Thứ Hai, 2 tháng 9, 2024

Người đàn bà bên kia vĩ tuyến 3

 Người đàn bà bên kia vĩ tuyến 3

Bao nhiêu năm qua rồi, hoàn cảnh thay đổi là thế mà Kha thấy Vân còn giữ nguyên linh cảm bén nhậy để kịp thời nhận ra điều gì khả nghi ở Kha và né tránh. Đôi mắt Vân lúc đó dường như có thoáng cả chút giận dỗi làm Kha bỗng thấy ngại ngùng. Hay là tại Kha quá bị ám ảnh bởi dĩ vãng. Nhan sắc Vân với những đường nét thanh tú thật, nhưng vẫn nồng nhiệt làm sao! “Đúng la mình bị dĩ vãng ám ảnh!”
hơn một lần Kha nghĩ như vậy.
Đó là một buổi trưa thứ bảy đầu xuân. Không ngủ trưa, lần này Kha dắt xe ra cửa với ý định lờ mờ là sẽ đến thăm Vân, nàng có thể ra đi bất ngờ, lần ra đi này có phần vĩnh viễn. Vì vậy khi Diễm đứng chặn lối đi, Kha cảm thấy khó chịu nhưng vẫn phải miễn cưỡng giữ vẻ hòa nhã với phái yếu. Ra tới đường nhảy lên xe không hiểu nghĩ sao Kha lại đạp về phía Bờ Hồ, qua tòa soạn Văn Hóa không rẽ vào mà đạp thẳng, qua bót Hàng Trống, qua ngã tư, vào đường Gia Long. Xe bon bon trên quãng đường rộng và khá đông đúc. Kha ngừng chân đạp cho tốc độ giảm dần rồi ngoặt sang đường Trần Hưng Đạo, lần này xe bon theo một triền dốc nhẹ, quãng đường sạch bóng, hai bên lề là hai hàng me có xen lẫn phượng vĩ đổ bóng xuống đu đưa dịu dàng. Và Kha lại triền miên suy nghĩ...
Dịp Tết nguyên đán vừa qua người dân quốc gia chẳng hề cảm thấy một chút hào hứng đón nùa xuân mới. Hà Nội chỉ còn là một hòn đảo nổi, bốn bề sóng đỏ uy hiếp. Các cứ điểm nhỏ đây đó nối liền với thủ đô bằng những trục giao thông mong manh. Người ta đã xì xào chuyện chia cắt có thể, và trong trương hợp đó sẽ có tàu Mỹ chở đồng bào di cư, Nhưng sau đó người ta lại quả quyết với nhau rằng: “Ấy là phòng xa thế thôi, chứ mình đâu có chuyện chia cắt như Cao Ly, như Đức?”
Tuy nhiên đêm đêm, nhiều khi ngay từ chiều, người dân Hà Nội đều nghe thấy tiếng súng ầm ì. Hằng ngày luôn luôn có tin xe hàng Hà Nội Nam Định, Hà Nội Bắc Giang, Ha Nội Hải Phong bị mìn, thương tích, chết chóc...  
Tết vừa qua bà Phán chẳng làm gì. Giò, bánh chưng, hoa quả, mứt... đều do Kha, Khóa, Khiết mang lại biếu. Chính Miên Kha, vợ chồng Khiết, Tân cũng tập trung lại ăn Tết với gia đình Khóa. Ngôi trường trung học ở Hưng Yên do Khóa, Tân thay phiên nhau tận tình trông nom đã gần hoàn thành. Khu xây cất lần này rủi gặp phải khoảng lầy trũng cũ nên nền móng ngốn đã khá nhiều gạch vụn, xi măng, bê tông mà vẫn lún, phải làm lại hai lần. Nhưng qua mấy lần xây cất trước, Khóa đã luyện nghề cho phu thành thợ, đã giao khoán công tác cho thợ để họ biết tính toán mà rồi đây có thể thành tiểu chủ nhân đứng ra điều khiển lấy những công việc thầu nhỏ, nên tất cả đều nhớ ơn Khóa. Họ họp nhau luôn, bàn bạc mau lẹ và thành khẩn rồi nai lưng làm miết để kịp hoàn thành công tác đúng với giao kèo.
Cũng vào đầu xuân này, Khiết đã có nhã ý hoàn thành việc ấn loát thi phẩm đầu tiên của Kha sau khi cho phát hành văn phẩm đầu tiên của Luận. Nhưng trong tình thế đất nước như thế, mùa xuân của Kha chẳng vì thế mà hé chút ánh hồng. Vân còn ở Hà Nội kia mà Kha không hề nghĩ đến tặng nàng tập thơ như chàng đã trân trọng tặng Miên. Kha cho rằng mối tình đầu của chàng tặng Vân đã là cả một bài thơ quá đẹp, quá thiết tha rồi chăng?
Phải lại thăm Vân! Phải lại thăm Vân ngay, vì có thể một ngày rất gần đây nàng ra hậu phương vĩnh viễn! Kha nghĩ vậy rồi lái xe theo đường về Hàng Vải Thâm. Ánh nắng buổi trưa đầu xuân mà vẫn bâng khuâng quá, từng đợt gió lạnh ùa tới thảng thốt, mùa đông như còn để lại luồng từ điện ưu uất để cố kéo dài sự hiện diện của mình. Càng gần tới nhà Vân (chàng biết chắc chắn nàng thế nào cũng có nhà, còn mong đợi chàng là khác) cái nhìn ưu tư của Kha càng như rọi sâu vào khoảng không phía trước, tựa như chàng đương đàm thoại ngầm với một hình bóng quen thuộc nào chỉ có chàng nhìn thấy.
Người đến như trong một giấc mơ, người tiếp như trong một giấc mơ.
-  Vân ạ, anh biết có một loài hoa ngày nay không có ờ thế gian này!
Vân ưa mà sợ tiếng nói của Kha, tiếng nói dịu mà sắc, êm mà mãnh liệt. Nói chuyện với Kha bao giờ Vân cũng lâm vào tình trạng phức tạp của kẻ sợ đau đớn mà lại ưa đau đớn, y như kẻ biết nặn nhọt là đau nhưng lại thích nặn nhọt vừa xuýt xoa chảy nước mắt vì thỏa niềm mong ước. Căn phòng bỗng biến thành nhà mồ, Vân thu người ngồi gọn vào góc đi văng đối diện với Kha.
Tiếng Kha hỏi:
- Vân có nghe anh nói không?
Cúi đầu mĩm cười, Vân nhấc khẽ để tỏ rằng không những mình có nghe mà còn chờ đợi câu chuyện:
-  Có một loài hoa ngày nay không có ờ thế gian này! Anh lại định kể chuyện cổ tích?
Kha nhớ lại Miên hằng ca ngợi tài kể chuyện của Hiển và chàng đáp:
-  Người kể chuyện cổ tích phải như Hiển, người nghe chuyện cổ tích phải như Miên mới thích hợp.
- Anh nói Hiển nào, Miên nào?
-!
-  Em nhớ ngày nào anh xuất khẩu kể chuyện người lính thú “Ngang lưng thì thắt bao vàng”. Anh vẫn có tài kể chuyện cổ tích.
- Nào biết rằng đây có là chuyện cổ tích! Kha đáp.
Thốt nhiên Vân thấy thèm được nghe một câu chuyện cổ tích như nàng vẫn thèm hlnh ảnh Kha, nhưng phải là thứ chuyện cổ tích xuất khẩu thành chương do chính Kha kể. Hai người gần nhau chỉ nói những điều không đáng nói và chẳng bao giờ nói những điều thiết tha muốn ngỏ. Phải chăng lần nay tình yêu đã nung chảy im lặng để bắc cầu thông cảm cho cả hai? Kha kể chuyện cổ tích thật!
- Anh vẫn nghĩ rằng ngày xưa đã từng có một loài hoa ngày nay không còn nữa. Ngày đó đôi trai gái ôm trong lòng mối tình bất diệt với ý nghĩ chung: có yếu tố âm, có yếu tộ dương thì quay cuồng quên vũ trụ. Càng không lấy đựợc nhau họ càng muốn gần nhau, càng gần nhau họ càng phải xa nhau... Họ muốn hòa đôi tâm hồn làm một, nhưng tâm hồn bị hãm trong nhà tù xác thịt cho nên dù gần đến đâu họ vẫn thấy là xa. Họ chỉ có cảm tưởng gần nhau đôi chút khi ở thật xa nhau... thật xa khuất.
Vân muốn khóc rồi, nhưng cố giữ nước mắt vì giây phút đau đớn mà nàng hồi hộp đợi chờ đã tới, nàng phải cố giữ nước mắt để nghe cho hết câu chuyện, câu chuyện của chính hai người.
Rồi họ nghĩ càng xa khuất lại càng gần nhau. Họ đã nhầm! Khi cả hai cùng chết - mỗi người chết ờ một phương xa- trên mồ mỗi người cùng mọc lên một thứ hoa và hoa cùng nở vào một ngày một giờ. Buồn thay không gian xa cách, gió thổi quẩn thổi quanh chẳng để hương hoa gặp nhau. Hai cây hoa cố vươn lên, rễ lỏng, một cơn gió lốc thổi bật rể, cả hai thân cây gục héo trên mồ, cơn lốc cuốn theo hạt hoa, đến một hoang đảo. Hai hạt đã nẩy mầm thành hai cây hoa nhưng lần này vì gần nhau quá nên hai thân cây quấn vào nhau, các cành mềm đan vào nhau đề rồi một ngày kia mặc dầu sóng yên biển lặng, hai cây hoa bỗng bốc lên thành một cơn lốc ánh sáng không để lại một vết tích gì trên đảo. Kể từ đấy trên thế gian thiếu hẳn một loài hoa, một loài hoa mà thế gian chưa kịp đặt tên.
-  Đời người lắm chuyện phi lý phải không anh - Vân hỏi, thái dương đập mạnh, đầu choáng váng.
-  Và hiện giờ chúng ta cô đơn -Kha đáp - nhưng nếu đã có người gầm thét vì cái phi lý, nguyền rủa để xua đuổi cô đơn, ai cấm chúng ta cắm hoa cho cuộc đời? Muốn có hoa cắm thì phải trồng hoa đã, trồng ngay ở hồn mình thứ hoa ngày nay không có ở thể gian này.
Tự nhiên Vân tiếp lời:
-  Không có vì đã có một ngày, ngày xưa, chúng hòa biến vào thành cơn lốc ánh sáng.
Giọng Kha bỗng rắn đanh:
- Vân! Anh muốn đưa em đến một hoang đảo ở đó anh ăn thịt em!
Kha đứng dậy và Vân cũng đứng phắt theo, lùi lại một bước:
-  Mẹ em sắp vào kìa anh ơi, đừng, anh về đi.
Kha dừng lại nhìn Vân cười bâng quơ...
Chàng về.
Chàng về thật.
VI
Chiều thứ bảy này vào hồi ba giờ Miên đến thăm gia đình một người bạn nữ y tá trên tầng thứ ba một căn nhà đường Halais. Miên gõ cửa nhầm phòng. Cửa mở, trước mặt nàng là một người đã đứng tuổi, đầu chải mượt, áo quần tề chỉnh, y đang sửa lại nơ, khuôn mặt gầy xanh (Miên đoán vì trác táng) mày râu nhặn nhụi và mùi nước hoa tỏa ra phong nhã, y sắp đi xi nê hay sắp đến nhà người tình? Miên xin lỗi y vì sự lầm lẫn của nàng, y lim dim con mắt rồi khẽ cúi đầu đáp lễ với đầy đủ phong thái của một Sở Khanh tân thời. Tự nhiên Miên thấy nhớ Kha vô cùng. Miên nghĩ đến lời nói của Khiết phê bình hài hước về Kha ngày nào: “Thằng cha hồn nhiên như cây cỏ kể cả khi hắn tội lỗi, tội lỗi mà hồn nhiên thì cũng chẳng còn là tội lỗi nữa!” Tìm thấy căn phòng thuê của gia đình bạn, Miên ở lại nói chuyện một giờ và có điều làm Miên vui hơn. Nguyên do tại căn phòng đối diện của một gia đình khác, thằng bé chừng lên bốn nói với bố: “Bố ăn khỏe quá!” Tức thì người mẹ - lớn hơn Miên chừng dăm sáu tuổi - răn con: “Không được nói thế phải tội con nhé, bố phải ăn khỏe để đi làm kiếm tiền nuôi con chứ”.
Từ giã bạn, Miên rẽ qua chợ Đồng Xuân mua được con cá chép khá lớn. Nàng dự định mâm cơm chiều sẽ có cá rán, đầu và đuôi cá sẽ nấu canh dấm khế với rất nhiều cà chua, khế và hành tây cho ngọt nước. Kha vẫn ưa món canh này lắm. Trong bữa ăn này Miên sẽ cám ơn Kha đã tặng nàng tập thơ. Chẳng biết có nên đọc mấy bài ngắn mà nàng rất thích và đã thuộc lòng?
Khi Miên xách cá vào bếp lũ trẻ con cùng dãy ùa vào xem, chúng reo lên: “Ồ này con cá nó khóc chúng bay ơi”. Miên chú ý nhìn xuống, con cá bị phơi trên cạn đã lâu, có hai hạt nước mắt ứ lên như hai hạt sương sớm. “Mình sẽ khóc như vậy - Miên nghĩ - nếu anh Kha chết trước mình”.
Sau câu chuyện “Có một loài hoa...” Kha thẫn thờ tự nhà Vân về. Kha đi thẳng vào nhà không để ý đến Miên đứng ở cửa bếp. Cơm nước Miên đã làm xong. Lúc đó vào khoảng sáu giờ chiều, trời tuy âm u về phía bờ sông nhưng còn sáng rõ lắm về phía hồ Hoàn Kiếm. Miên từ bếp lên, Kha ngồi trên chiếc ghế gần ngay cửa ra vào, chàng cười, chào lại Miên, nụ cười cố làm cho tươi nhưng rõ ràng gượng gạo. Miên tiến thẳng vào trong, lau lại bàn ăn, sắp lại máy chiếc ghế cho ngay ngắn.
Tiếng ghế khua động làm Kha ngẩng đầu lên. Khuôn mặt hiền dịu của Miên trông nghiêng trong bóng tối càng nhiễm tính chất chịu đựng. Đôi mắt Kha thoáng tia sáng, chàng khẽ đạp cho cánh cửa từ từ khép lại. Những nét cử động của Miên hoàn toàn chìm trong bóng tối của căn phòng. Bỗng Kha đứng phắt dậy, chàng mở tung cửa đi vút ra ngoài ôm đầu choáng váng:
Mình thật là một thằng khốn nạn! Mình thật là một thằng khốn nạn! - chàng lẩm bẩm và cố xua đuổi hình ảnh Miên. Kha vừa ra khỏi cổng thì trời đổ mưa.
Thế là đời chàng đã hai lần gặp hai trận mưa đầu xuân bất ngờ. Trận mưa bất ngờ đên xuân trác tuyệt năm nào sao mà thần tiên huyền ảo, trận mưa này sao mà đốn mạt!
“Mưa lớn nữa đi cho đầu mình dịu xuống - Kha nghĩ tiếp - đồng thời chàng nhận ra mình vừa đi qua cửa nhà Diễm.
Không một chút ngập ngừng, Kha quay lại bước lên bậc, gõ cửa. Cửa mở.
Anh vào, mời anh vào ngay kẻo mưa ướt hết giờ - Diễm nói. Kha ngơ ngác nhìn quanh rồi hỏi:
- Các con của cô đâu?
Bà ngoại của cháu lên chơi được mấy hôm nay. Cụ quý các cháu quá, cụ vừa ôm cháu bé vừa làm cơm dưới bếp, cháu lớn quẩn bên chân cụ.
Kha thò tay vào túi giữ chiếc ví bên trong chiếc chìa khóa Tân gửi - (Tân vẫn gửi chàng chìa khóa mỗi lần đi Hưng Yên trông nom công việc). Chàng nhìn Diễm giây lâu rồi nghiêng đầu ghé lại hỏi thầm bên tai nàng:
- Đi theo anh bây giờ được không?
- Được chứ! - Diễm đập.
Trong khi Kha vẫy chiếc xích lô đã giương mui, che bật, Diễm xuống nói với mẹ:
- Con có việc cần phải đi đằng này một chút mẹ nhé.
- Giời mưa mà con? - bà cụ hỏi lại.
- Mưa cũng phải đi mẹ ạ.
Dứt câu Diễm mỉm cười vì trong lòng như vang lên câu nói tiếp: “Càng mưa càng hay!”
Căn phòng Tân thuê vừa khuất vừa tối, vừa hẹp. Khi Kha vặn khóa mở cửa, một mùi mốc ẩm hôi hôi ùa ra phả lên mặt chàng. Diễm hầu như không nhận ra điều đó, nàng đi sát bên Kha.
Ánh đèn bật lên. Chao ôi, mới có hơn một tuần Tân không về mà mạng nhện giăng đầy nhà, cứt chuột đầy trên đỉnh màn và trên nệm của chiếc giường cá nhân. Chắc hẳn vào lúc đêm khuya lũ chuột phải đến đây quần tụ khá nhiều mới đến nỗng nỗi này, cứt chuột nhan nhản trên đỉnh màn, đầy ắp trong cậc kẽ nệm trông như thuốc tễ, phân mới đen nhanh nhánh, phân cũ đen xạm, một sổ đã dinh chắc vào vải mềm.
Lấy chiếc chổi ở góc nhà kìa, em - Kha nói - rồi quơ cho hết mạng nhện và quét cho sạch nhà.
Trong khi Diễm đến góc nhà lấy chổi, Kha giựt nghiêng dinh màn, phân chuột rơi xuống lả tả lẫn vào với nhịp mưa bên ngoài. Chàng rũ nệm, có một số lớn phân chuột đã khô cứng dính chặt vào kẽ nệm, Kha phải lách ngón tay vào để gạt ra cho hết.
Diễm quỳ ở giữa giường buông màn xuống. Kha chui vào, một mùi hôi ẩm chùm lấy chàng như ngày nào chàng bước chân vào hang dơi gần hồ Ba Bể, Bắc Kạn.
Diễm thốt tiếng cười khẽ dưới sức nặng của Kha.
-  Khi em cười vành môi căng ra trông đẹp lắm!
Nói đoạn Kha cúi xuống hôn Diễm, hai vòng tay xiết chặt. Nhận trọn vẹn cái hôn của Kha xong Diễm cắn khẽ bên tai Kha nói như rên:
- Yêu anh, em yêu anh từ lâu rồi, anh!
Tuy bóng tối bất ngờ ập tới, Miên cũng kịp thoáng nhận thấy vẻ mặt Kha khá hung dữ khi chàng vừa lấy chân đẩy cho cánh cửa từ từ khép lại. Miên hiểu ngay cớ sự. Lồng ngực nàng bỗng tâng hẫng, trái tim như vừa rơi đâu mất, hai tay nàng phải níu lấy thành bàn để đứng cho vững. Rồi nàng trở lại trạng thái bình tĩnh ngay, bình tĩnh lạ thường, óc thoáng nghĩ nếu Kha tiến lại, nếu Kha ôm, nàng sẽ mím môi phó mặc không chống cự mảy may, có thể rồi nàng cũng vòng tay ôm Kha, ôm nhè nhẹ không chống cự mảy may, có thể rồi nàng cũng vòng tay ôm Kha, ôm nhè nhẹ không thám tháp vào đâu với sức Kha lúc đó.
Nhưng...
Cánh cửa bỗng mở tung, Kha ôm đầu bứt đi khỏi. Miên tưng hửng, lần này sự tưng hửng kéo dài cho đến lúc mưa đổ xuống. Nàng tiến ra gần cửa, ngồi vào chiếc ghế Kha vừa ngồi rồi thốt nhiên ôm mặt khóc rưng rức, đôi khi tiếng khóc nức lên át cả tiếng mưa rơi bên ngoài. Nàng tủi hổ cho nàng, tủi hổ cho thái độ - tuy thầm kín - sẵn sàng hiến thân cho người minh yêu mà cũng không đạt. Nàng biết Kha sẽ không về ăn cơm. Cơm ôi canh nguội còn ở dưới bếp kia.
Miên ngẩng đầu nhìn ra ngoài qua hàng nước mắt. Mưa rơi mau đều đều kẻ những đường xiên dầy dặc không gian. Thỉnh thoảng một cơn gió ào tới, những đường xuyên hỗn loạn thành những khoảng trống lớn như vết chân vội vã của một quái vật vô hình lướt qua để lại. Giọt gianh khoan thai hơn, đều dặn hơn, liên tiếp thành từng dòng. Miên cũng cảm thấy lòng mình lắm mâu thuẫn như tạo vật ngày mưa, cũng có cái gì hoang dại đổ xuống thành thác mênh mông chan hòa, cũng có cái gì xao xuyến để lại những vệt trống trong hồn, cũng có cái gì tuần tự và liên tiếp rỏ xuống trái tim tệ dại trống trải bốn bề.
Bóng tối đổ xuống, mưa vẫn rơi đều, âm thanh buồn dằng dặc. Thấp thoáng ánh đèn, ánh đèn đêm mưa khi mờ khi tỏ nhiều khi lấp loáng như bò vào những vũng nước. Miên vẫn ngồi chỗ cũ, nàng như khao khát, như chờ đợi mội cái gì. Một cái gì vẫn gần mình đấy mà sao cách trở sơn khê?
Phần ii
Chương 11
Một sự chuyển hướng
i
Chỉ vì một cơn sốt rét?
Thì bao giờ sau cơn sốt rét người ta chẳng cảm thấy cả cơ thể và - nguy hiểm hơn nữa - cả tâm hồn bị tàn phá tan hoang, đúng như hình ảnh hồng huyết cầu bị vỡ nát trong cơn sốt theo lời tả của bác sĩ.
Những tù binh Pháp, Đức, Hung, Hòa Lan, Bỉ... to lớn như hộ pháp mà chỉ ba cơn sốt rét không kịp có thuốc là ra đi vĩnh viễn. Cơ thể quân dân Việt kháng chiến dẻo dai hơn chịu được sốt rét kinh niên, nhưng tâm hồn thì không, sau trăm cơn sốt y như cả nghìn, minh cảm thấy một sự chán chường, một sự trống rỗng ghê gớm; còn tin còn yêu cái gì ư, chỉ là dựa vào kẻ khác mà tin mà yêu đấy.
Đến nhà Đạo được hai hôm thì bất thần Chủy lên cơn sốt rét - cơn sốt rét nào mà chẳng bất thần - biết bao lần trước đây trên bước đường công tác, Chủy đương khỏe mạnh bỗng rùng mình một cái nhẹ, rất nhẹ, nhưng thôi thế là có chạy đàng giời cũng không thoát, cơn sốt đã khởi sự, rồi cứ thế tuần tự và chắc chắn dâng lên như triều, không một sức mạnh vật chất hay tinh thần nào cản nổi.
Nhưng lần này Chủy lên cơn sốt ở miền quốc gia, sau hơn một tháng giời bị bắt xa vợ, xa con, xa bầu không khí có đảng tính! Rồi đương lúc lên cơn sốt thì lại gặp Khóa tới nhắc lại chuyện cha mình xưa, rồi lại kể chuyện đã từng mơ thấy lên thiên đường, xuống địa ngục... Trong khi đó vợ chồng Đạo săn sóc Chủy thật chu đáo và thật tình, rồi nếp sống gia đình của vợ chồng Đạo với lũ con của họ... còn phải kể đến giấc mộng trước ngày lên cơn sốt rét, mà nếu kể giấc mộng này thì phải ôn thêm một giấc mộng khác nữa, và không thể bỏ qua mối đam mê mãnh liệt của Chủy đối với người vợ trẻ đẹp: Vân! Nhưng dù sao thì nguyên nhân chính vẫn là cơn sốt rét kia, nó làm tâm hồn Chủy tan hoang rã rời đúng lúc dừng bước trong vùng quốc gia. Trận sốt đó chính là trận bom mở đường cho quân thù đổ bộ. Có thể là những triền phóc rất “người” của con người vẫn bám lấy Chủy, lẩn trong tiềm thức, nhưng ờ miền của Đảng, còn các đồng chí xung quanh chống đỡ và giữ vững bầu không khí đảng tính cho mình khỏi lạc lõng, khỏi bơ vơ, khỏi “sa ngã”, đằng này thì...
Âu đó cũng là tác dụng phong phú của cái miền tiểu tư sản tự do cá nhân này - (lời dè bỉu của Chủy) - của cái miền mà Kha trước đây mệnh danh là... khu rừng già.
Vân và Tân và cả vợ chồng Đạo nữa vô tình đâu có biết điều đó.
Từ trại tập trung lộ thiên ngoài tiền tuyến chiến dịch Citron, toán tù binh, trong số có Chủy, trên đường về camp Hải Dương, được lệnh tạm ngừng lại trước khi vào tỉnh. Chủy ngồi phệt xuống đám cỏ dầy bên lề đường cúi gầm mặt xuống đăm chiêu đấy mà không suy nghĩ gì cả vì chưa biết hoàn cảnh sẽ đưa đẩy ra sao để mà tìm cách đối phó. Bỗng có tiếng ai gọi:
-  Có phải chú Chủy đó hay không?
Thoáng nhìn người gọi mình Chủy nhận ra ngay là Đạo người cùng làng (Lại Vũ) con cụ huyện Từ, Chủy vội đáp:
- Vâng, chào anh!
-  Chết chưa, sao chú bị bắt thế này?
- Tôi bị bắt trong chiến dịch vừa qua bên bờ sông Luộc.
-  Chú tản cư ở đấy à?
Chủy đoán là Đạo có tản cư nhưng vào thành sớm nên không biết gì về thành tích hành động của mình dưới bí danh Mạnh. Đạo hỏi luôn vì thấy tên đội Sénégalais canh toán tù binh đã ngửa cổ uống xong hộp bia, quẳng chiếc hộp ra xa và sắp ra lệnh cho tù binh đi vào tỉnh:
-  Chú bị bắt có tang vật gì không?
Chủy đáp ngay:
-  Không anh ạ.
-  Nếu vậy chú liệu khai cho khéo, tất nhiên được thả sớm, tôi hiện làm bí thư cho ông tỉnh trưởng, nhà số 3 phố Hoàng Hoa Thám, chú được ra nên qua đằng tôi, anh em nói chuyện, về phần tôi ngoài này, tôi cũng cố xem có thể giúp chú được gì không.
Tên đội Sénégalais đã vỗ tay ra lệnh cho tù binh đứng dậy xếp thành hàng hai... Đạo từ biệt Chủy.
Đạo là con trai duy nhất của bà huyện Ba và cũng là cậu ấm bình dân nhất trong số những cậu ấm cô chiêu con cụ huyện Từ. Có lẽ vì là con bà Ba nên chất quan cách loãng đi, số anh chị em một cha ba mẹ lại quá đông nên sự chăm nom săn sóc nặng tính chất nề nếp hợp lý mà rất thiếu về tình cảm thắm thiết. Nề nếp ấy giữ cho Đạo được ăn học theo đúng con giòng cháu giống; sự thiếu tình cảm kia đã khiến Đạo tìm lối thoát theo thiên tính ưa bông lơn để chàng dễ gần với đám người bình dân. Chủy nhớ là Đạo vẫn hay mặc quần áo nay bằng vải phin trắng nõn hay bằng lụa tơ tầm vàng ngà, rất quý phái, nhưng lại ngồi xổm bên bác đánh vó hay ngồi giữa đám nông phu trong quán nước để tán chuyện gẫu. Lúc Đạo thoạt gia nhập ai nấy thường e dè, nhưng chỉ qua đi vài câu bông lơn có duyên của Đạo là tiếng cười hòa đồng ngay và bức thành giai cấp tự nó xụp đổ. Tiếng vẫn theo học ở Hà Nội nhưng Đạo vẫn gần gũi với quê hương là thế. Cho đến ngày trưởng thành - ngày cưới vợ - Đạo được cha tậu cho một dinh cư riênq ngay sát bên căn nhà tranh nghèo của mẹ con Chủy. Đạo hơn Chủy độ năm sáu tuổi, bà đồ Thinh có giải thích cho Chủy hay là bà huyện Ba với ông đồ có liên hệ xa xôi chị em con già con dì. Đạo vẫn thân mật gọi Chủy là “chú Chùy” và lẽ cố nhiên nhiều khi đùa cợt với Chủy, nhưng Chủy rất ác cảm với vợ Đạo. Đạo hai mươi nhăm tuổi mới lấy vợ - ở nhà quê như vậy là muộn lắm - vợ Đạo cũng là con quan. Chủy thấy cử chỉ, lời ăn tiếng nói của vợ Đạo rất cao kỳ, tiếng gọi con sen kéo dài đài các: “Seeen!”, giọng mắng sang sảng “Mày ngu lắm seeen!”, giọng sai bảo cũng sang sảng: “Nghe tao đây seeen!” Chủy nghe mà lộn ruột. Thoạt nhà Chủy với nhà Đạo chỉ cách nhau có hàng rào dâm bụt, vợ chồng Đạo về ở được một năm thì cho xây tường dầy hai mươi phân, cao hơn đầu người. Thế càng hay, Chủy khỏi phải nhìn thấp thoáng bóng đài các của người đàn bà con quan kia, và tiếng nói sang sảng của người đó cách ngỡ tường dầy cũng đỡ làm Chủy muốn nổi xung. Mỗi khi thoáng gặp vợ Đạo từ xa lại, Chủy tránh sang ngõ khác ngay, Gớm mặt! Thực ra vợ Đạo chưa hề một lần thất lỗi với mẹ con Chủy; đôi khi có điều gì nói với bà đồ Thinh, người đàn bà con quan ấy giữ đúng lễ vai dưới, thưa gửi trịnh trọng, nhưng Chùy vẫn thấy... “thế nào ấy”; thái độ lễ phép kiểu cách ấy vẫn như là một loại xa xỉ phẩm mà kẻ giàu sang bố thí cho kẻ nghèo hèn. Chính vì thế Chủy càng ghét vợ Đạo thậm tệ và luôn luôn tự nhủ thầm: “Con mẹ mới kiểu cách giả dối làm sao!”
Có lẽ tại Chủy nặng tự ty mặc cảm quá!
Khi có phong trào hoạt động Việt Minh bí mật thì vợ chồng Đạo lại ra Hà Nội ở, nhà gửi một người nghèo trong họ. Những ngày đầu kháng chiến, Chủy có nghe nói vợ chồng Đạo tản cư ít ngày về phía cổng Thần, Chợ Đại (Liên Khu III) rồi trở về Thành ngay.
Bị nhốt ở camp Hải Dương khoảng mười ngày thì Chủy bị gọi lên hỏi cung với một trận đòn phủ đầu tối tăm mặt mũi: “Mày có phải cán bộ Việt Minh? Mày có phải Việt Minh quan trọng?” Chủy chịu được đòn, khai rằng mình là thường dân tản cư đến miền đó, rằng mình vẫn định dến Hải Dương thăm người bà con làm bí thư cho ông tỉnh trưởng hiện ngụ tại số 3 phố Hoàng Hoa Thám, rằng nếu được gặp người bà con áy mình sẽ xin giấy tờtrở về quê cũ...
Lời khai khôn ngoan của một cựu chủ tịch huyện, đương kim tỉnh ủy viên, có thừa mánh lới, kèm theo bộ mặt nông dân với đôi mắt biết kịp thời dịu tia nhìn cho đượm phần chất phác, đã khiến Chủy chỉ bị ba trận độn đầu rồi được tha. Để phòng nhì cùng công an chỉ điểm quốc gia thật yên chí về sự ngay tình của mình, Chủy hỏi thăm đường tìm đến nhà số 3 Hoàng Hoa Thám. Dự định tới thăm Đạo, Chủy còn thâm ý muốn dò la cho rõ tình hình địch và bù nhìn về nếp sinh hoạt thường nhật, vệ quân sự cũng như về tổ chức hành chánh để tiện bề lãnh đạo sau này khi trở về vùng kháng chiến, trở về với bí danh Mạnh, tỉnh ủy viên Hải Dương.
Đầu tuy đã chải khi ra khỏi trại giam nhưng vì lâu ngày chưa húi nên tóc sau gáy và hai bên thái dương khá dài làm Chủy thấy bận bịu; sự bận bịu đó khơi dậy sự bận bịu trong thâm tâm Chủy hằng có với vợ Đạo từ xưa. Vô tình Chủy giơ tay lên vuốt lại mái tóc từ đĩnh đầu xuống gáy, nghĩ thầm: “Con mẹ đó trông thấy mình ăn mặc như thế này, đầu tóc như thế này, nó khinh phải biết! Cái giống tiểu tư sản quan liêu thoái hóa đó sớm muộn cũng phải tiêu diệt chúng cho bằng hết!”
Ai xôi vò chè đưừng! Tiếng rao lanh lảnh của cô bán xôi chè đường tiến lại, Chủy né mình tránh. Mùi nước dùng ngào ngạt cũng vừa ấp tới phà ấm mặt, Chủy đưa mắt nhìn vào hàng phở ngay bên, khách đương đông, tíu tít kẻ ngồi người đứng, kẻ ngẩng nhìn chờ đợi, người cúi ăn mải mê, tiếng nói xen tiếng cười... Qua hiệu phở đến một cửa hàng tạp hóa khá lớn, sát tường phía trong cùng, những chai rượu vang, rhum, champagne đủ các nhãn hiệu xếp thành hàng dài trên kệ cao nhất, mấy kệ dưới là những đồ hộp, những lọ kẹo, đường, bánh ngọt, cà phê... hai tủ kính phía ngoài nhan nhản những thứ hàng xa xỉ. Ngoài kia giá có được cắt cái móng tay chẳng hạn, đã là quý, mà ở đây biết bao những hàng quý gấp ngàn lần bầy la liệt, thừa mứa. Tiếp đến mấy gian liền những cửa hiệu sản xuắt bánh đậu, bánh khảo nổi tiếng khắp Bắc Việt, mùi vani quyện với mùi đường mùi bột thơm phức.
Một lần nữa Chủy giơ tay vuốt mớ tóc dài rối lầm bầm: “Chúng nó phè phỡn trong bơ sữa thế này không hèn sao được?”
(Chỗ này Chủy lại quên béng mất tư tưởng mấu chốt của người cộng sản: vật chất quyết định)
Chủy đã rẽ sang tay trái: phố Hoàng Hoa Thám!
II
Chủy ngừng lại trước cửa nhà số 3, đúng rồi nhà Đạo. Tiếng Đạo từ trong vẳng
ra:
- Bu mày ơi sao chỗ này khai khai thế này?
- Con ông nó đái chứ còn ai vào đây nữa.
Giọng trả lời sang sảng đó là giọng vợ Đạo, Chủy còn nhận ra.
- Thằng mặt dài trí thức đái hay thằng mặt tròn nông dân đái?
- Thằng mặt tròn nông dân đái! Chỗ ấy trước chả có một kẽ nẻ xi măng, ông ấy lấy que bới lên thành một cái hố nhỏ rồi lúc nào mót là ra đấy vạch quần đái vào.
- Hừ! Đúng là thằng hồn nhiên! À nó đây rồi, tại sao mày đái ra sân cảnh của cậu, khai bỏ mẹ!
Tiếng thằng bé nhắc lại lời bố:
- Khai bỏ mẹ!
Chủy bám chuông, Đạo ở trong nhà ra reo:
- Ồ kìa chú Chủy, chú đã được tha? May quá.
Vâng, tôi được tha sáng nay, nhưng chờ họ đánh máy xong giấy tờ cũng gần trưa.
- Thì tôi cũng vừa tan sở về đây, vừa kịp thay áo. Mình ơi, có chú Chủy.
Vợ Đạo đã ra, Chủy cúi chào, vợ Đạo đáp lễ rất niềm nở, Chủy không ngờ bầu không khí sớm dễ thở đến thế.
- Chào chị.
- Chào chú. Trời, bao nhiêu năm trời mới gặp chú, chú vẫn thế.
Đạo giải thích lại cho vợ nghe trường hợp Chủy bị bắt. Vợ Đạo gật đầu:
Thôi bây giờ chú được tha là may. Làng Lại Vũ nhà ở đúng vào khoảng tề hai mang chú ạ, thành ra chúng tôi cũng chẳng dám về. Nhất là nhà tôi lại...
Đạo tiếp ngay:
Tôi lại là bí thư của ông tỉnh trưởng! về làng rủi gặp các bố ngoài ấy, nhất định bị cõng đi. Phong kiến phản động mà.
Chủy giữ nụ cười xã giao buổi đầu gặp mặt.
- Bác ạ - Bác ạ - Bác ạ - Bác ạ!
Đạo cười:
- À hà, chúng nó ra trình diện cả. Chúng bay phải chào là “chú ạ” nhé.
Vợ Đạo giải thích:
Ấy chúng nó cứ thấy ai đến chơi với cậu chúng nó thì là bất kỳ già trẻ đều được chào “bác ạ” rồi sau đó mới chỉnh lý sau.
Đạo chỉ từng đứa theo thứ tự từ trên xuống dưới nói với Chủy:
Con này tên Thúy, lười một cây tôi gọi là con Lười. Con này là Liễu đáo để một cây, tôi gọi là con Đáo Để. Thằng này ông trưởng của tôi, tên Quang mặt dài trông rất trí thức, chỉ phải cái tội mồ hôi chua mùi nước dừa để ôi. Thằng cuối cùng mặt tròn má bánh đúc rất hồn nhiên, tên Minh tôi gọi là thằng Hồn Nhiên. Thôi a lê, chúng mày đi vào! Chú Chủy tắm nhé, rồi chúng mình ăn cơm nói chuyện là vừa.
Chủy thấy lây cái vui của Đạo vừa xoa đầu đứa nhỏ nhất vừa nói:
- Vâng xin phép anh chị tôi vào tắm.
Đạo mở tủ lấy bộ pyjama mang vào buồng tắm:
Chú cao lớn hơn tôi một chút, mặc có hơi chật nhưng không sao. Quần áo của chú tắm xong cứ để đấy, chiều nào con sen nhà tôi cũng nấu, giặt một đống quần áo đấy.
- Vâng cám ơn anh, anh cử để mặc tôi.
Và Chủy đóng cửa buồng tắm lại.
