Ba sinh hương lửa 1
KHAI TỪ
Bên nhân vật chính - Cô Miên - còn những nhân vật khác chẳng
kém phần quan trọng, vì tầm tư tưởng cùng nếp sống của họ góp phần không nhỏ
vào câu chuyện. Để các bạn đỡ bỡ ngỡ, ngay từ buổi đầu tác giả xin giới thiệu họ
cùng các bạn theo thứ bậc huynh trưởng:
Khiết và Khóa |
sinh năm |
1913 |
Lãng |
sinh năm |
1918 |
Hãng |
sinh năm |
1921 |
Hiền |
sinh năm |
1922 |
Tân |
sinh năm |
1923 |
Kha |
sinh năm |
1924 |
Miên |
sinh năm |
1926 |
Căn cứ vào thứ bậc tuổi tác trên chúng ta thấy Khiết, Khóa và
Lãng ở vào cùng thế hệ, tạm mệnh danh là thế hệ Nguyễn Thái Học vì họ có trực
tiếp tham gia hoặc gián tiếp chịu ảnh hưởng phong trào phục quốc của Việt Nam
Quốc Dân Đảng. Còn năm người kia: Hãng, Hiền, Tân, Kha, Miên thuộc thế hệ sau,
trưởng thành trong cuộc khói lửa toàn dân kháng pháp 1946- 1954
Kể ra theo lề lối nghiêm chỉnh xưa của các cụ, quan niệm khắt
khe về hai chữ hiếu đễ, trên kính dưới nhường, thì hai thế hệ trên khó mà có sự
gần gũi thân mật như vậy. Bậc đàn anh xét nét, nghiêm cẩn; lũ đàn em khép nép,
ngưỡng mộ, vâng lời. ở đây tuy đôi bên chênh lệch tới mười ba tuổi( người cao
niên nhất là Khiết sinh năm 1913, người trẻ nhất là Miên, 1926), nhưng nhờ cả
hai thế hệ đã thắm nhuần văn hóa Tây phương nên sự gặp gỡ và thông cảm của họ
có phần dễ dàng.
Chao ôi, họ thân quý nhau như Lưu Bình, Dương Lễ, đùa cợt
nhau như lũ hề yêu đòi- ngay cả những khi thất bại đau đớn nhất.
Theo thứ tự tuổi tác thì Khiếg(1913) đứng đầu, theo quyền ưu
tiên của nhân vật thì Miên(1926) đứng đầu, nhưng câu chuyện không khởi đầu bằng
Khiết, chẳng bằng Miên mà bằng Tân(1923).
Nào xin mời các bạn bắt đầu vào thề giới của tác giả. Nói là
thế giới của tác già, kỳ thực là thế giới của chúng ta, nóng hổi thực tại đất
nước.
Phần I - CÂU CHUYỆN KHỞI ĐẦU - Chương 1
Thời thơ ấu
I
Quê Tân- Vũ Đình Tân- ở làng Lại Vũ thuộc huyện Từ Sơn( Bắc
Ninh), ngay bên tả ngạn song Đuống, cách cầu Đuống chừng hơn một cây số, vào những
ngày đẹp trời làng Lại Vũ vẫn có thể nghe thấy tiếng còi mười giờ vẳng lên âm u
từ Hà Nội.
Lại Vũ!- Nghe các cụ truyền lại thì sỡ dĩ đặt tên làng như thế
vì thoạt kỳ thùy chỉ có hai họ Lai, Vũ đến sinh cơ lập nghiệp tại đây rồi về
sau mới có thêm những họ Nguyễn, Hoàng, Quản, Doãn,…
Lên năm, Tân theo học vỡ lòng ông giáo Hanh ở xóm chợ. Sang
năm lên sáu, Tân đã được ông giáo dạy tiếng Tây, chỉ học Vocabulaire thôi.
Ông giáo chép những tiếng mots đó ở quyển sách in bên Tây. Trên bàn ông có quyển
tự điển Pháp Việt rất còm cõi của vị cha cổ nào đó người Pháp. Nhiều khi gặp phải
tiếng khó, ông giáo Hanh tra quyển từ điển không có, ông cau mày gắt, nửa như tự
gắt, nửa như gắt với cuốn tự điển:
Thế là cái đếch gì, thôi bỏ!
Sau khi lũ tiểu tử đã theo lệnh ông hí hoáy gạch bỏ tiếng mot
không có trong tự điển đó, ông tiếp tục giảng sang chữ khác. Ông đọc chữ Pháp
trước, học trò đọc theo; ông đọc nghĩa chữ Việt sau, học trò cũng đọc theo.
Có một trường hợp hãn hữu về nghĩa chữ mà Tân còn nhớ đến
nay: Theo ông Hanh thì café là cà- phê, le café là nước cà- phê; thé là chè, le
thé là nước chè.
Còn một điểm nữa mà vì ngày đó Tân còn nhỏ quá không nhớ rõ,
là ông giáo Hanh khi đề ngày tháng thì chỉ những ngày đầu tháng ông mới chịu
ghi thêm quán từ le; tỉ dụ: Lundi le 3 Janvier 19… Từ mùng mười trở đi ông bỏ
quán từ le viện cớ rằng bên chữ nho- ông giáo thông cả chữ Nho - các cụ cũng chỉ
dùng sơ cho những ngày đầu tháng thôi... tỉ dụ: Duy Hoàng nam Bảo Đại, Quý
ùng sơ?
Học chữ Tây ông giáo Hanh được nửa năm thì thầy xin cho Tân
vào học lớp năm trường làng.
Vào những năm lên sáu, lên bảy, lên tám này, trí nhớ của Tân
ngày nay chỉ còn thôi thóp giữ được chút ít hình bóng kỷ niệm. Một điệu hát nữa
Tây nữa Ta đượm tính chất bỡn cợt ngây ngô:
Mình ơi có đi bờ hồ
Ăn kem… ăn kem kẹo dừa, ăn bánh ga- tô.
Một điệu hát khác phổ biến hơn, đó là bài Tạ riễu người Tàu:
Ngộ bên Tàu là ngộ bên Tàu
Ngộ bên là ngộ mới sang
Sang Nam Việt bán buôn làm giàu.
Kèm theo bài Tạ này là tiếng đàn tàu, chiếc đàn tròn như đàn
nguyệt nhưng cán ngắn; cũng vì giây ngắn hơn đàn nguyệt nên tiếng đàn trong và
cao nghe lanh chang hời hợt như tiếng cười tiếng nói của đứa trẻ mới lớn chứ
không thâm trầm chín chắn như tiếng đàn nguyệt.
