phụ di truyền
Chàng bế con trao lại gươm bền
Rồi chỉ vào sơn hà biến cố
Trao nó đi gây lại cơ đồ
Thời gian, đã thắm biết bao suy tàn
Người xưa đâu còn hình đá
Bơ vơ đứng đợi chồng đi, đã không hứa về
Lòng son lụn chí trước cơn mưa về
Đã xuôi tan tành đời đá
Nên mưa gió đổ quạnh hiu xuống ai mới về
Chiếc báu gươm chinh khách biết trao, cho thằng con
Chí khí cao đã nối mãi còn tài non nước
Chàng đã ghi trong sử xanh đời
Một mối duyên trong vạn kiếp người
Từ nghìn sau biến đổi với đá
Dân chúng đem ca tụng duyên Bà
[Kết]:
Người vọng phu, người vọng phu
Cho đến ngàn đời, cho đến ngàn đời
Người người vẫn nhớ, nhớ Hòn Vọng Phu.
Chú thích: có một số dị biệt về từ ngữ giữa các bản trình diễn. Ví dụ như câu thường nghe là phất phơ ngậm ngùi bay trong Phần 1, có khi được hát là phất phơ rợp trời bay, có ý nghĩa hay hơn. Hoặc Vui ca xang chứ không phải Vui ca xong.
+ Video trình diễn sống, Bá Duy, với ca từ, trong chương trình “Hát vui - Vui hát”, nỗ lực cá nhân đáng được trân trọng:
https://www.youtube.com/watch?v=Dl8IAz6WXMI
+ Video trình diễn sống, Thế Sơn/ Họa Mi/ Ngọc Hạ - Thiên Tôn, tuyệt vời về mọi mặt:
https://www.youtube.com/watch?v=oX5geLJxxTM
+ Video trình diễn sống, Quang Vũ, Tiến Long, Gia Kiệt, trong chương trình “Ai sẽ thành sao nhí?”, với dàn dựng công phu:
https://www.youtube.com/watch?v=Z-prZaN-JJI
Video trình diễn sống - Đoàn người ra đi, Uyên Linh, trong chương trình “Những bài hát còn xanh”:
https://www.youtube.com/watch?v=z4uG7i_JnkI
Video trình diễn sống - Ai xuôi vạn lý, Thanh Tuyền:
https://www.youtube.com/watch?v=V701RR9evXY
Họa mi hót trong mưa – Dương Thụ
Khi được hỏi ông sáng tác bài Họa mi hót trong mưa trong hoàn cảnh nào, Dương Thụ chia sẻ:
Tôi thường viết bài hát những lúc “im lặng” và những khi cảm thấy hơi buồn. Khi viết Họa mi hót trong mưa, tôi ở Tp HCM và sống rất khó khăn. Nghèo và ít được hiểu. Hoàn cảnh như thế không hiểu sao lại viết được bài Họa mi hót trong mưa (cười). Các bạn đừng hiểu lời bài hát theo nghĩa đen, hãy hiểu những gì ở đằng sau nó. Tôi chả bao giờ sáng tác dành cho ai cả, ngay cả khi các cô ca sĩ đặt bài.
Người viết như tôi không có khả năng viết những gì ngoài bản thân mình. Cái riêng tư ấy là của mình, chẳng để dành tặng ai. Nhưng khi bài hát được cất lên thì tự nó đi tìm người nghe. Người nào thích thì nghĩa là người ấy được tôi tặng đấy! Như bạn chẳng hạn. Nếu bạn yêu thích bài hát đó thì đấy chính là bài hát tôi tặng cho bạn.
+ Bản thu âm, Khánh Linh - Giáng Sol, với ca từ:
https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/hoa-mi-hot-trong-mua-khanh-linh.RHDHwnF5HUpF.html
Video trình diễn sống, Hồng Nhung:
https://www.youtube.com/watch?v=TwT4sQy6CHY
Video trình diễn sống, Khánh Linh:
https://www.youtube.com/watch?v=TJbCPwKMZRI
Hồ trên núi – Phó Đức Phương
Phó Đức Phương (1944- ) người Hưng Yên, là nhạc sĩ sáng tác ca khúc quần chúng dòng nhạc trữ tình. Ông là Giám đốc Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (VCPMC).
Phó Đức Phương viết Hồ trên núi vào năm 1971. Ông viết bài hát này cho một bộ phim tài liệu nghệ thuật của đạo diễn Khánh Dư. Thoát khỏi cuộc sống phố xá và những lo toan đời thường, ông chèo thuyền trên hồ Cấm Sơn (Bắc Giang). “Giai điệu tự nhiên bay lên ngay trên mặt nước, lời ca cũng vậy: “Núi núi, thuyền thuyền, mây mây, nước nước”.
+ Video trình diễn sống, Hồ Quỳnh Hương:
https://www.youtube.com/watch?v=8xSL4arNAFc
+ Video trình diễn sống, Hà Trần ft Nhóm Ayor:
https://www.youtube.com/watch?v=BHAxop_141Y
Hội trùng dương – Phạm Đình Chương
Hội trùng dương là bản trường ca bất hủ về ba con sông lớn, tượng trưng cho ba miền của Việt Nam: Sông Hồng, Sông Hương và Sông Cửu Long. Theo Phạm Thành (con trai nhạc sĩ Phạm Đình Chương) cho biết thì thời gian ông sáng tác và hoàn tất là bốn năm ròng rã.
Sáng tác năm 1954, một năm không người Việt nào quên, Phạm Đình Chương muốn nói lên tâm tư Bắc Nam là một và những dòng sông rồi cũng xuôi về biển Mẹ.
+ Video trình diễn sống, Ngô Quốc Dương với Ngọc Mai, Hà Vân và Vân Khánh cùng nhóm bè Sunright và Vũ đoàn Phương Việt trong chương trình “Thử tài siêu nhí”, với cách dàn dựng, phối khí nhạc đệm và nhóm hát bè đều rất đáng khen:
https://www.youtube.com/watch?v=_alRps-3oNo
Video trình diễn sống, Đức Tuấn:
https://www.youtube.com/watch?v=rLhYDEdNzK0
Video trình diễn sống, Thanh Lan, Thanh Tuyền, Hoàng Oanh:
https://www.youtube.com/watch?v=Dw5qfaKSB34
Video trình diễn sống - Tiếng Sông Hương, Ngọc Hạ:
https://www.youtube.com/watch?v=uKbQLBrYlV8
Hương xưa – Cung Tiến
Hai ca khúc Hương xưa và Hoài cảm như là đôi song sinh của Cung Tiến, thế nên đã giới thiệu bài đầu thì không thể bỏ qua bài sau.
Cảm nhận của Nguyễn Thanh Thủy:
Đầu bản nhạc, NS Cung Tiến vẽ lên một bức tranh quá đẹp, thật thơ mộng trong khung cảnh thanh bình của hai người yêu nhau.
Còn đó tiếng tre êm ru
Còn đó bóng đa hẹn hò
Còn đó những đêm sao mờ hồn ta mênh mông nghe sáo vi vu.
Còn đó tiếng khung quay tơ
Còn đó con diều vật vờ
Còn đó nói bao nhiêu lời thương yêu đến kiếp nào cho vừa.
Thế rồi đến lúc phải xa nhau và sống khắc khoải trong đợi chờ thì NS Cung Tiến ví sự mong muốn được sống với người yêu này như nàng Quỳnh Như trước đây đã mong được sống với người yêu là Phạm Thái.
Phạm Thái chống Tây Sơn mà Khái Hưng viết thành truyện tiểu thuyết Tiêu Sơn tráng sĩ.
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như là một đôi trai tài gái sắc yêu nhau tha thiết, nhưng không được sống cạnh nhau vì phụ thân của Quỳnh Như bắt nàng phải kết hôn với người khác.
Quỳnh Như tự vẫn, trước khi có quyết định này thì nàng gặp Phạm Thái và hứa với chàng là kiếp sau sẽ lấy chàng. Thế rồi sau khi chết đi, nàng đầu thai vào người con gái khác và lấy Phạm Thái sau này.
Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một giấc ai mơ
Dù đã quên lời hẹn hò
Thời Hoàng Kim xa quá chìm trong phôi pha
Chờ đến bao giờ tái sinh cho người.
Trở lại với 2 câu:
Tình nhị hồ vẫn yêu âm xưa
Cung nguyệt cầm vẫn thương Cô Tô
Nhị là cây đàn nhị, loại đàn có 2 dây, âm thanh hơi giống vĩ cầm [violon], hồ còn gọi là hồ cầm, đàn 5 dây biểu tượng của Ngũ Hành - kim mộc thủy hỏa thổ, trổi lên Ngũ Âm - thanh thương giốc chủy vũ, đàn làm bằng gỗ ngô đồng nên tiếng trong và thanh. Lệ luật hồ cầm của người xưa rất là khắc khe.
Nguyệt cầm là cây đàn nguyệt, là thứ đàn có thùng tròn (như mặt trăng).
“Tình Nhị Hồ vẫn yêu âm xưa” nói lên tâm trạng của Kim Trọng vẫn yêu Thúy Kiều tha thiết, dù rằng đã bị… Thúy Kiều gá nghĩa phu thê cho Thúy Vân!
Thúy Kiều là một giai nhân luân lạc vì số kiếp, ngoài tài văn chương thi phú nàng còn chơi đàn rất giỏi, nhưng thường không là người tri kỷ quyết không đàn!
Thúy Kiều có hai người được Nguyễn Du miêu tả là tri kỷ : Kim Trọng và Từ Hải. Đối với 2 người này Thúy Kiều có tâm tình khác biệt: với chàng Kim thì đây là mối tình đầu lưu luyến ngây thơ, còn với Từ Hải thì Kiều cảm ân nghĩa và khí thế độ lượng anh hùng.
Chàng Từ có thể là tri kỷ nhưng không thể nào là bạn tri âm cùng Kiều được, nếu so với Kim Trọng khi gặp lại Kiều sau 15 năm xa cách , chàng Kim vẫn xem Thúy Kiều như những… ngày xưa!
Tình xưa lai láng khôn hàn
thong dong lại hỏi tiếng đàn ngày xưa.
Câu “Tình nhị hồ vẫn yêu âm xưa” là ám chỉ một chân tình tha thiết ấy!
Còn câu “Cung nguyệt cầm vẫn thương Cô Tô” là muốn nói đến chuyện tình Tây Thi với Phù Sai và Phạm Lãi.
Mặc dù sống trong Cô Tô Đài với Phù Sai nhưng lúc nào Tây Thi cũng vẫn nhớ thương Phạm Lãi. Vì Phù Sai mê sắc đẹp của Tây Thi và bỏ bê việc triều chính để rồi Câu Tiễn đem quân đánh chiếm được thành Cô Tô. Sau khi Cô Tô Thành bị thất thủ thì Tây Thi gặp lại Phạm Lãi và cả hai cùng biệt tích để sống với nhau.
Hai câu vừa đối chữ mà lại vừa đối ý thật hay:
Tình nhị hồ vẫn yêu âm xưa
Cung nguyệt cầm vẫn thương Cô Tô
Hai chữ “yêu” và ‘thương” ngụ ý tình cảm giữa các nhân vật. Tiếng đàn nhị và hồ cầm đi với cung nguyệt cầm. Hơn nữa còn có một điểm tương đồng, đó là hai cuộc tình tay ba: Thúy Kiều với Từ Hải và Kim Trọng, Tây Thi với Phù Sai và Phạm Lãi.
Thật đáng phục Cung Tiến ở tuổi 16 mà đã sáng tác một bản nhạc bán cổ điển thật hay, không những thế mà Cung Tiến còn dùng lời với các điển tích chứng tỏ sự uyên bác của Nhạc Sĩ.
Thế rồi NS cho một kết cục thật vui khi được gặp lại cố nhân:
Người có thương yêu loài người và yên vui sống cuộc sống vui
Ðời êm như tiếng hát của lứa đôi
Đoạn kết giống như Trương Quỳnh Như gặp lại Phạm Thái, Thúy Kiều gặp lại Kim Trọng, Tây Thi gặp lại Phạm Lãi.
+ Video trình diễn sống, Ngọc Mai, với ca từ, trong đêm văn nghệ đại lễ Phật Đản 2017: chất giọng ngọt ngào, nhạc đệm đơn giản, kỹ thuật thu âm thô sơ, nhưng người nghe vẫn có thể cảm nhận cái hồn của bài hát:
https://www.youtube.com/watch?v=TKUzza7UHPc
Ba bài trình diễn dưới đây đều thể hiện giọng hát hay được hỗ trợ bởi hòa âm nhạc đệm tuyệt vời.
Video trình diễn sống, Thiên Tôn, trong Paris By Night 108:
https://www.youtube.com/watch?v=GExuFBoqfS8
Hướng về Hà Nội – Hoàng Dương
Hoàng Dương, tên đầy đủ Ngô Hoàng Dương (1933-2017), là nghệ sĩ đàn cello, người có công đầu xây dựng bộ môn cello và khoa đàn dây Nhạc viện Hà Nội. Hoàng Dương viết không nhiều ca khúc. Hai bài Hướng về Hà Nội và Tiếc thu là nổi tiếng hơn cả.
Hoàng Dương kể về bối cảnh ra đời ca khúc Hướng về Hà Nội, theo Vườn CVA 5461 (2017):
Đó là những năm 1953-1954, tôi đang hoạt động cách mạng tại Đội tuyên truyền văn nghệ Thành nội bộ Hà Nội nên luôn phải trốn trách sự truy lùng của quân địch. Một lần khi đang tá túc tại nhà người dân nơi ngoại thành Hà Nội, tiếng pháo tiếng súng phía bên kia thành phố vẫn dội một bên tai, kháng chiến chưa biết ngày nào toàn thắng, nhớ lại bóng hình người con gái Hà Nội mình thầm yêu chẳng biết có bao giờ còn dịp gặp lại…
Tất cả những điều đó thôi thúc tôi ngồi vào bàn viết. Ánh đèn giăng mắc muôn nơi, mái trường phượng vĩ dâng hoa, thanh bình tiếng guốc reo vui, phố phường dãi ánh trăng mơ… đều là những hình ảnh quen thuộc, khảm sâu suốt một thời tuổi trẻ nên tôi viết rất nhanh, cảm xúc cứ thế tự nhiên đến.
Năm 1954, Hướng về Hà Nội được công bố qua tiếng hát Kim Tước để rồi sau đó được phổ biến rộng rãi. Nó là lời nhắn gửi của một thế hệ, một tầng lớp thanh niên tri thức thủ đô “gác bút nghiên” lên đường vì nghĩa lớn. Chính vì vậy bài hát mang một vẻ đẹp sang trọng và buồn, đậm chất của những con người thành phố và có thể nói, đây cũng là một bài hát mang đậm… “nỗi buồn tiểu tư sản”.
Cũng giống như nhiều tác phẩm bị “quy” vào cái “tội”: “mang tính chất tiểu tư sản”, một thời gian dài Hướng về Hà Nội không có cơ hội được phát công khai. Không được phổ biến rộng rãi nhưng những lời thơ ấy vẫn âm thầm chảy trong ký ức, trong trái tim của biết bao thế hệ con người Hà Nội, dù đi xa hay ở ngay tại lòng thành phố, mỗi khi lời hát được cất lên, trong nền nhạc violoncenl trầm đục, mỗi người con của thành phố đều cảm thấy rưng rưng biết bao kỷ niệm. [Chú thích: khi hai miền còn chia cắt, ở miền Nam ca khúc này vẫn được trình bày rộng rãi bởi Mai Hương, Duy Trác, Lệ Thu…]
Phải hơn bốn mươi năm sau, đến những năm cuối của thế kỷ 20, bài hát mới được “minh oan” và đón nhận được nhiều sự chia sẻ của khán giả. Có nhà phê bình âm nhạc không tiếc lời khi nói: Hướng về Hà Nội là sự chưng cất của nét tài hoa lắng đọng trong không gian thời gian và linh thiêng sông núi.
+ Video âm thanh, Lê Dung:
https://www.youtube.com/watch?v=0sXZ6ARYi_0
+ Video âm thanh, Thu Phương:
https://www.youtube.com/watch?v=Jn_TBrc2R_g
Không bao giờ quên anh – Hoàng Trang
Theo Wikipedia - Hoàng Trang
Hoàng Trang
Hoàng Trang (1938-2011), người Bến Tre, tên tuổi gắn liền với ca khúc Không bao giờ quên anh. Nghệ danh Hoàng Trang (hoa trang vàng) là do lúc nhỏ ông sống ở quê nội nơi chợ Mới (Gò Công Đông, Tiền Giang), hình ảnh hoa trang vàng đã đi vào tâm thức nên sau này ông đã lấy hoa trang vàng đặt làm nghệ danh. Ông cùng thế hệ với các nhạc sĩ như Thanh Sơn, Trần Thiện Thanh, Trúc Phương,.. Tài năng âm nhạc của nhạc sĩ Hoàng Trang là do ông mày mò, kiên nhẫn tự học, không kinh qua trường lớp hoặc người thầy nào.