Vừa rồi Chủy hơi thụ động trước vợ chồng Đạo, giờ đây một mình trong buồng tắm Chủy vừa kỳ cọ, dội nước, vừa ôn lại những hình ảnh. Đạo vẫn hóm hỉnh, dễ dãi như xưa. Vợ Đạo đã là người đàn bà đứng tuổi bốn con, khuôn mặt với nước da trắng mịn ngày xưa nay đã nhiều vết rám tàn nhang, đôi mắt một mí với cái nhìn thuần thục đượm chút mệt mỏi, người béo bệu, nhưng cử chỉ, dáng đi đứng còn kiểu cách, nhất là giọng nói, vẫn giọng sang sảng. Tự nhiên Chủy lại muốn nổi xung: “Không có cuộc cách mạng tháng tám, con mẹ đó còn hách dịch!” Để dẹp mặc cảm, Chủy so sánh vợ Đạo với Vân. Vợ Đạo thuở trẻ nhất cũng chưa thể ăn đứt được Vân, mà Vân đã là vợ của Chủy! Chùy đã từng thẳng tay đàn áp lũ tiểu tư sản đối lập Đảng, nhưng với Vân bao giờ Chùy cũng thẳng thắn tự nhủ thầm là mình quả đã tốt số lắm. Nếu không có cuộc cách mạng tháng tám rồi cuộc kháng chiến do Đảng lãnh đạo làm sao Chùy có uy thế cưới Vân làm vợ? Đêm tân hôn tại đồn điền Lợi Ký, Chủy - bí danh Mạnh, chủ tịch huyện Thanh Ba - rất e dè khi tiến đến gần Vân. Qua đêm, hôm sau mỗi lần thấy Chủy đi qua, Vân cúi đầu. Bây giờ nhớ lại dáng cúi đầu đó, Chủy còn thấy kiêu hãnh. Đàn bà như thế cả mà! Việc gì phải quá quan trọng hóa nhan sắc của họ. Áy tiếng là nghĩ thế để hạ uy thế Vân, mà sao mỗi lần gần Vân, Chủy vẫn thấy mình là kẻ đã say trước khi uống và càng uống càng thêm khát.
Ít khi Chủy chịu xa Vân quá hai tuần. Nếu có sự đoàn thể thuyên chuyển công tác, Chủy thu xếp cho Vân theo đi liền tới địa phương mới. Một điểm nữa: Chủy hết sức khéo léo tránh việc phải đưa Vân vào đoàn thể. Có lần nhìn đám mây trôi nổi không mục đích trên trời xanh, Chủy cảm thấy mình đã làm phải, Vân cần được tự do ngoài những ràng buộc của tổ chức đoàn thế mới đẹp. Sau này Chủy đặt tên đứa con đầu lòng là Du, “Vân Du” tên hai mẹ con kết hợp lại là hình ảnh mây bay tự do trên nền trời xanh. Tất cả những ý nghĩ đó đều hoạt động ngầm trong tiềm thức, Chủy chỉ là cây nam châm bị hút theo chiều vô hình. Trong bóng đêm dù Vân luôn thụ động - ít khi Vân lộ vẻ cộng hưởng - nhưng người Vân là cả một pho tượng tuyệt mỹ, được ôm cái tuyệt mỹ mà rung động thì cần gì phải kiểm soát xem có sự cộng hưởng hay không.
Chỗ này chúng ta cần biết thêm: Ban ngày thường khi Chủy kín đáo ngắm Vân âu yếm, có lần Chùy bắt gặp Vân nhìn ra xa long lanh đôi mắt và ửng hồng đôi má. Buổi chiều kia Chủy được dự tiệc liên hoan đón một cấp tướng mới ở Liên Khu Tư ra. Toàn các đảng viên cao cấp. Chủy tham dự để được các đàn anh giới thiệu là “một cánh tay điển hình của Đảng đã biết diệt trừ tận gốc mọi mầm mống phản động”. Nghe giới thiệu như vậy viên trung tướng Liên Khu Tư chỉ khẽ nhếch mép cười, đưa mắt nhìn Chủy một giây, gật đầu một cái rồi tiếp tục vui đùa với các bằng hữu khác đã từng là đồng chí với ông từ thuở ở bên Tàu. Chủy không hề mếch lòng, biết phận lắm. Trước khi gặp, Chủy đã biết tiểu sử viên tướng đảng viên cao cấp này, một viên tưởng có tài, từng tham dự đắc lực cuộc vạn lý trường chinh bên Mao Trạch Đông, tính tình nghệ sĩ, giá ở người khác thì đã bị kết tội là tiểu tư sản thoái hóa rồi. ở Liên Khu Tư ông tổ chức hẳn một giây liên lạc nối liền Liên Khu Tư với nội thành để cung cấp đều những sơn hào hải vị cùng rượu và thuốc lá hảo hạng cho ông hằng ngày. Anh em đồng chí còn gán cho ông danh hiệu “Nguyễn Công Trứ của thế kỷ hai mươi”, vì ông cũng tới địa phương nào là có vợ ở địa phương đó, đều là hoa khôi của từng vùng. Người vợ ông mới lấy ở Liên Khu Tư là một tiểu thư con quan, trẻ, đẹp và có học thức, chỉ đáng tuổi con ông.
(Cô có người bạn gái lên Việt Bắc học Luật, cô vẫn thư từ đều với cô bạn này, thư từ viết theo kiểu nhật ký rất... tiểu tư sản, khi thì là mấy dòng cảm nghĩ, khi là một bài thơ, khi là một bản nhỏ mới sáng tác... Điều này Kha biết vì dạo đó - như chúng ta đã biết - Kha cũng học Luật).
Trong bữa tiệc liên hoan Chủy ngồi tít phía cuối bàn, luôn luôn ngắm kỹ viên tướng, lòng thán phục vô cùng (nếu ông không phải đảng viên, lại ngang cấp với Chủy tất có thể bị Chủy thủ tiêu). Khuôn mặt ông xương xương lưỡng quyền nhô cao, hai bên quai hàm bạnh, cằm nhọn, rau cạo nhẵn nhưng trông cũng biết là cứng và ráp. Ồng nói rất có duyên, câu trước là chuyện đảng đấy, câu sau có thể đã là chuyện trai gái. Mọi người im lặng theo rõi từng lời khi ông đang nói dở, rồi cười theo ông khi câu chuyện chấm dứt. Người ta đồn ông có thể diễn thuyết bốn năm tiếng đồng hồ liền khống cần môt mảnh giấy nhỏ ghi trước dàn bài, có lẽ đúng, vì Chủy thấy càng sâu vào tiệc ông nói càng thao thao, nhất là trong tiệc này chắc các đồng chí đều hiểu tính ông nên cũng đủ sơn hào hải vị, rượu hảo hạng và xì gà, y hệt bữa tiệc của một đế quốc tư bản. Chủy còn nhớ mãi một câu ông ta nói: “Diệt tiểu tư sản thì ta cứ diệt, nhưng gái tiểu tư sản thì ta không nên chê chút nào, “bồồng” lắm!
Tiệc tan, Chủy chếnh choáng trở về. Gió rừng đêm lành lạnh lùa vào tận chân tóc và lúc đó Chủy mới dám so sánh thầm Chủy lấy Vân cũng giống như ông tướng kia lấy cô con quan, Chủy còn hơn vị đồng chí đó là tuổi không quá chênh lệch với Vân. Về tới nhà đã tới mười hai giờ khuya, Vân còn thức. Chủy đi rửa mặt nước lạnh, đánh răng thay bộ quần áo cánh nâu mới giặt lòng phơi phới tưởng như khi bước vào phòng chính Chủy quyến rũ Vân đêm đó. Sự thực Vân nằm thao thức nhớ đến Kha, nhớ đến ngày Kha bất chợt về đồn điền; nàng đã là vợ Chùy được nửa tháng, nhớ đến buổi sáng hôm sau Kha ra đi và nàng xách lẵng tất tả lên đồi chè, nói là chè tươi nhà uống đã gần hết cần phải đi hái thêm, sự thực nàng lên đồi ngồi phệt dưới một gốc chẫu ôm mặt khóc nức nở... Chủy về... Vân nằm lắng nghe tiếng nước giội... rồi tiếng guốc Chủy kéo lệt sệt vào buồng (Chủy vẫn còn say), tiếng guốc đó sao mà giống tiếng guốc của Kha. Hồi còn ở Định Quyết, Vân vẫn chê Kha là “vua lười”, nhất là khi Kha đã quen thân với Hãng, mỗi chủ nhật về làng, hai người đi bên nhau, Kha dựa vào Hãng xiêu đổ cả người, tiếng guốc lê quèn quẹt, Vân trông mà phát phì cười. Chủy đã chui vào chăn nằm bên Vân, Chùy đem vào trong chăn hơi sương lạnh bên ngoài làm cảm giác Vân nhớ Kha càng thêm phần tê dại. Chủy nghiêng người ôm Vân, bất giác Vân quàng tay ôm lại. Vân ghét hơi thuốc lá nhưng lần này mùi xì gà làm nàng dễ chịu, nàng nhớ đến một lần Hãng bóc gói Philip mời Kha một điếu. Kha rất ít khi hút, thoạt mân mê điếu thuốc rồi đưa lên mũi ngửi khen thơm như sữa. Hãng quẹt que diêm thứ hai tiếp lửa cho và khi hút Kha thở khói nhìn lên trời dáng điệu thưởng thức cũng thành thạo chẳng kém gì Hãng, đó lại là một điều nữa làm Vân muốn phì cười, vừa khi đó Kha nhìn về phía Vân, nàng bèn mím môi rồi đánh trống lảng hỏi Kha một chữ khó, Kha tiến lại cúi nhìn cuốn truyện chữ Pháp đọc cả câu rồi mới tìm nghĩa cho đúng, lần đó mùl thuốc lá làm Vân thấy dễ chịu. Chủy đã ghì chặt nàng nói những gì bên tai, nàng nào có nghe rõ nhưng nàng cũng ghì lại say mê. Vân ôm Chủy theo hình ảnh Kha, đó là lần đầu tiên Chủy thấy Vân có thái độ cộng hưởng. Nàng có mang rồi sinh ra Du.
III
- Cậu ơi no quá à!
Đạo bế bổng thằng bé út lên vừa hôn liên tiếp ầm ĩ lên hai má nó vừa nói:
-  Ừ sắp ăn cơm đây thằng hồn nhiên của cậu ạ.
Vợ Đạo gắt chồng:
- Hôn gì mà như xúc thịt con!
Đạo cười nói với Chủy khi đó vừa trong buồng tắm ra:
Cái thằng hồn nhiên này biết rất nhiều ngữ vựng rồi, những toàn nói ngược. Đấy rồi chú xem, vừa rồi nó nói “no quá” ấy là nó kêu “đói quá” đấy.
Chủy cười lớn cố xua đuổi hình ảnh Vân đầy ắp trong trí từ lúc Chủy đem Vân ra so sánh với vợ Đạo trong buồng tắm. Chủy giơ hai tay ra nói với bé Minh cũng trạc tuổi Du:
- Cháu Hồn Nhiên ra đây chú bế đi ăn cơm nào.
Bé Minh theo ngay, Chủy bỗng thấy sung sướng như được bế bé Du. Vợ Đạo nói:
Về phía con trai thằng này thiệp liệp hơn thằng Quang nhiều. Bạn của cậu nó tới nhà tự ý nó ra là quen.
Mọi người ra bàn ăn, Bé Minh ngồi giữa Đạo và Chủy. Đạo xoa đầu thằng Quang, cũng ngồi sát một bên và nói đùa:
Con tuy mồ hôi chua nhưng là trưởng nam con ạ, về sau này các chị mà lôi thôi, nó đóng cửa nhà thờ.
Liễu cong cớn:
- Nó đóng cửa nhà thờ con “oánh”!
Thúy đã mười hai nên tinh khôn nhớ lại lời người lớn thường nói, nó vung tay làm điệu không cần:
- Nó đóng cửa nhà thờ thì chúng con cúng ngoài giời, con đâu cha mẹ đấy.
Vợ Đạo đã xới cơm cho cả nhà, thốt lên:
- Ôi chao, chúng nó về sau này Tây Tàu, đã chắc gì chúng nghĩ đến giỗ với tết!
Đạo quay hỏi Chủy:
- À, giỗ ông bà nhà vào tháng nào chú nhỉ?
Cũng may Chủy nhớ ra ngay:
-  Dạ giỗ thầy tôi vào mười hai tháng chín, giổ mẹ tôi vào mùng ba tháng hai.
Kể ra Chủy có thể lúng túng khi bất chợt bị hỏi về ngày giỗ cha mẹ. Suốt thời hoạt động bí mật rồi thời đầu kháng chiến, Chủy đâu có thời giờ rỗi để nhớ đến ngày giỗ. Kịp khi cưới Vân ít bữa sau tới ngày giỗ mẹ. Chủy sực nhớ và bảo Vân làm giỗ. Ông bà Phán hỏi thêm về ngày giỗ ông Đồ. Từ năm sau Vân tự nhớ hai ngày giỗ lớn đó, cận ngày công tác thì Vân nhắc Chủy nhớ về, xa ngày công tác khi Chủy về đã xong ngày giỗ thì Vân nhắc lại. Thái độ đó của Vân ảnh hưởng đến tâm hồn sắt đá của Chủy đương thời thẳng tay tàn sát các đảng viên quốc gia đối lập.
Trong bữa ăn vợ Đạo hỏi Chủy về vợ con. Hình ảnh Vân vừa lãng quên lại ùa vào tràn đầy trong trí. Chùy đáp:
-  Cám ơn chị, chúng tôi được một cháu giai bằng cỡ cháu Minh đây.
Đạo hỏi:
- Sao chú thím muộn thế?
Chủy lúng túng không biết trả lời ra sao chỉ biết “dạ” một tiếng. Lý do: nuôi con ở vùng hằng ng0y lo chạy bom đạn là một điều cực nhọc vô cùng, dù Chủy là đảng viên cốt cán được nhiều đặc ân. Thương Vân, Chủy đã nhờ các đàn em công tác nội thành mua hộ một số đồ cao su dự trữ để tránh cho Vân khỏi sinh nở nữa.
Con sen bưng lên một đĩa lớn, bé Minh bỗng thét lớn:
-  Mợ ơi nó cắp con!
Vợ Đạo đón lấy đĩa cua bể lột tẩm bột trứng tự tay con sen, đặt xuống bàn rồi vừa cười vừa nói:
- Cua mợ đã rán chín cắp con sao được?
Rồi giải thích với Chủy:
Tuần trước tôi chả mua cua bể thả vào chậu nước vo gạo, cháu tới thò tay nghịch, bị nó cắp cho chảy máu.
Vợ chồng Đạo chuyển sang chuyện hồi tản cư ở cống Thần, Chợ Đại, nơi vui nhất mọi miền kháng chiến.
Thúy hỏi mẹ:
-  Ngày đó cậu cũng kháng chiến ư hở mợ.
Vợ Đạo “ừ” đáp lời con và bỗng nhiên chuyển sang lời tâm sự:
Mợ có linh tính lạ lắm kia. Mỗi lần cậu đi làm việc tại cơ quan thường lâu lâu mới về, nhiều hôm linh tính báo cho mợ hay là cậu sắp về, mợ ra ngoài vườn thơ thẩn nhìn con đường đất đỏ phía trước, quả nhiên cậu con về thật, từ xa đi lại, thoáng nhìn mợ nhận ra ngay.
Liễu hỏi:
-  Linh tính là gì hở mợ?
Vợ Đạo còn đang lúng túng chưa biết trả lời ra sao, Quang đã hỏi:
-  Ngày đó con có đi với Cậu không hở mợ?
Đạo bật cười đặt bát xuống xoa đầu nó:
-  Ngày đó mày còn ở nước nam nứ nào!
Vợ Đạo nói với Chủy:
- Thật ra ngày đó tôi mới có mang cháu Quang này, rồi vào Thành thì đẻ cháu.
Câu chuyện trong mâm cơm cứ dìu dịu như vậy cho đến khi dùng đồ tráng miệng.
Con sen đã dọn xong căn buồng dành cho Chủy.
Căn nhà gia đình Đạo ở khá sâu: gian ngoài cùng bày biện làm phòng khách; buồng kế tiếp - buồng vợ chồng Đạo dành riêng cho Chủy - có kê chiếc giường nhỏ, chiếc bàn viết và một chiếc ghế dựa; vào trong, qua cái sân hẹp có bể trữ nước mưa, tới căn phòng vợ chồng Đạo với chiếc giường xinh cho đứa nhỏ, bên trên là căn gác xép vừa làm phòng học, vừa làm phòng ngủ cho ba đứa lớn, trong cùng là bếp và giường cho con sen mới chừng mười lăm tuổi.
Đạo thân mật bảo Chủy:
- Chú nghỉ trưa một chút cho lại sức. Buồng này dành riêng cho anh em bà con hay khách khứa đấy. Chú ở đây với chúng tôi ít nhất một tuần đi, nghỉ ngơi cho thật khỏe rồi hãy tính chuyện ra ngoài ấy với thím và cháu.
Chủy bỗng chớp mắt, vừa lúc bé Minh vào, Chủy bế bé lên và nói:
- Tôi nhớ cháu lắm, tôi phải ra ngoài ấy sớm anh ạ.
- Điều đó tôi không dám giữ chú, nhưng chú nên ở đây vài ngày cho thật lại sức.
Đạo giơ tay đón bé Minh, bế qua sân nhỏ sang phòng mình. Chủy chui vào màn nằm ruỗi thẳng cẳng, mùi chăn, mùi áo gối mới giặt thơm phức làm Chủy thấy tâm thần sảng khoai hẳn.
Tiếng Đạo bên phòng vọng sang cùng với tiếng cười khanh khách từng đợt chấm câu của bé Minh:
-  A cái thằng tròn của cậu - (bây giờ lại là thằng tròn) - cái đầu tròn này, cái trán tròn này, hai con mẳt tròn này, hai cái tai tròn này, hai cái má tròn này, cái mũi tròn này, cái mồm tròn này, cái cầm tròn này, cái cổ tròn này, hai cái tay tròn này, cái bụng tròn này, con. ể. chim tròn này...
Tiếng vợ Đạo gắt:
- Con nó vừa ăn no để nó nghỉ, ông!
Chủy vươn vai một lần nữa nhìn lên đỉnh màn cười bâng quơ, rồi nhắm mắt lại nghĩ đến Vân và Du.
Thằng Du càng lớn càng bụ bẫm, nước da bánh mật khỏe mạnh giống bố, đôi mắt to và đen của mẹ. Chủy yêu vợ thương con nhưng có thừa khôn ngoan giấu kín thứ tình cảm đó để đoàn thể không thể coi đó là một nhược điểm mà phê bình. Thì trước khi cưới Vân đoàn thể chẳng đã ưng và cho phép? Từ sau ngày cưới Vân, Chủy có làm điều gì sơ xuất khiến đoàn thể phải phê bình đâu? Trái lại Chủy càng tỏ ra đắc lực trong công tác luôn luôn thẳng lời “chỉnh” đồng chí nào còn nặng óc tiểu tư sản, luôn luôn dòi thẳng tay trừng trị những tên phản động tại các tòa án nhân dân mà Chủy có mặt trong đoàn bồi thẩmđể ngầm điều khiển cho đến ngày viên thẩm phán tuyên án. Còn Du, việc Chủy yêu nó thật nhẹ nhõm vì đâu đã phải bận tâm uốn nắn tư tưởng cho nó, và yêu đứa trẻ còn nhỏ dại như thế đâu có phạm đến gương mẫu làm giảm uy tín cán bộ?
Ý nghĩ Chủy nghiêng rất nhanh về Vân, phút chốc hình ảnh Vân lại đầy ắp, độc chiếm. “Thôi mai mình phải ra ngoài đó ngay!” - Chủy tự nhủ thầm thế. Cho đến ngày Vân đã là mẹ, thái độ Vân theo sự nhận xét của Chủy, vẫn là thái độ ngập ngừng giữa e dè và dâng hiến, Vân như ôm trong lòng một dĩ vãng nào - (Chủy làm sao biết được điều đó) - sinh lực nàng vẫn tràn đầy, thân thể nàng vẫn đậm đà tuyệt mỹ. Một đêm trên bước đường công tác, đã hai tuần Chủy chưa gặp Vân, chợt nhìn một vì sao đổi ngôi phóng mình mất hút vào sâu vũ trụ, Chủy liên tưởng những giây phút ân ái với Vân và thấy rằng mình trong những phút đó cũng là một thứ sao đổi ngôi với những tư tưởng rồ dại mà thành sự thực. Còn về sức lực, trừ những cơn sốt rét bất ngờ hai ba tháng một lần làm rã rời cơ thể và tinh thần hai, ba ngày liền, Chủy vẫn thuộc loại sức lực vạm vỡ, lại thêm công tác lưu động dưới nắng gió phơi phới, sức lực đó càng dẻo dai thêm. Kể từ ngày bị bắt ở bờ sông Lụộc, bị giam giữ ở trại ở trại lộ thiên, về camp Hải Dương chịu máy trận đòn phủ đầu rồi được tha, Chủy xa Vân đã trên một tháng rồi. Mấy trận đòn của phòng nhì Pháp không làm cho Chủy yếu đi, trái lại có tác động kích thích giây thần kinh, khiến Chủy càng khao khát khoái cảm nhục thể.
IV
Buổi chiều vợ chồng Đạo xin lỗi không ở nhà ăn cơm cùng Chủy được vì phải đi dự tiệc tiếp tân tại tòa tình trưởng.
Trước khi đi Đạo giao hẹn các con phải ngoan với “chú Chủy”. Vợ Đạo quắc mắt bảo bé Quang:
Nhất là thằng Quang này hay hoẵng lắm, chốc nữa về chú Chủy mách là chết đòn nghe không.
Quang thỏ thẻ:
-  Mợ phải nói “Quang con của mợ”, mợ không được nói “thằng Quang”.
Cả nhà bật cười. Chợt Đạo hỏi:
- Chết chưa cái bật lửa của tôi sao mất nắp thế này?
Vợ Đạo đáp:
Ấy ban sáng “Quang con của mợ” nghịch đấy, chắc lại mang ra hè phố chơi rồi để rơi mất nắp chứ có gì lạ đâu.
Đạo nghe chừng đã quen những loại bực mình nho nhỏ như vậy, chỉ lắc đầu:
- Chết thật nhà lắm con, đồ dùng cái gì cũng “thiên tiên bất túc”.
Liễu nói liến láu:
Cái thằng Quang là cái gì cũng nghịch kia, sáng nay thằng Quang nó đứng đái, nó đố thằng Minh tóm được rồi thằng Minh tóm nước đái, rồi chị Thúy phải rửa tay cho.
Cả hai vợ chồng Đạo cùng thốt:
- Trời ơi!
Liễu nói tiếp:
Sáng nay lúc cậu đi làm nó nằng nặc xin mợ tiền, rồi ra đầu phố mua bánh rán, rồi ăn không hết vứt ra giường, rồi mợ ăn thừa, mợ bảo tao đã ăn thừa bánh sữa lại ăn thừa bánh rán, bụng tao như cái thùng rác của chúng mày...
Đạo ngắt lời con:
Thôi thôi, con bà nàng đáo để, mày, tao thì cứ khâu nửa cái miệng, chỉ cho nói nửa miệng!
Chủy phì cười vì cách mắng con khôi hài của Đạo. Đạo làm ra vẻ hầm hầm trịnh trọng, khiến Liễu im thin thít, kỳ thực Đạo rất khoái thỉnh thoảng được mắng đứa nhỏ như vậy, vừa là một cách biểu lộ tình thương con, vừa để giải trí.
Vợ chồng Đạo đi, căn nhà vắng hẳn, Chủy trở về với trạng thái tâm hồn của tỉnh ủy viên muốn đi quan sát tình hình sinh hoạt vùng địch. Chủy hỏi:
- Có cháu nào đi chơi với chú không?
Cả Quang và Minh đều giơ tay nói:
- Cháu! Cháu!
Chủy giắt Quang, Minh cùng ra phố làm bình phong ngụy trang. Trời đã ngả về chiều, máy phóng thanh tại mấy tiệm lớn tỏa ra một điệu nhạc buồn miền Trung, nhịp nhạc như nhịp chèo hò khoan, có tiếng đàn tranh lẫn với tiếng phách. Qua mấy phố buôn bán, thấy cái gì hay hay Quang, Minh cũng đòi mua mà Chủy thì không có đồng nào trong túi, Chủy dắt chúng rẽ vào một đường vắng, qua một trại lính. Một dãy G.M.C đậu theo dọc dài, xe nào cũng chật ních lính. Chắc họ sắp đi chiến dịch. Những người đàn bà ôm con từ trong trại lính ra tiễn chồng lên đường. Viên chỉ huy chưa có vợ nên đợi giờ khởi hành có phần thanh thản; những người lính có vợ con đứng đấy thì cố làm ra vẻ vui cười để yên lòng người ở lại. Đoàn xe chuyển bánh, những người vợ vẫy, có người cầm tay con vẫy, bầu không khí se lòng đó làm cho Chủy hả hê. Xe đã đi khỏi, mùi xăng tan dần trong không khí buổi chiều, con bò vàng buộc ờ gốc dừa gần đấy rống lên một tiếng ngơ ngác. Những người đàn bà đã dắt trẻ em vào trại ôm trong lòng mối sầu lo riêng tư. Không khí trở nên vẳng lặng yên tĩnh một cảnh thê lương, không một tiếng kêu, không một tiếng than, nhưng tựa như có tiếng nói thầm của tuyệt vọng đâu đây. Chủy thấy mát ruột và dắt Quang, Minh theo đường về.
Chú ơi đi chậm quá à!
Nghe Minh nói Chủy sực nhớ trong phút hào hứng đã đi quá nhanh với hai đứa trẻ, bèn khoan bước lại nói:
-  Bây giờ ba chú cháu mình về ăn cơm, mai chú mang tiền đi các cháu muốn mua gì chú cũng mua cho, nghe.
Cơm nước đã xong, Chủy chơi với bé Minh ngoài phòng khách đèn bật sáng trưng. Nói chuyện chán rồi bé Minh vào nhà trong chơi với anh chị, bé dừng lại trước chiếc gương lớn rồi sừng sộ với bóng trong gương: “A mày nhìn tao hả, mày trợn mắt hả, muốn đánh nhau với tao hả?”
Chủy nghiêng đầu cười, nghĩ thầm: “Đúng là thằng hồn nhiên!”
Chợt có tiếng ai ngoài cửa:
- Ống bà Tư có nhà không? (Đạo là con trai thứ tư cụ huyện Từ.)
-  Rước cụ vào chơi - Chủy nói - hai bác cháu đi dự tiệc vắng ạ.
Bà cụ đầu tóc bạc phơ, nhưng dáng còn khỏe mạnh bước vào. Cụ hỏi:
- Ồng là người nhà ông Tư?
- Thưa cụ vâng ạ.
-  Quý hóa quá, ông bà Tư đây có phúc (cụ ngồi xuống) nhà tôi thật vô phúc ông ạ... (cu lắc đầu chép miệng)...
Chủy nghĩ thầm: “ô hay, cái miền này người ta thật dễ tâm sự!”
- ... Cơm chồng thì ngọt, cơm con thì đắng! Tôi nuôi nó từ ngày nó còn đỏ hỏn, tôi lo cưới xin cho nó hết bạc vạn, nó nghe vợ đi ở riêng, vợ chồng hú hí, chẳng thăm hỏi gì đến mẹ! Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng! Lương nó tháng tháng lĩnh năm sáu ngàn, hai vợ chồng một đứa con, biếu mẹ được năm trăm đồng, thế mà con vợ nó kêu ra kêu vào lương tháng nào hết tháng ấy, ông tính tôi nuôi chồng nó từ thuở còn đỏ hỏn bây giờ tôi không có quyền tháng tháng nhận của chồng nó năm trăm bạc biếu hay sao? Tôi trông cửa hàng cũng thừa đủ ăn, nhưng ông tính tôi cứ nhận chứ.
Chủy mỉm cười kín đáo, nhưng cũng đáp:
-  Dạ, cụ nhận là phải.
-  Nhà tôi vô phúc, cả dòng họ nhà tôi vô phúc, tôi có con cháu họ vừa lấy chồng được một tháng thì thằng chồng “rinh” một con gái nhảy về. Con cháu hiền quá kia ông ạ, bằng lòng nhận con đĩ làm chị làm em cho vui, con đĩ được đằng chân lân đằng đầu, bảy bắn vợ cả ra khỏi nhà, lúc đẻ tôi phải trông nom, giờ đây một mẹ một con nuôi nhau lần hồi, tháng tháng tôi vẫn phải chu cấp cho, tôi vừa bắt đi học nghề may cắt đồ trẻ em để mà sau này lấy kế sinh nhai, tôi chết đi trông cậy vào ai? Đấy ông xem tình đời có khốn nạn không kia chứ, ấy là lấy chồng có cưới có xin, có giá thú hẳn hoi mà thế đấy. Mà nhà tôi là nhà có giáo dục chứ không đâu. Hồi còn mồ ma cụ cố chúng tôi, trời ơi, toàn đợi đến tối đóng cửa lại rồi cụ mới hỏi tội con cháu. Nhà nho chả thâm mà! Đứa nào biết mình trót có lỗi gì là nơm nớp lo suốt ngày hôm đó, tối đến nghe cụ chợt gọi tên mình, sợ vãi đái. Cụ bắt đứa có lỗi nằm xuống, tất cả những đứa khác khoanh tay đứng xung quanh nghe và xem. Cụ hạch tội trước, rồi quất cho ba roi sau, chỉ ba roi thôi, không nhiều, nhưng ông ơi, đòn cụ cố bốc mộ còn thâm xương...
Cụ thở dài đánh phào, suy nghĩ một giây rồi đứng dậy cáo từ ra về. Chủy không dám nói đưa đà câu nào, sợ cụ lại tâm sự thêm một tràng nữa. Ra khỏi cửa cụ còn ngoái lại nhắc:
-  Ông bà Tư đây thật là nhà có phúc! À ông này, một trăm rưởi một lạng vây bây giờ đấy, còn yến thì chịu không mua đâu được!
Chủy chỉ dám khẽ đáp:
-  Dạ vâng!
Lũ trẻ lớn đã lên gác xép. Bé Minh đã được con sen bế lên giường, lúc Chủy vào thì thằng bé đã ngủ, miệng hé, một chút răng trước cửa hiện ra trắng nhởn, hai tay giang hai bên, một chân co một chân duỗi thò mấy ngón qua khe thành giường, háng giạng, chiếc si líp xinh xộc xệch để hở chim.
“Chắc giờ này Du cũng ngủ rồi” - Chủy nghĩ vậy rồi cúi xuống khép môi cho bé vì Chủy bỗng nhớ rằng hồi nhỏ khi chợt ngủ mơ màng mẹ vẫn khép môi cho như thế, sợ gió độc. Trở ra phòng mình nằm, hình ảnh Vân, Du có trở lại ám ảnh nhưng vì quá mệt, đầu óc rừng rực, Chủy thiếp đi... chìm rất sâu trong giấc ngủ không mộng;..
Tiếng lách cách ngoài cửa làm Chủy sực dậy. Vợ chồng Đạo, có mang theo chìa khóa riêng đã mở cửa vào. Đầu dịu, đôi mắt mở tỉnh táo, Chủy biết mình đã ngủ được một giấc khá dài. Vợ chồng Đạo rón rén đi qua. Chủy lặng thinh vờ ngủ say. Vợ chồng Đạo thay đồ lên giường ngủ còn rúc rích nói chuyện. Chủy nhổm dậy ra áp tai bên khung cửa sổ, hy vọng nhận được vài tin về tình hình chính quyền bù nhìn tại tỉnh này. Nhưng không, họ chỉ vừa nhắc lại mấy lời phê binh bữa tiệc, rồi sau một tiếng thở dài vợ Đạo nói:
- Tội nghiệp cho con sen!
- Sao tội nghiệp? - Đạo hỏi.
-  Lẽ ra tuỗi đó phải ở gần mẹ mới đúng.
Vợ Đạo thuật lại sáng nay nó thấy tháng lần đầu tiên, loay hoay không biết làm thế nào, vợ Đạo phải chỉ dẫn mọi cách.
- Thế ngày xưa - Đạo hỏi - em thấy tháng đầu tiên thì sao?
-  Em là con thứ nên không còn lạ gì, lại có mẹ bên cạnh.
Câu chuyện một lần nữa chuyển hướng bất ngờ, vẫn do người vợ dẫn dắt.
- Ông còn nhờ cái dạo ông tằng tịu với con Nga?
Giọng Đạo đau khổ muốn gạt đi:
- Ôi dào... cứ đùa!
- Đùa cái gì, miệng ông xoen xoét ra... Còn con Nga con gái gì mà thối thây!
Đạo cười xòa:
-  Khốn nhưng con Nga nó hao hao giống bà, dạo đó tôi cũng có trót dại một tí nhưng quả là nó hao hao giống bà, thành thử tôi định ngoại tinh một cách... chung tình.
- Thôi đi ông, nói chó nó cũng không nghe được! “Còn định...” đứt đuôi đi rồi còn kêu là “còn định...”
Chủy lắc đầu thất vọng trở về giường nằm. Tiếng xì xào của vợ chồng Đạo tiếp tục một lát nữa mới êm hẳn.
Câu chuyện “thấy tháng” có khuấy động trong tiềm thức Chủy một kỷ niệm nào... Chủy nghĩ đến Vân... đôi mắt lơ mơ... Có tiếng gà gáy nửa đêm vọng từ xa, rất xa... Chủy nhắm mắt lại.. Câu chuyện “ngoại tình một cách chung tình” chắc có ảnh hưởng đến giấc mơ của Chủy.
Chủy mơ thấy mình đi công tác với một nữ cán bộ người cùng quê (Bắc Ninh). Nàng có nước da đen giòn, nhất định là không đẹp bằng Vân nhưng giá chiếm hữu được cũng hay. Hai người ngồi trên một bánh xe ô tô, bánh xe tự lăn trên đường công tác. Bánh xe bỗng đảo nghiêng đưa hai người vào một đường hẻm, lên dốc có bậc rồi lăn kềnh sau một khúc quành, trước mặt là một sườn đồi - đồi Bắc Ninh - thoai thoải, đằng sau là hàng rào nứa một căn nhà tranh không bóng người, trên đỉnh dốc là cổng vào một căn nhà gạch cũng không bóng người, đường vắng tanh một cách khiêu khích. Chủy ôm người nữ cán bộ mắt đảo nhìn xung quanh ý sợ có người bất chợt tới, hình như người nữ cán bộ nói “Có đi qua người ta cũng không cười đâu”. Chủy cúi xuống kề má lên mái tóc rậm của nàng, cảm thấy từng cọng tóc cứng đâm lên đồng thời mùi mồ hôi thoảng tới - Chủy nhớ lắm, trong mơ mà cảm thấy mùi hôi đó - mùi hôi kích thích lạ, gần hưởng thụ ái ân thì sực tỉnh.
Chủy mở mắt nhìn trừng trừng lên đình màn như nhìn vào giác mơ, thoạt đầu óc trì trệ nhưng rồi sáng sủa dần, Chủy nhớ ra rằng bối cảnh sườn đồi gần hàng rào nứa một căn nhà tranh, và trên đỉnh dốc, chiếc cổng vào một căn nhà gạch chính là bối cảnh một đồi sắn Phú Thọ, nơi chỉ đã ân ái ngấu nghiến một nữ cán bộ cấp dưới vào một chiều nhòa nhòa, nữ cán bộ đó rất có thể đã là vợ Chủy nếu sau đó Chủy không gặp Vân. Chùy lắc đầu trên gối xua đuổi những hình ảnh đó, nghiêng đầu nhìn ra phía cửa sổ, một khoảng trời vuông đục lờ lờ cắt ngang với nóc nhà hàng xóm, tiếng gà gáy báo sáng vọng lại từ xa. Giấc mơ vừa qua làm Chủy nhớ lại giấc mợ bốn năm hôm trước đây hồi còn trong camp Hải Dương, -(thành thử cố tâm trốn giấc mơ này thì lại rơi vào giấc mộng nọ).
Ngày đó Chủy mơ thấy một cảnh đẻ ngược. Viên bác sĩ nói với người mẹ: “Thưa bà cô ấy đẻ ngược.” Người mẹ vẫn bình tĩnh giặt giũ quần áo, coi như việc đó không nguy hiểm. Nhớ rằng xưa mình có người vợ đẻ ngược chết, Chủy nhìn về phía người bác sĩ và đặc biệt chú ý người đàn bà đẻ ngược thì có thấy một bàn chân xinh nhô ra. Người bác sỉ cố xoa nắn bụng cho người đàn bà đỡ đau, thoắt thôi chiếc chân nhỏ của đứa trẻ có ống quần chấm gót - đứa nhỏ trong bụng mẹ đã mặc quần!
người sản phụ vẫn cố rặn đẻ mà đứa trẻ xem chừng không chịu ra. Chủy cùng nhiều người xung quanh quan sát những điều đó một cách bình thản không coi đó là một cái gì ghê rợn và nguy hiểm. Tất cả những hình ảnh đó tan biến đi... Chủy đi tảo mộ mẹ khi bốc mộ người vợ đầu thì thấy khoảng giữa hai xương hông có cái đầu lâu xinh. Lần này Chủy rùng mình tỉnh dậy...
Sáng hôm sau Chủy hỏi người bạn tù binh ngồi bên cạnh:
-  Người mẹ đẻ ngược chết, đứa trẻ còn trong bụng, thì ngày bốc mộ chắc có xương đứa trẻ ở khoảng đó, anh nhỉ.
Người kia cười:
- Làm gì ra! Xương đứa trẻ sơ sinh nhão nhoét, tiêu hết ngay mà!
Chủy lại nhắm nghiền mắt lắc lắc đầu. Phải dời khỏi ngay miền này! Chủy là một cán bộ cốt cán tư tưởng dứt khoát, tinh thần cảnh giác khá sâu xa, Chủy muốn rời khỏi miền này ngay không phải vì sợ mình sẽ trở chiều tâng bốc ca ngợi “miền thối nát nô lệ cho tình cảm cá nhân” này, nhưng vì thấy mình như cái cây bỗng loãng đất phía dưới và trở thành lủng liểng? Gốc cây nào phải bám chắc vào khoảng đất náy không thể sống lủng liểng được! Tại sao miền này kỷ niệm cũ dễ đua nhau xuát hiện lắm thệ?
Chiếc đồng hồ trầm cầm ngoài phòng khách, sau khi dạo đủ câu nhạc, thong thả buông năm tiếng. Có tiếng vợ Đạo dậy, không bật đèn sợ ánh sáng hắt sang phòng Chủy, chỉ bật đèn bếp và đánh thức khẽ con sen. Chủy từ từ ngồi dậy nhìn qua cửa sổ ánh sáng vàng yếu từ nhà bếp chui qua hai khung cửa lối đi in thành một vệt chéo lên khoảng góc sân. Đạo đã dậy. Tiếng ngọn đèn cồn réo lên đều đều và ấm cúng trong bầu không khí mát lạnh ban mai làm nền cho câu chuyện rì rầm của họ, Chủy thấp thoáng nghe được vài mảnh, học đương ôn vài chuyện đã qua, những chuyện làm ăn đứng đắn. Thốt nhiên Chủy nhớ rằng đó là thói quen của chẳng riêng gì những ngươi quê làng Lại Vũ mà là thói quen của hầu hết dân quê miền xuôi. Phải, ngoài những ngày làm mùa hay vào vụ gặt, người dân miền xuôi vẫn giữ thói quen dậy sớm, họ đi ra đồng hưởng cái thú sau “cái thú làm Quận Công, họ ngồi bài tiết giữa khoảng gió đồng buổi sớm mát rời rợi và thơm nhẹ mùi mạ, chất bài tiết rơi tõm xuống ruộng nước, rồi dưới ánh nắng gay gắt từ mười giờ trở đi, chất đó sẽ trương ra, tản đi lắng xuống bổ cho mạ (thỉnh thoảng một trận mưa đổ xuống rửa sạch cho những bờ bãi trở lại nõn nà thơm mát). Sau khi ở đồng trở về họ tạt vào nhà nhau uống chén trà sớm, ôn lại chuyện làm ăn trong vụ mùa vừa qua, ôn lại một vài thiên tai lớn trong dĩ vãng, phê bình một vài nhân vật trong làng; nếu là bậc cha chú tạt vào thăm con cháu thì thường là kiểm điểm lại mọi công việc làm ăn, đồng áng, kèm theo những nhận xét và những lời khuyên răn. Chủy nhớ lại, nhớ hết và nhớ rõ như người bất chợt mở đọc trang sách cũ.