Tiếng đàn bầu của chú Phan hàng xóm sao mà buồn! Chú bị tật
khoằm chân từ thưở bé, cha mất sớm, mẹ nghèo. Phải chăng vì thế chú chọn đàn độc
huyền để phổ tâm tình u buồn của chú vào đấy? Khi chú ngồi xếp vòng tròn gầy đờn
thì không ai trông thấy tật chân của chú. Thụy, người con gái xinh xinh ở ngay
phía sau nhà chú, đêm đêm xay lúa sảy gạo, khuya nghe tiếng đàn bầu của chú mà
thổn thức cõi lòng.
Đàn bầu ai gẫy thì nghe
Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu.
Làm sao mà Thụy không nghe cho được? Tiếng đàn trong đêm
khuya thanh vắng như rót vào tai. Thụy xinh như cánh hoa đào. Trong vườn nhà Thụy
kế cận nhà Phan có cây đào, về cuối đông hoa nở đón xuân. Khi nghe tiếng đàn của
Phan, Thụy buồn như cánh đào đọng ướt trong một ngày cuối đông có mưa phùn. Thụy
thành thím Phan rồi suốt đời Thụy tận tụy hầu hạ Phan, hình ảnh Phan với Thụy
là hình ảnh người ngồi xếp vòng tròn gảy đàn bầu chứ chẳng phải hình ảnh Phan
lúc đứng dậy đi tập tễnh.
Trong số những bạn của thầy, Tân còn nhớ có ba bác: bác Ký,
bác Từ và bác Thạc.
Thứ nhất là bác Ký, người phong tình, quần chúc bâu áo vải
phin trắng nõn, bao giờ hai túi cũng nặng trĩu thư tình. Mỗi lần viết xong một
bức thư mới, bác thường mang lại đọc bàn với thầy để sửa gọt từng câu chữ trước
khi gửi đi, sau mỗi câu đắc ý hai người lại vỗ đùi cười ha hả. Mở đầu bức thư
nào cũng bằng ba tiếng rất sang trọng: Thưa quý nương… rồi tiếp đến những câu
văn biền ngẫu tề chỉnh thiết tha. Lăm ly nhất là sau mỗi tiếng: “Ôi!” lại có một
câu tập Kiều. Tỷ như:
Thưa quý nương,
Từ ngày gặp quý nương tôi những đêm năm canh trằn trọc, ngày
sáu khắc mơ màng ruột tằm trăm mối, đòi đoạn vò tơ!
Ôi!
Người đâu gặp làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Bỗng bác Ký bỏ làng đi đâu xa, hình như về một huyện nào thuộc
tỉnh Hà Đông, rồi có tin bác Ký dính líu vào vụ cướp(!) và bị mang ra xử tại
tòa Đại hình, rồi bị đầy đi Côn Đảo. Kỷ niệm thì đứt nối, đầu óc Tân hồi đó lại
non nớt quá nên sau này mọi khi ôn lại kỷ niệm ngày nhỏ, nhớ đến bác Ký, Tân vẫn
không hiểu duyên cớ gì đã khiến bác Ký chuyển hóa từ chàng thanh niên phong
tình quần áo trắng nõn sang một tên ăn cướp rồi bị tù đầy. Sau cùng Tân ngờ rằng
bác có tham gia hội kín, rồi hoặc bị tay sai của thực dân vu khống, hoặc người
làng sợ vào săng-tan hỏa lò nên phải nói chệch ra như vậy.
Thứ hai tới bác Tử người cao, khuôn mặt xương xương, nước da
trắng, râu rậm khi cạo nhẵn còn xanh om, trông bác có vẻ đẹp phong lưu sáng sủa
của người trí thức ngày nay. Mà theo sự xét đoán của cậu bé Tân thì bác xứng
đáng là trí thức lắm vì bác viết chữ nho rất đẹp, đọc truyện Kiều, Cung
Oán, Chính Phụ, Bần- nữ- thán toàn bản chữ nôm. Câu chuyện của bác bao giờ
cũng vui, một số nhân vật đặc biệt của làng đều được bác ghi nhận và tả lại bằng
những nét điển hình đượm tính chất hài hước. Quả thực bác phải thông minh
lắm mới có được những nhận xét tinh tế như vậy. Câu chuyện của bác hấp dẫn đến
nỗi mỗi khi thấy bác đến chơi là Tân quanh quẩn ở nhà. Nhiều câu chuyện vui của
bác nói với thầy, Tân không hiểu nghĩa nhưng thấy cả hai người cất tiếng cười
khoái trá thì Tân cũng vui lây. Tân thích tiếng cười của bác Tử, tiếng cười
sang sảng, ranh rách, lanh lảnh đượm chút kiêu kỳ của người hiểu đời, vẫn thích
sống giữa đám nhân gian nhưng vẫn khinh thế ngạo vật. Hằng năm cứ vào gần tết mẹ
lại mua một chục tờ giấy đỏ khổ rộng có đốm trăng kim, thầy mời bác Thử đến viết
lại hoành phi câu đối thay những cái cũ. Bức hoành phi khung gỗ treo ở chính
gian giữa có ba chữ “ ĐỨC LƯU QUANG” nét chữ đại tự rắn rỏi nhưng
cũng cao và hơi gầy như bác Tử. Đôi câu đối dán hai bên cột tre ( dạo đó nhà
Tân còn là nhà lá) nét chữ bay bướm hơn:
Phúc sinh phú quý bình an thịnh
Lộc tiến vinh hoan sự nghiệp hưng.
Mùa xuân năm Kỷ Tỵ( 1929) ( Tân lên bảy) thầy mẹ khởi công
xây nhà gạch. Năm trước- năm Mậu Thìn- mẹ đã cho xây bề và lát sân, cả làng ai
cũng khen mẹ buôn bán đảm. Ba chữ triện lớ "KỶ TỴ XUÂN” đắp bằng xi măng ở
phía trước tường hoa trán mái cũng là do bác Tử viết rồi căn lên giấy dầu làm mẫu
cho thợ nề đắp.