Không bao giờ quên anh thường bị xem là một trong những đại diện cho dòng nhạc ủy mị mà khi xưa người tổng hợp bài này nghe nhiều lần vẫn không thích. Bây giờ tôi nghĩ khác: qua bốn giọng ca thuộc thế hệ mới như giới thiệu dưới đây, ca khúc mang cung cách mới, vẫn truyền cảm nhưng không ủy mị, và tôi có cảm nhận sâu sắc.
+ Video trình diễn sống, Quỳnh Như:
https://www.youtube.com/watch?v=wfVxMIvDPcI
+ Video trình diễn sống, Hòa Minzy, trong chương trình “Cặp đôi hoàn hảo - Trữ tình - Bolero”:
https://www.youtube.com/watch?v=Q-xhICeE6Mk
* Video trình diễn sống, Lưu Ánh Loan (MV Official):
https://www.youtube.com/watch?v=4f83RFMZVoU
* Video trình diễn sống, LiLy Chen:
https://www.youtube.com/watch?v=u7GkeGIM9jg
Không còn mùa thu – Việt Anh - Lê Quốc Dũng
Việt Anh
Việt Anh (1976-) là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng từ sớm với những ca khúc nhạc trẻ mang âm hưởng trữ tình, lãng mạn. Lên 8 tuổi, Việt Anh bắt đầu theo học nhạc, rồi tốt nghiệp đại học chuyên ngành piano vào năm 1999. Sau đó anh chuyển sang học ngành sáng tác và tiếp tục chặng đường âm nhạc của mình bằng việc sang New Zealand tu nghiệp vào năm 2001. Sau 6 năm, tốt nghiệp khoa sáng tác Trường Đại học Auckland, Việt Anh trở về nước rồi chính thức trở thành thành viên của nhà hát Giao hưởng Vũ kịch Sài Gòn.
Việt Anh nhìn nhận mình bị ảnh hưởng bởi nhiều dòng nhạc, đặc biệt là nhạc tiền chiến. Giai điệu của anh cũng kế thừa âm hưởng lãng mạn cổ điển đó.
Không còn mùa thu là ca khúc đầu tiên của Việt Anh, hợp tác với Lê Quốc Dũng (1956-) người Đà Nẵng, được thu âm vào thập niên 1990s.
+Video âm thanh, Thu Phương:
https://www.youtube.com/watch?v=FbxIIc-Owb8
Video trình diễn sống, Ý Lan:
https://www.youtube.com/watch?v=bscN2PNdgdw
Khối tình Trương Chi – Phạm Duy
Có một vài ca khúc tôi rất thích nhưng không hiểu sao ca sĩ không mặn mà lắm nên tôi không thấy trình diễn trên sân khấu lớn nhỏ. Thế nên nhiều người không biết đến những ca khúc đó.
Truyện ca Khối tình Trương Chi là một ví dụ. Trong Hồi ký Phạm Duy, tác giả kể trong thời gian dừng chân ngơi ở Huế, một người con gái có vẻ như một công chúa Mỵ Nương hay một tiểu thư lá ngọc cành vàng đang sống trong một dinh thự rất đẹp trên con đường lên Nam Giao giúp ông cảm hứng để thay thế anh Trương Chi, hát lên cho hồn người phải thổn thức trong phòng loan…
Ca từ của Khối tình Trương Chi tuyệt vời, chỉ cần đọc lên là nghe như một bài thơ, còn tiết tấu thay đổi từ đoạn này qua đoạn khác chứ không theo công thức quen thuộc A-A-B-A.
Có thể xem bài hát gồm 2 chương (movement) trong một tiểu khúc (suite) của nhạc cổ điển.
Chương 1 gồm 5 đoạn A-B-C D-A, khi nàng “thổn thức trong phòng loan” vì nghe tiếng đàn Trương Chi.
Chương 2 gồm 5 đoạn A-B-C-D-A, khi nàng gặp chàng thì “đành tan vỡ câu chờ mong” để rồi “trong đáy sông hồn cầm ai chết đêm nguyệt rằm” và “thiếp trả nợ chàng nước mắt này dâng”. Đoạn A cuối kết thúc câu truyện: “Cho mắt rơi lệ rồi, cho chén tan thành lời / Để thành bài hát ru lòng tôi.”
Mỗi đoạn A đều bắt đầu bằng câu “Đêm năm xưa” nhằm dẫn chuyện và trở về chủ đề chính.
Kết cấu âm nhạc phong phú như thế, ca từ có hồn thơ như thế. mà tôi chưa nghe được nhóm bè phụ họa và dàn nhạc giao hưởng hỗ trợ cho giọng hát! Có nguy cơ là cách xử lý theo kiểu nhạc vàng trở thành quá bi ai, trong khi cách kể chuyện mang hơi hướng bâng khuâng, thương cảm nhẹ nhàng.
+ Video âm thanh, Hoàng Oanh, với phần dẫn truyện và ngâm thơ:
https://www.youtube.com/watch?v=0YPioprjPGg
+ Video âm thanh, Tấn Minh, giọng ngọt ngào, có nhóm hát bè phụ họa, hòa âm nhạc đệm nghe mới lạ:
https://www.youtube.com/watch?v=CRDxPlIcczU
+ Video âm thanh, Sĩ Phú:
https://www.youtube.com/watch?v=tO1l5n0-Qpw
Khúc hát ân tình – Xuân Tiên - Song Hương
Bài Khúc hát ân tình do Xuân Tiên sáng tác nhạc và Song Hương đặt ca từ, là bài hát được gắn liền với Xuân Tiên.
Theo Wikipedia - Xuân Tiên
Xuân Tiên, tên thật là Phạm Xuân Tiên (1921-), người Hà Nội, là một nhạc sĩ có nhiều đóng góp cho nền tân nhạc Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Năm 6 tuổi, ông bắt đầu học nhạc Trung Quốc với cha và sau đó học nhạc phương Tây với người anh cả. Năm lên 10, ông còn được cha thuê người dạy tuồng và nhạc cải lương. Thời gian ban đầu khi còn ở miền Bắc, ông chơi chủ yếu là các loại kèn sáo phương Tây.
Cuối năm 1942, ông cùng anh trai là nhạc sĩ Xuân Lôi theo gánh cải lương Tố Như vào miền Nam trình diễn ở Sài Gòn và lục tỉnh. Trong quá trình đi trình diễn nhạc và sinh sống ở nhiều miền, ông thu thập được kiến thức về các loại hình nhạc của các miền khác, chủ yếu là miền Trung. Ông có khả năng chơi 25 loại nhạc cụ, lại còn cải tiến một số nhạc cụ.
Năm 1952, cả gia đình ông vào Sài Gòn kiếm sống bằng nghề nhạc cho đến sự kiện 30 tháng 4 năm 1975.
Năm 2006, những đóng góp có giá trị của nhạc sĩ Xuân Tiên - cùng với hai nhạc sĩ Thanh Sơn và Nguyễn Ánh 9 - đối với nền tân nhạc Việt Nam được vinh danh trong chương trình Paris by Night 83: Những khúc hát ân tình của Thúy Nga.
Những ca khúc của Xuân Tiên được yêu thích nhất là: Chờ một kiếp mai (cùng Ngọc Bích), Cùng một mái nhà, Hận Đồ Bàn (ký chung với Lữ Liên), Khúc hát ân tình, Về dưới mái nhà,…
+ Bản thu âm, Cẩm Ly, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/khuc-hat-an-tinh-cam-ly-soWKpY
+ Video trình diễn sống, Như Quỳnh, Minh Tuyết, Hạ Vy, Hà Phương:
https://www.youtube.com/watch?v=TrCcyA8vSSg
+ Video trình diễn sống, Diễm Thùy:
https://www.youtube.com/watch?v=iRXjz-pnsf0
Khúc thụy du – Du Tử Lê - Anh Bằng
Theo Wikipedia - Du Tử Lê
Du Tử Lê tên thật là Lê Cự Phách (1942-2019), người Hà Nam, có những thành công nhất định về thơ văn như:
Thơ ông được đưa vào giảng dạy, làm tài liệu nghiên cứu, đọc thêm tại một số trường đại học Hoa Kỳ và châu Âu.
Năm 1998, nhà xuất bản W.W. Norton, New York chọn Du Tử Lê là một trong năm tác giả Việt Nam để in vào phần “Thế kỷ 20: thi ca Việt Nam” khi tái bản tuyển tập World Poetry - An Anthology of Verse From Antiquity to Our Present Time (Tuyển tập Thi ca thế giới từ xưa đến nay).
Trong cuốn Understanding Vietnam, tác giả, giáo sư Neil L. Jamieson chọn dịch một bài thơ của Du Tử Lê viết từ năm 1964. Cuốn sách này sau trở thành tài liệu giáo khoa, dùng để giảng dạy tại các đại học Berkeley, UCLA, và Cambridge, London.
Theo Wikipedia -  Anh Bằng
Anh Bằng, tên thật Trần An Bường (1926-2015), người Thanh Hóa, là một nhạc sĩ nổi tiếng dòng nhạc đại chúng của Việt Nam với số lượng sáng tác khoảng 650 tình khúc để lại cho đời. Ông là người sáng lập Trung tâm Asia vào năm 1980. Ngoài những tác phẩm của chính ông, Anh Bằng còn là một trong nhóm ba người hợp tác soạn nhạc với bút hiệu Lê Minh Bằng.
Theo Mộc Uyển (2018)
Lâu nay, mọi người vẫn biết đến bài hát Khúc thụy du, với nhạc của nhạc sĩ Anh Bằng, dựa trên ý thơ của nhà thơ Du Tử Lê. Bài hát viết về tình yêu, hiển nhiên thế. Nhưng giữa bài thơ và bài hát được phổ là những câu chuyện khác nhau.
Bài thơ Khúc thụy du được viết vào tháng 3/1968. Lời bài thơ là tiếng kinh cầu của con người trước chiến tranh, loạn lạc; trên mảnh đất mà từng ngày, từng phút trôi qua là muôn vàn đạn bom, hận thù và cái chết đổ xuống. Nơi đó, thần chết lúc nào cũng ung dung, lởn vởn nhắc nhở: Là con người hay con vật trong chiến tranh thì thân phận cũng đều rẻ rúng như nhau, đừng đỏi hỏi gì cả. Nhà thơ Du Tử Lê ở tháng 3 năm 1968 đã để lời thơ cứ thế bật ra, như máu chảy, từng dòng, từng dòng đỏ thẫm, tang thương.
Bài thơ khi được viết ra dài trên 100 câu. Nhưng khi đăng tạp chí thì cắt bỏ đi gần 1/3 bài. Ngay chính tác giả cũng không còn bản gốc mình viết tay khi đó. Sau này, in trong các tập đành phải lấy theo bản bị cắt bỏ in trên tạp chí.
Theo những gì mà nhà thơ Du Tử lê kể lại thì vào năm 1985, nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm gặp ông tại quán cà phê Tay Trái và giới thiệu mình là người đã phổ nhạc bài thơ của ông, trước đó hai người chưa hề quen biết.
Nếu như bài thơ Khúc thụy du là mô tả những nỗi ám ảnh sống chết, tiếng kêu đau thương của con người, thì bài hát Khục thụy du mang đậm dấu ấn về tình yêu, với cách đặt vấn đề mang màu sắc triết luận và những câu hỏi đặt ra không nhằm hay không mong câu trả lời.
Nhạc sĩ Anh Bằng khéo léo rút tỉa những câu định đề của bài thơ, chuyển sang trạng thái tình yêu, thay vì đi sâu vào thân phận chiến tranh như bài thơ gốc. Ví dụ rõ ràng nhất là hình ảnh chim bói cá. Hình ảnh chim bói cá trong bài thơ là sự mở để đi sâu vào vô vàn hình ảnh người chết phía tiếp sau. Còn trong bài hát nó là sự nối tiếp của tình yêu, làm rõ cho tình yêu trong cuộc đời.
Sự chuyển từ thơ sang nhạc của nhạc sĩ Anh Bằng có nhiều người đồng tình, nhiều người phản đối. Phản đối vì bài hát đã giản lược phần quan trọng nhất của bài thơ là thân phận con người, chỉ nhấn vào khía cạnh tình yêu, một khía cạnh rất nhỏ. Đồng tình vì khi chỉ còn tình yêu bài hát không nặng nề, u ám, được lan truyền rộng rãi hơn. Bản thân nhà thơ Du Từ Lê sau mấy chục năm nhìn lại cũng công nhận nhạc sĩ Anh Bằng có cái lý của ông.
Và cả bài hát có cụm từ quan trọng mà bài thơ không có: cắt đứt cuộc tình đầu/ Thụy bây giờ về đâu. Sự cắt đứt này vừa vặn khép lại một vòng tròn với câu đầu mở ra: hãy nói về cuộc đời/ khi tôi không còn nữa.
Khúc thụy du là gì? Thụy là ai? Nhiều người suy luận rằng “Thụy” ở đây là tên riêng của bà Thụy Châu, vợ cũ nhà thơ, còn “Du” lấy từ chính bút danh của tác giả. Một giả thuyết khác, theo nghĩa Hán Việt, “Thụy du” là một khúc hát về giấc ngủ, cái chết hoặc một chuyến đi dài.
Còn tác giả cho biết thời gian bài thơ ra đời cũng là bắt đầu cuộc tình giữa ông và một cô sinh viên đại học Dược. Ông lấy chữ lót trong tên người con gái này, cộng với chữ đầu bút hiệu làm thành nhan đề bài thơ.
Vậy Thụy là ai? Liệu chúng ta có cần truy nguyên rõ ràng nguồn gốc, Thụy là cô A, là cô B… hay không? Thiết nghĩ là không. Bởi một khi tác phẩm đã đi vào lòng công chúng, thiết nghĩ, nó nên giữ lại phần nào đó sự kì bí của mình. Như cụm từ “Sơn Khê” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vậy. Cứ nghĩ đó là núi sông theo ý bạn. Hoặc Trịnh Công Sơn và Bích Khê nào đó nếu bạn muốn đi tìm…
Video âm thanh, Sunmi Nguyen:
https://www.youtube.com/watch?v=4zZyLzQ0pkU
Video trình diễn sống, Bảo Yến:
https://www.youtube.com/watch?v=fb8U97_4viU
+ MV, Nhật Hạ, với hình ảnh đầy nét nghệ thuật nhưng có thể gây ám ảnh:
https://www.youtube.com/watch?v=xoUGY78VpJM
Kiếp nào có yêu nhau – Minh Đức Hoài Trinh - Phạm Duy
Minh Đức Hoài Trinh
Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh tên thật là Võ Thị Hoài Trinh (1930-2017), người Huế. Bà là con quan Tổng đốc Võ Chuẩn; ông nội là Thượng thư Bộ Lễ Võ Liêm. Năm 1964, bà đi Pháp, học chuyên ngành báo chí và Hán văn tại trường ngôn ngữ Đông phương La Sorbonne, sau đó ra trường và làm việc tại một đài truyền hình Pháp. Bà từng là phóng viên chiến trường tại Algérie và Việt Nam, được cử theo dõi và tường thuật cuộc hòa đàm Paris. Năm 1974-1975, bà trở về Việt Nam giảng dạy khoa báo chí tại Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Bà xuất bản hàng chục tập thơ như Lang thang, Thư sinh, Bơ vơ, Hắn, Mơ… Nhiều bài thơ của bà được cố tác giả Phạm Duy và nhiều tác giả khác phổ nhạc như Kiếp nào có yêu nhau, Đừng bỏ em một mình, Bài thơ cho Huế, Mây vẫn còn bay… Trong đó, ca khúc Kiếp nào có yêu nhau của Phạm Duy trở thành một trong những tình khúc kinh điển của tân nhạc, được nhiều thế hệ ca sĩ trình bày như Thái Thanh, Tuấn Ngọc, Ý Lan, Mỹ Linh, Đức Tuấn…
Hiếu Dũng - Ngân Vi (2013) kể:
Năm 1943, Phạm Duy theo gánh hát Đức Huy tới Huế vào một ngày êm đẹp. Cảm xúc ngày ấy như vẫn ngọt lịm trên từng giác quan người nhạc sĩ. Ông mơ màng hồi tưởng: “Ai tới Huế lần đầu tiên cũng đều cảm thấy như vừa gặp một nơi để biết ái tình ở dòng sông Hương… vì những bầy ‘Huế nữ’ không những đẹp thôi, ăn nói lại mặn mà có duyên. Tôi may mắn được quen biết mấy chị em trong một gia đình quyền quý và được mời tới dinh thự Hương Trang ở Nam Giao chơi… Trong số đó có một cô gái rất trẻ tên là Võ Tá Hoài Trinh. Cô này còn làm thơ nữa, lấy bút danh Minh Đức Hoài Trinh… Nói rằng tôi biết ái tình ở dòng sông Hương là thế, nhưng lúc quen nhau rồi thì cũng phải xa nhau. Tôi tiếp tục sống đời giang hồ, người mới quen dần trôi vào dĩ vãng…”
Năm 1948, nơi không gian nhỏ hẹp là khu vực của làng văn nghệ Quần Tín (tỉnh Thanh Hóa) vào thời gian mà cuộc toàn quốc kháng chiến đã gần đi vào năm thứ hai. Phạm Duy kể: “Tôi bấy giờ đang là quân nhân… bỗng gặp lại Minh Đức Hoài Trinh lúc đó được 17 tuổi từ thành phố Huế thơ mộng chạy ra với kháng chiến. Nàng còn đem theo đôi gót chân đỏ như son và đôi mắt sáng như đèn pha ô tô… Hồi đó, Minh Đức Hoài Trinh đã được Đặng Thái Mai coi như là con nuôi và hết lòng nâng đỡ”.