Vợ chồng Đạo đang nói chuyện về đứa con gái lớn. Vợ Đạo than phiền tính nó lười, ngồi đâu bỏ đấy, chính mẹ phải đi dọn dẹp. Đạo chậc lưỡi:
Ấy thế mà số nó về sau sướng đấy. Bu nó có thấy không, thi tiểu học nó đỗ ngay, thi vào đệ thất năm ngoái cũng đỗ ngay, suốt năm học lơ là nhưng được cái thông minh nên vẫn thừa điểm lên lớp.
Vợ Đạo muốn cáu:
- Thôi đi ông, bố như thế thì dạy thế nào được con.
Đạo cố tình trêu vợ:
Đứa nào sau này có phúc mới lấy được con gái thằng này, mà gọi là chứ phải hầu nó mỏi, mắng nó ư, nó về với bố với mẹ nó làm gì nó tốt?
Con gái ông thế có chó nó đến rước đi, ghếch chân lên thành giường nó cũng để gối lót ở dưới. Lộn ruột!
- Thôi đi, bà có ra trường đón nó mới thấy chẳng đứa nào ăn đứt con mình.
- Cứt ai vừa mũi người ấy!
Nó xinh như vậy, học hành nhẹ nhàng như vậy, đáng lẽ bà phải thấy... mát rời rợi mới phải.
Chủy vội bậm miệng để khỏi bật tiếng cười. Đạo quả còn giữ được truyền thống cùa những người miền quê, đặc biệt những người quê làng Lại Vũ, là luôn luôn xen vào lời luận thuyết những châm ngôn tục ngữ để chứng minh, nếu tục thì nói nửa úp nửa mở. Chủy lạ gì câu đó, trước đây hồi còn nhỏ chẳng ngày nào là bà đồ không mắng Chủy bằng câu “Cha tiên nhân nhà mày, đẻ con khôn mát... rời rợi. đẻ con dại thảm hại cái...”
Chủy đã đứng dậy xỏ chân vào guốc cố tình khua động thành tiếng lớn.
- Chú Chủy đã dậy đấy à? - Đạo hỏi.
- Vâng.
Vợ Đạo nói:
Để hai anh em vào nhà trong rửa mặt, tôi mang ấm đồng nước sôi này ra phòng khách pha nước. Hôm nay chủ nhật mà, thong thả!
Vừa thoát cảnh tù tội ở trại giam ra, đã hơn một tháng giời qua tạm xa mọi hoạt động của Đảng, không có chuyện Đảng để đối phó, không có việc Đảng để bố trí, dầu sao Chủy cũng muốn tận hưởng giây phút nghỉ ngơi này trước khi đi.
Ngồi uống trà sớm thế này - Chủy nói với Đạo - làm tôi nhở lại thuở bé lắm hôm vừa sực dậy còn mắt nhắm mắt mở trời sáng sớm lạnh căm căm, tôi đã nghe thầy tôi đương ngồi nói chuyện với ông chú bà bậc bên chiếc hỏa lò có ấm đồng nước bắt đầu sôi réo. Các cụ hay ôn lại những biến cố...
Phải, chú nói đúng, các cụ ôn lại năm nào vỡ đường (vỡ đê sông Hồng), nào những năm có giặc Cờ Đen, năm nào cháy hai phần làng, ô, chú chắc có được nghe thuật lại vụ hỏa hoạn năm đỏ? Dĩ nhiên chú chưa đẻ, tôi mới lên hai gì đó.
Lòng thấy thanh bình, Chủy có nhớ đôi chút chuyện hỏa hoạn này vì bà đồ thuở sinh thời thường nhắc tới luôn. Chùy đáp:
Về sau này mỗi lần ông già bà cả nhắc lại vẫn thường bảo là từ sau vụ hỏa hoạn đò làng ta làm ăn phát đạt hẳn, có sát rồi mới phát!
Đạo vừa nhấp xong ngụm trà:
Ây ông cụ tôi vốn sành địa lý nói rằng người để hướng đình làng mình là học trò cụ đốc họ Hoàng. Người học trò biết rằng cắm hướng đình đó mình sẽ chết, đặt trên đầu con hoàng xà mà, tát nó quật lại, vì vậy phần kim đặt hướng xong ông lên ngựa đi liền, nhưng không chạỵ kịp, được nửa đường thì hộc máu chết. Thôi thế cũng là cách đền ơn thầy. Đình cất được năm xảy tới vụ hỏa hoạn.
Vợ Đạo theo dõi câu chuyện hỏi:
- Chắc chuyện có thật?
Đạo cười lờn:
- Thì cũng thần thoại hóa đi, nhưng tình thầy trò xưa chu đáo như thế thật đó.
Chủy vui vẻ tiếp theo:
Tôi lại còn nhờ các cụ nói khúc lạch ngay đầu làng uốn theo hình miệng rồng, giữa có một gò nhỏ bên trên có cây si cổ thụ, bên dưới cỏ mọc rậm rì, đó là thế đất: rồng ngậm ngọc!
Phải, phải - Đạo tiếp - các cụ nói vì có cảnh trí miệng rồng ngậm ngọc như vậy nên người làng Lại Vũ hễ đi ra ngoài là làm nên vì nói ai cũng nghe. Hơ hơ, mà đúng, con giai làng Lại Vũ đi đâu nói con gái nghe cũng được cả.
Vợ Đạo nguýt:
Người gì mà chẳng bao giờ nói chuyện tử tế được lâu, câu trước câu sau là dở trò lục sở!
-  Hơ hơ, thì đã sao?
-  Người vô duyên mà lại cứ tưởng là mình có duyên.
-  Hơ hơ!
Vợ Đạo vùng vằng đi vào, vì nhà trong đã có tiếng lũ trẻ lục đục dậy. Đạo trở lại nói chuyện đứng đắn với Chủy:
- À này, chú còn nhớ ông đô Cán ngày xưa bên làng Liên Phú?
-  Dạ tôi nhớ mang máng, ông có họ xa với mẹ tôi.
Chú không nhớ rõ là phải, dạo đó chú còn nhỏ quá. Ông đô Cán vừa là bạn đồng song vừa là bạn khảo sát tử vi với ông đồ nhà. Chính tôi cũng có biết anh Khóa đâu, mới ba tháng trước anh đến đây nhận thầu việc xây trường trung học, giao thiệp với tôi tại tòa tỉnh trưởng, thấy tôi là người làng Lại Vũ bèn hỏi đến ông đồ nhà. Anh ta nhớ hết bởi hồi còn sinh thời hai vị thì lần nào ông đô Cán đến đằng ông nhà đều có mang Khóa đi theo.
- Con ông đô Cán là Khóa?
- Vâng.
- Trạc tuổi anh?
- Trên một chút. Khoảng mười giờ mai cu cậu sẽ đến đây?
- Để làm gì thế anh?
Để dự lễ khánh thành ngôi trường, có nhiều quan khách Hà Nội tới và có tiệc trà. Lẽ ra lễ khánh thành tổ chức từ hai tuần trước, nhưng đúng vào lúc ngôi trường xây gần xong thì Khóa bị sốt định kỳ... ông tỉnh trưởng bảo chờ, ông quý Khóa lắm. Ngôi trường Khóa trông nom cho xây cất đã đẹp lại bền và rẻ.
Suy nghĩ giây lâu Chùy nói:
- Con nhà thầu biết đâu là bền và rẻ?!
Nhưng Khóa làm chu đáo được như thế đấy chú à, tôi cũng thật thơm lây vỉ đã hú họa giới thiệu Khóa với ông tỉnh trưởng, hiện Khóa đảm nhận việc xây thêm một trường mẫu giáo bên trường tiểu học cũ. Tôi được biết thêm, đây là lần đầu tiên Khóa vào nghề thầu, trước đó anh chàng làm hội viên hội đồng thành phố Hà Nội, mới từ chức...
Chủy muốn bĩu môi vì chức đó hẳn chỉ để làm bù nhìn cho thực dân. Bỗng nhiên Chủy thấy ghét lây cả Đạo. Chủy muồn nguyền rủa cả “lũ tiểu tư sản thành thị tôi tớ cho thực dân”, chúng hưởng lợi trong khi con minh ngoài vùng kháng chiến chỉ có chiêc ống bơ rỉ làm đồ chơi.
- Chú Chủy cầm cái này này.
Chủy giật mình ngẩng đầu. Đạo đưa Chủy tờ giấy một trăm màu gạch, tiếp:
- Chú cầm tạm, ngộ có cần tiêu vặt gì chăng.
Thốt nhiên Chủy giơ tay lên sờ mái tóc. Đạo cười:
- Đúng đấy như húi đầu chẳng hạn.
Chủy nhận tiền và cám ơn. Chủy nhớ chiều qua còn hứa với Quang, Minh là hôm nay sẽ đưa chúng đi phố lần nữa. Chủy vui vẻ nói với Đạo:
-  Bây giờ tôi phải đi húi đầu cái đã, tóc dài quá anh ạ.
- Chú lấy sơ mi và quần của tôi...
Chủy gạt đi:
- Thôi anh cứ để tôi bận bộ quần áo của tôi đã giặt hôm qua.
Chủy vào nhà thay bộ ka ki đã cũ. Đạo dặn:
- Chú cứ đi thẳng dến cuối phố này có hiệu thợ cạo đấy.
- Vâng!
V
Húi đầu vừa xong thì trời mưa như đổ cóng nước. Chủy lấy tiền thối rồi ra cửa đứng nhìn trời đất chìm ngập trong màn nước trắng xóa, dãy nhà ngay bên kia đường cũng chỉ thấy lờ mờ. Có tiếng lọc cọc, một xe bánh tây bán rong xuất hiện từ góc ngã tư sát đấy, chiếc xe được đẩy mạnh hơn để tiến nhanh vào trú dưới ô văng khá rộng của hiệu thợ cạo. Đó là một người trạc ngoại tứ tuần tóc đã hoa râm, da đen xạm. Người đó vuốt mặt nước mưa, đôi mắt ngỡ ngàng, nụ cười hiền, lắc đầu nói với Chủy:
Mưa bất ngờ và to quá, có quãng đường ngắn từ chợ vào đây mà chạy không kịp.
Chủy gật đầu:
- Phải, ông hãy trú tạm đây, đợi ngớt hãy đi.
Chủy vừa nhận thấy đầu một thằng bé con thò ra, nó nằm giữa khoảng sàn xe và phần tủ bánh bên trên. Nó cũng cỡ tuổi bé Minh, hai mắt mỡ thao láo, tay cầm chiếc bánh dẻo thủng thẳng đưa lên miệng ăn. Chủy cười:
- Chà, chú bé nằm trông ấm cúng nhỉ.
Người bố cũng cười:
Ẫy cháu nó theo mẹ ra chợ mua thức ăn bất chợt mưa, tôi cho chui vào đấy nằm, mẹ cháu đội mưa về trước.
Hạt mưa đã nhẹ, màn mưa đã loãng, người hàng bánh cúi chào Chủy rồi đẩy xe đi.
- Ông nán lại thêm chút nữa có được không - Chủy nói.
Ông ta cười:
- Thôi ạ, nhà tôi cũng ở cuối ngã này thôi.
Chiếc xe đã được ẩn ra đường, mưa tuy nhẹ nhưng còn mau hạt, người bố cúi xuống nhìn con, thằng bé cũng vừa cho lên miệng nốt miếng bánh dở vừa ngước nhìn bố, cả hai bố con cùng cười cả hai cùng sung sướng. Lát sau mưa chỉ còn lất phất, Chủy dời hiệu hớt tóc men theo vỉa hè về...
Tiếng bé Minh khóc, tiếng vợ Đạo nói vỡ ra từng mảnh - vừa khóc vừa nói - làm Chủy giật mình dừng lại trước cửa:
Có khổ con tôi không giời ơi, bông đâu, lọ thuốc đỏ đâu? Con Thúy mày trông em thế đấy, mày đã hả lòng hả dạ chưa, giời ơi con tôi, máu chảy nhiều quá.
Tiếng Đạo:
- Bông, băng đây, thuốc đây! Con Liễu, thằng Mặt Ngựa - (Quang) - lui!
Nghe trọn câu nói “máu chảy nhiều quá”, Chủy cũng vội nhào vào.
Bé Minh đương khóc thổn thức ở khoảng sân nhỏ, giữa trán có vệt một giòng máu chảy xuống, vợ Đạo ngồi bên đương lấy bông chấm.
- Cháu Minh sao hở chị?
Chú tính con Thúy có đoảng không? Thằng này thì hay chạy, giời mưa cái sân này thì trơn, tôi đã căn dặn con Thúy là trông em, đừng để em ra sân, nó ngồi bắt chân chữ ngũ đọc truyện, quả nhiên thằng bé chạy ra, gặp chỗ trơn ngã đập đầu như trời giáng vào bờ tường, chú tính thế có đoảng không cơ chứ, lười chảy thây chảy xác không nhờ được việc gì.
Đạo nghiến răng vớ lấy chiếc áo pijama gần đáy nắm gọn lại cho thành hình chiếc dùi cui xông lại. Đạo lúc đó không còn một chút gì là Đạo ưa khôi hài thường ngày.
Thúy xám mặt rúm người lại. Đạo thẳng cánh quật hai cái liên tiếp lên đầu con bé và nói: “Lười này! lười này!”
Thúy khóc thét lên một tiếng. Bé Minh thấy chị bị đòn khóc thì thôi khóc, tia máu ở giữa trán đã được thấm khô, bôi thuốc đỏ, bôi pommade, rịt bông và dán bông dính.
Vợ Đạo nói:
-  Này mồm cũng chảy máu, khéo chả rập môi. Con lè bánh tây ra!
Minh lè miếng bánh mì thấm đỏ máu.
Đạo đã mang ly nước lọc lại:
-  Cô cho con nó xúc miệng.
Vợ Đạo đỡ lấy ly nước, ghé vào miệng bé Minh nói:
-  Con xúc miệng đi.
Bé Minh hơi ngửa cổ cho nước vào miệng rồi xúc xúc rất kỹ.
-  Con nhổ ra! - vợ Đạo nói.
Thay vì nhổ ra thằng bé nuốt ực. Đạo lắc đầu thất vọng:
- Ấy chết sao lại nuốt?
Thúy nằm khóc thút thít trên giường bố mẹ. Đạo cúi xuống bế bé Minh ra phòng khách. Vợ Đạo và Chủy cùng theo ra. Vợ Đạo nói:
Thằng này bần cùng lắm mới khóc, hôm nọ ngã rập môi, nó tự quệt máu xuống ngực áo, lúc tôi trông thấy máu đã khô, tội nghiệp hôm nay là nó đau lắm đấy.
Đạo thở dài một cái. Tiếng Thúy vẫn thút thít khóc từ trong vọng ra, Đạo nghiêng tai nghe ngóng mặt thoáng vẻ lo lắng. Vợ Đạo mở tủ lấy chiếc áo khác thay cho bé Minh rồi vào bếp.
Chủy giơ tay nói với bé Minh:
-  Nào ra chú bế một tí nào, cháu lành da khỏi ngay mà.
Minh theo.
Vợ Đạo ở trong ra vẻ hốt hoảng nhưng nói khẽ:
-  Con Thúy nó cũng gan lắm ít khóc dai thế này, anh đánh nó làm sao thế?
Đạo cố dấu vẻ lo lắng nói:
- Thì đánh bằng cái ái pyjama mà.
Rồi Đạo làm vẻ hầm hầm đi xuống. Vợ Đạo nói với:
- Thôi đừng đánh nó nữa đấy.
Tiếng Đạo:
-  Mày có câm đi không Thúy! Mày ăn vạ ai?
Tiếng Thúy im nhưng khi Đạo trở ra tới phòng khách tiếng thút thít lại vọng lại. Lần này Đạo không giấu được vẻ lo lắng vì thoáng nghĩ lúc quật mạnh cái áo xuống thì một đường viền đập vào con ngươi làm đau mắt Thúy. Vợ Đạo đã vào hỏi Thúy giọng còn cố giữ cho sẵng:
-  Làm sao, cậu mày đánh làm sao?
Tiếng con bé vừa thổn thức vừa lúng túng đập những gì cả Đạo lẫn Chủy lắng nghe mà không rõ. Đạo nghiêng mặt hướng về tiếng bước chân ra của vợ.
-  Nó bảo sao? - Đạo hỏi.
-  Khuy áo quật lên đầu, nó rức đầu.
Đạo thở phào nhẹ nhõm. Vợ Đạo gắt khẽ:
Đã bảo đánh thì cứ đít mà đánh, đánh lên đầu thế rồi nhỡ chạm phải giây thần kinh óc, con nó thành ngớ ngẩn thì đẻ con lành thành con có tật!
Đạo nói lớn cốt cho Thúy nghe thấy:
-  Bảo nó câm đi không tôi xuống cho mấy cái quật nữa!
Trời bên ngoài lại đổ mưa. Chủy bế bé Minh ra đứng giữa cửa xem mưa.
Mưa mau, rất mau. Những hạt rơi tới tấp như mỗi giây một nặng trĩu thêm, những đợt mây khói xám lại lướt tỏa rất nhẹ trên vòm trời tháp. Cây me sát với căn gác nhà đối diện, cành chỉ hơi run rẩy nhưng cây phượng vĩ gần đấy vì ở đúng khoảng không có tường nhà che nên tất cả cành mềm chĩu về một phía, toàn thân muốn gập lại như một ngựời đau quặn bụng.
“Nên về gấp bên kia, không thể ở nán đây lâu được nữa! - Chủy vừa run run cánh tay bế bé Minh vừa nghĩ thầm thế - Cái miền này thật lạ lùng, hèn không ra hèn, anh hùng không ra anh hùng, mắc míu giây rợ tình cảm!”
Gần đến bửa ăn trưa bầu không khí đã lắng dịu, nhưng Đạo còn giữ mặt nghiêm chưa pha trò với các con như mọi khi. Trước khi cùng ra ngồi bàn ăn, Đạo nói với Chủy:
Nhiều khi thương con thật đấy nhưng vẫn phải đánh, đúng là mình vừa đánh vừa thương, cho nên cái giáo dục gia đình toàn vẹn phải cả cha lẫn mẹ. Chỉ có mẹ không chúng sẽ hư biết mấy; chỉ có cha không, cũng tội nghiệp cho chúng.
Câu nói vô tình của Đạo làm Chủy thấy thấm thìa, khuôn mặt trầm ngâm hẳn khi Chủy tới ngồi gần Đạo, giữa có bé Minh trên trán vẫn còn miếng bông xinh máu thấm khô màu tím đen. Ngoài kia cũng có một lần Chủy đánh Du, lần đó Du quấy khóc ngằn ngặt, đã mấy lần Chủy quát bắt im, Du vẫn khóc, Chủy vùng tới phát đít, phát thật mạnh, phát liền liền, mỗi lần phát xuống bản năng phá hoại trong Chủy như lửa gặp gió cất tiếng cười ha hả, đồng thời - đúng như lời Đạo vừa nói - Chủy càng thương con vô cùng. Ấy tuy mỗi lần phát con, nội tâm bị xâu xé là vậy mà rồi cả sự xâu xé đó cũng biến thành cái đà như chiếc xe đã lăn thì lăn cho hết dốc, và Chủy đã mắm môi trợn mắt phát Du liền liền cho đến khi Vân chạy lại giằng được Du ra.
“Phải xa lánh cái miền này! Mai là mình phải xa lánh cái miền này!” - Chủy nghĩ vậy khi bưng bát cơm lên. Ăn cơm xong, Chủy vào ngủ trưa, cố tình chôn vùi mọi liên tưởng.
Tiếng vợ Đạo cười khanh khách làm Chủy sực tỉnh khỏi giấc ngủ trưa:
Này anh trông thằng Quang khuôn mặt giống ông nội quá kla, nhất là hôm qua lúc em tắm cho xong, chải lật tóc nó lên, trời ơi, đúng là ông nội.
Tiếng Đạo:
Mà nó đòi cái gì thì nó cũng làm như ông nội người ta, trưa nào tôi nằm ngủ mà nó đứng đầu giường đòi mua kem thì giá mình có sắp “hai năm mươi” thì cũng phải dậy mua kem cho ông ấy ăn xong đã rồi mới “hai năm mươi” được.
Tiếng vợ Đạo gắt:
-  Chỉ nói dại!
Chủy vùng dậy vừa vục nước rửa mặt vừa góp chuyện vợ chồng Đạo về lũ trẻ. Sau cùng ngỏ lời cám ơn vợ chồng Đạo, báo sớm mai xin từ biệt. Buổi chiều Chủy dắt Quang, Minh đi chơi phố mua đồ chơi cho hai đứa và mua thêm một số gói riêng dự định sẽ mang ra ngoài kia cho Du. Lần này cuộc đi chơi hoàn toàn có tính chất “hưởng thụ”, Chủy để mặc cho đầu óc lười lĩnh lông bông. Chủy bỗng dừng lại trước một căn nhà sụp sụp, người bán bánh tây buổi sáng đang lau tủ kính. Người đó cũng nhận ra Chủy ngay.
Buổi chiều ông nghỉ? - Chủy hỏi.
- Tôi cũng mới về. Tối tôi lại đi nữa.
Người vợ ở trong nhà ra tay bế đứa con- thằng bé ban sáng! Chủy cúi chào, mở gói đưa cho thằng bé một đồ chơi nhỏ. Cả hai vợ chồng cùng cám ơn, Chủy thân mật hỏi:
-  Ông bà được mấy cháu?
-  Ngựời vợ đỡ lời chồng trả lời mà như không trả lời:
Thằng anh đầu lòng của thằng này chết đuối ông ạ. Tôi vừa chợp giấc ngủ trưa sực dậy gọi con không thấy,  ra đến bờ chuông thấy đôi guốc xinh cùa nó, tội rụng rời cả người, thấy cháu nó nổi lờ đờ trên mặt nước tôi biết là muộn quá mất rồi. Hối cũng không sao kịp nữa, không trông con cẩn thận thế có khác gì mình giết nó? Tội nghiệp thằng bé chết thê chết thảm!
Người chồng chớp chớp mắt, rồi để che dấu cảm động, ông chỉ cái ghế dài gần ấáy nói với Chủy:
-  Ồng cho các cháu ngồi đây một tí cho đỡ mỏi. ồng là người nhà ông phán Đạo?
-  Ống biết các cháu đây? - Chủy hỏi.
- Vâng, ở tỉnh nhỏ mà, quen thì không quen nhưng biết.
Câu chuyện người vợ kể đứa con chết đuối cũng làm Chủy muốn rụng rời. Có thể Chủy nghĩ đến Du. Chủy ngồi xuống ghế thân thể nặng nề lạ. Quang, Minh ngồi theo. Người chồng tiếp tục lau tủ kính đựng bánh, người vợ tiếp tục nói:
Tôi chả muốn sinh cháu này làm gì ông ạ, chẳng phải là mình không thương con nhưng sống ở đời thật khổ, lo ăn, lo mặc... mình đói, mình rét không sao, sinh chúng nó ra để chúng nó đói rét sao đành! Ngày nào tản cư ngoài hậu phương, có lần chạy giặc tôi gồng gánh một bên thằng này, một bên nồi canh và cơm, canh đổ chao chát suốt dọc đường, đến làng xa tầm súng giặc còn được chút canh cặn chan cơm nguội cho con ăn cũng yên lòng. Người chồng gạt lời vợ:
- Thôi mình vào thổi cơm đi.
Bà chào Chủy, ôm con vào, lời than còn tiếp, nửa như nói với con, nửa như tự nói với mình:
Rồi còn tương lai của nó nữa ra sao? Đời khổ lắm con ơi, cực lắm con ơi, mẹ chẳng muốn sinh con ra làm gì.
Thay người chồng có vẻ ngượng ngập, Chủy đứng dậy kiếu từ. Có tiếng trẻ khóc oa oa tự căn nhà lụp xụp khác bên cạnh. Tiếng trẻ khóc oa oa này nhắc nhở một kỷ nhiệm nào đó trong tiềm thức nhưng Chủy cương quyết không suy nghĩ gì thêm. Chủy còn giắt Quang, Minh đii lang thang một khúc nữa vì Chủy cũng không muốn về nhà nghe Đạo pha trò trêu vợ trêu con. Chùy cũng không muốn dừng lại đâu nữa vì hình như cái miền này hễ dừng lại đâu là gặp tâm sự đấy. Chủy mong cho chóng đến sáng mai... Chủy muốn gặp Vân, Du quá rối. Nếp sống của dân chúng vùng địch thì ở đâu cũng thế này thôi, còn tình hình quân đội địch đã có quân báo là cơ quan riêng biệt phụ trách... Chủy không còn háo hức "điều tra địch tình” nữa. Nên xa gấp miền này! Chủy như một tay bơi giỏi nhưng lại sa vào bãi lầy. Không thể bơi ở bãi lầy!
Tội nghiệp, Chủy đang cố sức đẩy lui một cảm giác gì chợt tới, cảm giác vô hình mà nặng như tường đá nghiêng sắp xập xuống đè bẹp mình. Có thể chăng đó là cảm giác của kẻ chợt thấy rằng đảng tính không phải là tất cả, cánh con bọ hung xòe ra làm sao che rợp được núi, rừng, sông biển? Chao ôi, những chuyện vẩn vơ con sen thấy tháng, vợ chồng cười đùa, dòng máu trên vừng trán thơ ngây, giận hờn nàng dâu, lo âu cho trẻ... tất cả mới chỉ ià hồi quang rất nhỏ bé nhưng đã rộng lớn biết bao của nhân tính, của thiên tính, của một cái gì vĩnh viễn tồn tại, rộng lớn quá, ngợp!
VI
Chủy rùng mình một cái nhẹ mở mắt cùng tiếng gà gáy xa xa. Khung cửa sổ đục lờ lờ y như bữa qua lúc sực dậy nghe vợ chồng Đạo ôn chuyện cũ, nhưng lần này đúng khoảng giữa mái nhà hàng xóm và phần trên khung cửa sổ, biêng biếc ngôi sao mai. Chủy nhận ra rằng ánh sáng của ngôi sao mai thật là kỳ dị bao giờ cũng lấp lánh đầy vẻ tin yêu như vậy.
Chủy gờn gợn rùng mình một lần nữa, thôi chết rồi, sốt rét!
Lúc sáng rõ khi biết Chủy bắt đầu lên cơn sốt rét, vợ Đạo vội bảo con sen đặt nồi cháo hành và nói với Chùy:
-  Sốt rét chỉ ăn cháo hành là chóng lại sức, chú ạ.
Đạo đã ra tiệm thuốc tây gần chợ mua về một lọ hai chục viên quinacrine vàng, rồi gọi Thúy mang cốc và ấm bình tích nước đặt lên bàn sát đấy. Chủy lấy ra hai viên quinacrine, Đạo rót nước vào cốc cho Chủy chiêu.
-  Bây giờ chú cứ nằm nghỉ đi - Đạo nói - để tôi đắp chăn cho chú.
-  Phiền anh chị quá - Chủy nói.
Đạo ngắt lời:
Có gì mà phiền, chú thật vớ vẩn! Thằng Quang, thằng Minh ra nhà ngoài chơi để chú nằm nghỉ, cấm chúng mày vào đây.
Chủy đã rét lắm rồi. Chăn chùm kín đầu, một tay cặp vào nách, bàn tay kia cặp giữa hai đùi, lạnh từ chốn vô cực nào tỏa ra từng đợt làm rùng mình cơ thể, toàn thân co quắp lại tưởng có thể chui gọn vào một tổ sâu hèn mọn. Tuy nhiên Chủy vẫn theo rõi tiếng Đạo quát mắng đứa nào ngoài phòng khách:
Mợ cho cái gì thì ăn cái ấy, không yêu sách! Tao bốn con rồi, mày không phải là con cẩu tự!
Ngừng một tí, Chủy còn nghe Đạo tiếp:
Trẻ con mà chiều lắm rồi đến nhà ai nó dám đòi bát hương nhà người ta xuống để chơi.
Cơn rét cứ đạt dần đạt dần đến cực độ, cơn nóng bắt đầu nhoi lên. Chủy biết là cơn nóng cũng sẽ vươn dần đến cực độ, có thể mê sảng, bế mạc một... chu kỳ. Và sau đó cơ thể và tâm hồn rời rã rã rời...
Có tiếng ồn ào ngoài phòng khách, tiếng vợ chồng Đạo xen với tiếng lạ, rồi tiếng giầy đi vào phòng Chủy, màn vén lên, một người cao lớn cúi xuống: Khóa.
Ồ! anh lên cơn nóng rồi ư - Khóa nói - thầy tôi xưa với ông nhà ông là đôi bạn thân lắm, các cụ toàn bàn về chuyện tử vi.
Chủy cười tiếp chuyện:
Vâng, dạo đó anh đã lớn anh được theo ông nhà đến đằng tôi, anh Đạo có nói chuyện anh thầu xây trường ở đấy.
Khóa kéo chiếc ghế lại ngồi, tiếp tục chuyện cũ:
Tôi còn nhớ bức trướng thầy tôi phúng ông nhà có bốn chữ “Kỳ Đạo Do Tồn”, thầy tôi giảng đi giảng lại cho tôi hay là bốn chữ mượn của Từ Cán đời Lục Triều, ý muốn ca ngợi sự nghiên cứu tử vi của các ngài cũng là một thứ đạo của thánh nhân, người chết đi nhưng đạo còn mãi mãi với hậu thế.
Khóa cầm lọ quinacrine giơ lên cao nhìn rồi đặt xuống:
Anh uống quinacrine rồi nên uống thêm flavoquine, thoạt hằng tuần, rồi hằng tháng, có thể dứt bệnh được đấy, chính tôi đã hai năm nay không thấy lên cơn lại. Để lát nữa tôi qua hiệu thuốc ở đây hỏi xem có thứ đỏ không. Trước đây bệnh sốt rét như chiếm độc quyền cơ thể tôi, khi diệt được sốt rét thì vừa rồi tôi bị sốt định kỳ. sốt định kỳ cũng nóng âm ỉ như sốt rét này. Tôi mơ được dẫn lên xem Thiên Đường rồi lại được xuống xem Địa Ngục. Lạ lắm, những việc xảy ra bây giờ tôi ôn lại trong trí còn cảm thấy y như thật.
Anh nói đúng lúc sốt âm ỉ mình mơ gì đều thấy như thật.
Lúc tội bị sốt mê man, nhắm mắt lại, thấy một bà sự trẻ lắm, đẹp hiền hậụ, bà đưa tôi đến Hồ Tây trước đền Quan Thánh, bà trải một tấm lụa trắng trên mặt hồ, tôi đứng lên tám lụa và đi khắp các từng trời với bà. Lần đầu tiên bà cho lụa bay đến một bãi biển tiên giới, bãi cát trắng toát, biển nước xanh rờn rờn...
Cơn sốt đương dâng lên bầng bầng trong Chủy, giọng Khóa nói chuyện như ve vuốt như cởi mở và Chủy bỗng theo rõi câu chuyện một cách thích thú.
-... Cả bầu trời sáng ngời - Khóa vẫn tiếp - nhiều màu sắc lắm. Bà sư - tôi có thể ngờ là Phật Bà Quan Âm- bảo tôi: "ở đây không lo đói đâu con ạ”. Rồi bà quệt một ngón tay xuống đất đặt lên miệng cho tôi nếm. “Con thấy sao?” Tôi đáp “Ngọt lắm ạ!” Lần thứ hai bà đưa tôi lên một tầng giời khác, ở đây tôi thấy một tiên ông râu tóc bạc phơ mặc áo vàng ngồi trên kỷ đá, tay chống cây gậy trúc, một vị khác mặc áo nâu nằm trên cái sập cao ngay cạnh tôi. Tôi bèn nói với vị áo nâu: “Thưa cụ con ở trần gian đau ốm muốn xin ở lại đây, ở trần gian con cũng đã có đứa con trai nối rõi rồi.” Ông cụ đáp: “Công việc con ở trần gian chưa xong, chưa về được!”
Tiếng radio ở phòng khách vang vang. Khóa cười nói với Chủy:
- Có nhiều cái bất ngờ thật là kỳ dị, tôi đương nói chuyện thiên giới, nhạc radio lại phụ họa bài “Thiên Thai”.
Chủy cùng Khóa lắng nghe. Bài ca được trình bày khá công phu, cả dàn nhạc rào rạt như khu rừng đào rộng lớn, có tiếng sáo thiên thai, giọng nam thoạt kể lể, nhiều giọng nữ chợt vút cao ngậm ngùi tiễn biệt Lưu Thần Nguyễn Triệu, sau cùng giọng nam trầm trầm lẫn với tiếng sáo nức nở.
Khóa tiếp:
-  Lần thứ ba tôi nói với bà sư: “Xin bà cho con đi xem địa ngục.” Bà đưa tôi đến trước một vùng biển nước đặc sóng sánh như dầu ta. Tôi hỏi: “Thưa bà đâu là địa ngục?" Bà bảo:” Chờ một tí con sẽ thấy nhiều cái lạ”. Bỗng dầu như sôi lên sùng sục, một cái guồng lớn lắm từ đáy biển nhô lên, tôi nhìn thấy những người khuôn mặt hốc hác, họ cố chui đầu ra khỏi kẽ guồng, thở như sống lại, nhưng guồng đã lại từ từ chìm xuống biển dầu... Sau đó tôi khỏi bệnh. Có điều tôi lấy làm lạ là ba lần được bà sư đưa đi đều khởi hành từ Hồ Tây, trước chùa Quan Thánh và đều đứng trên tấm lụa trắng to hơn chiếc chiếu một chút. Khỏi bệnh tôi tìm đọc mấy cuốn sách khảo cứu về khoa học huyền bí. Hình như Ấn Độ giáo cũng chủ trương là có nhiều plans, plan physique là hạ giới chúng mình đây, plan astral có nhiều màu sắc, rồi còn plan mental Mình biết dịch là gì? Tinh giới? Thiên giới?
Lúc đã vui câu chuyện, Khóa vẫn hay đồng hóa người nghe với mình, làm như Chuỷ cũng đương đọc những cuốn sách đó. Khóa tiếp:
-  Tôi dự định học hết một loạt sách đó rồi sẽ nghiên cứu đến sấm Trạng Trình và số tử vi. Rõ hoài, giá giờ đây thầy tôi và ông nhà còn sống có phải tôi hỏi trước được nhiều điều hay.
Đạo đã vào buồng thay quần áo chỉnh tề, ra nói với Chủy:
-  Chú ở nhà nhé, chúng tôi đi dự lễ khánh thành trường, trưa lại về. Đi chứ anh Khóa?
- Vâng, các anh đi - Chủy nói và hơi nghiêng đầu đáp lễ Khóa.
Cơn nóng đã bắt đầu tới cực độ, mồ hôi vã ra như tắm. Chủy nghển cổ với ấm bình tích trên bàn, tu ừng ực. Đầu váng mắt hoa, ý nghĩ chập chờn, Chủy bỗng giật thót người vì vừa nghe tiếng trẻ con “e...e” bên hàng xóm. Tiếng trẻ khóc đó sao mà giống... giống hôm thằng Kim bị giết. Thì ra Chủy vẫn không sao quên được tiếng đứa trẻ khóc hôm “thằng Kim” bị giết. Thảo nào chiều qua khi nghe tiếng trẻ khóc bên cạnh nhà người bán bánh tây, Chủy đã dừng lại một giây.
Thời còn chỉ huy một đoàn quân Quốc Dân Đảng đóng ở Lao Kay, Kim đã giết một cán bộ đồng chí của Chủy. Ưu thế ngả dần sang mặt trận Việt Minh, toán quân của Kim ở Lao-Kay bị tiêu diệt, Kim chạy thoát sang với Phục Quốc Quân, chỉ huy một cánh quân khác án ngữ dọc theo sông Kỳ Cùng. Khi đoàn thể Chủy hoàn toàn làm chủ tình thế trên toàn quốc, Chủy cương quyết dò tim tông tích Kim bằng được. Hắn biến dạng đâu mất. Hắn sợ bị trả thù, hắn sợ phải trả món nợ máu. Một năm sau hắn mới lò dò về quê, hắn định lẩn về thăm vợ con, hắn không biết rằng vợ con hắn còn là cái mồi để dụ hắn vào “ổ phục kích” do Chủy kiên gan bố trí. Mỉa mai thay, Kim về thì vợ đã chết được một ngày, đến đầu hẻm Kim gặp một đám tang đi ra, đám tang vợ mà không biết vì Kim luôn luôn hồi hộp vừa cúi mặt xuống mà đi vừa kín đáo liếc ngang liếc dọc để xem mình có bị theo dõi. Kim chui vào nhà như con chuột khốn nạn chui vào bẫy. Chủy và ba đồng chí đàn em cũng rải cẳng theo gót Kim ập lẹ vào... Đúng như chương trình đã bàn định: người vào sau cùng vừa đóng ập hai cánh cửa ngoài lại thì Chủy chồm tới như hổ đó vồ mồi, hai bàn tay lực lưỡng xiết chặt lấy cái cổ gầy, Kim ngã bật ngửa không kịp kêu một tiếng, và cũng cả thân hình vạm vỡ của Chùy nổi gân lên với bắp thịt tay, tập trung cả sức nặng dồn xuống hai đầu gối mà khoáy sâu xuống nữa... Có tiếng rắắắc... phải chăng một mảnh sụn nào đó gẫy rập? Có tiếng trẻ con bật khóc “e..e..” đâu đây, Chủy rún hai đầu gối theo nhịp tiếng khóc “e..e..” của đứa trẻ. Không phải tiếng khóc của thằng con duy nhất của Kim - thằng bé đã được người nhà bế đi theo sau áo quan mẹ nó- đó là tiếng khóc của đứa con nhà hàng xóm. “E..e..” - “Được lắm, con nhà hàng xóm nó khóc thay cho con mày!” - Chủy nghĩ theo nhịp nhún của hai đầu gối. Khi buông ra đứng lên, Chủy nhìn xác Kim rũ dưới chân như một con chim non mới ra ràng chết rũ trong một trận cuồng phong và rớt từ trên tổ xuống. Ngờ đâu tiếng trẻ khóc “e..e..” ngày ấy lại chui tọt vào tiềm thức Chủy, bám sâu, mọc rễ ở đấy đợi đến ngày nay nhoi lên ý thức
Cơn nóng đã tới cao độ. Đã mấy lần Chủy nhỏm lên với lấy tích nước ngửa cổ tu ừng ực.