Vật đổi sao dời… bác Tử nghiện, rồi nghèo xơ xác, rồi ôi, thực
chẳng ai ngờ, bác đi ăn trộm. Bác không dám đến chơi với thầy nữa, thỉnh thoảng
Tân gặp bác ngoài đường, bác gầy quá, râu ria xồm xoàm, quần áo mỏng tanh rách
mướp, dáng đi tơi tả, hèn mọn, đầu hơi cúi xuống để không nhìn ai và để mặc ai
nhìn mình. Theo dư luận người làng thì sở dĩ bác “ xuống” thế vì cụ thân sinh
ra bác ngày xưa là một nhà nho bất đắc chí xoay ra gá bạc làm bao nhiêu người
làng thất cơ lỡ vận. Vì sự tích ông bố "chứa thổ đổ hồ” như vậy nên nay
bác chịu nghiệp báo "đời cha ăn mặn đời con khát nước.” Về sau này khi Tân
đã lớn, các con bác Tử cũng đều trở thành và làm ăn khá giả để phụng dưỡng bác
tử tế. Đã có dạo bác cai được thuốc nghiện và người làng lại được dịp nghe giọng
nói hài nước của bác chế người nãy riễu người nọ, nhưng thực tình giọng nói
cũng như tiếng cười của bác không còn được sang sảng như xưa: Tuổi trẻ đã mất,
sự hồn nhiên đã mất, bác còn đeo nặng những lỗi lầm của dĩ vãng! Cai được mấy
năm rồi bác hút trở lại, bác mở một bàn đèn để thường xuyên tiếp các khách hút
tài tử người làng hoặc người làm tổng, bác tiêm hầu lấy sái. Câu chuyện quanh
bàn đèn của bác nghe đâu dí dỏm lắm và luôn luôn rộn tiếng cười nhưng ở đây là
cả một thế giới khác, Tân chưa hề đặt chân tới để chứng kiến bao giờ.
Sau cùng là bác Thạc bác hiền nhất trong ba người. Bác có cửa
hàng bán kẹo, bác rất yêu Tân và ngày bé Tân được bác "đắp” cho – lời mẹ-
biết bao là kẹo bánh. Trong những cuộc họp mặt đông đủ cả bốn người (thầy và ba
bác) câu chuyện của bác Thạc chắc chẳng có gì là đặc sắc cho nên tới nay khi nhớ
đến bác, Tân không hề giữ được lời nào. Cùng một tai họa làm bác phá sản: nghiện!
Vốn hiền lành nên vẻ tang thương của bác khi đã mắc nghiện trông càng hèn mọn.
Tân còn nhớ một ngày đầu năm kia, bác mặc chiếc áo the thâm màu nước dưa đã sờn
vai và rách khuỷu, bác đội chiếc khăn xếp chữ nhân bạc phếch cũ nát, bác lễ trước
bàn thờ nhà Tân và khi ra về mẹ biếu bác một dộp (hai chiếc) bánh chưng. Tân buồn
mãi vì thương bác. Về sau bác thành một người nhớ hết những ngày giỗ của người
làng bất kỳ thân sơ; ngày đó bác mang vàng hương lại lễ rồi điềm nhiên ngồi đợi
gia chủ mời vào mâm ăn. Bác còn sống mãi, lay lắt như vậy cho đến năm đói-
1945- thì chết.
Mỗi độ xuân về, gia đình Tân vẫn được vui xuân bằng
"bánh chưng xanh thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ” thì ba bác đã lần lượt rơi
vào cảnh tàn tạ nào tù đày nào nghiện ngập, Tân còn nhớ mang máng cảnh mẹ ngày
đó lo sốt vó khi hay tin đến lượt bác Thạc nghiện, vì mẹ sợ thầy rồi cũng đến
đua anh đua em mà rơi vào cảnh truy lạc nối.
Vụ án cụ Phan Bội Châu với những lời nói đanh thép nồng
nàn tinh thần ái quốc của cụ trước toàn án có thể để lại tiếng vang trong trí
óc non nớt của Tân. Mãi tới sau này cụ đã mất ở Huế rồi, Tân còn được nghe lời
nói thiết tha của một bậc vào hàng cha chú: “ Bình sinh tôi chỉ ao ứơc thực hiện
được hai điều, một là vào Huế yết kiến cụ Phan, hai là uống rượu thi ca với Tản
Đà.” Trong khoảng thời gian này tiếng hát véo von tại làng thường là những câu
ngâm ái quốc tỳ như bài "Tiễn Chân Anh Khoá” của Á Nam Trần Tuấn Khải:
Anh Khóa ơi, mẹ tiễn chân anh ra tận bên tầu,
Hai tay em đỡ cái khăn giầu em lấy đưa anh;
Tay cầm giầu giọt lệ chạy quanh,
Anh xơi một miếng cho bõ chút tình em nhớ thương.
Anh Khóa ơi, cái bước công danh ngoắt ngoéo đủ trăm đường.
Anh đi một bước, tấm gan vàng em sẻ làm đôi;
Kìa người ta bè bạn vui cười,
Anh em ta thương nhớ, chỉ ngậm ngùi mà đứng trông nhau.
Anh Khóa ơi, còi tu tu tầu sắp kéo cầu.
Đường trần em sắp sửa gánh sầu từ đây.
Trông anh, em chẳng nở dời tay.
Nỗi riêng em dặn câu này, anh chớ có quên.
Anh Khóa ơi, kìa người ta lắm bạc nhiều tiền,
Anh em ta phận kém duyên hèn mới phải long đong.
Một mình anh nay Bắc mai Đông,
Lấy ai trò chuyện cho khuây lòng lúc sớm khuya
Hoặc một vài câu trong bài “ Hải ngoại huyết thư” của Phan Bội
Châu:
Ngày mong mỏi vía con ấm tử
Tối vui chơi mấy đứa hầy non.
Trang hoàng gác tía lầu son:
Đã hao mạch nước lại mòn xương dân.
Thời Tân còn nhỏ không bao giờ mẹ ôm Tân ru ngủ vì Tân có tật
hễ cứ nghe tiếng ru là khóc thổn thức. Tân thấy tiếng hát ru đó ảo não quá! Thường
thường đích thân thầy phải ôm Tân rồi vừa đưa võng vừa đập vào cột dọa đánh”
con mèo này, con chuột này,” ấy thế thì Tân ngủ. Khi Tân đã thiu thiu thầy mới
ngâm thơ( chứ không hát ru). Bài thầy vẩn ngâm mãi sau này Tân mới hay đó là một
bài thơ ái quốc tiêu cự của Trần Tế Xương, bài "Nhớ bạn”:
Ta nhớ người xa cách núi sông,
Người xa xa có nhớ ta không?
Sao đương vui vẻ ra buồn bã,
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng.
Lúc nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng
Khi riêng, riêng cả đến tình chung.
Tương tư chẳng lọ là mưa gió
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng.
Sự hoạt động của liệt sĩ Nguyễn Thái Hoc và việc ông cùng mười
hai đồng chí lên đoạn đầu đài Yên Bái có để lại một tiếng vang hoang đường.
Ngày đó Tân, cậu bé lên tám, có nghe xì xào dư luận giữa đám người lớn: Nguyễn
Thái Học có phép tành hình nên Tây không bắt được; rõ ràng một lần mật thám Tây
đã cùm được tay ông nhốt vào ngục, rồi hôm sau vào kiểm soát thì chỉ còn thấy
giây xích không; lại có tin đồn một lần Nguyễn Thái Học bị bắt, ông nói mấy lời
cho tên cai nguc nghe, tên này ứa nước mắt khóc rồi ông tàng hình mất. vẫn dư
luận trên kết luận: “ Cho nên nhất định Nguyễn Thái Học chưa chết, việc Tây xử
trảm mười ba liệt sĩ tuy có nhưng nhất định sau đó Nguyễn Thái Học tái sinh.