Con tạo xoay vần. Họ lại chia tay nhau. Nhưng, Phạm Duy tiếp tục câu chuyện về nữ sĩ Hoài Trinh: “Năm 1954, tôi gặp Minh Đức Hoài Trinh lần thứ ba khi tôi tới Paris ở khoảng hai năm. Nàng đã rời Việt Nam, đang sống với một người em trai trong một căn phòng nhỏ hẹp. Ba lần gặp nhau là rất hy hữu, tôi bèn giao lưu với nàng và soạn được hai bài ca bất hủ”.
Cuộc giao duyên thơ nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy và nữ sĩ Hoài Trinh cho ra đời hai bản tình ca: Kiếp nào có yêu nhau và Đừng bỏ em một mình.
Năm 2016, đạo diễn Dustin Nguyễn thực hiện cuốn phim Bao giờ có yêu nhau dựa trên cảm hứng về ca khúc Kiếp nào có yêu nhau. Nhạc phẩm do danh ca Thái Thanh thể hiện là một trong số các ca khúc chủ đề của phim.
Bài thơ: Kiếp nào có yêu nhau - Minh Đức Hoài Trinh
Anh đừng nhìn em nữa
Hoa xanh đã phai rồi
Còn nhìn em chi nữa
Xót lòng nhau mà thôi

Người đã quên ta rồi
Quên ta rồi hẳn chứ?
Trăng mùa thu gãy đôi
Chim nào bay về xứ
Chim ơi có gặp người
Nhắn giùm ta vẫn nhớ
Hoa đời phai sắc tươi
Đêm gối sầu nức nở
Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận nghìn sau
Tình xanh không lo sợ
Lệ nhòa trên gối trắng
Anh đâu, anh đâu rồi?
Rượu yêu nồng cay đắng
Sao cạn mình em thôi?
+ Video âm thanh, Nhật Hạ:
https://www.youtube.com/watch?v=ncIaez7jc3A
+ Video trình diễn sống, Hồng Gấm, trong chương trình “Chân dung cuộc tình”:
https://www.youtube.com/watch?v=nWGbnxYnEQ4
Video trình diễn sống, Nguyễn Hồng Nhung:
https://www.youtube.com/watch?v=eBxguVUo-As
Video âm thanh, Thái Thanh, nhạc phim Bao giờ có yêu nhau:
https://www.youtube.com/watch?v=3qLkSx1SSlg
Kỷ niệm - Phạm Duy
Phạm Duy viết trong Hồi ký của ông:
Sau một thời gian ngụp lặn trong vũng lầy của tâm ca, tâm phẫn ca, vỉa hè ca, tục ca, thương ca chiến trường, chiến ca mùa hè và sau khi cố bay lên để trốn tránh vào đạo ca thì vào năm 1972, tôi rơi xuống đất.
Tôi rơi vào kỷ niệm, những kỷ niệm của rất nhiều người thuộc lứa tuổi tôi, lúc còn bé, còn ngây thơ trong trắng và được sống ở tỉnh nhỏ, có những buổi chiều đi giữa làng quê, đi giữa ruộng lúa rồi vì quá mê trời mây tía nên không nghe tiếng mẹ gọi về… Hoặc trong những đêm mùa khô ráo ngồi bên cha mẹ, mơ ước viễn du khi nghe tiếng còi tầu xe lửa… Tôi nhớ lại kỷ niệm và xin quay về dĩ vãng.
Tôi xin lại Tình Yêu mà có lẽ tôi đã đánh mất. Tôi không cần khôn khéo nữa, tôi xin cho lòng tôi được non yếu để tôi có thể dễ khóc, dễ tin theo… Tôi xin lại thời thơ ấu nghĩa là tôi xin đi lại từ đầu.
+ Video âm thanh, Thái Thanh:
https://www.youtube.com/watch?v=HW4Wo9zEU0o
+ Video âm thanh, Ý Lan, kèm những họa phẩm của Nguyễn Đức Cường:
https://www.youtube.com/watch?v=ydHE54hXqOI
Video âm thanh, Đức Tuấn:
https://www.youtube.com/watch?v=wPayTrQbCoQ
+ Video trình diễn sống, Dương Triệu Vũ:
https://www.youtube.com/watch?v=bm9-Fj8R3LM

Lâu đài tình ái – Trần Thiện Thanh - Mai Trung Tĩnh
Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (1942-2005) còn là ca sĩ với nghệ danh Nhật Trường. Một số nghệ danh khác của ông là Anh Chương (tên con trai ông), Trần Thiện Thanh Toàn (em trai ông), và Thanh Trân Trần Thị.
Ông thường sáng tác về tình yêu với ca từ lãng mạn, thi vị. Những ca khúc của ông trong thể loại này được biết đến nhiều nhất là Ai nói yêu em đêm nay, Bảy ngày đợi mong, Chiếc áo bà ba, Chuyến đi về sáng, Chuyện hẹn hò, Đám cưới đầu xuân, Giây phút tạ từ, Hàn Mặc Tử, Hoa trinh nữ, Khi người yêu tôi khóc, Không bao giờ ngăn cách, Lâu đài tình ái, Mùa đông của anh, Trên đỉnh mùa đông…
Trang web của Cục Nghệ thuật Biểu diễn được truy cập ngày 26/3/2019 liệt kê 34 ca khúc của Trần Thiện Thanh (kể cả những ca khúc nêu trên) được phép phổ biến tại Việt Nam:
Có lúc tôi nghĩ lại: mình đã từng dự 6, 7 đám cưới thì có 3 lần được nghe ca khúc Lâu đài tình ái, trong đó 1 lần nghe chính cô dâu hát. Điều này cho thấy sức lan tỏa của bài hát với ca từ dễ thương này. Tuy rằng có lẽ vì được yêu mến quá trong khi phong trào hát bolero đang nổi nên ca khúc được xếp luôn vào dòng nhạc bolero!
Hãy nghe 4 cặp song ca hát rất đạt, tuy hình ảnh mờ nhòe trong 2 clip cuối nên mất điểm +.
+ Video trình diễn sống, Tùng Anh - Tố My, trong chương trình “Solo cùng Bolero”:
https://www.youtube.com/watch?v=j8O_sukg8no
+ Video trình diễn sống, Khánh Bình - Hà Vân:
https://www.youtube.com/watch?v=fTROOsCLkyo
Video trình diễn sống, Như Quỳnh - Thái Châu:
https://www.youtube.com/watch?v=NqYjmZdhl5U
Video trình diễn sống, Bằng Kiều - Lệ Quyên:
https://www.youtube.com/watch?v=WOXUeSSwejE
Lòng mẹ - Y Vân
Y Vân tên thật là Trần Tấn Hậu, (1933-1992), quê gốc ở Thanh Hóa, là một nhạc sĩ tiêu biểu của nền tân nhạc Việt Nam từ cuối thập niên 1950 đến 1990. Thuở niên thiếu, ông từng theo học nhạc với Giáo sư - nhạc sĩ Tạ Phước và cũng tập sáng tác từ rất sớm. Mồ côi cha, nhà nghèo, cả nhà nhạc sĩ phải dắt díu nhau nương náu trong một túp lều xiêu vẹo ở ngõ chợ Khâm Thiên. Chính vì thế, ông rất thương mẹ và các em, ông phải đi dạy đàn để nuôi gia đình.
Năm 1952 ông vào Nam, tiếp tục sáng tác, chơi nhạc, hòa âm và dạy nhạc, viết sách dạy nhạc lý và dạy đàn guitar. Ngoài ra ông còn là người đi tiên phong cho dòng nhạc nhẹ với những bài hát có giai điệu chachacha, disco, twist như: Sài Gòn, Ảo ảnh, Sáu mươi năm cuộc đời, Thôi… Ông để lại khoảng 200 ca khúc. Nhiều sáng tác của ông đã trở thành bất hủ và vẫn được trình diễn bởi những ca sĩ hiện thời.
Có một công trình nghệ thuật do nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phác thảo và Y Vân sưu tầm tài liệu với các công việc: sưu tầm bài hát, tài liệu, nhạc khí cổ, tuyển chọn ca sĩ, ca nương theo đúng mẫu xưa phù hợp với phong cách từng địa phương. Dự án bao gồm 20 tiết mục chia đều cho ba miền và được phát hành trong nước trong băng/đĩa Continental 6. Ngoài ra, còn phát hành ấn bản tiếng Anh với tên gọi Vietnamese Traditional Songs để tặng đại sứ quán các nước và các cơ quan văn hóa Việt Nam ở nước ngoài. Tác phẩm này gây tiếng vang lớn và được tổ chức UNESCO khích lệ, hỗ trợ chuyên gia giúp củng cố hồ sơ di sản văn hóa thế giới. Hồ sơ hoàn thành năm 1974, được Bộ Ngoại giao cùng Bộ Thông tin VNCH xét duyệt và dự định chính thức gửi cho UNESCO vào năm 1975. Tuy nhiên vì sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 nên cuối cùng không thể thực hiện được.
Thời gian sau năm 1975, ông tham gia Đoàn ca nhạc Hương Miền Nam, nhận viết nhạc cho nhiều nguồn: viết nhạc phim, nhạc nền cho sân khấu… Ông làm việc cật lực bất kể ngày đêm để tạo cuộc sống tương đối cho gia đình. Ông tham gia viết nhạc phim mà nổi tiếng nhất là tác phẩm Như bầy sơn ca trong bộ phim thiếu nhi Sơn ca trong thành phố.
Một cô bạn của tôi kể mỗi khi nghe bản Lòng mẹ của Y Vân (1933-1992) là cô lại khóc khi nhớ đến người mẹ quá cố của mình. Tôi nghĩ nhiều người Việt khác hẳn cũng thế.
Theo Nguyên Minh (2015):
Năm 1959, ca khúc được xem là nổi tiếng nhất của ông, được nhà thơ Du Tử Lê gọi là “Quốc ca của tình mẫu tử”, Lòng mẹ, ra đời.
Lúc ấy Y Vân là nhạc công chơi đại hồ cầm (violoncelle) cho các nhà hàng ở Sài Gòn để kiếm tiền nuôi mẹ già và 2 em. Mỗi đêm khi ông đi chơi nhạc thì bà cụ ở nhà bê thau quần áo ra giặt ở máy nước công cộng.
Có một đêm, bà cụ giặt đến 2 giờ sáng thì bị cảnh sát bắt về bót vì tội… phá lệnh giới nghiêm. Đến sáng, nhạc sĩ về nhà, biết chuyện đã vừa khóc vừa viết: “Lòng mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa Thu. Tình mẹ yêu mến như làn gió đùa mặt hồ”. Sau đó, ông hát cho mẹ nghe, lần này thì bà vừa nghe vừa khóc.
Đó là câu chuyện do em trai của nhạc sĩ kể lại.
Lòng mẹ đưa Y Vân trở thành nhạc sĩ ăn khách và bài hát nổi tiếng đến mức sau đó, dù có thêm nhiều sáng tác mới, trẻ trung hơn và cũng rất hay nhưng người ta vẫn gắn kết Y Vân với ca khúc Lòng mẹ.
Bà Minh Lâm, vợ cố nhạc sĩ Y Vân tâm sự:
Anh ấy rất có hiếu với mẹ và thương yêu vợ con. Thời gian sau năm 1975, Y Vân tham gia Đoàn ca nhạc Hương Miền Nam, rồi nhận viết nhạc cho nhiều nguồn: phối nhạc cho Saigon Audio, viết nhạc phim, nhạc nền cho sân khấu… Anh làm việc cật lực bất kể ngày đêm. Ban trưa, nhìn anh xoay trần viết nhạc dưới mái tôn thấp nóng hầm hập, thấy thương vô cùng. Trời thương, nên giai đoạn đó anh được “đặt hàng” dồn dập, có thể nói là “ăn nên, làm ra”, nhờ đó mà gia đình chúng tôi xây lại được căn nhà tạm gọi là ngăn nắp, nhưng anh làm ra cho mẹ con chúng tôi hưởng, bởi chỉ một năm sau thì anh mất (28/11/1992). Dạo ấy, đứng trước quan tài của anh, mẹ chồng tôi không hề khóc một tiếng. Có lẽ tất cả nước mắt để khóc thương con, bà cụ đã âm thầm nuốt ngược vào trong. Chúng tôi nghe bà cụ nói: “Người đời thường bảo: Con ‘đi’ trước mẹ là bất hiếu, nhưng mẹ chẳng trách con đâu bởi con đã làm tròn chữ hiếu ngay từ lúc viết xong bài Lòng mẹ…”
+ Video trình diễn sống, Nguyễn Thành Viên:
https://www.youtube.com/watch?v=sPzc-YXD0sA
+ Video trình diễn sống, Phương Mỹ Chi:
https://www.youtube.com/watch?v=uKOkX36ojoQ
+ Video trình diễn sống, Ngọc Giàu - Văn Minh, trong chương trình “Tuyệt đỉnh song ca nhí”:
https://www.youtube.com/watch?v=DxSEZbQng5Q
Ly rượu mừng – Phạm Đình Chương
Ly rượu mừng, do nhạc sĩ Phạm Đình Chương sáng tác năm 1952, là một trong những sáng tác nổi tiếng nhất của ông. Được viết với tiết điệu valse, ca khúc này có âm điệu tươi vui mà dịu dàng như một lời chúc Tết tốt đẹp nhất theo truyền thống dân tộc, tới mọi người được hạnh phúc ấm no trong cảnh đất nước thanh bình tự do. Ca khúc đem lại nét vui tươi sống động trong mùa xuân. Giai điệu valse và tiết tấu có nhiều khía cạnh linh hoạt theo nội dung, rất thích hợp cho hợp ca hoặc phối hợp giữa hợp ca và đơn ca.
Nguyễn Hoàng Linh (2016) đánh giá:
Chỉ trong một vài câu ngắn gọn, lời chúc lành đầu xuân được vang lên với nhiều giai tầng trong xã hội, và ở những đoạn tiếp tới, tác giả không quên một ai. Ca khúc chỉ hàm chứa một chữ “xuân” ở câu mở đầu, và tất cả phần sau chỉ toàn những lời chúc và mong mỏi, cho con người và cho quê hương. Đặc biệt, cả bài hát không hề có những biểu tượng hay hình ảnh ngày Tết thường gặp trong mọi ca khúc về ngày tết.
Trong Ly rượu mừng, không hề thấy tả quang cảnh ngày tết với hoa đào, hoa mai, tràng pháo tết. hay bánh chưng xanh như lệ thường. Không có gì gợi nhớ hình ảnh “cành hoa tim tím bé xinh xinh báo xuân nồng”, “nhìn xác pháo bên thềm”, hay cảnh phố phường đông đúc với những cặp nam nữ tay trong tay “khăn san bay lả lơi trên hai vai” như của Đoàn Chuẩn trong Gửi người em gái miền Nam sáng tác sau đó vài năm.
Ra đời trong bối cảnh chiến tranh và được hát lên liên tục trong hơn hai thập niên sau đó, khi cuộc chiến Việt Nam ngày một leo thang, lòng người ly tán, Ly rượu mừng không chỉ cất lời chúc đầu năm, mà còn thổ lộ những nguyện cầu thiêng liêng và sâu thẳm, cho một nước Việt không còn cảnh tang thương, để người mẹ già “từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa” sớm thấy lại được “bước con về hòa nỗi yêu thương”.
Mùa xuân 1975, Ly rượu mừng có mặt chính thức lần cuối cùng tại quê hương Việt Nam trong cuộn băng tuyển chọn các ca khúc đặc sắc về xuân, phát hành thường niên do cơ sở băng đĩa của nhạc sĩ Ngọc Chánh tuyển chọn. Để rồi, như đại đa số các tác phẩm của giới văn nghệ sĩ miền Nam, bài hát có một giấc ngủ dài bốn thập niên, trong khi nó vẫn được thầm thì trên khóe môi nhiều người khi xuân về.
Những ai còn sở hữu hoặc có dịp nghe Ly rượu mừng trong bản thu âm dạo ấy, còn nhớ nó chính là nhạc phẩm mở đầu cuốn băng với phần trình diễn của Ban Hợp ca Thăng Long, trước những âm giai còn đọng lại trong ký ức nhiều người: tiếng pháo nổ tại phòng trà Đêm Mầu Hồng; tiếng trống của đội lân Nhân Nghĩa Đường Chợ Lớn; tiếng đại hồng chung của Viện Hóa đạo; tiếng chuông Nhà thờ Đức Bà…
Ở miền Nam Việt Nam trước 1975, bài hát này luôn được nghe trong dịp Tết.