Chuyện con sen thấy tháng cũng đụng vào một kỷ niệm trong tiềm thức. Tình Chủy đam mê Vân luôn luôn như cơn sốt nóng, càng uống càng thấy nước ngon nước ngọt và càng thấy khát. Một buổi chiều công tác lưu động kia, Chuy cổ thu xếp về với Vân, rủi gặp kỳ Vân không thể chiều Chủy được. Chủy lại ra đi, tuần sau mới về. Chủy vẫn nằm một giường riêng, Vân, Du một giường. Thường thường khi mọi người đã ngủ yên, Chủy lằng lặng tuột ra khỏi giường để đến cấu lên cánh tay Vân một cái, rồi trở về giường mình, Vân sẽ theo sang. Lần đó Chủy cho là Vân biết ý sẽ tự sang. Chủy thao thức chờ, đêm khuya dần... Trong cơn sốt miên man tại nhà Đạo, Chùy sống y hệt lại kỷ niệm giận hờn đêm đó. Càng chờ càng bằn bặt, Chủy thấy nghẹn ngào rồi hục hặc, giận Vân biết chừng nào, hai chân muốn đạp tung thành giường, hai tay muốn bóp cổ... bóp cổ Vân cho chết như Kim đã chết... Cơn mưa nửa đêm đổ xuống, tiếng mưa rào rào khá mạnh, mỗi cơn gió ùa tới, tưởng như thấy cảnh mưa rạt trên mái nhà, Chủy thèm Vân, thèm Vân lúc đó Vân sang với Chủy dù có được thăng đến cấp ủy viện trung ương cũng không hạnh phúc bằng... Vân không sang... Mi tưởng ta cần mi sao... mi đợi ta phải chạy sang giường mi làm hiệu sao... ta không cần... ta không cần... thiếu gì những cán bộ cấp dưới hoặc nữ quần chúng khác... đồi sắn Phú Thọ... đồi chẩu Phú Thọ... đồi sơn Phú Thọ... chỗ nào mà chẳng vắng vẻ, ta muốn thỏa tình chỗ nào mà chẳng được... mi làm cao... mi làm cao... ta đâu có cần... ta đâu có nô lệ cho mi. Du khóc, Vân dậy, Du khóc ngằn ngặt, phải rồi Du sốt, Vân dậy pha nước đường cho Du, Du uống rồi lại khóc... Tiếng Vân ru... tiếng Du khóc...mãi...mãi... rồi Chủy thiếp ngủ lúc nào...tai còn mơ hồ nương theo giọt gianh rỏ xuống lách chách... Chủy sực tỉnh vào lúc gần sáng, chỉ còn gió, gió lộng tưng cơn lùa qua các khe cửa, lạnh lùng thấm qua lần chăn mỏng, thấm qua lần quần áo...Chủy thấy thân hình nhẹ bỗng, xương thịt như tiêu đi đâu mất hết, chỉ còn lại một chút ý thức điều khiển một khối đam mê nhẹ bỗng nhưng nóng rực... Khối đam mê đó chập chờn... cô độc... bay vật vờ cầu bơ cầu bấc theo gió... và rồi lách vào màn sương lạnh cao, dầy và rộng bất tận.
Sau cơn sốt tát nhiên đến cơn chán, tinh thần rã rời. Vợ Đạo mang cháo hành vào, Chủy chiều ý ăn cho xong rồi nằm xuống. Đạo mang vào lọ thuốc flavoquine nói là Khóa phải về Hài Nội ngay gửi lại biếu Chủy để khi đã dứt cơn thì mỗi tuần nên uống chặn một viên, như vậy có thể tiệt nọc. Đã hai giờ chiều. Các kỷ niệm mấy hôm trước đây Chủy gạt đi, hoặc chỉ để ý thức lướt qua, nay chúng ùa lại như nước lũ vỡ bờ. Chủy chết đuối trong đỏ, chẳng còn hơi sức đâu mà chống đỡ, hoàn cảnh bên ngoài ở cái vùng này thì còn cái gì giúp mình chống đỡ?
Sớm hôm sau Chủy cương quyết ra đi.
Vợ Đạo nói:
-  Chú vội đi làm gì, ở đây thêm vài hôm cho dứt cơn đã.
Dứt cơn rồi chị ạ - Chùy đáp - lần nào tôi cũng chỉ bị lên một cơn rồi uống thuốc chặn là khỏi. Lần này mỗi ngày tôi sẽ tiếp tục uống ba viên quinacrine, rồi uổng flavoquine của anh Khóa...
Đạo hỏi:
-  Chú cần lấy thêm tiền...
Chủy gạt đi:
- Trăm bạc anh đưa tôi hôm kia tiêu còn khối đây, thừa đủ để lấy một tấm vé xe.
-  Chú đi về lối nào? - vợ Đạo hỏi.
-  Về lối Ninh Giang chị ạ.
Vâng, thôi chúng tôi không dám ép nữa - Đạo nói - chúc chú ra ngoài đó gặp thím và cháu vui vẻ.
Ba đứa lớn đến chào Chủy rồi cắp sách đi học. Trước khi đi, Chùy ôm bé Minh và hôn lên trán nó rất lâu.
Đến bến xe gần vườn hoa, Chủy mua tấm vé ô tô về Ninh Giang - (lộ trinh của Chủy y hệt lộ trình của Hãng xưa). Trên xe Chủy nhận ra có ông hàng bánh tây ôm đứa con trong lòng, thằng bé cầm trong tay thứ đồ chơi Chủy cho chiều hôm nào, đôi bên cùng lộ vẻ vui mừng chào nhau. Xe tới cầu cát, Chùy xuống, ông hàng bánh tây cũng ôm con xuống theo; Chủy theo đường mòn phăng phăng đi xuống, thấy ông ta cũng ôm con xuống đồng. Chủy dừng lại hỏi:
-  Ông cũng định mang cháu ra ngoài kia?
Ông hàng nhìn về phía trước nói:
Chẳng nói dấu gì ông quê tôi ở làng Phả thuộc vùng ngoài ấy, hằng năm ngày giỗ mẹ tôi vẫn về, những người làm việc đều là anh em trong họ ngoài làng cả nên họ thông cảm. Tôi mang cháu theo thế này để nhỡ giữa đường có gặp anh em bảo chính tuần tiễu thì cũng hiểu tôi là thường dân.
-  Làng Phả tôi biết- Chủy nói- ông định đi đường nào về đấy?
Tôi theo đường đất nay ngược lên làng Huyen, từ làng Huyền qua làng Cơ, ở đấy qua cái lạch nhỏ nữa là sang địa phận đồng làng tôi.
Chủy lắc đầu:
Ồng đi quanh thế xa quá, hãy theo tôi vượt thẳng đây qua làng trước mặt, qua một cánh đồng chiêm rồi cũng tới con lạch đồng làng Phả.
-  Nhưng đường đó ở giữa hai đồn Bảo Chính và lính đi tuần luôn.
Thì ông đã bế cháu thế này, ngay tình rồi cần gì? Ruộng chiêm mùa này làm gì ra nước mà ông ngại?
Ông hàng bánh tây vui lòng theo Chủy. Sự thực Chủy tuy có hảo ý mách đường gần cho ông hàng nhưng cũng có ý muốn lợi dụng đứa trẻ mang theo để nhỡ gặp lính tuần tiễu thì dễ ăn dễ nói. Họ đi sâu dần vào vùng đai trắng ngăn cách hai miền.
Quả nhiên ruộng chiêm vào mùa khô dễ đi, đôi chỗ ruộng có ẩm ướt, nhưng bùn nước chỉ ngập đến mắt cá là cùng. Bước lên khoảng đồng khô ráo, Chủy chỉ về phía trước nói:
-  Chỉ hết quãng đồng này nữa là tới con lạch!
Chợt một hình đen ngòm vụt nhô khỏi ngọn đa phía làng xa. Chủy nhận ngay ra chiếc B26.
Vào dạo này không sáng nào là các B26 không phân chia nhau đi kiểm soát các trục giao thông cùng các đường vùng đai trắng. Chúng bay rất thấp để dễ bề bất chợt xuất hiện và xả súng bắn liền nếu gặp bóng người.
Chiếc phi cơ hung thần xuất hiện bất ngờ đó lại đương bất ngờ lao vút tới đúng hướng hai người đương đi. Chủy quay phắt lại. Người bố ôm con đứng co rúm như cua gặp ếch bên khoảng huyệt mới bốc mộ sâu hoắm. Chủy nhanh tay đẩy mạnh. Hai cha con ngã lăn chiêng xuống. Nhún cẳng định lao theo. Quá muộn rồi! Mấy đường lạnh xuyên qua cơ thể vật Chủy ngã xấp. Hai cha con dưới huyệt thấy đất tứ bề bắn tung, rồi tiếng nổ ran kinh hoàng cùng bóng chiếc phi cơ sát nhân đen ngòm lướt qua, lướt nhanh như muốn biến thành đường vải liệm không gian, tiếng động cơ hung dữ, chát chúa, rung chuyển, đảo lộn cả một vùng không khí rộng lớn.
Khi nghe ông hàng bánh tây thuật lại đoạn này, Vân thút thít khóc, cúi đầu chấm nước mắt rồi ngửng lên nói:
-  Ông làm ơn đưa tôi đến chỗ huyệt ông đã chôn nhà tôi.
Ông hàng lắc đầu ngao ngán:
Thưa bà, xin thề có Trời Phật chứng giám, tôi không dám tiếc công, chính nhờ ông nhà mà cha con tôi thoát chết, nhưng quãng đồng lạ đó tôi chỉ đi có một lần, sau lúc bị phi cơ sà bắn, tôi bàng hoàng đến mê mẩn cả người, thằng con tôi ngồi khóc trên bờ ruộng, tôi chôn ông nhà, rồi bế con loanh quanh men theo khoảng đường thấp mà đi. Giờ đây tôi không sao nhận ra khoảng đó nữa, lại đương mùa mưa, cả khoảng đồng chiêm đó giờ đây như biển hồ, không tài nào tìm ra được đâu bà ạ.
Nói dứt ông cúi đầu hai bàn tay chắp lại, những ngón tay lồng xoắn với nhau, trong khi bắp thịt hai bên má rựt rựt, vẻ ân hận chân thành.
Vân một lần nữa nâng khăn tay thấm nước mắt, Tân đứng bên cắn môi im lặng, hai vợ chồng Đạo cùng thở dài chưa biết nên nói gì. 
Phần ii
Chương 12
Thương hải tang điền
i
Có cái gì đau thương lắm nứt rạn trong không khí! Linh cảm vậy thôi chứ mấy ai muốn nhìn thẳng vào sự thật, nhất là sự thật đó không do mình quyết định, nghĩa là mình không chịu trách nhiệm. Ai nấy hy vọng, và trong hy vọng!ẽ cố nhiên người ta cố gạn lọc những gì quá nặng nề, bi đát. Nhưng tội nghiệp, chẳng nỗi buồn vui thời cuộc nào của họ mà chẳng đầy rẫy những mâu thuẫn đau lòng, ánh mắt lân tinh, nụ cười hư ảo, cuộc sống thực, là thường xuyên mình trần nằm trên gai, miệng đắng ngậm thêm mật Trước đây các thứ đồn điền (cao su, cà phê, trà...) của thực dân thì như sao sa, trường học lại chỉ toen hoẻn đơn độc chiếm có một khu nhỏ xíu của Hà Nội thủ đô văn hóa. Và ngày nay họ sống ở miền quốc gia ư? Quân đội viễn chinh Pháp còn kia, chúng chiến đấu và chết cho quyền lợi của chúng, tìm đâu ra chính nghĩa quốc gia bây giờ? Những người Việt ở hai bên trận tuyến cứ việc gục ngã, những người da đen nhược tiểu khác cứ việc gục ngã, những người lê dương không còn to quốc cứ việc gục ngã, những con dân nước Pháp cứ việc gục ngã- (riêng hạng sau này được đền bù xứng đáng hơn cả vì dầu sao họ cũng chiến đấu cho vinh quang xứ sở họ, dù là thứ vinh quang giả trá và đã từ lâu lõa lồ bất chính)- tất cả những người đó cứ việc gục ngã, máu, nước mắt, xương rơi thịt nát của họ đúc kết và tô hồng cho thành quả ngày thêm nặng chĩu trên đôi tay thỏa thuê của Quốc Tế Cộng Sản.
Hữu xuống Nam Định dạy học. Khi tờ Văn Hóa ra đời, Hữu liên lạc mật thiết với Khiết và luôn luôn gửi bài về đóng góp ý kiến. Và, vẫn trên tờ Văn Hóa, phần tóm tắt tin chiến sự hàng tuần rập theo thông cáo chính phủ được thay thế bằng những bài phóng sự sống động của Lãng. Những dòng tường thuật đó luôn luôn là lời nói của ngôi thứ nhất kể lại với độc giả những gì mắt thấy tai nghe.
Song song với cuộc chiến đấu anh dung của người Việt diệt Pháp ở Điện Biên Phủ (mà thành quả rơi vào tay cộng sản quốc tế) thì lò lửa thứ hai của chiến tranh là miền duyên hải Liên Khu Ba gồm bốn quận Xuân Trường, Hải Hậu, Trực Ninh (tức Nam Trực) và Giao Thủy họp thành tỉnh Bùi Chu. Nơi đây bộ mặt chiến tranh ở cái thế ngược lại với Điện Biên Phủ, nơi đây những binh sĩ quốc gia đấu trí và đấu súng quyết liệt với du kích và chính quy Việt Minh.
Lãng rất bằng lòng được “chiếu ống kính” phóng sự về miền này, miền quê hương của chàng. Như một phỏng viên chiến tranh quốc tế thật sự, Lãng sống sát với hai bộ chỉ huy của hai tiểu đoàn khinh quân rất thiện chiến của tỉnh Bùi Chu: tiểu đoàn 19 đóng ngay ở tỉnh lỵ và tiểu đoàn 16 đóng ở Xuân Trường. Không đêm nàọ là không có cuọc chạm súng. Các chiến sĩ của hai tiểu đoàn trên đêm đêm vẫn về ở lẫn với thường dân để dễ bề phục kích địch. Đồng thời bốn tiểu đoàn địa phương quân mới thành lập đưa về giữ Hải Hậu. Các quận xung quanh nơi nào bất an quá dân chúng đều đổ về Hải Hậu, và đặc biệt tới ở làng Thương Điền - làng của Lãng - nơi an ninh được bảo đảm nhất.
(Cách biển có một cây số, nơi này sau ngày ký hiệp định Geneve còn là địa điểm tập trung quan trọng của các đồng bào di cư ).
Sớm nào cũng có hai trung đội thuộc tiểu đoàn 16 hay 19 phụ trách việc đi dò min mở đường từ Bùi Chu tới Thương Điền, khoảng hai mươi nhăm cây số. Lần đó, từ đêm hôm trước, Việt Minh đã lẫn vào làng Bích Câu, một làng bên bờ sông Ninh Cơ cách Bùi Chư chừng ba cây số. Họ bí mật huy động một số dân chúng đào hố cá nhân dọc theo con lộ. Từng mảng cỏ được giữ nguyên đặt lên phên đan. Khi năm mươi quân chính quy Việt Minh đã xuống ẩn dưới năm mươi hố cá nhân dọc theo hai bên lề con lộ thì phên cỏ được dặt khí dưới miệng hố. Đó là chiến thuật độn thổ. Bảy giờ sáng hôm sau khi hai trung đội của tiểu đoàn 19 mở đường tới đó, hai khẩu đại liên bên kia bờ sông Ninh Cơ lóe lửa quạt sang, tiếng nổ trầm và mạnh rung chuyển cả vùng, mội đợt gió sớm thổi mạnh tưởng như hai khẩu đại liên đỏ thét ra gió, dòng sông Ninh Cơ gợn sóng tưởng như tiếng đại liên còn gieo kinh hoàng xuống cả lòng sông nữa. Các chiến sĩ tinh thục của tiểu đoàn 19 đã nằm rạp xuống mặt đường. Đàn bà trẻ con làng Bích Câu bị cán bộ Việt Minh nằm lẫn bên trong từ tối hôm trước huy động ra đầu làng bắt phải hò reo ầm ĩ trong khi năm mươi binh sĩ chính quy Việt Minh tự các hố cá nhân vùng lên, cởi trần trùng trục, khí giới dao găm và súng lục.
Một anh thiếu úy trung đội trưởng đã nhanh như cẳt vùng đứng lên lia loạt tiểu liên đầu tiên, tiếng anh hô lớn át cả tiếng đại liên bên kia bờ sông Ninh Cơ:
- Chiến thuật độn thổ, các anh em!
Đoàn quân lão luyện chiến trường đã vùng đứng lên cả, những loạt súng lia đều. Tiếng hô "chiến thuật độn thổ các anh em!” khiến họ hiểu ngay: hai khẩu đại liên bên kia sông Ninh Cơ chỉ là bắn cao trên đầu người để đánh lừa họ phải nằm bẹp xuống, lũ đàn bà trẻ con phải xua ra đứng reo hò ở đầu làng Bích Câu kia cốt để đánh lạc sự chú ý của họ, trong khi đó đoàn quân chính quy Việt Minh năm mươi người độn thổ lật phên cỏ sang bên, nhất tề nhảy lên định dùng dao găm súng lục diệt họ chớp nhoáng. Nhưng còn chớp nhoáng hơn, họ vùng đứng lên thành hai hàng xây lưng vào nhau ở giữa đường và cùng lia súng về hai bên. Bộ phận truyền tinh cũng đã gọi về secteur đóng ở làng Hành Thiện gần đấy. Trận phản phục kích độn thổ đó các chiến sĩ của tiểu đoàn 19 chỉ mất có mười phút lia ngã cả năm mươi Việt Minh, phía họ không ai bị sây sát gì cả. Secteur đã cho mấy chiếc thiết giáp tới bắn trả đũa sang bên kia bờ sông Ninh Cơ khiến hai đại liên bên đó vội vã rút lui.
Chiến thắng này làm rạng rỡ lòng người quốc gia nhưng sự rạng rỡ đó cũng chóng như ánh hoàng hôn miền nhiệt đới, lầu chiều sụp đổ ngay, bóng tối ùa vào ngay, bởi đã quen sống trong hoàn cảnh mâu thuẫn xé lòng, họ tự đặt ngay câu hỏi: “Ai hưởng công lao anh dũng đó của những chiến sĩ Việt vùng quốc gia?”- “Thực dân!”. Niềm hân hoan của cả hai miền khi theo dõi chiến cuộc đè bẹp thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ cũng vậy. Ai hưởng mồ hôi, xương máu của hàng vạn chiến sĩ cầm súng và hàng chục vạn dân công? - Cộng sản! Ai nấy cảm thấy mình luôn luôn phải giữ thăng bằng mà tiến dọc theo con đường sắc như lưỡi dao! Cho đến ngày lưỡi dao oan nghiệt quaỵ ngang, thực dân một đầu, cộng sản một đầu, chúng theo cùng một hiệu lệnh ấn xuống xắt đôi nước Việt theo vĩ tuyến thứ 17 thành hai trận tuyến.
Trở lại với mặt trận Bùi Chu, phía Việt Minh biết là khó có thể tiêu diệt hai tiểu đoàn 16, 19 tinh nhuệ, thêm nữa bên quận Giao Thủy họ còn bị các chiến sĩ của “tiểu đoàn áo nâu” luôn luôn nắm quyền chủ động đột kích, phục kích, truy kích tơi bời, họ bèn tìm kế xâm nhập làm nội tuyến một trong bốn tiểu đoàn địa phương quận đóng bên quận Hải Hậu. Khi thời cơ nội tuyến đã chín mùi, Việt Minh bất chợt tấn công, thế là ngoài đánh vào, nội tuyến vừa phá trong vừa đánh ra, có một ngày một đêm mà cả bốn tiểu đoàn tan tác, phần còn lại xơ xác đành chạy lên Bùi Chu gia nhập tăng cường cho hai tiểu đoàn khinh quân 16,19.
Nói về “tiểu đoàn áo nâu”, cũng gọi là “tiểu đoàn trâu” tung hoành bên quận Giao Thủy, đây là một tiểu đoàn chính quy phần lớn binh sĩ là đồng bào thiểu số người Nùng. Họ sinh hoạt y hệt một tiểu đoàn địa phương quân tự trị. Họ luôn luôn bận quần áo nâu như thường dân - dọ đó cái tên “tiểu đoàn áo nâu”- Không thiết lập những đồn chính cùng đồn phụ cố định, họ lưu động khắp quận đêm nào cũng đi nằm nấp ở các bờ bãi, vô phúc quân đội Việt Minh lọt vào ổ phục kích của họ, chết không kịp trở tay. Thực tình Việt Minh khi biết là chạm trán phải tiểu đoàn áo nâu, lập tức mạnh ai nấy chạy mà thoát thân. Các làng tề theo quốc gia, tiểu đoàn áo nâu không bao giờ đụng chạm tới, nhưng làng tế ấm ớ nào dung dưỡng Việt Minh quấy phá, tiểu đoàn áo nâu thẳng tay tàn sát. Sau mỗi cuộc hành quân thắng lợi tiểu đoàn áo nâu tự động bắt một con trâu của vùng tề ấm ớ về ngả thịt tự khao - do đó cái tên thứ hai: “tiểu đoàn trâu”! Họ thương nhau như anh em ruột, một người ngã xuống họ căm thù, họ phản công, họ gài bẫy, họ truy kích bắt kỳ được đối thủ phải trả món nợ máu tức khắc, một trả mười hay hơn nữa. Tiểu đoàn áo nâu khi thoạt tới quận Giao Thủy, quân số nguyên vẹn gồm 500 người. Rồi xông xáo nay đây mai đó, phục kích tung hoành, quân số hao hụt nhưng họ nhất quyết không chịu bổ xung. Trận oanh liệt nhất của tiểu đoàn áo nâu mà dân chúng quận Giao Thủy thường nhắc nhở đến luôn như một giai thoại là trận tiểu đoàn để lại nơi tạm trú năm bạn đồng đội, đêm đến thắp đèn măng xông sáng chưng, thấp thoáng kẻ đứng người ngồi. Việt Minh ập tới định ăn thua một trận tốc chiến tốc thắng. Chợt ngọn đèn măng xông bị bắn vỡ tan, bóng đêm chụp xuống, năm “con mồi” lẩn xuống hầm bí mật nhường chiến địa cho toàn thệ chiến hữu khác từ bốn bề ập tới làm chủ tình thế tức khắc và tốc chiến tốc thắng gấp mười lần. Xác Việt Minh gục ngã ngổn ngang như dạ mùa.
Những chiến hữu trong tiểu đoàn áo nâu có lý do để say sưa lâu dài hương vị chiến thắng, nhưng những người dân bên ngoài vui đấy mà buồn đấy, vui buồn nháp nháy như ánh sao, vì họ không bao giờ quên rằng đó là cốt nhục tương tàn để cho thực dân và cộng sản quốc tế đứng ngoài hưởng lợi, chúng dùng xác những đồng bào ngã xuống làm con bài mặc cả với nhau - ngày đó tin họp hội nghị Genève đã chính thức được xác nhận. Cho đến ngày hội nghị Genève bế mạc, phong trào di cư khởi xướng, tiểu đoàn áo nâu chỉ còn có trên dưới một trăm chiến hữu. Họ tự động giải tán.
Nhưng tâm hồn Lãng tràn ngập trữ tình nhất phải kể đến những ngày chàng trở về quê cũ - làng Thương Điền- song hòa đồng với đám người đồng hương trong những ngày di cư và gặp lại ông Phụ.
Chiến trường Bùi Chu vào hồi tàn cuộc chỉ còn vài đồn quan trọng nhất để bảo vệ tỉnh lỵ đồn Lạc Quần, đồn Cựa Gà và đồn Trà Trung.
Tối hôm đó xung quanh Bùi Chu bỗng yên tĩnh lạ. Khoảng chín giờ tối dân chúng đã đi ngủ như thường lệ. Họ ẩn sớm vào giấc ngủ cho khuây khỏa mối sầu lo luôn luôn đè chĩu tâm hồn họ vào lúc ban ngày; cũng có nhiều người, lo đã nhiều rồi, hoang mang đã hoang mang nhiều rồi, lòng muốn sượng sần thành chai đi. Nửa đêm về sáng họa hoằn mới nghe thấy vài tiếng súng lẻ tẻ vọng lại từ xa. Nhưng sao hai đồn Lạc Quần và nhất là đồn Trà Trung đốt hỏa pháo nhiều thế? về gần sáng có tin sét đánh: quân đội rút khỏi vùng duyên hải này. Tại sao rút? Lời giải: rút lên Hà Nội tập trung lực lượng để rồi sẽ trở về.
Tám giờ sáng, quân đội tập trung ở đồn Cựa Gà, một phần xuống tàu ngược sông Ninh Cơ lên Nam Định, phần còn lại theo đường ra biển lên tầu đi Hải Phòng.
Những nhà giầu đã nếm mùi cộng sản bán vội gia cơ điền sản theo gót quân đội lên ở hẳn thủ đô hoặc ít ra cũng lên đến Nam Định. Dân chúng trung lưu chần chừ ở lại bèn vào mấy đồn cũ lượm những trái lựu đạn còn sót đem ra sông Ninh Cơ mở kíp ném xuống vớt cá. Nhưng bộ đội Việt Minh đã lác đác tới kia, tức thì miền quốc gia ruỗng nát biến thể thành miền Việt Minh, phi cơ bỗng sà xuống thả bom và bắn phá. Dân chúng thoạt ngơ ngác, nhưng rồi nhận thức ngay hoàn cảnh bị mắc kẹt giữa hai làn lửa. Thế là đa số quyết định thu vén của nả đưa nhau, dẫn dắt nhau, bồng bế nhau đi Nam Định, đi Hưng Yên, đi Hải Phòng, đi Hà Nội.
Lúc đó Lãng đã về quê nhà- làng Thương Điền. Chàng còn ờ làng khá lâu nữa để chiếu ống kính phóng sự lên miền duyên hải quê hương cho đến ngày chàng cùng ông cậu xuống bè ra biển lên tầu đi Hải Phòng.
Ngoài bãi biển vào một ngày đầu di cư ông Phụ cũng đã tợp hết cút rượu, mặt đỏ gay, đôi mắt hấp háy, ông dời bãi biển đi lên, qua rừng phi lao, leo lên đê cao, nhìn xuống khu ruộng muối màu xám ẩm với những con kênh lấp lánh như bạc, xa chút nữa làng Thương Điền với lũy tre xanh kéo dài trên ba cây số, và khi thầy từng đám người iũ lượt kéo nhau đi, ông cất tiếng cười sảng khoái hét lớn câu khôi hài từ mười năm nay của ông:
-  Ha ha! Màààn... từ từ.. hạ!!!
II
Ông Phụ lẽ ra phải là người cộng sản lý tưởng mới phải. Thuở còn là thanh niên Phụ đã có lần cầm đầu đám nhà nông làng chống lại quan Thượng Quá, một trong tứ trụ triều đinh, đòi được dẫn tô nhẹ. Cả miền duyên hải dài một trăm cây số này từ Quần Tròn qua Hạ Trại đến Thương Điền, rồi lại từ Thương Điền qua Văn Lý ngược lên đến Bách Quất Lâm không nơi nào là không có ruộng đát của quan Thượng Quá. Cuộc tranh đấu đòi giảm tô của chàng thanh niên Phụ thất bại vì không ông quan sở tại nào dám đụng đến uy quyền của một vị trong tứ trụ triều đình. Chàng thanh niên Phụ buộc lòng phải bỏ nghề nông sang nghề làm muối. Nghề nông một sương hai nắng bị chủ điền bóc lột, nghề muối vất vả không kém bị nhà đoan bóc lột còn tàn nhẫn hơn nữa.
Lề - sân làm muối - của Phụ được miết vôi kỹ nhất, mịn nhất. Cái xêu để vãi cát của Phụ được bào nhẵn nhất, cái trang để vun cật của Phụ được gọt vuông nhất. Rồi kể cả từ cái chạt để lọc nước muối đến cái thống (xống) để dự trữ nước cái của Phụ đều được làm kỹ làm đẹp nhất làng.
Sáng ra nhìn ráng mây, xem hướng gió, Phụ có thể tiên đoán thời tiết rất đúng để quyết định công việc trong ngày trước khi bặt lề (quét sân muối) hoặc vãi cát.
Xưa người ta dùng quả bầu phơi khô làm gáo vục nước cái từ thống đổ vào lề, vì vậy mà gọi là cái bầu, nhưng bầu nhỏ quá! Chính Phụ có sáng kiến đan bầu lớn bằng tre rồi lấy sơn sống trộn với sắn thuyền phết kín bên ngoài, vục cho nhanh.
Mặc dầu là một thanh niên chịu khó, thông minh, giàu sáng kiến như vậy mà đời sống của Phụ vẫn cực nhọc và nghèo xơ nghèo xác. Giận thân giận đời, một sớm kia Phụ đập bầu, đập xêu, đập trang, đập lề, bỏ làng đi! Thì ra Phụ sang làng Xuân Lũy cách đây ba cây số xin một chân tá điền. Trở lại nghề làm ruộng, Phụ lại lãnh đạo anh em đứng lên xin giảm tô, người chủ điền rất biết điều ưng ngay lời đề nghị, đôi bên cùng hỉ hả, chính thái độ lao tư họp tác này (mà yểu tố kích thích là Phụ) đã làm cho làng Xuân Lũy phồn thịnh hẳn. Phụ lấy vợ. Người đàn bà đó không đẹp nhưng hiền thục. Người làng Thương Điền vẫn phải lên Xuân Lũy vớt rong vớt bèo về nuôi lợn, mỗi lần gặp người làng như vậy, thế nào hai vợ chồng Phụ cũng mời bằng được ăn với mình bữa cơm rồi khi về lại biếu thêm ít khoai luộc, sắn luộc, sống hòa thuận mặn nồng với vợ hiền có được hai con trai, sống hòa thuận cởi mở với chủ, với những người xung quanh, với bà con làng nước cũ, làm ăn tuy vất vả nhưng mát mặt, Phụ luôn luôn nhớ ơn vợ về những điểm đó. Hình bóng người đàn bà có đức ấy đồng hóa với khoảng thời gian mười lăm năm hạnh phúc nhất của đời Phụ. Bất hạnh khởi sự trở lại vào năm đói- 1945. Làng Xuân Lũy được chủ điền vui lòng cho mọi người vay thóc ăn cầm hơi đợi vụ chiêm nộp trả. Làng Thương Điền quê hương ông Phụ - kể từ đây phải gọi là ông Phụ - được các hương lý biết cách đòi đổi bông muối lấy bông gạo. Vì vậy trong khi các làng lân cận như Văn Lý, Xuân Hà, Hạ Trại người chết đói ngổn ngang thì riêng hai làng Thương Điền, Xuân Lũy nạn đói chỉ làm lảo đảo một số chứ không ai bị ngã quỵ.
Thoạt bà Phụ nhân đức cho thổi một nồi cơm lớn, nắm thành nắm nhỏ để phát cho những nạn nhân từ các làng lân cận đến, nhưng số người ùn ùn tới, nồi cơm như gió thoảng qua nhà trống và cảnh tranh cướp càng khiến hai ông bà đau lòng.
Nạn đói làm mọi người có cảm tưởng hạt gạo xốp hẳn, hạt cơm nở bung, nhưng ăn bao nhiêu cũng không thấy no. Nói vậy thôi chứ gia đình nào con cái lớn biết nghĩ mà chẳng “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, huống chi hai đứa con trai mười lăm, mười ba của ông bà Phụ lại thuộc vào hạng hiếu hạnh giống mẹ. Rồi gia đình ông Phụ bắt đầu phải ăn cháo. Vườn xu hào cùng những khóm củ giong, củ chóc quanh nhà ông đêm đêm bị những đứa trẻ khá lớn ở truồng tồng ngồng lẩn vào vặt trụi, xu hào ăn cả lá, củ giong, củ chóc nhổ lên ăn sống, lá chóc được tước ra để ăn phần cuống ngòn ngọt... Cả hai ông bà Phụ đều biết đấy, nhưng biết làm thế nào, đến giết họ còn chẳng sợ nữa là đuổi, thôi thì đành “chết một đống còn hơn sống một thằng”- ông bà cũng nghĩ vậy để tự an ủi. Vả vụ chiêm cũng sắp được gặt rồi! Một buổi chiều trên đường tự ngoài đồng về, ông Phụ dừng lại trước cổng làng: dựa vào cánh cổng, một người đàn bà ngửa cổ, há miệng, một bàn tay chìa ra như đương xin, nhưng bà đã chết tự bao giờ, nằm sát bên bà là đứa con gái khá lớn, tròng mắt trừng trừng có động đậy đôi chút nhưng cô bé đã mê man.
Quần áo cũng tả tơi rách mủn, cả hai mẹ con một sống một hấp hối đó gần như khỏa thân. Đứa con gái đã được ông Phụ mang về đổ cháo cho ăn cứu sống, (ổng vừa ra thăm đồng về biết chắc vài hôm nữa đã có một đám ruộng gặt tạm được).

Hôm lúa chiêm gặt về giời mưa trọn ngày, ông Phụ phải dùng lược tuốt lấy thóc, đổ vào chảo rang cho khô và xay ngay lấy gạo thổi cơm ăn. Buổi rang thóc đó khói hun hai mắt ông xưng húp, thỉnh thoảng trong chảo rang có hạt thóc nào sớm quá độ nóng nở bung trắng như hoa cau ông lại lấy ra đưa cho vợ hay ba con - đứa con gái được cứu sống là con nuôi- nếm thử hạt gạo đầu mùa.
Bà Phụ bỗng lên một cái đinh râu. Coi như cái mụn thường, bà soi gương tự nặn lấy. Hôm sau cả một bên mặt bà sưng vù không mở được mắt, cơn sốt lên bừng bừng, thuốc thang không gỡ kịp, năm ngày sau thì mất. Thế là qua được nạn đói khủng khiếp lại chết về đinh râu, đi biển không chết, chết ở rãnh ngòi! Người vợ hiền chết đi mang theo cả linh hồn hạnh phúc, ông Phụ chẳng thiết làm ăn gì nữa bắt đầu rượu chè be bét, tính tình ngang ngạnh dần, rồi văng tục, rồi chửi đổng...
Cách mạng tháng tám thành công, có tin con giai cụ Thượng Quận bị làm nhục ở quê nhà vùng Hà Đông, còn quan Thượng ở thủ đô thì vừa lo vừa uất mà chết. Nhớ lại mối thù ngày nào tranh đấu giảm tô thất bại, ông Phụ cười ha hả sặc sụa mùi rượu, hét lớn lần đầu tiên câu: “Màn...từ từ...hạ!” Rồi kể từ đấy câu trên bỗng thành câu tán thán cửa miệng của ông Phụ nhiễm tính chất bi hài. Tất cả những việc lớn nhỏ có tính cách thương hải biến tang điền, đương giàu sang bỗng nghèo hèn, mới đây kiêu ngạo nay bị làm nhục... đều được ông Phụ phê bình gọn trong hơi rượu sặc sụa: “Màn...từ từ...hạ!”. Sau này tất cả người làng Thương Điền đều gọi ông là ông “Màn...từ từ...hạ!”
Ông dời làng Xuân Lũy mang ba con trở lại làng Thương Điền nhưng không thích ở trong làng mà dựng một căn nhà nhỏ khoảng giữa đê và rừng phi lao. Thấy vậy người làng bèn ủy cho ông hai việc: coi cống dẫn nước biển vào các kênh quanh ruộng muối và coi rừng phi lao. ông nuôi thêm một đàn dê nữa. Càng ngày ông càng nát rượu, hễ thấy bất cứ ai, bất cứ cái gì ngang ngạnh hay không hợp lý là ông chửi. Hồi Việt Minh mới lên, ông chỉ vào các khẩu hiệu mà chửi đổng, khi chính quyền quốc gia tới ông chỉ và các áp-phích có hình Bảo Đại mà chửi đổng. Việt Minh thắng là “màn...từ từ...hạ” cho những anh quốc gia thối nát; quân quốc gia thắng là “màn...từ từ...hạ” cho những anh Việt Minh gian hùng. Người làng kể là đêm đêm ông Phụ vẫn thường ra rừng phi lao ngồi tựa vào một gốc cây lớn để rồi ngẫng nhìn trời sao mà thủ thỉ thù thì như hệt đương nói chuyện với bà Phụ xưa. Thằng con trưởng của ông vào lính quốc gia rồi tử trận. Từ đấy câu “màn...từ từ...hạ” thường dùng để riễu Việt Minh nhiều hơn. Và ông càng uống rượu. Ấy tuy cả ngày sặc mùi rượu, nhưng việc canh cống và rừng thông thì bao giờ cũng chu đáo. Có những lần nước biển bất chợt dâng lên quá cao, nửa đêm ông cũng chạy về làng báo cho mọi người hay mà chuẩn bị đề phòng, ông đã cải táng cho bà Phụ, ngôi mộ xây gần ngay căn nhà tranh ông ở. Người làng bắt gặp nhiều buổi chiều ông ngồi xếp bằng tròn bên cạnh mộ vợ, ngửa cổ tu cút rượu, tay vê vê hột lạc rang rồi vừa nhấm nháp như vậy vừa thì thầm nói chuyện một mình những gì. Vào những lúc ông tinh tỉnh người làng có đề nghị: “Này ông Phụ, tục huyền đi!” Ông thường cười buồn rầu và lần nào cũng chỉ về phía mộ mà nói: “Gặp ai hiền như bà ấy thì tôi lấy”. Nhưng lời đề nghị trên gặp lúc ông say ông chỉ về phía mộ mà gầm lên: “Màn... từ từ...hạ!”

Đàn dê của ông Phụ khi chán khu rừng phi lao leo lên đê rồi mon men đến bờ kênh dẫn nước mặn, đã đôi lần có con sẩy chân sa xuống thống trữ nước mặn. Giống dê hễ nước vào tai là chết, biết vậy ông Phụ cho làm thịt ngay, chia phần thịt sống biếu các anh em bà con thân tình. Khi rượu say rồi ông chửi thằng anh tại sao lại đi lính để chết uổng mà không ở nhà trông đàn dê cho ông, ông chửi thằng em “vô tích sự” chỉ biết đi học không biết trông đàn dê, ông chửi cô con gái nuôi là tu đến mười đời cũng không bén gót mẹ. Chửi chán rồi ông hét lên để chấm dứt: “màn... từ từ...hạ!”
Đêm đêm mấy người đánh vó đem cút rượu đến biếu ông để ông chỉ cho biết là con nước như thế thì quãng nào có nhiều cá (cá đối, cá nục, cá vược, tôm rát...)