II
Sau vụ mười ba liệt sĩ lên đoạn đầu đài (1930) “ sinh hoạt
văn nghệ” của làng nghèo nàn lắm, tiếng ngâm sa mạc những bài ca ái quốc không
còn. Chỉ còn tiếng đàn bầu ngày một não nuột của chú Phan, tiếng nhị réo rắt của
bá Phấn và đặc biệt tiếng sáo vô cùng thê lương của câụ Vinh cùng tiếng hồ chao
ôi là âm thầm của anh Pháo, đến mỗi người làng đã phải nức nở khen bằng câu
thành ngữ: “ Hồ Pháo, sáo Vinh.” Về văn chương chỉ còn những câu đối vặt, những
bài văn tế sáo, những bài vè chế riễu nông cạn. Cụ Tỉnh cùng xóm có tậu một khoảng
vườn hoang. Cụ tậu khoảng vườn này để làm dành phần cho đứa con thứ hai. Đối diện
với nhà cụ chỉ cách có con đường xóm, sát với thửa vườn đó là nhà Hương Chỉ, một
người trạc ngoài tứ tuần, ương gàn và tham lam. Mỗi lần rào lại nhà, Hương chỉ
lại lấn sang vườn cụ Tỉnh một ít. Cụ Tỉnh bèn viết hai vế câu đối chữ nôm lên
tường đối diện với cửa ngõ nhà Hương Chỉ để bày tõ quan niệm triết lý nhân sinh
của cụ đối với việc Hương Chỉ lấn đất.
Đất hỡi trời ơi sống tham đất
Giời soi đất xét chết giả trời.
Mỗi khi làng có ông già bà cả nằm xuống, người nhà thường đến
xin bài văn tế tại nhà cụ huyện Từ- cụ đậu cử nhân rồi được bổ nhậm ngay tại
huyện nhà- Từ Sơn. Tại chức chưa đầy một năm thì cụ cố mất, cụ treo ẩn từ quan
về quê thọ tang và từ đấy thôi không ra làm quan nữa. Cụ có ba phòng: Cụ bà Cả
hiền lành sinh được mấy cậu ấm cô chiêu cũng hiền lành. Cụ bà Hai đẹp đài các,
biết làm thơ, cháu một vị Tam Nguyên, làng vẫn mệnh danh là “ bà huyện Thanh
Quan" sinh hạ được một trai một gái đều đẹp và thông minh. Bà Ba trẻ
hơn cả, dáng cao lớn, không đẹp nhưng chắc chắn hồi trẻ phải gợi tình lắm; mồm
mép bẻo lẻo người làng gọi đùa là " bà lắm chuyện”, bà nổi tiếng khéo chiều
chồng, một điều bẩm quan lớn, hai điều bẩm quan lớn. Bác Tử cười ranh rách nói
riễu: “ Thấy quan lớn tiểu tiện chắc bà vội vã chạy lại xin nâng bàn thấm cho
khỏi rớt!” Một hôm khác có đông đủ thầy và ba bác, nhân thoáng thấy bóng bà qua
ngõ, bác Ký nói: “Kìa bà lắm chuyện vừa đi qua!” bác Tử ứng khẩu đọc bốn câu
vè:
Chuyện ông huyện để g…ra,
Bà huyện tưởng quả cà vác bát lại xin.
Ông huyện vừa quát vừa rên:
Rằng đây cái g... của min đó mà.
Bác Thạc cười gập người lại, mặt đỏ như mào gà. Bác hiền lành
ít nói nhưng khi thích chí thì cười thực tình.
Người làng vẫn đến xin bài văn quan huyện từ vì cụ là người
trung hậu, bài văn chỉ cả ngợi công đức và bày tỏ lòng hiếu của con mong được đền
ơn sinh thành( như chính cụ đã treo gương) chứ không hề dùng văn chương để móc
máy gia chủ như mấy ông đồ bất đắc chỉ. Tân có ông cậu rất ham đi ả đào Khâm
Thiên hay Ngã Tư Sở. Ông ngoại Tân mất đúng vào ngày ba mươi tết, phải quàn
quan ván đợi đến mồng sáu tết mới phát tang mà làm ma linh đình. Ông cậu Tân có
nhờ ông đồ Ba (gọi vậy vì ông đỗ tam trường) làm cho một đôi câu đối khóc cha.
Vế đầu ông viết đại ý: hơn một ngày không ở kém một ngày không đi nên cha mất
vào ngày tất niên; vế thứ hai ông hạ rất thâm thúy, Tân còn nhớ nguyên vẹn vế
đó:
Xót xa lòng hiếu tử, đêm xuân trằn trọc trống năm canh.
Vừa có nghĩa tả lòng xót xa thương cha của người con hiếu, vừa
có nghĩa là: “ người con hiếu” đó đã trằn trọc không ngủ được, sốt ruột vì tiếng
trống (trống cô đầu) rộn rã suốt đêm xuân.
Đáo để nhất trong số các nhà nho bất đắt chí phải kể đến ông
tú Mền (ông đỗ ba lần tú tài), không ai dám đến xin ông câu đối hay hoành phi.
Ông hay chữ và nguy hiểm đến có thể xếp cùng hạng với các bậc bất hủ Trạng Quỳnh,
Tú Xuất ngày xưa; tỷ như chỉ cần cho hai chữ hoành phi "Đại Lại” là
đủ đánh gia chủ một đòn chí tử về tinh thần; rõ ràng hai chữ hoành phi đó là ca
ngợi họ Lại lớn nhưng lại ngầm móc ông tổ ba đời nhà họ Lại làm nghề lái lợn (Đại
Lại= Lớn Lại= Lái Lợn). người hiền nhất trong số các nhà nho làng Lại Vũ là ông
Đồ Thinh, ông chỉ thích kim Dịch và xem tử vi, ông hiếm hoi có một cậu con trai
tên là Chủy mà số tử vi lại không được tốt lắm cho nên ông hơi buồn. Chúng ta sẽ
có dịp gặp lại ông đồ Thinh và Chủy sau này.