Sau năm 1975, nhà nước Việt Nam thống nhất không cho phép phổ biến bài hát này. Nhà báo Nguyên Minh cho biết chính việc nhắc tới người lính, qua ngôn từ “đời lính”, “binh sĩ” mà bài hát này đã không được phép trình diễn suốt 40 năm. “Chính yếu tố người lính làm bài hát không được hát trở lại. Người lính là người lính nào?”, ông chia sẻ.
Ông Nguyên Minh cũng cho biết, sau này khi Phương Nam Phim muốn thu âm Ly rượu mừng, họ phải cùng gia đình tìm lại tất cả tư liệu cũ liên quan đến ca khúc này. Rất may, trong những tư liệu cũ kỹ, gia đình tìm thấy bản ghi chép, qua đó có thể xác định ca khúc được sáng tác khoảng thời gian 1951-1953. Tư liệu cũng cho thấy đó là ca khúc mà Phạm Đình Chương viết về người lính chống Pháp. Trên cơ sở đó, hồi đầu năm 2016 Cục Nghệ thuật Biểu diễn cấp phép cho ca khúc Ly rượu mừng. “Đó là bài hát về người lính chống Pháp. Bài hát cuối cùng đã được giải oan”, ông Minh nói (Ngữ Yên, 2017).
Theo Wikipedia - Ly rượu mừng, chỉ sau khi bài hát được phép trình diễn trở lại, đồng loạt nổi lên một số nhận xét tích cực - thậm chí tung hô - mà trước đó không ai dám cất tiếng:
TS Nguyễn Thị Minh Thái: “Ly rượu mừng là ly rượu quá xứng đáng để tiễn một năm cũ đi”.
Báo mạng Công an Tp HCM: “Ca khúc với âm điệu rộn ràng, tươi vui như một thông điệp, một lời chúc tết tốt đẹp nhất theo truyền thống dân tộc, tới mọi thành phần, lứa tuổi trong xã hội.”
Báo Tuổi Trẻ: “Trong Ly rượu mừng không chỉ có mùa xuân, tình xuân, mà còn có cả khao khát từ ngàn đời”.
Nhạc sĩ Tuấn Khanh (2017) nhận xét:
Như một giấc ngủ dài đến mức quên thức dậy, bất chợt một ngày, người ta hay tin bài hát Ly rượu mừng đã không còn bị cấm nữa. Chuyện được nghe, được hát Ly rượu mừng chỉ như điều thoảng qua tai, mà lý do cấm hay không còn cấm đều mơ hồ như nhau. Vì bởi không cần việc nhà cầm quyền cho phép, những con người Việt Nam vẫn hát và vẫn lắng nghe nó từ Nam chí Bắc, thản nhiên, từ rất lâu rồi.
Trên các trang báo nhà nước, người ta dễ dàng tìm thấy trong lúc này các bài viết tung hô việc thôi cấm đoán bài hát Ly rượu mừng, với cách nói như là một sự “giải oan”. Ở nơi đâu đó, nhạc sĩ Phạm Đình Chương và những tiền nhân ắt hẳn đã nhìn nhau bật cười, “oan gì mà giải”?…
Trong câu chuyện về bài hát Ly rượu mừng, thật buồn cười khi nhìn lại cách thức của chế độ kiểm duyệt văn hóa được kiểm soát kiên trì ở Việt Nam từ bao nhiêu năm nay. Những người có trách nhiệm luôn luôn giỏi trong các vai diễn lố bịch của mình: khi cấm thì cao giọng với đủ lý do quan trọng tầm ruồng, nhưng khi ngừng cấm thì cũng giỏi trình diễn sự nhân đạo hay cao cả vô nghĩa nào đó.
Video trình diễn sống, Đăng Nguyên - Quốc Vinh - Ngọc Hà - Anh Vũ - Quốc Tĩnh - Nhật Linh - Thu Uyên - Thu Phương, với hòa âm phối khí xuất sắc của Đặng Tiến Đạt, phần trình diễn tươi vui thanh thoát nhưng không nhốn nháo và ồn ào như cách trình bày nhiều ca khúc Tết khác, bởi vì tôi nghĩ dù là những ngày Tết cũng nên có khoảnh khắc trầm lắng:
https://www.youtube.com/watch?v=Yq94voxGQM0
Video trình diễn sống, Ngọc Khuê, Bảo Trâm - nhóm Dòng thời gian, trong chương trình “Giai điệu Tự hào” tháng 12/2016 trên VTV1, với phần giới thiệu về Ban Hợp ca Thăng Long, có ca từ, sau 40 năm bài hát bị cấm ở Việt Nam:
https://www.youtube.com/watch?v=RukRuacrn-M
MV, Đức Tuấn (Official MV), với hòa âm nhạc đệm mới lạ của Ignace Lai (tức Lại Vũ Hán Dương) và dàn dựng công phu tạo ý nghĩa sâu lắng:
https://www.youtube.com/watch?v=NeOxvybING8
+ Video trình diễn sống, Trọng Khương và Vũ đoàn Chuông Gió, trong chương trình “Người kể chuyện tình 2019”, với tiết điệu, hòa âm nhạc đệm và dàn dựng mới lạ, tạo cảm nhận thú vị và cuốn hút:
https://www.youtube.com/watch?v=E0lYhLjjd2c
MV, Tuấn Khương & Hoàng Nghĩa, cung cách và dàn dựng đơn giản nhưng cuốn hút, riêng kỹ thuật ghi âm cần tốt hơn:
https://www.youtube.com/watch?v=ijxMjsJmlRA
Mộng dưới hoa – Đinh Hùng - Phạm Đình Chương
Nguyễn Đình Cường (2001) kể về bối cảnh ra đời của ca khúc Mộng dưới hoa:
Khi tôi [Nguyễn Đình Cường] hỏi về trường hợp sáng tác bản Mộng dưới hoa thì ông [Phạm Đình Chương] cho hay là khoảng năm 1957 gì đó, ông đọc tập thơ Đường vào tình sử của Đinh Hùng, thấy bài Tự tình dưới hoa hay hay, có nhiều hình ảnh đẹp, lời thơ có vẻ cổ điển ước lệ với mỹ nhân, với trăng sao, mây nước, suối rừng, mơ mộng v,v…, ông bèn âm ư nho nhỏ trong miệng, rồi bật ra thành những nốt nhạc đầu tiên, và ông ghi lại trên giấy.
Khi phần nhạc đã hoàn chỉnh thì chỉ có một số lời thơ được giữ nguyên văn, ngoài ra chính ông và thi sĩ Đinh Hùng gọt giũa lại rất nhiều. Đến phần điệp khúc, thì cấu trúc của bản nhạc lại thay đổi, không thể dùng 7 chữ được vì chỉ có 6 nốt, nên ông yêu cầu Đinh Hùng đặt lời mới cho đoạn đó. Dĩ nhiên công việc này không quá khó khăn với nhà thơ và cũng có phần đóng góp của chính Phạm Đình Chương. Từ đó hai đoạn điệp khúc 6 chữ được lồng vào giữa bài hát, một cách rất khéo léo, tự nhiên và nhất quán, nghĩa là vẫn giữ được không khí rất lãng mạn và cổ điển của bài thơ.
Nhớ lại hồi còn ở trong nước, mỗi lần từ Đà Lạt về Sài Gòn, vợ chồng tôi đều đến phòng trà Đêm Màu Hồng để nghe ban Thăng Long trình diễn. Thỉnh thoảng chúng tôi được nghe chính tác giả bài hát này. Đặc biệt mỗi lần hát đến câu “Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại” thì ông ngừng lại ngang xương khiến ban nhạc lỡ bộ, rồi nói: “Lả bóng, các bạn ạ, đừng hát là bóng, mất đẹp của câu thơ đi.” Nói xong, ông lại say sưa và mơ màng hát tiếp, ban nhạc lại ngoan ngoãn đệm theo.
Có thể nói bài hát Mộng dưới hoa là một hòa hợp tuyệt vời giữa thơ và nhạc của hai người bạn và cũng là hai thiên tài về thi ca và âm nhạc của chúng ta. Đây cũng là một trong những bản tình ca tuyệt đẹp của nền tân nhạc Viêt Nam. Tuy nhiên trong tuyển tập 20 bài thơ phổ nhạc nhan đề Mộng dưới hoa xuất bản năm 1991 tại Orange County, Phạm Đình Chương lại ghi chú tên bài thơ là Dưới hoa thiên lý. Có thể nhạc sĩ đã nhớ lầm chăng?
Bài thơ: Tự tình dưới hoa - Đinh Hùng (1961)
Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng:
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng
Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay
Ôi mộng nào hơn giấc mộng này?
Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ
Nửa như hoài vọng, nửa như say
Em đến như mây, chẳng đợi kỳ
Hương ngàn gió núi động hàng mi
Tâm tư khép mở đôi tà áo
Hò hẹn lâu rồi - Em nói đi!
Em muốn đôi ta mộng chốn nào?
Ước nguyền đã có gác trăng sao
Truyện tâm tình: dưới hoa thiên lý
Còn lối bâng khuâng: ngõ trúc đào
Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ
Nắng trong hoa, với gió bên hồ
Dành riêng em đấy khi tình tự
Ta sẽ đi về những cảnh xưa
Rồi buổi ưu sầu em với tôi
Nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời
Vai kề một mái thơ phong nguyệt
Hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười
Bài thơ: Xuôi dòng mộng ảo - Đinh Hùng (1961)
Chim hồng về khu rừng cũ
Xuân ấy hai lòng mới yêu
Cùng hoa, bướm trắng sang nhiều
Nắng thơm những chiều tình tự
Xin em ngồi trên nhung cỏ
Nghe suối ca vui nhịp nhàng
Anh ru cho hồn em ngủ
Bằng điệu ca sang dịu dàng
Chim xanh về khu rừng cũ
Hè tới, hai lòng còn yêu
Cỏ thơm mọc đã cao nhiều
Cành mộng bao nhiêu hoa đỏ
Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh rong vàng bên suối
Lá đỏ rơi trong rừng cũ
Thu về, hai lòng còn yêu
Đường tình trải một làn rêu
Ngơ ngẩn hồn chiều tư lự
Em có lên sườn núi biếc
Nhặt cánh hoa mơ gài đầu
Này đôi nai vàng xa nhau
Có tiếng gọi sầu thảm thiết
Chim buồn xa khu rừng cũ
Đồi núi trập trùng cỏ rêu
Hai lòng nay đã thôi yêu
Có tiếng suối chiều nức nở
Em không nghe mùa thu hết?
Em không xem nắng thu tàn?
Trời ơi! Giọt lệ này tan
Là lúc linh hồn anh chết!
Video âm thanh, Duy Trác:
https://www.youtube.com/watch?v=Aksu0BAmsIQ
Video âm thanh, Elvis Phương:
https://www.youtube.com/watch?v=5l5-VuRuRZw
Video trình diễn sống, Trương Minh Quốc Thái - Dương Cẩm Lynh:
https://www.youtube.com/watch?v=UJy5U95yGI4
Mộng lành - Hoàng Trọng
Theo Wikipedia - Hoàng Trọng
Hoàng Trọng tên thật là Hoàng Trung Trọng (1922-1998), người Hải Dương, được mệnh danh là Vua Tango của nền tân nhạc Việt Nam.
Hoàng Trọng bắt đầu học nhạc từ năm 1933 qua người anh trai là Hoàng Trung Quý. Từ năm 1937, Hoàng Trọng học nhạc tại trường Thầy Dòng Saint Thomas Nam Định. Đến năm 1941, ông tiếp tục nghiên cứu âm nhạc qua sách vở và học hàm thụ từ một trường ở Paris. Cũng thời gian ở Nam Định, khoảng 1940 Hoàng Trọng có mở một lớp dạy nhạc.
Năm 15 tuổi, Hoàng Trọng cùng các anh em trong gia đình Hoàng Trung An, Hoàng Trung Vinh và một số bạn bè như Đan Thọ, Đặng Thế Phong, Bùi Công Kỳ… lập một ban nhạc, gần như chỉ để giải trí.
Hoàng Trọng và Ban Tiếng Tơ Đồng
Hoàng Trọng có sáng tác đầu tay Đêm trăng được viết năm 1938, khi ông mới 16 tuổi. Một số bản nhạc tiếp theo của ông được Phạm Duy trình bày trên sân khấu của gánh hát Đức Huy, trong đó có Tiếng đàn tôi, một trong những bản Tango đầu tiên của Việt Nam. Một bản nhạc tiền chiến nổi tiếng khác của Hoàng Trọng thời gian đó là Một thuở yêu đàn.
Khoảng thời gian ở Sài Gòn, Hoàng Trọng sáng tác rất mạnh. Trong khoảng 200 nhạc phẩm của Hoàng Trọng, ông chỉ tự đặt lời khoảng 40 bài. Số còn lại được sự giúp đỡ của nhiều nhạc sĩ khác như Hồ Đình Phương, Hoàng Dương, Nguyễn Túc, Quách Đàm, Vĩnh Phúc… Trong giới nhạc sĩ Việt Nam, Hoàng Trọng viết tango nhiều và được xem như người thành công nhất với danh hiệu Vua Tango.
Sau 1975, Hoàng Trọng chỉ sáng tác một vài ca khúc và không phổ biến.
Một ca khúc của Hoàng Trọng được biết nhiều nhất là Bạn lòng, Bên bờ đại dương, Chiều tha hương (thơ Quách Đàm), Dừng bước giang hồ (lời Quang Khải), Gió mùa xuân tới, Lạnh lùng, Mộng đẹp ngày xanh, Mộng lành, Ngàn thu áo tím,
Tôi nghĩ Hoàng Trọng đã có ý viết Mộng lành theo điệu tango thì người trình diễn không nên biến tấu thành điệu khác. Tôi giới thiệu hai phiên bản dưới đây được trình bày theo điệu tango.
+ Video âm thanh, Loan Châu:
https://www.youtube.com/watch?v=PPtXmbHkf1s
Video âm thanh, Ngọc Hạ:
https://www.youtube.com/watch?v=i_0Z3xfScjs
Một lần nào cho tôi gặp lại em – Vũ Thành An
Nhạc sĩ Vũ Thành An cho biết: “Mỗi khi nghe một ca sĩ hát bài của mình, tôi rất hồi hộp và buồn đến nỗi không muốn nghe nữa. Nếu bạn vào trang http://www.vuthanhan.com - nơi tôi đăng nhạc và lời ca khúc, rồi nghe các bài phổ biến trên mạng hiện nay, sẽ thấy rất ít bài đúng với nguyên bản. Có tới hơn 90% ca khúc của tôi bị hát sai lời”.
Ông dẫn ca khúc Một lần nào cho tôi gặp lại em, chữ “em” đã bị đổi thành “anh” để rồi sau đó mâu thuẫn với “Mái tóc mây bay giờ còn không?/ Tiếng nói thơ ngây giờ còn không?/ Anh có vui không?/ Hai má còn hồng?”. “Anh” mà “hai má còn hồng”. Thế mà ca sĩ vẫn hát được.
Video âm thanh, Quang Dũng:
https://www.youtube.com/watch?v=I_bemmNgyug
Video trình diễn sống, Trần Thái Hòa:
https://www.youtube.com/watch?v=mtlWtJnlAwY
Một mình – Thanh Tùng
Thanh Tùng, tên đầy đủ Nguyễn Thanh Tùng (1948-2016) là một nhạc sĩ Việt Nam với nhiều ca khúc nhạc trẻ được yêu thích. Trong giai đoạn 1971-1975, ông chỉ huy dàn nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam II. Sau 1975, Thanh Tùng về sống tại Tp HCM và là người có công xây dựng Dàn nhạc nhẹ Đài Truyền hình Tp HCM và khai sinh nhóm hợp ca Những làn sóng nhỏ.
Thanh Tùng, những ngày cuối đời, 
trên xe lăn sau cơn đột quỵ
Theo Hà Thu (2016)
Trong số nhiều sáng tác làm nên tên tuổi nhạc sĩ Thanh Tùng (1948-2016), Một mình là ca khúc mang đậm dấu ấn “cái tôi” trữ tình của ông nhất, được nhạc sĩ sáng tác từ chính hoàn cảnh của mình. Khi vợ qua đời năm nhạc sĩ Thanh Tùng 40 tuổi, ông ở vậy nuôi ba người con - hai trai và một gái. Thương vợ, thương mình, thương con, nhạc sĩ sáng tác ca khúc Một mình.
Một mình là khúc ca dạt dào thương nhớ của một trái tim đơn côi đã trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc sống… Một mình giống như tiếng nấc nghẹn ngào, chan chứa nhớ thương mà nhạc sĩ Thanh Tùng dành cho người vợ quá cố. Hình ảnh trong âm nhạc của Thanh Tùng chân thật và đẹp giản dị. Mạch cảm xúc dào dạt thấm nhuần trong từng câu chữ nên dù nhạc sĩ chỉ liệt kê ra một vài hình ảnh mang tính chất ước lệ về người vợ: vội vàng trong nắng trưa, giọt mồ hôi tóc mai, bóng em gầy, và có phần trách mình khi người vợ ngày xưa hay hỏi tan ca bố có đón đưa?… nhưng từ đó, người nghe có thể nhận thấy tình cảm sâu nặng mà ông dành cho vợ.
Ông nói về cuộc sống một mình: “Không còn cảm giác cô đơn nữa dù người ngoài nhìn vào thấy tôi một mình. Tôi có gia đình hạnh phúc, có đông bạn bè. Trong thân phận của mình, tôi tìm được sự lý giải về tình yêu cuộc sống, tình yêu lứa đôi. Chưa chắc hai người ở cạnh nhau đã có hạnh phúc, đã hết cô đơn. Nhưng nếu cuộc sống chỉ có một người và người này vẫn nhớ về người kia, vẫn cảm thấy người kia luôn hiện diện, thì sẽ không cảm thấy cô đơn”.
Tâm tình của nhạc sĩ là thế và cái hồn của ca khúc là thế: xuất phát từ một người đàn ông trung niên nhớ thương người vợ, nhưng không hiểu sao một số nữ ca sĩ lại hát bài này! Khi nghe câu như: Vắng em đời còn ai với ai, ngất ngây men rượu say, thì tôi khó đồng cảm với tiếng hát cho dù tôi thích nữ ca sĩ ấy đến đâu. Thế nên ở đây tôi chỉ chọn nam ca sĩ.
Video âm thanh, Trọng Tấn:
https://www.youtube.com/watch?v=Yv8fRRUajOI
Video âm thanh, Nguyên Khang:
https://www.youtube.com/watch?v=Xfl4kqaA7R8
+ Video trình diễn sống, Lê Hoàng Hiệp, giọng hát và phối khí nhạc đệm đơn giản nhưng thật thích hợp với bài hát:
https://www.youtube.com/watch?v=ASWNmA3hOn0
Video trình diễn sống, Tùng Dương:
https://www.youtube.com/watch?v=kVGroGa8wDk
Một thuở yêu đàn – Hoàng Trọng
Một lần cùng đám bạn đi hát karaoke, bỗng dưng không cầu mà được, cô quản lý hát tặng bọn tôi ca khúc Một thuở yêu đàn, giọng hát giống như Họa Mi thu âm dưới đây. Từ lâu đã không nghe, bỗng ca từ mang tôi trở về quá khứ Ngày nào say đắm với cung đàn, Ngày nào hai đứa…
Hiện diện trong phòng karaoke thương mại tức là ca khúc Một thuở yêu đàn đã lan tỏa rồi.
Video âm thanh, Lệ Thu, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=u_sl4HuITfs
Video âm thanh, TNP&BP, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=TUKm-gYE8nk
* Video trình diễn sống, Vân Khánh:
https://www.youtube.com/watch?v=wcIE-tBrnjo
Mơ khúc tương phùng – Lam Minh
Thêm một ca khúc vui tươi hiếm hoi theo điệu paso-doble.
Video trình diễn sống, Nhóm Lạc Việt:
https://www.youtube.com/watch?v=Af9Sb6WN68Y
Mùa đông của anh – Trần Thiện Thanh
Tôi nhận thấy có thể thay đổi ca từ của ca khúc này tùy theo tiếng hát nữ hay nam. Ví dụ như hai câu đầu của ca khúc có thể được hát như sau:
Nam đơn ca: Ngày nào anh yêu em, anh đã quên trong cay đắng tuyệt vời/ Ngày nào em yêu anh, em hẳn quên với trời hạnh phúc mới. Em ơi đông lại về (Hẳn là ca từ gốc, vì do Nhật Trường hát)
Nữ đơn ca: Ngày nào em yêu anh, em đã quen trong cay đắng tuyệt vời/ Ngày nào anh yêu em, anh hẳn quên với trời hạnh phúc mới. Anh ơi đông lại về (Lệ Quyên, Nguyễn Thị Thu Hằng)
Nam song ca: Ngày nào anh yêu em, anh đã quen trong cay đắng tuyệt vời (Bằng Kiều, Lê Hiếu, Huy Tâm, Thế Sơn)
Nữ song ca: Ngày nào em yêu anh, em hẳn/đã quên với trời hạnh phúc mới (Minh Tuyết, Thy Dung, Ngọc Lan, Hương Giang)
Nam song ca: Em ơi đông lại về (Bằng Kiều, Lê Hiếu, Huy Tâm, Thế Sơn)
Tôi nghĩ thay đổi như trên là khôn khéo, vì tâm tình trong ca khúc dễ đi vào lòng người. Tuy nhiên, vẫn có những biến thể khác. Lại có trường hợp tiếng hát nữ cất lên Em ơi đông lại về, thế thì cô muốn nói với em nào?
Video âm thanh, Thế Sơn - Hương Giang:
https://www.youtube.com/watch?v=QBJKV0A8mDg
Video trình diễn sống, Mai Tiến Dũng:
https://www.youtube.com/watch?v=pHUPyR6Z0Ds
Video trình diễn sống, Nguyễn Thị Thu Hằng:
https://www.youtube.com/watch?v=rc2LbAvr8Jg
Mùa thu không trở lại – Phạm Trọng Cầu
Theo Hà Đình Nguyên (2011b)
Phạm Trọng Cầu (1935-1998) sinh tại Phnom Penh (Campuchia) khi cha anh là trắc địa sư Phạm Văn Lạng, vốn gốc Hà Nội, đang làm việc tại đây (thời Pháp thuộc, những công chức có thể được điều chuyển khắp Đông Dương: Việt Nam, Campuchia, Lào). Măm 1943, cha ông đưa gia đình về Sài Gòn và mẹ của anh (bà Đào Thị Ngọc Thư) mở một nhà hàng ca nhạc mang tên Aristo. Tại đây, Phạm Trọng Cầu được tiếp xúc với những ban nhạc Philippines và một số nhạc sĩ, ca sĩ nổi tiếng trong nước. Anh cũng bắt đầu học chơi đàn mandoline…
Năm 1953, Phạm Trọng Cầu thi vào trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn, và chàng trai 18 tuổi, nhớ về thời thơ ấu cắp sách sáng tác ca khúc Trường làng tôi. Tốt nghiệp xong, đến năm 1962 Phạm Trọng Cầu lại thi vào Nhạc viện Paris (Conservatoire Supérieur de Musique de Paris).
Tại Paris, anh viết 12 ca khúc, trong đó có Mùa thu không trở lại. Với ca khúc này, Phạm Trọng Cầu tâm sự:
Dạo ở Paris, mình gặp và yêu một cô gái Việt Nam có mái tóc đen dài, đôi mắt buồn vời vợi. Tình yêu đang độ trăng rằm thì nàng phải về nước và không bao giờ trở lại Paris nữa. Chúng tôi chia tay vào mùa thu - khung cảnh mùa thu ở Châu Âu rất đẹp, nhưng nếu phải chia ly trong một cái nền như vậy thì nó lại trở nên thật tê tái.
Đối với tôi… là một mối tình xa xưa thời còn trai trẻ. Gặp nàng vào mùa xuân, mùa hạ tình nồng cháy và mùa thu nàng ra đi. Hôm tiễn nàng ra sân bay, tôi trở về nhà phải đi ngang qua khu vườn Luxembourg. Khu vườn đó, khi đi ngang, tôi chợt nhận ra mùa thu, vì chân mình đá rất nhiều lá vàng, trong tôi tự nhiên vang một giai điệu Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại… Dù là mùa thu ở Paris rất đẹp, nhưng mà từ mùa thu đó, với tôi, mùa thu không bao giờ trở lại nữa, chỉ có thế thôi.
Video âm thanh, Vũ Khanh:
https://www.youtube.com/watch?v=E1TFRV_HN_w
Video âm thanh, Trọng Tấn:
https://www.youtube.com/watch?v=Jk9KXL9ysHE
Video trình diễn sống, Đặng Thành Thiện:
https://www.youtube.com/watch?v=kNb2DC8hEFY
Mùa thu mây ngàn – Từ Công Phụng
Những năm cuối thập niên 1960s và đầu thập niên 1970s, có ba đôi song ca thường ca hát không thu tiền, và những người đến nghe họ hát là sinh viên và học sinh túi tiền thường rất nhẹ. Chỉ có một đàn guitar, một hệ thống âm thanh đơn giản, một phòng học với sẵn ghế ngồi, hoặc sân cỏ trường Văn khoa Sài Gòn (bây giờ là Thư viện Quốc gia). Trịnh Công Sơn đàn cho anh và Khánh Ly hát về thân phận con người trong cuộc chiến, Phương đàn cho anh và Lê Uyên hát về lứa đôi, riêng Từ Công Phụng đàn cho anh và Từ Dung hát những bản tình ca.
Từ Công Phụng (1943- ) sinh tại Ninh Thuận, viết nhạc từ thập niên 60 thế kỷ trước. Năm 18 tuổi, khi còn là học sinh trung học, Từ Công Phụng đã sáng tác ca khúc nổi tiếng Bây giờ tháng mấy. Tiếp theo đó là những tác phẩm nổi tiếng khác như Giọt lệ cho ngàn sau, Mắt lệ cho người, Mùa xuân trên đỉnh bình yên, Mùa thu mây ngàn.
Niên học 1967-1968, Từ Công Phụng vào học năm thứ nhất Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (bây giờ là Đại học Nông Lâm) Tp HCM. Trong khi đám sinh viên lo miệt mài học tập kẻo cuối năm thi rớt bị bắt lính thì người ta thường thấy anh chàng Từ Công Phụng tà tà lái chiếc La Dalat chở Từ Dung chạy đây đó trong thành phố, và tổ chức những đêm diễn miễn phí như nêu ở trên. Giọng anh trầm ấm, giọng Từ Dung thanh thoát, cả hai hợp thành một đôi song ca được yêu mến, hát dìu dặt những bài tình ca ngọt ngào do họ Từ sáng tác.
Mùa Thu mây ngàn là một trong những bản tình ca biểu trưng của Từ Công Phụng.
Video âm thanh, Phi Khanh:
https://www.youtube.com/watch?v=h-GyNZ_oZhY
Video âm thanh, Thái Hiền - Tuấn Ngọc:
https://www.youtube.com/watch?v=tLiyMwaCKsQ
* Video âm thanh, Phạm Thu Hà:
https://www.youtube.com/watch?v=G-NQfmQqHUU
Mùa xuân đầu tiên – Tuấn Khanh
Dòng Nhạc Xưa (2014) kể về bối cảnh ra đời của bài hát Mùa xuân đầu tiên của Tuấn Khanh:
Nhạc phẩm của Tuấn Khanh viết trước 1975 nên chất chứa nhiều niềm hy vọng về một ngày quê hương thôi tiếng súng, nền hòa bình thật sự đến với dân tộc Việt.
Cũng giống như bản Tình ca của Phạm Duy và Tình ca của Hoàng Việt, vượt lên trên sự khác biệt về thời gian và không gian cùng quan điểm chính trị (sau hiệp định Geneva 1954 Tuấn Khanh vào Nam còn Văn Cao vẫn ở lại miền Bắc; rồi sau 1975 thì Văn Cao ở lại Việt Nam còn Tuấn Khanh định cư tại Hoa Kỳ), cả hai bản Mùa xuân đầu tiên đều chuyển tải một thông điệp mang tính nhân văn: xin yêu thương đến với hận thù để từ nay người biết yêu người.
+ Video trình diễn sống, Như Quỳnh - Thế Sơn, trong chương trình “Paris by night”:
https://www.youtube.com/watch?v=ktqCUUylCic
+ Video trình diễn sống, Tố My - Quốc Đại:
https://www.youtube.com/watch?v=7oqhRozqrZU
* Video trình diễn sống, Phương Anh (Official MV), với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=k9LXeQFUmNI
Mùa xuân đầu tiên – Văn Cao
Dương Minh Đức (2014) kể về bối cảnh ra đời của ca khúc Mùa xuân đầu tiên do Văn Cao viết.
Trong một bài viết in báo cách đây khá lâu, họa sĩ, nhà thơ Văn Thao - con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể lại quá trình phụ thân mình sáng tác nên ca khúc Mùa xuân đầu tiên: Vào một ngày giáp Tết Bính Thìn (1976), từ trung tâm chỉnh hình trên Ba Vì trở về nhà (108 Yết Kiêu, Hà Nội), vừa leo lên thang gác, Văn Thao chợt nghe vọng ra tiếng đàn dương cầm. Đó là một điệu valse với giai điệu mượt mà sâu lắng mà ông chưa bao giờ được nghe. Ông bước vào nhà. Một cảnh hết sức ấn tượng hiện ra trước mắt ông: “Văn Cao ngồi bên đàn. Đôi bàn tay khô gầy của ông đang lướt trên những phím đàn ố vàng, loang lổ. Tiếng đàn ấm áp, ngọt ngào âm vang đầy ắp căn phòng”…
Cũng theo ông Văn Thao cho biết thì phụ thân của ông đã hoàn tất ca khúc Mùa xuân đầu tiên đúng dịp Tết Bính Thìn. Ca khúc sau đó được in trên Báo Sài Gòn giải phóng. Và, không hiểu bằng cách nào, cũng trong năm ấy, ca khúc được dịch lời và in ở Nga. Tưởng như vậy là nhanh, kỳ thực phải tới nhiều năm sau, Mùa xuân đầu tiên mới được dàn dựng và phát sóng.
Theo cách cắt nghĩa của một số nhà nghiên cứu âm nhạc thì sở dĩ có thời kỳ, Mùa xuân đầu tiên không được giới quản lý cho phép phổ biến, ngoài những định kiến về Văn Cao trong quá khứ còn vì trong ca khúc, họ lấn cấn bởi những câu sau: Từ đây người biết quê người/ Từ đây người biết thương người/ từ đây người biết yêu người. Nghe mà thấy mơ hồ, rắc rối quá. Thì có một thời người ta cảnh giác, săm soi, bắt bẻ từng câu từng chữ như vậy mà.
Đây là nguyên văn ca từ của bài hát:
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
Một trưa nắng vui cho bao tâm hồn …
Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên
Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm …
Trở lại với câu chuyện, vì mấy câu ca từ kêu gọi tình thương một cách “chung chung, thiếu tính giai cấp” ấy mà mất một thời gian, bài hát không được phổ cập đúng với giá trị đích thực của nó.
Hồ Bất Khuất (2013) cho biết thêm:
Ngày đó người ta vẫn quen nghĩ về Văn Cao như một người có liên quan đến “Vụ án văn nghệ Nhân văn Giai phẩm” nên những sáng tác của ông không được công diễn. Vì vậy viết xong Mùa xuân đầu tiên, Văn Cao buộc phải cất cẩn thận nó trong chiếc tủ cũ và chấp nhận thời gian dần dà phủ bụi…
Mãi đến mùa thu 1983, sinh nhật 60 tuổi của Văn Cao được tổ chức tại căn gác nhà 51 Trần Hưng Đạo - Hà Nội. Lần đầu tiên sau nhiều năm, những tác phẩm Thiên thai, Suối mơ, Trương Chi… mới được hát trở lại.
Từ mùa xuân năm 1988, những “Đêm nhạc Văn Cao” được tổ chức trang trọng ở nhiều nơi, công chúng được thưởng thức nhiều tác phẩm thuộc loại đỉnh cao trong dòng âm nhạc hiện đại của Việt Nam, nhưng Mùa xuân đầu tiên vẫn chưa được hát. Quả là đây là một tác phẩm rất “cao số” của Văn Cao.
Mãi tới mùa thu 1993, trong đêm nhạc “Văn Cao - một đồng hành tuổi trẻ”, nhân kỷ niệm Văn Cao 70 tuổi, Mùa xuân đầu tiên mới được nữ ca sĩ Minh Hoa thể hiện. Rồi trong video ca nhạc “Văn Cao - Giấc mơ một đời người”, Mùa xuân đầu tiên cũng được vang lên qua trình diễn của ca sĩ Thanh Thúy. Nhưng dẫu sao đây cũng chỉ mới là những nỗ lực của một vài ca sĩ chưa có tiếng vang vào lúc bấy giờ. Do vậy Mùa xuân đầu tiên vẫn chưa được cả nước biết đến một cách rộng rãi.
Như là một định mệnh, mãi cho đến khi Văn Cao tạ thế (10/7/1995), Mùa xuân đầu tiên của ông mới được dàn dựng công phu, được trình diễn ở những sân khấu hoành tráng, được đưa lên sóng phát thanh, truyền hình. Đến lúc này Mùa xuân đầu tiên của Văn Cao mới thực sự “đóng đinh” vào đời sống âm nhạc Việt Nam.
Video âm thanh, Thanh Thúy, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=Elb7_aKr4Aw
+ Video âm thanh, Năm Dòng Kẻ:
https://www.youtube.com/watch?v=hvCq1Gdot18
* Video trình diễn sống, Phương Anh (Official MV), với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=OiCOOSpWJPk
Mưa – Văn Phụng - Văn Khôi
Tôi cho rằng đây là một trong những ca khúc về mưa hay nhất của nền âm nhạc Việt Nam.
+ Bản thu âm, Đoan Trang, với ca từ, đúng là cung điệu của Văn Phụng, tiếng guitar như tiếng mưa tí tách:
https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/mua-doan-trang.2ukxuFfnAl.html
+ Video âm thanh, Lưu Bích: giọng hát dễ thấm vào lòng người, nhạc đệm hay một cách khác lạ:
https://www.youtube.com/watch?v=dFgN3wTcxG0
Video âm thanh, Quỳnh Lan, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=9Mnwu2wVFjQ
Mưa hồng – Trịnh Công Sơn
Theo một số nguồn, ca khúc Mưa hồng được cho là gắn liền với mối tình giữa Trịnh Công Sơn và một phụ nữ tên Ngô Vũ Dao Ánh. Theo chia sẻ của bà Trịnh Vĩnh Trinh - em gái của Trịnh Công Sơn - thì Dao Ánh là “người gốc Bắc, đẹp, cao, duyên dáng, sang trọng và tính tình rất dịu dàng. Chị không thích ồn ào, không thích đám đông và sống nội tâm, kín đáo, rất hợp với anh Sơn”.
Theo nhiều tư liệu, ban đầu Trịnh Công Sơn quen thân với Ngô Vũ Bích Diễm, chị của Dao Ánh. Trong mối quan hệ với Bích Diễm, nhà nhạc sĩ dường như chưa kịp nói lời yêu, mà chỉ thổ lộ tình cảm qua những ca khúc tặng Bích Diễm, còn Bích Diễm cũng không dám đáp lại tình cảm của ông. Mối tình ấy đẹp trong thầm kín. Với Bích Diễm, nhạc sĩ họ Trịnh có tuyệt tác Diễm xưa: “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ, dài tay em mấy thuở mắt xanh xao…”
Ngay từ khi còn nhỏ, Dao Ánh đã ngưỡng mộ và yêu quý Trịnh Công Sơn. Chính vì thế, khi biết chị Bích Diễm chia tay Trịnh Công Sơn, Dao Ánh viết thư cho ông để nói lên tình cảm thân thương đồng thời cùng ông chia sẻ những tâm tư u buồn. Lúc đó, Dao Ánh 15 tuổi còn Trịnh Công Sơn 24 tuổi. Họ thư từ qua lại liên tục trong suốt 3 năm và phải đến gần Tết Trung Thu năm 1966, khi ấy Dao Ánh 18 tuổi, Trịnh Công Sơn mới nói lời yêu. Khi yêu nhau, Dao Ánh đang là nữ sinh của trường Đồng Khánh còn Trịnh Công Sơn vừa mới tốt nghiệp trường Sư phạm Quy Nhơn và đang giảng dạy tại thành phố B’lao (nay là Bảo Lộc - Lâm Đồng).
Cuộc tình giữa hai người kéo dài gần 4 năm (1964-1967), rồi đi vào kết cục buồn, khi Trịnh Công Sơn luôn hoài nghi về một cái kết hạnh phúc cho cả hai, và ông chủ động chia tay với Dao Ánh. Sau này, qua những bức thư Trịnh Công Sơn để lại, người ta tin rằng ông quyết định chia tay Dao Ánh vì biết mình không thể cho Dao Ánh cái bà muốn: một mái ấm gia đình.
Sau đó bà Dao Ánh sang Mỹ và lập gia đình. Mãi đến năm 1993, bà về Việt Nam và hai người tái ngộ, các bức ảnh đều cho thấy ông rất vui. Sau lần về Việt Nam này, bà đã ly dị chồng.
Dao Ánh và Trịnh Công Sơn trong một lần tái ngộ
Cái tên Dao Ánh tuy không được nói ra nhưng được ngầm hiểu là nguyên mẫu trong ca khúc Mưa hồng, và còn nữa: Còn tuổi nào cho em, Lời buồn thánh, Ru em từng ngón xuân nồng… Riêng bản thảo ca khúc Xin trả nợ người có dòng bút ký của Trịnh Công Sơn “Viết cho Ánh”.
Những lời cuối cùng của Trịnh Công Sơn vẫn là viết cho Dao Ánh. Ngày đó (2001), ông nằm trên giường bệnh, không thể cầm bút được, nên phải đọc cho một người bạn viết giùm và gửi qua e-mail.
+ Video âm thanh, Lê Hiếu, Nguyễn Công Phương Nam (piano), Tuan Trinh Production, cả tiếng hát và tiếng đàn đều tuyệt vời:
https://www.youtube.com/watch?v=ZOEAlz0XzlQ
+ MV, Tuấn Mạnh (piano) - Lê Bá Đảng Memory Space 21/4/2019, sự hòa quyện lạ lùng giữa nhạc Trịnh và nhạc cổ điển tạo nhiều sảng khoái:
https://www.youtube.com/watch?v=fC7sNqc54-M
Video âm thanh, Trọng Tấn - Nhạc Trịnh [Audio]:
https://www.youtube.com/watch?v=03NagmNsRj0
Video trình diễn sống, Uyên Phương, kênh POPS Music:
https://www.youtube.com/watch?v=PgOsy1HRxjA
Mười năm tình cũ – Trần Quảng Nam
Theo Nguyễn Thụy Kha (2017), Trần Quảng Nam (1955- ) quê cha ở Hải Dương, quê mẹ ở Quảng Yên. Khi gia đình vào Nam thì sinh anh ở Quảng Nam. Bởi thế mới có cái tên Trần Quảng Nam. Anh tìm sách dạy nhạc mày mò tự học. Anh có thể viết cho dàn nhạc phần phối hoặc các tiểu phẩm không lời. Ngay trong ca khúc, ngôn ngữ âm nhạc của anh cũng hướng về kinh viện, kén người nghe.
Theo tác giả tự thuật (Hà Đình Nguyên, 2011a):
Trước năm 1975, tôi học Đại học Văn khoa (Anh văn) và Tri Hành (điện ảnh). Lúc đó, tôi yêu một cô gái mang hai dòng máu Việt-Pháp tên là Isabel Hạnh. Đầu năm 1975, tôi đi du học ở Mỹ, còn cô ấy hồi hương về Pháp năm 1976. Những năm đầu mới đến Mỹ, cô ấy có bay sang gặp tôi nhưng do tôi còn đi học, chưa có công việc ổn định nên cũng không “hứa hẹn” gì. Sau dịp đó, cô ấy về Pháp. Bẵng đi ít lâu, khi trao đổi qua điện thoại, tôi nghĩ cô ấy đã có người khác.
Từ đó chúng tôi không gặp lại… Một ngày của năm 1985, ngồi giở lại chồng ảnh cũ, bỗng nhiên tôi thấy lại những bức hình của Isabel Hạnh. Ảnh còn đây mà người đã biệt vô âm tín. Cảm xúc dâng trào, trong đầu tôi bỗng bật ra câu: Mười năm không gặp ngỡ tình đã cũ… Trước đây, những ca khúc của tôi mang phong cách bán cổ điển nên khó có người hát và ít được biết tới.
Ca khúc Mười năm tình cũ được viết nghe dễ hát, bạn bè khuyến khích “Được đấy!” Có nhiều người nói bài nhạc này nghe “sến”. Với tôi, ca khúc này chưa đạt tiêu chuẩn của nhạc “sến”, nhưng phần nào tôi cũng hãnh diện khi được “Nữ hoàng nhạc sến” Thanh Tuyền và “Hoàng đế nhạc sến” Chế Linh ghi âm vào những album của họ. Còn người có công đưa bài hát này đến công chúng lại là ca sĩ Lệ Thu, người thâu băng đầu tiên sau khi tôi sáng tác 1 năm (1986). Bây giờ thì nhiều người hát bản này quá, không thể nhớ hết…”
Bản thu âm, Lệ Thu, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/muoi-nam-tinh-cu-le-thu-soxKGQ4
+ Video trình diễn sống, Elvis Phương:
https://www.youtube.com/watch?v=eE13dfLhhbQ
+ Video trình diễn sống, Erik - Minh Dũng, trong chương trình “Cặp đôi hoàn hảo”:
https://www.youtube.com/watch?v=tCwyBwCBjJg
Nắng chiều – Lê Trọng Nguyễn
Lê Trọng Nguyễn
Lê Trọng Nguyễn (1926-2004) sinh tại Điện Bàn, Quảng Nam, mất tại Rosemead, Mỹ. Ông họ Lê, tên Trọng, riêng nghệ danh Nguyễn là họ của mẹ. Lê Trọng Nguyễn là một nhạc sĩ thuộc thời kỳ đầu của nền tân nhạc Việt Nam.
Có lẽ cơ duyên để ông đến với âm nhạc là do có một thời kỳ (1942-1945) ông sống ở Hà Nội và làm bạn với nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. Sau này, ông học hàm thụ Trường École Universelle (Pháp) và trở thành hội viên Hội Nhạc sĩ Pháp SACEM (La Société des auteurs, compositeurs et éditeurs de musique). Ông sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều có giá trị nghệ thuật cao, giai điệu và ca từ trau chuốt, hình ảnh đẹp như tranh: Chiều bên giáo đường, Lá rơi bên thềm, Sóng Đà giang, Sao đêm…
Tuy nhiên, nói đến Lê Trọng Nguyễn là người ta nghĩ ngay đến ca khúc Nắng chiều. Bài hát viết theo điệu rumba, giai điệu rộn rã phối hợp giữa ngũ cung và thất cung, lời ca đầy hình ảnh, màu sắc.
Hà Đình Nguyên (2013) cho biết nhiều chi tiết về bối cảnh của ca khúc Nắng chiều.
Chất “bột” để “gột nên hồ” đầu tiên cho Nắng chiều là trong thời kỳ Nhật đảo chính Pháp (1945), có một gia đình công chức Nam triều từ Quy Nhơn chạy ra tá túc ở Hội An, gần nhà của Lê Trọng Nguyễn. Gia đình này chỉ có duy nhất cô con gái đang tuổi xuân thì. Tình yêu giữa đôi bạn trẻ chớm nở, đẹp và mong manh như cánh hoa trong thời ly loạn. Chỉ ít lâu sau, gia đình nàng lại rời bỏ Hội An.
Một thời gian sau, Lê Trọng Nguyễn cũng bỏ Hội An ra Huế. Ở đây anh có người bạn thân Vũ Đức Duy, anh này là cháu họ bà Từ Cung (thân mẫu vua Bảo Đại). Anh bạn này thường rủ Lê Trọng Nguyễn đến thăm bà Từ Cung ở cung An Định (cung này không nằm trong thành nội mà ở sát bờ sông An Cựu) vừa ngắm cảnh. Chính từ những chuyến đi chơi này mà Lê Trọng Nguyễn gặp được “chất bột” thứ hai: nàng thiếu nữ họ Hoàng, hoa khôi của đất thần kinh. Một chiều ngồi bên hồ sen, bất chợt cô gái ấy đi qua. Bóng dáng thướt tha ấy ngược sáng trong ánh tà dương. Nhìn cô này, bất giác Nguyễn… nhớ cô kia quá đỗi! Thế là bật lên tứ nhạc: “Nhớ sao là nhớ bóng người ngày xưa.”
Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, Lê Trọng Nguyễn đã viết xong Nắng chiều (1952). Ở Huế, Lê Trọng Nguyễn còn chơi thân với nhóm bạn văn nghệ (Minh Trang, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Hiền, Kim Tước…) nên khi bản Nắng chiều được xuất bản, chính Minh Trang là người hát và thu âm đầu tiên. Bản thu âm được phát thường xuyên trên hai đài phát thanh Huế và Sài Gòn từ năm 1953 trở về sau khiến Nắng chiều lan tỏa khắp Trung - Nam.
Theo Văn Bảy (2011), vài cơ sở chuyên in tập nhạc trước 1975 như Tinh hoa (Huế), Tinh hoa miền Nam (Sài Gòn), An Phú (Sài Gòn)… tái bản nhạc Lê Trọng Nguyễn rất nhiều lần, mỗi lần in 3.000 bản. Riêng ca khúc Nắng chiều thì được in vài chục lần, tổng số bản in lên đến cả trăm ngàn bản. Ca khúc này cũng liên tục được yêu cầu phát trên một số đài phát thanh tại Huế, Sài Gòn từ 1953 trở về sau.
Theo Wikipedia - Nắng chiều, bản dịch tiếng Hoa về nội dung nhìn chung vẫn giữ ý chính của bài:
我又來到昔日海邊,海風依舊吹皺海面
那樣熟悉那樣依戀,只有舊日人兒不見
(Tôi về thăm lại bến nước xưa, gió biển như năm cũ, thổi lộng vào mặt,
bóng dáng cũ vẫn in đậm trong tâm trí tôi, nhưng người xưa thì không thấy nữa).
Bài hát là nguồn cảm hứng cho bộ phim cùng tên của đạo diễn Lê Mộng Hoàng năm 1971.
Năm 1994, đạo diễn người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng làm phim Xích lô đưa bài hát này vào làm nền cho một đoạn tình tiết không lời thoại, bài hát được hát bằng giọng Quảng Nam do hai người lính cụt chân thể hiện trong quán ăn.
Bài hát chất chứa nỗi hoài niệm bâng khuâng đến mức “tim tái tê” của một người đàn ông đối với một cô gái thuộc về quá khứ, thế mà một số nữ ca sĩ lại hát với nét mặt tươi tắn, nở nụ cười tươi như hoa, xem ra chưa thấm vào cái hồn của Lưu Trọng Nguyễn, nên tôi thấy cảm nhận khó quá!
Video âm thanh, lời Hoa, tên 南海情歌, phiên âm Xieleinanhai, có nghĩa “Bài hát Biển Đông”, với ca từ Hoa ngữ:
https://www.youtube.com/watch?v=f2yZoBeQjR4
Video âm thanh, lời Hoa, tên 越南情歌, có nghĩa “Bản tình ca Việt”:
https://www.youtube.com/watch?v=QG_mp9slz90
Nắng có còn xuân – Đức Trí
Đức Trí tên đầy đủ là Trương Đức Trí (1973- ), là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên từng tu nghiệp chính quy ngành Biên soạn và Sản xuất Âm nhạc đương đại tại trường nhạc danh tiếng Berklee College of Music ở Boston, Hoa Kỳ. Ông Đức Trí nổi tiếng ở lĩnh vực hòa âm phối khí, có nhiều sáng tác trẻ được yêu thích. Ông được Phạm Duy mời làm hòa âm cho một số ca khúc được trình diễn năm 2006, trong đêm nhạc đầu tiên của Phạm Duy sau khi về nước.
Theo Wikipedia - Ðức Trí,
Đức Trí hay viết về chủ đề tình yêu, những vẻ đẹp không trọn vẹn, những giấc mơ… có giai điệu nhẹ nhàng, nồng nàn, dễ nhớ, không dùng nhiều kỹ thuật. Là một nhạc sĩ đắt khách trên thị trường nhưng bản thân anh lại là một người không bao giờ nhận đơn đặt hàng.
Ở Ðức Trí có sự hội tụ của 3 dòng nhạc: dân tộc - cổ ðiển - hiện ðại. Anh chia sẻ: Các nốt Ðô, Re, Mi, Fa, Son, La, Si và các chữ Hò, Xự, Xang, Xê, Cống có thể hòa nhập thành một thể thống nhất mà vẫn không mất đi nét riêng của từng thành tố. Sự kết hợp chúng lại với nhau sẽ tạo ra cấu trúc âm nhạc mới mẻ đầy sức thuyết phục.
Tốt nghiệp nhạc viện khoa Lý luận phê bình nhưng Đức Trí cương quyết không viết một bài nào liên quan đến phê bình, chỉ đi về nghiên cứu lý luận vì theo anh làm phê bình phải có lập trường và chính kiến, mà điều ấy các nhà sáng tác ở mình không ưa, đã không ưa thì họ không để mình sống vui vẻ thoải mái.
Giáo sư Trần Văn Khê từng nhận xét: “Ðức Trí là một trong số ít nhạc sĩ trẻ có duyên với âm nhạc dân tộc mà triển vọng sẽ còn tiến xa trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân gian.”
Nắng có còn xuân là một trong những ca khúc xuân được yêu thích nhất của nhạc sĩ Đức Trí, mang âm điệu dân ca Bắc bộ.
+ Video trình diễn sống, Lệ Quyên:
https://www.youtube.com/watch?v=gllidWlhrAc
Nắng lên xóm nghèo – Phạm Thế Mỹ
Theo Wikipedia - Phạm Thế Mỹ
Phạm Thế Mỹ (1930/1932? - 2009) người Bình Định, là tác giả một số tình ca và bài ca về tình tự quê hương. Anh của ông là nhà văn Phạm Văn Ký và nhà văn Phạm Hổ. Năm 16 tuổi (chỉ 2 năm sau khi biết chơi guitar), ông nhận giải thưởng Phạm Văn Đồng về âm nhạc. Giám khảo lúc bấy giờ là nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu.
Đầu thập niên 1950, ông làm công tác tuyên huấn và làm phóng viên cho báo Quân đội Nhân dân. Nhạc phẩm đầu tay của ông là Nắng lên xóm nghèo.
Sau hiệp định Genève, ông được bố trí ở lại Miền Nam. Năm 1959, ông học trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Từ 1959 đến 1970 ông dạy Việt văn và âm nhạc tại các trường trung học tư thục Bồ đề, Tây Hồ, Sao Mai, Bán Công, Nguyễn Công Trứ, Tân Thanh… ở Đà Nẵng. Trong những năm 1965-1966, ông sáng tác bài nhạc bất hủ Bông hồng cài áo, lấy ý từ thơ Thích Nhất Hạnh). Từ năm 1970 đến 1975, ông là trưởng phòng Văn-Mỹ-Nghệ của Viện Đại học Vạn Hạnh.
Sau năm 1975, ông bắt đầu sáng tác những bài hát thuộc thể loại nhạc đỏ.
Những ca khúc của Phạm Thế Mỹ được biết đến nhiều nhất là tình ca: Người yêu và con chim sâu, Những ngày xưa thân ái, Thuyền hoa, Trăng tàn trên hè phố; bài ca về tình tự quê hương: Đường về hai thôn, Hoa vẫn nở trên đường quê hương, Lúa về đêm trăng, Nắng lên xóm nghèo, Thương quá Việt Nam…
Video trình diễn sống, Kim Thoa:
https://www.youtube.com/watch?v=Qus50yQ8P1g
Video trình diễn sống, Tố My, trong chương trình “Tình Bolero”:
https://www.youtube.com/watch?v=yX8qImRZQxQ
Nếu có yêu tôi – Ngô Tịnh Yên -Trần Duy Đức
Ngô Tịnh Yên
Nhà thơ Ngô Tịnh Yên (1963-) tên thật là Ngô Thị Tuyết Trinh, nguyên quán Gia Định - Sài Gòn, làm thơ khá sớm, có nhiều tác phẩm ra đời trong thập niên 90.
Ngô Tịnh Yên (2016) kể lại:
Đó là một buổi chiều của hơn mười năm về trước, tôi nhận được điện thoại của nhạc sĩ Trần Duy Đức, hỏi: “Anh tình cờ đọc một bài viết của em trên tuần báo Mai, câu thơ mà em trích trong bài đó có nguyên bản không, đưa cho anh đi?” Anh đến nhà tôi lấy bài thơ, và ngay tối đó nghe anh gọi cho biết: “Trên đường lái xe về nhà anh đã phổ xong bài thơ rồi, em ạ!”
Anh cũng tâm tình rằng lúc đó anh đang gặp nhiều chuyện không vui trong đời sống, và bài thơ dường như đúng với tâm trạng của anh, nên thơ và nhạc bỗng “bén duyên” ngay lập tức. Lúc ấy cả hai anh em chúng tôi đều không nghĩ rằng, và cũng chẳng hề ao ước rằng… sau này nó lại được mọi người quan tâm nhiều như thế, lại phổ biến từ trong đến ngoài nước nhiều đến thế!
Từ đám cưới, đám tang, cho đến những bữa tiệc gia đình, họp mặt hội đoàn, v.v… ca khúc này vẫn vang lên hàng đêm ở các sân khấu, quán nhạc, và nhiều nhất vẫn là ở các chương trình gây quỹ từ thiện. Những lời của Nếu có yêu tôi đã không còn là của riêng ai, không chỉ là lời lẽ của những người yêu nhắn nhủ cho nhau, mà còn là của bằng hữu gởi đến nhau, lời của người già cô đơn nằm thoi thóp trong một viện dưỡng lão nào đó, lời của đứa bé bơ vơ không nơi nương tựa giữa chợ đời, lời của đáy vực tuyệt vọng, lời của đỉnh cao lạnh lẽo… Chỉ cần cất lên tiếng hát là thấy như mọi người đang yêu thương nhau, đang được nắm tay nhau, đang có nhau. Riêng tôi, phải nói là rất hạnh phúc khi có được sự “đồng cảm” trước hết là từ nhạc sĩ Trần Duy Đức, sau là từ những ai yêu mến ca khúc Nếu có yêu tôi.
Bài hát này trong mấy năm qua đã chiếm nhiều giải… nhất như: Gây “scandal” nhiều nhất, bị “hát chùa” nhiều nhất ở Việt Nam bởi những ca sĩ đang ăn khách, không được trả tiền tác quyền cũng… nhiều nhất, và nó “hit” đến nỗi có ít nhất hai ca khúc ở trong nước đã “chôm” cái tựa đề Nếu có yêu tôi để “ăn theo” sự nổi tiếng này…
Nhiều người cũng hỏi tôi rằng nguyên do từ đâu tôi viết nên bài thơ đó mà tựa đề vốn rất mỉa mai là Rộn ràng một nỗi đau (trở thành Nếu có yêu tôi  là do ca sĩ Khánh Ly đặt lại khi cô tập hát để ghi âm trong một CD mang tên này vào năm 2001). Đơn giản thôi, từ lúc còn ngồi trong ghế nhà trường, hầu như ai cũng được dạy câu danh ngôn của Lord Chesterfield là: “Đừng để đến ngày mai những việc gì bạn có thể làm hôm nay.”
Đó là một điều thật giản dị nhưng không phải ai cũng thực hiện được, và tôi là một trong số đó. Tôi vốn là người đại lãn với chủ trương việc gì cũng để ngày mai làm cũng chưa muộn. Nhưng thường thì luôn là… đã muộn rồi còn đâu! Cho nên trong nỗi muộn màng đó tôi lại nhớ đến câu danh ngôn này.
Thứ nữa, có một điều thực tế là… chẳng hiểu vì sao mà bạn bè anh em chúng tôi lại không có nhiều thời gian để thường xuyên chia sẻ vui buồn với nhau, mà cứ hay gặp gỡ nhau trong những cái… tang nghi quán. Nghịch lý là đưa tiễn người này mới gặp gỡ người kia. Cho nên bài thơ ra đời vào một trong những buổi chiều tôi mang tâm trạng bâng khuâng đó trở về từ nhà quàn Peek Family.
Từ tâm trạng đó của tôi, tác giả bài thơ, đến tâm trạng của nhạc sĩ Trần Duy Đức, người đưa những nốt nhạc vào bài thơ trong lúc chán ngán nhân tình thế thái, là chiếc cầu nối đưa tác phẩm vào lòng người thưởng ngoạn. Có ai đó vẫn thường xuyên hát lên những ca từ “Nếu có yêu tôi thì đến với tôi bây giờ… đừng đợi ngày mai đến lúc tôi qua đời” thì cũng chỉ là cái duyên hạnh ngộ của những người tri âm cùng mang tâm sự giống nhau trong đời sống ngắn ngủi này.
Bài thơ: Rộn ràng một nỗi đau - Ngô Tịnh Yên
Có tốt với tôi thì hãy tốt bây giờ
đừng đợi đến lúc tôi qua đời
đừng đợi đến khi tôi phải ra đi
và tất cả… thì đã muộn mất rồi
Có tha thứ cho tôi thì tha thứ bây giờ
đừng đợi đến lúc tôi nhắm mắt lại
đừng đợi đến khi tôi không còn hơi thở
tôi nói được lời xin lỗi với ai đây?
Có thương tôi thì hãy thương bây giờ
đừng đợi đến khi tôi nằm xuống bơ vơ
hồn phiêu dạt không nơi nương tựa
Có bao dung tôi thì bao dung bây giờ
đừng đợi đến lúc tôi xa lìa thế giới
đừng đến khi tôi thành mây thành khói
cát bụi làm sao có thể mỉm cười?
Có vui với tôi thì vui bây giờ
đừng đợi đến khi nuối tiếc ngày xưa
tôi muốn nói cám ơn… thì đã trễ!.

Trần Duy Đức
Nhạc sĩ Trần Duy Đức (1953- ) sinh tại Phú Nhuận, Sài Gòn. Những sáng tác nổi tiếng của ông là Nếu có yêu tôi, Trong tay Thánh Nữ có đời tôi, Khúc mưa sầu, Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời, Em hiểu vì đâu chim cọi nhau, Khúc tháng 9.
Năm 16 tuổi, ông bắt đầu soạn nhạc. Đam mê âm nhạc như thế, nhưng ở Việt Nam lại không có cơ hội học nhạc. Chỉ tới khi sang Hoa Kỳ, Trần Duy Đức mới ghi danh học các lớp sáng tác ca khúc tại Golden West College và Santa Ana College.
Trần Duy Đức nói có khi ông soạn ca khúc rất nhanh, như bản Nếu có yêu tôi chỉ mất khoảng 20 phút, nhưng cũng có ca khúc ông mất tới nhiều tháng, hay cả năm, vì làm dở dang rồi ngưng lại một thời gian.
Phần lớn các sáng tác của Trần Duy Đức được phổ từ thơ của các nhà thơ thành danh như Du Tử Lê, Mai Thảo, Nguyễn Dũng Tiến, Ngô Tịnh Yên….
Ca khúc Nếu có yêu tôi theo điệu swing tạo sự sảng khoái đồng thời khiến cho lòng người có đôi điều đọng lại.
+ Video trình diễn sống, Khánh Hà:
https://www.youtube.com/watch?v=36orSpGMsdA
Video âm thanh, Thế Sơn, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=q3jg-Q1jTsM
+ Video âm thanh, Elvis Phương - Nhạc Trữ Tình Hay 2017 - MV Audio:
https://www.youtube.com/watch?v=vN4AnqSeVq4
Ngàn thu áo tím – Hoàng Trọng
Được vinh danh là “Vua Tango” nhưng Hoàng Trọng để lại cho đời một bản valse tuyệt vời, được giới chuyên môn xem là bài hay nhất của Hoàng Trọng về điệu valse: Ngàn thu áo tím.
+ Video âm thanh, Thái Thanh:
https://www.youtube.com/watch?v=8PQFaF6HyvY
Video trình diễn sống, Ý Lan:
https://www.youtube.com/watch?v=_B3lnBWBXxY
+ Video trình diễn sống, Thiên Hương:
https://www.youtube.com/watch?v=O3YKqeBp-p0
Ngày xưa Hoàng Thị – Phạm Thiên Thư - Phạm Duy
Ngày xưa Hoàng Thị là tên một bài thơ được thi sĩ Phạm Thiên Thư sáng tác và nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc năm 1971 thành ca khúc cùng tên. Vào những năm đầu thập niên 70, bài Ngày xưa Hoàng thị trở thành một hiện tượng tại miền Nam Việt Nam.
Phạm Thiên Thư tên thật là Phạm Kim Long (1940- ), sinh tại Hải Phòng. Ông từng đi tu Phật giáo (1964) và hoàn tục (1973). Ông là một nhà thơ, được coi là “người thi hóa kinh Phật”.
Về bối cảnh ra đời  bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị, nhà thơ kể (theo Phạm Ngọc Lân):
Tôi tuổi Thìn (1940), còn cô ấy tuổi Ngọ (1942) cho nên được bố mẹ đặt luôn tên là Ngọ. Cách nhau 2 tuổi nhưng học cùng lớp đệ tam (lớp 10 bây giờ) ở trường Trung học Văn Lang (khu Tân Định). Ngọ có dáng người thanh mảnh với mái tóc dài thả ngang vai. Nhà tôi ở đường Trần Khát Chân, nhà Ngọ ở Trần Quang Khải, cũng cùng khu Tân Định nên đi về chung đường. Mỗi lần tan trường, cô ấy ôm cặp đi trước, tôi lẽo đẽo theo sau. Tóc Ngọ bay bay trên đôi vai gầy nhỏ nhắn. Có những hôm trời mưa lất phất, cô ấy đưa cặp lên che ngang đầu. Tôi thấy thương quá, muốn làm một cử chỉ gì đó như là để chở che nhưng… thở mạnh còn không dám, nói chi là… Năm 1964 tôi “trôi dạt” vào “ăn cơm chay” ở các chùa, rồi Đại học Vạn Hạnh… Cho dù đã nương thân vào cửa chùa nhưng mỗi lần đi ngang qua con đường cũ, hình ảnh cô học trò ôm cặp, tóc dài bay bay trong gió vẫn thấp thoáng đâu đây… Và rồi những tứ thơ tràn về…”
Bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị được viết vào khoảng 1968, mười năm sau những ngày tác giả theo cô bạn học Hoàng Thị Ngọ trên đường từ trường về nhà.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư còn xác nhận thêm (Mạc Lâm, 2009):
Bài Ngày xưa Hoàng Thị tôi viết trước khi đi tu. Khi tôi vào chùa rồi thì hình ảnh trên đường đi làm tôi nhớ lại kỷ niệm xưa. Nhớ lại hình ảnh của cô Ngọ, thời học trò ấy mà. Chẳng có tình yêu đâu, chỉ là học trò vui vui thôi. Đó là lý do tại sao tôi viết bài đó. Đó chỉ là những kỷ niệm dĩ vãng, mối tình thoảng nhẹ vu vơ của thời trai trẻ.
Bài thơ: Ngày xưa Hoàng Thị - Phạm Thiên Thư
em tan trường về
đường mưa nho nhỏ
chim non dấu mỏ
dưới cội hoa vàng
bước em thênh thang
áo tà nguyệt bạch
ôm nghiêng cặp sách
vai nhỏ tóc dài
anh đi theo hoài
gót giầy thầm lặng
đường chiều úa nắng
mưa nhẹ bâng khuâng
em tan trường về
cuối đường mây đỏ
anh tìm theo Ngọ
dáng lau lách buồn
tay nụ hoa thuôn
vương bờ tóc suối
tìm lời mở nói
lòng sao ngập ngừng
lòng sao rưng rưng
như trời mây ngợp
hôm sau vào lớp
nhìn em ngại ngần
em tan trường về
đường mưa nho nhỏ
trao vội chùm hoa
ép vào cuối vở
thương ơi vạn thuở
biết nói chi nguôi
em mỉm môi cười
anh mang nỗi nhớ
hè sang phượng nở
rồi chẳng gặp nhau
ôi! mối tình đầu
như đi trên cát
bước nhẹ mà sâu
mà cũng nhòa mau
tưởng đã phai mầu
đường chiều hoa cỏ
mười năm rồi Ngọ!
tình cờ qua đây
cây xưa vẫn gầy
phơi nghiêng ráng đỏ
áo em ngày nọ
phai nhạt mấy mầu?
chân tìm theo nhau
còn là vang vọng
đời như biển động
xoá dấu ngày qua
Về ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị, Phạm Duy chia sẻ:
Tôi quen anh Phạm Thiên Thu vào năm 1970-1971 gì đó, hai anh em gặp nhau và tôi rất mến anh Phạm Thiên Thu. Anh ấy đưa cho tôi nhiều thơ để tôi phổ nhạc và trong đó có bài Ngày xưa Hoàng Thị, nhưng khi tôi phổ nhạc thì nó không còn toàn vẹn như cũ mà tôi đã thay đổi một chút ca từ so với bài thơ gốc.
Tôi thích bài này vì sự giản dị của nó. Thời đó Sài Gòn có rất nhiều bài hát cho các anh chị thiếu nữ, thanh niên, nhưng thường người con gái trong bản nhạc có những cái tên rất kiều diễm như Thủy Ngọc, Thu Cúc…. toàn là tên các loài hoa, còn trong bài thơ này người con gái có một tên hết sức bình dị trùng tên mẹ vợ tôi là “Ngọ”.
Chính điều đó làm tôi thích lắm. Hồi đó văn nghệ chỉ nói về những người con gái đẹp ở thị thành mà thôi và ca khúc này thì nói về vẻ đẹp của những thiếu nữ thôn quê.
Theo bối cảnh của bài hát như Phạm Thiên Thư nói ở trên thì thiết nghĩ cách trình diễn ca khúc không nên thể hiện sự u buồn mà chỉ là một ít bâng khuâng, nếu không thể “vui vui” như nhà thơ nói. Trong cách nghĩ đó thì tôi cho rằng Đoan Trang thể hiện xuất sắc tâm tình trong bài hát.
+ Video trình diễn sống, Đoan Trang, giọng hát và âm nhạc tuyệt vời, múa minh họa thanh thoát:
https://www.youtube.com/watch?v=YUNczJQAxM4
Video âm thanh, Thái Thanh:
https://www.youtube.com/watch?v=V61zP2yOX8U
Video âm thanh, Đức Tuấn:
https://www.youtube.com/watch?v=eUNKPpDurBE
MV, Hoàng Kim, tiếng hát có giọng như gái Huế (?!) nên nghe là lạ hay hay, được nhạc sĩ Trúc Hồ gọi là “giọng ca của một thế hệ mới”:
https://www.youtube.com/watch?v=d4X-qU6pxEY
Ngăn cách – Y Vân
Theo Tuy Hòa (2018),
Có một khoảng thời gian không dài, Trần Tấn Hậu [tên thật của Y Vân] theo học nhạc với thầy Tạ Phước. Từ năm 17 tuổi, Trần Tấn Hậu đã đi chơi nhạc ở các tụ điểm giải trí ở Hà Nội để kiếm thêm tiền phụ giúp bố mẹ nuôi hai em nhỏ. Trần Tấn Hậu luôn nghĩ rằng mình sẽ giữ vai trò một nhạc công mãi mãi, nếu không có khúc quanh bất ngờ của số phận.