Lũ trẻ con làng cũng thích ông Phụ vì ông hay kể chuyện ma cho chúng nghe. Giang sơn của ông là khu bãi biển Thương Điền, cả khu rừng phi lao ven bãi biển, cả con đê dài với chiếc cống lớn nước biển xuyên qua tiếng réo như tiếng âm hồn, thì làm gì mà ông chẳng nhiều chuyện ma. ông nhắc chuyện mấy năm trước đây có chiếc tàu buôn bị bão đánh đắm ngoài khơi, một số xác chết dạt vào bãi Thương Điền. Người làng mời ông uống rượu rồi nhờ ông chôn cất dùm những xác vô chủ đó. Trong số xác chết ông thấy có hai xác chết ôm nhau, một đàn ông một đàn bà, tất nhiên là hai vợ chồng, ông đặc biệt chôn ưu đãi hai vợ chồng này gần nhau bên một gốc phi lao lớn cách mồ bà Phụ không xa. Ông lại căn dặn con trai và con gái là khi ông chết thi cũng chôn ông gần bà Phụ như thế. ông kể với lũ trẻ con làng Thương Điền là nhiều đêm ông nghe thấy tiếng khóc nỉ non bốc lên từ hai nấm mộ vợ chồng kia rồi một lúc sau thì có hai vầng lửa đỏ bằng hai cái nia dập dìu đi ra tận ngoài khơi rồi lại dập dìu về.
Lũ trẻ nhiều khi cũng phá lắm, chúng tập trận giả làm gãy những cây phi lao nhỏ. Ông Phụ cầm dao dọa đuổi, chúng biết tính ông nên chỉ chạy lấy lệ. Ông dọa chúng là tối đến ông sẽ bảo hai vợ chồng ma về bóp cổ chúng, chúng bèn vít cổ một con dê và dọa lại ông là sẽ dìm dê xuống biển cho nước vào tai. ông gầm lên “Chúng bay là những con nhà mất dạy, chúng bay sẽ thấy màn... từ từ..hạ!”
Ông gả chồng cho cô con gái nuôi. Khi nhà trai đến rước dâu đi ông khóc nức. Buổi chiều ông uống rượu, ông kể công nuôi “nó” từ năm đói để đến bây giờ là “màn... từ từ..hạ!”
Hiệp định Genève ký, dân chúng ùn ùn di cư, ông cũng hả hê một cách không hề có ác ý và nhiều lần hô lớn câu “màn... từ từ..hạ!”
Nam Định tiếp thu, đường Hà Nội Nam Định bị vít kín, các sông nhánh đổ ra Hải Phòng bị vít kín, dân chúng các miền lân cận đặc biệt đổ xô về Thương Điền, Hạ Trại vì biển vùng này ăn sâu vào đất liền sóng yên, bãi cát phẳng mịn và rắn không lầy bùn. Một số thanh niên địa phương đã lên Hải Phòng theo các lớp huấn luyện trở về hướng dẫn các đồng bào di cư. Đại diện xã đã biết cách liên lạc với tàu Pháp ngoài khơi để tổ chức thành từng chuyến di cư (lúc này tàu Pháp lại là cứu tinh). Có những bức thư của các bà con đã vào tới Sài Gòn viết ra Hải Phòng, chuyển về Thương Điền, rồi luân chuyển cho cả hàng huyện dọc. Các gia đình tới vùng này mua sẵn bè nứa, hễ thấy bóng tầu xanh xanh ngoài khơi là hàng ngàn người trên trăm bè chèo ra. Có hạng người chuyên đi thu thập những bè hoang dạt vào để bán lại cho những gia đình đến sau.
Sổ công an, cán bộ Việt Minh về để cản trở phong trào di cư ngày một đông, cách tuyên truyền đủ cương nhu. Nào đến Hải Phòng thì đồng bào bị đế quốc tiêm vi trùng vào người, tiêm thuốc cho không sinh đẻ được, nào ủy Hội Quốc Tế đã bắt được quả tang đế quốc bỏ thuốc độc vào nước tại trại tiếp cư Hải Phòng, nào đế quốc đưa đồng bào ra giữa biển thì nhấn chim tầu, nào bao nhiêu phi cơ cũ chở đồng bào gặp bão cũng rớt xuống biển nốt, nào trong Nam đảng Bình Xuyên cướp của giết người như ngóe...
Cô con gái nuôi ông Phụ lấy chồng làng bên không di cư. ông Phụ cho thằng con trai theo bà con vào Nam lập nghiệp để rồi “liệu mà ra chiếm lại đất Bắc”- ông dặn thế. Anh em bà con giục ông cùng đi ông chỉ lắc đầu, cậu con dục ông đi, ông trừng mắt chỉ về phía mộ: “Tao cũng đi nốt để mẹ mày cho ai? Con nhà bất hiếu bất mục!”
Lãng thu xếp cho gia đinh ông cậu đi cùng chuyển với con ông Phụ. Chuyến này cán bộ và công an Việt Minh định làm dữ, có thêm mấy anh du kích cầm súng ngập nghé đứng phía rừng phi lao. ông Phụ vung dao chửi- “Đ.m. chúng bay sao lại muốn giữ người ta lại? Chúng bay có biết hôm qua dân làng Hạ Trại chặt đứt tay mấy thằng xô ra định níu bè lại không? Các anh em hãy rút dao ra!”
Những người có dao đều rút ra. Công an, cán bộ Việt Minh lùi lại”
Qua tháng 9-1954 bộ đội Việt Minh về nhiều và họ ngăn chặn hữu hiệu những người muốn ra đi. Những ai đi thoát sau này đều phải lẩn về đêm thiên nan vạn nan. Ban ngày tầu Pháp phải đi dọc ngoài khơi và thủy phi cơ cũng bay dọc theo để cứu những chiếc bè phiêu lưu của hàng ngàn đồng bào di cư muộn. Trong số này có những người làng Thương Điền. Họ kể lại với anh em bà con rằng ngày nào ông Phụ cũng ra bờ biển nói lớn giữa lũ cán bộ và bộ đội Việt Minh: “Cửa bể Ba Lạt trên đây thì bồi, vùng này thì lở, rừng phi lao giồng kia đâu có chặn được, rồi chẳng bao lâu cả vùng Thương Điền này thành bể, ha ha, màn... từ từ... hạ!”
Cũng nên nói ngay về số phận ông Phụ ở lại. Di cư vào Nam được ít lâu thì cậu con trai của ông nhận được bưu thiếp đầu tiên của người em gái nuôi ở lại nói bóng việc ăn khoai trừ bữa là “làng nhà dạo này vo gạo bằng rỗ” Bưu thiếp thứ hai cô báo tin: “thầy đã được đi học tập miền xa chưa về". Bưu thiếp thứ ba và cũng là bưu thiếp cuối cùng báo tin ngắn gọn: “Thầy đã mất!"
Thế là màn đã thật từ từ hạ lên đời ông Phụ, chẳng biết ông chết thế nào, chết ở công trường hay chết vì đấu tố và sau khi chết ông có được toại nguyện chôn bên người vợ hiền xưa?
Phần ii
Chương 13
Cướp đoạt
i

Tiếng còi xe bấm ở ngoài, Miên nhét vội lá thư của Kha vào ví tay rồi đi ra. Chiếc xe du lịch hạng lớn sơn màu vàng xám và có hàng chữ cùng dấu hiệu của thủy quân Mỹ đã đợi nàng trước cổng nhà thương. Nàng chỉ vừa kịp đóng cửa, chiếc xe đã rồ máy vút về trại tạm trú của đồng bào di cư, phía ngoại ô Hải Phòng, sát bên đường số 5. Tới cổng trại Miên xuống xe, có tiếng động miên man chát chúa nhưng thân mật trên đỉnh đầu: đó là chiếc phi cơ trực thăng của Hải quân Mỹ đương bay trên vùng trại phun thuốc DDT xuống. Miên tung tăng tới khu Bệnh viện của trại giữa vùng hương nồng thuốc sát trùng. Nàng mở ví nhìn lá thư của Kha lần nữa. Một quân nhân Mỹ cao lênh khênh từ trong leu Y tế bước ra, trên vai y có con vượn nhỏ, chân dài ngoẵng, lông đen đốm trắng. Người lính chào Miên thân mật bằng tiếng Pháp, nàng đáp lại cũng bằng tiếng Pháp. Câu chuyện giao dịch hàng ngày giữa nàng với vị bác sĩ quân y trẻ tuổi Mỹ cùng hai người quân nhân giúp việc ông đều dùng tiếng Pháp làm trung gian.
- Bác sĩ đến chưa anh Larry?
- Bác sĩ đương chờ cô, mời cô vào.
Miên xuống làm việc tại nhà thương Hải Phòng được hơn hai tháng thì bắt đầu cuộc di cư. Thoạt là hàng vạn người từ các ngả nội địa đổ về Hải Phòng, tự dựng lấy lều bằng chiếu hay vải bạt la liệt khắp các đường phố. Cảnh đó thê thảm và kêu gào cấp cứu như hệt cảnh năm đói - 1945 - dân chúng từ vùng quê đổ về thành thị, tuy nhiên lần này người dân Hải Phòng cũng như bất cứ người ngoại quốc nào - lính Pháp, lính Mỹ - đều nhận thấy trên những gương mặt thiểu não đó còn gờn gợn một cái gì khó tả, một sự nhẫn nại mệt mỏi nhưng dai dẳng, một nguồn nghị lực vừa bị phạt chém cho tan tác nhưng không chịu tàn lụi. Chính cái vẻ đặc biệt đáng kính ấy đã khiến ủy Ban Di Cư Hải Phòng bỗng có bộ mặt một ủy Ban Di Cư quốc tế với sự trực tiệp giúp đỡ của Hải Quân Hoa Kỳ, của cơ quan Ngoại Viện Hoa Kỳ, của số lính Ma Rốc trong quân đội Liên Hiệp Pháp (những người lính da đen này tới giúp việc dựng lều). Thế là trại tiếp cư đầu tiên được thành lập làm nề nếp cho nhiều trại kế tục. Chỉ một tháng sau cả một khoảng đồng ruộng mênh mông và tương đối khô ráo vùng ngoại ô Hải Phòng, bên lề quốc lộ số 5, biến thành một thành phố lều, đó cũng là một thứ thành phố nằm trong một tình trạng đặc biệt. Bác sĩ bệnh viện giám đốc Hải Phòng vốn biết đức tính tận tụy của Miên bèn cử nàng đến khu Bệnh viện của trại này để phụ tá cho vị bác sĩ quân y trẻ tuổi người Mỹ do Hạm Đội Thái Bình Dương (đậu ngoài khơi vịnh Hạ Long) cử vào.
Đồng bào di cư ngày một tới đông, gặp khi lều mới chưa kịp dựng, họ đành chen chúc trên trăm người trong một lều cũ, tuy vậy nhờ cách tổ chức đã có nề nếp hợp lý nên sự tiếp tế không đến nỗi khó khăn cho lắm và về y tế thì chỉ cần chịu khó, không biết mệt - hai đức tính này Miên có thừa - là có thể tuần tự thăm nom, săn sóc bệnh nhân đến người cuối cùng đầy đủ và kỹ lưỡng từng ngày. Đặt người đúng chỗ, công việc trôi nhẹ như con thuyền thuận dòng và xuôi gió. Sự tận tâm săn sóc không biết mệt của Miên còn là hình ảnh của câu “máu chảy ruột mềm” dưới con mắt quan sát đầy thiện cảm của vị bác sĩ Mỹ. Thoạt mấy ngày đầu ông hỏi Miên: “Cô đã mệt chưa?” Rồi mấy ngày sau câu hỏi trên chuyển thành: “Cô không mệt chứ?” Khi thì Miên trả lời: “Thưa ông chưa ạ”, khi thì là câu trả lời thầm lặng bằng nụ cười minh mẫn và tia nhìn dịu dàng tỉnh táo.
Kha trên Hà Nội vẫn viết thư đều xuống cho nàng. Mặc dầu trong thư Kha vẫn gọi nàng bằng “cô” và xưng “tôi”, mặc dầu lời lẽ trong thư tuyệt nhiên không hề đả động đến tinh yêu, nhưng vẫn có cái gì bàng bạc mách cho nàng hay Kha đã là của nàng.
Cô Miên,
Chẳng còn bao nhiêu ngày nữa đến lượt Hà Nội bị tiếp thu. Chuyến này tôi về thăm làng lần cuối rồi xuống Hải Phòng đợi cô cùng vào Nam. Nhìn cảnh Hà Nội hoang vắng tôi lại nghĩ đến cô từng ao ước được thăm khu rừng lau trên núi sáng, Bỉnh Di. Cô còn nhớ chứ, màu xanh cẩm thạch dạt dào hay màu tím phớt vào mùa hoa, cả hai màu đều làm cho khu rừng xa đẹp một vẻ đẹp hoang đường.
Tôi vẫn nghĩ rằng mọi người chúng ta ai cũng mang trong lòng một khu rừng lau. Có kẻ chẳng bao giờ đạt tới, có kẻ đạt tới rồi hủy hoại chính khu rừng đó như chuyện con chó ngu xuẩn thả mồi bắt bóng. Tin tức và hình ảnh đồng bào khắp nơi vượt mọi gian lao để tới Hải Phòng đã được phổ biến khá sâu rộng tại bất cứ nơi đâu còn là đất quốc gia đặc biệt những hình ảnh sỉ nhục cho ông Hồ đã đăng tải trên các tạp chí lớn bên Âu châu và Mỹ Châu; đó là những hình ảnh hàng ngàn người xuất hiện trên bãi bể Bùi Chu, hình ảnh họ kéo lê chiếc bè lao vào lớp sóng bạc đầu, hình ảnh họ chen chúc trên chiếc bè mong manh, đàn bà phải đứng bế con, ống chân ngâm dưới nước quên mỏi, nhưng phần người bên trên thì rét run, đàn ông khom lưng cố chèo ra khơi cho kịp ngưỡng chuyến tầu đương thân ái há mồm đợi đớp lấy họ rồi xả hết tốc lực ra khơi xa nữa đề chuyển họ sang những vận tải lớn hơn...
Ông Hồ ngày nào quy tụ nơi mình tất cả nguyện vọng nồng nhiệt quốc gia để đốt cháy thực dân trong lò lửa kháng chiến, hình ảnh buồn thảm đến kinh hoàng của cuộc di cư ngày nay cho chúng ta thấy họ Hồ đã tự đốt khu rừng lau mà y có diễm phúc đạt tới.
Thôi chúc cô mạnh, tôi sẽ xuống Hải Phòng một ngày gần đây.
Ký tên Kha.
Một chú bé giúp việc liên lạc trong trại tiếp cư bỗng vén cửa lều ló đầu vào nói:
- Chị Miên có người nhà.
Như bị điện giật Miên vùng đứng dậy, không kịp xỏ chân vào guốc, nàng chạy thẳng ra cửa lều:
-Anh Kha!
II
Ông Hạo hôm đó lom khom tiễn Kha ra tận đầu làng. Đúng lúc hai chú cháu từ biệt, ai cũng ngại cất lời trước, thì ông Hạo bỗng chỉ người đàn bà đương từ trong làng rảo bước ra, ông nói với Kha:
- Kia cô cả Dinh kìa, anh giáo!
Kha nhớ ngay đến cô nàng dâu góa của ông bà cả Bê, cô cũng là người làng nên Kha biết, chàng vui vẻ chào và hỏi trước:
- Chị còn nhớ em không?
- Chú Kha!
- Em được biết chị đã xuống buôn bán ở Hải Phòng.
Vâng hôm nay tôi về thăm cháu một lần nữa và chào thày u tôi (chị lau nước mắt).
Kha lái sang chuyện khác:
- Mai em cũng xuống Hải Phòng chị ạ.
- Vậy a, chú định ở đâu?

Nhà ở dưới đó giờ đây thiếu gì, em thuê một gian ở tạm cho đến ngày xuống tàu hay lên phi cơ.
Chú về ở nhà tôi. Nhà tôi thuê đã trả hết tháng, chủ nhà ở lại mà chúng tôi thì vào Nam trong tuần này. Chú có thể ở nhà đó cho đến cuối tháng, đằng nào tiền thuê tôi cũng trả rồi.
Nhân đương đà vui câu chuyện, Kha cúi chào ông Hạo:
- Thôi chú về, cháu đi.
Ông Hạo chớp mắt, “tuổi già hạt lệ như sương” ông không khóc nhưng giọng nghẹn ngào:
- Chúc anh lên đường mạnh giỏi.
Cô cả Dinh thông cảm ngay tình cảnh độ bèn kéo tay Kha và nói lớn:
- Thôi chị em mình đi ngay cho kịp chuyến xe điện sấp tới kìa.
Kha xuống Hải Phòng tìm tới địa chỉ cô cả Dinh, nay đã là bà hai Chí (tên người chồng mới), để va-li ở đó rồi đến nhà thương Hải Phòng ngay, nơi đây người ta chỉ cho chàng đường tìm đến nơi Miên làm.
Sau tiếng reo vui thất thanh “Anh Kha” của Miên giữa khoảng vắng lặng buổi trưa cuối xuân, hai luồng điện khao khát bất chợt gần nhau, tiếng sét đòi được nổ, Kha giơ hai cánh tay đón Miên chạy tới, họ ôm ghì lấy nhau. Chú bé liên lạc hốt hoảng bỏ đi, nhưng còn ngoái cổ lại nhìn thêm một lần nữa chân vấp phải cọc lều.
Tâm hồn Kha vừa bị lửa bỏng biệt ly, giờ đây Kha chạy tới Miên như chạy vào bóng cây và hơi nước (chàng chạy vào ẩn trong Eternel Féminin). Chàng ôm thân hình hiền thục đó, chàng cúi xuống hôn nhẹ nhàng lên trán nàng, chàng cúi xuống thấp hơn dè dặt tìm đôi môi Miên. Miên cũng chỉ để cho chàng lướt trên đó một chút, nàng vội quay đi áp má lên vai chàng. Bàn tay Kha lần vào một ngón tay Miên và nói khẽ bên tai nàng:
-  Em còn nhớ, ngón tay này xưa có chiếc nhẫn saphir.
Miên ghì chặt lấy chàng, giọng nàng thanh như tiếng chim nhưng thảng thốt nghẹn ngào như một linh hồn biết khóc:
-  Khu rừng lau của em! Khu rừng lau của em!
III
Sau Hà Nội đến Hải Dương bị tiếp thu. Giờ đây đứng ở trại tiếp cư Miên có thể nhìn thấy bức màn tre phía xa với sẳc cờ dựng lên đỏ màu máu, thấp thoáng màu vàng sảo quyệt của ngôi sao chính giữa.
Thật ra Miên nào ngờ còn một lần bị cướp đoạt. Ba tuần lễ êm đềm sống gần người yêu, Miên vẫn ở trong khu nhà thương Hải Phòng, sớm sớm xe Hải Quân Mỹ tới đón đưa vào trại tiếp cư, Kha vẫn một mình ở căn nhà của vợ chồng Chí để lại, nhưng chiều chiều hai người gặp nhau, đưa nhau đi ăn cơm, rồi tay trong tay âu yếm, chàng đưa nàng về đến cổng nhà thương. Họ đã quyết định vào Nam thì nói rõ với Hiển và ngày nghỉ phép mãn khóa của Hiển sẽ là ngày làm lễ thành hôn của họ.
Mười một giờ trưa hôm đó Kha còn nằm dài trên giường, có tiếng gõ cửa:
-Ai?
- Em!
Kha đứng dậy mở cửa cho Miên vào.
- Sao em đến được đây vào giờ này?
Em được bác sĩ giám đốc bệnh viện cho nghỉ hôm nay để chuẩn bị mai lên đường vào Nam.
- Ồ, bất ngờ nhỉ.
Mai có chuyến tàu di cư, bệnh viện Hải Phòng được lệnh cho chuyển trước vào Nam một số dụng cụ, bác sĩ giám đốc chỉ định em cùng mội số cô bạn nữa đi theo những dụng cụ đó.
- Ai thay em ở trại tiếp cư?
-  Hai nữ y tá khác.
- Thế thì làm sao anh xin được vé tàu để vào cùng em?
Em định chiều nay xin thẳng điều đó với bác sĩ giám đốc. Em nhận anh là... người nhà.
-  Liệu ông ta có chịu? Để em phải vật nài anh không thích.
- Thì em cũng...
Tiếng gõ cửa làm Miên ngừng nói. Kha hơi ngơ ngác vì chàng có quen ai ngoài Miên ở Hải Phòng này? Chàng cất tiếng:
- Ai, cứ vào.
Cánh cửa mở. Lời nói đương thành hình bỗng tan biến trong cổ họng Miên, và đôi cổ tay Kha vô tình giật lên sững sờ: “Vân!” Kha buột miệng:
- Vân xuống đây bao giờ?
Vân khẽ cúi chào Miên và đáp lời Kha:
-  Em vừa mới xuống tới đây.
Lúc đó Kha mới nhận ra dứới chân Vân còn chiếc va-li màu cánh gián.
Giác quan thứ sáu sui Vân nói thêm:
-  Mẹ em vừa mệt nặng!
Nàng đã không nói dối.
- Thế bác đâu?
Giác quan thứ sáu giúp Vân đáp lững lờ:
-  Mẹ em đã khá nhiều.
Nàng vẫn không hề nói dối.
Miên đã quyết định, nàng nói tới Kha:
Nếu chiều nay em không lại, ấy là bác sĩ giám đốc cẩn thận không ưng bảo đảm người lạ mặt, lúc đó anh nên ra tòa thị chính...
Cũng với giác quan thứ sáu, Miên chỉ nói lửng có thế, Miên không muốn nói rõ hơn trước sự hiện diện của Vân. Miên không muốn nói rõ hơn vì nàng còn sẵn sàng chịu thêm một lần thử thách nữa, để Kha được tự do quyết định.
Nhưng cũng giác quan thứ sáu Vân đối phó nhẹ nhàng lại với Miên, cốt làm nhẹ phần trách nhiệm cho Kha, nàng cúi xuống xách va-li nói với Kha:
-  Em tạt vào thăm anh một chút, giờ đây em phải trở về nhà cô bạn. Chào anh.
Vân hướng về phía Miên. Đôi bên cùng nhìn nhau dịu dàng và lễ độ giây lâu rồi
Vân khẽ cúi đầu:
-  Chào chị.
Miên chỉ kịp đáp lại một câu “chào chị”, Vân đã xách va-li quay ra đường, đặt va-li xuống sàn một chiếc xích lô vừa đạp tới, bước lên ngồi và nghiêng đầu về phía sau nói với người phu tên đường phố.
Miên nói với Kha:
-  Em phải về nhà thương ngay, còn thu xếp bao nhiêu thứ.
Miên đi vút ra ngoài không chú ý lời nghe Kha dặn với. Nàng lên một chiếc xích lô khác.
Kha không biết làm gì, cũng thay quần áo ra phố nhưng không ăn trưa như mọi khi, mà đi chán rồi trở về nằm trên giường, không thấy đói. Sao Vân lại xuất hiện bất ngờ thế được? Nàng xách va-li đến nhà người bạn nào? Hai giờ chiều, Kha chắc là Miên hôm nay không làm việc ở trại tiếp cư nữa nên thuê xe đến tìm nàng ở nhà thương Hải Phòng. Bè bạn nói là không biết nàng đi đâu.
Sự thực Miên đoán trước Kha thế nào cũng đến tìm mình tại đây nên mọi công việc thu xếp nàng nhờ các bạn làm giúp, nàng tự ý đến trại tiếp cư tiếp hai người bạn mới. Nàng nói với bác sĩ người Mỹ là nàng muốn giúp hai người này cho thật quen việc.
Tình ý giữa Kha với Vân trước đây, rồi những ngày Vân về Hà Nội, làm sao mà Miên không biết? Nàng nhất định nhận lần thử thách tối hậu này, nàng nhất định để cho Kha hoàn toàn tự do.
Buổi chiều Kha đến nhà thương một lần nữa, Miên chưa về. Kha hiểu Miên lắm! Khoảng sáu giờ sớm hôm sau, đoàn xe chở đồng bào di cư từ trường tiểu học Ngô Quyền rần rần ngang qua nơi Kha ở đánh thức chàng dậy. Đó là chuyến xe cuối cùng, chuyến đầu khởi hành từ ba giờ sáng. Kha vội vã trở dậy rửa mặt đánh răng thay quần áo rồi thuê xe đến thẳng Vật Cách. Quá muộn rồi, đồng bào đã được những chiếc tàu há mồm LCT chở ra khơi gần hết. Dụng cụ nhà thương và nhân viên y tế được hưởng ưu tiên xuống chuyến tàu đầu tiên từ lúc trời chưa mờ sáng.
Kha băn khoăn trở lại thành phố, lang thang giữa đám đông để những âm thanh và màu sắc làm bận giúp tâm trí chàng. Cũng có thể để may ra gặp Vân! Vì sao người con gái ấy, người đàn bà ấy, đột nhiên xuất hiện với chiếc va-li màu nâu?
Kha rẽ vào một tiệm đông nhất phố Đông Kinh, ăn sáng. Rồi chàng đi bộ về nhà, mở cửa bước vào. Một cánh thiếp trắng đập vào mắt chàng trên nền gạch hoa. Chàng cúi vội xuống nhặt, và biết là của ai rồi.
Anh
“Chiều nay hồi bảy giờ anh chờ em ở cầu Ngự”
Em 
Phần ii
Chương 14
Xiếc hữu mai hề
i
Các ông Hoạch, Lễ, Thuật tuy là ba anh em ruột mà riêng ông Lễ hoàn toàn thiếu tình mẫu tử chẳng khác gì đứa con côi. ông Lễ sinh sau ông Hoạch một năm, lần đó bà cụ đẻ ngược xuýt nguy đến tính mệnh cho nên kể từ ngày được sinh ra cho đến ngày khôn lớn, ông Lễ bị mẹ coi như kẻ tử thù. Cụ gọi ông là “thằng bán nhà”! Ý chừng cụ còn muốn gán thêm cho ông Lễ một tội tiên đoán nữa và cũng bất hiếu ngang với tội xuýt làm cụ thiệt mạng: tội bán nhà của cha mẹ! Bảy năm sau có mang lần thứ ba được bốn tháng thì chồng mất, cụ đổ diệt ngay lên đầu ông Lễ có cái số sát cha, cảnh mẹ góa con côi mà cụ phải chịu chính là do hung tinh của “thằng bán nhà” mà ra. Nói vắn tắt hễ trong gia đinh xảy ra điều gì không may, cụ đều quy ngay tội đó lên đầu “thằng bán nhà”.
Vì “thằng bán nhà” mà cụ buôn bán thua lỗ.
Vì “thằng bán nhà” mà thằng Cả (Hoạch) thi lận đận. Hoạch đương học chữ nho nuôi ông nghè ông cống, thì Chính phủ Bảo hộ bãi bỏ trường thi, Hoạch xoay sang học chữ Pháp, thi đến ba lần mới đỗ xong bằng cơ thủy để lên trung học, mà rồi việc học cũng dở dang.
Vì “thằng bán nhà” mà thằng Ba (Thuật) ốm đau quặt quẹo luôn.
Trong khi “thằng Cả” và “thằng Ba” được cụ chăm nom cho cắp sách đến trường thì cụ làm thinh để mặc “thằng bán nhà” (không bao giờ cụ gọi Lễ là thằng Hai) phải làm đủ các công việc vặt như một anh đi ở đợ.
Phải ghi chú thêm là thực tình cụ không hề có ác ý hành hạ thể xác “thằng bán nhà”, cụ chỉ chưởi mắng và nói cho sướng miệng. Việc Lễ sau này có đọc và viết được chữ quốc ngữ là do Lễ học lỏm vào những ngày giờ nhàn rỗi.
Năm 1921, Hoạch hai mươi tuổi tham gia một phong trào cách mạng mới manh nha, do một số nhà nho đã chịu ảnh hưởng tân học lãnh đạo. Lộ tung tích, Hoạch bị thực dân bắt. Thương và lo cho con, cụ khóc đến một tháng giời khản cả tiếng. Lẽ cố nhiên cụ lại đổ hết trách nhiệm về biến cố đó lên đầu “thằng bán nhà”. Cụ đay nghiến Lễ:
- Mày là đàn ông mà như con Phàn Lê Hoa xưa “chu huynh sát phụ”! Mày làm khổ bà đến thế nào nữa, thằng kia?!
Lễ quả cũng oan như Phàn Lê Hoa. Một năm qua, Hoạch vẫn chưa được thả, cụ càng dày vò Lễ, “thằng bán nhà chu huynh sát phụ”. Tuy lớn tuổi nhưng Lễ đã quen bị hắt hủi từ bé nên không hề có phản ứng gì trước những lời buộc tội bất công của mẹ!
Mùa gặt tới, các cô gái xứ Bắc lũ iượt sang gặt thuê. “Gia cầu vồng Yên thế, gái Nội Duệ Cầu Linh”! Lễ gặp một cô gái Nội Duệ cầu Lim trong mùa gặt năm đó, đôi mắt sắc như dao cau, nụ cười tươi tắn với hàm răng hạt huyền. Đôi bên yêu nhau. Cô gái tiếp tục sang các làng lân cận gặt thuê, nhưng đôi bên vẫn giữ vững liên lạc và đêm đêm Lễ trốn mẹ lẻn ra khỏi nhà đi tắt cánh đồng - có khi máy cánh đồng - dưới ánh trăng non, dưới ánh trăng rằm, dưới ánh trăng suông, hay trong bóng tối chập chùng, tới nơi hò hẹn gặp người yêu. Một tháng qua, mùa gặt hết, Lễ đánh bạo mang My - tên cô gái - về ra mắt mẹ, rồi sau đó ngỏ ý xin mẹ cho phép lấy My làm vợ.
Cô gái xinh ròn và đảm đang xứ Bắc không vừa ý cụ chẳng hề lỗi ở cô mà chỉ giản dị vì cô là người yêu của “thằng bán nhà”. Cụ cương quyết từ chối. Lễ thưa thêm với mẹ: My mồ côi cha mẹ từ sớm, anh trên chả có em dưới thì không, My hiện ở với ông cậu, nếu mẹ ưng thì My về ở luôn với Lễ, My theo không, mẹ không tốn kém gì hết (Lễ biết thân biết phận lắm!) Cụ càng lôi đình thịnh nộ, cụ xỉa xói vào mặt Lễ mà cụ bảo là: “Mày lại trứng khôn hơn vịt với bà à”, cụ xỉa xói về phía cửa ngõ - nơi ban sáng My vào rồi ra- và gọi My là tuồng “mèo mả gà đồng”.
- Mày muốn theo con đĩ - cụ kết luận đanh thép - thì cuốn xéo khỏi nhà bà!
Buổi sớm dậy, cụ đứng ờ giữa sân gọi đã mỏi miệng mà vẫn không thấy "thằng bán nhà” thưa để còn theo cụ đi thăm đồng. Có sức lực lại không lười, nó có bao giờ ngủ trưa như vậy? Cụ vào buồng, ổ rơm không có hắn nằm, quần áo của nó không có chiếc nào vắt trên giây thép, cụ hiểu ngay cơ sự: “thằng bán nhà” đã bỏ nhà ra đi từ đêm hôm qua. Thốt nhiên cụ cảm thấy tâm hồn trống rỗng và lòng quặn đau y như ngày nào thằng Cả bị mật thám ập tới bắt, cụ ôm mặt không kìm được hai tiếng “con ơi” thốt ra khỏi miệng.
My đã có mang với Lễ - (sinh ra Hiển sau này) - trong vụ gặt vừa qua. Nàng quyết tình theo Lễ, hai người hẹn đúng ngày giờ cùng khăn gói trốn nhà rồi đưa nhau ngược đường lên huyện Lập Thạch (Vĩnh Yên) dựng túp lều tranh sinh sống tại làng Hạc Thủy, ngày ngày thức dậy từ sớm - mùa hè cũng như mùa đông - đi vào rừng đốn củi làm than rồi đợi ngày phiên chợ - ngày bốn, ngày chín - gánh than đi bán.
May sao Lễ vừa ra đi ít bữa thì Hoạch được tha về. Thoạt cụ chắc mẩm Lễ sẽ quay lại, lần này cụ sẽ sẵn sàng thương cả hai (thằng bán nhà và con mèo mả gà đồng) nhưng rồi tháy ngày một bặt tin thì cụ hiểu rằng con giun xéo lắm cũng quằn và Lễ đã cương quyết ra đi không hẹn ngày về nữa.
Tám năm qua! Bây giờ cụ càng thấy thương Lễ. Đã có một chiều ba mươi tết, xụp lễ trước bàn thờ ông bà ông vải đèn nến sáng choang, cụ khấn xin hương hồn chồng run rủi cho Lễ quay trở về, sau đó cụ ra ngồi ngoài hiên thẫn thờ nhìn về phía cửa ngõ rồi lơ đãng hỏi Hoạch: “Không biết thằng Hai bây giờ nó ở đâu con nhỉ?”
Nỗi buồn chồng chất không có cách gì làm cho khuây khỏa được. “Có thể là - cụ nghĩ - thằng Hai đã chết đường chết chợ rồi!”
Đã mấy lần cụ định giạm vợ cho Hoạch, Hoạch nhất định từ chối. Không phải là ông còn hoạt động cách mạng nhưng hình ảnh cùm kẹp, tù đầy còn nóng hổi trong óc, ông tưởng chừng lũ chó săn thực dân có thể xổ tới bất cứ lúc nào bắt ông đi, ông không muốn dính líu vào cảnh vợ con làm khổ lấy đến người khác. Tự nhiên sang năm 1928 ông xin mẹ hỏi cho cô con gái trưởng của cụ Huấn đạo làng bên. Cụ Huấn nguyên là lãnh tụ của ông, sau đó cụ Huấn tiếp tục hoạt động và trở thành một trong những lãnh tụ đảng Tân Việt đã ngầm tổ chức những cuộc bãi khóa và những cuộc biểu tình vào dịp đám tang cụ Phan Chu Trinh mấy năm trước đây. Cụ bị thực dân huyền chức, trở về quê sống túng bẩn và đau ốm luôn, ông Hoạch xin làm rể cụ để thầy trò được gần nhau và do đó an ủi thầy đôi phần. Nhưng bệnh tình cụ chợt nặng bất ngờ và mất ngay để lại cụ bà và hai cô gái. Cụ bà vốn là trưởng nữ một vị án sát, sống đài các từ nhỏ, mặc dầu nhà túng bẩn cụ vẫn giữ trọn vẹn nếp sống đúng với câu “giấy rách giữ láy lề”. Tại làng có một khu bãi rộng, bên Đạo thoạt cho xây tường giễu xung quanh dự định làm khu nghĩa địa riêng cho những người Gia Tô giáo, sau đến mấy vị hưu quan thất tộc, an táng vào đó, người làng bèn đặt cho cái tên là nghĩa địa Tây, ngầm ý chỉ những người giàu sang và thế lực như Tây mới chôn ở nơi này. Có lần cụ bà lên Hà Nội gặp một đám ma Tây, thấy đám đầm - vợ đầm - con mặc tuyền hàng đen trông nghiêm trang hẳn, cụ ưng ý lắm. Vì thế khi cụ ông nằm xuống, cụ bà nhất định bán nốt mẫu ruộng còn lại để lo ma chay thật linh đỉnh, thuê miếng đất trong “nghĩa địa Tây” làm nơi an nghỉ ngàn thu cho cụ ông; ngày đưa đám, cụ và hai cô gái mặc đồ đen tuyền để chở đại tang. Phải đợi hai năm sau đoạn tang, hai cô gái mới lần lượt về nhà chồng.
Trở lại chuyện cụ bà sinh ra ba ông Hoạch, Lễ, Thuật, chẳng bao giờ cụ được hưởng trọn niềm vui! Được thằng Cả chịu lấy vợ cho yên tề yên tất, đến lượt thằng Ba đòi đi Nam Kỳ! Ngày bé, Thuật ốm đau quặt quẹo luôn, nhưng lớn lên Thuật nuôi chí giang hồ muốn đi xa lập nghiệp. Năm 1930, Thuật vừa hai mươi mốt tuổi, đúng năm Nguyễn Thái Học cùng mười hại đồng chí lên đoạn đầu đài đền nợ nước ở rừng Yên Báy, thực dân mở một chiến dịch truy nã những người tình nghi. Thuật chắc cũng có hoạt động chút ít bèn vịn vào cớ đó xin phép mẹ đi Nam Kỳ lập nghiệp cho yên thân. Cụ vốn không quên trước đây Hoạch đã bị bắt, mà tin tức bắt bớ ở các vùng lân cận làng nhà lãnh tụ Nguyễn Thái Học thì hằng ngày cụ được nghe đồn, cụ đành ưng chọ con xa mình còn hơn ở lại mà có thể bị tù đày như thằng Cả. Nhưng khi Thuật đi rồi cụ mới hối, cụ thấy lòng đau quặn, cụ thương mình giờ đây gần như cô độc, chỉ còn vợ chồng thằng Cả ở nhà. Cụ thương thằng Ba và càng nghĩ càng thương thằng Hai tha phương cầu thực. Một năm... hai năm... cụ sống lòng nóng ruột, vì thằng Ba ra đi cũng biệt vô âm tín nốt.
Sang đến năm thứ ba, trời, cụ mới nhận được tin thằng Ba.
Trong lá thư dài đó Thuật kể lại với mẹ là năm đầu tới Sài Gòn ít bữa, cậu xin được học bổng vào trường Mỹ Thuật Đồ Gốm Biên Hòa; năm sau cậu bỏ trường Mỹ Thuật Biên Hòa, vào giúp việc một hãng thầu chuyên cung cấp vật liệu cho nhà binh Pháp, kiếm được khá nhiều hoa hồng, cậu viết thư này về xin mẹ cho phép thành hôn với một cô gái cũng là con một gia đình người Bắc vào lập nghiệp trong này trước cậu chừng vài năm. Cuối thư Thuật tha thiết nhắc đến anh Hai và hỏi mẹ đã tìm ra tung tích anh ở đâu chưa?
Lời nhắc của thằng Ba chẳng khác mũi dao lá lúa khơi trúng vết thương khép hờ trong tâm can cụ. Tiếng thở dài của cụ y hệt lời than thầm: “Hai, con bỏ mẹ ra đi biệt tích vậy sao đành, con?” Kèm theo với bức thư có chiếc hình nhỏ của “con bé”. Cụ nheo mắt ngắm nghía bức hình. “Con bé” không chít khăn như gái Bắc mà lại búi tóc củ hành phía sau theo kiểu gái Nam, khuôn mặt sáng sủa, xinh xắn. Cụ bảo Hoạch biên thư vào cho Thuật hay là cụ ưng cho Thuật lấy con bé Bắc đó. Cụ chớp chớp mắt để chạy trốn một ý nghĩa vừa thoáng hiện thành câu hỏi thầm “sao trước đây mình lại chẳng ưng cho thằng Hai lấy con bé mồ côi kia?”