Ấy đại loại không khí văn nghệ làng Lại Vũ từ sau vụ mười ba
liệt sĩ lên máy chém ở Yên Báy để nợ nước là như vậy:” Tiếng sáo véo von, tiếng
nhị réo rắt, tiếng hò tiếng đàn bầu buồn thảm, câu đối, thơ, vè nói móc nhau…”
III
Để bế mạc cho một thời thơ ấu tưởng phải kể thêm một kỷ niệm
sau này của Tân. Ngày đó vào trung tuần tháng ba năm Tân Mùi- 1931- Tân bước
sang tuổi lên chín, chùa làng đúc chuông xong mở hội khánh thành. Khách thập
phương về đông như kiến cỏ vì câu nói của miệng thời đó:” Thành Hoàng đình
Tông, Đức Ông Chùa Lại.” ( Thành Hoàng đinh làng Tông Chỉ và đức ông chùa làng
Lại Vũ có tiếng là thiêng). Nhân dịp hội chùa này mẹ có mở một ngôi hành giải
khát ở ngay gian giữa tam quan chùa, ngày đầu mẹ cho Tân uống một thứ nước
trong vắt khi mở ra rót vào ly có sùi bọt, uống vào thấy tê tê đầu lưỡi, mẹ gọi
là nước chanh. Buổi tối có hát tuồng, dân làng dựng rạp giữa bãi cỏ phía bên
tam quan. Ông lý trưởng làng Lại Vũ là một tay sành tuồng, đáng trống chầu hay,
đích thân đi tới làng Phùng cách làng nhà chừng hai mươi cây số đón bằng được
Phùng về. Trùm phường Phùng là kép Chí có tài đặc biệt đóng Quan Công. Tân nghe
nói mỗi lần đóng Quan Công, y phải xin âm dương trước. Rồi suốt buổi tuồng,
trong buồng trò, trên bàn thờ mới thiết lập có treo tranh Quan Công, phải hương
nến thường xuyên. Để anh linh đức Thánh Quan khỏi nổi giận, trùm Chí phải hóa
trang khác đi chút ít với khuôn mặt của Ngài xưa bằng cách kẻ thêm mấy đường
đen trên khoảng mặt đã bôi son đỏ.
Tối hôm đó Tân được xem tích Hoa Dung tiểu lộ. Danh bất
hư truyền! Kép Chí người cao lớn, giọng vàng sang sảng đóng vai Quan Công thật
tuyệt. Trước khi Quan Công ra, tất cả khán giả có tới hàng trăm người ngồi hoặc
đứng im phăng phắc nghe thấy tiếng tim hồi hộp của mình cùng tiếng muỗi vo ve
trên ngọn cỏ gần đấy. Thoạt là một hồi trống chiêng rãi rệ rồi đỗ rồn. Rồi màn
trò hé lên vừa đủ cho Quan Cọng ra, mặt đỏ râu dài, trước trán giản dị là một
vòng đai lấp lánh để giữ vuông khăn xanh trùm đầu và tỏa xuống che kín khoảng
lưng vai. Mỗi bước khoan thai đĩnh đạc của Quan Công là tiếng trống kèm theo tiếng
chiêng điểm nhịp tưởng chừng trái đất rung chuyển dưới bước chân cương nghị của
Ngài. Không khí uy nghi như thiện đình, đai mũ và áo bào của Ngài như đè nặng lẹn
cảm giác của khán giả. Tiếng chuông trống vừa dứt tiếng Ngài thét, giọng vàng
sang sảng ngân dài. Tiếng thét dứt, Ngài hất chòm râu về phía sau đôi mắt long
lanh một niềm uy vũ bất khuất…
Rồi Ngài bắt sống được Tào Tháo ở đường hẻm Hoa Dung. Trông
thằng Tào Tháo quỳ mọp dưới chân Ngài đến là hèn, nó kể lể công nó thù phụng
Ngài thủa thất thủ Hạ Bì trước đây, ba ngày yến nhỏ năm ngày yến lớn, biếu Ngài
ngựa xích thố, lại may túi gấm đựng râu Ngài…
Rồi Ngài nhân từ tha Tào Tháo….
Rồi Ngài bị Gia Cát Lượng đòi chiếu theo quân pháp chém đầu.
Rồi Trương Phi kể lể cùng đại ca Lưu Huyền Đức công nằm gai nếm
mật của Ngài trải gian nguy từ thưở đào viên kết nghĩa…
Rồi Ngài được tha…
Tân sung sướng thở phào khoan khoái tưởng chừng chính Tân vừa
thoát khỏi từ hình. Một tình cảm kính mến uy nghi tràn lên dâng ngập hồn thơ ấu
của Tân.
Tấn tuồng trang nghiêm hết, sang phần chèo cổ hý lộng để kết
thúc đêm vui. Đó là một tấn chèo riễu anh nhà quê ngớ ngẩn bị lừa dối, rồi cả
hai đem nhau đến cửa quan. Ông quan liêm chính này cho đào hố gần gốc câu mai cổ
thụ, một người lần xuống đó, ộng qua vờ tra tấn gốc cây khiến cây thốt lên lời
tố cáo người vợ…
Anh chồng thật là một tên hề đại tài. Anh có hai râu mép quặp
xuống (vẽ bằng mực). Anh quấn khăn đầu rìu, áo cài lẫn khuyết, quần ống thấp ống
cao, anh cất lời nói là khán giả cười rộ, khi anh bị vợ lừa dối cất tiếng than,
khán giả tuy thương mà vẫn không nín được cười.
Tan chèo, trên đường về Thầy nói với Mẹ:
Thằng cha trùm Chí đóng giỏi thật, vai nào cũng tuyệt.
Vai anh chồng ai đống đấy hở Thầy?- Tân hỏi.
Trùm Chí chứ còn ai!- Thầy đáp.
Ủa trùm Chí- Tân nghĩ- Trùm Chí vừa đóng vai Quan Công mặt đỏ
râu dài uy nghi chính khi?! Không có lẽ, không thể được, làm sao có thể thế được?!
Một người vừa mới một giờ trước đây cất từng bước đĩnh đạc có tiếng chuông tiếng
trống điểm nhịp làm lóng lánh những trân châu trên đai mũ trên áo bào, tiếng
thét uy vũ làm run sợ Tào A Man, thanh long đao múa lên làm địch quân chạy rạt,
kể cả khi Ngài đứng yên giữ thế vuốt râu địch quân cũng không dám lại gần, cũng
người đó làm sao có thể chỉ một giờ sau thành anh hề râu quặc đen như nhọ nồi
run cầm cập dưới sự xỉa xói của cô vợ đanh ác, nhớn nhác khi đến cửa công.
Không thể được! Làm sao có thể thế được! Tân thao thức, Tân băn khoăn, Tân chợp
ngủ nhưng lòng vẫn chối nhận việc trùm Chí vừa đóng vai Quan Công uy nghi ở tuồng
trướ lại đóng vai anh chồng ngớ ngẩn ở vở chèo sau. Không thể được! Làm sao có
thể thế được! Trí non nớt của Tân ngày đó cho rằng khi đóng tuồng nhân cách của
con người đóng với nhân cách vai tuồng phải vĩnh viễn là một. Đã đóng Quan Công
thì cũng phải có đức tính trung nghĩa như Quan Công và không thể ngay sau đó
đóng vai anh hề sợ vợ được.