Đấy là một lần tình cờ, đang lang thang ở Hồ Gươm, Trần Tấn Hậu nhìn thấy một thiếu nữ mặc áo dài trắng ôm cặp bước về phố Tràng Thi. Tấm lưng thon, bờ vai nhỏ, mái tóc dài khiến trái tim mơ màng của chàng trai 19 tuổi xao xuyến. Trần Tấn Hậu chạy theo với ý định làm quen, nhưng không kịp. Trần Tấn Hậu chỉ kịp nhìn thấy khuôn mặt đẹp thoáng nét kiêu sa của cô gái trước khi được một chiếc xe hơi sang trọng đón đi.
Như bị tiếng sét ái tình, Trần Tấn Hậu cứ tơ tưởng đến cô gái xa lạ và quý phái kia. Ngày nào, Trần Tấn Hậu cũng đi bộ từ phố Tràng Tiền qua phố Tràng Thi với hy vọng gặp lại mỹ nhân trong mộng, nhưng vô vọng. Rồi một sự trớ trêu đem lại may mắn. Ban nhạc mà Trần Tấn Hậu đang là thành viên bị giải tán. Trần Tấn Hậu chưa biết xoay xở mưu sinh ra sao thì người bạn giới thiệu cho một mối dạy đàn. Trần Tấn Hậu rụt rè đến ngôi nhà khá nguy nga trên phố Hàng Bông để nhận việc gia sư âm nhạc.
Sau khi được phụ huynh trao đổi và thống nhất thù lao thì học trò xuất hiện. Trần Tấn Hậu giật thót rồi đứng ngây như pho tượng, khi nhận ra cô học trò chính là thiếu nữ từng có cơ duyên hạnh ngộ ở phố Tràng Thi. Cô gái tên Tường Vân bắt đầu học đàn với thầy Trần Tấn Hậu mà đâu hề biết hình ảnh mình hơn một lần đi về trong giấc mơ của người đang dạy nhạc.
Trần Tấn Hậu làm gia sư khoảng nửa năm thì chinh phục được học trò Tường Vân. Tình yêu của họ nhen nhóm rồi phát triển từng ngày. Đến khi Tường Vân công khai với gia đình về quan hệ tâm đầu ý hợp với thầy dạy nhạc, thì hợp đồng gia sư của Trần Tấn Hậu bị… chấm dứt.
Bố mẹ của Tường Vân kiên quyết chối từ con gái đi lại với Trần Tấn Hậu vì nghĩ dan díu nghệ sĩ nghèo chỉ khổ thân. Trần Tấn Hậu không còn điều kiện bước vào căn nhà trên phố Hàng Bông, nhưng Tường Vân vẫn không nguôi ngoai mối tình đầu. Những ngày hẹn hò lén lút tạo cho Trần Tấn Hậu cảm hứng sáng tác. Ca khúc đầu tay Trần Tấn Hậu viết tặng Tường Vân có tên gọi Tình ta nở giữa mùa đông được ký bút danh Y Vân. Vì sao lại là Y Vân? Đơn giản, Y Vân nghĩa là… yêu Vân!
Ca khúc Tình ta nở giữa mùa đông được Tường Vân mang về nhà và hát đôi lần thì… bố mẹ cô quyết định đưa cô sang Pháp du học. Từ đó, bản nhạc ca khúc Tình ta nở giữa mùa đông rời khỏi Hà Nội, rời khỏi Việt Nam, và hầu như không còn ai được dịp hát nữa.
Tuy nhiên, trong gia tài âm nhạc của Y Vân, hình ảnh Tường Vân thuở nào vẫn ghi đậm ký ức. Mối tình đầu không chỉ mang đến nghệ danh, mà còn góp cho Y Vân hai bản tình ca day dứt: Ngăn cách và Ảo ảnh. Ca khúc Ngăn cách được viết sau khi nhạc sĩ Y Vân nhận được tin Tường Vân đã lấy chồng môn đăng hộ đối.
+ Bản thu âm, Don Hồ - Lâm Thúy Vân, với ca từ:
https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/ngan-cach-y-van-don-ho-ft-lam-thuy-van.pML_vUjQB2.html
+ Video trình diễn sống, Thu Hằng trong chương trình “Chân dung cuộc tình”:
https://www.youtube.com/watch?v=gMGO_N6Dfj8
Ngậm ngùi – Huy Cận - Phạm Duy
Huy Cận và Phạm Duy
Phạm Duy phổ nhạc nguyên vẹn bài thơ Ngậm ngùi - Huy Cận (1940), tức ca từ và bài thơ giống nhau.
Tôi vẫn mong sẽ đừng có nữ ca sĩ nào hát ca khúc này nữa. Hãy để một anh nào đó truyền tải ý tình của nhà thơ và nhạc sĩ để ru hồn người nghe qua tiếng hát Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây… Tay anh em hãy tựa đầu…
Bản thu âm, Tuấn Ngọc, với ca từ:
https://nhac.vn/bai-hat/ngam-ngui-tuan-ngoc-sob08W7
Video âm thanh, Vũ Khanh, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=XWsWeVWLRVg
Video âm thanh, Quang Dũng:
https://www.youtube.com/watch?v=rfxJWwgwNaI
Nghìn trùng xa cách - Phạm Duy
Theo Văn Khoa (2016)
Phạm Duy sáng tác Nghìn trùng xa cách sau khi “mối tình đồng trinh duy nhất” với người đẹp Tây lai Alice từ tạ ông để đi lấy chồng sau Tết Mậu Thân (1968).
Phạm Duy bước chân vào lĩnh vực ca nhạc khi ở lứa tuổi thanh niên, anh là ca sĩ chuyên hát nhạc của Văn Cao trong gánh hát Đức Huy–Charlot Miều đi lưu diễn từ Bắc chí Nam. Năm 1944, gánh hát Đức Huy–Charlot Miều dừng chân Phan Thiết. Với ca khúc Buồn tàn thu của Văn Cao, nam ca sĩ Phạm Duy lọt vào mắt xanh Hélène, người góa phụ mang hai dòng máu Việt Anh. Nàng sống ở đồn điền Suối Kiết cách Phan Thiết không xa, với mẹ già và hai người con là Alice (gái) và Roger (trai). Hélène đẹp, sung mãn và từng trải. Phạm Duy như bị “hớp hồn” trước vẻ đẹp “Tây lai” của Hélène. Hai người quấn quýt, đắm say. Họ yêu nhau như chưa bao giờ được yêu. Cuộc tình chóng vánh, tan biến vào hư vô. Chàng và nàng chia tay, mỗi người, mỗi ngả. Phạm Duy tiếp tục bước chân phiêu lãng, giang hồ.
Mười năm sau. Hélène và Phạm Duy bất ngờ gặp nhau giữa Sài Gòn hoa lệ. Cố nhân xưa giờ đã có gia đình. Hélène mời Phạm Duy về nhà mình. Phạm Duy ngỡ ngàng khi nhìn thấy Alice (tên Việt là Lệ Lan). Cô bé bây giờ là một thiếu nữ, giống mẹ như đúc, đẹp rạng ngời như thiên thần. Dường như ông “chao đảo” và mất hồn ngay từ ánh mắt đầu tiên của Alice. Người Sài Gòn ngày ấy có thú vui dã ngoại. Cuối tuần, Phạm Duy lái xe hơi đến đón Alice đi chơi vùng ngoại ô. Trong những lúc đó, “chú Phạm Duy” trở thành người bạn tri kỷ để Alice kể chuyện, những tâm sự ngây ngô của một cô gái chớm tuổi dậy thì. Alice mê âm nhạc, thi ca. Nàng rất thích những ca khúc Tình ca, Tình hoài hương, Tình kỹ nữ, Bên cầu biên giới… của Phạm Duy. Một chiều mùa thu 1957, Phạm Duy chính thức tỏ tình với Alice và được nàng ban cho một cái “ừ” lặng lẽ.
Phạm Duy kể, lúc đó ông quyết định, mối tình này cũng phải cao thượng như cuộc tình giữa ông và Hélène. Đã gần 10 năm vì quá mê mải soạn nhạc tình tự quê hương, ông không soạn một bản nhạc tình nào cả. Phạm Duy không ngờ trong một thời gian ngắn lại gặp được tình yêu. Ông không lẩn tránh, dù biết không giữ được nó suốt đời. Cuộc tình khởi sự bằng bài Thương tình ca (1956). Là một nghệ sĩ, Phạm Duy cần tình yêu để sáng tác, giống như con người cần khí trời để thở. Nhưng vì chênh lệch tuổi tác, không muốn làm phiền những người chung quanh, một lần nữa, ông cố gắng tránh mọi đụng chạm về xác thịt, để rồi hãnh diện mà nói rằng, nàng vẫn là một trinh nữ khi rời xa tôi để lên xe hoa về nhà chồng. Trong hơn 10 năm (1956-1968), nhạc tình của Phạm Duy đều là những bài viết cho nàng như Ngày đó chúng mình, Đừng xa nhau, Cỏ hồng, Nha Trang ngày về… Là một người rất yêu thơ, trước khi xa nhau, nàng đã viết tới 300 bài thơ để tặng Phạm Duy. Một vài bài thơ của Alice sau này được Phạm Duy phổ thành những tình khúc.
Sau Tết Mậu Thân (1968), Alice từ tạ Phạm Duy để lấy chồng. Sau này, Phạm Duy nhớ lại: “Qua một lá thư viết bằng bút chì, nàng giã từ tôi, không buồn rầu nuối tiếc, không ân hận xót xa. Xong rồi, mối tình của tôi phải chấm dứt ở đây rồi. Tôi soạn bài Nghìn trùng xa cách, coi như lời tiễn biệt người yêu”.
Những ngày thương nhau, Alice tặng Phạm Duy một vạt tóc nâu được cắt ra từ mái tóc rất đẹp của nàng cùng với cánh hoa ép nhân kỷ niệm sinh nhật của ông. Bởi thế, khi xa nhau, Phạm Duy thương xót:
… Vài cánh xương hoa nằm ép trong thơ
Rồi sẽ tan như bụi mờ
Vạt tóc nâu khô còn chút thơm tho
Thả gió bay đi mịt mù…
Ca khúc Nghìn trùng xa cách được xem là một trong những tình khúc hay nhất về cuộc tình giữa Phạm Duy và Alice, đỉnh cao của nhạc tình Phạm Duy.
Video âm thanh, Khánh Hà:
https://www.youtube.com/watch?v=OG0rgvg1-eA
Video trình diễn sống, Thu Phương trong chương trình Paris By Night 103 Tình sử trong âm nhạc Việt Nam:
https://www.youtube.com/watch?v=TPtkRTmtyNw
Video trình diễn sống, Mỹ Hạnh, trong đêm nhạc “Ngày trở về” (2006), với lời giới thiệu của Phạm Duy:
https://www.youtube.com/watch?v=V3-CDmkR_R8
Người đi qua đời tôi – Trần Dạ Từ - Phạm Đình Chương
Cùng với ca khúc Nửa hồn thương đau, đây cũng được xem là tâm trạng của Phạm Đình Chương sau khi đổ vỡ hôn nhân.
Thi sĩ Trần Dạ Từ, tên thật là Lê Hạ Vĩnh (1940-), sinh tại Hải Dương, làm thơ và viết báo, trở thành một thi sĩ được yêu thích trong giới văn nghệ miền Nam. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với thi sĩ Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Ở Hoa Kỳ, cùng với vợ là nhà văn Nhã Ca, ông xuất bản tờ Việt Báo.
Bài thơ: Bài thơ cũ của nàng -  Trần Dạ Từ
Người đi qua đời tôi
Trong những chiều đông sầu
Mưa mù lên mấy vai
Gió mù lên mấy trời
Mây mù lên mấy biển
Người đi qua đời tôi
Hồn lưng mùa rét mướt
Đường bay đầy lá mùa
Vàng xưa đầy dấu chân
Lòng vắng như ngày tháng
Đen tối vùng lãng quên
Người đi qua đời tôi
Chiều ầm vang tiếng sóng
Bàn tay mềm khói sương
Tiếng hát nào hơ nóng
Người đi qua đời tôi
Nghe những lời linh hồn
Phi lao dài tiếng ru
Êm ái lòng hối tiếc
Trên lối về nghĩa trang
Trong mộ phần tối đen
Người đi qua đời tôi
Không nhớ gì sao người
Em đi qua đời anh
Không nhớ gì sao em!
* Video âm thanh, Quang Tuấn, với ca từ:
https://www.youtube.com/watch?v=w6H-E8hHkgk
Video âm thanh, Trần Thái Hòa:
https://www.youtube.com/watch?v=TWCBJnkCFD4
+ Video trình diễn sống, Duy Thành, có vẻ như lột tả được tâm trạng của Phạm Đình Chương trong ca khúc:
https://www.youtube.com/watch?v=AM8A0dbNFHc
Người ở đừng về – Quan họ Bắc Ninh
Người ở đừng về - cũng được gọi Người ơi người ở đừng về - là tên một bài hát dân ca Quan họ Bắc Ninh do Xuân Tứ cải biên từ bài Quan họ cổ Chuông vàng gác cửa tam quan và bài hát được phát triển từ một bài thơ dân gian. Bài hát thường được cất lên vào lúc hội tàn, khi “giã bạn”, có thể do bên liền anh hoặc liền chị hát. Bài hát nghe da diết, khẩn khoản như muốn níu kéo người nghe ở lại. Tình cảm của người hát với người nghe không chỉ thể hiện ở một câu hát, câu gọi mà thể hiện cả trong những câu dặn dò. Đến khi biết được rằng không thể níu kéo được, thì câu hát chuyển sang dặn người đi phải cẩn thận “sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” và còn dặn với một câu khiêm nhường rằng, nếu gặp ai hơn thì kết còn ai bằng thì hãy đợi người hát. Trong mỗi đoạn hát đều có phần mở và kết chốt lại với câu “Người ơi! Người ở đừng về”.
Về sau, bài hát trở thành phổ cập, vượt ra khỏi các cuộc hát quan họ và được sử dụng khi kết thúc các buổi họp mặt, đón tiếp quan khách… như là một cách tỏ lộ sự quyến luyến khi giã từ và chúc khách lên đường bình an.
Video trình diễn sống, trong chương trình Táo quân 2019:
https://www.youtube.com/watch?v=pFkS6-esClY
Nhạt nắng – Xuân Lôi - Y Vân
Tôi cho rằng đây là một trong những ca khúc sâu lắng nhất về tình tự quê hương. Ca từ mộc mạc mà cảm động.
Xuân Lôi
Theo Trần Quang Hải
Nhạc sĩ Xuân Lôi, tên thật là Phạm Xuân Lôi (1917-2006), người Hà Nội, khi còn nhỏ, đã nắm vững kỹ thuật nhạc khí Tàu và thông thuộc bài bản Tàu.
Năm 10 tuổi ông học nhạc lý, học nhạc khí Tây phương như: mandoline, kèn saxo baryton, rồi kèn saxo alto, clarinette.
Nhạc sĩ Xuân Lôi còn lại 27 ca khúc, trong khi nhạc sĩ Xuân Tiên còn lại 32 bài hát, trong số đó có bài Tình Bắc duyên Nam là nổi tiếng nhất. Đặc biệt là hai anh em đều sử dụng âm-giai ngũ cung để sáng tác nhạc.
+ Video âm thanh, Hoàng Thục Linh, tiếng hát, nhạc đệm và quay phim đều tuyệt vời:
https://www.youtube.com/watch?v=GXHOGnP0sJ8
+ Video âm thanh, Hoàng Phương Mai:
https://www.youtube.com/watch?v=IdYCSuux1oM
Video trình diễn sống, Ngọc Diệp, trong chương trình “Tuyệt đỉnh song ca nhí”:
https://www.youtube.com/watch?v=Tx6y8j647eo
Nhật ký của mẹ – Nguyễn Văn Chung
Ca khúc này hiếm hoi được trình bày, nhưng chỉ cần một MV của Hiền Thục với thao tác vẽ tranh cát để minh họa là đủ phát tán tới hàng chục triệu lượt xem.
Nguyễn Văn Chung (1983-) là một nhạc sĩ của dòng nhạc trẻ Việt Nam. Âm nhạc của Nguyễn Văn Chung thuyết phục người nghe bởi âm hưởng ngọt ngào, nhẹ nhàng và sâu lắng.
MV, vẽ tranh cát minh họa, Hiền Thục, với phụ đề Anh ngữ:
https://www.youtube.com/watch?v=3Waf1Gy9d90
Tháng 1/2020
Diệp Minh Tâm tổng hợp
Theo https://tamdiepblog.wordpress.com/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Du Tử Lê, Từ Công Phụng - Con dế buồn tự tử giữa đêm sương

Du Tử Lê, Từ Công Phụng Con dế buồn tự tử giữa đêm sương! Du Tử Lê viết bài thơ 67, Khúc Thêm Cho Huyền Châu vào năm một ngàn chín trăm sá...