Cụ ốm! Bệnh tình xem ra khó qua khỏi. Cụ thấy hiển hiện rạch ròi trong trí hình ảnh Lễ ngày nào cặm cụi quét sân, quét nhà, dọn dẹp vườn tược, theo cụ ra đồng rồi làm theo lời cụ sai: cày bừa, gieo mạ, gặt lúa, gánh lúa. Có một buổi chiều ánh hoàng hôn bừng sáng, bóng Lễ gánh hai quang lúa nặng đổ về phía sau. Thấy Lễ rảo bước quá nhanh theo nhịp kĩu kịt của đòn gánh, cụ quát: “Đi gì mà như đi ăn cướp ấy, thằng bán nhà!” Ngày nay nhớ lại, cụ bỗng thấy bóng hiếu hạnh của Lễ lớn lên rất nhanh thành khoảng rợp tựa như cỏ cái lọng lớn che cho cụ. Cụ ứa nước mắt gọi thầm: “Hai đâu, con ơi”!
Liệu chừng mẹ khó lòng qua khỏi kỳ này, Hoạch đánh điện gọi em. Vợ chồng Thuật về vừa kịp lễ phát tang. Thuật tháo vát hơn anh, lập tức cho đăng nhật trinh nhân danh Hoạch:
“ Em Lễ
Mẹ đã mất, em về ngay
Anh: Dương minh Hoạch”
Tại thủ đô Hà Nội ngày đó có ba tờ nhật báo lớn, ông Thuật cho đăng lời rao suốt một tuần ròng trên cả ba tờ báo. ông còn ở lại quê nhà thêm một tuần nữa. vẫn biệt vô ấm tín!
Cùng vợ trở vô Sài Gòn, nỗi lòng canh cánh! Ngày anh Hai bỏ nhà ra đi, ông có nhà nhưng tuổi còn con quá - mới mười ba - ông không thắc mắc gì. Đôi khi có nghe mẹ nhắc đến “thằng Hai, cậu bé Thuật chỉ coi như anh Hai mình đi làm ăn xa đâu chưa về. Dời nơi chôn rau cắt rốn vào Nam sinh cơ lập nghiệp, ông đinh ninh làm trai hữu chí cánh thành và tự hứa nếu không làm nên lớn quyết chết gửi thây nơi đồng xa đất lạ chứ chẳng báo tin cho ai hay. Tuy gan thật nhưng nhiều khi lòng quê xúc động nghĩ tới quê hương là nghĩ tới người thân, ông ôn lại cảnh anh Hai xưa bị mẹ hắt hủi đến phải bỏ nhà ra đi, lòng vô cùng thương cảm. ông càng làm ăn khá càng thấy thương anh - phú quí sinh lễ nghĩa! Bức thư đầu tiên gửi về cho cha mẹ sau hai năm xa cách, ông có tha thiết nhắc đến anh Hai là vì thế.
Sau khi thụ tang mẹ, vợ chồng ông Thuật trở vô Sài Gòn được một năm thì bà Thuật sảy thai ba tháng, ông cho đó là “vận áo xám”. Nhưng ngay sau đó ông trúng mối cao su cao giá kiếm được món lời nửa triệu bạc, bèn đứng ra mở hãng xuất nhập cảng riêng.
Được phần tài lộc kém phần tử tức, bà Thuật mang thai lần thứ hai đến tháng thứ bảy lại bị sảy.
Ồng Hoạch được tin em trong Nam làm ăn phát đạt lớn bèn bán hết nhà cửa ruộng nương ở quê nhà rồi mang vợ con vào Sài Gòn hùn vốn với em. ồng bà Hoạch khi đó đã sinh hạ được ba con, hai cô gái đầu: Hoan, Mỹ và cậu trai út, Thọ. Gia đình ông Hoạch vào tới nơi, ông Thuật tậu thêm một căn nhà riêng ở phố vắng để hai anh em cùng ở. Đó là căn nhà hai tầng số 30 đường H. Căn nhà rộng tám thước này được sửa lại: phòng ngoài cùng dưới nhà là phòng khách chung cho hai gia đình; phòng ngoài cùng trên gác là phòng học chung cho lũ trẻ, còn phân nửa bên trong là những phòng ăn ngủ được ngăn làm hai với những cửa thông ngang. Như vậy hai gia đĩnh tuy chung mà vẫn riêng. Ngày ngày tới giờ làm việc hai ông đến hãng tại đường Catinat, bàn giấy đặt ở đó.
Ông Hoạch nhận được lá thư của người trong họ cho hay “nghe đâu Hai Lễ từ ngày bỏ nhà ra đi vẫn cùng vợ ở một làng gần núi thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Yên - làng Hạc Thủy thì phải - cách làng nhà chừng bốn mươi cây số”. Thế là tiện một dịp vừa kinh doanh, vừa về làng trông nom việc cải táng mẹ cho yên chí, vừa đi tìm tiểu gia đình anh Hai. Lẽ ra ông Thuật định tìm tiểu gia đình anh Hai trước đã, nhưng vì công việc kinh doanh quá bộn bề nên ông tháo vát cho cải táng trước. Khi hai việc trên đã xong xuôi ông mới thong dong tìm hỏi đến làng Hạc Thủy. Tới nơi hay tin anh và chị dâu đã mất chỉ còn lại ba đứa cháu mồ côi là Hiển, Miên, Mẫn ở với bà hàng xóm nhân đức: Bà Quản Mão. ông đã đưa Hiển, Miên ra trọ học ngoài Hà Nội và mang Mẫn vào Nam nuôi cho ăn học. Mẫn khi đó lên tám. Đó là vào năm 1935, năm sau bà Thuật lại có mang, lần này cái thai đậu, bà sinh hạ ra Lê rồi bốn năm sau, Nhâm. Như vậy là có nếp có tẻ đủ cả.
Khoảng từ 1946 trở đi vì toàn quốc kháng chiến, tin tức Nam Bắc bị cắt đứt, Hiển, Miên không được biết là tới 1949, việc buôn bán đang phát đạt thì ông Thuật bị bạo bệnh mất. Mẫn vừa đỗ xong Trung học, không muốn nhờ vả người thím góa bụa, bèn xin ra ở riêng, đi dạy học tư sống đời một thanh niên tự lập. Khi đó Lê mười bốn, Nhâm lên mười. Bà Thuật tiếp tục cùng anh chồng điều khiển hãng. Mẹ góa con côi lại giầu có, lẽ cố nhiên bà thương chiều hai con rất mực, nhất là Nhâm, cậu con giai độc nhất nối dõi mai sau!
Lê ngủ giường riêng phòng, còn Nhâm lên mười tuy đã lớn nhưng vẫn được ngủ cùng giường với mẹ. Bà Thuật mỗi lần ngắm con giai lại khen đôi mắt con sáng, vừng trán con rộng và nói nựng: “Con giai má chỉ hăm bốn hăm nhăm đã ra bác sĩ nhé”.
Ông Thuật mất chưa đầy một năm, đến lượt bà Thuật thụ bệnh, cũng là thứ bạo bệnh bộc phát bất ngờ như trường hợp ông Thuật. Ngày thứ ba sau khi đã được bác sỹ đến tận nhà thăm mạch và tiêm thuốc, bệnh chuyển sang rức đầu như có búa máy bổ vào óc theo nhịp đập của trái tim. Tiếng bà rên khẽ nghe thê thảm như tiếng con vật đã bị cắt tiết, một tiếng động nhẹ cũng làm bà co rúm người lại vì bà có cảm tưởng cả một tảng đá lớn vừa từ triền dốc cao lao tới nghiền đập nát đầu bà.
Buổi tối Lê dắt Nhâm sang buồng nàng, dỗ khẽ:
- Tối nay em ngủ với chị, má mệt.
Nhâm lẳng lặng lên nằm bên Lê im thin thít, nửa giờ sau Nhâm đã ngáy khe khẽ. Trẻ con, kể cả những trẻ nhỏ tuổi mới lên một lên hai, đều được trời phú cho thứ linh tính đặc biệt biết lúc nào có gia biến, ngoan ngoãn bảo sao nghe vậy. Chính thái độ cam chịu đó làm đau lòng người lớn. Bà Thuật đau lòng, bà quằn quại thân thể như muốn tự vắt kiệt cho chảy thành suối yêu thương trút sang tràn ngập hai đứa trẻ. Đó là thứ tinh yêu thương tối hậu của con người biết rằng mình sắp lìa cõi thế. Khoảng bốn giờ sáng, Nhâm sực tỉnh ngồi nhỏm dậy. Lê vẫn ngủ chập chờn, nàng tỉnh ngay và cũng dậy theo để dỗ em. Ánh ngọn đèn đêm đầu giường rất lù mù lúc chập tối, giờ đây sáng quắc. Nàng ôm em vào lòng và khó chịu vì ánh đèn sáng quá, ánh đèn mà lúc đó nàng thấy y hệt như cái nhìn soi mói nhưng điềm đạm, lạnh lùng, phi nhân tính của một kẻ mất hết cảm xúc trước những thống khổ mênh mông và âm thầm của người đời. Lê cúi nhìn khuôn mặt em thoạt ngơ ngác dưới ánh đèn đó, bỗng môi dưới của Nhâm căng ra, môi trên dúm lại, hai mi mắt khép xuống, hai riềm lông mi đổ bóng kéo dài tới chấm giữa sống mũi, cả khuôn mặt Nhâm méo sệch với tiếng hỏi ảo não thấu hồn Lê: “Má đâu?”
Còn đâu cảnh má ngồi ngắm Nhâm khen đôi mắt sáng, khen vầng trán rộng và nói nựng: “Con giai má chỉ hăm bốn hăm nhăm đã ra bác sĩ nhé”. Giây phú êm đềm đó giờ đây Lê thấy xa xôi như hình ảnh từ kiếp nào còn rớt lại trong ký ức. Lê mới mười bốn, Lê chưa biết ví von, nhưng sau này lớn lên mỗi khi nhớ lại Lê thấy tâm trạng mình lúc đó như tâm trạng của người đi tầu ra khơi gặp bão biển, trong khi con tầu nhào lộn theo đường quặn xoáy của sóng biển thì hình ảnh đất liền mới dời cách mấy ngày trước đây chỉ còn là một hình ảnh đẹp muôn vàn xa xôi chẳng còn hy vọng gì gặp lại được nữa.
Lê ôm lấy em, kéo em nằm xuống, vừa âu yếm xoa lưng vừa đưa mắt nhìn về căn phòng im lìm của mẹ. Bỗng Lê hốt hoảng bỏ em đấy tung màn chui ra, chạy thẳng vào buồng.
Bà Thuật miệng há hốc, đôi mắt nửa nhắm nửa mở, đầu ngoẹo chệch khỏi gối, tóc xõa ra bốn bề.
Tiếng Lê hét lên trong khoảng đêm khuya ngày rạng:
-  Bác ơi, má cháu chết rồi!
II
Trước đây hồi còn ở Hà Nội rồi Hải Phòng Miên có nhận được thư Hiển tường thuật vắn tắt những cuộc gặp gỡ của chàng với họ hàng thân thích, nhưng phải đợi đến lần vào Nam này Miên mới rõ nguyên ủy về cha mẹ về chú bác như trên.
Khi chưa đến Sài Gòn, Miên nghĩ đến Mẫn là nghĩ đến Mẫn là chú em út theo ông chú vào Nam từ thuở còn nhỏ xíu. Miên còn nhớ trước khi vào Nam, Hiển hăm hở nói với nàng: “Thế nào vào tới nơi anh cũng đi tìm cho bằng được thằng chú Mẫn”. Miên thông cảm hết lòng trìu mến của anh khi thốt ra ba chữ cuối “thằng chú Mẫn”. Và chính lúc đó Miên đã mỉm cười để tự riễu vì nàng chợt cảm thấy mình như muốn ghen tị với Mẫn khi thấy con sông thương yêu của anh chuyển dòng về phương Nam.
Từ lúc Miên xuống tầu nhỏ rồi lên tầu lớn vào Nam để lại trên đất cảng Kha và Vân, Miên cảm thấy nàng như một thân cây bị chặt cụt gần hết chỉ còn nguyên một cành, bao nhiêu nhựa cây dâng lên tự các rễ cái rễ con đổ xô vào con đường độc đạo ấy mà trổ ra thành hoa thành lá. Cành duy nhất còn lại đó chính là Mẫn, mà hoa lá muốn trổ ra là bản năng làm chị làm mẹ của Miên. Vào đến Sài Gòn “chú em út nhỏ xíu” trong trí tưởnng tượng của Miên đã là chàng trai lớn quá cỡ, đã đỗ tú tài đã từng đi dạy học tư sống cuộc đời một thanh niên tự lập. Mẫn lại vừa thi đậu một học bổng đi Pháp học Thuốc vào tháng tới.
Miên nói với Mẫn:
Dầu sao chị cũng gặp em trước ngày em đi Pháp, số chị em mình cứ phải xa nhau thế này sao? Em đi Pháp chuyến này học xong Thuốc cũng phải ít nhất bảy năm nữa mới về.
Mẫn để mặc Miên nắm lấy cổ tay mình, dịu dàng an ủi chị:
Càng hay, ngày đó nước nhà đã thống nhất rồi chị ạ. Anh Hiển cũng sắp mãn khóa, chẳng hiểu anh sẽ được chỉ định đi đâu. Cô Lê nhất định mời chị về ờ cùng nhà cho có chị có em. Từ nay cho đến ngày đi Pháp em cũng về ở bên chị, chị bằng lòng chứ?
Miên chỉ biết rơm rớm nước mắt gật đầu, mãi mới bịn rịn buông tay Mẫn ra.
Lợi dụng mấy ngày nghỉ phép Miên sống gần gũi với hai bác (ông bà Hoạch) cùng các anh chị Hoan, Mỹ, Thọ. Lâu lắm... đã từ lâu lắm, ngoài miền Bắc, hai anh em nàng sống trong cảnh côi cút. Miên thực không ngờ lại có ngày đoàn tụ ruột thịt như thế này.
Một buổi chiều làm giường cho Miên xong Lê nói:
Chị ạ từ ngày bác tạm nhượng lại hãng xuất nhập cảng của gia đình cho người bạn buôn tin cẩn, em cũng thấy bác làm như thế là phải, bác đã già rồi bác cần hưởng nhàn, nhưng em muốn tự đứng ra điều khiển quá ngặt vì còn nhỏ tuổi...
-  Năm nay em bao nhiêu rồi nhĩ- Miên hỏi.
-  Em mới hai mươi chị a.
-  Giờ đây bác chỉ hùn cổ phần để chia lãi với người ta?
Vâng cổ phần của bác và cổ phần của em. Vì vậy em mới xin vào Viễn Đông Ngân Hàng làm ở ngành xuất nhập cảng. Em đâu cần số lương, trong thời gian làm ở đấy em chỉ cốt nghiên cứu học hỏi ngay tại chỗ cách thức cùng mánh lới giao dịch giữa ngân hàng với các nhà xuất nhập cảng để chuẩn bị một ngày gần đây em đứng ra điều khiển lấy hãng, nối chí ba má em.
Trong khi Lê nói, Miên âu yếm ngắm vẻ đẹp sắc sảo của Lê. Tóc Lê rủ xuống ngang vai thành từng boucles anglaises làm nổi bật khuôn mặt trái soan, nước da trắng mát của Lê, làm nổi bật đôi mắt đen bóng của nàng, đôi mắt như muốn chào đón, như muốn tỏ tình với cả cuộc đời, đôi lông mày dài của nàng sửa cho nhỏ cong màu nâu, nước da trắng của Lê càng làm cho đường cong màu nâu đó thêm nũng nịu. Miên chợt hỏi:
- Ồ thế em làm ở Viễn Đông Ngân Hàng em có biết anh Tân?
Khuôn mặt Lê chợt bẽn lẽn:
- Anh làm chủ sự ngành xuất nhập cảng, em làm việc dưới quyền ảnh.
Miên vội vã nắm chặt lấy hai cổ tay Lê:
- Anh Tân là bạn thân lắm của anh Hiển và của chị...
Lê đã gật đầu ngắt lời:
-  Em có được ảnh cho biết.
Miên hơi suy nghĩ một giây nhưng nàng vẫn tiếp:
- Anh Tân đối với em tốt chứ?
Lê gật đầu:
- Anh Tân tốt với tất cả mọi người.
“Nhất định mình sẽ tác thành Lê cho anh Tân”- Miên nghĩ thầm thế rồi nói với Lê:
Chắc là anh Tân không làm cho ngân hàng lâu đâu, đầu niên học tới anh trở lại học thuốc.
Lê gật đầu:
- Điều đó anh Tân có nói với em.
Lần này thì Miên sững sờ thật. Nàng bỗng mỉm cười sung sướng buông tay Lê ra và nghĩ thầm: “Thế thì họ còn cần gì đến bà mối nữa”.
Miên đã lần lượt gặp lại các bạn cũ ở Hà Nội xưa: Tân, Khóa, Lãng, Luận. Nàng gặp cả Khiết mới đi dự hội nghị Á Phi ở Bangdoeng về. Chỉ có Kha là còn ở lại Hải Phòng.
Khi Vân đột nhiên xuất hiện trước ngưỡng cửa, nhìn vẻ Kha sững sờ Miên đã hiểu người đàn bà đó từng thu hút trọn vẹn tâm tư Kha. Lúc đó Vân và Miên đối diện nhìn nhau khá lâu, hình như đôi bên có cúi chào nhau thì phải. Miên cũng không nhớ rõ nàng đã nhìn Vân ra sao, chỉ biết bản tính hiền hậu dịu dàng, ít khi Miên có thái độ sỗ sàng như vậy. Miên cũng đã tự hỏi chẳng biết có nên mệnh danh Vân là “người đàn bà tai ác”, vì sự thực qua đôi mắt trên khuôn mặt dễ thương của Vân có phản chiếu nhiều nỗi niềm u uẩn.
Miên tự vấn lương tâm nhiều hơn, chắc chắn Miên sẽ chẳng có lý do gì oán trách người đàn bà đó.
Miên đã bắt đầu tới bệnh viện Bình Dân làm việc như thường. Vô tình Miên đặc biệt chú ý đến những câu chuyện nhàn rỗi giữa các cô bạn đã đứng tuổi và chưa chồng. “Tao thì ly dị mày, Ngọc ơi!” “Ê này hai con ranh, chúng mày làm gì mà rập rìu như mèo đi với mèo thế?” “Con nỡm, sao mày cứ thở dài sườn sượt ra thế? - Gái thở dài giai nằm sấp mà!” Có lần nhìn một người đàn bà có mang bụng còn nhỏ mà đã mặc áo blouse, một cô bạn Miên bĩu môi dè bỉu: “Ra cái điều ta chửa với chồng ta đây!” Miên thấy rõ ràng họ thường xuyên bị ám ảnh bởi cảnh lứa đôi. Có cô bạn thực thà tâm sự với Miên là trước đây cô thích giữ collection thiếp mời dự cưới, nhưng đã một năm qua, mỗi lần nhận thiếp báo hỉ là cô vứt ngay vào sọt rác vì... “tức quá đi!”.
Những câu chuyện đó kích thích Miên khiến nàng không thể không nghĩ đến Kha, nàng ưa ôn lại cảnh hôm nào trước lều Y Tế Kha ôm nàng lần đầu, và đôi môi chàng lướt nhẹ lên đôi môi nàng. Một lần trong đêm khuya Miên đã ghì chặt chiếc gối, nhắm mắt lại, hoàn toàn giao phó. Trong thâm tâm Miên hằng nghĩ nàng đã yêu Kha đã gắn bó với Kha tự kiếp nào.
Buổi chiều hôm đó về muộn, trong khi chờ xe buýt, Miên bỗng chú ý đến một cô gái trẻ, y phục diêm dúa. Cô vừa ra cổng thì chồng chạy tới kéo cô lại. Đôi vợ chồng này chắc là vừa cãi nhau trong nhà. Người vợ trẻ đưa mắt ngượng nghịu nhìn Miên rồi gắt sẵng với chồng: “ủa làm chi mà kỳ zậy”. Người chồng vẫn cương quyết kéo cô vợ vào khiến Miên cảm thấy bất bình, nàng nghĩ thầm:”Hạng đàn ông đó chắc ban đêm họ chỉ nghĩ đến cái giường, lẽ nào đàn bà chịu ô nhục đến thế”. Xe buýt tới, đường 20 đã lên đèn, trời âm u như những ngày sang thu miền Bắc. Miên về tới nhà trời bắt đầu mưa, mưa bụi. Mẫn, Lê và Nhâm đã dọn cơm, mấy chị em quây quần quanh bàn vừa ăn vừa nhìn mưa rơi bên ngoài làm nhòe mấy ngọn đèn đường gần đấy. Miên bỗng cảm thấy mưa bay như một nỗi buồn phảng phát chua cay dây dưa từ kiếp nào còn rớt lại và còn dây dưa như vậy không biết đến kiếp nào nữa mới dứt.
Mẫn đặc biệt chú ý đến dáng mệt mỏi của Miên tối hôm đó. Lúc gần đi ngủ, Mẫn nói:
- Chị Miên ạ, để em pha một chậu nước thật nóng chị rửa mặt cho khoan khoái rồi hãy lên giường nằm,
Miên bằng lòng, Mần đặt ấm nước lên bếp gaz ngay...
Miên gục mặt vào chậu nước, màu sứ trắng tinh. Nước nóng ran chạm vào môi làm Miên tê dại rùng mình tưởng như môi Kha vừa chạm tới môi nàng.
Tờ Văn Hóa bộ mới số I đã xuất hiện ở Sài Gòn vắng tên Kha- Miên chú ý đến điều đó. Ngòi bút phóng sự của Lãng biến tính ghi những mẩu kịch ngắn có tính cách chủ quan tổng hợp, dưới nhan đề SÂN KHẤU LỚN mà đài phát thanh quốc gia không bỏ lỡ dịp cho diễn đi diễn lại nhiều lần trong ngày với đầy đủ lời đối thoại của các vai, lời giải thích, cùng những tiếng động, hay nhạc đệm cần thiết.
Đã ngồi xuống mép giường, Miên với tay vặn radio, nàng vui mừng bắt gặp lời giới thiệu SÂN KHẨU LỚN và nàng nằm dài vô cùng thoải mái trên giường, lắng nghe giọng nói mơn man nặng tâm tình, như giọng Kha ngày nào trước lều Y Tế:
Màn kéo lên từ ngày thứ bảy của Thượng Đế. Và ta bị ném lên sân khấu khi cất tiếng khóc chào đời.
Vở kịch dài đã khởi đầu và chưa biết bao giờ chấm dứt. Bi ư?- Không hẳn! Lạc ư?
Cũng không hẳn! Chỉ biết rằng có tiếng khóc rũ rượi, lại có tiếng cười nức nở.
Ta xem người và người xem ta trên cái sân khấu lớn này để chau chuốt vai trò của nhau há chẳng là một điều ích lợi ư?
Những mẩu kịch không thành kịch thẳng thắn đơn sơ nhưng chứa đủ tính chất của sân khấu lớn: cười, khóc, giận hờn, yêu thương, tủi hổ...
HAI CHA CON GẶP NHAU TRÊN ĐƯỜNG CATINAT
(Con là một cán bộ Việt Cộng vừa vào, sau chuyến đô thành khói lửa).
CON - Thày!
CHA- Ồ...
CON - Cả đây, Thày không nhận ra con?
CHA - Nhận làm sao được.
CON- Con bị sốt rét, gầy quá, về đến quê mới biết gia đinh di cư. Con phải tìm cách trốn mãi mới đi được. Bác Cả nhắn con nói với thày cứ yên tâm làm ăn. Bác muốn đi lắm nhưng không được vì gia đinh quá đông
CHA - Thế à
CON - Con rất hối hận để gia đình buồn phiền vì con, thày cũng hiểu rằng ai ở ngoài ấy chẳng phải làm như vậy.
CHA- Ờ...
CON - Con nhớ thương thày, đẻ, bà và các em quá. Các em chắc lớn lắm phải không thày?
CHA- Ừ.
CON - Con nghe tin thím Ba nhà ta thuê được căn nhà lá ỏ' gần Chợ Lớn.
CHA- Ừ...
CON - Ở ngoài nghe tin đánh nhau trong này con lo cho gia đình quá. Vào đến đây gặp thày, trông thấy phố xá tự do yên tĩnh, con mới yên tâm.
CHA - Ở ngoài đó chúng nói gì?
CON - Chúng bảo thành phố Sài Gòn tan hoang hàng vạn người chết.
CHA - Láo! Đánh nhau có vài khu nhỏ thôi.
CON - Nhà ta có gần khu đánh nhau không?
CHA - Nhà ta ở giữa khu đánh nhau.
CON - Có việc gì không hở thày?
CHA - Nhà cháy hết.
CON - Có ai việc gì không?
CHA- Con Yến chết...
CON- Con Yến chết... Còn thằng Lân?
CHA - Cũng chết!
CON - Cũng chết... Bà? Đẻ?
CHA - Bà cũng chết, đẻ què chân.
CON - Trời!... Thế mà tụi chúng ở ngoài ấy vỗ bụng cười được. Quân khốn nạn.
CHA - Chính chúng nó dự phần gây rối.
CON - Bây giờ thày ở đâu?
CHA - Thày ở đất tự do và cách mạng!
CON - Đất tự do và cách mạng!
(Hai người đến công trường Hòa Bình. Trời cao vòi vọi và xanh thẳm)
Miên tưởng tượng theo lời đối thoại cảnh đô thành khói lửa vừa qua mà Lãng được chứng kiến, lúc đó nàng còn ờ Hải Phòng. Nghĩ đến Hải Phòng Miên hốt hoảng trở lại hình ảnh Kha. “Trời ơi - Miên nghĩ thầm - chuyến tầu người con vào đây cũng gần là chuyến tầu cuối rồi còn gì. Chẳng biết...”
Giọng radio tiếp tục. SÂN KHẤU LỚN đã chuyển sang mẩu kịch khác.
MƯA
(Hai đứa trẻ ngồi dưới mái hiên nhà lớn gần bờ sông một đêm mưa lớn. Em trai miền Nam và em gái miền Bắc)
TRAI- Lạnh quá...
GÁI - Thế mà lạnh? Mày tồi thật.
TRAI - Mày không lạnh sao?
GÁI - Mày chưa ở ngoài Bắc mày không biết. Ngoài tao mà rét thì khỏi phải nói.
TRAI - Ngoài ấy lạnh lắm hả?
GÁI - Trong này chưa bao giờ lạnh bằng một phần trăm ngoài ấy..
TRAI- Dữ.
GÁI - Rét mà nằm ổ rơm thì... phải là thú.
TRAI - Sạo mày không ở ngoải, sướng không?
GÁI - Mốc sịt, bố tao đi dân công chết rét dọc đường, mẹ tao chết từ năm đói, tao không sống được phải bò vào đây, mày nói dễ nghe gớm.
TRAI - Đi dân công là cái gì?
GÁI - Mày ngu lắm em ạ, đi dân công là đi phu không công biết chưa?
TRAI - Tao biết rồi, tía tao dạo nào Tây nó cũng bắt đi, về ốm rồi chết đó...
GÁI - Thế má mày?
TRAI- Má tao cướp về làng nó giết chết.
GÁI - Tao tưởng chỉ ngoài tao khổ hóa ra đâu cũng thế.
TRAI- Trời! Dưới tao cực không nói được.
(Im lặng)
GÁI - Bao giờ mình về làng được? Làng mày còn gần, làng tao xa quá. Đi tầu thủy mênh mông mấy ngày liền.
TRAI - Tao cũng mong về làng, tao còn thằng em đi ở đợ dưới đó.
GÁI - Mày nhớ em mày không?
TRAI- ờ... ờ... tao quên mất.
GÁI - Tao mà có em thì tao yêu ghê lắm
TRAI- Ờ..Ờ..
GÁI - Mày lên mấy?
TRAI - Mười ba.
GÁI - Tao mười ba tuổi tây, mười bốn tuổi ta. Hay mày làm em tao.
TRAI - Mày nói nghe dễ ợt.
GÁI - Mày không muốn tao yêu mày hả?
TRAI - Tao không cần, chẳng ai thương tao hết trọi.
GÁI - Mày ngu quá à,, nhưng tao cứ coi mày là em.
(Đứa gái nắm lấy bàn tay nhỏ gầy và đen đủi của đứa trai. Đứa trai toan rụt lại nhưng rồi để yên, lát sau thì thiu thiu ngủ, đầu ngả vào vai đứa gái, trông hệt hai chị em.
Mưa về khuya càng mạnh chưa biết bao giờ tạnh)
Nước mũi Miên chảy ra, nàng tắt radio vì SÂN KHẤU LỚN tạm “buông màn”, nàng chấm vội nước mắt và nước mũi, tắt đèn. Cảnh di cư, cảnh đô thành khói lửa, tang tóc, cảnh chia ly của hiện tại bỗng hòa lẫn với cảnh nghèo đói của cha mẹ nàng, cảnh ba anh em mồ côi, rồi cảnh tám năm quê hương khói lửa vừa qua.
Nhưng khi Miên chợp ngủ Dĩ Vãng và Hiện Tại đó biến đi nhường chỗ cho một thực tại tâm linh khác vẫn hằng ám ảnh mà nàng cố tình làm như không hay: Kha!
Nàng mơ thấy Kha đã vào Sài Gòn, tất nhiên Kha giữ đúng lời hứa tìm nói với Hiển xin cưới nàng. Rồi nàng tự thấy trong vòng tay Kha, nhận lời Kha cái hôn dài, thật là dài, sương mờ như đọng thành một đám mây trắng quanh nàng, đám mây có hương thơm mênh mông, mênh mông như tình nàng đối với Kha. Bỗng đám mây có hương thơm mênh mông đó tỏa ra ủ lấy khu rừng lau mà nàng hằng mơ ước, trong đó chính nàng oằn oại trong vòng tay ghì của Kha như một trái chín từ lâu rồi nhưng vẫn còn đầy đủ nhựa sống để mặc sức đu đưa giữa lá cành hạnh phúc.
Phần ii
Chương 15
Tiếng vọng mùa xuân
i
Bóng nàng từ xa lại. Đúng là người con gái ấy! Đúng là người đàn bà ấy! may mà chàng đã ngồi xuống một các trụ gạch, chiếc áo mưa gấp gọn để bên. Tuy ngồi khá vững trên mặt phẳng trụ gạch mà khi vừa thoáng thấy bóng Vân từ xa đi lại, Kha còn thấy lao đao. Một cảm giác nửa như lo lắng nửa như rộn ràng, bầu không khí xung quanh bỗng hoang vắng hẳn và làn gió thổi tới như đôi cánh mênh mông của loài chim lạ,  mơ hổ cuốn theo cả những bóng cây từ xa lại.
Kha khoanh tay nhìn Vân, nụ cười ngưng đọng hẳn trên môi, nhưng là một sự ngưng đọng bàng hoàng như bóng chiều vừa tới lúc chập choạng.
Anh đợi em đã lâu chưa?
Lâu rồi  em ạ.
Kìa, anh bỏ quên áo mưa.
À nhỉ.
Đôi lời vấn đáp đó đem lại niềm rung động ấm áp cho hai tâm hồn.
Từ ngày gặp lại nàng ở Hà Nội, chàng khao khát bao nhiêu những giây phút gần gũi như thế này, rõ ràng nàng cố tình lẩn tránh, vậy mà khi chàng xuống Hải Phòng chuẩn bị ngày mai di cư vào Nam thì tự nhiên nàng suất hiện bất ngờ… chính nàng cho hẹn nơi Cầu Ngự lộng gió và lấp loáng ánh sông này. Chàng đương đi vào một giấc mộng đẹp vô ngần, chàng vừa cảm thấy lâng lâng vừa cảm thấy bứt rứt.
Em đói!- nàng nói.
“Hạnh phúc lớn quá- Kha nghĩ thầm chúng ta hãy đi ăn là phải”. và chàng mỉm cười khẽ gật đầu:
Anh cũng đói để anh đưa em đi. Dời Cầu Ngự chúng ta theo phố Cầu Đất một quãng, rồi rẽ vào phố Khách bên tay mặt, ở đấy có hai hiệu ăn lớn của Tàu, anh sẽ gọi món cua bể sào chua ngọt đặc biệt em ăn.
Anh có vẻ thạo lắm nhỉ.
Lúc đó Kha thấy trí mình sáng suốt lạ, chàng nắm lấy tay Vân, hai người đi về ngả có nhiều ánh sáng. Cả hai cùng như vừa bắt đầu gặp niểm vui tuổi thơ khi bước vào tiệm ăn sạch sẽ, lịch sự, thoang thoảng mùi hào nấu. Họ đều thấy đói. Kha chọn một bàn ở vào góc khuất; người hầu sáng tới, chàng com- măng thức ăn.
Từ Hà Nội xuống Hải Phòng tìm anh, đi nửa đường em mới sực nhớ mình chỉ còn rất ít tiền Đông”.
Anh có thừa tiền cho chúng ta tiêu…
Kha muốn nói tiếp nhưng không biết tiếp sao vì chàng vẫn chưa biết Vân xuống Hải Phòng làm gì, ở đến bao giờ, có ý định di cư vào Nam không. Chắc là không rồi, vì nếu có thì…
Bác không cùng em xuống đây sao?
Mẹ em đã qua cơn nguy kịch, bắt đầu ăn giả bữa, người chờ bình phục hẳn để còn lên đồn điền Phú Thọ cải táng cho ba me.
Ngừng một phút nàng tiếp:
Em đã viết thư cho anh Hãng bên Pháp, gửi đi ngay trưa nay ở đây.
Trong đó em viết gì?
Em viết theo lời mẹ em bảo là anh Hãng ở Pháp cứ việc về Nam, có thể mẹ em cải táng cho ba em rồi vào kịp.
Thế còn em, em xuống đấy rồi lại lên Hà Nội?
Thì mẹ em còn ở trên ấy!
Chàng chỉ cần biết vậy, chàng không muốn hỏi thêm để nàng phải trả lời dựa dẫm hay nói dối. Chàng không muốn hỏi thêm để biết thời gian hạnh phúc chàng được sống bên nàng là bao ngày, biết trước làm gì, nên giữ bất ngờ là hơn. Thú hồi hộp được sống bên nàng, giây thần kinh căng thẳng, niềm vui tận hưởng nguy nga từng giây phút, cho đến ngày nàng ngỏ lời từ biệt trở lại miền Cộng sản tiếp thu…
Đĩa cua bể sào chua ngọt đã mang lại bốc khói thơm phức.
Ăn đi em- chàng nói- món này phải” sai năm quân” ăn mới thú.
Nàng đã bắt đầu ăn và hỏi chàng:
Tiệm ăn lớn mà sao vắng thế này anh?
Người Hải Phòng bắt đầu di cư nhiều vào Nam, nếu ngày ngày em có dạo qua các phố Đông Kinh, Ngõ Ngang Hàng Cháo, Chợ Sắt, em đã thấy nhiều hiệu lớn cửa đóng im ỉm, đó là chủ nhân đã đi, hoặc đương cùng gia đình sửa soạn đi. Có lẽ vui nhất và cũng buồn nhất là cảnh chợ giời họp ở bên hồ Thiên Cuông, Hà Nội, đủ cả radio, bàn ghế, giường tủ, bát đĩa sứ, sách… Nhà cửa đáng giá bạc triệu, ra đi bán rẻ chừng ba bốn vạn. Kẻ quyết tâm ở lại thì mua rẻ mọi thứ của kẻ quyết tâm ra đi; mua nhà, mua xe hơi, mua đồ đạc…Như vậy em bảo tiệm ăn đông vui như xưa sao được? Còn những người dân từ các ngả Hà Nội, Hưng Yên, Kiến An, đồ về đây thì tập trung cả ở những trại tiếp cư, hay ở tòa Thị Chính, ai còn lòng dạ nào hẹn hò nhau ở Cầu Ngự và đưa nhau đi ăn tiệm như anh và em thế này.
Chàng và nàng cùng cười.
Thật là một giấc mộng- Kha nghĩ- ta đương sống lâng lâng trong một giấc mộng tuyệt vời, bên người yêu cũ, người yêu thở dài ban đầu.
Em uống vang đi chứ- chàng nói
Anh thích uống vang lắm hả- nàng hỏi
Nói là anh thích uống vang thì không đúng hẳn.
Như vậy là sao?
Anh thích cái ly pha lê cao chân như thế này, anh thích màu vàng đỏ sóng sánh trong ánh pha lê như thế này, anh không uống vang, anh uống cái đẹp.
Chàng nhìn nàng, thứ nhìn say mê dìu dịu, hai nụ cười giao thoa. “ Anh ấy ưa nói thật và sự thật của anh bao giờ cũng quyến rũ như vậy”- Vân nghĩ thầm.
À quên, anh chưa hỏi em hiện nay ở đâu?
Lát nữa anh đưa em về!
Biết rằng nàng ở phố nào, ở nhờ nhà ai, căn phòng ra sao? Một sự bí mật nhẹ nhàng bao phủ lấy lời nàng nói, lấy tia mắt nàng nhìn, lấy nụ cười thoáng hiện. Kha chẳng muốn hỏi thêm.
Hôm nay có lúc nào em qua Tòa Thị Chính?
Có, vào lúc mười một giờ, ngay sau khi vừa gặp anh ở đằng nhà.
Em thấy gì?
Đông lắm, dân chúng đông lắm.
Em có biết họ đến làm gì không?
Em không rõ.
Họ đến xem đã có tên họ trong bảng danh sách di cư vào Nam chưa để còn lĩnh vé, lĩnh vé hôm trước, hôm sau đi liền.
Phần nhiều đi bằng đường thủy phải không anh?
Cả hai, ai muốn di cư bằng đường hàng không thì tập trung một nơi riêng, sẽ có xe đưa tới sân bay Cát Bi.
Đôi mắt Vân thoáng buồn. Trong cùng thẳm tâm hồn, nàng cảm như có trận mưa nào đổ xuống một vùng đất đai khô cằn. Tiếng Kha hỏi:
Em xuống đây vẫn bằng chuyến tàu suốt, ngừng lại ở ga giáp giới thuộc Hải Dương?
Vâng, ga Phú Thái!
Chắc nơi đó vẫn biểu diễn tấn bi hài thường xuyên: cán bộ khám dân chúng?
Giọng Kha có vương chút căm hờn tuy đã gia công đè nén, chút căm hờn đó tan đi rất nhanh chóng, biến thể thành tính chất mỉa mai nhẹ nhàng. Vân đáp:
Vân vẫn vậy.
- Tha hồ dân chúng văng tục, chửi, mà cán bộ vẫn tươi cười vẫn ngọt ngào như không. Họ tưởng như vậy là biểu lộ tinh thần kỷ luật, tinh thần thắng kỷ của Đảng, họ lầm lớn, dân chúng càng tởm họ là giống người máy vô tri giác rợn người. Nghe người ta thuật lại nhiều chuyện bỉ ổi về sự khám xét của cán bộ VẸM ở ga Phú Thái này, một hôm anh mua vé ngược Hải Dương quan sát một chuyến. Anh tới vừa kịp lúc chứng kiến cảnh các bà cứ khỏa thân như vậy trong phòng khám mà ra. Có bà ngồi xuống tiểu tiện đã rồi mới đứng dậy bận quần áo vào, có bà xoay đủ một vòng, nghễu nghện hai bầu vú nuôi con rồi mới bận áo. Các bà ấy là những người cực kỳ thông minh và biết trọng nhân phẩm lắm em àh. Anh thấy hàng bao nhiêu tấn giấy tờ của người trí thức quốc gia viết ra để chống đối Cộng sản không nặng bằng một đồng cân so với cái cử chỉ vừa khôi hài vừa thâm trầm chua chát của cuộc khỏa thân tập thể như vậy. Tất cả những người đàn ông quốc gia (cũng vừa bị khám ra) cúi đầu im lặng nặng nề, chỉ còn nụ cười của người cán bộ. Trên cái nền khỏa thân của các bà, nụ cười đó quả đã được bóc trần đến chất lõi máy móc vô nhân của nó.
Kha ngừng nói, có lẽ là hơi hối vì giọng điệu đượm nhiều gay gắt, Vân cúi đầu nghĩ đến cái chết của cha nàng, nghĩ đến mẹ nàng một đời vất vả chăm nuôi lũ con, rồi nhỏ lệ cho cái chết oan khiên của cha nàng, rồi những ngày bệnh tình gần đây, Vân nhớ lại kỷ niệm những ngày ở đồn điền Phú Thọ bên cha, mẹ, anh, em, nàng nhớ đến những thửa mầu dưới nắng hè rực rỡ, nàng nhớ đến những khoảng rừng hoang vu mà những đám mây trắng nõn như biết dừng lại để soi mình xuống vùng xanh loang loáng mênh mông và câm lặng đó. Nàng nghĩ đến sau ngày cưới của nàng hai tuần lễ thì Kha chợt xuất hiện, chàng dời khỏi Trung Đoàn Thủ Đô đến tìm nàng tại đồn điền. Lúc đó còn e lệ nỗi gì, nàng gục mặt lên đầu gối nức nở:” Thời tao loạn em còn biết nghĩ gì? Sao anh không về trước đây nửa tháng, em vẫn còn kịp phản đối lễ cưới…”
Kha đã đưa tay sang chấm nước mắt cho nàng bằng chiếc mùi xoa. Ồ, mãi nghĩ về dĩ vãng nàng khóc lúc nào. Tiệm ăn vắng tanh, chỉ còn chàng với nàng. Kha vẫy hầu sáng, bảo tính tiền. Khi đi ra chàng lại quên áo mưa, Vân lượm lấy đưa cho chàng và nói:
Anh hãy còn tính hay quên như ngày xưa.
Kha hơi nheo mắt nhìn nàng, ngày xưa xa xôi quá chẳng hiểu chàng hay quên ra sao. Ra ngoài đường phố, sương đêm lạnh, chàng tung áo mưa ra khoác cho cả hai. Nàng im lặng vẫn bước đều nhưng thân hình nép gọn bên vai chàng, trong vòng tay chàng và dưới làn áo mưa. Từ sau đêm xuân trác tuyệt năm nào chàng và nàng ôm hôn nhau lần đầu tiên say điên như bị nhào cuốn trong cơn lốc vũ trụ, thì đây là lần thứ hai hình hài hai người chạm sát nhau.
Im lặng làm chàng xao xuyến nao nao, chàng sợ xao xuyến và chàng cất tiếng hỏi trong khi hơi ấm cơ thể nàng đã thấm sang cánh tay quàng:
Em về lối nào?
Chúng mình về lối Lạch Tray.
Ủa thế là trên đường từ phố Cầu Đất ra Đồ Sơn?
Vâng.
Khoảng đó toàn villa đẹp.
Vâng, bạn em đã đưa em mượn chìa khóa đây.
Bạn em có đây?
Không, bạn em ở Hà Nội.
Có một mình em ở villa đó?
Vân ngừng lại ngượng ngập giây lâu mới đáp:
Vâng!
Kha không hiểu sao nàng lại được bạn trao cho mượn chìa khóa.
Sao sáng nay em lại hẹn anh đợi ở cầu Ngự, ngược hẳn với chiều em ở?
Em hẹn anh đợi em ở cầu Ngự vì trước đây lâu lắm em có theo ba xuống Hải Phòng và được ba đưa ra cầu Ngự ngắm cảnh sông hóng gió mát.
Em muốn anh đưa em về bằng xe, hay cứ thế này đi bộ về?
Cứ thế này đi bộ về anh ạ.
Chàng hỏi như thể đưa nàng về rồi vào ở luôn với nàng, nàng trả lời cũng chẳng hề có ý sẽ khép cửa tạm biệt khi chàng đưa tới nhà. Hai người đã tới Phố Cầu Đất, đường phố thênh thang, các cửa hàng nouveautés  bán đồ trang điểm của các bà đã đóng cửa. Bóng hai đầu chụm lại, hai thân mình nép dưới áo mưa đi trên con đường thăm thẳm hướng ra biển thật đẹp. Biển, không trông thấy, nhưng hai bóng nhỏ đó đem lại ý nghĩa mênh mông cho biển, Kha và Vân thỉnh thoảng vẫn có lời đàm thoại, đều là câu hỏi và câu trả lời không quan trọng, họ nói cho có chuyện nhưng tiếng nàng cười khẽ nồng nàng ân tình. Khi còn ngồi đối diện trong tiệm ăn, chàng có nhìn Vân nhưng ý thức lơ là, giờ đây chàng nhìn thẳng về phía trước và ôn lại trong trí hình ảnh nàng; mỗi lần hai người đi vào bóng tối của lùm cây, hình ảnh nàng càng rõ. Vân vẫn giữ được nước da hồng hào khỏe mạnh.
Em ở Việt Bắc có bị sốt rét?
Không anh ạ, em uống quinine đều, và hình như cơ thể em có chất chống đối lại bệnh sốt rét.
Tóc cắt ngang vai như phần nhiều phụ nữ miền kháng chiến, chải mịn về phía trước, cặp ở phía sau, cắt làm đầu đó cho người ngoài thấy nàng đã là đàn bà, nhưng khuôn mặt đầy đặn trẻ măng của nàng, với đôi mắt đượm chút u sầu của nàng lại là một cái gì tha thiết đi thẳng vào tim chàng. Lúc đó chàng còn nhớ đến cả những ngón tay búp măng của nàng khum khum cầm đũa, bàn tay chàng tìm bàn tay nàng dưới làn áo mưa, nàng ngước nhìn chàng mỉm cười như để đánh dấu một sự trao gởi. Chàng chưa kịp hỏi đã sắp tới nhà chưa, thì nàng nói:
Em còn nhớ mãi câu anh nói:” mùa xuân không thể chỉ có nắng vàng, mùa xuân phải có gió mưa nữa, chúng ta không thể trong sạch như thánh nhân, chúng ta sẽ chết trong sự trong sạch đó như hai con cá đã chết!”
Rồi anh hôn em- chàng tiếp- cái hôn đầu tiên của đời anh, của đời em, rồi tuy chúng ta còn đôi lần gặp nhau nữa nhưng cũng kể như là chia ly từ sau cái hôn đó.
Nàng kéo chàng dừng lại trước cổng sắt, nàng lách tay vào trong nhấc chiếc then ngang, chàng đẩy cửa giúp nàng. Khi cả hai đã bước vào bên trong, chàng vẫn một tay quàng giữ vai nàng, tay kia đóng cửa lại và cài then ngang. Không khí còn nóng ấm dĩ vãng giúp chàng và nàng cùng không thấy ngượng ở hoàn cảnh a tòng nhau tự giam hãm thành đôi sai cánh cửa villa. Cả hai bước lạo xạo trên lối đi rải cuội.
Giọng nàng buồn rầu:
Rồi cũng kể như chia ly thật!
Hai người lên thêm, nàng mở khóa, vặn quả nắm sứ mở vào phòng khác, một chiếc giường có trải nệm trắng kê ở tít góc trong, trên giường có chiếc va ly nhỏ đựng quần áo của nàng mà sáng nay chàng đã thấy dưới chân nàng. Cả hai cùng ra đứng trước khung cửa sổ ngay gần đầu giường. Lúc đó chàng mới sực nhận ra rằng ngoài vườn có ánh trăng, thứ trăng xuông mờ mờ huyền ảo. Villa bên thấp thoáng có ánh đèn đêm, tít ngoài xa, ngọn đèn đường cô độc màu vàng khè mệt mỏi cao ngang với lùm me.
Chàng cúi xuống để tiếp ánh mắt của nàng vừa nước lên, đôi mắt phảng phất u sầu đó vụt sáng, khiến chàng tưởng như đó là hai vì sao lạc vừa rớt xuống một cai giếng thăm thẳm không đáy là chính linh hồn chàng.
Phần ii
Chương 16
Người ở lại
i
Chàng đạt được niềm mong ước khát khao không chờ đợi đó thật là kỳ ảo. Ý niệm về thời gian về không gian bị các dung lượng hạnh phúc tràn bờ của chàng và nàng xóa mờ thành hư vô. Ký ức của Kha về những giây phút hạnh phúc đó cũng lộn xộn, chàng ưng nó lộn xộn như vậy, vì nó gây cho thế giới bên trong chàng một cảm giác hỗn mang đẹp đến hoang đường. Chàng khát khao nàng bao nhiêu, với nàng, chàng thấu tới bản thể của tình yêu; với nàng, quả thực tình yêu xác thịt đã là một minh chứng quý báu cho tình yêu tinh thần và cả hai hợp lại thành một tình yêu toàn vẹn lý tưởng. Chàng kiêu hãnh vì tình yêu đó. Có thể là trước khi chiếm hữu Vân, Kha còn tự ngờ mình, sự chiếm hữu kia chính là một nhát búa đập xuống, phiến đá vỡ ra và một thoải ngọc xuất hiện, lấp lánh như một nụ cười bất diệt của tin yêu. Phải rồi chàng còn nhớ ánh sánh căn phòng lúc đó lờ mờ lắm, chẳng hiểu là ánh trăng suông hay ánh ngọn đèn đường thấp thoáng sau lùm cây phản chiếu vào. Phải rồi, trước khi chàng dìu nàng đến giường, chàng còn hôn nàng, cái hôn dài rất bình tĩnh, có sự cộng hưởng của nàng, nhưng chắc chắn cả chàng và nàng cùng thấy bóng tối run rẩy quanh mình. Khi chàng dìu nàng nằm xuống giường, ôm nàng trong vòng tay, theo chiều dài của cơ thể, chàng ngửng nhìn qua cửa sổ thấy đúng một ngôi sao chập chờn khi mờ khi tỏ và chàng ghé xuống thì thầm bên tai nàng: “ Yêu em mười mấy năm trời rồi, mà đêm nay mới là đêm tân hôn của anh.”
Sáng hôm sau ánh sáng mơ hồ theo gió bềnh bồng ùa vào khung cửa sổ, chàng giơ tay lên xòe năm ngón ra để ngắm chính bàn tay mình nổi lên giữa khung trời cửa sổ. Buổi rạng đông êm tĩnh như giữa vùng quê. Cánh tay nàng riết lại trên ngực chàng.
Em đã thức?
Vâng
Anh có cảm tưởng anh đang nằm dưỡng bệnh.
Em cũng vậy.
Sung sướng thay kẻ đã làm chủ được cơn bệnh thập tử nhất sinh để rồi nằm hưởng giây phút dưỡng bệnh lười lĩnh trễ nãi một cách thần tiên, vui chẳng khác mình làm chủ định mệnh của mình bằng tin yêu.
Anh có biết, villa này trước đã có một cặp vui hưởng hạnh phúc như chúng ta bây giờ. Người chồng tu xuất, người vợ cũng ở một nữ tu viện thoát ra, cặp tình nhân phá giới đó hưởng hạnh phúc hối hả để bù lại những ngày đã mất, họ luộc sẵn một chục trứng gà từ hồi hôm trước, đặt ngay trên bàn đêm, sáng sớm thức giấc, họ chụm đầu nhau nhô ra khỏi thành giường bóc trứng ăn, cười rúc rích rồi lại nằm ngửa bên nhau, giơ tay giật chiếc giây thừng hạ chiếc màn sáo khi ánh sáng ban mai đã quá rõ ràng, họ cứ nằm bên nhau như vậy ít ra cũng đến chín, mười giờ mới dậy tắm rửa. Chàng dạy học buổi chiều.
Họ cũng chỉ hạnh phúc bằng chúng ta là cùng! Nhưng sao em biết chuyện?
Người mua villa này hiện ở Hà Nội kể lại. Cặp uyên ương kia đã di cư vào Nam rồi.
Chàng thân mật nói:
Chúng ta không nằm bên nhau cho đến chín, mười giờ, anh muốn lát nữa dẫn em đi lang thang xem khuôn mặt đất Cảng trước ngày tiếp thu.
Chúng ta còn đi ăn sáng nữa chứ anh.
Ừ nhỉ, vì chúng ta không có rổ trứng luộc sẵn bên cạnh.
Chàng và nàng cùng bật cười trong cái ôm ghì bất chợt. Gió và nắng sớm đuổi rỡn nhau bên ngoài, những lá vàng rụng lao xao, chàng lùa năm ngón tay vào mái tóc nàng, âu yếm. Sự cọ sát của hai làn da dưới làn chăn mỏng giờ đây không làm họ vừa tê tái vừa rạo rực như đêm qua lúc cả hai “ đi vào đêm tân hôn”; những góc cạnh của đam mê đã tự sói mòn trong ánh sáng ban mai trầm lặng để chỉ còn là một cái gì lắng đọng như sự kết tinh của yêu thương và nhẫn nại.
Nàng quyết định vùng dậy trước, bước vội vào buồng tắm. Tiếng nước xối rộn rã. Lát sau nàng ra, khuôn mặt tươi mát, tay cầm một trang báo xé lẻ, chăm chú đọc, đôi mắt chớp chớp thoáng buồn.
Nàng trao cho chàng, nói:
Em thấy trang báo này rơi trên nền gạch buồn tắm.
Đó là trang báo in trên giấy bản, báo cáo của miền cộng sản, chứng tỏ người mua lại villa này quả đã có liên lạc với " ngoài kia" và được tuyên truyền bởi cán bộ cộng sản nội tuyến. Bài báo hụt đầu, hụt đuôi khoảng giữa tả lại nếp sống của đô thị Sparte trong cổ sử Hy Lạp.
Nàng đã ngồi xuống mép giường nói với chàng:
Em nhớ lại những bài sử thuở còn học Félix- Faure. Hiếu chiến như dân Spartiates thật bệnh hoạn.( nàng chép miệng). Bảy tuổi đứa con đã dứt ra khỏi lòng mẹ để đưa vào là huấn luyện sát nhân! Biết bao nhiêu thế hệ làm mẹ đứt từng khúc ruột! Người chiến sĩ đã mất nhân tính đâu còn xứng đáng với danh hiệu chiến sĩ nữa anh nhỉ. Em chỉ nghĩ đến con em mà…
Chàng vẫn tiếp tục lướt đọc rồi tiếng chàng cười lơ đãng:
Bài báo mất đầu, mất đuôi thực là một sự hi hữu anh được đọc một tráng báo cộng sản vắng bóng tuyên truyền!
Đến lượt chàng vùng dậy…
Vừa ra tới cổng villa, chàng chỉ tay về phía Đồ Sơn:
Anh cứ muốn là chúng ta đi về phía này cho đến khi gặp biển.
Nàng chỉ về phía thành phố, ngước mắt nhìn chàng lẳng lơ kín đáo:
Em thì thích theo hướng này vì hiện giờ em đói.
 Chàng kéo nàng ngả về phía mình, con đường vắng tanh, nàng cảm thấy đúng là cõi đời chỉ còn chàng và nàng và hai người giờ đây còn sống bên nhau để thực hiện ý muốn cao cả của thượng đế và tái tạo lại phần nhân loại vừa bị tàn lụi bởi những lầm lỗi của họ trên bước đường định mệnh.
Nàng nói:
Lúc quyết định xuống cảng gặp anh, em tưởng thoạt tiên thế nào anh cũng có thái độ ngờ em là một thứ cán bộ địch vận xuống để tuyên truyền anh ở lại. Tuyệt nhiên không thế! Em sung sướng nhưng xấu hổ, xấu hổ vì đã nghi oan cho anh.
Chàng nói:
Em xuống với anh thế là đủ rồi.
Anh không đặt câu hỏi tại sao em xuống với anh sao?
Câu hỏi đó đâu có cần thiết. Em đến với anh, anh còn yêu em nguyên vẹn như thuở nào không đủ sao?
Anh nói có lý. Và em cũng không cần nói vì sao em xuống Cảng với anh chứ?
Thấy Kha im lặng Vân tiếp:
Em đã sưu tầm đọc hết văn thơ của anh. Từ ngày anh vào vùng quốc gia.
Sự căm hờn đó của anh - chàng đáp- làm anh xấu hổ, dù anh biết đó chỉ là nhất thời như muôn ngàn vai trò khác trên sấn khấu đời này. Dù sao anh vẫn có thể tự an ủi: sự công phẫn của anh là sự công phẫn của một tâm hồn ngay thẳng, và phần anh đóng góp vào công việc xây dựng mai sau dù nhỏ nhen nhưng có thực, có thực vì lòng nhiệt thành của anh, có thực vì anh tin với cả cuộc đời của anh là phần đóng góp đó… có thực.
Chàng lại lùa vào nắm ngón tay vào mớ tóc ngang vai nàng. Đường sớm vẫn vắng tanh, một thoáng sông gợn phía trước, thành phố còn lùi tít phía xa… Chàng tiếp:
Lời của anh là lới nói của cả Lý và Tình. Em đến với anh cũng vậy. Anh đón tiếp em cũng vậy. Tình yêu xác thịt của chúng ta không nhuộn màu tủi hổ, điều đó không đủ chứng thực sao?
Anh nghĩ sao, em phải ở lại. Con em, đoàn thể giữ kháo như một con tin; mẹ em, người cương quyết đợi cải táng cho ba em chết truồng chôn bó chiếu, sau đó người trở về làng, làng anh làng chúng ta,- Định Quyết- để sống gần nấm mộ mới bắt đầu xanh cỏ của em em.
Tất cả những ngang trái trên đời này đều có nguyên nhân của nó. Sự băn khoăn, chính đáng cũng đã phần nào giúp chúng ta đặt đúng vị trí của con bò với chiếc cày, và lịch sử diễn tiếng với những luống màu được vỡ. Em là người đàn bà thông minh, em yêu dấu, em thông cảm với anh lời nói đó chứ?
 Nàng nhắm mắt, ngả đầu lên vai chàng để mặc chàng dìu đi, chàng hiểu đó là lời đáp” có” siêu hình vứa đầy đủ vừa đằm thắm.
Chàng tiếp, giọng trầm hơn:
- Kẻ ra đứng ở tiêu chuẩn đo lường dung lượng hạnh phúc với đau khổ thường tình để so sánh một bà mẹ Spartiate hai mươi sáu thế kỷ trước đây với một bà mẹ Việt Nam như em ngày nay, thì lịch sử nhân loại chưa hề tiến được một li nào. Nhưng em thấy không, với sự hiện diện của mình, với sự ghé vai của mình, lịch sử thì mênh mông, vai mình thì nhỏ bé nhưng cùng một lúc có hàng triệu hàng triệu sự hiện diện khác, hàng triệu sự ghé vai khác, dưới muôn vàn hình thức khác nhau nhưng của cùng một khát vọng. Tất cả những cảnh sắt ngày nay sẽ bị soi mòn bởi những va chạm, để rồi có thể những cạnh sắc khác biệt xuất hiện như những thương hàn, dịch tả lui bước thì ung thư xuất hiện thành một thứ bệnh của văn minh. Cứ nên chấp thuận như thế đi và cho rằng đó là định mệnh của con người đi, nhưng không vì thế à không hiện diện, không ghé vai. Giữa những dây kéo, những bạo hành của của đời, ta còn những người thân, còn những tri kỹ, nhưng điều cần nhất là còn chính mình, bởi vì khi mình không còn thì những ai kia còn cũng bằng thừa.
Chàng hơi nghiêng đầu cúi xuống, nàng vẫn ngả đầu trên vai, đôi mắt nàng vẫn nhắm, nhưng từ kẽ mắt hai bên suống mũi tràn ú lên hai giọt sương trong suốt.
Chàng rút vội mùi xoa trong túi và nói:
- Để anh lau nước mắt cho em. 
Phần ii
Chương 17
Bến đò rừng
i
Dời khỏi khu nhà thương, Kha thấy nhẹ người. Miên quả đã đi ngay từ hôm ấy.
Sớm nay lúc sực dậy Vân hỏi:
- Cô gái nhà thương với anh là thế nào?
Kha đáp:
- Em gái một người bạn thân của anh.
Vân hỏi tiếp:
- Người bạn thân của anh giờ đây ở đâu?
Theo học tại trường sĩ quan Thủ Đức sắp mãn khóa.
- Cô ấy có dáng một người vợ hiền.
- Đúng!
- Cô ấy sẽ là người vợ hiền của anh.
Kha mỉm cười nghiêng đầu hôn lên đôi môi ấm của Vân, không đáp. Vân tiếp:
- Sớm nay anh nên đến nhà thương gặp cô ấy đi.
- Miên vào Sài Gòn rồi em ạ, hôm em tới tìm anh ở đây, đúng lúc Miên nói với anh là ê-kíp của Miên sẽ phụ trách chở một số dụng cụ nhà thương quan trọng vào Sài Gòn trước, tới bệnh viện Bình Dân thì phải.
- Biết đâu việc đó chẳng hoãn. Sớm nay anh nên đến nhà thương thăm cô bạn đó kẻo không tiện.
Lời Vân nói rất thành khẩn, chính Kha cũng thấy là nàng có lý. Phải, rất có thể việc Miên vào Nam hoãn lại.
Tắm rửa thay quần áo xong thấy Vân còn nằm ở giường quay mặt về phía trong, Kha hỏi:
- Em đi với anh chứ?
- Ô hay, sao em lại đi với anh? Ngộ gặp cô ấy ở nhà thương anh sẽ nói với cô ấy ra sao.
Kha chưng hửng, “ờ nhỉ” - chàng muốn buột miệng thầm thế rồi nói:
- Nhưng dầu sao em cũng lên phố ăn sáng rồi chờ anh.
- Chờ anh ở đâu? ở ngoài cửa khu nhà thương chăng?
Kha lại không biết đáp ra sao. Có điều gì Vân giận chàng chăng? Không, rõ ràng giọng nói của Vân đượm vẻ bình tĩnh, có chút gì dằn vặt đâu. Chàng bịn rịn ngồi xuống bên giường. Vân quay ra nhìn chàng mỉm cười, khuôn mặt trong sáng, như thể mấy câu đối đáp vừa qua không hề là những câu đối đáp về một người con gái khác, như thể hai người vừa nhắc lại những lời yêu đương với nhau. Kha cúi xuống áp má chàng lên má Vân, nói thầm bên tai nàng:
- Anh sẽ mua các thức ăn sáng về cho em.
Vân làm điệu gật đầu. Thốt nhiên nàng quàng hai tay ôm ghì lấy Kha cắn lên vành tai chàng, vít đầu chàng xuống, hôn thắm thiết lên môi chàng, rồi vùng dậy ngay. Tiếng nước xối trong buồng tắm và tiếng nàng nói vọng ra:
- Anh đi ngay đi. Em ở nhà nằm dài trên giường đọc lại tập thơ của anh và đợi anh mang thức ăn về. Nằm dài trên giường mà đọc thơ anh thì thích thật. Lại đợi anh nữa và đợi thức ăn nữa. Trời ơi! Anh đi đi.
Kha đã đứng dậy sốc lại veston, đáp:
- Đồng ý, chừng hai tiếng sau là cùng anh về. Em muốn ăn gì nào để anh mua.
- Ăn anh!
Kha bật cười và cũng sực nhớ ra ngày nào chàng muốn phát điên lên và nói với Vân: “Anh muốn đưa em đến một hoang đảo ở đó anh ăn thịt em!”. Chàng nói lớn:
- Thôi anh đi nhé, Vân nhé.
Tiếng nước xối ngừng, nhưng Vân không nói gì. Kha xuống thềm, bước lạo xạo trên sỏi, tai còn lắng đợi. Vân vẫn lặng thinh. Chàng đã ra tới cổng. Chàng mở mạnh chiếc cổng sắt cốt ý làm cho tiếng khóa loảng xoảng để Vân hiểu là chàng sắp ra đường rồi. Vẫn không thấy Vân dặn với ra điều gì. Khép cánh cửa lại bước xuống đường, Kha có cảm tưởng thiêu thiếu một cái gì, chính là thiếu lời nói của Vân, thiếu một chút ít mà như thiếu tất cả.
Đã một tuần qua tình yêu chứng nghiệm cho hai người thấy rõ rằng hương tự do, ánh sáng tự do ngào ngạt và chói lọi tỏa ra tự hồn họ. Họ không tự giải phóng, họ chính là sự Giải Phóng. Họ xứng đáng với tất cả và tất cả xứng đáng với họ. Trong bảy ngày vừa qua có một ngày gió lớn và hai ngày mưa dầm. Âm thanh của Gió và Mưa như đưa nhau tràn vào tìm hơi ấm trong tâm hồn họ. Kha và Vân đã đứng kề vai tì tay hàng giờ bên cửa sổ ngẩng nhìn bầu trời mây xám. Con mắt của Tình Yêu vẫn giúp hai người nhận thấy bên trên vòm trời mây xám ấy là bầu không gian vô tận, trang điểm bằng những chấm sáng tinh tú, cùng những vệt sáng của những tinh thể di động. Những điểm sáng đó chỉ làm cho không gian thêm trong suốt và thăm thẳm. Kha thấy tuổi trẻ của hai người cũng tràn đầy hào quang. Trên đường đi đến khu nhà thương Kha ôn lại...
Vân đến với chàng như một nghi lễ dâng lên cho sự sống muôn đời, từng khóe nhìn, từng nụ cười, từng cái quay đi làm vẻ giận dỗi nhỏ, từng cái cúi đầu cho mấy sợi tóc tơ rủ xuống che niềm e thẹn bâng quơ, từng dáng đi vội vàng trong nụ cười hòa hợp, từng lời nói khe khẽ làm xao gợn chút ít nhưng âm vang thì hòa vào với vắng lặng mà trở thành bất tuyệt... Ngay cả khi Kha nhìn Vân nằm nghiêng để ngửa cọ tay thõng xuống thành giường như hệt người tự cắt gân máu, Kha cũng chỉ thấy đấy la một dáng điệu lả lơi rất đỗi nên thơ. Tình yêu như ánh trăng rằm vằng vặc xóa hết những đốm sao ưu phiền. Đêm qua Vân ghé vào tai chàng nói thầm: “Anh ơi, có một loài hoa không còn ở thế gian này nữa”, chàng đã ôm ghì lấy nàng theo hình ảnh của hai cây hoa trên hoang đảo sắp bốc thành ánh sáng và chàng cũng ghé miệng bên tai nàng vừa cắn khẽ vành tai vừa nói thầm: “Sự chết chỉ là khởi điểm của hòa đồng để đi vào đời sống thiên nhiên trường cửu, em thấy không?”
Dời khỏi nhà thương, Kha thấy nhẹ người. Sự thực nếu Miên - vì một quyết định bất thường nào đó vào giờ chót - còn ở lại tiếp tục công việc tại nhà thương Hải Phòng hay ở trại tiếp cư thì chàng biết nói với Miên sao đây?
Chàng có dừng lại trước vùng bãi rộng bên sở xi-măng ngoại ô Hải Phòng ngắm lại một lần nữa những hàng lều dựng san sát. Có những lều mới cấp tốc dựng, một phía mép lởm lên lề con đường về Hà Nội, thế mà vẫn không đủ chỗ chứa các đồng bào từ các ngả Nam Định, Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên ùn ùn kéo tới và mặc dầu tiết giời đầu xuân lạnh căm căm, họ nằm đông như kiến bâu ngoài sát quanh lều, khuôn mặt ai nấy hân hoan, vì đã được tiếp đón, đã được đưa và khu lều, dù chỉ nằm ngoài lều cũng là thật thoát mọi nguy hiểm. Kha có dừng lại trước Tòa Thị chính, đồng bào cũng đông nghịt và chen chúc dữ vì sớm mai có chuyến tàu nhổ neo và hôm nay phát vé theo bảng danh sách mấy ngàn người đã niêm yết. Kha chưa về thẳng villa đường Lạch Tray nơi Vân chờ đợi, Vì chàng muốn... nhấm nháp hạnh phúc, chàng rẽ vào Ngõ Ngang Hàng Cháo, bước vào tiệm ăn chàng và nàng vẫn thường ăn trong mấy ngày gần đây. Chàng dự định ăn điểm tâm qua loa rồi mua các thức ăn về cùng nàng giả vờ picnic ngay ngoài vườn, hoặc dưới hàng hiên. Đặc biệt tiệm ăn hôm nay sao quá đông, thoạt không thấy có bàn trống nào. May thay chàng đứng sững chưa đầy một phút thì một thanh niên ăn xong, trả tiền, rồi sang ngồi cùng bàn với một thanh niên khác ngay bên để tiếp tục câu chuyện của họ. Kha vào ngồi ngay bàn trống đó và com-măng với tên hầu sáng bát cháo cá.
Thì ra hai thanh niên bàn bên cũng mới quen nhau thôi, họ là những người mới thoát hiểm nên câu chuyện rất cởi mở, và ở trường hợp này thì sự cởi mở đó đem lại ý vị cho câu chuyện khiến Kha dù không muốn cũng theo rõi được.
- Vào Nam chuyến này bao giờ tôi mới được trở lại bến đò Rừng của quê hương đây, anh ơi! Sông Rừng tức là con sông lịch sử, sông Bạch Đằng đấy anh ạ.
- Quê anh ở đâu nhỉ?
- Làng Vĩnh ngay gần Sở Đúc Quảng Yên - Bến đò Rừng, thuộc huyện Hưng Yên.
- À
- Anh vừa nói quê anh ở Hưng Yên, tầu thủy từ Hà Nội xuôi sông Hồng xuống Hưng Yên có qua Ngã Ba Tầm Vườn, tôi đã qua ngã ba sông này, vâng quả mênh mông như biển, mênh mông không kém sông Rừng đúng lúc nước triều lên cao nhất, nhưng đem lại hai cảm giác khác hẳn nhau. Cái mênh mông của Ngã Ba Tầm Vườn làm ta sợ như sợ một con quái vật chỉ rình nuốt chửng ta, đúng không anh?
- Vâng đúng!
- Nhưng khi anh qua sông Rừng, vẫn là hình ảnh mênh mông, mà sao anh cảm thấy khâm phục như đương được chiêm ngưỡng hình ảnh các vị anh hùng danh tướng thời xưa, anh yên lòng vì biết rằng các vị đó uy nghi thật nhưng không bao giờ làm ác. Thuyền qua sông là một thứ thuyền buồm, ra tới giữa dòng, ngửa cổ nhìn ngọn hải đăng khá cao, tôi hằng ước ao sẽ có lần đến xin người gác hải đăng cho ở nhờ tại nơi đây cả một vụ hè nào đó để nằm đọc sách, rồi ngắm con sông mênh mông mà suy tưởng. Nói là sông, kỳ thực đấy là cửa biển rồi, nước xanh màu biển, bước xuống khoảng bến sông, anh thấy lạo xạo dưới chân những vỏ hà.
- Anh có dịp lên ngọn hải đăng đó chưa?
- Chưa mới tức chứ. Tiếc thật! Giá được ở đấy, rồi sáng sáng không quên chèo thuyền trong sương sớm lên bến ăn bát xôi trắng với chả mực tươi, món quà đặc biệt của bến đò Rừng.., ồ nhưng bây giờ thì...
- Bây giờ thì tụi nó về, tụi mình vào Nam.
- Khốn nạn thật! Ánh trăng rằm làm dịu đau khổ, nhưng đứng trên bến đò Rừng, nhìn những người đàn bà lam lũ gánh gồng, rồi nhìn ra sông cửa biển, mình thấy quên hết hận thù, mình thấy mình chỉ là một phần tử quá nhỏ nhen trong vũ trụ, nhưng cũng đồng thời, tư tưởng mình tự nhiên hướng về một cái gì cao siêu, thật cao siêu. Vì là con sông quê hương nên tôi nhớ nó đủ mọi vẻ. Trên bờ chỉ có vài quán trọ xác xơ; ban đêm tiếng sông đổ ra biển ầm ầm như hàng ngàn chiếc cối xay lúa cùng hoạt động một lúc; buổi sáng sương bốc mù mịt, có phải đấy là khói sóng? Đã có lần sang sông vào buổi sớm, tôi chợt để ý thằng nhỏ thay cha chèo thuyền, bóng nó thấp thoáng nhịp nhàng trong sương, tôi thấy khâm phục nó lạ, tính mệnh tôi lúc đó là ở trong tay nó, nếu sóng giữa dòng xô nghiêng và nó không vững tay lái, con thuyền có thể bất chợt lật úp, dù có bơi giỏi tài thánh cũng chết. Tôi hỏi người cha: “Lái thuyền trên sông Rừng khó lắm, ông lái nhỉ?” ông ta điềm đạm và nhũn nhặn đáp: “Như các cậu, cầm bút khó biết mấy mà các cậu còn học được, thì lái thuyền có khó gì!” Ông lái đã nói đúng ý câu “vạn sự xuất ư nho” đấy anh ạ. Ồ, sông Rừng còn có loài cá he rất hay.
- Cá he là cá thế nào?
- Hình thù như con lợn, nhưng thực ra nó to bằng con bò.
- Đó là cá biển?
- Nói là nửa sông nửa biển thì đúng hơn. Giới thuyền chài rất kính trọng loài cá này, tựa như dân chài ngoài khơi kính trọng cá ông. Phải rồi, chính vì thế mà lúc nãy tôi có ý nói với anh rằng đứng trước sông Rừng người ta thấy kính sợ chứ không khiếp sợ. Mỗi lần thuyền bơi ra giữa dòng thấy đàn cá he xuất hiện là từ ông lái đến những người đi thuyền đều nói lớn “Tốt tốt! Tốt tốt!” Không bao giờ cá he húc vào thuyền, không bao giờ cá he làm lật thuyền.
- Hay nhỉ?
- Bến đò Rừng còn ăn sâu vào tâm tưởng tôi vì một câu chuyện nữa, câu chuyện tình.
- Hay lắm, anh cho nghe tiếp đi.
- Tôi còn nhớ dạo đó vào tháng hai năm 1945, sắp tới ngày Nhật đảo chính tụi Pháp, và Sở Đúc Quảng Yên đã bị phi cơ Đồng Minh rội bom chỉ còn trơ vơ những tường nhà máy đen kịt máu hắc ín. Thầy tôi bán một chiếc nhà ở Phố Hàng Da Hà Nội, trao tiền cho tôi mang về quê gấp để mẹ tôi kịp tậu ruộng vào một dịp may giá hời. Tôi tới Hải Phòng thì chiều tà, rủi thay, chiếc tầu thủy đi Quảng Yên đã nhổ neo. Một cô gái cũng cùng cảnh ngộ với tôi, cô muốn về Quảng Yên sớm chừng nào hay chừng ấy. Khi trời đã tối hẳn và chúng tôi đã ăn no, hai đứa quyết sang bến đò Bính rồi đi dưới trăng lu về bến đò Rừng. Tới đây chúng tôi sẽ vào quán trọ đợi sang sông bằng chuyến đò thứ nhất sớm hôm sau.
- Từ bến đò Bính đến bến đò Rừng khoảng cách bao xa?
- Chỉ chừng mười tám hay hai mươi cây số là cùng. Thoạt dời bến đò Bính, chúng tôi qua núi Đèo, trên núi Đèo có đồn Tây cũ, dân địa phương vẫn gọi là đồn Thủy Nguyên thuộc Kiến An, vùng này con gái có tiếng là đẹp, không phải cái đẹp huê tinh nghệ thuật của con gái Bắc Ninh mà là cái đẹp lồ lộ kêu gọi xác thịt của xứ đồng chua nước mặn!
- Ồ hay lắm! Đi với phái yếu hết được con đường hai chục cây số đó cũng phải hết đêm.
- Vâng gần hết đêm, anh nói đúng. Đường hẹp và vắng, trăng lu, rải rác có những trạm đồn binh Nhật. Suốt dọc đường chúng tôi nói chuyện liên miên, riêng tôi, tôi nói rất lớn, tiếng vang khá xa sang hai bên vệ đường.
- Chắc là để cho bớt sợ?
- Có thể là cho nhiều thứ: cho bớt sợ; cho lính canh Nhật dễ ức đoán rằng đây là những người dân thường ở một làng kế cận nào đó đi về muộn; để chứng tỏ với cô bạn đồng hành rằng lòng mình... thanh thiên bạch nhật.
- Phải rồi, đi với người đẹp trên đường khuya hẹp và vắng, dưới ánh trăng lu mà cả hai cứ lùi lũi đi, dễ sinh ý nghĩ tà khuất lắm.
- Còn để cho quên mỏi chân nữa! Chúng tôi cũng mỏi chân lắm mà không dám nghỉ. Nhưng nói mãi rồi cũng thấy mỏi miệng và hết chuyện, câu chuyện trở thành nhát gừng. Tôi mặc pardessus dạ, khi đi được mười cây số đã thấy nóng người, nhưng bên trong cộm tiền, không dám cởi ra. Khi còn cách bến đò Rừng chừng ba cây số, tôi thoạt nghe như có tiếng cành cây khô gẫy nhẹ. Thực ra nếu phải đi một quãng đường ngắn thì chắc chắn chúng tôi bỏ qua tiếng động nhỏ đó, nó chẳng quan trọng gì hơn tiếng lá rụng. Ba lần chúng tôi đi qua ba lùm cây và mỗi khi vừa qua khỏi một vùng bóng tối là một lần có tiếng cành khô gẫy nhẹ như vậy. Cô bạn đồng hành nói khẽ: “Tôi nghe như có tiếng gì là lạ”. Tôi đáp: “Vâng, có thế!”. Chúng tôi tiếp tục đi, tới lùm cây thứ tư, chúng tôi không bảo nhau mà cùng đi chậm lại, vẫn làm vẻ như nhìn thẳng nhưng cùng kín đáo liếc quan sát lùm cây. Tôi chợt lạnh người, chắc chắn cô bạn đồng hành cũng vậy, máu muốn đông lại trong huyết quản, nếu dừng lại lúc đó tất khụyu gối xuống, nhưng tôi gắng trấn tĩnh tinh thần tiếp tục bước, dùng vai đẩy cô bạn tiếp lên cùng một nhịp: chúng tôi thấy lẩn dưới lùm cây một hình người đứng im như tượng, tay lăm lăm cầm ngang khẩu súng có cắm lưỡi lê dài, đó là tên lính Nhật đứng phục kích. Chúng tôi vừa bước xa lùm cây vài bước là nghe thấy tiếng “cành cây khô gãy nhẹ” quen thuộc, mật hiệu của tên ở lùm cây này báo cho tên ở lùm cây kia biết có người đi tới. Chúng tôi sợ là phải vì với những thành tích giết người không gớm tay của lính Nhật ngày đó, vẫn cùng thứ ám hiệu nhưng điệu hơi xô lệch đi là có thể cho tên lính ở lùm cây kế tiếp bất thần nhảy ra... Biết rằng chúng tôi có kịp kêu lên một tiếng trước khi mũi lưỡi lê đen nhánh xỉa đúng tim và báng súng phang nát mặt? Tôi nói khẽ với cô bạn: “Chúng ta phải tiếp tục nói chuyện”, rồi bất giác chúng tôi cùng khoác tay nhau như vợ chồng và vừa đi vừa cố moi chuyện ra mà nói, giọng tôi cố làm cho lởn, nhưng không lớn bằng lúc dời bến đò Bính, (e có thể chọc giận những tên lính phục kích). Tiếng “cành khô gẫy nhẹ” vẫn tiếp tục bám vào sau gáy mỗi lần qua khỏi một lùm cây. Rồi ánh đèn quán trọ bến đò Rừng le lói phía xa. Chúng tôi rảo cẳng hơn, lòng hồi hộp nhưng đã thấy vững dạ. Chúng tôi bước vào ánh đèn quán trọ mà tay còn khoác bên nhau, khi cả hai cùng sực nhớ, cô bạn đồng hành đỏ mặt ngượng ngùng rút vội cánh tay ra. Chỉ chừng hơn một tiếng sau, chúng tôi sang ngang chuyến đò đầu tiên. Con thuyền dời bến, đi vào vùng khói sóng mung mung mạc mạc. Bỗng mọi người nhao nhao: “Tốt tốt! Tốt tốt!”. Họ vừa thoáng thấy luồng sóng cá he lướt đi cách thuyền không xa. Hai chúng tôi - khi đó ngồi bên nhau - cũng cất tiếng hòa theo mọi người “Tốt tốt! Tốt tốt!” Trong sương khói ban mai như vậy, tôi làm sao nhìn được hình cá he lướt sóng, nhưng tôi ôn lại trong trí mấy lần qua sông vào buổi trưa, trời trong xanh, nước trong xanh, và có lần với điệp khúc “Tốt tốt! Tốt tốt!” tôi thấy con cá he cực lớn bơi rỡn ngửa bụng một lần nữa nhưng tít phía xa. Với khối lượng bằng con bò đó, với tốc độ như mũi tên đó mà nó cố tình húc vào thuyền thì chỉ có thuyền bọc sắt họa chăng mới kham nổi.
- Thuyền chài không đánh cá he này sao?
- Không! Một lần có con cá con không hiểu sao chết nổi lên, người ta vớt vào bờ, mổ thử, thấy da cứng lắm. Là cá con nhưng cũng to bằng con lợn xề.
- Anh cùng cô bạn đồng hành đến Quảng Yên thì chia tay?
- Vâng, gia đình nàng mở cửa hàng bán thực phẩm ở đấy. Trước khi chia tay, nàng cho tôi biết địa chỉ. Hai ngày sau tôi đến gặp nàng, hôm đó có một mình nàng trông hàng. Tôi còn đến thăm nàng một lần nữa thì quyết định thưa với mẹ tôi mua giầu cau...
- Ha ha, anh lấy nàng?
- Vâng, chúng tôi hiện đã có một con.
- Nàng có theo anh đi cùng chuyến này, hay đợi di cư chuyến sau với toàn thể gia đình, còn anh thì vào Nam trước để thu xếp nơi ăn chốn ở?
- Nàng di cư cùng chuyến này với tôi và hiện cùng con nằm ở ria một chiếc lều sát con đường về Hà Nội.
- Hay lắm! Chúng ta cùng đợi có tên trong bảng danh sách yết kỳ tới, rất có thể chúng ta đi cùng một chuyến tàu, biết đâu vào đến trong Nam chúng ta lại chẳng cùng định cư một chỗ. Lát nữa anh nhớ giới thiệu chị và cháu với tôi nhé.
Hai tiếng cười cùng hòa vang và câu chuyện xoay chiều.
- Các đường phố, biển bán nhà treo nhan nhản anh thấy không?
- Ai mua?
Hai thanh niên đã đứng dậy dời khỏi tiệm ăn. Kha còn ngồi làm gì? Chàng mua bánh mì, đồ hộp và một chai vang, tất cả cho gọn vào một túi giấy. Chàng rảo bước dưới ánh nắng chói chang, chàng có thể thuê xích lô về cho chóng, nhưng chàng muốn nhấm hạnh phúc trong chờ đợi, chàng chỉ ôm gói thức ăn bước nhanh thêm một chút, chàng vượt qua người đi bộ khác, mùi thuốc lá vấn khét lẹt một lần phà vào mũi chàng mà chàng không để ý. Hải Phòng bụi bặm trước đây, Hải Phòng sầu ly hương giờ đây với những chuyến tàu di cư nặng nề dời bến, đều đã biến tính dưới đôi mắt chập chờn hạnh phúc của chàng.
Đã một tuần qua, cặp uyên ương đó đã mặn nồng sống bên nhau, đêm qua trời đột nhiên đổ cơn mưa lớn gây thêm thi vị cho ân tình.
Đã tới nhà đây! Kha gỡ vòng xích, đẩy cửa sắt bước vào, cố ý làm cho loảng xoảng rồi đi thật rào rạt trên lối rải cuội, chờ đón từng giây tiếng Vân hỏi, hoặc khuôn mặt Vân xuất hiện hốt hoảng một cách vui mừng sau khung cửa sổ. vắng lặng! Bước lên thềm, chàng giật mình nhận thấy một lá thư gài trước cửa và cửa sổ đóng im ỉm. Kha đã đoán ngay cơ sự. Thực ra điều này chàng vẫn chờ đợi từ trước, chẳng qua tự dối mình để vui hưởng hạnh phúc mà làm quên đó thôi. Chàng bóc thư:
Anh yêu dấu,
Em phải về Hà Nội gấp, sớm nay em giục anh đến nhà thương là vậy. Em không có can đảm nói thẳng với anh bằng lời, còn nói chi đến việc mong anh ra ga tiễn em. Tình yêu của anh gợi em nhớ lại tiếng chuông chùa của làng chúng ta vào một buổi chiều nắng quái, nó du hồn em vào cô tịch và siêu thoát. Cuộc tận thế dù có hiển nhiên, với em cũng bằng thừa, vì đúng như lời anh hằng nói trong mấy ngày chung sống: tình yêu tuyệt vời của chúng ta vượt ra ngoài sự sống chết. Em cám ơn Trời Phật đã sớm run rủi cho em có sáng kiến xuống tìm anh ở Hải Phòng trước khi anh vào Nam. Vì sao em có sáng kiến ấy? Thâm ý của em ra sao? Em sẽ viết thư dài gửi anh theo địa chỉ tòa báo, giờ đây chân tay em rời rã, tâm hồn em rời rã, con đường ra ga như có đại dương, có sa mạc.
Em
Tái bút - Chúc anh với “cô gái nhà thương” trăm năm hạnh phúc. Anh hãy trở về gấp với cô ta và xin lỗi dùm em là em đã lấy cắp một tuần hạnh phúc của cô. Với trực giác đàn bà, lần đầu tiên chỉ thoáng nhìn, em cũng đã hiểu cô gái ấy yêu anh biết chừng nào. So với tình yêu của em thì mỗi thứ một vẻ, nhưng điều em biết chắc chắn là cô gái đó không thể sống không có anh.
Và chính cô gái ấy mới là người đủ đức bao dung đem lại hạnh phúc cho anh và gìn giữ hạnh phúc cho anh, điều mà chưa chắc em đã làm chu đáo nổi. Bởi em có thể cắn răng lạnh lùng sống đủ bổn phận với người mình không yêu, nhưng với anh, nếu em được diễm phúc đã là vợ anh, chắc chắn là em dữ lắm, anh sẽ mất tự do nhiều. Những người như anh mất tự do, dù ờ phương diện nào đi nữa cũng là mất hạnh phúc.
Kha bước xuống thềm... Rồi cánh cửa sắt khép lại quàng thêm vòng xích, khép lại cả một dĩ vãng xa xưa, xóa nhòa một hiện tại thơ mộng của nợ tình đã trả... Chợt nhớ mình còn bỏ quên gói thức ăn trên thềm trước cửa, chàng mở cửa sắt bước vào nữa. Chàng ngồi xuống thảm cỏ trước thềm nhà, nhớ lại câu chuyện bến đò Rừng. Họ di cư, họ mang theo tình yêu vào Nam, đó chính là nguồn an ủi lớn và họ đã chiến thắng trong thất bại.
Chàng cúi đầu. Mặt trời vừa lộ ra khỏi mây, bóng nửa thân chàng đổ dài ra. Chàng tưởng như mình đã quay lại tiệm ăn, ngồi bên hai chàng trẻ tuổi, nghe lại câu chuyện bến đò Rừng với con cá he bơi ngửa, vút như mũi tên, phơi bụng lám tám trắng và tím hoa cà. Chàng tưởng như đương ngồi trên con thuyền sang ngang một sơm mai sương khói và mọi vật đều tự xóa nhòa đường nét, mát hình, chập chờn...
Chàng tưởng như đang ngồi cùng thuyền với cặp tình nhân bến đò Rừng. Sau một đêm đi bộ mệt mỏi, khi xuống thuyền, vẻ mệt mỏi của cặp tình nhân đáng yêu đó càng thêm quyến rũ, tựa như họ mệt mỏi vì mải tìm những ý nghĩa cao siêu cho cuộc sống sau bao ngày đắm hồn vào cái mênh mông bát ngát cua dòng sông cửa biển của bến đò Rừng.
Phần ii
Chương 18
Chiếc bè nữ chúa
Kha trở lại căn phòng bên bờ sông của chàng. Những nhà bên cạnh ăn uống lu bù trước khi xuống tầu di cư vào Nam. Xương gà, xương vịt, xương lợn vứt xuống sông theo nước xuôi dòng, quanh nhà vẫn sạch mát. Khi nước triều rút, thấp thoáng bùn và mùi tanh, mùi tanh kích thích sự sống, kích thích lòng ham sống.
Chàng còn ở Hải Phòng thêm tới mười ngày nữa chứng kiến cảnh buôn bán “chuyến tầu vét”: những người di cư vào Nam tìm được nơi ăn chốn ở rồi bèn buôn từng chuyến tậu gạo, đường, đỗ, lạc... ra Hải Phòng bán cho những người Tàu ở lại. Chính phủ quốc gia nhân đạo sợ đồng bào miền Bắc đói, không cản trở việc tiếp tế lương thực như vậy, còn những người Tàu ở lại, họ ưng buôn hàng vào, vì giữ hàng còn hơn giữ tiền Đông để sau này phải đổi lấy tiền “Cụ” bằng giá chính thức.
Dân chúng nội địa vẫn tiếp tục tìm đủ mọi cách thoát khỏi nanh vuốt kiểm soát của cán bộ cộng sản, tới đất Cảng. Đồng bào di cư bằng đường thủy vẫn túc trực chờ từng chuyến, rồi “tầu há mồm” (L.C.T) cập bến dẩn các đồng bào lên chiếc tầu lớn nào đó của Hạm Đội Thứ Bảy Mỹ đậu ngoài khơi Hạ Long...
Kha vào Nam cũng bằng đường thủy. Chàng đến khu lều Thăng Long của Đoàn Sinh Viên Di Cư Hà Nội - khu lều này được dựng trên nền khám lớn cũ và sau đây là nơi xây cất Đại Học Văn Khoa. Chàng bắt tay vào điều khiển giúp tờ nguyệt san của Đoàn. Chàng cũng tìm ngay đến trụ sở mới của tòa soạn Văn Hóa, gặp Khiết, Khóa, Luận rồi Tân. Chưa kịp gặp Hiển, chưa kịp gặp Miên chàng đã nhận được lá thư đầu tiên của Vân gửi đến tòa soạn Văn Hóa, rồi lá thư khác... lá thư khác nữa...
Hải Phòng ngày...
Anh yêu dấu,
Em đã trở lại Hải Phòng, trở lại villa đường Lạch Tray cùng với nữ chủ nhân sau khi đã đưa me em về đồn điền Thanh Ba cải táng cho ba em. Me em nói với em ngay buổi tối công việc vừa xong: “Bây giờ thì me có thể chết được rồi!” Me em nói đúng, trận ốm thập tử nhất sinh vừa rồi sở dĩ người còn cố vùng vẫy luột khỏi bàn tay Tử Thần vì người cương quyết muốn vậy, người phải trở về đồn điền để cải táng cho ba em xong, rồi có sao hãy hay. Người đã mãn nguyện và giờ đây người sống cũng như chết, bởi với người bất cứ cặp danh từ đối lập nào, sống với chết, hạnh phúc với đau khổ v..v.. đều mất hết ý nghĩa. Đạt tới Nát Bàn trong cõi Phật phải chăng là đạt tới trạng thái tinh thần này? Vùng trời bình yên của me em rộng lớn đến nỗi người khiến em bình yên lây, người giúp em thấy trước bất cứ lúc nào người nằm xuống, ấy là người về cảnh Phật với ba em và tới lúc đó em không phải khóc, em chỉ việc giữ cho cõi lòng được thanh tịnh để chia vui với người. Em đưa người về Định Quyết, rồi em cùng người bạn gái chủ nhân chiếc villa cùng trở lại Hải Phòng. Vừa hai mươi ngày qua kể từ ngày em dời khỏi vòng tay anh... Em kê bàn ngay đầu giường viết cho anh những giòng này. Hình như bức thư để lại lần trước của em tận cùng bằng: “Con đường từ đây ra ga dài như có đại dương, có sa mạc...” Nhưng từ lúc đã lên ngồi gọn trong toa xe em hết buồn, em như một xác chết đã ướp kỹ lưỡng và giữ nguyên được sắc sống. Có phải vì vậy em càng thông cảm được miền bình yên rộng lớn của me em hiện giờ? Mà đúng thế, từ nay em có thể sống như một xác ướp vì em chẳng còn ân hận gì nữa, vì mọi sự xảy ra đúng như ý em sắp đặt: xuống Hải Phòng, gặp anh, hẹn anh, được anh chờ, đi ăn cơm cùng anh trước khi vào đêm... hợp cẩn. Bảy ngày trong vòng tay anh qua đi, ngắn đấy mà cũng dài đằng đẳng ân tình trong hồi hộp lo âu của em. Giờ đây em chỉ còn chờ.... Nếu điều chờ đó mà được thỏa nguyện thì em là một hóa công nhỏ muốn sao được vậy; nhược bằng điều chờ đợi đó không thành sự thực thì cũng chẳng sao. Điều gì đó? - Một điều rất tầm thường nhưng chẳng bao giờ đàn ông là anh ngờ tới vì chính em cũng mãi đến phút bừng sáng kia mới khám phá ra nguyện vọng ấy của mình. Nhưng thôi, hãy để em tuần tự thuật chuyện. Em có nhiều chuyện để nói, em muốn nói hết những chuyện đó, kể cả những chuyện thật bông lông giờ đây với em cũng đầy ý nghĩa, em sẽ viết dần từng ngày, gửi đến anh từng bức thư, mỗi bức thư mang một khuôn mặt vô tận khác nhau. Em không tự hẹn là sẽ ở lại đất Cảng mấy ngày, viết cho anh mấy lá thư, chỉ biết sau bức thư cuối cùng, em sẽ là người rẽ vĩnh viễn vào một khúc quành.
Ngày đó về đến ga Phú Thái, xe hỏa như thường lệ ngừng lại để đợi kiểm soát. Trước khi xe lại chuyển bánh, em đã ngắm khá lâu một căn nhà tranh cách đó không xa, ngay trước cửa có chiếc mộ xây. Không hiểu sao lại có chiếc mộ vô chủ ở đó, đây là tha ma cũ, những mộ đất đã được san bằng, chỉ còn sót lại chiếc mộ xây này được người sống kiêng nể? Ngôi mộ lúc trông như hình con rùa, lúc như hình con voi phục. Hình ảnh người sống người chết sát nách nhau thật ngồ ngộ. Còn gì đau khổ cho bằng sống trong tay nhau mà ngột ngạt, như trường hợp em với người chồng quá cố, mà với anh thì trước đây em luôn luôn thức tỉnh để lẩn tránh, thật vô lý, em chẳng hiểu vì sao, có lẽ vì em hiểu em đam mê anh như thiêu thân đam mê lửa và khi em đã quyết định tự để lọt vào tay anh, lập tức em tan hòa thành mây khói. Em chạy trốn hạnh phúc để có cảm tưởng rằng em mãi mãi còn hạnh phúc. Em biết rằng nếu đã không được sống mấy ngày thần tiên với anh ở đất Cảng trước ngày tiếp thu này, thì chưa chắc em đã để ý nhiều đến sự phối hợp kỳ lạ của chiếc mộ xây cùng căn nhà ở, chưa chắc em đã khám phá thấy vẻ ngộ nghĩnh của hình ảnh người sống cùng kẻ chết sát cánh bên nhau.
Em biết như thế lắm anh ạ. Năm ngày sống bên anh, ngọn thác lũ như êm đềm của Tình Yêu, đã gọt cho em - em tin rằng mãi mãi - những gì là ngờ vực, hờn giận vẫn từng vò nát tâm hồn thế nhân. Kể ra em còn có thể ở với anh ít ngày nữa, nhưng để làm gì, đằng nào cũng một lần chia tay; đau khổ đã dạy em biết khôn ngoan điều độ, em tự động rút lui khi vừa đạt tới tột đỉnh của niềm vui, như người leo núi nhũn nhặn chỉ tự cho phép mình đứng trên ngọn đỉnh trời vừa đủ thời gian cắm lá cờ danh dự rồi bình thản bước xuống. Phải không anh, không sự thành công nào kéo dài - nhất là kéo dài với niềm kiêu hãnh - mà lại không gây thêm những khó khăn mới. Em muốn được ôm trong lá cờ chiến thắng thể hiện. Ồ buồn cười thật, anh có hiểu ý em khi nói “muốn ôm trong lòng lá cờ chiến thắng thể hiện?” Rồi anh sẽ hiểu.
Khi con tàu bắt đầu chuyền bánh đi vào vùng tiếp thu, em còn nhìn ngôi mộ và căn nhà một lần cuối, thu hình ảnh đó vào tâm linh, rồi khi nhắm mắt lại, em nhớ vòng tay anh ôm và lời anh kể thủ thỉ bên tai đêm nào: “Anh đã trèo lên đỉnh ngọn Khau Loòng, ngọn núi cao bậc nhì của Lạng Sơn, mồ hôi vã ra, anh khát nước, anh thỏa thuê giải khát bằng những quả sim chín mọng tím đen to bằng ngón chân cái một và nhìn xuống bên dưới vai mái nhà sàn cùng cả khoảng dài con sông Kỳ Cùng nước đỏ vẽ những hình vòng cung - đôi chỗ suýt thành hình chữ O - trên nền mạ xanh của thung lũng, bờ ruộng là màu chỉ xanh thẫm hơn".
Tiếng đầu máy chuyển động xình xịch đều đều, em vẫn nhắm mắt để chuyển hình ảnh mái nhà tranh trước cổng có ngôi mộ xây lên một đỉnh non cao tựa như đỉnh Khau Loòng của anh, có lẽ cao hơn anh ạ, vì em cảm thấy vắng lặng lắm, nhìn xuống tít bên dưới có con sông nước trong hay đục, nhưng tuyệt nhiên không có một mái nhà, chốn đó xa lìa hẳn trần gian náo động, chốn đó hình như chim cũng không bay tới được, chỉ có mây xà xuống rồi vướng lại thôi. Anh còn nhớ đêm nào ờ đây, anh hôn lên vành tai em rồi nói: “Chiếc bè nữ chúa, hãy chở anh ra ngoài khơi không gian”. Giờ đây hình ảnh đỉnh non cao như đè lên em, và cả trái núi, cả mái tranh vắng lặng cùng chiếc mộ xây cô tịch cùng tiến ra khơi không gian.
Thư sau anh nhé.
Hôn anh,
Em
Hải Phòng ngày...
Anh yêu dấu,
Cuộc đời thì bất trắc mà tình yêu của chúng ta thì chân thành thế là đủ rồi, bởi tình yêu trùm lấy cuộc đời như bóng hoa lá ngoài vườn đêm nào theo ánh trăng tràn vào đu đưa theo gió trùm lên chiếc màn của chúng ta khiến em có cảm tưởng tình yêu của anh đương ủ em dưới bóng rừng lay động huyền ảo. Em yêu anh đến không còn tự chủ được nữa.
Dinh cơ của ba mẹ em ở làng Định Quyết giờ đây hoang tàn quá anh nhỉ. Bao nhiêu cây cối xưa đâu cả, một vài cây còn lại cũng cằn cỗi. Em còn nhớ những cây ổi găng ngày xưa quả lớn, ít hột, cùi trắng như lê, các bạn em ngày nghỉ về chơi giải chiếu nằm dưới gốc chỉ khẽ nghển lên cũng với được trái ăn, chúng nó mê tơi về cây cối hoa quả nhà em. Em còn nhớ cây roi sai quả, nhất là sau trận mưa, lá được rửa xanh mướt quả từng chùm chi chít trắng nõn. Em còn nhớ cây muỗm ở gần giếng, trên cây này ba em làm chuồng chim bồ câu, xung quanh giếng có mấy hàng dứa. Ồ, hai mươi cây na quanh vườn, hoa na vào mùa hè thơm mùi rượu nếp, trái lớn vào mùa thu; tháng bảy, tháng tám, có sáng chủ nhật em soát lấy được mấy khay đầy những na tơ, mỗi quả to bằng cái bát, lúc hái cuống vứa nứt, hái buổi sáng, buổi trưa đã mềm, ăn ngọt sắc, những quả chín bỏ quên, chim đến tranh ăn làm tụt xuống trơ cuống trên cành. Anh còn nhớ hoa đào hoa mận trong vườn nhà em nở vào dịp Tết? Trên các cành đào cành mận thường có những cục nhựa dính như keo, trong như hỗ phách, đào nở hoa về Tết nhưng đến tháng năm mới có quả chín. Sáng hè chủ nhật nghe tiếng ve sầu kêu em dậy thật sớm, rón rén ra vườn rình bắt ve sầu, khi chụp được, khi thì nó bay vù. Trước hiên nhà có mấy cây hồng, hoa to bằng cái tách và rất nhiều thứ cúc bướm, hoa đủ màu tím, vàng, đỏ, trắng hòa lẫn với hoa loa kèn đỏ xẫm cỏ vườn từng khoản xanh um, có châu chấu cào cào. Hoa móng rồng xung quanh hàng hiên tối đến thơm mùi mít. Lẫn vào với cây móng rồng là giàn hoa ớt leo lên tận mai, Tết đến hoa nở từng chùm đỏ ngoài hiên. Sát bờ rào là mấy cây ngọc lan và hoàng lan cao vút, hương thơm thoang thoảng cao quý lạ. Đặc biệt xế buồng em có giàn thiên lý, nhiều đêm em chợt tỉnh nhớ đến anh (bây giờ thì em dám nói thực điều đó) và đón hương thiên lý thơm mát theo gió lùa vào cửa sổ. Anh còn nhớ đên rằm nào khóm quỳnh nhà em nở mười bảy bông nền, ba em pha trà sen, mua bánh đậu Nguyên Hương Hàng Bông về để chờ xem hoa nở dưới ánh đèn măng xông sáng xanh, ôi, những bông quỳnh trắng tinh nở vào đúng lúc nửa đêm, các anh thì bảo trông như hàm rồng, em thì thấy như những cái nôi tinh khiết của thiên thần. Buổi chờ xem hoa nở đó đông đủ các bạn của ba em, các bạn của anh Hãng, anh ngồi dối diện với em. Đêm đó, chứng kiến các bạn học của anh Hãng lăng xăng chiều chuộng em, anh có lo lắng?
Em ôn lại được hệt khung cảnh cũ, anh thấy không? Viết đến đây em thấy mình trẻ lại thời đó, bâng khuâng y như thời đó. Em ôn lại như vậy cũng chỉ đặt anh vào đúng khung cảnh xưa, em viết lại cũng chỉ để riêng anh đọc. Rồi đây em còn nhớ lại những thứ ấy làm gì?
Hôn anh,
Em.
Hải Phòng ngày...
Khi vĩnh biệt anh, em còn giữ được một tờ bản thảo, em muốn giữ bút tích anh, hôm nay mới giở ra, qua những giòng rập rập xóa xóa em đọc:
Tôi cất tiếng cười cùng với chuông nhà thờ rền rỉ; tôi nghĩ đến những người mất tự do vì muốn độc quyền Thượng Đế.
Nàng ca sĩ trẻ tuổi, buổi đầu thất bại. Nàng ngã vào tay người yêu tìm an ủi. Tôi yêu người con gái mảnh khảnh đó, đôi mắt đen bỡ ngỡ làm ngỡ ngàng cả bóng chiều, nàng mặc áo sọc xanh nhạt, ngồi nép mình trên phản nghèo.
Tình yêu nuôi tự do!
Nàng ca sĩ nào đó, anh? Em ghen! Em ghi thêm tư tưởng của em:
Trong chín mươi chín lần khổ tất nhiên cũng có lần sung sướng, lần sung sướng đó thường làm quên hết chín mươi chín lần lận đận kia. Chân hạnh phúc dưới bất cứ hình thức nào đều cho ta cảm giác vượt khỏi cái sống chết.
Hôn anh,
Em.
Hải Phòng ngày...
Anh yêu dấu,
Anh còn nhớ đêm nào anh và em cùng sực dậy lắng nghe tiếng muỗi và anh nói: “Tiếng muỗi trong đêm khuya nghe xa vẳng lạ, như tiếng than van của tạo vật thuở còn cô độc chưa có bóng người, chưa có nghệ thuật”.
Đêm nay em cũng thức giấc như vậy, một mình lắng nghe rất lâu tiếng muỗi, bụng em thót lại... em rùng mình ớn lạnh. Đúng thế anh ạ, tiếng muỗi trong đêm khuya nghe xa vắng lạ, như tiếng kêu chới với từ một tiền kiếp nào vẳng lại. Đã có một đêm anh nói với em giữa hai cái hôn dài: “Tình chúng ta chỉ có im lặng mới nói hết được”. Chao ôi, nhưng nếu giữa cái im lặng phì nhiêu đó của đêm khuya lại có tiếng muỗi? Trong khi mắt em mở trân trân trong bóng tối, tiếng muỗi - tiếng tiền kiếp - du em vào miền hư không, tim em đập trong hư không, đôi tay em nắm vào hư không, sự vỡ lở của hạnh phúc thế nhân tan rời êm lặng trong hư không. Em nhớ lại những đêm hè tháng năm tháng sáu thuở còn con gái, về quê không ngủ được: không một sợi gió, thấp thoáng ánh trăng qua khe cửa và trong màn em cũng lắng nghe tiếng muỗi cô độc não nùng chập chờn bên ngoài...
Em đã vùng dậy bật đèn ngồi vào bàn viết những dòng chữ của bức thư cuối cùng này, vâng bức thư cuối cùng anh ạ, bức thư thứ tư thì phải, mai em về Hà Nội sớm, em không thể ở lại đây lâu hơn được nữa. Bây giờ thì em có thể kể thẳng vì sao em đã vội vã xuống đất Cảng tìm anh.
Hiệp định Genève ký, đoàn thể giữ khéo con em lại và cử em về Hà Nội để thuyết phục những người thân. Em đến tòa báo Văn Hóa hỏi thăm tin tức về anh, đúng lúc anh Khiết vừa tiễn một người bạn tới cửa, câu cuối cùng người bạn đó nói với anh Khiết:
- “... Tớ ở lại chúng nó không giết tớ đâu, các cậu cứ vào Nam, ai làm được cái gì thì làm, nhưng tớ ở lại, giờ phút này mới là bắt đầu kháng chiến!”
Trở vào tòa báo anh Khiết cho em hay anh đã xuống Hải Phòng để chờ ngày cùng người bạn gái làm ở nhà thương cùng vào Nam bằng đường thủy. Có lẽ anh Khiết cho rằng dĩ nhiên em cũng sẽ đưa me em di cư vào Nam nên ghi cho em địa chỉ của anh, của cô Miên ở Hải Phòng và cả địa chỉ tòa báo Văn Hóa tại Sài Gòn mà anh Khóa vào trước đã thu xếp cho.
Cả ngày hôm đó me em kêu rức đầu, buổi chiều người sây sẩm mặt mũi ngã ngất. Em về đúng lúc để săn sóc người, hình như người đã cố gắng gượng chỉ để đợi em về. Anh Khiết lại thăm, em thú thực với anh là hoàn cảnh buộc em ở lại, me em cũng không vào Nam mặc dầu thư gởi sang Pháp em phải nói ngược lại cho anh Hãng yên lòng. Lần đó anh Khiết nói chuyện với em lâu bằng một giọng tâm sự. Để em thuật lại gần đúng như lời anh Khiết đã nói với em hôm đó.
“Theo ý tôi - lời anh Khiết - ngoài những trường hợp đặc biệt hoặc bất khả kháng như trường hợp của bác và của cô đây, ở lại còn bốn hạng người chính. Thoạt phải kể đám đa số quần chúng chưa biết gì về Cộng sản, họ mừng nhất. Tội nghiệp!
Ba hạng sau này, có ý thức mà ở lại, tôi đều có bạn điển hình:
Người bạn thứ nhất, anh Lâm theo Đảng, tin Đảng thuần bằng tình cảm, có công cướp chính quyền ở Hải Phòng năm 1945, được Đảng đặt vào làm nhân trong Dân Chủ Đảng, từng là ủy viên trong ủy Ban Hành Chính Hải Phòng. Kháng chiến, được ủy vào làm trong cơ quan văn hóa của công an Liên Khu III. Chứng kiến một người bạn thân trong Dân Chủ Đảng bị thủ tiêu giữa sông, kế tiếp đó còn được chứng kiến bao hành vi bạo tàn khác, vỡ mộng, chán chường, vì quá tin tưởng mà thành chán chường, cái chỗ mình tin là sán lạn nhất lại hóa ra tăm tối nhất. Con người tình cảm đó đã chót cho hết, cho hết tuổi hoa niên đẹp nhất, cho hết niềm tin tưởng nồng nhiệt nhất, cho đến khi nào thành chỉ còn là con người trống rỗng, ghê tởm chính giới, thây kệ những danh từ Tự Do Độc Lập giả trá, mình tự cho mình chút ít sinh thú nhỏ mọn: làm một chân thư ký quèn, ăn một miếng cơm, yêu một người bạn, ở độc thân, nuôi thằng cháu nhỏ mồ côi cho đi học, đầu tháng mà dư tiền thì mua chai vang nhắm với thịt lợn sữa quay, cuối tháng hụt tiền thì mua một cút rượu ngang với mấy đồng bạc tai heo. Không xét mình mà cũng chẳng xét người. Giờ đây Cộng sản sắp về thì về, biết rằng bão sắp đến thì ngồi chờ bão. Muốn tránh bão tất phải chạy - thiết gì chạy! Kẻ ra đi là để tiếp tục tìm kiếm, mà đổi mới, xây dựng, mình thì còn gì nữa đâu mà tìm kiếm, mà đổi mới, mà xây dựng? Và Lâm nói với tôi: “Nếu không sống được thì anh cứ tin rằng tôi tự tử, cái quyền đó chúng không lấy được của tôi!”.
Người bạn thứ hai: anh Mỹ, một nhà văn hóa, trước có giao thiệp nhiều với phe Đệ Tứ. Kháng chiến, có vào đoàn thể cứu quốc, nhưng để chống đối nhau với Cộng sản, đến khi không chịu được thì về thành. Nay đã trên bốn mươi tuổi, mới lấy vợ, vợ đương có mang, lại mới tậu được căn nhà nhỏ làm chút tư hữu. Tuổi bốn mươi trở ra bắt đầu có khuynh hướng an phận thủ thường níu giữ chút gì mình có, biết rằng ở lại thì... ngột ngạt hương hoa, nhưng ra đi bỏ lại thì không đành, rồi tìm cớ để tự an ủi: “Sài Gòn đất tốt thật nhưng cây cao mà rễ nông, nền văn minh căn bản của dân tộc rồi trước sau cũng phải về bắt rễ ở đất Thăng Long này”. Và Mỹ ở lại.
Người thứ ba là Hữu vừa ra khỏi đây, cô gặp đấy. Tôi quý Hữu vô cùng, Hữu tin là dân tộc mình không những có khả năng mà còn có thiền mệnh mang lại cho nhân loại một nền văn minh mới quân bình Tình với Lý, hòa hợp Người với Thiên Nhiên... Anh vẫn nói dân tộc mình đau khổ mấy ngàn năm rồi mà vẫn trường tồn tất phải có thiên mệnh nào chứ! Anh bị Cộng sản bắt giữ ngay từ đầu kháng chiến, di chuyển hết trại giam này sang trại giam khác, cứ trơ trơ như vậy. Nhốt chán họ thả anh ra, thì thấy trong tù hay ngoài tù anh cũng cứ “tỉnh bơ” như vậy, sau cùng họ không buồn kiểm soát nữa, liệt anh vào hạng cuồng chữ, học giỏi biết nhiều, mở miệng bàn toàn những Hà Đồ, Lạc Thư, Thiên Cơ, Bát Quái... Khi vào Thành gặp bạn nào anh cũng nói bằng tiếng Pháp: "Tao đã lăn lóc hết các nhà tù của chúng nó mà tao không chết!” Bây giờ thì Hữu cương quyết ở lại, tuyên bố thẳng với các bạn bè thân tình: "Tớ đã có nhiều kinh nghiệm với chúng nó, ngày nào chúng nó mang cái mất độc lập về, ai cũng đi cả thì ai ở lại kháng chiến? Tớ ở lại, chúng không giết đâu. Các cậu cứ vào Nam, ai làm được cái gì thì làm, nhưng tớ ở lại, giờ phút này mới là bắt đầu kháng chiến”.
Tôi lại còn một số bạn nữa là Cộng sản chính cộng - (lời anh Khiết đến phần kết thúc) - họ hay tin tôi cương quyết vào Nam bèn viết thư nói kháy: “Thông minh như mày mà cũng đi theo đế quốc xin cơm thừa canh cặn của chúng sao?!”
Nói chuyện với em đến đây anh Khiết cười lớn rồi ra về. Bệnh tình của me em thuyên chuyển dần. Em sưu tầm đọc thơ văn anh. Không còn được gặp anh nữa thì tìm lại hình ảnh anh trong tác phẩm vậy. Trước khi đưa tiển gia đình và Nam, anh Khiết còn tới chào me em lần cuối. Rồi Hà Nội tiếp thu, em gặp cô bạn cũ mới tậu rẻ được một chiếc villa ờ đường Lạch Tray Hải Phòng. Cô bạn lên Hà Nội chờ gặp cha, anh và chồng sắp vào tiếp thu... Anh biết đấy, em đã mượn chìa khóa villa của chị bạn xuống tìm anh ở đất Cảng.
“Tớ ở lại chúng không giết đâu, các cậu cứ vào Nam, ai làm được gì thì làm, nhưng tớ ở lại, giờ phút này mới là bắt đầu kháng chiến!”
Chính câu nói đó của anh Hữu đã ngấm ngầm tác động mạnh vào trí tường tượng của em là em nẩy ý kiến xuống Cảng tìm anh. Me em ở ngoài này, con em ở ngoài này, em phải ở lại chứ, vả em cũng quen với đời sống đó rồi. Nhưng em phải xuống Hải Phòng tìm anh, nhất là vào dịp đó, dịp em có thể... thụ thai. Em muốn giữ lại miền Bắc một kỷ vật của anh, em muốn nuôi nấng đứa con đó - nếu có - theo tinh thần phóng khoáng của anh ở ngay miền tỉnh cảm cằn cỗi này. Âu cũng là một cách kháng chiến đúng với tinh thần của anh Hữu, nhưng theo kiểu của em. Em nhớ anh Khiết hôm đầu có nói với em là anh xuống Hải Phòng để chờ ngày cùng cô bạn gái làm ở nhà thương cùng vào Nam bằng đường thủy. Em chỉ còn biết cầu trời anh chưa vào Nam, cầu trời cho em được gặp anh một lần cuối, cầu trời tránh cho em niềm tủi nhục vồ trượt hạnh phúc trong lần gặp mặt quyết định này, em lẩn trốn anh đã nhiều rồi, anh yêu dấu.
Trời đã cho em toại nguyện!
Giờ đây em còn cảm thấy những ngón tay anh như những con rắn nhỏ đam mê miết sát lấy da đầu em, bám chắc lấy chân tóc.
Em chẳng cần giữ ảnh của anh làm gì, bởi cái đẹp của người đàn ông là ờ nếp sống phóng khoáng hay phong trần, mà nếp sống thì người ta không thể chụp được. Anh ơi, có bao giờ người đàn ông quên người đàn bà đã sinh con cho mình? Hai mươi ngày qua rồi! Em cần xuống Hải Phòng nhìn lại lần cuối khung cảnh ân ái của chúng ta và để kịp viết cho anh ít trang thư như anh đã nhận, rồi em trở về Hà Nội trước khi triệu chứng - nếu có - bắt đầu. Em không muốn để anh phải bận tâm thắc mắc về việc này. Trong vòng tay anh, từng tế bào em rung động, nếu cứ tưởng tượng mỗi tế bào là một vì tinh tú thì thân thể em là một vũ trụ bao la - bao la mà có biên giới - hàng triệu triệu tinh tú run rẩy bối rối trong từng quỹ đạo riêng, nhưng nhìn tổng quát thì sự run rẩy đó - kể cả khi cuồng loạn nhất - vẫn theo một trật tự nhịp nhàng nào đó, bởi sự nở dãn của vật chất không sao đuổi kịp sự nở rãn của tinh thần, mà tinh thần thì nhẹ hơn thinh không, và sức sáng láng của tinh thần dù có chói lòa cùng không vì thế mà làm lật nhào khối lượng. Em đã nói hết, anh yêu dấu của em ờ bên kia vĩ tuyến! Với anh giờ đây em cũng là “người đàn bà bên kia vĩ tuyến". NGƯỜI ĐẢN BA BẾN KIA VĨ TUYẾN của anh đã chấm dứt hàng chữ cuối cùng của lá thư cuối cùng này ở đây.
Hôn anh một cái hôn làm nổ vỡ tinh cầu nhưng tình chúng ta thì chói rạng mãi mãi.
Vĩnh biệt anh,
Em.
Doãn Quốc Sỹ
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Nhà văn và giải thưởng trong lòng bạn đọc Phần đông các nhà văn viết khỏe lúc còn trẻ hoặc giai đoạn trung niên, nhà văn Nguyễn Khoa Đăn...