Sau này vào năm thi bằng cơ thủy- năm mười bốn tuổi- Tân được
đọc một chuyện cổ tích Ba Tư ở sách “ Tứ Dân Văn Uyển.” Chuyện đọc đã lâu ngày,
đại ý Tân chỉ còn nhớ loáng thoáng:
“Có một cô vợ rất đẹp kia lừa chồng, nàng có tình nhân. Một
hôm nàng ra chợ, từ vua quan đến thường dân ai cũng muốn bắt nhân tình với
nàng. Nàng vờ ưng thuận hẹn ngày giờ gặp mặt, ở ngay nhà nàng. Qua cửa hàng thợ
mộc anh này cũng muốn bắt nhân tình với nàng nốt. Nàng bèn nhờ y đóng cho một
cái tủ có năm ngăn lớn rồi cùng hẹn y ngày giờ đến nhà nàng. (Tất cả có năm
người muốn hưởng thụ ngàng, kể cả anh phó mộc). Chiếc tủ lớn được đóng xong kịp
thời kê vào góc phòng, những kẻ thèm khát ái tình kia lần lượt đến đúng với
ngày giờ quy định, nhưng rồi họ chưa kịp hưởng thụ gì đã kẻ trước người sau phải
lần lượt ẩn mình vào một ngăn kép lớn vì cứ mỗi lần nghe tiếng gõ cửa, người vợ
lại làm bộ cuống quít là chồng về. Sau khi năm người tình bất đắc chí đã nằm im
thin thít trong năm ngăn kéo của chiếc tủ khổng lồ thì tình nhân nàng đến, đôi
uyên ương đó chắp cánh tung trời bay đi xa… Ở lại trong tủ thoạt người trên
cùng đái lên đầu quan đại thần, quan đại thần đái lên đầu anh thợ mộc, anh thợ
mộc đái lên đầu vu, vân…vân…Tóm lại trong số năm người thì bốn người đái lên đầu
nhau. Rồi anh chồng về, mở khóa ngăn kéo cho năm người ra…
“ Khi ai nấy đã rõ chuyện thấp mưu thua trí đàn bà- lời tác
giả Ba Tư kết luận câu chuyện cổ tích- nhà vua bèn an ủi chồng mất vợ bằng cách
ban cho ông bổng lộc và quan tước để anh cùng nhà vua và quan đại thần chung
lưng sát cánh trị dân mặc dầu các ông trị mình cũng không nổi.”
Đọc xong câu chuyện cổ tích Ba Tư này Tân bỗng liên tưởng đến
trùm Chí trong vở chèo sợ vợ. Tội nghiệp, cho mãi đến sau này đã chứng kiến bao
cảnh phế hưng với những vai hề chánh trị mà mỗi khi nhớ lại tấn tuồng Hoa Dung
Tiểu Lộ, trong cõi sâu tâm tưởng Tân vẫn muốn phủ nhận vai hề kia và cứ muốn
đinh ninh rằng đêm đó trùm Chí chỉ đóng có vai Quan Công.
Chương 2
Cách nhau ngàn vạn dặm
Tân học hết lớp ba tại trường làng, theo lên trường huyện học
tiếp lớp nhì lớp nhất rồi dời quê xuôi Hà Nội học đến nửa năm thứ hai ban thành
chung thì thầy ốm nặng; mẹ bỏ buôn bỏ bán thuốc thang cho thầy ngót nửa năm
dòng siểng liềng gia tài mà thầy cũng không qua khỏi. Khi thầy đã nằm xuống, chị
Khanh- chị Tân hai mươi nốt tuổi, về nhà chồng đã được hơn một năm, bị sẩy thai
rồi cũng mất. Rõ thực phút bất trùng lai họa vô đơn chí! Tân phải bỏ học vì việc
buôn bán của mẹ theo vận áo xám gặp nhiều thua lỗ và gia đình bắt đầu mang công
mắc nợ. Năm đó-1939- Tân mười bảy tuổi cuộc đại chiến thứ hai cũng vừa bùng nổ.
Thôi học về quê vào đúng mùa nước lên, Tân họp với một số thiếu
niên cùng làng cùng lứa tuổi ngày ngày mang vó ra sông đánh cá, chiều chiều
mang đó ra đồng chọn luồng nước mà đặt đó đơm cá, hôm sau dậy thật sớm ra nhấc
nó lên, bên trong đã đầy cả rô, trê trạch, nhiều khi cả lươn nữa. Đoàn thiếu
niên khi đi đặt đó như vậy thường cao giọng hát bài đồng dao:
Giời mưa giời gió
Vác đó đi đơm
Về nhà ăn cơm
Trở ra mất đó.
Được cái đó của bọn nào đặt đâu vẫn nguyên đấy chưa lần nào gặp
chuyện sớm hôm sau ra mất đó.
Trong đám thiếu niên cùng làng có Hoạt đồng niên với Tân. Hoạt
có có vóc người lực lưỡng, mớ tóc dày, lông mày rậm, khuôn mặt vuông, nước da
bánh mật. Hoạt công tác với Tân thành một cặp trong việc đánh cá. Sức lực hung
hãn của Hoạt hợp với trí thông minh của Tân đã giúp cho cả hai bao giờ cũng thắng
cuộc tranh đua với những cặp trẻ khác.
Thoại việc Tân về làng chỉ có nghĩa giản dị là vì nhà sa sút
không đủ tiền cho Tân được ở lại Hà Nội theo học nữa và việc mấy hôm đầu Tân
cùng các bạn cùng lứa tuổi đi đánh cũng chỉ có tính cách tài tử như một cậu học
trò nhân vụ hè về làng, rồi vì ưu hoạt động mà nhào vào nếp sống của người làng
để vừa giải trí vừa hòa đồng. Nhưng một tuần qua đi số cá kiếm được khá nhiều,
ăn thừa thải còn đem bán, làm mẹ đâm suy nghĩ. Nửa tháng sau Tân thấy mình cùng
Hoạt là hai đứa trẻ sinh sống về nghề đánh cá. Việc buôn bán của mẹ càng sa vào
thế bí, nhất là ngày chị Khanh bị sẩy rồi mất theo thầy. Cứ quan sát vẻ nhìn của
mẹ thì biết người áy náy biết chừng nào. Mấy lần mẹ có ý bảo Tân ngừng đừng đi
đánh cá nữa nhưng không được, Tân đã quá thân với Hoạt.
Hai tháng qua, mùa nước hết. Làng bắt đầu làm vụ chiêm, tình
thân của tuổi trẻ càng thắm thiết giữa Tân và Hoạt. Hình như Hoạt có lây của
Tân được thêm chút thông minh tài tháo vát. Nhưng đôi bạn không còn được xum họp.
Nhà Tân mới sa sút, nghèo mà còn ở nhà ngói, trái lại với Hoạt vốn sinh ra đã
là con nhà nghèo việc học không quá cấp sơ học. Mùa nước hết, trong khi dân
làng sửa soạn vụ chiêm, Hoạt theo một người bà con xuôi Hà Nội kiếm được chăn
“ét” tài xế trên con đường Hà Nội Nam Định. Hoạt đi, Tân ở lại hợp tác với ông
chú họ là một tay đánh cá chuyên nghiệp mà dân làng Lại Vũ vẫn quen gọi là ông
Tây. Ông quả thực là… ông Tây thực, người cao, da đỏ hồng, mũi lõ, hai tròng mắt
xanh, giọng nói ồ ề ngô nghê. Bà cụ thân sinh ra ông nhủ danh là Điệt đúng với
câu "thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân.” Năm Giáp Thân (1884) quân
Pháp từ sông Hồng vào sông Đuống rồi nhập với cánh quân thứ hai của chúng vừa đổ
bộ lên Phả Lại cùng tiến đánh Bắc Ninh, quân Cờ Đen phải rút lên mạn Thái
Nguyên; đúng vào cái năm ấy cô Điệt vừa mười sáu xuân xanh và đúng vào ngày giặc
cờ đen rút lên Thái Nguyên thì cô bị một tên tướng Tàu hiếp trên cánh đồng
làng. Bốn năm sau cô đành phải lấy lẽ thứ tư ông Đề Bách; cô vừa hai mươi tuổi,
xinh tươi mơn mớn, ông Đề thì đã trên năm mươi lại mấy lần mắc bệnh phong tình
không thể có con được nữa. Năm cô Điệt ba mươi tuổi, vào một buổi trưa cô đi chợ
về gặp một đội binh Pháp tập trận giả tại đồng làng, một tên lần theo bờ gò đón
chặn và hiếp cô trong bụi. Cô về có mang và sinh ra cậu con giai đầu lòng tóc đỏ
mắt xanh; ông Đề không nhận, đuổi hai mẹ con về bên ngoại, nhưng ông cũng làm
ngơ cho đứa trẻ được mang họ ông, họ Vũ. Khi ông Đề mất đi, các anh em thúc bá
thương tình bà Tư- cô Điệt- lại gọi về gia nhập với đại gia đình họ Vũ, lúc đó
gia thế ông Đề cũng đã sa sút đi nhiều lắm rồi. Khi Tây- không hiểu ai đã đặt
tên này- tới tuổi trưởng thành thì gia cơ điền sản của ông Đề cũng khánh tận. Mẹ
vừa khuất núi, Tây bứt ra ở một cái lều chính tự tay Tây dựng lên ngoài bãi ven
làng và sinh sống bằng nghề đánh cá từ đấy. Ông con cả cụ Đề Bách vào ngày đó bị
mật thám Tây bắt tình nghi giải tới hỏa lò Hà Nội, một tên tây lai đã hỏi
cung tra tấn ông.
Khi được tha về, ông nhìn Tây sống nghèo hèn và hiền lành mà
cảm mến. Ông nghĩ chỉ cần thằng lính tây xưa biết và nhận con, là Tây lập tức
có một nếp sống, một địa vị của con dân mẫu quốc và biết đâu Tây chẳng vào làm
trong mật thám gia nhập đoàn nhân viên hỏi cung hách dịch và tra tấn tàn ác?
May thay- ông nghĩ thế- Tây đã sống nghèo hèn nhưng hiền lành theo nếp sống Việt
trong lũy tre xanh.
Sau này chính ông đã đứng ra giạm hỏi và cưới xin cho Tây một
cô gái nghèo trong làng, ý ông muốn hoàn toàn đồng hóa dòng máu lai trong người
Tây. Hình như việc có thêm người đàn bà vào sống trong lều cũng không là một biến
cố quan trọng cho lắm đối với Tây, nếp sống của Tây vẫn phẳng lặng với nghề
đánh cá thức khuya dậy sớm, ngày đánh cá, tối câu đêm. Giọng nói của Tây suốt đời
đành là cứ ồ ề, ngô nghê như vậy, tính tình cực kỳ hiền lành. Mãi đến năm năm
sau Tây mới có đứa con giai đầu lòng đặt tên là thằng Phiệt mắt đen, tóc đen,
mũi dọc dừa, nước da bánh mật- nước da của mẹ- Phiệt đã hoàn toàn hoà lẫn với
giòng giống Việt. Ông con trưởng cụ Đề Bách hẳn bằng lòng lắm! vai vế trong họ,
Tây vào bậc chú Tân. Năm Tân bỏ học về làng đánh cá với Hoạt rồi hợp tác với
chú Tây thì thằng Phiệt đã lên sáu. Phiệt có theo học A, B, C ở trường làng,
nhưng tan học là ba chân bốn cẳng nó chạy về quăng sách ở giường rồi đi tìm bố ở
ngoài đồng ngay. Nó ưa lẻo đẻo theo sau bố để xách giỏ, xách mồi hoặc một
vài đồ nghề khác. Khi Tân hợp tác với chú Tây, Tân mến Phiệt ngay. Phiệt ra chiều
cũng nặng cảm tình với Tân mà nó gọi là “ anh Tân” với tất cả vẻ thành kính vừa
đơn giản vừa thơ ngây của nó. (Tân thật có ngờ đâu rồi đây, còn lâu,… lâu lắm,
Tân sẽ có dịp sát cánh với Phiệt trên con đường vào sinh ra tử). Chính vào dịp
hợp tác này, Tân mới được ông chú thủ thỉ truyền cho hết bí quyết đánh cá. Giọng
ồ ề đơn giản và hiền lành của ông dẫn Tân vào thế giới của cá như bà dẫn cháu
vào thế giới cổ tích. Mùa cá đẻ trứng vào tháng tư; ruộng lúa khi đó chưa gặt
hoặc đã gặt rồi chỉ còn chân rạ; đặc tính cá đẻ rất dạn người, chúng cắn đuôi
nhau đi hàng đàn từ sông vào ruộng. Thôi thì đủ các loại cá: cá nheo, cá ngạnh,
cá diếc, cá trạch (có những con lớn bằng cố tay), cá chép (có con dài tới bảy
mươi phân, bề ngang một gang tay người lớn). Tháng tư vào những ngày mưa,
nước sông lên, cá theo con nước cắn đuôi nhau vào ruộng đẻ, khi nước rút chúng
lại trở ra sông, đó là lúc gần trọn đàn chúng đã vào rước- một thứ bẫy cá- của
chú Tây. Bao giờ- theo lời chú - chúng cũng thoát đi được một số; có khi không
may cho chú đúng vào lúc chúng rút ra sông, trời tiếp một cơn mưa lớn khiến
chúng thoát trọn đàn. Chú Tây cho đó là trời muốn vậy, vì có thế mới năm
này sang năm khác còn cá cho chú đánh. Vào những ngày không mưa chú đánh cá bằng
rập, một thứ vó vuông và khá lớn có thể úp được trọn đàn sộp. Chú kể cá sộp
tinh lắm, chú từng nằm trên bờ rập hành giờ (có phủ lá để ngụy trang cho cá
không thấy) theo dõi đàn sộp nhởn nhơ sát bờ rập mà không chịu vào, đôi khi con
đầu đàn quay mình lại cho một phần đuôi vào trước để dò xét địch tình rồi lại
vùng ra lạch nhởn nhơ tựa hồ để trêu tức chơi. Cứ như vậy cho đến một phút nào
đó nó chợt lao mình như một đường tên vút từ lạch vào khoảng nước rộng và sâu
ngay dưới tầm rập; cả đàn sộp cũng vội ùa theo như sợ mất chủ, rập ụp xuống như
máy, một vài con may thoát ra ngoài nhảy tơn trên mặt nước, quẫy tắt ra phía
sông, những con bị úp dưới rập vùn vẫy một cách tuyệt vọng đục ngầu cả khoảng
nước. Có những mẻ sộp lớn làm rách rập, buổi tối hôm đó chú Tây phải ngồi vá lại
dưới ánh đèn dầu lạc trong lều, hoặc dưới ánh trăng. Câu cá chuối tuy dễ mà khó
vì phải hiểu tâm lý cá. Cá chuối rất thương con, nó thường dắt đàn con đi vào
chổ ngòi nông loi thoi ngọn cỏ, nước nữa trong nữa đục để kiếm ăn. Đàn chuối
con khi đó chỉ lớn như những con đòng đòng, tung tăng bơi lội, mổ vào những ngọn
cỏ, đớp những bọt nước hoặc tròng ghẹo nhau. Chuối mẹ lặn dưới đáy ngòi đâu đó,
canh chừng đàn con. Chú Tây chỉ cho Tân cách quan sát biết chắc chuối mẹ ở đâu.
Ngọn cỏ là là mặt nước kia không có gió mà khe khẽ lung lay, chính là chuối mẹ
lờn vờn bên dưới đó. “ Cá chuối chết đuối vì con,” bây giờ chỉ việc bắt một con
sin tít sống, mắc lưới câu vào ngang thân, đợi lúc đàn con bơi gần chỗ mẹ, thả
lưỡi câu xuống cho con sin sít quẫy mạnh, lập tức sộp mẹ ghen con, vùng lên đốp
mồi và mắc lưỡi.
Hằng năm vào tháng tám nước sông cạn, dân đánh cá chuyên nghiệp
của làng Lại Vũ thường hẹn nhau tập họp ở quãng sông nông nhất rồi dăng dài
thành hàng ngang, tay mỗi người cầm một chiếc nơm, có khi nơm úp được con cực lớn,
cần người phụ lục lặn xuống. Bắt loại cá này hai tay giữ chặt chưa đủ, bí quyết
phải lập tức bóp mắt nó, như vậy nó mới hết quẫy để hòng thoát thân. Nghệ thuật
lặn xuống để bắt cá lớn này, làng Lại Vũ chưa ai qua mặt được chú Tây. Tiếng
kêu hốt hoảng giữa dòng sông thường bao giờ cũng là ‘’ Bác Tây ơi,
giúp tôi một tay đây! ‘’Nếu con cá lớn đó để ở nhà ăn thì mặc nhiên khúc giữa
bao giờ cũng dành biếu bác Tây, tục lệ của dân chài lưới làng Lại Vũ là
như vậy. Trong những câu hát của dân chài thưở đó có một câu Tân còn nhớ mãi về
sau này”
Người ta câu biển câu sông
Tôi đây cây lấy con ông cháu bà.
Mộng san bằng giai cấp của họ cũng chỉ thể hiện trong lời bài
hát bông đùa thế thôi, thực tình họ có đời sống riêng mà họ ưa thích còn hơn cả
việc câu được ‘’con ông cháu bà.”
Hợp tác với chú Tây được ngót một tháng, bấy giờ vào cuối
tháng bảy, thì mẹ kéo Tân về để giúp người trong việc buôn bán. Thế là bỏ học,
Tân thực thụ lăn lưng vào cuộc đời từ năm mười bảy tuổi. Thoạt Tân đi theo mẹ để
giúp đỡ người trong việc cất hàng loại xa xỉ ở Hà Nội mang về các tỉnh nhỏ bán
buôn, rồi lại buôn các phẩm vật địa phương mang về Hà Nội. Sau một chuyến hàng
cuối năm, về tới đầu làng, Tân giật mình hay tin chú Tây đã mất, tội nghiệp chú
bị chết lạnh, chú không đủ áo ấm vào mùa đông này. Phiệt được ông bác hiếm hoi-
ông con trưởng cụ đề Bách- mang về nuôi, ông không có con trai và rất ưng Phiệt
sẽ thừa tự sau này mặc dầu của hương hỏa của ông cũng chẳng còn gì ngoài chiếc
nhà ngói ba gian hai trái đã ọp ẹp lắm.
Sau hai năm ngược xuôi giúp mẹ, Tân đã thành thạo, chàng
khuyên mẹ ở nhà để một mình chàng đảm đương công việc. Chiến tranh làm hàng ngoại
hóa khan hiếm nên viêc buôn đi bán lại đó giúp Tân trả dần được công nợ cho mẹ.
Dầu hỏa đã trở thành một thượng đẳng xa xỉ phẩm, khắp miền quê đã dùng thay bằng
dầu lạc, nhiều nơi dùng kèm một thứ nến bằng lá tẩm nhựa thông. Tân thuê thuyền
theo các đường sông máng lớn nhỏ chuyên chở hai thứ này (dầu lạc, nền-nhựa-thông)
vào sâu các vùng hẻo lánh. Quân Nhật đã đặt chân lên toàn lãnh thổ Đông Dương,
người Pháp đã mất nước vào tay người Đức. Tuy nhiên Toàn quyền C, vẩn còn chút
quyền hành ở đây đủ để đại diện cho nền văn minh thực dân cấp bằng phát minh
cho một số người ‘’bản xứ” đã sáng chế ra được thứ đèn đầu lạc với hệ thống
bánh xe răng cưa nhỏ có thể khêu bấc đèn cao thấp tùy ý. Nhân việc này một nhà
ái quốc tiêu cực làng Lại Vũ đã lấy một câu Kiều để mỉa mai:
Phát minh sáng chế nhà ta
Đã buồn cả rượt lại dơ cả đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét