Thứ Hai, 2 tháng 9, 2024

Người đàn bà bên kia vĩ tuyến 2

 Người đàn bà bên kia vĩ tuyến 2

XI

Gặp nhiều việc bận vì phải tìm cách xoay-sở giấy tờ vào luật sư tập sự cho yên chuyện mà cũng không xong, cách đến một tháng sau Khiết mới tới thăm bà Đô thì gia đình bà vừa nhận được tin buồn, riêng Khoá tâm hồn bị chấn động hẳn, Khoá đã tạm ngừng đi buôn để làm... chính trị, nếu tham gia hội đồng thành phố là làm chính trị.
Anh còn nhớ - Khoá hỏi Khiết - tên chánh đoan người Pháp tôi kể với anh lần trước?
Còn chứ - Khiết đáp.
Khi tôi tự ngoài kia vào đây gặp mẹ tôi, rồi lại trở ra đón vợ con về, tôi có và y có gặp lại nhau. Y đã lên chức thanh tra, y còn giới thiệu tôi với một luật sư người Pháp khác, cũng rất nhã nhặn lịch thiệp. Giá như tôi không gặp một vố bị sự thật ném vào mặt thì cũng đã kết thân với người bạn thứ hai này. Trong những cuộc đàm đạo thân mật nhất tôi vẫn tỉnh táo giữ đủ xa cách. “Tiếc thay anh không phải là người có đạo!” - một hôm người bạn mới nói với tôi như vậy. “Người Việt chúng tôi hầu như có khả năng dung hoà tất cả những đạo giáo lớn trong thiên hạ” - tôi trả lời. “Nhưng anh có đủ đức tính của một người ngoan đạo” - y nhấn mạnh bằng một giọng hoà nhã. Tôi thông cảm ngay vì biết Âu Châu có truyền thống về công giáo nên những người thẳng thắn, giàu tình thương, nghiêm chỉnh thường được khen là có đủ đức tính của người ngoan đạo.
Bác Hải tôi có hai con, chị gái lớn đã lấy chồng, người anh giai - anh Sơn - hơn tôi một tuổi, cùng học một lớp với tôi ở Collège Pavie. Sơn với tôi tính tình khác hẳn nhau. Sơn thích giàu sang, thích danh vọng. Người anh cao dong-dỏng, da trắng, tóc đen, mắt sáng. Cách đây không lâu, một hôm anh Sơn hỏi tôi: “Mày cũng quen luật sư Henri à?” Tôi gật đầu. “Lâu chưa?” Tôi đáp chưa được chừng một năm. Rồi thôi. Trước đây một tháng Henri đến thăm tôi tại nhà đây - có vài lần Henri đến thăm như vậy. Chúng tôi lại cùng nhau đàm đạo về tôn giáo. Tôi kết luận với Henri: “Người Việt chúng tôi sợ nhất sự cuồng tín. Tôi nghĩ đạo là đường đi, các dân tộc khác nhau như những người ở những phía khác nhau của một trái núi nên đều có những đường đi riêng lên đỉnh. Tôi nghe nói nguời theo đạo Hồi cho rằng tất cả mọi người đều là tín đồ Hồi giáo, có thay đổi là chỉ tại về sau mà thôi. Nếu quả nghĩ vậy thì người Hồi giáo đã lầm. Tâm hồn đẹp nhất là tâm hồn bao dung!” Henri đồng ý với tôi lắm. Sau cùng Henri ngỏ ý khuyên tôi hãy tạm ngừng buôn, vào làm hội viên hội đồng thành phố. “Tôi buôn vì khoái bận rộn, khoái tổ chức, khoái đi đây đi đó, sự thành công về tiền nong không quan trọng, chứ còn làm hội viên hội đồng thành phố thì chẳng có cái gì tôi khoái cả”, tôi nói với Henri thế, y lắc đầu đáp: “Thế mà anh sẽ khoái vì người ta sẽ đặt anh vào một công tác hợp với tính tình cương trực của anh, tôi đã gặp ông thị trưởng người Việt rồi mà, chính tôi đề nghị anh vào công việc đó, anh sẽ giữ chức ủy viên cố vấn đồng bào hồi cư của anh.” Tôi nhận lời. Từ đấy tôi gặp Henri luôn, y ở phía đại diện cho những người Pháp ở đây. Trong câu chuyện khi y nói gần nói xa, khi nói thẳng với tôi, khi lại như nói với không khí... Y nói đến tình hình cả Đông-Nam-Á tương lai có thể bị Cộng Sản uy hiếp vì Trung Cộng đã hoàn toàn làm chủ lục địa. Chiến tranh Cao-Ly đã tạm ngừng, nước Cao-Ly đã bị cắt làm đôi nhưng Cộng Sản đâu có chịu ngừng? Y nói đến giải pháp nên tổ chức trước một chính phủ Việt lưu vong bên ngoài để phòng hờ bát trắc. Y nói đến một số tiền lớn lắm y có thể trao cho người đứng ra tổ chức chính phủ lưu vong. Y nói có cách liên lạc với nhau bằng đường lối tuyệt bí mật không ai kiểm soát được. Bỗng một lần y quay lại nhìn tôi đặt câu hỏi hững hờ: “Người đó tại sao không là anh? Anh nói tiếng Pháp lưu loát như tiếng mẹ đẻ, anh có khả năng tổ chức...” Tôi cũng cười đáp ngay lại, vì cũng một lúc tôi nhớ đến vết thương cũ với tên chánh đoan, nhớ đến những động tác câm nín của cạnh rượt đuổi đâm xỉa, cảnh non nước đổi màu nhìn từ trên ngọn Bồ Vô, nhớ đến hồ Khễ-Lùng-Thán, đến Lão-Chén... tôi đáp ngay rằng “Nếu tôi là người đó thì chắc anh sẽ khinh tôi lắm. Bởi vì công việc đó do các anh là người ngoại quốc đứng ra giật dây, tiền các anh bỏ ra, và liên lạc hết sức bí mật tức là kém quang minh chính đại”. Henri cười nụ cười bao giờ cũng rất điềm đạm rất hoà-nhã rồi cùng tôi tạm biệt.
Ngoài công việc cứu trợ, tôi tích cực tham gia ý kiến trong các phiên họp đại hội đồng. Thực ra nào mình đã được quyết định cái gì lớn đâu. Tôi bác bỏ dự án của phe đại diện cho những người Pháp muốn nắm độc quyền trông coi về vệ sinh thành phố mà đòi phải cho bỏ thầu. Một đại diện Pháp hỏi: “ông hãy trả lời là các ông giúp chúng tôi diệt độc tài xây dựng tự do hay các ông đến đây chỉ để bảo vệ quyền lợi lỗi thời của thực dân?”, về việc đổi tên đường Paul Bert thay vào tên một danh nhân Việt khác, phe đại diện Pháp cũng phản đối, tôi trả lời: “Ông Paul Bert có hai khuôn mặt; khuôn mặt nhà bác học Paul Bert thì Pháp quốc được hưởng và chúng tôi rất kính trọng, khuôn mặt ông Toàn-Quyền-Đông-Dương là đại diện cho chủ nghĩa thực dân lỗi thời. Dân chúng Việt-Nam chỉ biết có ông Toàn-Quyền Paul Bert, vì vậy vì thanh danh của nứớc Pháp hiện thời và của người Pháp ở đây, chúng tôi thấy thay tên ông đi là hợp lý” Ngoài giờ họp, một đại diện Pháp có nói với tôi nửa như thán phục nửa như mỉa-mai: “Tại sao lý ông nêu lên luôn luôn thắng chúng tôi?” Tôi đáp: “Vì chúng tôi là những người vừa thoát khỏi bị trị - (tôi nói vậy cho nhã) - và Thượng Đế thường về phe kẻ yếu, lý của chúng tôi có Thượng Đế ủng hộ!” Cả đôi bên cùng cười xoà. Tuyệt nhiên trong những vụ tranh luận, người bạn luật sư của tôi không hề lên tiếng. Y giữ trọn vẹn tình bạn với tôi.
Một tuần trước đây anh Sơn đến chào chúng tôi nói là trở lại đất Lào buôn bán rồi luật sư về Pháp. Hôm nay chúng tôi vừa được tin anh bị ám sát ở khoảng biên giới Miên và Thái-Lan.
Tới lúc đó bà Đô mới chấm nước mắt nói:
Thế là anh tôi tuyệt tự!
Nét mặt Khoá băn-khoăn và đau-đớn nhưng về vấn đề khác, chàng hỏi Khiết.
Có thể thế không anh? Có thể thế không anh?
Khiết hỏi:
Ai cho anh biết tin Sơn chết?
Chị tôi. Tức chị ruột anh Sơn. Trước khi đi Sơn có lại chào chị, Sơn đi cùng một người bạn nữa mà chị biết. Thư báo tin Sơn chết là thư của người bạn đó. Có thể thế không anh? Có thể Sơn ra đi là trong âm mưu lập chính phủ lưu vong. Và việc bại lộ, Sơn bị đối phương giết?
Khiết đã lăn-lóc trong trường chính trị. Những thủ đoạn đặt màng lưới gián điệp quốc tế, sửa-soạn con bài, thủ tiêu đối phương... thì ở cái thời đại bá đạo này đâu có là chuyện lạ. Nhưng Khiết biết nói gì với Khoá bây giờ? Khiết chào bà Đô, bắt tay Khoá ra về ngay. Chính Khiết cũng bâng-khuâng và buồn. Khi ngang qua quầy hàng, Cam khẽ cúi chào. Khuôn mặt Cam trong sạch như thiên thần làm Khiết thấy đỡ buồn nản cho những nhơ-bẩn lọc-lừa tàn-bạo trong chính giới. Khiết dừng lại. Cam nói khẽ:
Mai thong-thả mời anh lại chơi.
Khiết gật đầu dịu-dàng đáp:
Vâng mai tôi sẽ lại.
Rồi Khiết ra cửa, xuống hè. Trước khi sang đường Khiết quay lại lần nữa. Cam vẫn nhìn theo, và khi chàng quay lại như vậy, đôi mắt Cam vẫn mở to, không hề chớp chớp hoặc quay đi ngượng-nghịu. Cô bé mới lạ chứ!
Hôm sau Khiết đến hiệu giày của bà Đô thật, gặp một thanh niên chỉ kém mình chừng hai ba tuổi, mặt mũi tuấn tú, đang thảo luận gì với Khoá, rất sôi-nổi. Cuộc thảo luận tạm ngừng vì có mặt Khiết, bà Đô giới thiệu ngay:
Anh Khiết ạ, đây là em Hữu, Lê-Văn-Hữu, cháu gọi tôi bằng cô. Ngày gặp anh ở Nam-Kinh, khi nghe anh xưng họ tên Lê-Tịnh-Khiết tôi nẩy ý nhận họ ngay vì nhớ đến cháu Hữu đây. Hữu bị Việt-Minh bắt ngay từ ngày đầu kháng chiến, chuyển hết trại giam này sang trại giam khác, hơn ba năm trời mới được tha, cũng mới được quân đội Pháp trong một chiến-dịch càn quét quơ được vào đây, thật phúc đức.
Trong câu chuyện kế tiếp, Khoá biết thêm Hữu đã từng theo hoạt động bên một lãnh tụ quốc gia trẻ tuổi nhưng vô cùng lỗi lạc. Trước đây hồi Khiết hoạt động cách mạng ở Nam-Kinh chàng có lần được đọc ít tài liệu và thi ca của vị lãnh tụ này đồng thời với tin đồn là vị lãnh tụ đó đã bị Việt-Minh giết. Nay Khiết hỏi lại Hữu về tin đó, Hữu cả quyết rằng những người như ông L. - tên nhà lãnh tụ - đâu có thể sa vào tay Vẹm chết uổng. La Hữu cũng đoán vậy thôi, nhưng lời chàng đượm một niềm tin sắt đá và sáng-suốt tựa như khi đọc Tam-Quổc-Chí ta luôn luôn đứng ở phe Gia-Cát, tin rằng nhất cử nhất động của Gia-Cát đều là mưu trí thông suốt.
Khiết ra ngồi gần quầy hàng để nói chuyện với bà Đô, sự thực còn theo tiếng gọi trong sạch và kỳ lạ của trái tim vì có Cam ngồi đấy. Lúc đó Khiết chỉ nghĩ thầm: “Ta cần quan sát cô gái bên sông Tần-Hoài này xem sắc-sảo được tới đâu rồi”.
À anh Khiết hiện giờ ở đâu - bà Đô hỏi.
Thưa bác cháu hiện ở với người nhà ở Hàng Bông Thợ Ruộm. Đẻ cho chính quyền theo rõi khỏi nghi ngờ, cháu đương muốn làm đủ giấy tờ xin vào tập sự luật sư, nhưng vừa mới ở chốn lưu đày chân ướt chân ráo về đến đây, chính quyền chưa dám cấp (Khiết cười) có lẽ cháu lại phải trốn đi Nam-Kinh mất.
Thôi, anh lại đây ở với gia đình nhà tôi.
Phải đấy - Lời Cam thốt sát liền với lời mẹ, nếu không phải hai giọng đục trong khác nhau, Khiết có thể nhầm tưởng là lời của một người.
Cám ơn bác - Khiết đáp nhưng nhìn Cam - thày đẻ cháu thất lộc đi có để cho cháu vài căn nhà cho thuê làm hoa lợi đủ chi dùng hằng năm, chếch với cửa hàng của bác đây, căn nhà sát với hội Khai-Trí Tiến-Đức, cũng là nhà của cháu, có lẽ sang năm họ trả, khi đó cháu nhất định giữ lại ở để được gần bác!
Ồ thích nhỉ! - Cam nói ót trước, đôi mắt vẫn thản nhiên mở rộng, chẳng tỏ vẻ gì là ngượng-ngập, mà bà Đô xem ra cũng không quan tâm đến sự vồ- vập quá trớn đó của con gái. Đặc biệt với Khiết thì thế chăng?
Do đó Khiết cảm thấy nhẹ-nhàng đỡ phải giữ ý, chàng đứng dậy nói:
Xin phép bác cháu đi lên đền Quan-Thánh xem nơi này có bị chiến tranh làm sứt mẻ gì không. Cô Cam có muốn đi không nào, xem mãi cổ tích Nam- Kinh bây giờ về phải xem cổ-tích Việt-Nam chứ.
Rất tự nhiên và rất tin cản bà Đô bảo Cam:
Ừ con đi với anh đi, anh sẽ chỉ dẫn cho mà xem.
Con vào thay áo đã nhé, mẹ!
Khiết bắt tay tạm biệt Khoá và Hữu (từ lúc có mặt Khiết, hai người này vẫn tiếp tục thảo luận say mê nhưng trầm tiếng) rồi ra đi cùng Cam, như người anh trưởng dẫn cô em út - mà đúng là thế! Khiết tự khám phá: đích thực từ sau lần bị đi đầy và có thể chết hụt ở Sở Tiêu, Côn Đảo, chàng sợ cô đơn. Tuy nhiên khi cùng Cam bước vào đền Quan-Thánh, rồi ra đứng bên tường hoa ngắm hồ Trúc-Bạch, rồi sang đường Cổ-Ngư ngắm hồ Tây mênh-mông, Khiết và cả Cam nữa, đều thấy thanh- thản, y hệt ngày nàọ cùng đi thăm những cổ tích ở Nam-Kinh. Khiết hỏi, Cam trả lời, lời nói vang vang đày-đặn vừa như sưởi ấm chính tuổi thơ của nàng vừa giúp Khiết thấy lại tuổi thơ của chàng và tuổi thơ của cả hai bỗng trở thành một vẻ đẹp hằng cửu đượm chút rộn-ràng vì qua lăng kính hiện tại. Khi đưa Cam từ đền Quan-Thánh về, Khiết hiểu rằng Cam quả thật đã là cô gái chứ chẳng còn là cô bé nữa. Mặc dầu những lời Cam nói thường không dự liệu gì hết, nhưng chính vì thế mà cách nói, câu nói của nàng có cái duyên hấp dẫn lạ, nhiều lúc Khiết rờn-rợn thấy Cam bỗng trở thành một thiên tài của quyến rũ. Mãi suy nghĩ, Khiết đưa Cam về đến cửa rồi cũng quay ngay về, chẳng để ý đến lời chào của Cam. Buổi tối, sau bữa cơm, Khiết leo lên sân thượng nằm lười-lĩnh trên ghế xích-đu, ngẩng nhìn trăng sáng sao thưa. Chàng chợp ngủ trong hình ảnh và âm thanh của con sông Tần-Hoài. Trong mơ con sông trở thành mênh-mông vì im lặng, dòng sông xuôi miết, đây đó gợn anh ngân quang, thảng thốt có tiếng ì-ọp của sóng nứớc vỗ vào chân cừ bên dưới trà thát...
XII
Hữu khoát tay nói:
Cái dở của những chủ nghĩa khác là mạ vàng những khuôn đúc vũ-trụ quan để gò ép nhân-sinh quan vào. Làm sao có thể đem những định luật của vật giới áp dụng cho nhân giới? Phải biết chia ra từng tầng, phân biệt khuôn mặt khách quan với khuôn mặt bị chủ quan hóa của muôn vật. Vũ trụ từ vô nguyên qua nhất nguyên, sang đa nguyên, tưởng chúng ta có thể lấy một hình ảnh thô-thiển như vầy: trước đây khi khối lửa trái đầt vừa tắt, trải qua một thời kỳ mưa mấy triệu năm liền, loài người chưa xuất hiện, mưa là mưa, khách quan tuyệt đối, chẳng có ai mong ai ghét nên tốt xấu chưa phân: vô nguyên! Khi loài người xuất hiện thấy mưa, nghĩ đến mưa, dùng nước mưa, thì ấy là mưa cho người, thiên nhiên đã từ vô nguyên sang nhất nguyên. Nhưng anh nghĩ xem làm gì có thứ người trừu tượng, đã nói người là phải người của một dân tộc nào. Dân tộc khác nhau, Đông Tây khác nhau, thì quan niệm về một sự việc cũng có thể xê dịch khác nhau chẳng nhiều thì ít, từ nhất nguyên biến sang đa nguyên là thế. Đó là một vài lời rất thô-thiển của tôi nói ra mong anh nương vào đấy mà thông cảm để nhập điệu vào hình thái sống động của chân lý. Chân lý vốn uyển-chuyển, nhịp- nhàng, linh động, mà nô lệ cho lời thì chẳng khác chi muốn lấy que củi vẽ cánh bướm ; chân lý rộng lớn huy-hoàng mà nô lệ vào lời, chẳng khác chi muốn đem mây hồng sớm mai nhốt vào hộp sắt, muốn lấy thìa nhỏ vục-cạn biển. Ấy nói rằng từ vô nguyên chuyển sang nhát nguyên, từ nhất nguyên chuyển sang đa ngụyên để thích hợp với từng hoàng cảnh dân tộc, nhưng có dân tộc nào là sống đơn độc ngoài cộng đồng của xã hội loài người? Và có con người nào sống tách khỏi hoàn cảnh thiên nhiên? Cho nên trong hệ thống dọc, thuộc ngoại giới, ba yếu tố: dân tộc, xã hội loài người, thiên nhiên phân ranh nhau đường này, lại hòa hợp nhau nửa khác. Nếu có hệ thống dọc thì cũng có hê thống ngang, nếu nói đến ngoại giới thì cũng phải kể đến nội tâm. Khởi điểm ở hệ thống ngang này lấy người làm gốc, đi tự người rồi trở về cho người, người vừa là khởi điểm vừa là cứu cánh của mọi xây dựng. Anh có thấy xã hội chúng ta ngày nay còn nặng thú tính? Một nhà tư tưởng gọi thời này là “hạ ngươn”, đúng lắm. Giang Hà nhật hạ nhân giai trọc! Phải kiến lập, anh ạ, một xã hội loài người trên một kiến trúc nhân tính, ngõ hầu giúp con người làm chủ láy mình. Muốn trọn vẹn nhân tính củạ một con người cân đối hãy thực hiện cho được ba mục tiêu: về nhu yếu tính phải bình sản. Anh nhớ cho là “bình sản” chứ không phải “cộng sản”, đừng để người thì phè-phỡn thừa mứa, người thì lần không ra. Chính là chúng ta phải tận kỳ sở năng, toại kỳ sở nhu, chính kỳ sờ mệnh. Anh có thiên tài như Mozart mà chẳng đủ điều kiện để thiên tài phát triển thì anh cũng mai-một trong tăm-tối như bất cứ hoa hèn cỏ nội nào làm sao chính kỳ sở mệnh được?
Về sắc tính, trai gái phải được giáo dục về trinh tính trong hôn nhân, về xã hội tính con người phải biết hoà đồng với đồng loại trên thực thể dân tộc nói riêng, trên bình diện nhân loại nói chung.
Có sung thực nhân tính bằng Bình, Trinh, Hoà như vậy mới giúp con người làm chủ được mình. Mẩu mực của nền văn minh mà nước Việt mình cổng hiến cho nhân loại sau này chính là một nền văn minh nhân chủ. Ngước nhìn Tuyệt-Đối là thứ ngôn tận tưởng tuyệt, thoát sự vưựt-lý, chúng ta có thái độ cung kinh, nhưng trở về với Ta, với Người, chúng ta phải làm cho rạng-rỡ cái ý thức con người làm chủ mình chứ không phải con người phóng thể - aliéné - ươn hèn!
Khiết giơ tay khẽ gật đầu hỏi:
Anh cho tôi hỏi, hình như vào năm 1940 hay 41 chi đó, khi vị lãnh tụ cho ra bản tuyên ngôn có nói là ông ghi lại tất cả những điều sở đắc trong bao nhiêu năm suy ngẫm để cống hiến toàn thể quốc dân?
Đúng thế! Nghĩa là một cách semer à tout vent. Lãnh tụ nghĩ đến dân tộc truớc, thành lập Đảng chỉ để phục vụ dân tộc. Ai giữ kín tài liệu làm của riêng như giữ con niêm cổ, thực là ngu xuẩn, bởi hiểu biết tài liệu chưa đủ, còn thực hiện; hiểu biết và thực hiện cũng chưa đủ còn phải luôn luôn thức tỉnh trong việc tu dưỡng. Cuộc sống rộng lớn như vậy, linh động như vậy, kém phần tụ dưỡng làm sao cho sự hiểu biết và thực hiện được vừa sâu sắc vừa thuần hậu? Có những bậc sinh như tri thì sự học hỏi của người ta nhập chủ xuất chủ; bọn người thường chúng ta thì cũng có những kẻ nhập nô xuất nô bất quá chỉ là một thứ mọt sách, hoặc một thứ nhập lý xuất khẩu nói như vẹt ích gì ; phải làm sao nhập nô xuất chủ nghĩa là phải nhập lý xuất sự biết và thực hiện và tu dưỡng mới được! Còn nói chi đến những hạng vong quốc, hạng bảo thủ làm chướng ngại vật ngăn cản bước tiến của dân tộc, hạng không được ăn thì đạp đổ, bàn ngang tán láo phá hoại mọi công trình kiến tạo của kẻ khác.
Nhưng bây giờ anh đành thúc thủ thế này?
Thl tôi cũng mới bị quơ ở ngoài kia vào đây như anh mới ở Cộn-Đảo về, chúng mình trong này lại càng thiểu não, cộng sản còn lợi thế lắm nắm chính nghĩa chống thực dân... Đành lợi dụng thời gian này làm thời gian tu dưỡng, đọc, thảo luận, mỗi người đem lại một bó đuốc để cùng soi sáng cho nhau. Thanh kiếm chính nghĩa không chóng thì chày tất dời khỏi tay những người duy vật...
Được lắm, trước đây tôi đã có đọc một ít tài liệu và cả mấy bài thơ chính khí của L. nữa. Không ai phủ nhận được rằng con người ấy là kết tinh của tinh thần dân tộc, với hoài bão thực hiện một nền văn hoá tổng hợp của nhân loại, bởi vậy những lời đầy nhiệt thành của ông đều tìm thấy âm hưởng ở bất cứ con dân Việt nào.
Anh có biết vì sao cho đến hôm nay tôi mới dám nói chuyện với anh nhiều thế không?
Kẻ từ ngày tôi gặp anh lần đầu đến nay dễ đến bảy tám tháng qua đấy nhỉ?
Khoá từ nãy vẫn im lặng theo rõi câu chuyện, lúc đó mới nói:
Bảy tháng đúng!
Khiết hỏi Hữu:
Vì sao?
Vì lời anh nói với Khóa hôm qua là anh có thể chịu đựng mọi tính xấu trừ tính kiêu ngạo. Tôi rất đồng ý với anh ở điểm đó, cổ nhân cũng đã nói trời đất ghét nhất tính kiêu ngạo và mến nhất đức khiêm nhường. Bảy tháng qua tôi ít dám nói chuyện với anh bởi được biết anh đã hoạt động cách mạng hải ngoại, anh lại mới bị đầy Côn Đảo về, anh có đủ nhân tố để... “ta đây con người cách mạng”, mà tôi thì sẵn-sàng kính nhi viễn chi những con người đó. Câu nói của anh hôm qua mới thật khiến tôi tin vào cái bề ngoài điềm đạm của anh.
Khiết cười, Hữu đứng dậy từ biệt mọi người, Khoá lái xe vừa đưa Hữu về vừa đi lấy hàng cho mẹ. Khiết ra ngồi quầy với bà Đô, Cam cũng vừa tự nhà trong ra tới. Bà Đô cười bảo Khiết:
Con bé lạ, con gái Việt-Nam nuôi ở đất Tàu mà cạo lớn như đầm!
Cam nhìn mẹ vẫn bằng đôi mắt mở rộng, bình thản. Tiếng Khiết cười lớn hoà với tiếng cười âu yếm của bà Đô chẳng hề làm Cam luống-cuống hoặc cười lây. Đôi mắt nàng sáng lên chút ít chứng tỏ nàng có nghe thấy câu nói đùa của mẹ, nhưng miệng nàng vẫn mím hờ và không hề phác một nụ cười mỉm. Chính thái độ phần như bình tĩnh kín đáo, phần như ngây thơ khờ-khạo đó càng làm duyên quyến rũ của Cam thêm mãnh liệt và trong bảy tháng qua nhiều khi Khiết thấy muốn điên đầu, trở lại tuổi hai mươi vì thái độ đó. Bà Đô tiếp:
Anh có biết không, bây giờ mỗi bữa nó chỉ dám ăn có một bát cơm. Con bé sự phát phì.
Cam mím môi, lơ-đãng nhìn ra hè phố. Một người khách vừa bước vào. Khiết đứng dậy từ biệt. Chàng lững thững theo đường hồ Hoàn-Kiếm. Chàng ngồi lên một chiếc ghế xi-măng, chân vô tình đặt lên một phiến đá vỡ, mặt nhẵn thín, nhường như đội chỗ có lấm tấm hồng làm chàng liên tưởng đến phiến đá tương truyền đã chặt đầu Trương-Quý-Phi bên Yên-Chi-Tỉnh, và thốt nhiên chàng nhớ lại” nhớ rất rõ-ràng mấy dòng tản văn của một khách hào hoa nào đó viết bằng bút chì bên mép phiến đá sát miệng giếng. Vì vô tình thấy những dòng chữ viết bằng bút chì nên Khiết có tò mò nghiêng đầu đọc. Chàng mỉm cười đọc lại. Chắc là người viết đến thăm Yên-Chi- Tỉnh trước chàng và Cam không lâu. Những dòng tản văn chan-chứa tình hoài, chẳng hiểu tác giả thương cảm cho cái chết của nàng Trương-Quý-Phi hay thương cảm cho nỗi-niềm cô đơn của chính bận thân. Cũng tưởng là đọc đi đọc lại hai lần do một phút tò mò thoáng qua, rồi sau máy dòng đó tất chìm vào quên lãng còn bới lên làm gì, mà có bới lên vị tất đã nhớ hết. Mưa mùa hè, tuyết mùa đông hẳn đã lau chùi kỹ phiến đá bên Yên-Chi-Tỉnh, nhưng những dòng chữ xuất hiện nhát thời đó, ai dè ngày nay tái hiện trong trí chàng rõ-ràng đến từng nét phẩy, nét mác:
Y! Vân bạch, thuỷ thương, lựỡng tựơng huyền tuyệt.
Nhân sinh tư thế nhi bất đắc nhất tri kỷ tắc cô thầm tịch tịch, túng sử thiên tuế năng trường tại hựu hà vi tai?
(Mây trắng với nước xanh xa nhau vời-vợi.
Ôi, trên đời dù có sống tới ngàn tuổi mà không gặp người tri kỷ, thì cuộc sống quạnh hiu kia cũng bằng thừa)
XIII
Khiết đã hăm hở tích cực hoạt động cách mạng. Với lòng thành kính đi tìm “minh chủ”, rồi thất vọng ê-chề nhưng chàng quyết không “bán đồ nhi phế”. Ngày nay chàng được dịp cùng Khoá tham khảo thêm về lý thuyết cách mạng dân tộc với Hữu, chẳng khác được ăn vừa lúc đói, được uống vừa lúc khát. Là con người đã hoạt động nên Khiết có óc thực tế, đã từ lâu chàng hằng nghĩ: một cây chẳng thể làm nên rừng, một lãnh tụ dù siêu việt cũng khó gây thành sự nghiệp lẫy-lừng và lâu bền, nếu đại đa số quần chúng còn chưa được giác ngộ. Ý tưởng trở lại hoạt động văn hoá của Khiết phải chăng manh nha từ đây? vốn tư tưởng khoáng đạt ghét câu nệ, lại khiêm nhường. Khiết thành tâm tìm hiểu mọi điều hay, hiểu qua lăng kính của chàng. Chàng rất đồng ý với Hữu ở chỗ khi nghiên cứu thì phải xé lẻ ván đề, khi giải quyết chớ quên phải giải quyết đồng đều một lượt. Nhưng con người làm sao phân thân điều khiển cho đủ các ngành chính trị, kinh tế, văn hoá? Trong tình trạng hiện tại, với những người như Khiết, hầu như chỉ còn khu vực văn hoá là rộng đất “dụng võ” hơn cả. Thì bao giờ văn hoá chẳng là ngọn triều có thể đi xa và thám sâu hơn cả trọng quảng đại quần chúng, hãy tận tình hoạt động trong ngành này làm chất men ủ mầm cho mọi trào lưu tiến hoá.
Ý tưởng trở lại hoạt động văn hoá ngày một ăn sâu mở rộng trong tâm hồn Khiết như vậy. Thêm nữa chưa bao giờ Khiết thấy mình sống quân bình như dạo này, phải chăng vì chàng thực sự yêu Cam. Chàng rắp tâm đợi dịp thuận tiện ngỏ ý với bà Đô xin Cam làm vợ. (Còn thái độ Cam luôn luôn như vậy thì Khiết biết nói gì với nàng?) Tình cảm thông suốt, nhiều khi Khiết thảo luận hàng giờ với Hữu, còn Khoá thì nghiêng về phía thần bí của lý thuyết, đó cũng là do hoàn cảnh đặc biệt của Khoá.
Một năm qua kể từ ngày Khiết đựơc tha từ Côn-Đảo về, chính quyền mới chịu cấp đủ giấy tờ cho Khiết để chàng xin được vào tập sự luật sư. Chàng đã lấy lại ngôi nhà sát bên hội Khai Trí Tiến Đức chếch với căn hàng của bà Đô. Hôm đó chàng đến báo tin mừng với bà Đô, nhưng dù mừng đến mấy cũng không đủ phá vỡ bức thành ngượng-ngập mỗi khi chàng muốn chuyển sang câu ngỏ ý cầu hôn với Cam. Chẳng lẽ rồi việc này đành phải nhờ Khoá? Vừa lúc đồng hồ điểm rãi rệ mười hai giờ trưa. Thế là Khiết nương vào tiếng chuông đồng hồ nói câu quyết định mà chàng đã nhẩm đi nhẩm lại bao nhiêu lần rồi: “Thưa bác, cháu thấy em Cam cũng đã trưởng thành cháu muốn xin bác em Cam làm vợ”. Tiếng chuông đồng hồ bao lấy lời Khiết cho bớt những góc cạnh đột-ngột hoặc vụng-về. Bà Đô cúi đầu nghe, một lần chớp mắt. Tiếng chuông dứt vừa khít với câu nói của Khiết. Bà Đô ngẩng nhìn dịu- dàng mỉm nụ cười phúc hậu, nói:
Được thế, bác còn mong gì hơn!
Mộng hoạt động văn hoá mãi đến hơn một năm sau Khiết mới thực hiện được sau khi kết thân với bọn Hiển, Hãng, Kha, Miên. Nhưng mộng lứa đôi với Cam thì ba tháng sau đã thành tựu. Trong thời gian ba tháng là vị hôn thê, chỉ có đôi lần Cam chớp chớp mắt trước Khiết tỏ ý e thẹn, nhưng rồi đôi mắt lại mở rộng bình thản. Cam cương quyết ăn cữ để người thon, Khiết bảo thế nào cũng không nghe. Khiết nói ngắn hay dài - (lẽ cố nhiên Khiết chỉ biết nói ngắn hay nói dài, chứ nói giằn-giỗi thì cụng chẳng ăn thua gì với Cam) - Cam cũng chỉ lắc đầu, nhìn chàng bằng đôi mắt bình thản mà cương quyết, miệng không mỉm cười.
“Con bé này - Khiết nghĩ thầm - khi là vợ mình rồi, còn phải giáo dục nhiều”. Nhưng Khiết không hề phủ nhận rằng quả thực chàng đã tìm thấy ở cơ thể thơm non ấy thứ hương cỏ dại của thiên nhiên khả dĩ iàm chàng quên những thất bại và thất vọng ê chề trên chính trường vừa qua.
Và rồi Cam - cô gái bên sông Tần-Hoài - bỡ ngỡ đi vào vợ chồng như đi vào hư vô nhưng là thứ hư vô quyền đặc lại dần như thể tiên-thiên-vô-cực đương quyện rất nhanh thành tinh-vân, và tinh vân đương tự vo tròn rất nhanh thành tinh cầu. Dưới bàn tay vuốt-ve của Khiết, Cam thấy bàn tay đó bỗng hoang đường thần thoại, bàn tay thoa đánh thức cảm giác như bàn tay đêm thoa đến đâu làm mọc lên những vì sao đến đấy.
Cam đã tự khám phá thấy cơ thể nàng và đồng thời khám phá thấy tình yêu.
Phần i
Chương 6
Những cụm hoa vàng
i
Nếu Khiết gặp Kha trước ngày về làng, chưa chắc cuộc gặp gỡ đã đưa đến kết quả hợp tác nồng nàn như vậy. Từ sau buổi về làng, rồi nhận hợp tác với Khiết, Kha hằng nghĩ tới những đợt gió thơm hương lúa vừa thanh thoát vừa bồi hồi của cánh đồng quê nhà.
Hình như có cái gì bất thường lởn vởn trong không khí, sắp đổ ụp xuống đầu những người quốc gia. Quân đội Pháp-Việt thất trận liên tiếp, ôi còn sự hiện diện của đoàn quân viễn chinh thực dân kia thì dù thắng dù bại chỉ là kéo dài sự băng huyết của cơ thể quốc gia. Ngó về phía ngả nào cũng chỉ thấy những khuôn mặt và những tâm trạng ươn hèn, tiêu cực. Thường ngày trong lúc cắm cúi viết, Kha nghĩ “Sống là cố gắng thường xuyên để tái lập một thế quân bình luôn luôn đổ vỡ”. Phải chăng Kha đành chấp nhận ý nghĩ cho đời là đau khổ không ngừng, và tìm ý nghĩ của cuộc đời chính là tìm ý nghĩa của đau khổ. Ý nghĩ này giúp Kha thêm can đảm, thêm kiên nhẫn và lạ thay thêm tin tưởng.
Tuy mới quen nhau mà Kha quý Khiết ngang với Hiển cũng chỉ vì có một hôm Khiết nói với chàng ở tòa báo: “Chính những thất vọng đắng cay mà tôi trải qua đã giúp tôi đi sâu vào bản thể sự sống”.
Kha làm việc miên man hầu như không biết mệt là gì. Dạy học xong chàng đi thẳng ra thư viện; tối đến sau bữa ăn, chàng ngồi vào bàn viết. Hiện tại có thể hủy diệt cả một quá khứ tốt đẹp, ngược lại hiện tại cũng có thể xây dựng cả một tương lai đáng tin cẩn. Hiện tại thì ai mà chẳng có?
Làm việc! Chỉ có làm việc mới quên được những cảnh tàn phá của quê hương, quên được những nỗi lo âu mà Kha thông cảm được với tất cả mọi người, thân cũng như sơ. Không chỉ riêng ở quê mình mà ở tất cả làng quê trên đất nước. Chàng mải miết làm việc như một họa sĩ mải miết với bức sơn mài bỗng thấy cái khổ, cái lo âu của mình lung linh hiện thành ánh sáng màu sắc. đau khổ! Đau khổ! Sống ở đời tránh sao khỏi đối diện với đau khổ, nhưng đau khổ có thể thi vị hóa qua từng trạng thái tâm hồn.
Đã đến lúc chúng ta có thể kiểm điểm để hiểu sâu hơn về tính tình Kha. Tới tuổi ấy – tam thập nhi lập – với những kinh nghiệm sống, tính tình Kha hẳn như một trái cây vừa chín tới dưới ánh nắng. Kể từ ngày đổi lên dạy trên Tuyên-Quang, cuối niên học nào ông giáo Lãm cũng xin phép dời khỏi trường về quê nghỉ suốt hai tháng rưỡi hè. Chân ướt chân ráo về tới làng, ông đi thăm bà con khắp lượt để trình diện, trong khi bà giáo sắm lễ ra đình và ra chùa để tạ ơn Trời Phật Thần Thánh đã phù hộ độ trì cho ông giáo suốt niên học qua. Gần bắt đầu niên học mới, bà giáo cũng lại sắm lễ ra đình và ra chùa để cầu Trời Phật Thần Thánh cho chồng ra đi được bình yên. Sau khi khấn vái bà gián tiếp tìm hiểu ý kiến Trời Phật Thần Thánh bằng cách gieo âm dương. Cũng có khi các ngài ưng che chở chon gay, nhưng cũng có khi các ngài cười (hai đồng trinh sấp cả) bà lại vật nài khấn vái cho tới khi được ngài ưng, (một đồng sấp, một đồng ngửa) mới thôi. Ngoài ra vào dịp mười ngày nghỉ tết Nguyên Đán, ông giáo cũng có về quê, nhưng vào dịp này sự lễ bái của bà giáo lẫn vào sự lễ bái của những ngày đầu xuân nên không đáng kể.
Ông bà giáo hiếm hoi, hữu sinh vô dưỡng đến ba lần liền. ông giáo đổi lên Tuyên-Quang được hai năm thì bà giáo sinh ra Kha (mà ông Toán nhất định gọi là thằng Tuyên con giáo Lãm).
Nuôi Kha được một năm bà giáo nảy ý định buôn bán thêm để đỡ đần chút ít vào đồng lương của ông giáo, bà đi lại như thoi dệt trên con đường Hà-Nội Tuyên-Quang, chẳng bao lâu số lãi bà kiếm hàng tháng không phải là số tiền kếm thêm nhỏ nhoi mà là số tiền lớn, có tháng gấp ba lương ông, vì vậy bà mới mua thêm hai khu vườn hoang ngay bên hàng xóm rồi làm nhà làm cửa thành dinh cơ nhà ngói cây mít như ngày nay. Bà lại đứng lên cưới vợ cho em chồng (ông Hạo).
“Tội nghiệp – bà vẫn nghĩ thầm – thuở sinh thời cha mẹ thì chú Hạo còn nhỏ, chỉ anh cả Lãm được đi học, khi cha mẹ kề nhau khuất núi trong cùng một năm thì nhà cửa sa sút, anh cả phải phá ngang xin vào học trường sư phạm để thi ra làm giáo viên tiểu học hàng tháng có chút lương còm. Chú Hạo thất học, gia cơ cha mẹ để lại phần chú là miếng đất nửa sào cùng xóm nhưng ở sát rìa đồng, bây giờ Trời thương Phật độ cho mình buôn bán được, phải gây dựng gia đình cho đứa em thiệt thòi đó chứ”.
Ông Hạo thấy anh chị thương và săn sóc mình như vậy thì cảm động lắm. Sau này bà giáo mất, Kha còn ở “ngoài ấy” ông đã bán nhà của mình ở rìa đồng mà về trong nom dinh cơ cho cháu.
Trở lại chuyện Kha thuở mới sinh. Tuy Kha không phải là con trưởng (nếu kể mấy đốt trước bỏ đi) nhưng Kha vẫn là con đầu cháu sm được bà ngoại cùng các ông chú bà bác nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa.
Năm Kha lên hai và bà giáo bắt đầu buôn bán xuôi ngược trên con đường Hà-Nội Tuyên-Quang, Kha được mang về trong quê để bà ngoại nuôi. Từ đấy cụ giữ rịt lấy cháu. “Cho nó lên Tuyên Quang làm gì – cụ nói – nhỡ sốt rét ngã nước, xấu cháu bà đi”. Ông bà giáo đều cho lời cụ nói là phải, Kha theo tiểu học ở trường làng, rồi trung học ở trường Bưởi Hà Nội. Thoạt Kha ghi tên ký túc xá một nửa nghĩa là Kha chỉ ở lại trường ăn bữa trưa, sáng đi tối về bằng xe đạp trên con đường từ làng đến trường dài chừng tám cây số. Mỗi vụ hè vào dịp tết Nguyên Đán hai cha con gặp nhau. Vào dịp nghỉ lễ nhiều ngày, Kha theo bà giáo lên Tuyên thăm ông giáo như một du khách đi đổi không khí.
Nhớ lại năm lên sáu, năm mới học vỡ lòng, vụ hè năm đó về quê, ông giáo mua thưởng cho Kha một chiếc harmonica nhỏ xíu tám nốt (vừa đúng một âm giai). Buổi chiều Kha theo ông giáo ra đồng đứng hóng mát trên gò cao. Đã bắt đầu có tiếng chuông thu không. Mặt trời chạm đỉnh Ba-Vì rồi như viên ngọc đỏ bị một con sư tử thần thoại há miệng nuốt chửng. Vô tình Kha thổi một nốt trầm, âm thanh như rung động thành gió, thể hiện thành những gơn rùng mình trên ruộng mạ. Vũ trụ tựa hồ rung lên cùng một nhịp với âm thanh buồn buồn đó. Tuy vậy Kha không hề chú ý đến học nhạc, và cho đến ngày kháng chiến, cũng chưa hề sáng tác một bài thơ, một bài văn nhỏ. Không những thế nếu kiểm điểm kỹ lại thì năm thứ nhất trung học, bài luận quốc văn thi đệ nhị cá nguyệt của Kha chỉ được có một điểm (bét lớp), vì tả một người câu cá trên thuyền, cậu bé Kha đã dùng một câu thơ cổ mà cậu bất ngờ nhớ được (câu thơ đó của ai, đọc được ở đâu, vào hồi nào, nhớ có đúng không, chính cậu cũng lờ-mờ không rõ hẳn)
Bất quá môn đinh tam ngũ bộ
Quán tận giang san thiên vạn trùng
(không ra khỏi sân nhà ba hay năm bước mà xem được sông núi, đến ngàn vạn trùng). Thiết tưởng câu thơ cổ trên không có gì là lạc đề, sở dĩ ông giáo “trù” cậu, có lẽ vì ông quan niệm rằng còn “oắt con” mà dám nêu câu thơ cổ bằng chữ Hán chính ông chưa hề đọc tới như vậy, là phạm thượng chăng?
Giàu cảm xúc Kha lại may mắn được thêm ưu điểm có tài ngâm thơ. Giọng chàng trong, rất tự nhiên và khéo uốn nắn cho khi trầm khi bổng để thích hợp với lời thơ khi buồn khi vui khi hoang mang thao thức….
Kha say mê từ nhỏ câu ca dao:
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Anh còn thương cảm vô cùng hình ảnh người lính thú “Ba năm trấn thủ lưu đồn”. Sinh trưởng ở một gia đình sung túc, được nuông chiều từ nhỏ nhưng Kha sm có khuynh hướng quý trọng người nghèo. Kể từ năm Kha bắt đầu lên trung học (năm mười lăm) chàng hay đến ngủ nhà một người bạn rất nghèo cùng làng tên là Thận. Thận hơn Kha chừng ba hay bốn tuổi, đỗ xong bằng sơ học ấu lược phải phá ngang làm thợ sắp chữ tại Viễn Đông Ấn-Quán (I.D.E.O). Cha Thận đã già và là một nhà nho lỡ thời, tính tình rất hiền. Mặc dù có dư luận riễu ông là “nho, y, lý số sở ngô khoai” nhưng mọi người trong làng đều mến và thương ông. Những lúc gia đình này túng thiếu, Kha giúp. Từ ngày bà chị Thận đi lấy chồng ở làng bên, Kha thường hay đến ngủ với Thận (gia đình Thận khi đó còn vẻn-vẹn hai cha con, mẹ Thận mất từ sớm). đêm đông đôi bạn nằm ổ rơm, đắp chăn khố tải, vì chăn hẹp đôi bạn phải nằm úp thìa, mỗi lần dở mình hô đùa như thể tập quân sự “Chuẩn bị dở mình …một..hai”. Nhiều Chủ nhật Kha mang sách vở lại đàng Thận vừa học vừa chơi, rồi cùng làm cơm ăn. Hai đứa đi ra ao đình gần đấy câu cá, rồi kiếm một ít cành khô về làm củi (cành nhãn, cành bưởi, cành mít…)
Câu được cá rô to, có thể nướng lên, lọc lấy nạc, cho vào cối dã rồi nấu với canh cải. Cũng có thể ướp cá với nghệ, nấu với dọc sơn hà. Cũng có thể nấu canh rưa với ca trê:
Chồng chê thì mặc chồng che
Rưa khú nấu với cá trê càng bùi.
Cha Thận mất, Kha càng năng lui tới với Thận để Thận bớt cô độc. Những ngày sống với bạn nghèo như vậy, Kha thấy có cái thú tần tiện và khám phá được những nếp rung cảm rất nên thơ của cảnh lá lành đùm lá rách. Cụ ngoại và bà giáo là những người đàn bà phúc hậu thuở nhỏ đã trải qua nhiều cảnh hàn vi nên thấy Kha như vậy thì bằng lòng.
Sau này khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ được ngót một tháng thì quân Pháp tự nội thành mở rộng mặt trận đánh tỏa ra bốn cửa ô, phi cơ nhào lộn, rú máy từ trên cáo sà xuống thấp, đạn liên thanh rít trong không khí, đạn mortier, trái phá vang rền và rít rất đều vào các làng lân cận mà địch nghi có bộ đội ta đóng. Làng Định Quyết bị tàn phá nhiều nhất chính vào dịp này. Chiếc nhà ngói năm gian của ông bà cả Bê vừa cất xong, nóc bằng gỗ sến, sà bằng gỗ trai, cột bằng gỗ lim, dui, mè bằng gỗ trò chỉ, bị một đạn trái phá rớt vào trúng giữa nổ tung, cột lim gẫy nhà xiêu xuống, may người không ai việc gì, cả dãy nhà lá giữa làng bị bom lửa thiêu trụi. Buổi chiều Thận ra ngồi ở bãi cỏ rìa đồng xóm Quán – bãi để thả diều – bất ngờ bị đạn mortier tự trong thành câu ra nổ gần đấy. Thận chết. Dân làng tiếp tục tản cư, người ở lai thì chúi xó trong nhà, xác Thận bị bỏ quên trên bãi cỏ. Thời gian này, Kha chiến đấu bên các bạn tự vệ thành khác ngoài Hà-Nội, tại khu Bờ Sông. Một tháng sau, tình hình tạm yên, làng Định Quyết nằm trong vòng đai kiểm soát của quân đội thực dân, chị Thận ở làng bên – làng chồng – về tìm xác em thì chỉ còn là một cảnh bi đát xương đầu lâu, xương hai bàn chân, hai bàn tay lộ thiên trắng hếu, các xương khác thấp thoáng lẫn dưới lớp quần áo cũ đã mục nát. Cỏ khoảng đó được tẩm xác người rữa nát nên xanh om. Khi đã cùng đoàn tự vệ thành rút lui khỏi Hà-Nội, Kha tìm được đến nơi mẹ tản cư, nghe kể lại cái chết của Thận, ôn lại cảnh đời của người bạn nghèo, mồ côi mẹ từ nhỏ, chị đi lấy chồng xa, rồi cha mất, Kha thấy Thận hiện thân cho một số phận hẩm-hiu mà cả cuộc đời là hình ảnh lạnh-lẽo của mưa gió rầm- rề không một tia nắng vàng soi sáng và sưởi ấm.
Bên nếp sống giản dị với bạn nghèo là một khía cạnh khác phức tạp hơn và hầu như mâu thuẫn với nếp sống trên. Kha dậy thì rất sớm và mười sáu tuổi đã biết đam mê ái tình.
Kha đã yêu cô Dịu con gái ông bá Hỷ và hay giả vờ đến chơi với một ông cậu họ còn trẻ ở ngay bên hàng xóm với ông Bá để được nhìn cô Dịu thỉnh thoảng đi lại ở bên kia chiếc tường hoa xây thấp.
Kha đã yêu cô Đăng con bà ký Thám, hoa khôi xóm Chợ và đỗ bằng cơ thủy sau Kha hai năm. Bà giáo chơi họ với bà ký nên đầu tháng Kha thường khéo-léo tìm cách để mẹ ủy cho mình nhiệm vụ đến đàng bà Ký đóng họ.
Là1ng có ông tham Mỹ, kỹ sư về lục lộ, gia đình ông đã từng theo ông đi lang bạt hầu khắp các tỉnh lớn Bắc kỳ. được đổi về Hà-Nội, ông ở luôn ngoài đó, thỉnh thoảng mới về thăm làng. Vào một dịp tháng hai làng vào đám, ông đưa cả vợ con về đình lễ thành hoàng, ngày đó Kha mới biết ông có một cô con gái đẹp một vẻ đẹp thật quý phái.
Trời hừng nắng nàng mặc tuyền đồ lụa trắng khiến sáng đi của nàng càng thướt tha, nàng bước vào đình khuôn mặt ửng hồng như cô dâu bước vào phòng tân hôn. Nàng trạc trên hai mươi tuổi, hơn Kha ít ra bốn tuổi, thế mà Kha say mê đến như tương tư nàng một dạo. Kha hỏi thăm biết ông tham Mỹ thuê nhà ở phố Lò Đúc. Một chiều thứ bảy Kha đã từ trường Bưởi đạp xuống Lò Đúc tìm thấy nhà mà không gặp nàng. Chiều thứ Bảy sau Kha thoáng thấy bóng nàng mặc áo cánh trắng quần trắng, sit dáng đi yêu kiều quý phái. Bẵng đi hai tuần Kha được tin tự lấy chồng, cưới chạy tang. Kha buồn và thương nàng vì ngày vui nhất đời con gái mà nhuốm màu tang như vậy thì tránh sao những trắc trở về sau.
(Sau này khi đã di cư vào Saigon, một hôm Kha cùng Tân đi dưới hai hàng cây sao cao vút. Tân nói “Thú nhất ở Saigon là những đại lộ đều có những hàng sao cao vút như thế này, đó cậu Hà-Nội đường phố nào có hai hàng cây tương tự?” Kha đáp ngay “Đường Lò Đúc phía Chợ Hôm”. Hình ảnh phố Lò Đúc đã bám sâu vào trí nhớ Kha chính vì mối tình câm kia của chàng với cô con gái lớn của ông tham Mỹ ngụ ở đó).
Những mối tình đơn phương và thoáng qua như vậy còn nhiều lắm, nhưng thật sự mối tình đầu phải kể là cuộc gặp gỡ giữa chàng và Vân.
Ngày đó gia đình bà Phán đã về định cư ở làng Định Quyết bên hàng xóm nhà Kha được hơn hai năm, hai gia đình đã thân nhau, Kha vừa đỗ tú tài một. Hai mươi chín tết bà giáo ở Tuyên-Quang về báo tin cho cụ ngoại cùng các anh em thân thuộc hay năm nay ông giáo không về được vì hơi bị mệt, ông ở lại Tuyên-Quang ăn tết tại nhà một bạn đồng nghiệp.
II
Ai cũng bảo Vân học trường đầm – Felix Faure – nên phóng khoáng vô tư, sự thật có gần Vân mới hiểu tình cảm của nàng nhiều khi trầm xuống và khá sâu sắc. Mỗi lần nghe gió heo may thổi, Vân thường nhìn theo lá rụng rồi nói với Kha “Gió thu buồn lạ!” Kể từ ngày gia đình ông Phán chọn nơi định cư là làng Định Quyết, tuy bà Phán vẫn tiền cửa hàng ở phố Hàng Vải Thâm và thường chỉ chủ nhật, ngày lễ và vụ hè mới cho con cái về đây, nhưng năm nào ông bà Phán cũng kéo cả gia đình về làng ăn tết chỉ có Hãng ở lại Hà-Nội trông cửa hàng (dạo đó Hãng mới ở Pháp về).
Chiều ba mươi tết. Kha sang nhà Vân và đứng bên nàng ngoài hiên. Vân lắng nghe cây vườn xào-xạc rồi lại nói “Tiếng gió nghe buồn lạ!”.
Kha nhận thấy hình như trong khi Vân nói vậy nàng để hồn mất hút trong tiếng gió. Cùng với nhận xét nhanh chóng đó Kha muốn cúi xuống hôn nàng. Có lẽ Vân đã kịp nhận ra điều gì khả nghi ở Kha, nàng quay vào nhà với lũ em. Cầu cứu đám đông để khỏi bị yếu thế trước đàn ông, đó là phương pháp đối phó thường tình của phụ nữ.
Kha nghĩ thầm “Vân tinh ý thực” như vậy có nghĩa là nếu Vân còn nán lại một chút nữa, Kha dám ôm ghì lấy nàng và hôn đến khiến nàng ngạt thở. Kha bước theo Vân vào nhà cả hai đưa vội khóe mắt nhìn nhau, ngượng-ngùng như đã phạm tội. Kha lên tiếng để phá tan giây phút nặng nề.
- Mấy giờ rồi Vân nhỉ?
Vân chưa kịp trả lời thì lũ em con bà dì nghe tiếng bà Phán về ngoài cổng đã vừa reo la vừa chạy ùa ra ngoài, đứa bé nhất chạy sau cùng cuống-quýt, vừa kéo xếch quần lên vừa méo xệch miệng khóc nhưng không nước mắt.
Bà Phán ở nhà thương thăm Thi về. đã mấy hôm nay Thi nghỉ học vào nằm bệnh viện Lanessan điều trị bệnh phổi.
Tạng Thi vẫn yếu từ nhỏ. Ngày gia đình mới về làng Định Quyết, vào một trưa hè có bóng mây, Thi tha thẩn ra vườn. Cơn bão ập đến bất ngờ, một cành muỗm khô lớn rớt xuống, nàng bị những cành con gạt ngã ngửa, may mà khúc cong vồng hợp với khoảng ngực, Thi không bị thương, nhưng kể từ sau tai nạn ấy sức khỏe Thi càng mong-manh, gần đây bắt đầu húng hắng ho, bà Phán vội đưa nàng đến nhà thương khám phổi, phổi đã bị nhám. Tuy mới ở thời kỳ thứ nhất nhưng bà Phán cũng ưng theo bác sĩ để Thi nằm hẳn trong nhà thương cho đến ngày khỏi hẳn. Ngày nào cũng vậy ít ra là một lần, bà đến nhà thương thăm con.
Lũ trẻ đã ra hết, còn lại Kha và Vân trong nhà. Vân chợt ngước mắt nhìn lên giận dữ và nói:
- Anh phải hứa với Vân là không bao giờ được có ý định xấu.
Kha làm bộ ngạc nhiên:
- Ô hay, ý định xấu nào thế? Ít ra trong thực thế anh cũng không hề một lần nào làm Vân phật ý...
Tuy ánh mắt Vân dịu hơn nhưng giọng còn bất mãn, nàng ngắt lời Kha:
- Vâng, vâng em biết, anh chưa lần nào làm em phật ý, nhưng nếu sểnh em chậm chân, chưa biết thái độ anh sẽ đi xa đến đâu, em biết, em biết!
Kha đáp:
- Ừ giả sử điều đó có thật thì lỗi ở anh sao? Ai bảo em đẹp hử, ai bảo đẹp?
Nhìn bộ ngực Vân phập phồng, Kha tưởng như nghe thấy hơi thở nhẹ của nàng.
Bà Phán và lũ trẻ nhỏ đã bắt đầu bước lên thềm vào nhà, Kha nói vội một câu rất bang quơ:
- Dầu sao cũng cám ơn Vân đã giúp chúng ta thanh toán được tình cảm của nhau.
Nghe Kha nói vậy chắc Vân tưởng Kha cám ơn nàng đã sớm ngăn chàng đừng phạm lỗi, nhưng với Kha câu nói đó lại hàm ý cám ơn Vân đã cho Kha được dịp ướm trước bằng câu “Ừ, giả sử điều đó có thật thì lỗi ở anh sao?” Nghĩa là điều đó sẽ thành sự thật và lỗi không ở Kha, lỗi ở Vân đẹp.
Bà Phán đã vào. Kha cúi chào. Vân hỏi mẹ về tin tức em. Lũ trẻ nhỏ đứa nào cũng có quà “bích quy” cầm tay. Cận, đứa nhỏ nhất, lên bảy tuổi không còn cuống quýt méo xệch miệng khóc nữa. Cậu vừa đưa bánh lên miệng, vừa nói với Kha:
- Bây giờ anh Kha kể chuyện cổ tích cho chúng em nghe đi (Kha vẫn có thói quen kể những chuyện cổ nước Nam cho chúng nghe). Lũ trẻ cùng reo:
- A phải đấy, anh Kha kể chuyện cổ tích đi, hay lắm.
Vân đỡ làn hoa quả nặng ở tay mẹ rồi đặt lên mặt buffet sát với chiếc bình thủy tinh rộng miệng trong có thả con cá sin-sít nhỏ.
Tiến chạy vội lại:
- Ấy, khéo chị làm đổ bình thủy chết cá của em!
Vân nguýt Tiến:
- Chẳng cần tao phải làm đổ, con cá cũng sẽ chết. Mày có thấy không,. Hai con thì sáng nay đã chết một rồi!
Tiến ngần người chạy lại hỏi Kha:
- Làm sao thế anh nhỉ, em chịu khó thay nước luôn, nước mưa trong vắt anh ạ. Rồi Tiến bưng bình nước thả cá lại cho Kha xem:
Kha nói để Vân nghe:
- Con cá đâu có phải chỉ sống vì nước. Trong con cá nhỏ bụng lép kẹp, bơi trong bình nước trong vắt, có thương không này.
Trước khi xuống bếp để chỉ bảo người nhà cách thức sửa soạn các đồ nấu ngày mai, bà Phán ân cần dặn Kha:
- Mai cháu nhớ sang xông nhà sớm cho bác nhé.
Tiến đã để bình thủy tinh thả cá lên chỗ cũ trên mặt buffet. Cậu đã ăn hết phần bánh “bích quy”, dùng cả hai tay níu Kha ngồi xuống ghế:
- Anh ngồi xuống đây, kể chuyện cổ tích cho em nghe đi.
Kha đưa mắt nhìn về phía Vân và gặp đôi mắt nàng đặt về phía Kha tự bao giờ. Khi đó Vân đã ngồi vào góc đi văng tay lơ đãng cầm một tờ tuần báo.
- Ừ, nào anh kể chuyện cổ tích! – Kha nói với lũ trẻ, cả bình nước và khiến con cá nhỏ kia cũng phải giật mình.
Tức thì tiếng chúng hoan hô tưởng chừng làm xao động cả bình nước và khiến con cá nhỏ kia cũng phải giật mình.
Bất chấp khoa học, bất chấp kiến thức lũ trẻ, bất chấp bố cục tình tiết câu chuyện, bất chấp cả mọi ý nghĩ phê bình của Vân, Kha bắt đầu kể chuyện:
Ngày xưa có một người lính thú
Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Đi ngược dòng sông vài ngày rồi lên bộ lẽo-đẽo vượt suối, rồi lại xuống thuyền ngược dòng sông, rồi lại lên bộ, cứ như thế ròng rã một tháng trường mới tới nơi đồn trú. Đó là miền biên giới có thác chảy ào ào suốt ngày đêm, có núi chập chùng cao ngắt chắn mất đường về. Dọc theo ngọn nguồn con sông chảy xiết là những khu rừng già âm u nhiều rắn độc, nhiều thú dữ.
Đau đớn thay cho người lính thú, anh phải ở đây ba năm. Ba năm dài những lo âu, thương nhớ. Bất trắc có thể xảy đến hàng ngày khiến anh bỏ thây nơi rừng núi hùng vĩ nhưng hiểm độc này. Anh mà ngã xuống chỉ một chiếc lá nhỏ cũng đủ phủ thây anh vì thân anh sẽ rữa nát trước chiếc lá để rồi mất tích vào đám bùn đen ẩm thấp dưới rừng. đêm đến anh ngủ, những hình ảnh khủng khiếp đó ùa đến cùng tiếng thác nước để uy hiếp linh hồn anh. Ba năm …ba năm dài…
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang cùng nứa không thể ai bạn cùng?
Nước trong xanh con cá vẫy vùng…
Phải một hôm kia anh vào rừng chém tre đẵn gỗ, anh lạc đến một khoảng tròn rộng và sâu những đá là đá. Lớn có từng mảng, nhỏ thành từng hòn, nhỏ nữa là cát sỏi. Nước ở đây thật là trong và có một con cá. Thoáng thấy anh, con cá vùng quẫy như muốn tìm nơi ẩn trốn. Người lính thú nào có biết điều đó, anh ao ước được tự do như con cá kia và buột lời ngâm:
“Nước trong xanh con cá vẫy vùng”
Kỳ lạ chưa, con cá đó biết nói. Nó hỏi anh:
“Anh cho là tôi sung sướng lắm sao?”
Người lính thú đáp:
“Sung sướng lắm chứ! Cảnh thì tĩnh, nước thì trong, một mình anh thảnh-thơi, vùng vẫy.”
Con cá làm như cất tiếng cười mỉa-mai rồi giải thích:
“Đây trước là con suối. Một hôm mưa nguồn lớn, đá trên núi đổ xuống ngổn ngang, con suối đổi dòng để lại một khúc chết ở đây. Thoạt tiên nước đục, tôi còn khuây khỏa đôi chút, vì mình có thể bơi lội tung tăng mà vẫn no mồi, chẳng phải để ý đến ai, và cũng chẳng ai biết có mình mà để ý. Tai hại thay nước lắng dần. Qua đi một tuần trăng nước trong suốt như gương, tôi thấy mình trơ-trẽn quá. Anh ơi rủi bị tù trong một vũng nước đã là một điều đáng buồn, lại bị tù lộ-liễu trong một vũng nước trong suốt như gương này thực là buồn vừa nhục.”
“Nước trong vắt không có mồi, anh có đói không?”
“Tôi có thể ăn rêu bám ở những hòn đá quanh đây”
Người lính thú lấy cơm nắm ra giơ lên rồi nói:
“Tôi bửa cơm ra và ném xuống một ít cho anh nhé”
Giọng cá bình thản một cách buồn rầu:
“Cám ơn anh, giá nước đục anh làm như vậy thì hay, nhưng nước trong như thế này, anh ném xuống để thấy tôi bơi lên đớp lấy, chao ôi còn cảnh nào tủi hổ cho bằng!”
Người lính thú ngẫm-nghĩ, sực nhớ điều gì, anh nói:
“Thế tôi mang anh sang dòng sông gần đây vậy nhé!”
Cá đáp:
“Cám ơn anh, cám ơn anh! nhưng cảnh tôi phải lên nằm trên lòng bàn tay anh để rồi anh mang ra sông thả xuống còn đáng sỉ nhục gấp ngàn gấp vạn lần cảnh bị tù thế này. Tôi tuy bị tù ở đây những vẫn nghe thao-thức tiếng sông qua mạch đất. Sẽ có ngày mưa nguồn làm tràn bờ giếng này, làm rềnh khúc sông kia, lúc đó tôi sẽ nương theo triền nước mà tìm ra sông. Như thế mới đẹp! như thế mới đẹp!”
Có tiếng mõ thu quân. Người lính thú chào cá, bịn-rịn ra về. Từ đấy mỗi khi chém tre, đẵn gỗ hoặc đi kiếm măng trúc, măng mai qua đấy, anh cũng giữ ý chẳng muốn đến bên bờ khúc suối chết để khỏi gây xáo động cho con cá bị tù. Thảng hoặc gặp cơn mưa nguồn khá lớn, anh chạy vội tới đó ném vội xuống khối nước đục ngầu một ít cơm rời rồi ra về trong lòng không vui vì anh vẫn thắc-mắc chẳng hiểu cá còn ở dưới đó để nhận những hột cơm của người tri kỷ này, hay đã trườn mình tìm ra sông rồi.
Lũ trẻ trố mắt nhìn Kha im lặng. Chúng biết Kha đã kể dứt câu chuyện.
Đưa mắt nhìn Vân, Kha thấy nàng cúi đầu im lặng, riềm mi chớp chớp.
Kha đứng dậy ra về. Chàng tin rằng mình đã ra về rất đúng lúc.
Sớm mồng một hôm sau Kha y hẹn sang xông nhà bà Phán từ sớm. Tiến chạy đến báo cáo ngay với Kha:
- Có mỗi một con cá, nó lại chết nốt mất rồi anh ạ.
Bà Phán quát:
- Mới sớm đầu năm mà đã nói chết với chóc gì, ranh con!
Kha chúc ông bà Phán mấy câu khách sáo “sống lâu,giàu bền”. ông bà Phán cũng chúc Kha cuối niên học thi đỗ nốt tú tài phần hai. Cả hai ông bà cùng tránh không chúc Kha lấy vợ, có lẽ vì có Vân đứng đấy. Qua đi dăm phút ngượng ngập, Kha thoát khỏi phòng khách ra sân chơi với lũ trẻ. Vân cũng tiến ra theo, nàng đã trang điểm, đẹp kín đáo nhưng quyến rũ.
Cả ngày hôm đó Kha thì-thọt sang thăm Vân luôn nhưng cũng có lần không gặp vì Vân theo mẹ ra Hà-Nội từ trưa để lễ tết một vài nhà trong họ rồi vào nhà thương thăm Thi đến tối mới về.
Cả ngày mùng một năm đó nắng vàng trong như hổ phách. Gió thổi vào hồn Kha phơi-phới và Kha như nhập vào cánh bướm chập chờn đến đậu lên những hoa cải vàng ngoài vườn. Những hoa cải vàng cao ngất, lắt-lay bình dị, đó là hình ảnh muộn-màng của mùa đông qua còn sót lại. Cây cải thì lớn vồng, có những lá già lỗ-chỗ, hoa cải vàng tuy cười với nắng vàng đầu xuân nhưng dám chắc trong lòng vẫn chưa quên mùa rét mướt những mưa phùn gió bấc vừa qua. Nắng trong quá làm Kha thấy niềm vui như trở thành mong-manh mộng ảo. Kha thấy thiếu, thấy khao-khát một cái gì mà vẫn chưa tìm ra.
Buổi tối khi Kha sang nhà Vân, ông Phán đã ngồi vào bàn tổ tôm với bốn ông bạn khác, bà Phán đi ngủ sớm vì cả ngày bà đi lễ mệt, bà bắt mấy đứa nhỏ đi ngủ theo, chỉ còng hai đứa lớn đương ngồi đối diện ở góc nhà đánh tam cúc ăn tẹt mũi. Kha lảng ra hiên và vui mừng thấy Vân theo ra. Hai người chào nhau bằng nụ cười im lặng. Kha di vào góc khuất, tì tay lên cột gạch nhìn xuống khoảng vườn ngập trong bóng tối. Vân tiến tới. Kha biết nàng đã bằng lòng, tuy nhiên Kha chưa dám có thái độ quá âu yếm. Cả hai đứng gần sát bên nhau, nói những chuyện bang quơ se sẽ. Gió thay chiều tự lúc nào, mây đen ùa tới. Gió thổi mạnh hơn rồi mưa khá nặng hột. Chưa bao giờ có một trận mưa đầu xuân lạ như vậy. Lúc đó Kha mới thấy rằng điều mình khao-khát từ trưa đến giờ chính là cảnh mưa gió bất ngờ này. Và cũng bất ngờ chàng quàng tay ôm Vân rồi ép nàng vào ngực mình. Vân không chống cự hay có chống cự nhưng yếu ớt.
Kha nói như say điên nhưng giọng thì lại dẽ-dàng:
- Mùa xuân không thể chỉ có nắng vàng. Nắng vàng trong quá làm tình chúng ta mong-manh, mùa xuân phải có gió, có mưa nữa Vân ạ. Tuổi trẻ của chúng ta không thể trong suốt như thánh nhân, chúng ta sẽ chết trong sự trong suốt đó như hai con cá đã chết.
Rồi Kha hôn Vân, và cả hai như bị cuốn theo vào một cơn lốc của đam mê, vượt ra khỏi mùaxuân gió mưa nhỏ bé, vào một bão tố vô cùng lớn của vũ trụ, trong đó cuốn theo những vì sao. Và những vì sao trong khi bị hút xuống lòng bão tố như vậy trong chẳng khác gì những hạt ngọc, hạt kim cương rơi vãi của những nạn nhân nào đó.
Rồi Kha cũng phải buông Vân ra cho nàng thở, và cho chính Kha thở nữa. Và Vân đã nhắc lại một câu như để riễu Kha làm Kha giật mình, công nhận nàng là người đàn bà thông minh:
- Dầu sao cũng cám ơn anh đã giúp chúng ta thanh toán được tình cảm của nhau.
III
Sau đêm xuân trác tuyệt, đô bên trao nhau cái hôn đầu tiên khuấy động bão tố tâm hồn, Vân xấu hổ như bị thất thân và hết sức lánh mặt Kha. Biết ý, Kha cũng không dám tìm nàng. Ngày mùng chín sau khi làm lễ hạ cây nêu, bà giáo lên Tuyên-Quang. Rằm tháng giêng bà đánh điện gọi Kha lên.
Ngày hai mươi chín Tết khi bà từ Tuyên về quê, ông giáo ở lại chỉ mệt xoàng. Bà xem bói biết sang năm ông giáo có sao Thái Bạch chiếu. Thái Bạch sạch sành sanh! Thế nào dchg bị hao tài tốn của! ngày mùng một tết bà đã lên chùa làm lễ giải sao và có hình nhân thế mạng, không ngờ ngày mùng chín lên tới nơi, bà thấy bệnh tình chồng nặng lên rất nhiều, ông bị liệt một bên chân, rồi ngày rằm – ngày bà đánh điện về gọi Kha – ông bị liệt nửa người, ngày hai mươi tháng giêng ông từ trần. Bà giáo phải thuê riêng một chiếc xe familial rồi hai mẹ con đưa quan tài, từ Tuyên về làng. Tính ra từ ngày được đổi lên Tuyên đến ngày từ trần ông giáo dạy học nơi đây vừa được hai mươi năm.
Mẹ góa con côi, bà giáo thương con, ưng cho Kha thuê chung một căn nhà cùng với bốn người bạn khác ở phố Bờ Sông.
Kha đã gặp Vân, đôi bên hết ngượng nhưng giờ đây Kha có đại tang. Kha cắm cúi học thi nốt phần hai, hết tang Kha sẽ xin mẹ hỏi Vân cho. Có một đêm rằm thứ bảy Kha sang bên ông bà Phán, xem hoa quỳnh nở, ngồi cùng với các bạn giai của Hãng, các bạn gái của Vân.
Mùng chín tháng ba Nhật đảo chính, Pháp mất chủ quyền. Kế đó là nạn đói lịch sử. Nạn đói làm chết hai triệu người này có làm hốc hác nhiều khuôn mặt làng Định Quyết, có làm sa ngã đôi ba người làng Định Quyết, có đánh quỵ không quá số mười người dân làng Định Quyết. Nguyên do dân làng này công chức có, nhà nông có, đàn bà đều buôn bán đảm vì vậy mọi người có đủ điều kiện để nâng đỡ nhau trong cơn khốn khó. Mười chín tháng tám tổng khởi nghĩa cướp chính quyền. Sau ngày cách mạng, Kha dự cuộc biểu tình bãi khóa kỳ thi tú tài toàn phần khóa một. Toàn thể học sinh nêu lên câu hỏi khẩn cấp: nước nhà đương trong tình trạng khẩn trương như thế này thì thi với cử mà làm gì? Chính Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ họ Vũ phải đích thân tới khuyên nhủ và giải thích, an hem mới chịu vào phòng thi. Kha đỗ nốt phần hai và ghi tên học PCB, dự định sẽ theo ngành Thuốc sau này. Nhưng không khí cách mạng cuốn theo Kha như dòng nước lũ cuốn theo một cành rong nhỏ nhoi, Kha gia nhập đoàn thanh niên cứu quốc khu phố Bờ Sông. Kha ưng hoạt động ở Hà-Nội vì khuôn mặt cách mạng tại thủ đô bao giờ cũng tưng-bừng và duyên dáng hơn bất cứ nơi nào. Khi quân đội Pháp được vào đóng tại Hà-Nội để ngay sau đó dở trò khiêu-khích, Kha gia nhập tự vệ khu phố. Chàng hoàn toàn bỏ học. Không khí tưng bừng của năm đầu cách mạng làm Kha quên Vân. Là con dân – hơn nữa là thanh niên – của một dân tộc vừa thoát ách nô lệ mà tinh thần quốc gia đôi khi đi đến cực đoan, mà trí tưởng tượng thì quá phồn thịnh, việc Kha gia nhập đoàn thể để hợp quần thành sức mạnh, rồi cùngdân tộc nuôi mộng vá trời lấp biển, quên người tình bé nhỏ cũng là lẽ dĩ nhiên. Sự thực Kha không hẳn hoàn toàn quên Vân, nhưng Kha thấy mối tình của Vân giờ đây chỉ là phụ, chỉ là một đường viền nhỏ trang sức cho một bối cảnh mênh- mông, hùng vĩ và vô cùng phong-phú là cách mạng. đôi khi Kha có gặp Vân hoặc ở ngoài phố, hoặc ở làng, Kha có nhớ lại đêm xuân trác tuyệt ôm hôn nàng say đắm, nhưng rồi Kha mỉm cười với kỷ niệm như nụ cười của người khổng lồ đương cầm viên ngọc nhỏ soi lên ánh mặt trời. Có lẽ biết sự nhỏ bé của thân phận mình bên chàng trai thời cách mạng, Vân nhiều khi cố ý gặp Kha và kéo dài phút gặp gỡ tay đôi. Điều này càng khiến Kha thầm kiêu hãnh. Nếu có dịp hôn Vân lần nữa chắc chắn Vân không còn ngượng đến mấy tuần sau như lần trước. Nhưng biết rằng cái hôn lần thứ hai còn giữ được hương vị say đắm như lần đầu? kha quên ngay câu hỏi đó vì chàng còn phải tập kịch để kịp lên sân khấu Nhà Hát Lớn thành phố vào dịp kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày 19 tháng 8. Kha ở ban kịch thanh niên cứu quốc, vở kịch nhan đề “người tráng sĩ núi Lam” gồm hai màn. Kha thủ vai Lê-Lợi.
Màn đầu vừa hạ xuống, Kha đứng bên trong hậu trường hé màn nhung nhìn ra nhận thấy có Vân ngồi xem ở hàng ghế thứ ba cùng với mấy người bạn gái của nàng. Đó là mấy người bạn học nghèo và khá thân cũ trong số có Quỳnh-Hương. (Vân rủ mấy cô bạn này đi cho có vẻ tự nhiên, nàng mua vé fauteuil d’orchestre nói thác khao các bạn vào dịp sinh nhật, sự thực sinh nhật của nàng vào tháng mười sắp tới).
Thốt nhiên Kha ôn lại xem màn đầu mình đóng có gì vấp-váp không, chàng vui mừng thấy là mọi lời đối đáp đều đã rất trôi chảy. Tiếng vỗ tay đã chẳng vang dậy là gì? (Trong đó lẽ cố nhiên có cả tiếng vỗ tay của Vân). Màn thứ hai kéo lên..
Cuối màn này là cảnh Lê-Lợi mài gươm dưới trăng. Dáng Kha – (Lê Lợi) – mài gươm đẹp và hào hùng. Chàng ngừng mài gươm lắc đầu ngao-ngán đứng dậy vuốt vạt áo lam rồi ngẩng nhìn trăng cảm khái (và cũng kín đáo liếc xuống hàng ghế có Vân nữa). Chàng để cho tâm hồn trữ tình của mình thật phơi phới như nắng và mưa gió đầu xuân (chàng nhớ lại đêm xuân nào chàng hôn Vân) để sửa soạn ngâm lên mấy câu “Hổ trường”, thơ Nguyễn Bá Trác. Chàng hít mạnh cho hơi đầy phổi rồi buông xuôi giọng như buông xuôi con thuyền trên giòng thác lũ của cảm khái, giọng sang-sảng và ai hoài:
Trượng phu không hay xé gan bẻ cật
Phủ cương cường…
Cả rạp rùng mình. Từ người soạn kịch qua diễn viên là Kha đến toàn thể khán giả lúc bấy giờ không một ai thắc mắc về chuyện tại sao Lê-Lợi vào đầu thế kỷ thứ mười lăm đương mưu toan diệt Minh cứu nước mà lại ngâm bài thơ của báo Nam Phong đầu thế kỷ thứ hai mươi. (Nghệ thuật khi đạt tới mức rung cảm thật thì không còn phân biệt không gian và thời gian chăng?) Nền phông rừng núi càng trở nên âm u, mảnh trăng lưỡi liềm như có phát ánh sáng thật, sân khấu bỗng kết tinh thành đời sống, giọng Kha như cũng long-lanh bàng bạc nhập vào ánh trăng rồi tỏa xuống khán giả:
Học chửa thành
Thân chẳng lập
Trai trẻ bao lâu mà đầu bạc
Trăm năm thân thể…bóng tà dương.
Vỗ gương mà hát, nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường…
Cả rạp im phăng-phắc, nhưng riêng Kha, chàng như nghe tiếng trái tim của Vân cùng hòa với nhịp trái tim rất mực trữ tình của chàng lúc đó. Kha muốn có phép tang hình nhảy qua ban nhạc bên dưới, đến hàng ghế thứ ba kéo Vân đi (Vâng cũng tàng hình luôn) và chàng hôn Vân và nhất định cả hai sẽ cùng lại bị cuốn vào cơn lốc đam mê vô cùng rộng lớn của vũ trụ…Sao mà lúc đó Kha yêu Vân! Chàng mang-máng cảm thấy như có hối hận vì đã quá xa vời Vân từ ngày đầu cách mạng.
Lúc tan kịch Kha vội-vã đi từ cửa sau ra phía trước cổng trường Nhà Hát Lớn mong được gặp Vân, nhưng cổng trường rộng như biển hồ rồi làn sóng người đổ về năm đại lộ như năm dòng sông làm sao mà tìm được Vân? Sự thành công của Kha trong vở kịch bỗng đượm màu ngao-ngán vì lạc mất người yêu.
Nhưng rồi từ ngày sau, Kha cũng không gặp được VâTn mặc dù chàng vẫn nhớ Vân lắm. Thời cuộc tram trọng quá mau lẹ, quân Pháp khiêu khích khắp nơi, tại mọi khu phố tự vệ thành đào gâp hầm chiến đấu. Rồi đến vụ giết người, cướp của, hiếp dâm của quân đội Pháp ở Hàng Bún, tâm tình mọi người dân Việt căng thẳng ra mọi chiều như bị cực hình tứ mã phanh thây, căm hờn bốc lên ngột ngạt không khí, hòa bình cố gắng duy trì chỉ còn treo trên sợi tóc…HÌnh ảnh mẹ mà chàng kính mến, hình ảnh Vân mà chàng yêu thương, bỗng chìm lẫn vào không khí u uất đó chỉ còn thấp-thoáng khi ẩn khi hiện như những đường nét của bức sơn mài sơ khởi. Rồi Kha được tin Vân theo gia đình đi lánh nạn trên đồn điền Phú-Thọ.
Có một đêm kia sau phiên gác Kha trở về nằm lăn ra giường ngủ, quá mỏi mệt quên cả thay áo quần. Kha mơ thấy mình đi thơ thẩn trên một cánh đồng hai bên đường có những cụm hoa vàng. Đó là thứ hoa cúc dường như.ai có đầy rẫy ở quê chàng. Gọi là hoa cúc vì chúng chỉ lớn bằng cúc áo. Cánh đồng bỗng ngập nước biến thành cánh đồng chiêm mênh mông.
Dưới ánh nắng vàng trong, nhìn cánh đồng ngập nước long-lanh đó, Kha nghĩ ngay đến khuôn mặt của Vân, người con gái vừa tới tuổi xuân của đời. Chợt trời mưa…Có tiếng gọi, Kha quay lại nhận ra Vân đứng trong một căn lều gianh đương vẫy chàng. Kha bước vào, bên trong có thắp đèn, bên ngoài như tối hẳn. đôi mắt Vân nhìn chàng vừa như trễ nải buồn rầu, vừa như có sức khêu gợi một cái gì thật mãnh liệt ở tiềm thức.
Trong bầu không khí im lặng, ánh đèn tỏa ra dìu dịu. Kha bâng khuâng không hiểu đó là ánh sáng đèn hay ánh sáng vì sao bản mệnh của Vân. Kha vòng tay ôm lấy Vân và cúi xuống với một bề ngoài lặng-lẽ để mở ra trong đáy lòng cả một làn sóng đam mê hùng vĩ làm đảo lộn tâm hồn…
Và chàng sực tỉnh dậy. Nhưng cụm hoa vàng như còn thấp-thoáng trước mắt, mùi tóc, mùi phấn hương của Vân (ký ức tự đêm xuân trác tuyệt) tưởng chừng còn phảng phất đâu đây. Kha có cảm tình với bất cứ loại hoa nào kể từ giấc mơ đó.
Chiều hôm sau tới phiên gác, Kha cầm súng đứng bên bờ hầm chiến đấu và chàng thanh niên khờ-khạo về chiến tranh, lãng mạn về tình yêu ấy vui mừng xiết bao khi nhận thấy sát với hàng giây thép gai phía trước, dẻo theo mép đường Bờ Sông, có vô số những cục đất đỏ lăn lóc (đất tự những ụ chiến đấu lăn xuống) nhưng không một cụm hoa vàng bị đè bẹp.
Phần i
Chương 7
Tiếng hát tự lòng đất
i
Kha đã gặp Thi vào một chiều Chủ nhật đúng lúc Thi sắp sửa dời cửa hàng phố Hàng Vải Thâm về làng Định-Quyết. Có lẽ cả hai cùng khát-khao gặp nhau nên Thi đã rất tự nhiên giơ hai bàn tay lên và Kha nắm lấy vui mừng trước vẻ mặt cảm động của bà Phán. Thi nói trước:
- Biết anh đã về mà mấy lần em gặp hụt anh!
Kha khẽ nắm chặt hơn đôi bàn tay nhỏ hâm-hấp nóng của Thi (mà lúc đó chàng chủ ý để biết) và đáp:
- Đúng vậy, anh cũng thế! Thi hơi gầy!
- Em nó gầy quá anh ạ!
Tiếng bà Phán thốt lên. Kha buông hai bàn tay Thi nhưng vẫn nhìn thẳng vào đôi mắt nàng, “đôi mắt thăm-thẳm, đôi mắt của cô gái lao!” Nhưng Kha lại tự cải chính thầm “Không đôi mắt Thi từ xưa vẫn thế”. Cái nhìn của Thi như đặt nặng và khoáy sâu vào tim Kha.
- Em sắp về làng?
- Vâng em phải về ngay kẻo hết tàu điện. Về đến làng là vừa tối đấy anh ạ.
Bà Phán nói:
- Bác sắp đưa em nó ra bến xe Bờ Hồ.
Lúc đó Kha mới kịp để ý con sen đã ra ngồi trông hàng và ngay trước cửa, người phu xích lô đang đứng chờ. Chàng vội nói:
- Dạ để bác đưa em Thi ra bến xe ngay cho kịp, đàng nào chủ nhật tuần sau bác cháu mình cũng gặp nhau ở quê, cháu đến mời trước bác từ hôm nay, hôm đó là ngày giỗ mẹ cháu.
Bà Phán ồ lên một tiếng ngạc nhiên rồi mới nói:
- Phải rồi, hôm đó là1 hăm bốn tháng chín, anh nhỉ.
- Vâng ạ.
- Thế nào bác cũng về chứ. Thôi bác đưa em đi kẻo muộn anh nhé.
Thi vẫn nhìn thẳng Kha khẽ cúi đầu:
- Anh ạ, em về.
Kha vội đáp lại tất cả:
- Vâng ạ, bác đi. Thi về nhé. Tuần sau!
Hôm sau, chiếc đồng hồ trầm cảm trên nhà ông Cai điểm dứt mười tiếng, Kha vừa chấm bài xong, thoáng thấy bóng ông Hạo từ ngoài cổng vào, chàng biết ngay là ông tự trong quê ra để bàn về ngày làm giỗ mẹ.
Kha vồn-vã ra đón ông Hạo tận cửa, rồi vừa kéo ghế mời ông ngồi vừa hỏi:
- Thưa chú làng ta có gì lạ không ạ?
Ông Hạo thở phào một tiếng rồi đáp ngay:
- Còn gì lạ nữa hở anh giáo? (Ông cũng mới gọi Kha là “anh giáo”) Tây nó không về vây làng thì chẳng có việc gì lạ cả (ông đặng hắng) Chú thím cám ơn anh giáo nhiều về những quà anh gởi về cho chú thím vào ngày rằm tháng tám trước đây.
- Thưa chú cũng may hôm đó cô Hĩm ra đây (ông Hạo hơi nhíu mày nhưng Kha không chú ý thấy) nên cháu mới tiện dịp gửi về biếu bà ngoại cháu, chú thím và vợ chồng cô Hĩm (ông Hạo lại nhíu lông mày). Thưa chú gọi là một chút!
- Ấy cụ ngoại cứ khen anh mãi là “thằng giáo nó biết cách ăn ở “. Cụ dặn tôi ra bảo anh gửi về cho cụ chừng ba trăm bạc, cụ mua hai con lợn con nuôi sẵn để sang năm cưới vợ…Cụ muốn anh giáo lấy vợ đấy!
Kha cười, ông Hạo cũng cười và dặng hắng thêm một tiếng nữa trước khi vào chuyện chính:
- À tôi ra đây hỏi anh giáo về việc làm giỗ bác gái ngày hai mươi bốn tháng chín sắp tới. Ý anh giáo định thế nào?
- Thưa chú cháu sẽ về quê làm giỗ mẹ cháu ở làng.
Kha vừa dứt lời, ông Hạo ngồi thẳng người, hai tay giơ lên ngang vai và cùng một lúc xòe đều mười ngón, rõ là câu nói của Kha hợp ý ông quá.
- Anh giáo nghĩ chí phải – ông nói bằng giọng hấp-tấp nhưng vô cùng nghiêm trọng – tôi cũng định ra bàn với anh điều đó. Chẳng gì bây giờ giời cho mình cũng làm ăn mát mặt…
Kha mỉm cười nghĩ đến thế chông-chênh của đất nước hiện tại và số lương dạy tư hơn ba ngàn của chàng. Ông Hạo cho rằng cháu mình vẫn có tật hay vô cớ mỉm cười như vậy, ông nhớ đến đêm nào xem chèo cổ Kha đã mỉm cười vào đúng lúc cảm động nhất – vì vậy ông điềm nhiên tiếp:
- Thôi thì ngày giỗ mình cũng nên sứa soạn vài mâm cho tươm tươm một tí, chính là dịp anh trinh diện lại với một số bà con thân tình. Những người thân vừa vừa không tiện mời thì mình sắp đồ biếu: một đĩa xôi, ba quả chuối, một miếng thịt quay khổ lớn, thế là đủ. Mua hẳn cái thủ lợn quay anh giáo ạ. Tôi đã tính tất cả chỉ hết năm trăm là cùng.
- Vâng, vậy thì thế này chú nhé, việc mua bán các thứ cháu chả biết trông cậy ai ngoài thím cháu và cô Hĩm….
Ông Hạo ngắt lời Kha:
- Anh giáo cứ gọi em nó là cô Toản, chồng nó là thằng Toản mà.
Ý chừng sợ Kha hiểu lầm về việc bắt bẻ đó, ông chặc lưỡi:
- “Lấy chồng phải gánh giang sơn nhà chồng” em nó đã về nhà chồng anh giáo cứ gọi tên chồng nó cho tiện.
Kha mỉm cười hiểu ý:
- Vâng, trăm sự cháu nhờ thím cháu và cô Toản.
Kha đứng dậy ra cửa hướng về phía bếp:
- Cô Miên ơi.
Tiếng Miên:
- Dạ.
- Cô lên tôi nhờ một tí.
- Vâng, em lên ngay đây.
Kha quay lại nói với ông Hạo:
- Thủ quỹ của chúng cháu đấy ạ.
Ông Hạo lắc đầu tỏ dấu thán phục:
- Anh thật tốt số, gặp toàn những bạn tốt quá đi mất.
Mien đã lên, nhanh-nhẩu chào ông Hạo rồi nói:
- Thưa ông, cháu nghe thấy tiếng ông mà đương làm bếp dở không lên chào được xin ông thứ lỗi cho ạ.
- Ấy chết không dám, cô dạy quá lời.
- Thưa ông cháu đã làm cơm để cả ông cùng xơi với anh em chúng cháu đấy ạ.
- Chết chưa, tôi phải về ngay.
Kha gạt lời ông:
- Chú vội đến đâu đi nữa cũng hãy xin ở lại xơi cơm đã. À cô Miên, cô đưa cho tôi năm trăm đồng. Ngày hăm bốn sắp tới tất cả chúng mình sẽ về trong quê làm giỗ.
Miên vui-vẻ như trẻ thơ:
- Ô thích nhỉ, để em mở tủ lấy ngay đây.
Ông Hạo đưa mắt nhìn theo Miên lanh-lẹ đến mở tủ ở góc phòng, lắc đầu nói khẽ vừa đủ Kha nghe:
- Anh thật tốt số, anh thật tốt số!
Chợt nhớ ra điều gì, ông trợn mắt:
- Chết chưa có một việc chính suýt nữa tôi quên.
Ông móc túi lấy ra một mảnh giấy gấp làm tư. Ông trịnh-trọng mở ra và đặt trước mặt Kha:
- Bài khấn! Phải khấn bằng chữ nho, anh giáo! Tôi đọc cho thằng Toản ghi, chữ khí xấu nhưng anh trông được chứ?
Kha đưa mắt nhìn mấy hàng chữ rồi gật đầu:
- Dạ xem được ạ.
- Anh thử đọc lại tôi nghe xem nó chép có đúng không nào.
Miên trao năm trăm đồng cho Kha và xuống bếp, Kha trao năm trăm đồng cho ông Hạo và bắt đầu đọc thong thả:
“Đại Nam quốc, ngoại thành Hà-Nội, Định Quyết xã, Nhâm Ngọ niên bát nguyệt, nhị thập tứ nhật, thừa đích từ Phạm Mạnh Kha cẩn dĩ cụ soạn phù lưu thanh trước chỉ nghi…”
- Nghĩa là soạn bầy đầy đủ trầu cau, vàng hương – ông Hạo ngắt lời Kha và giải thích.
Kha khẽ dạ một tiếng rồi đọc tiếp:
“..cảm chỉ cáo vu hiền tỷ, húy…lai phối hưởng. Kính thỉnh Thổ Công, táo Quân, trụ trạch đồng lai phối hưởng”.
Ông Hạo gật đầu, rất hài lòng:
- Nó chép đúng đấy, hiền tỷ là mẹ, hiền khảo là bố, hiền tổ là bà, hiển tổ khảo là ông, anh giáo hiểu chửa.
Thấy thái độ ông Hạo trịnh-trọng quá Kha không dám cười, chàng chỉ khẽ gật-gù làm vẻ trầm tư như đương hết sức theo dõi lời giảng của ông.
Ông Hạo giảng tiếp:
- Mình cũng phải kính thỉnh cả thổ công và táo quan đến cùng hưởng, một ông là thần đất, một ông là quan trị nhậm tại nhà, mình phải mời chứ, anh giáo.
Kha gật đầu liền mấy cái, vẫn cố giữ vẻ trầm-ngâm đáp.
Tiếng Hiển ở bên ngoài:
- Ê cô Miên ơi!
Miên reo:
- Ô anh Hiển đã về.
Hiển vào nhà cúi chào ông Hạo rồi vẫn nói lớn với Miên:
- Thứ hai này cô đi làm đấy.
Miên nhô ra khỏi bếp:
- Có đúng là đi làm ở nhà thương Phủ-Doãn không anh?
- Đúng – Hiển đáp.
Giọng Miên thoáng lo lắng:
- Hôm hăm bốn là thứ mấy, anh Kha nhỉ?
- Cô đừng lo – Kha đáp – hôm đó đúng chủ nhật.
Hiển nhìn Kha hỏi khẽ:
- Hôm hăm bốn làm gì thế?
- Giỗ mẹ tôi ngày đó.
Ông Hạo tiếp lời:
- Hôm đó ngày húy nhật của bác cháu, chúng tôi trù tính làm trong quê. Để rước cậu và cô Miên hôm đó cùng về.
Hiển cười vui vẻ:
- Dạ có chứ ạ, chúng tôi sẽ cùng anh Kha về từ sớm.
Miên đã vào bếp, tiếng nàng vọng ra:
- Em mà đi làm nữa thì nhà mình gà ăn không hết của!
Ông Hạo mỉm cười như vui lây niềm vui của Miên. Ông chợt đưa mắt nhìn Kha, khẽ lắc đầu rồi nói chỉ vừa đủ ông nghe:
- Anh ấy thật tốt số!
Chủ nhật hai mươi bốn tháng chín âm lịch Kha cùng các bạn Hiển, Hãng, Miên về làng từ sớm. Miên giành về phần mình phận sự xách lẵng hoa quả (cam, táo, nho) để lát nữa bầy trên bàn thờ.
Thoạt mọi người theo Hãng rẽ vào thăm bà Phán và Thi trước. Bà Phán hẳn có ý ngóng đợi từ sớm nên vừa nghe tưởng những bước chân lao-xao qua cổng, bà đã tự trong nhà bước ra hiên, ân cần chào hỏi mọi người và mời tất cả vào nhà, riêng với Hãng, bà bảo:
- Cậu xuống bếp bảo con sen đun nước ngay cho tôi đi.
Kha vừa bước lên thềm Thi cũng vừa tự trong nhà bước ra tới bậc cửa, nàng bỡ-ngỡ cúi chào Hiển, Miên đồng thời gọi tên chàng:
- Anh Kha!
Lời Thi thốt gọi nhẹ-nhàng đượm vẻ ngạc nhiên rất thân mật nhưng Kha có cảm tưởng vừa thoáng nghe tiếng kêu của một con chim bị thương. Chàng cất tiếng cười để xóa nhòa cảm giác buồn đó và thốt thành lời vui:
- Trời ơi về Hà-Nội được trên hai tháng rồi mà mãi hôm nay mới thật được gặp cô. Tuần trước cô về quê còn sớm chứ?
Không để Thi kịp trả lời, Kha giới thiệu Hiển, Miên với bà Phán, với Thi.bà Phán trở lại vẻ lịch thiệp ngày xưa:
- Cậu Hiển, cô Miên, dạ phải, lần đầu tiên được gặp cô cậu nhưng tôi đã được anh Kha, em Hãng nhắc cho biết từ lâu.
Thi cúi đầu chào Hiển, Miên rồi Thi nói với Kha:
- Em vẫn hỏi thăm anh luôn, nhiều lúc muốn oán anh vì bằng-bẵng chẳng thấy anh về.
Giọng Thi nhỏ nhẹ dường như nàng không thể nói to hơn được, câu trách thân mật trở thành se-sắt, rồi Thi tiến tới gần Miên thành đôi bạn gái. Bà Phán chép miệng nói với Kha:
- Anh xem, em nó còn yếu quá! Chết chưa, xin mời tất cả vào nhà.
Trong nhà đồ đạc ít, giản dị và sạch bóng. Bà Phán vẫn nói với Kha:
- Rồi lát nữa tôi sẽ sang bên nhà giúp một tay (bà lại chép miệng) ngày nào bà chị tôi còn sống, chị em gần-gũi nhau bao nhiêu…
Thi đứng bên Miên, dáng người Thi gần như Miên, nhưng vì mang bệnh phổi nên Thi gầy hơn, xanh hơn. Kha luôn luôn gặp đôi mắt thăm-thẳm của Thi quay sang hoặc ngẩng lên nhìn chàng. Khi Kha gặp cái nhìn ấy một lúc Thi nói, chàng có cảm tưởng tiếng nói của Thi mất hút vào một thế giới dị kỳ nào không để lại một tiếng vang, điều này càng khiến vẻ đẹp của Thi thêm não-nùng.
Chính Miên cũng cảm thấy thương Thi ngay từ phút đầu gặp mặt. Miên thấy ở Thi hình ảnh của chính nàng nhưng đáng thương hơn vì bệnh tật. Từ trước Miên chỉ thương mình, nay gặp Thi quen Thi, tuy thương Thi mà lòng Miên cảm thấy vui vui, có lẽ vì Miên cho rằng tình thương của nàng từ nay được dịp nở rộng để ôm lấy một đối tượng bên ngoài nàng. Miên và Thi cùng gọi nhau bằng chị và xưng với nhau là em.
Rồi tất cả mọi người sang nhà Kha. Ở đây gà vịt, thịt lợn, thủ lợn quay, gạo nếp, đỗ xanh đã được bà Hạo và cô Toản mua đủ. Mấy con gà, mấy con vịt đã được làm lông sạch, rá gạo nếp vo kỹ trắng ngần đặt trên chiếc chậu sành lớn ngay cửa bếp. Trong bếp thấp-thoáng những ngọn lửa cháy đều, và trên mái tranh một làn khói xám nhạt uốn mình lên cao rồi nhẹ-nhàng hòa vào với khí giời của một sớm cuối thu trong trẻo. Bà Phán bàn với bà Hạo cách làm cỗ. Miên nhờ Thi bầy hộ hoa quả lên bàn thờ, còn nàng thì tiến thẳng vào bếp giúp cô Toản.
Thoạt cô Toản nói một câu xã giao:
- Ấy thôi bác cứ lên nhà, mặc em.
Miên cũng không chú ý đến câu cô Toản gọi mình là “bác”, như thể nàng đã là vợ của Kha, nàng chỉ thân mật đáp:
- Em phải giúp chị một tay chứ, có thế mới chóng xong.
Việc cô Toản buột miệng gọi Miên bằng “bác” có lý do của nó. Lần này không phải là lần đầu Miên về làng Định Quyết. Lần thứ nhất nàng về bảo cho ông bà Hạo biết tin Kha bị giữ ở ty công an Gia Lâm, lần thứ hai nàng về báo tin Kha đã được tha và đón ông Hạo cùng ra Hà-Nội, lần thứ ba là lần ăn giỗ này.
Lần thứ nhất bà Hạo thoạt thấy một cô gái xinh xắn, khuôn mặt phúc hậu tuy ăn mặc quần trắng áo màu kiểu Hà-Nội nhưng căn cứ vào hàng may cũng như về người bà đoán cô ta không phải thuộc hẳn hạng con nhà dòng giàu sang đài các. Sau khi Miên đã báo tin một cách lễ phép kèm theo đôi lời an ủi dịu-dàng, nàng trở ra, bà Hạo suy nghĩ rồi buổi chiều, có mặt cả cô Toản, bà nói với ông Hạo:
- Ông ạ, tôi chắc nhà cô này là vợ theo của anh Kha.
Cô Toản nhanh miệng hỏi:
- Cô ấy có xinh không hở u?
- Xinh lắm, phúc hậu, tử tế.
Ông Hạo chặc lưỡi:
- Thời buổi loạn này khối người có vợ theo mà toàn là con gái nhà tử tế. Được về làm dâu nhà mình cũng phúc chán!
Lần thứ hai Miên về đón ông Hạo, rồi chú cháu hàn huyên, rồi buổi tối hai chú cháu đi xem chèo cổ, sớm hôm sau ông từ biệt Kha lên chuyến tàu điện Kim-Liên, về tới nhà còn chân ướt chân ráo ông đã cải chính với bà Hạo:
- Cô hôm nọ không phải là vợ theo của anh Kha đâu. Cô ta còn ông anh ruột nữa, cả hai đều là bạn thân của anh Kha.
Bà Hạo kết luận ngay, giọng đanh thép:
- Trai gái mà thân nhau thế rồi cũng đến lấy nhau sớm.
Bà móc túi lấy miếng giầu cho vào miệng nhai. Ông Hạo cương quyết cải chính:
- Đã đành rằng thế, nhưng không phải là vợ theo, bà đừng nói thế oan người ta.
Miếng giầu đã bị nghiền nát giữa hai hàm răng, giọng bà Hạo vì thế thít lên một cách đáng sợ:
- Đấy, rồi ông xem!
Ông Hạo hơi rẩu môi ra một chút, im lặng.
Ông chỉ dám phản đối tiêu cực có thế.
Lần vợ chồng cô Toản ra thăm Kha, Miên đi vắng. Tới dịp làm giỗ này, chính là lần đầu tiên hai người gặp nhau. Nhớ lại lời mẹ đoán ngày nào Miên là vợ theo của Kha, cô Toản bản tính nhanh nhảu đã buột miệng gọi Miên bằng “bác”. Nhưng rồi sau đó thấy Miên và Thi xưng hô với nhau là “chị” với “em”, cô Toản vội-vã bắt chước theo, cô cũng biết xưng hô như thế tự nhiên hơn.
- Thưa chị chắc anh còn phải đi làm nên không đến được? – Miên hỏi cô Toản
Cô Toản sung sướng vì thấy Miên đã biết chồng mình cũng là dân đi làm ngoài tỉnh, cô đáp ngay:
- Vâng hôm nay thứ bảy nhà em phải đi làm buổi sáng, chắc sẽ xin về sớm chứ chẳng không.
Rồi trong khi cùng đun bếp, cô Toản kể cho Miên hay cô đã sinh được một trai đầu lòng kháu khỉnh nhưng “giời bắt tội, không cho làm người”, cô kể cả tính tình chồng nghiêm chỉnh ham học hỏi, ưa âm nhạc cải cách và mới mua được một chiếc mandoline.
Bóng những thanh niên Hà-Nội Hiển, Hãng bên ông Hạo, bóng bà Phán bên bà Hạo, bóng Miên, Thi bên cô Toản, tất cả tạo thành một bức tranh khá đẹp, khá linh động về sự gần gũi thân mật giữa tỉnh và quê.
Nói chuyện một lát, Hãng đưa Hiển đi ngắm cảnh chùa. Ông Hạo cùng Kha lên sửa soạn bàn thờ. Khi đèn đã sáng choang, ông bảo Kha:
- Thôi xôi gà đã bày trên bàn thờ rồi, anh khấn bác gái đi thì vừa, anh nhớ bài khấn bằng chữ nho chứ?
- Dạ, cháu nhớ.
Nghe Kha đáp, ông Hạo yên lòng, ông lảng ra sân. Sự thực Kha có nhớ gì đâu. Chàng đến trước bàn thờ rồi khấn:
“Thưa mẹ, ngày nay là kỳ giỗ thứ ba của mẹ, nhưng con không được gặp mẹ đã từ năm năm nay. Lễ bạc lòng thành, chúng con làm cỗ cúng, kính mời anh linh thầy mẹ về thụ hưởng”.
Đứng ngoài giữa sân, ông Hạo vẫn kín đáo quan sát Kha hành lễ. Ông hơi lấy làm lạ là bài khấn chữ nho khá dài mà Kha đọc chóng xong quá nhưng ông quên ngay điểm thắc-mắc này khi nhận thấy khuôn mặt Kha (lúc đó chàng vừa bước xuống sân) tràn ngập một niềm đau buồn khó tả. Bất giác ông cũng cúi đầu thở dài. Có bóng người lướt nhẹ phía trước. Ông ngẩng nhìn. Đó là Miên bưng mâm xôi chè lên bàn thờ, Thi lẽo đẽo theo sau…Ông mỉm cười bâng quơ, nhưng gương mặt trở lại trầm tĩnh. Vô tình ông tiến về bụi tre đầu nhà, những cây tre cao, thân đã ngả mầu vàng, lá xơ xác nhưng bên dưới đã nhú lên vô số măng non, có cái cao tới một gang tay. Tre già măng mọc! Ông chú ý nhìn những cây măng, ông thấy chúng ngộ nghĩnh, mũm mĩm chẳng khác gì những con gà con rúc trong ổ mẹ, những con lơn con chúi đầu tìm vú mẹ, thoáng một giây ông nghĩ đến cả thằng bé dại con cô Toản.”Rõ hoài! – ông tự nhủ thầm – giời để làm người bây giờ thằng bé đã làm được khối trò rồi đấy”.
III
Có tiếng chân bên ngoài hàng giậu…Ông Hạo dời bỏ tức khắc mọi ý nghĩ ví-von luẩn quẩn về những cây măng và tiến nhanh ra phía cổng chào mời đon đả:
- Rước cụ vào ạ…Kìa mời ông bà vào.
Kha cũng đã từ góc sân tiến tới vui-vẻ đón bà ngoại, một tay cầm chiếc khăn mặt đỏ, một tay chống gậy cụ bước vào trước, ông bà cả Bê vào theo sau.
Ông cả Bê nhìn quanh rồi nói với Kha:
- Ô thì ra bác đến sớm hơn cả, đúng là ăn cỗ đi trước lội nước theo sau!
Bầu không khí bắt đầu tưng bừng với lời thăm hỏi cùng tiếng cười giữa bà cả Bê, bà Phán và bà Hạo.
Kha vực bà ngoại lên hè. Cụ chống gậy bước qua ngưỡng cửa tiến thẳng tới bàn thờ. Ông cả Bê cũng đã bước vào và nói lớn để cụ nghe rõ:
- Cụ ơi, cụ lẫn rồi, hôm nay là ngày giỗ thím nó việc gì cụ phải lễ.
Cụ ngẩng lên cười – nụ cười hiền như Phật – và đáp lời ông cả Bê:
- Tôi lễ các cụ chứ đâu lễ nó (cụ ngẩng lên nhìn bàn thờ) cỗ bàn thế này liệu nó có dám hưởng một mình không? Nó phải mời các cụ chứ. Nó trông thấy tôi thế này là nó phải đứng dậy tránh sang một bên rồi.
Ông cả Bê cười để lộ hai hàm răng cải mả và cả một phần lợi trên màu đỏ nhờ-nhệch, nụ cười thật dễ thương nhưng người làng vẫn cho là ông vất-vả chính vì tướng lộ xỉ đó. Ông vừa cười vừa gật gật đầu mấy cái để chứng tỏ là ông đã chịu lý cụ rồi. Ông hỏi, giọng vẫn lớn để cụ nghe rõ (nguyên giọng ông đã lớn rồi).
- Thế ông bà bát Thoại cháu đâu mà vẫn chưa thấy lại, thưa cụ? (Ông bà bát Thoại là cậu mợ Kha).
- À, chúng nó cũng sắp lại – cụ đáp – khi tôi thủng thẳng tới đây, thì chúng nó còn đang mặc áo cho thằng Bắc con Đông. Hai đứa vừa đi học về. Bố mẹ nó cứ định không cho chúng nó đi, tôi bảo phải cho chúng nó đi ăn cỗ chứ.
Bà cả Bê vừa bước vào, thoáng rõ câu chuyện, bà nói:
- Cụ dạy thế là phải, ở đây toàn người nhà cả mà việc gì ông bà Bát phải giữ ý. Giá thằng Chiến nhà cháu hôm nay không sốt mọc răng chúng cháu cũng cho lại, cụ ạ. Trâu bò đến ngày phá đỗ, con cháu đến ngày giỗ cụ.
Cụ gật đầu biểu đồng tình, bà Cả tiếp:
- Thôi bây giờ rước cụ lên lễ trước đi rồi đến lượt chúng cháu.
Bà Phán cũng vừa vào lớn tiếng chào. Cụ nhận ra bà ngay, giọng cụ có vẻ cảm động:
- Kìa bà, quý hóa quá, bà cũng nhớ đến em nó mà sang đây hôm nay ư?
- Thưa cụ có chứ ạ, chị em ăn ở với nhau trước làm sao sau làm vậy.
Bà Phán chép miệng – (từ ngày gặp bao nhiêu cảnh buồn bà vẫn có tật hay chép miệng như vậy)
- Thưa cụ mới ngày nào bà chị con còn sống, chị em chúng con hợp nhau bao nhiêu (bà lại chép miệng) thôi thì mùa nào thức nấy có của ngon vật lạ chẳng bao giờ chị em quên nhau.
Những lời trên bà Phán nói bằng giọng bình thường nên cụ nghe không rõ. Cụ chỉ chăm-chú nhìn miệng bà Phán, và khi thấy bà ngừng nói rồi thì cụ cười như để chấm câu lấy lòng.
Cụ dựng gậy vào bờ cửa rồi quỳ xuống sập có giải chiếu hoa. Trước khi lễ cụ đưa mắt nhìn Kha đứng bên rồi như chợt nhớ ra điều gì cụ nói:
- Mày chờ bà lễ xong, rồi bà có câu chuyện hay lắm nói với mày.
Kha cười và “dạ” một tiếng lớn. Chàng đã biết trước cụ sẽ nói gì…Quả vậy cụ nói theo ý cụ nên mua đôi lợn con từ giờ, rồi chỉ nuôi một năm là đủ hai họ ăn uống. Cụ thèm có chắt lắm. Cụ vẫy bà Phán, bà Hạo, bà cả Bê, cô Toản, rồi cả Miên Thi lại nữa và cụ nói như phân bua:
- Thằng giáo mà nó chịu lấy vợ thì chỉ một năm sau tôi có nằm xuống cũng đã có cái khăn vàng đi đưa đám, thế có phải ai cũng khen là nhà có phúc tứ đại đồng đường không hở các bà?
Bà Quân đến – bà dì Kha – Ty, cậu con giai trưởng của bà, Thơ cô con gái thứ đều đã lớn tuổi nên giữ ý không đến, bà chỉ đắt theo Quảng, cậu con út. Nét mặt bà Quân bao giờ cũng sầu muộn, nụ cười héo-hắt vì cảnh góa bụa và cảnh nghèo thường xuyên của bà. Bà Nụ đến. Bà Nụ cũng nghèo như bà Quân, cũng góa chồng như bà Quân từ sớm và không có con, nhưng bà Nụ bao giờ cũng vui, giọng bà trong, tiếng bà ròn.
Bước qua cổng bà Nụ cất giọng sang-sảng nói với Kha đương chạy đến đón bà:
- Nào hôm nay cô đến xem cháu cô làm giỗ mẹ ra sao nào.
Miên ở trong bếp bước ra, hai tay bưng chiếc mâm đồng nhỏ trên có con gà luộc đặt trên đĩa sứ lớn, mỏ cài một bông hồng. Khi qua chỗ bà Nụ đứng Miên khẽ cúi đầu chào.
Bà đáp lễ rồi hỏi Kha:
- Cô nào đấy cháu?
- Thưa cô hôm nay cũng có mấy người bạn của cháu về ăn giỗ. Cô vừa qua đây là cô Miên, em người bạn thân của cháu….
Bà Nụ vỗ vai Kha cười tít:
- Cháu cô kén vợ khéo lắm nhé.
Hãng và Hiển cũng vừa đi thăm chùa về, Kha giới thiệu:
- Thưa cô anh Hãng thì cô biết rồi, còn đây là anh Hiển, anh cô Miên.
Bà Nụ trở lại nghiêm trang cám ơn Hiển, Hãng đã có lòng chiếu cố về ăn giỗ.
Sau cùng ông bà bát Thoại đến là vừa đủ. Căn nhà hàng ngày vẫn yên tĩnh bấy giờ náo nhiệt hẳn.
Tiếng ông Cả Bê oang oang:
- Mời ông bà Bát lên đây, vụ mùa năm nay ông bà đổ đâu cho hết của?
Đáp lại lời quá khen của ông Cả là những lời rất nhũn nhặn của cậu mợ Kha, ông bà bát Thoại.
Cả làng đều gọi ông Thoại là ông bát Thoại, sắc phong bát phẩm đó không phải do vua ban mà do một người làng bạn, thoạt với tính cách khôi hài, lẽ dĩ nhiên, nhưng rồi lâu ngày dân làng gọi thế quen đi, đến nay danh hiệu đó hầu thành chính thức không một chút khôi hài.
Nguyên do ngay từ hồi còn trẻ tuổi ông Thoại đã nổi tiếng là một tay chơi xì cao nhất hàng huyện. Cao ở chỗ ông rất sáng nước, nhớ và đoán được lớp bài. Cao ở chỗ ông rất bình tĩnh để nắm quyền chủ động trong việc quan sát nét mặt, cử chỉ, ngôn ngữ đối phương, khi đi tiền. Kể cả những con bạc thanh niên hăng hái nhất, giàu tự ái nhất, hiếu thắng nhất, qua một lần chơi xì với ông đều chịu nhận mình chỉ là con nít. Người ta quí ông Thoại chính là ở chỗ ông chơi hoàn toàn do trí thông minh, do tài cao đoán, chứ không hề bịp-bợm.
Hàng năm thời gian “dụng võ” của ông Thoại thường vào tiết trọng xuân, những ngày làng Định Quyết mở hội.
Bao giờ cho đến tháng hai
Cho làng vào đám cho giai ra đình
Tháng hai năm đó ông Thoại mới trên hai mươi tuổi và canh xì giữa thanh niên làng được thiết lập ngay góc đình bên hữu, vừa kín-đáo vừa sạch-sẽ. Rút tới con thứ ba, hai thanh niên bên tả và bên hữu ông Thoại đành chịu bỏ vì bài xấu, chỉ còn ông và người bạn đồng niên ngồi đối diện. Anh này khét tiếng trong làng là đam mê xì và hiếu thắng vào bậc nhất. Hai thanh niên bỏ bài, cùng chống hai tay xuống chiếu theo rõi một cách chăm chú, hào-hứng chẳng kém gì hai người trong cuộc (như thể xem một vở tuồng ruột tuy đã thuộc lòng từng đoạn, từng cảnh mà vẫn hồi-hộp).
Rút cây thứ năm đối phương hơn Thoại có đôi đầm trên mặt. Anh chàng chặc lưỡi nhũn mà thách-thức.
- Pha! (nhường cho địch thủ đi tiền )
Chàng thanh niên Thoại cười ha hả:
- Anh chỉ có một đôi mặt thôi mà tôi lại hơn anh hai Xì và Tây. Vậy xin đi năm chục đồng.
Đối phương nhìn nghiêng để bắt chợt nét mặt Thoại, nhưng nét mặt Thoại có bao giờ thay đổi, chỉ lẳng lặng kéo caií điếu lại, vê thuốc tra vào nõ, từ từ đánh diêm rít một hơi thật ròn, vừa nhả khói thì phương đập mạnh tay xuống phản:
- Theo! Này năm chục và….tố ố ố thêm năm chục nữa!
Thoại nhìn thẳng vào mặt đối phương:
- Anh chỉ có một đôi đầm và tẩy chức, tôi nói cho anh biết thế (Thoại dằn giọng) tẩy chức!
Đôi mắt đối phương thoáng bối rối, Thoại quẳng ra năm chục rồi hỏi:
- Anh còn tất cả bao nhiêu tiền?
- Tất cả trước mặt anh đây này.
Hai thanh niên chịu bài rán theo Thoại từng cử chỉ như để “uống” lấy pha xì hồi hộp và quý giá vào bậc nhất đó.
Thoại hỏi:
- Còn muốn đánh thêm tiền trong túi nữa không?
Đối phương cười híp mắt, vững giọng đáp:
- Làng đây cũng thừa đủ!
Thoại hất hàm:
- Đếm xem còn bao nhiêu.
Đối phương đếm hung hăng:
- Còn một trăm hai mươi nhăm đồng nữa.
Thoại điềm tĩnh nói:
- Như vậy thì ván bài này anh có thua cũng chỉ thua chừng ba trăm là cùng.
và chợt cười lớn:
- Ba trăm có thể mua được một mẫu đất ruộng tốt đấy. Bắt! và tố thêm một trăm hai mươi nhăm đồng nữa.
Đối phương vỗ đùi ha hả:
- Anh đôi xì chăng? Đôi tây chăng?
Thoại chặc lưỡi:
- Tháu cáy đấy, vì biết chắc anh chỉ có đôi đầm mặt và tẩy chức!
- Anh định ăn hết cả tiền để tôi về chết với vợ đấy phỏng?
- Thì vợ anh nó cũng chỉ rỉa-róc anh suốt một tháng là cùng, rồi nó phải quên đi chứ.
Bằng một cử động mạnh bất ngờ đối phương vơ gọn tập giấy bạc trong lòng, giơ cao tay quẳng mạnh vào đống giấy bạc giữa chiếu. Nhanh như chớp chàng thanh niên Thoại vồ lấy cả đống giấy bạc ngồn-ngộn như con sư tử vồ mồi ngon vừa định kéo về lòng chàng thì có tiếng đối phương.
- Ấy khoan! Tôi đã bảo “bắt” đâu mà anh vội vơ tiền thế?
Đối phương cười khanh khách:
- Đánh xì như anh còn kém lắm, tôi quẳng tiền vào như vậy chỉ là để đánh cái đòn thăm dò thôi.
Đối phương thu lấy số một trămb hai mươi nhăm đồng về. Tiếng cười chiến thắng – chiến thắng về tâm lý – càng ròn-rã như để trả thù số tiền đành chịu mất vì mấy lần bắt trước.
Đối phương nói qua tiếng cười chế riễu đó:
- Anh có đôi xì hay đôi tây đấy, cho nhau biết được chăng? Xin nhường anh ván này vậy!
Thoại bình tĩnh vơ tiền về, khuôn mặt không hề thay đổi, chỉ nói khẽ:
- Anh bạn có thể mở lấy mà xem.
Đối phương lật con tẩy của Thoại. Tiếng cười ngưng bặt. Đồng thời với hai tiếng “ồ” lớn của hai ông bạn đã chịu bài khi nãy, tiếng vỗ đùi đánh “đét” của đối phương:
- Bỏ mẹ tôi rồi!
Đúng như lời tuyên bố, Thoại đã tháu cáy, bài chẳng có đôi gì hết.
- Đánh như anh đáng được vua ban bát phẩm văn giai. Giỏi, giỏi thật! bá Thoại giỏi lắm! – đối phương kết luận.
Ván bài tháu cáy được truyền tụng khắp làng và cũng kể từ đấy người làng gọi đùa ông Thoại là bát Thoại. Năm năm sau tên đó nghiễm nhiên thành một danh từ kép, không một chút khôi hài.
Trên bàn thờ đã tàn hết ba tuần nhang thẻ, những thỏi trầm bên trong đỉnh đồng cũng đã bén hết, chỉ còn nén hương vòng cháy dở như tượng trưng cho lòng kính ái thường xuyên của người sống dâng lên người chết.
Được sự chỉ dẫn của bà Phán và bà cả Bê, cô Toản và Miên bày ra làm ba mâm. Sự phân chia thành nhóm khá hợp lý theoquan niệm miền quê. Một mâm gồm toàn các ông: ông Hạo, ông bát Thoại, ông cả bê, các thanh niên Kha, Hãng, Hiển và Toản (vừa đi làm về), một mâm gồm toàn các bà: cụ ngoại, bà Hạo, bà Phán, bà cả Bê, bà Nụ, bà Quân, mâm thứ ba gồm cô Toản, Miên, Thi và lũ trẻ mà các cô có nhiệm vụ trông nom cho ăn: Quảng, Bắc, Đông.
Nghĩ mình lao nặng, Thi xin rút lui, nhưng tất cả những người có mặt đều tiếp lời nhau giữ nàng lại cho bằng được (chính bà Phán và cả Hãng nữa ở nhà vẫn ăn cơm cùng mâm với Thi để nàng đỡ tủi).
Thi miễn cưỡng ở lại nhưng trước khi ăn – cũng như ở nhà – nàng đã kín đáo xuống bếp đặt ấm đồng nước sôi để lát nữa dội vào bát đũa của nàng, và trong khi ăn nàng dùng hai thìa, hai đôi đũa…
Vì cô Toản và Miên phải trông nom lũ trẻ nên mâm thứ ba này nói chuyện ít. Trong khi đó ở mâm các bà câu chuyện tuyxì-xào nhưng giữ được nhịp thường xuyên, thoạt là các chuyện làm ăn cày cấy vất vả, buôn bán khó khăn, tiếp đó ôn lại những kỷ niệm xưa với người quá cố, vui có buồn có, tóm lại câu chuyện nông nổi thôi nhưng tình cảm nhẹ-nhàng thành-thực, từ đầu đến cuối không một phút gắng-gượng.
Câu chuyện ở mâm các ông phức tạp hơn cả. Thoạt là chuyện về thời tiết và vụ màu sắp gặt năm nay, câu chuyện chuyển dần sang thời sự, các ông nhắc lại cái nhục khi con tướng De L. Chết ở mặt trận Ninh-Bình, trường tiểu học làng phải để cờ rũ suốt một tuần lễ.
Ông cả Bê vừa với cái điếu vừa gân cổ lớn tiếng phê bình:
- Bố con đưa nhau sang cướp nước nhà người ta chết là đáng còn cờ rũ cờ riệc làm cóc gì?
Ông bát Thoại:
- Nghe nói dạo đó thằng De L. Nó mắng mấy anh chóp bu chính quyền người mình là ngồi ăn hại trong khi con nó chết.
Ông cả Bê đã đánh diêm hơi cúi đầu xuống để miệng ngậm vào đầu xe điếu sắp rít một hơi bỗng ngửng lên công phẫn:
- Thì nó chửi cho là phải, toàn là lũ ăn hại cả.
Ông bát Thoại chêm thêm một ý kiến sâu sắc hơn:
- Chính phủ khỉ gì thay đổi soành-soạch, nay thủ tướng này, mai thủ tướng khác, dân chúng không hề biết lý do mà à à…cũng chẳng cần biết lý do nữa!
Ông cả Bê vừa đánh que diêm thứ hai chưa hút vội nói:
- Thì chúng nó cứ tự Bắc bay vô, từ Nam bay ra chỉ để gặp đức Mệ ở Huế, đứa nào đút được nhiều thì làm thủ tướng. Các chức chủ hiến cũng vậy. Chúng nó chỉ cần tại chức một tháng là thu đủ vốn và từ tháng thứ hai trở đi là lời.
Ông vẫy vội tay vì que diêm thứ hai cháy đến tay, ông phải đánh đến que diêm thứ ba, Kha còn phải hồi-hộp thấy ông tiếp tục nói cho đến khi diêm này cháy một phân nửa ông mới chịu cúi xuống hút.
Các ông lại nhắc đến chuyện lên giá đồng phật lăng vào tháng tư năm ngoái (1952). Tên thủ tướng làm bộ phản đối Pháp kỳ thực đã được quan thầy cho phép chuyển ngân trước mấy triệu rồi.
Có dịp về quêcn trò như vậy Kha, Hiển, Hãng mới thấy rằng chẳng có gì giấu được người dân. Chỉ có câu chuyện của Toản là không được tự nhiên. Toản cùng lứa tuổi với Kha, Hiển, Hãng, Toàn còn là một công chức, thư ký sở Thủy Lâm. Vì có mặc cảm tự ty về “trình độ văn hóa” trước Kha, Hiển, Hãng, nên anh thích bàn về các chủ nghĩa chính trị trên thế giới, anh nhắc-nhở đến tên một vài danh nhân thế giới, hình như có cả một đôi câu anh đả-động đến nghệ thuật kịch ảnh thế giới.
Khi các ông nói đến lũ con buôn chính trị bay ra bay vô để gặp đức Mệ, anh thêm một câu:
- Đức Mệ đâu đã bằng nữ hoàng Katherine của Nga!
Khi nói đến tên chóp bu chính quyền được quan thầy thực dân báo cho biết trước việc lên giá đồng phật lăng và làm lơ cho được chấm mút ít nhiều trong việc chuyển ngân, anh Toản nhún vai nhìn khắp lượt Hiển, Hãng, Kha rồi mới nói “Bao giờ cho nước mình có được một Mustapha Kémal!”
Toàn còn kể với Hiển, Hãng, Kha về việc trước đây hơn một năm anh bị bắt đến đồn Liễu Giai (về phía Bưởi, ngoại thành Hà-Nội) bị tra tấn thập tử nhất sinh, rồi còn bị giải đến Sureté de l’Air của Pháp ở phố Hàng Vôi để lại bị tra tấn lần nữa, thế mà anh không khai gì hết (vì không có gì để khai). Sự thực Toản cũng đáng để khen ở chỗ không vì bị tra tấn mà khai oan cho người khác, ngày nay Toản vẫn coi đó như một thành tích cách mạng của anh.
Anh kết luận:
- Chỉ thương hại cho nhà tôi ngày đó khóc hết nước mắt. Cứ như là tôi bị bắt nhốt vào ngục Bastille!
Ba giờ chiều Hãng, Hiển và Miên ra Hà-Nội trước, Kha ở lại để bàn với bà Hạo xem phải đem biếu những ai. Bà Phán cũng ở lại trong quê với Thi đến chiều cả mới ra phố. Trước khi về, Thi đến chào chàng. Nàng đứng sững trước mặt Kha nhìn chàng thân mật.
Miên thường chạy trốn trước cái nhìn man rợ của Kha. Thi ngược lại, tuy yếu đuối về thể xác hơn, nàng đã tiếp nhận cái nhìn đó ngang nhiên, bình tĩnh. Phải chăng vì thế mà Kha quyết định ngay rằng chàng có bổn phận gần gũi Thi để sưởi ấm cuộc đời bệnh tật của nàng.
Vì tình yêu của chàng mà Thi khỏi bệnh thì ai dám phủ nhận rằng đó không là một bổn phận thiêng liêng? Trường hợp sắc đẹp mong-manh đó nếu mai đây không thoát khỏi lưỡi hái tử thần thì lại càng là một lý do thiêng liêng để Kha yêu Thi chứ sao.
Kha nói khe khẽ với Thi trước khi nàng về.
- Anh đã có thẻ căn cước, tối nay anh ở lại nhà quê Thi ạ.
Tội nghiệp cho Miên! Có lẽ tại Miên quá chủ quan, coi Kha là của mình rồi nên với chàng, nàng không một cử chỉ khêu gợi lẳng lơ – thứ khêu gợi tự nhiên của cô gái đến tuổi dậy thì – để gây một cảm giác mạnh khả dĩ khuấy động tâm hồn Kha. Nàng hiền quá, thực thà quá, không biết cả khép-nép nữa, bởi khép-nép là một thế thủ đề phòng một thế công – dù là thế công mong ước – và thế thủ đó ít ra cũng gợi trong ý thức Kha là nàng có nghĩ đến thế công của chàng, cái khép-nép của Miên – nếu Miên khép-nép – biết đâu không gợi thế công trong lòng Kha? Miên ngoan quá, hiền quá chỉ một mực dịu dàng tự nhiên như người em gái. Miên đã nhầm! sự nhầm đó làm Miên chịu thiệt-thòi bao nhiêu.
Gió thu lạnh ghê ghê, mùi lúa thơm phức, một thành sương trắng quấn ngang lũy tre một làng xa thành một đại tang, khói lam chiều ở từng mái bếp bốc lên như muối lặng-lẽ sưởi ấm cho thiên nhiên. Kha thấy chán sự ồn-ào của đô thành, Kha ở trong quê một hôm thế này để nghe chính tiếng mình nói không bị lẫn vào tiếng xe cộ. Nhà rộng, sân rộng giờ đây còn ba bóng người, ông Hạo, bà Hạo và Kha.
Có tiếng trẻ con khóc ở căn nhà lá lụp-sụp cách dinh cơ nhà Kha một đường hẻm. Thấy Kha nhìn về phía đó bà Hạo nói:
- Nhà chị cả Cầu đấy, anh giáo còn nhớ chị ta không?
- Thưa thím cháu nhớ - Kha đáp.
Bà Hạo tiếp:
- Anh Cầu đi lính, đồng lương chẳng được bao nhiêu, khi nào về thăm nhà thì mang về cho vợ một ít xà phòng, một ít đồ hộp. Anh ta vợ con lắm!
Bà Hạo ngừng. Mấy giây sau bà nói tiếp, ngượng nghịu vì bà đang nhai trầu:
- Chị Cầu chẳng cần gì đến xà phòng cũng không biết ăn đồ hộp, mà đồ hộp thì còn ra cái gì nữa, chị mang đi bán ráo lấy thêm tiền đong gạo mua rau mua vừng cho hai con.
Anh Cầu – Kha còn nhớ - hơn Kha chừng năm tuổi, con nhà nghèo, thuở bé, đi ở chăn trâu cho ông bá Lãnh ở xóm Quản (xóm này ở giữa làng và trên một bãi cỏ rộng thuộc ngõ xóm về phía sát đồng có cái quán gạch) lớn lên anh đi cầy thuê. Thuở xưa mẹ anh mang thai đã trên chín tháng mà vẫn phải ra đồng cấy lúa, bà đẻ rơi anh ở bên lề cầu đá giữa đồng, do đó đặt tên anh. Anh có nước da đen ròn, mắt tinh, miệng cười tươi, lại khỏe, táo bạo, bơi giỏi từ thuở bé. Gần chùa có cái ao rộng và sâu, xung quanh bờ cây cối um tùm. Ao này đã có hai người chết đuối và trên một cành muỗm ven bờ đã có người thắt cổ, vì vậy tuy ao có cầu xây gạch rất sạch sẽ mà ít đàn bà trẻ con dám đến giặt giũ một mình. Nước ao lúc nào cũng mát lạnh thăm-thẳm huyền bí. Chỉ có Cầu chiều chiều đi chăn trâu về là dám nhảy xuống ao này bơi lội nhởn nhơ. Nhiều lần anh trổ tài lặn cho Kha xem, anh lặn từ bờ ao này sang bờ ao kia. Lớn lên ăn nói có duyên, anh thường trêu cợt các cô – cô nào cũng mắng yêu anh là “phải gió”, “nỡm”, “chết tiệt”. Nhiều khi mải suy nghĩ – nhà nghèo thường có nhiều điều phải suy nghĩ – anh không kịp nhận ra các cô, chính các cô lên tiếng trêu anh trước. Hình như cô nào cũng lấy sự được anh trêu là vinh hạnh. Anh có cách đùa kỳ quái và táo bạo nhất, nhè đúng lúc các cô đương xúm xít giặt giũ ở cầu ao, anh bơi tới gần đấy cởi phăng áo r rkhi sắp sửa cởi nốt quần, anh nói “Chà của giời cho, ăn cắp ăn trộm của ai mà sợ!” Các cô la hét vơ vội lấy rổ quần áo quay mặt đi, la hét đấy mà cười đấy, cảnh lộn xộn y như một chuồng gà mái vừa bị cáo nhảy vào bắt đi một con. Cùng xóm có chị Trác kém anh hai tuổi. Chị Trác cũng là con nhà nghèo, cũng khỏe mạnh, lẳn người và đẹp. Da chị trắng, vào mùa phải đi gặt mướn nhiều, màu trắng đó chuyển sang xám hồng. Có nhiều trai làng gặp chị ở khoảng đồng không quãng vắng giở trò chớt nhả nhảy vào ôm bừa, bị chị đấm đạp cho những cái trời giáng. Chẳng sơ múi gì, các anh chỉ còn biết cười trừ, còn chị thì lúc nào cũng cười tươi và ròn, kể cả khi chị đấm đạp chống cự. Một chiều chị ra ao giặt với các chị em, anh Cầu đủng đỉnh từ trong xóm đi ra.
- Cái ông nỡm kia lại sắp giở trò lục sở đấy – một chị nói.
Quả nhiên Cầu tới khoảng bờ gần đấy cởi áo rồi cởi quần và cũng lên tiếng phân trần trước “Chà, của giời cho, ăn cắp ăn trộm của ai mà sợ!” Nhưng trong khi các chị chu chéo quay giạt sang một bên, riêng chị Trác vẫn điềm nhiên vò áo, đúng lúc Cầu trần như nhộng, chị ngẩng lên nhìn trâng-tráo. Cầu nhảy vội xuống nước. Chính anh ngượng! đến mùa đông năm đó chị Trác thành chị Cầu.
Tiếng con chị Cầu bên đó vẫn khóc, chỉ có tiếng khóc là rõ, nó nói gì với chị Cầu, chị Cầu nói gì lại với nó, Kha nghe không rõ. Thốt nhiên Kha quay lại hỏi bà Hạo:
- Thím ơi, nhà còn phần biếu nào không cháu muốn mang sang biếu chị Cầu, tình hàng xóm!
Bà Hạo gật đầu:
- Còn anh ạ, còn xôi, còn chuối nhưng hết thịt quay.
- Hết thịt quay thím xếp cho một đĩa thịt gà.
Bà Hạo cười:
- Một đĩa thịt gà không phải lối, còn con gà luộc không ăn tới kia để tôi chặt lấy cái đùi. Mà biếu đùi gà thì lại trịng trọng quá, như thể biếu hàng cha chú mình.
- Cũng được thím ạ, thím cứ chặt cho cháu cái đùi gà.
- Được, rồi tôi mang sang cho anh.
- Thím để cháu mang sang, như thế thân mật hơn, chắc chị ấy vẫn nhớ cháu.
Mặt trời đã lặn hẳn, sương lạnh chiếm độc quyền xâm lấn da thịt con người. Mấy chiếc lá mít đỏ ửng như lá bàng lơ-đãng rụng theo cơn gió nhẹ từ phía đông ùa vào. Bên dưới gốc mít là cái vại sành được nước bên trên có tấm phên tre mốc đen, trên tấm phên là chiếc gáo dừa cán ngắn.
Thằng Bá con chị Cầu vẫn khóc lớn, tiếng khóc của nó đau đớn dằn-vặt và tiếng nó nói giờ đây Kha nghe rõ (chàng đã bưng khay biếu đến cửa ngõ nhà chị Cầu):
- Đau quá mẹ ơi!
Tiếng chị Cầu:
- Được rồi, con đã uống thuốc, tí nữa khỏi, nín đi con, mai mẹ đi chợ về lại mua quà cho như hôm nay. Thế con không ăn quà của mẹ ư? Bánh bò mềm mà.
Thằng bé vẫn nức nở nhắc lại điệp khúc:
- Đau quá mẹ ơi!
Kha đã vào đến giữa sân, nhìn thấy ngón trỏ thằng bé ấn cong lên khoảng má bên trong có chiếc răng đau, miệng nó méo xệch nước mắt nhễ nhại. Chị Cầu cũng vừa ngẩng lên nhìn Kha đôi mắt mở tròn bỡ-ngỡ.
- Thưa chị, - Kha nói, giọng ôn tồn lễ phép – hôm nay ngày giỗ mẹ em, gọi là có chút ít mang sang biếu anh chị.
Ở xã Địn Quyết vẫn có thói quen đôi bên không họ hàng thì người nhiều tuổi tự nhiên con người ít tuổi như em mình. Vẻ mặt chị Cầu đã bớt ngạc nhiên, chị mỉm cười cảm động, đỡ lấy đồ biếu đặt lên phản:
- Trời ơi, cậu Kha, cậu lại còn bày vẽ biếu anh chị. Anh không có nhà cậu ạ, chắc cậu cũng biết anh đi lính ba-ti-dăng.
- Dạ em có biết. Thỉnh thoảng anh có về thăm chị?
- Dăm ba tháng một lần cậu ạ. Nguy hiểm lắm, sáu tháng trước đây đã một lần bị phục kích đấy, chết hụt! về làng kể lại, tôi hết hồn. Chỉ còn năm tháng nữa là mãn, tôi bảo thôi đừng đăng nữa, về nhà làm thuê, làm mướn nhưng gần vợ gần con là hơn.
Chị Cầu thở dài, im lặng. Lời Kha nói lễ phép khiến chị không ngại giầu nghèo chênh-lệch (Kha mà giầu!) Kha chỉ hơi tiếc là chàng mặc tây, giá chàng còn giữ được bộ quần áo nâu ngoài hậu phương thì mỗi khi nói chuyện như thế nay chàng đã hòa hẳn được vào nếp sống của bạn nghèo quê nhà.
- Thưa chị cháu đau răng?
- Vâng cháu đau răng cậu ạ. Cậu Thạnh cháu làm y tá ở nhà thương răng Hà-Nội có cho cháu uống át-bi-rin và khuyên hễ khi nào không đừng được hãy nhổ.
Nói đến răng thằng bé lại khóc. Nó chừng lênba, mặt mũi nhem-nhuốc vì cả ngày chưa tắm, lại càng nhem-nhuốc vì khóc nữa. Con chị nó chừng lên sáu cũng nhem-nhuốc như vậy đứng nép vào xó nhà nhìn người lạ không dám ra dỗ em. Chị Cầu đau xót nhìn con khóc. Thà chính chị đau, chị chịu đựng lấy lại đỡ khổ. Ngón tay trỏ rất xinh của nó vẫn ấ ncong lên khoảng má răng đau. Cảnh chị Cầu ôm con lên như cố chia sẻ cái đau với nó làm chính lòng Kha cũng thấy quặn đau và trong một phút tê-tái bàng hoàng giữa khoảng bón chiều xẫm màu, tiếng khóc đau thương của đứa bé bỗng như thành tiếng khóc của cả dân tộc.
Kha chào chị Cầu để rút lui, tai lơ đễnh không nghe thấy lời cám ơn của chị. Bà Hạo chạy ra đón Kha tận ngoài ngõ đỡ lấy chiếc khay ở tay chàng, bà mỉm cười bỡ-ngỡ thấy vẻ thẫn-thờ như mất hồn của ông cháu. Vừa lúc đó một cô gái gánh nước từ phía trước lướt tới.
Cô ngượng-ngập cúi đầu chào Kha:
- Anh ạ!
Kha bừng tỉnh vội-vã chào lại:
- Chào cô.
Và Kha nhìn theo, những giọt nước rỏ xuống đường buồn như những giọt lệ.
Người con gái tuy béo mập hơn xưa nhưng Kha cũng nhận ngay được ra là Ngân. Tính theo liên hệ thân thuộc thì bà nội Kha và ông nội Ngân là hai chị em ruột. Kha nhớ lắm, hồi hai đứa còn nhỏ, hai nhà vẫn nói đùa là sẽ thông gia với nhau theo đúng tinh thần ca dao nửa miệng:
Cháu cậu mà lấy cháu cô
Thóc lúa đầy bồ giống má nhà ta.
Bà Hạo nói khẽ:
- Con không cha như nhà không nóc, từ ngày chú Đội chết, thím Đội làm ăn sa sút dần, rồi con Ngân chửa hoang. Anh giáo có biết không? Cứ như nếp sống ngày xưa thì Ngân nó đâu phải đi gánh nước như vậy.
Lúc đó hai thím cháu đã vào đến giữa sân, Kha đứng dừng lại hỏi:
- Ngân chửa hoang ư thím?
- Cũng chẳng biết nó chửa với đứa nào – bà Hạo đáp lẹ - Đẻ non, bảy tháng, thằng bé ra chết ngay, thôi cũng nhẹ nợ cho nó.
- Năm nào hở thím?
- Cách đây chừng một năm…
Được biết Ngân chửa hoang, một kỷ niệm ngày Ngân còn bé bỗng hiện lên rõ-rệt trong trí Kha. Ngày đó Kha mười tám, Ngân mười ba, ông Đội Thập – cha Ngân – đóng ở Lạng Sơn và Ngân theo cha mẹ lên đó đã được một năm theo học ngay trường tỉnh. Vào cuối một vụ hè bà giáo nhân một chuyến buôn dầu hồi ưng cho Kha theo lên Lạng Sơn. Bà nghĩ hai mẹ con sẽ nhân tiện vào thăm chú thím Đội một thể. Kha còn nhớ ông Đội có lính hầu, oai lắm. Mấy bữa cơm thết đều do lính hầu làm. Đêm đến Kha ngủ trên giường có nệm êm và khăn giải giường mới là trắng bong thơm phức đều do lính hầu sửa soạn. Ngày hôm sau trong khi bà Giáo đi cất hàng (dầu hồi đóng thùng) thì Kha được Ngân dẫn đi xem phong cảnh quanh Lạng-Sơn.
Ngay từ thuở mới mười hai mươi ba Kha đã cảm thấy lòng mê say mỗi khi đọc đến những câu:
Đồng-Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô-Thị có chùa Tam-Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mải vui quên hết lời em dặn dò
Thoạt vì còn nhỏ tuổi quá Kha chỉ thấy se sắt vì âm hưởng của những tiếng Kỳ Lừa, chùa Tam Thanh, sinh thành, dặn dò và hình ảnh nửa như cổ sơ nửa như ngộ nghĩnh của kẻ “Tay cầm bầu rượu nắm nem”. Nhưng rồi mỗi tuổi một lớn, sự ám ảnh vì âm hưởng của bài ca dao tác động màu nhiệm đến trí tưởng tượng của Kha. Kha nghĩ chắc là Lạng-Sơn phải đẹp lắm và có một sức quyến rũ thần kỳ nên người chồng mới “mải vui quên hết lời em dặn dò”. Nên nàng Tô-Thị mới mất chồng, nên nàng Tô-Thị mới hóa đá. Ôi, cái sự mải vui của người chồng lãng mạn biết là chừng nào, cái lòng chung thủy của người vợ và nỗi đau khổ của nàng đẹp biết là chừng nào. (Hồi đó Kha chưa biết chuyện Tô-Thị là em ruột người ra đi). Và Kha đòi mẹ cho đi Lạng-Sơn bằng được là vì thế. Kha bảo Ngân đưa sang phố Đồng-Đăng. Kha dừng lại rất lâu trên cầu sắt bắt qua sông Kỳ Cùng, dòng nước luôn luôn xiết mạnh và vào sườn núi đá ngầu bọt trắng. Kha bảo Ngân đưa đi xem động Tam-Thanh, nhưng cả hai chỉ xem được khoảng cửa ngoài, không có đuốc và cũng không có người dẫn để đi sâu vào phía trong động. Ngân còn đưa Kha đi xem núi Tô-Thị vọng phu. Sau cùng khoảng giữa trưa, Kha, Ngân, mười ba tuổi nhưng lanh lẹ, sắc sảo như cô gái lớn, ngoan-ngoãn như một nàng dâu thảo, thuần-thục như một người vợ hiền. Thành nhà Mạc cũng chẳng còn gì, di tích là nền móng với ít vôi gạch đây đó ngổn ngang, nhưng cảnh thì hoang vắng, thật là hoang vắng. Ngân mới mười ba tuổi còn nhỏ quá Kha chưa nghĩ đến ôm Ngân vào lòng, nhưng Kha nhìn Ngân trìu mến. Kha còn nhớ tiếng cười của Ngân như vỡ thành những mảnh thủy tinh vụn rồi tan biến vào ánh sáng chan hòa nhưng vắng lặng của miền rừng núi vòi-voi ban trưa.
Khi hai đứa về đến nhà mới hay cả nhà đã chờ cơm từ nửa giờ trước.
Ông bà Đội Thập tiếp tục ở Lạng-Sơn mấy năm sau nữa, cho đến ngày đảo chính mùng 9 tháng 3 năm 1945, quân Nhật tấn công chiếm tỉnh Lạng-Sơn. Ông Đội chết dưới cờ Pháp quốc, bà đội mang đứa con gái độc nhất về làng. Ba tháng một lần bà ra kho bạc lĩnh lương hưu của ông, số tiền chẳng được là bao.
Ngày đó Kha gặp lại Ngân ở làng, Ngân đã lớn, đã biết bẽn lẽn, khuôn mặt đẹp lại u sầu, có lẽ vìshe chưa quên việc cha tử nạn. Như vậy nàng có đủ điều kiện để làm Kha say mê và lấy nàng làm vợ, rủi thay cho nàng khi đó bà Phán đã tậu đất làm nhà ngay bên hàng xóm được trên hai năm rồi. Kha đã gặp Vân, Kha sắp được Vân, Kha đang say mê Vân, điên cuồng. Bóng Ngân vì thế mờ nhạt như ngôi sao mọc muộn về lúc vừng Đông hửng rạng.
Nhớ đến Vân, Kha cảm thấy cần phải sang thăm Thi, Kha sang ngay. Thi đã đứng ở đầu hiên, dường như nàng đứng đấy chờ chàng từ lâu, bên ngoài khoác chiếc áo len ngắn, mỏng. Con bé người làm đang lúi-húi đun nước dưới bếp. Bóng chiều đã phủ mờ cảnh vật. Thi chạy tới ôm Kha trước, nàng gục đầu lên vai Kha, không khóc, chỉ muốn thu nhỏ lại hơn nữa để Kha có thể bế gọn trong lòng. Nàng để nguyên Kha cúi xuống hôn lên tóc, lên trán, lên má, nhưng hết sức tránh không thể để Kha lướt lên môi. Chính nàng bíu chặt lấy Kha để muốn tìm hơi ấm ở chàng.
Gió chiều thanh-thản rộng lớn thổi vào hồn như thổi vào vũ trụ. Bóng tối bắt đầu nhòa nhòa, ánh trăng giữa khoảnh khắc tranh tối tranh sáng đó chưa đủ uy lực bao trùm lấy cảnh vật, cái nhìn của Kha cũng bị nhòa đi, nhưng Kha cảm thấy rõ người con gái nhỏ bé ngoan ngoãn nép má và ngả đầu lên vai chàng đương lên cơn sốt, thứ sốt hầm-hập, âm-ỉ. Kha vuốt tóc nàng nói khẽ:
- Em nên vào nhà nằm nghỉ. Anh đắp chăn cho em.
Kha dìu Thi vào, đặt Thi nằm lên giường, đắp tấm mền len cho nàng và kéo ghế lại ngồi ngay bên đầu giường.
Con bé người làm châm đèn tọa từ dưới bếp đem lên đặt trên chiếc bàn nhỏ kê sát tường gần đấy, ánh sáng tỏa ấm. Khuôn mặt Thi vẫn quay ra nhưng nàng nhắm mắt thở đều, nàng biết là Kha còn ngồi đấy.
Bà Phán không bao giờ nói, Thi không hề nói và Hãng cũng không nói. Kha có ngờ đâu Thi đã phải bơm hơi vào màng phổi cho một bên phổi nghỉ. Vì phổi hư nhiều tất cả các cơ quan khác đều yếu theo, nàng lâm tình trạng cachexie. Các thứ thuốc trị bệnh và trợ lực P.A.S, vitamine B1 B2, C, Extrait de foie, Campolon, Hépatrol, Solucamphre, Biocholine, nàng dùng như cơm bữa và chích nát thịt mà cơn sốt về chiều stk đến đều tuy không gay-gắt nhưng dai-dẳng.
Thi nhớ như in, như thể nhớ một giấc mộng tối hôm trước, ngày nào Kha tới đồn điền, hay tin Vân đã là vợ Mạnh, Vân khóc, hôm sau Kha ra đi, Vân xách lẳng đi lên đồi hái chè, chỉ có nàng theo anh Hãng tiễn Kha (và Tân nữa) ra tận bờ suối, nàng tần-ngần nhìn bóng Kha mãi cho đến lúc khuất, nắng xuân chói-chang, ban sớm mây trắng như sữa, lúc đó cả bầu trời đã nhuộm màu vàng lộng. Thi đâu có biết là nàng yêu Kha từ ngày ấy, nàng muốn thay thế Vân từ ngày ấy, bỡ ngỡ bước vào tình trường từ ngày ấy. Ngày nay gặp lại Kha, nhất là gặp vào lúc bệnh tình của nàng chẳng còn hy vọng gì qua khỏi. Thi thấy Kha chính là sự sống, và yêu Kha là yêu sự sống, yêu Kha là thế nhập là đồng hóa với sự sống, hay đúng hơn yêu Kha và được Kha yêu lại thì không còn ranh giới giữa sống và chết nữa, nàng đi vào cái gì đó mà người ta gọi là sống đời đời. Cho nên đúng sự thực thi đã ra đứng ngoài hiên chờ Kha vì nàng biết thế nào Kha cũng sang thăm nàng. Thực là khó tả được hết trạng thái tâm hồn Thi khi nàng thấy Kha bước vào cổng đúng như ý nàng mong đợi. Đó là trạng thái tâm hồn của một người hiếu khách, quý bạn, trong một ngày mưa ngâu tháng bảy rất buồn, ngồi một mình ở nhà, nhìn lọ trà ngon trên bàn, ấm nước sôi trên than hồng, bỗng cánh cửa mở tung, người bạn ưu ái nhất của mình tự ngoài vùng mưa gió bước vào, khép cửa lại…Thi đã chạy lại ôm Kha trong tâm trạng đợi bạn như vậy.

Khi ôm gọn Thi, thân hình nhỏ, đôi vai gầy, Kha thấy lòng tràn ngập một tình thương yêu cao khiết như tâm trạng của chàng một lần kia sự dậy giữa nửa đêm, tì cằm tìm vần thơ bên cửa sổ giữa tiếng thì-thầm bí ẩn của hoa lá xung quanh.

Nhưng khi đã đặt Thi nằm lên giường, ngồi bên Thi một lúc, rồi từ biệt ra về, Kha bỗng ôn lại vẻ đẹp của Thi vừa rồi, đúng là vẻ đẹp mong-manh của mảnh nắng vàng chiều hôm cố rực rỡ lên một phút trước khi đổ vỡ không một tiếng vang và chìm nghỉm vào bóng đêm. Cảm giác ôm Thi trong lòng, Kha thấy như cảm giác ôm một sự hoang vắng thân yêu, sự hoang vắng làm con người trở thành nhẹ bỗng trở thành hư vô, thoát khỏi mọi phiền lụy của thế gian.
Lần đầu tiên Kha ôm Thi, nhưng đó cũng là lần cuối cùng vì tuần sau chàng tiễn Hãng đi Pháp (Hãng xin được một học bổng sang đó tiếp tục học Luật). Thi yếu không theo qua tận phi trường Gia Lâm tiễn anh được. Trước khi đi Hãng nói với bà Phán “Sang bên đó con hỏi ngay xem có thứ thuốc nào mới nhất con sẽ gửi về cho em Thi.” Nhưng việc đó Hãng không kịp làm. Hãng dời nước được chừng dăm hôm thì Kha đến thăm bà Phán vào đúng lúc con sen vừa ở trong quê ra báo tin chẳng lành. Bà Phán nghẹn lời không khóc được…Kha cùng bà về quê ngay.
Hơi thở Thi đã yếu lắm.
Nàng thiếp dần…
Đôi môi cố gắng mấp-máy nhưng không nói được, chỉ ứa nước mắt nhìn mẹ, rồi nhìn Kha. Đôi mắt đó tràn đầy bóng tối rất mau, rồi hết tinh thần…thân hình bất động…
Câu chuyện thương tâm về cô gái thùy mị, bạc phước, mong manh đó chúng ta chỉ nên biết vậy là đủ. Hãy trở lại buổi chiều Kha từ biệt Thi rồi qua đêm đầu tiên chàng ngủ lại giữa lòng quê thân yêu.
VI
Lạnh! Kha rùng mình, tâm trí bàng-hoàng trong tiếng u u đều đều mà chàng chưa nhận ra là tiếng sáo diều. Chàng mở mắt trừng trừng như muốn dùng cái nhìn đó để chống đỡ lấy khoảng trống rỗng mênh mông trong tâm trí, vì xung quanh chàng tối đen như mực. Vô tình chàng quờ tay xuống ngực kéo chăn lên ngang vai. Không phải là chiếc chăn len quen thuộc mà là tấm mền vải thoáng mùi mốc dễ chịu. Kha nhớ ra rồi, chàng ngủ ở quê! Buổi chiều khi sang chứng kiến cảnh nghèo của nhà chị Cầu, nghe tiếng khóc đau đớn dằn-vặt của thằng bé để tưởng như nghe tiếng khóc của dân tộc và ngay lúc đó Kha đã có ý nghĩ: giá những kẻ hiện được thực dân trao cho chút ít quyền hành, chúng có lòng thương dân tộc, biết ôm ghì lấy lịch sử dân tộc mà san-sẻ niềm đau như hình ảnh chị cầu với nét mặt xót xa bối rối ôm con lên, giá được như vậy…
Chị Cầu già đi rất nhiều, cảnh nghèo với biết bao lo âu đã làm bệ rạc thân hình chị. Còn đâu sắc đẹp tràn trề sức sống thuở xưa, còn đâu tiếng cười vẫn ròn tan, vô tư và đầy dung thứ khi chị dùng tay đấm, phóng chân đạp những chàng trai cùng lứa tuổi và lực lưỡng không kém. Kha không được gặp anh Cầu nhưng Kha chắc chắn có gặp anh thì cũng lại gặp một hình ảnh xác-xơ khác chứ đâu còn là anh Cầu đùa cợt hồn nhiên “Của giời cho, ăn cắp ăn trộm của ai mà sợ!” Anh Cầu, chị Trác cũng như hàng triệu thanh niên nam nữ tại khắp miền đồng quê nước Việt tuy lớn lên trong cảnh nghèo của gia đình nhưng đi vào tuổi thanh xuân chan hòa sức sống. Bầu không khí của đất nước màtrg sạch (trách nhiệm của những kẻ nắm chính quyền) biết nuôi dưỡng họ, họ có thừa đức tính để trở nên những vĩ nhân của thế giới ở mọi ngành văn học, khoa học, nghệ thuật. Tất cả những sức sống phơi-phới đó bị bạo lực soi mòn, bị tham tàn bóp nghẹt cho rã-rời tắc thở, sau cùng mụ-mẫm đi mà chỉ còn biết sống theo bản năng. Tuy chỉ sống theo bản năng mà nếp cảm nghĩ cũ còn thể hiện được thành những cử chỉ nhỏ nhưng mênh-mông cao quý. Như chị Cầu thức đến mười một giờ khuya xay bột, dậy từ bốn giờ sáng để tráng bánh cuốn, rồi thổi cơm cùng hai con ăn bữa sáng, nắm cơm cho hai con ăn bữa trưa, vội vã gánh hàng ra đi cho kịp buổi chợ, thường mãi đến chiều mới về. Như anh Cầu ra đi cầm súng, rõ ràng là anh chiến đấu cho sự sống còn của dân tộc nhưng bao công lao đều do thực dân và lũ tay sai hưởng thụ, lòng thương vợ thương con của anh chỉ còn thể hiện được ở chỗ hà-tiện lấy vài bánh xà phòng, bớt ra lấy vài hộp thực phẩm để mỗi khi về làm quà đón tay. Kha nghĩ đến cả guồng máy hành chánh nặng nề của lũ thực dân và bù nhìn, chúng như hợp nhất lại, biến thành một con vampire khổng lồ bám lấy người dân Việt mà hút máu không ngớt. Thoáng trong trí Kha ánh đèn rực rỡ huy hoàng tại các công thự (nơi lũ to đầu ở) những khuôn mặt phè-phỡn, áo quần tề chỉnh tấp nập trong các quán ăn thủ đô mỗi chiều thứ bảy…
Khi về đến ngõ Kha lại gặp Ngân, biết thêm một chuyện về nàng. Rồi Kha sang thăm Thi, bầu không khí kỷ niệm u buồn đó càng quyện lấy hồn Kha rồi khuếch đại mãi lên như một cuồng phong đương thời hoạt động. Trời đã tối mịt khi Kha về, bước vào nhà, lên phản nằm, trong trí ôn thêm những hình ảnh cũ và suy nghĩ rất nhiều.
Ngân đã chửa hoang với một anh nào. Ngân phải yêu người đó vì nàng đâu phải là gái lẳng lơ. Lời bà Hạo còn vẳng bên tai Kha:
“Con gái thế là hỏng một đời!”
Bà Hạo còn cho Kha biết thêm lão hàn Công dâm đãng làng bên có ý định hỏi Ngân làm vợ bé, hắn đã trên năm mươi tuổi, người béo tốt, khuôn mặt phì nộn hồng-hào. Nói về sức khỏe mạnh thô bỉ của hắn, một chàng trai xã Định Quyết đã phê bình một câu khá hóm-hỉnh và cay độc “Thằng cha ấy đái vào gốc tre khô cũng nẩy măng!” Ngân đã nhổ nước bọt khi nghe lão rắp-ranh hỏi nàng.
Kha buồn rầu nghĩ thầm “Thảo nào khi chào mình, Ngân cúi đầu bẽn lẽn”.
Kha nhớ đến trước ngày kháng chiến. Tín cũng chửa hoang. Tín cũng ở xóm chùa này và ngày đó cũng trạc tuổi Ngân bây giờ. Nàng là cô gái chanh-chua nhất làng. Nàng chửi thẳng vào mặt những cô bạn nào dám “nói động” đến nàng. Nàng chửi có sách và bài chửi linh động tùy theo hoàn cảnh, như một nhạc sĩ sử dụng phím đàn tùy theo nhạc hứng. Nhất là khi đánh nhau với chị em, phải nói làshe được đánh nhau, nàng say mê trong vật lộn y như một nghệ sĩ say mê trong sáng tác, nàng nhỏ người và yếu nên thường bị đối phương đè rấp xuống bùn nhưng nàng túm tóc đối phương mà kéo xuống. Đã có lần cả xóm đổ ra và những bà lực-lưỡng nhất xúm lại phải vất vả đến mười lăm phút sau mới gỡ được tay nàng ra khỏi mớ tóc nạn nhân (vẫn là nạn nhân, mặc dù đè lên trên). Khi đứng dậy mỗi người bị kéo về một phía, nàng chỉ còn chửi, lời lời tuôn ra tưng bừng như dòng suối xuân, đối phương không sao chửi kịp, bởi một lời của đối phương vừa cất lên, lời đó lập tức đã bị chìm nghỉm vào cả một khối lời trơn-tru mà số lượng cũng như chất lượng – có thể nói là chất lượng lắm chứ - phồn thịnh gấp trăm lần.
Rồi nàng về tắm rửa thay quần áo sạch, nhởn-nhơ đi ra đường, tinh thần rõ ràng sảng khoái như một người đã thực-hiện đầy đủ nguyện vọng của mình.
Năm 1945, sau cuộc khởi nghĩa tháng tám, tối tối nàng xách đèn dầu ra đình theo lớp bình dân học vụ. Người dạy là Kiên, một thanh niên xóm Quán, tính tình trang nhã, có vợ và hai con.
Tính tình Tín cũng thay đổi hẳn. Nàng trở nên dịu-dàng thuần-thục, tuyệt nhiên không chửi nhau hoặc cãi lộn với ai.
Năm đó nước lớn, đê vỡ, lúa mùa bị ngập dưới sâu một thước. Một đêm trung tuần tháng chín, Kiên chèo thuyền ra đồng đến quá nửa đêm mới về, mang theo một con đỉa bám vào kẽ ngón chân cái mà không biết. sớm hôm sau con đỉa hút đầy máu to kềnh rụng xuống sàn nhà. Ba tháng qua đi, sang hạ tuần tháng chạp vào khoảng nửa đêm và sáng ngày hai mươi sáu tết cả làng Định Quyết đương chìm trong giấc ngủ say sưa, bỗng có tiếng kêu kinh hoàng, đó là tiếng hú hồn của bà Hương Trí (mẹ Tín):
- Hú ba hồn chín vía con Tín ở đâu thì về với cha mẹ, anh eeeem!
Ba lần như vậy rồi im lặng.
Kiên là một trong những người dit vùng dậy, anh ngồi như tượng, đôi mắt trừng trừng nhìn vào khoảng không, cả bầu trời bên ngoài đen kịt, lạnh buốt căm căm. Từng cơn gió giật, hun-hút khô khan qua những cành bàng trụi lá, rì-rào bí hiểm qua những lùm soan cao vút quanh nhà.
Tín uống thuốc phiện dấm thanh. Miệng nàng ngậm chiếc nhẫn vàng khi chết (người ta bảo ngậm vàng thì chết linh thiêng). Nàng có mang được ba tháng.
Kha thiếp ngủ lúc nào, không ăn cơm chiều. Bà Hạo buông màn và đắp chăn cho chàng chiếc mền vải. Bà biết Kha có lòng thương người, bà thương Kha cách biệt gia đình trong thuở ly loạn, bà giáo chết, mẹ con chẳng được gặp nhau.
Một tia sáng như hư như thực lọt qua khe cửa giúp Kha đoán là trăng hạ tuần đã lên. Chàng ngồi nhổm dậy, khẽ vén màn, khẽ rón-rén mở cửa rồi lách ra ngoài. Dưới ánh trăng mờ đồng hồ tay chỉ ba giờ rưỡi sáng. Tiếng sáo diều đều đều giờ đây nghe thật rõ.
Kha không ngờ sau bao ngày chinh chiến dân làng Định Quyết vẫn còn giữ được thói quen thả diều sáo vào những đêm hạ và đêm thu. Diều cỡ trung bình bề ngang chừng ba thước gọi là diều sáo, cỡ lớn bốn hoặc năm thước là diều chiêng (có lẽ vì mang sáo lớn tiếng kêu âm u như tiếng chiêng). Giấy phết lên diều được quét thêm một lần sơn sống để nhỡ rủi có gặp mưa bất ngờ diều cũng không bị bục từ trên cao. Nếu gió cứ dìu-dịu đều đều, diều thả suốt đêm.
Kha bước xuống sân nhà ngẩng nhìn trăng hạwek giữa khoảng vắng lặng của cảnh vật, ánh trăng buồn-bã chiếu sáng mấy vệt mây trắng bất động giữa đỉnh trời, bóng những lá cau phơ phất, những cây soan cao như những cây thông với những lùm lá thẫm màu nhòa nền trời, ngang tầm mắt, hình hàng rào duối dọc theo ngõ xóm in thành một vệt sẫm thẳng tắp.
Kha tiến tới một cây thấp gần đấy, những hạt sương long-lanh như những hạt lệ của cảnh vật khóc rưng rưng khi nghe tiếng than vãn từ vạn cổ của sáo diều. Lòng se sắt Kha tưởng chàng có gom phần nước mắt của mình vào những giọt sương đó. Hình như tiếng sáo diều chung kết lại tất cả những mối sầu của tình quê kẻ còn (Ngân) cũng như người khuất (Tín). Ánh đèn thấp thoáng bên nhà chị Cầu. Chắc chị đã dậy sửa soạn tráng bánh. Có tiếng chày mau và đều. Thốt nhiên nhịp theo tiếng chày đó một giọng hát cất lên, giọng hát êm tưởng như theo gió từ xa..xa lắm vẳng lại.
Kha đứng lặng như bị chôn chân xuống đất vì chàng chợt nhớ ra rằng tiếng hát đó, cũng như tiếng sáo diều kia chàng đã được nghe từ lâu lắm, từ ngày chàng còn nhỏ xíu luôn khóc đòi mẹ ẵm lên lòng. Rồi từ đấy vì được nghe luôn nên chàng không hề lưu ý tới những âm thanh và âm điệu đó, cho đến nay bặt một thời gian sáu bảy năm xa cách tiếng hát đột nhiên xuất hiện vào giờ này để tự tô đậm nét trường cửu của nó. Tiếng hát giọng đò đưa buồn buồn, chơi vơi xa vắng. Lời không rõ nhưng cảm giác thì như vậy. Tựa như tự thuở nào đến giờ cứ vào những giờ thanh vắng đó là tiếng hát nổi lên, tiếng hát như thoát lên tự lòng đất, kể lể nỗi niềm để vừa thoa dịu vừa làm cho thấm-thía thêm những sầu hận của những kẻ chợt thức giấc đón nghe nó.
Một đợt gió lùa tới làm lanh gáy Kha. Chàng vẫn đứng chôn chân một chỗ, lặng nghe tiếng hát. Có tiếng lá cây xào-xạc tự đàng xa, rồi một đợt gió khác mạnh hơn ào ào lướt tới như một đoàn âm binh trẩy gấp vì một nhiệm vụ khẩn cấp. Kha vẫn đứng nguyên chỗ cũ hoàn toàn bị giọng hát thôi mien, hay đúng hơn để cho tâm hồn tan vào tiếng hát, xóa nhòa ý niệm về thời gian và không gian. Tuy nhiên chàng vẫn cảm thấy lạnh, cái lạnh của một tâm hồn cô đơn. Hình như chàng mỉm cười vì trong cái vô cùng cô đơn ấy chàng thấy rõ rằng chiến tranh tàn phá gây biết bao cảnh đổi đời, nhưng có một cái mà không gì tàn phá nổi là tiếng sáo diều và nhất là tiếng hát kia, tiếng hát tự lòng đất, tiếng hát sầu dằng-dặc nhưng là tiếng hát bất tuyệt vỗ về an ủi sự sống làm cho sự sống càng phì nhiêu và bất tuyệt như nó.
phần ii
Chương 8
Trên bờ vực lịch sử
i
Chợt thức giấc ra vườn dưới ánh trăng tà gần về sáng nghe tiếng sáo diều buồn hiu hiu, nghe điệu đò đưa thổn thức như bốc lên tự lòng đất ghi nhận sự bất tuyệt của tình quê, rồi Kha cũng phải trở vào nhà, ngả lưng xuống phản, đắp chăn ngang bụng, để mặc cho ý nghĩ lông bông rồi chợp ngủ lại... Khi chàng sực dậy đã có tiếng lách cách dọn cơm.
Nhà quê vì việc cày bừa vất vả nên có thổi bữa sáng, mâm cơm thịnh soạn mà thân mật với những thức ăn dư hôm trước được đun lại. Lâu lắm Kha mới được vục mặt vào chậu nước mưa trong vắt đầy ắp và hầu như có phảng phất hương cau hương nhài. Rồi ba chú thím cháu vừa ăn vừa ôn lại chuyện mời mọc hôm qua xem có điều gì khuyết điểm không. Ăn xong cũng đã tám giờ sáng, trong khi ông bà Hạo sửa soạn đi thăm đồng, Kha tạm biệt chú thím ra Hà Nội. Khi qua cổng nhà Thi, Kha đã thấy Thi từ trên hiên bước xuống tới chàng. Nàng hỏi:
- Anh ra phố?
Kha gật đầu âu yếm đáp:
- Anh phải ra phố sớm để kịp soạn bài dạy buổi chiều.
-  Em tiễn anh một quãng.
Thi đi bên Kha, nhỏ bé.
- Đêm qua em ngủ ngon giấc?
-  Cám ơn anh, khá.
Đi qua cổng chùa một chút Kha dừng lại bảo Thi:
- Thôi em yếu đừng tiễn anh xa lát nữa về một mình mệt.
Thấy không có bóng người, Kha dịu dàng cầm tay Thi:
- Vả lại sớm nay lành lạnh, em nên trở lại nằm nghi, tuần sau anh về.
Thi ngoan ngoãn vâng lời.
Ra tới Hà Nội, Miên đã đi làm, buổi đầu tiên của nàng tại nhà thương Phủ Doãn. Kha thấy Hiển ngồi thừ trước bàn, tay cầm mẩu giấy nhỏ. vẻ thẫn thờ của Hiển làm Kha chột dạ. Kha hỏi:
- Có việc gì thế Hiển?
Hiển lắc đầu ngao ngán:
Tôi thật ngu như bò, lúc vào đây thực thà khai văn bằng, bây giờ nó bắt vào Nam theo học lớp sĩ quan Thủ Đức. Giấy vừa nhận sáng này đây!
Kha chỉ thốt được tiếng “hừ”, chưa biết tính sao, Hiển đã nói:
- Chúng mình đến thăm Hãng, cả ba cùng bàn xem sao.
-  Nếu vậy nên đi ngay!
Hãng có nhà và khi hay tin Hiển bị gọi đi theo học lớp sĩ quan Hãng cũng thốt tiếng “ủa” ngạc nhiên, thành thử ba người gặp nhau cho ấm lòng thôi, chứ cùng vô kế khả thi. Hiển nói:
Đôi mắt Hãng bỗng trợn tròn, miệng há hốc rồi nói ngay:
- Ấy chớ! Nhục! Nhục, thật là nhục!
Thoạt Kha và Hiển chưa hiểu sao, nhưng khi nhớ lại những lời trước đây Hãng thường cau có thốt ra thì cũng mang máng đoán được phần nào.
Thì ra con đường đó chính là con đường Hãng đã đi. Bỏ “ngoài kia” vào thành, gặp lúc buôn bán khó khăn, mẹ túng, lại thêm vấn đề động viên, Hãng vào làm interprète ( thông dịch) đồng hóa chân sergent trong quân đội. Thoạt Hãng ngỡ là chỉ việc ngồi tại phòng nhì - (cái tên nghe đã gây nhiều ác cảm) - dịch tài liệu ai ngờ họ còn có quyền bắt đi “ốp” (opération). Lần thứ nhất đi theo chiến dịch Hãng được xếp ở một trại lọc tù binh - camp de triage. Các thầy đội thông ngôn mỗi người một bàn, tù binh -  những người dân tại các làng lân cận đủ nam phụ lão ấu bị quây dẫn về- xếp thành từng hàng dài, các thầy hỏi mấy câu theo chỉ thị, rồi tùy theo sự nhận xét của mình phát cho tờ phiếu xanh hay đỏ (nguy hiểm hay không) nhốt vào hai nơi riêng. Người dân quê vốn giàu nhận xét thực tế, thấy phiếu đỏ phát cho những người già, những người tàn tật thi họ đoán ngay là những người phiếu đỏ sẽ được thả sớm bèn ăn cắp của nhau những phiếu đỏ đó ngay khi còn trong hàng, thế là những lời than khóc, cãi cọ làm sốt tiết một vài thầy đội thông ngôn đương hỏi cung, những đường gậy giáng xuống đầu, những dòng máu đỏ tươi rỉ ra chảy xuống, quện đặc lại, tím đen dần bện vào mớ tóc rối bản bên màu da vàng xỉn... Bức tranh điêu linh còn  đó chỉ phản ảnh được muôn một thảm trạng mênh mông rộng lớn mà người dân quê Việt đương phải chịu đựng. Lần thứ hai Hãng đi “ốp” theo sát hẳn đại đội hành quân càn quét. Hãng dừng lại cùng bộ tham mưu bên một nhà thờ nghe bộ phận truyền tin gọi chasse- khu trục cơ. Mười lăm phút sau bốn chiếc Hell Cat thay phiên nhau rú máy nhào xuống thả bom napaim rồi nã liên thanh xuống khu đồi sừng sững ngay trước mặt. “Thực là như ciné!” - một người nói vậy. Sau phần can thiệp của khu trục, bộ binh từng đợt tiến lên chiếm lĩnh ngọn đồi, thường thì quân đội chính quy đã rút lui, chỉ còn người dân giơ đầu chịu báng. Các thầy đội thông ngôn có việc làm, những người dân bị dẫn tới, các thầy hỏi về tình hình địch, quân số địch khi họ chưa rút lui. Hãng còn nhớ lắm đặc biệt lần đó người ta dẫn đến trước Hãng một cô gái quê, khuôn mặt sầu khổ, đôi môi mím, đôi mắt luôn luôn gợn ánh căm hờn, Hãng chợt chú ý đến chiếc quần của cô mặc trái, đũng có thắm chút máu. Nàng mới bị cưỡn đoạt trinh tiết không bao lâu. Mặc dầu lời hỏi của Hãng rất dịu dàng lễ độ, nhưng dịu dàng lễ độ như vậy để làm gì? Cứu gỡ được gì cho người con gái? Thay vì lời hỏi lẽ ra Hãng phải lớn tiếng tự nguyền rủa mình đã là thầy đội thông ngôn, nhân viên phòng nhì của quân đội viễn chinh Pháp... Lần thứ ba đi “ốp”, Hãng phải theo bộ chỉ huy tiến sâu và mở rộng các mũi dùi vào một miền đồng bằng. Trên các tường đình, chùa, miếu nào đều có ghi khẩu hiệu địch vận tiếng Việt có, tiếng Pháp có, dọc đường tiến quân rải rác những truyền đơn địch vận. Hãng nghĩ trước đây mình đã từng chỉ huy cơ quan địch vận, việc làm chính đính vằng vặc như trăng sao, giờ đây lật ngược hoàn cảnh, chàng lại ở về phía địch làm thầy đội thông ngôn phòng nhì, thật là bỉ ổi. Chàng có thể dẫm phải mìn mà tan thây, có thể bị phục kích mà nằm gục trên vũng máu đỏ, thật ô nhục, chết cho bộ đội viễn chinh, kẻ thù đương muốn cướp lại đất nước mình. Trong chuyến đi “ốp” này, Hãng thực mục sở thị cảnh những xe lội nước theo lệnh dàn thế trận rồi bắn như mưa vào một làng, những cây tre rập gục, thấp thoáng mấy con trâu con bò vùng chạy lúng túng rồi ngã khuỵu dưới làn đàn chằng chịt bừng bừng sát khí. Rồi bộ binh tiến vào làng, vắng teo. Và những khẩu hiệu những truyền đơn! Một binh sĩ chui vào một cái hầm rộng buộc thừng vào cổ chân một người chết, kéo ra ánh sáng: một cụ già đầu tóc bạc phơ vẻ mặt phong lưu, người cụ không một thương tích chắc vì hầm nông quá, hơi bom đạn dội vào mạnh quá làm cụ đứt mạch máu đầu. Rồi đây quân đội rút đi, cái xác còn lại, con cháu về khóc lóc, chôn cất, hận thù bao giờ nguôi? Tát cả đồng quê chìm ngập trong hận thù như vậy, thứ hận thù chính đáng rõ rệt như trắng với đen. Quân đội viễn chinh xì xồ nói tiếng ngoại quốc ra lệnh bắn giết triệt hạ để hòng tái chiến. Hãng ở phía quân đội đó, thực là sỉ nhục! Chua chát mỉa mai hơn nữa là nếu miền này hoàn toàn dưới chính quyền vững chắc của cán bộ Việt Minh thì chỗ đứng của cụ già phong lưu kia lại là... đấu trường, vậy xung quanh cụ không là lửa đạn nhưng là những cán bộ tam cùng, người nguyền rủa cụ chẳng là thứ tiếng xì xồ ngoại quốc mà là tiếng nói biến dạng của lũ con cháu đã được Đảng giáo dục lại...
Buổi chiều hôm đó bộ đội “ốp” đóng quân trong một làng khá dài và rộng. Tiếng lợn eng éc, tiếng gà quang quác... có tên da đen lục lọi tìm được máy quả trứng tươi trong ổ gà đẻ. Cùng buổi chiều đó Hãng chứng kiến một “sen” hồi hộp suýt thành bi thảm. Quân đội tạm đóng chia nhau bố trí canh gác quanh làng. Hãng phải ra đầu làng hỏi cung một thanh niên mới bị bắt giải về. Người thanh niên ít tuổi hơn Hãng, khuôn mặt sáng sủa, đôi mắt ranh mãnh, nụ cười cố làm ra ngờ nghệch. Hãng đoán ít nhất cũng là trưởng ban tuyên truyền hay trưởng ban địch vận chi đây. Chàng làm mặt nghiêm hỏi:
- Tên anh là gì?
Anh chàng làm bộ khúm núm đáp:
- Bẩm quan tên con là Trần Văn Thiên.
Hãng cố dấu nụ cười vì chàng thấy ánh mắt kẻ đối diện thoáng tia dí dỏm, chàng đoán song song với câu “bẩm quan” trên phải là câu chửi đổng kèm theo một lời nguyền rủa ngầm bên trong. Hãng lại làm mặt nghiêm hỏi:
- Có phải anh là cán bộ tuyên truyền?
- Dạ bẩm quan không ạ.
- Anh là cán bộ địch vận?
- Dạ bẩm quan không ạ, lạy quan thương tình.
Nếu lật ngược tình thế- Hãng nghĩ thầm- chàng thanh niên này bắt được Hãng, y chỉ cần biết đơn giản là Hãng làm ở phòng nhì nhất định y ra lệnh xử bắn ngay, không một chút thắc mắc, mà chính Hãng trong trường hợp đó cũng không hé một lời van xin, một phần vì biết van xin cũng chẳng được, một phần Hãng cho rằng rủi mình bị bắt, chết cũng đáng đời mặc dù chàng chẳng làm điều gì ác, mặc dù cha chàng bị tụi chúng bức tử. Chàng cho rằng riêng việc mình đứng trong hàng ngũ quân cướp nước- dù là đứng hờ- cũng đáng chết rồi.
Sau một phút đờ đẫn Hang sực định thần bắt chợt ánh mắt riễu cợt của đối phương. Có thể là y đương quan sát lại Hãng và tưởng tượng cảnh lật ngược thế cờ xử bắn Hãng. Hãng mỉm nụ cười buồn rầu, chàng giao trả y cho quân độj canh giữ, vừa lúc có máy người lính vác tiểu liên chạy rầm rập theo đường lớn ra khỏi làng một quãng rồi lên một gò cao, nơi có bố trí lính canh. Thì ra họ rọi ống nhòm thấy có ba người dân đương tiến về làng. Hãng theo chân bọn lính lên gò. Tiếng nói chuyện của ba người dân càng ngày càng rõ dần, giọng họ trong trẻo, vui vẻ, đượm chút hài hước mà không ngờ rằng đương đi vào tử địa. Khâu tiểu liên đã được đặt trên chiếc giá ba càng vững chãi, mũi súng chĩa về phía ba người xa, những người lính nằm nép xuống... rình mồi. Tiếng nói của ba người đã rõ hẳn, họ đương thuật lại cho nhau nghe việc chạy loạn sáng này. May thay, cả ba rẽ xuống con đường nhỏ. Thì ra không phải họ tiến thẳng về làng hiện bị chiếm, họ rẽ xuống làng đối diện. Lập tức người tiểu đội trưởng cho lệnh bắn, khẩu tiểu liên khạc lửa, tiếng nổ vang dội trong bóng chiều, ba người dân vùng chạy cuống quýt lảo đảo nhưng vẫn giữ vững hướng tiến thẳng về phía trước mặt, họ bỏ đường mòn, lội ùa xuống ruộng lúa, tiểu liên tiếp tục khạc lửa, tiếng những bước chân bì bõm lội nhanh, nước bắn tung tóe. Hú vía, cả ba đã thoát xa tầm súng... Họ sẽ nhớ đời đời chiều nay. Ngày mai, ngày mốt họ sẽ kể lại chuyện này cho con cháu nghe, câu chuyện hào hứng biết là chừng nào, còn gì hào hứng hơn là chạm trán rồi chạy đua với Thần Chết? Rồi từ đây cho đến ngày họ lìa bỏ cõi đời trên giường bệnh làm sao họ quên đựợc chiều hôm nay, tất nhiên thỉnh thoảng họ phải ôn lại, thuật lại. Chuyện thoát chết càng xa ngày, lời kể càng linh động vì thêm những chi tiết hoang đường hơn một chút.
Hôm sau, quân đội tiếp tục cuộc hành quân càng quét. Vừa khi gặp đường cái quan đưa về thị xã thì Hãng hay tin anh chàng trẻ tuổi tinh ranh bị hỏi cung chiều hôm trước đã trốn thoát.
Không đi “ốp” ở lại bàn giấy cũng chẳng thanh thản gì hơn. Đương dịch tài liệu có thể một sĩ quan Pháp đưa đến một nqười vừa bị tra tấn xong mặt mũi sưng húp để hỏi cung lại, mình thông ngôn. Có thể một nguời mới quy thuận được gọi tới đưa sang phòng không quân. Nơi đây Hãng thông ngôn cuộc gạn hỏi về địa điểm những cơ quan kháng chiến. “Gần con đường Thái Nguyên Bắc Kạn phải không? Gần suối lớn không? Gần núi không? Bên phải núi hay bên trái? Có phải vào khoảng này không?” Những tấm hình lớn chụp từ máy bay xuống được đem ra sử dụng -phòng Nhì Pháp đã chụp hết lãnh thổ Việt Nam. Nếu kẻ kia nhận ra địa điểm gật đầu (hay gật đầu liều) thì viên sĩ quan tình báo khoanh một dấu tròn bằng bút chì xanh hay đỏ để đưa sang phòng chiến dịch ủy nhiệm cho các loại phi cơ phóng pháo đi oanh tạc.
“Nhục, thật là nhục!” Hiển vẫn hằng nghe câu nói đó thốt ra tự miệng Hãng, khuôn mặt phong trần của Hãng lúc đó có một vẻ gì sót sa khôn tả. Cho đến hôm nay nhân lời nói của Hiển muốn thi vào làm thông ngôn trong quân đội viễn chinh để tránh đi lớp sĩ quan Thủ Đức, Hãng mới bộc lộ hết cả. Hãng kết luận với Hiển:
Anh nên đi theo lớp sĩ quan đó. Anh biết đấy, trước đây Pháp nó có dám cho chúng ta học chỉ huy quân sự đâu, chỉ được làm lính chết thay cho nó thôi, nay gặp dịp nó phải nhả ít quyền hành chính và quân sự mình nên lợi dụng học lấy, rồi khi ra đã là sĩ quan, dưới anh có bộ đội, ít nhất anh cũng được quyết định theo lương tri của anh để chống lũ cộng sản mà ít làm thương tổn đến dân chúng. Lóc những thớ thịt nhiễm độc cộng sản trong toàn cơ thể miền quê mình hiện nay là một công việc vô cùng tinh tế, không phải là sĩ quan Việt Nam đã sống với và đã lọt khỏi cộng sản rồi, không thể làm nổi. Anh nghe tôi, hãy cứ đi đi. Chúng ta đâu có chịu tiếp tay cho thực dân cướp nước? Contrat đầu tiên ba tháng tôi làm “thầy đội thông ngôn” trong phòng nhì Pháp, tôi cũng đã lợi dụng được tờ giấy chứng nhận là quân nhân để nhờ một người bạn đồng học hiện làm ở Bắc Bộ Phủ vận động cho được cái học bổng qua Pháp tiếp tục học Luật. Mọi công việc đã xong, học bổng đã được cấp, contrat (hợp đồng) ba tháng của tôi vừa hết, tôi vừa báo tin cho mẹ tôi hay là tuần sau tôi lên đường, bây giờ đến các anh hay đó.
Kha sung sướng nắm tay Hãng.
- Trời ơi, sao cậu kín đáo thế, gần đến phút cuối cùng mới cho mọi người hay.
Hãng cười khà:
Biết làm thế nào, vì chính tôi trong lúc chờ đợi cũng hồi hộp không biết là có được hay không.
Hiển nói:
Thôi chúng ta đến tòa soạn Văn Hóa đi. Tôi cần gặp các anh Khiết, Khóa một chút.
II
- Trời ơi anh Kha kìa, anh cũng đã vào đây?
- Ủa Tân!
Họ nhận ra nhau ngay sau một lần gặp nhau ngày nào và sau bao nhiêu năm cách biệt.
- Bây giờ anh ở đâu, làm gì? Tân hỏi tiếp.
- Dạy học, làm báo, còn anh?
- Tôi ấy à - Tân cười nửa vui nửa buồn - thất nghiệp!
- Sao, thất nghiệp? Anh vào đây đã lâu chưa?
- Nghĩa là mới thất nghiệp thì đúng hơn. Tôi vào đây được tám tháng rồi.
Kha trợn tròn mắt:
Trời, anh vào được tám tháng rồi. Tôi vào được ngót ba tháng, sao chúng mình không gặp nhau?
- Có lẽ tại những ngày gần đây tôi phải đi đây đi đó luôn theo nhà thầu.
- Anh đã về thăm quê bên Bắc Ninh chưa, cụ nhà ra sao?
Tân cảm động nhìn Kha, thì ra Kha không quên một điều gì, chàng đáp:
Dạo đó chia tay cùng anh ở Phú Thọ, tôi về quê may được gặp mẹ tôi lần chót, vài ngày sau người mất. Tôi muốn về thăm làng lắm nhưng chưa được, làng tôi hiện nay nằm giữa vòng đai trắng của hai miền.
- Mệt quá nhỉ, thế trước đây anh thầu gì?
- Tôi làm cho một nhà thầu xây cất, tôi mới thôi được nửa tháng nay.
- Ồ, thế tôi sẽ giới thiệu anh với một nhà thầu khác.
Ánh mắt Tân hốt hoảng, nhưng chàng tiếp:
Tôi cũng vừa thi tương đương ở trường thuốc xong, họ nhận niên khóa sang năm cho phép tôi được học lại năm thứ tư.
- Trường thuốc cũng cho thi tương đương sao?
Bác sĩ Henri H. người Pháp đặc biệt có cảm tình với sinh viên kháng chiến vì vậy mà tôi cũng đỡ thiệt. Bác sĩ H. muốn tôi phải đi nhà thương thực tập ngay từ bây giờ và suốt vụ hè sắp tới; tôi thú thật với ông ta là tôi mới về đây, tứ cố vô thân, cần phải kiếm tiền gấp từ nay cho đến đầu niên khóa sang năm mới có đủ điều kiện tiếp tục việc học. Bác sĩ H. thông cảm ngay!
Hôm qua đây Hiển, Hãng, Kha đã gặp Khiết, Khóa, vừa may gặp cả Luận mới ở Vĩnh Yên về thủ đô công tác và tạt vào tòa báo đưa bài, thế là cả “gia đình Văn Hóa” hay tin Hãng sắp đi Pháp và Hiển có thể đi Thủ Đức. Chính Luận cũng khuyên Hiển: “Anh đừng vào làm - dù là làm tạm- trong Deuxième bureau (văn phòng thứ hai) của Pháp, mang tiếng lắm, anh cứ theo lớp sĩ quan đi, khi ra trường có quân đội trong tay, sĩ quan Tây cũng không dám bắt nạt mình, trái lại bấy giờ chúng nể mình lắm và minh có toàn quyền hành động”. Khóa tiếp lời Luận, bảo Hiển:
Tình thế đâu có tranh tối tranh sáng thế này mãi, tôi linh cảm tháy vận hội đất nước đương chuyển mình, anh Hiển hãy vào Thủ Đức đi.
Khiết trầm ngâm gật đầu:
Anh Khóa nói đúng, anh Hiển yên tâm đi Thủ Đức đi, sau một vài năm nữa tới ngày mãn khóa biết đâu chẳng đã có những biến cố lớn, khi đó mình quyết định thái độ dễ hơn.
Câu chuyện còn kéo dài một tiếng nữa, tuy đã tìm ra lối giải quyết tạm ổn, nhưng bầu không khí không vì thế mà bớt vẻ băn khoăn. Rồi mọi người giải tán. Khiết đến nhà in thăm khuôn báo mới; Khóa về nhà đặt lại con tính xây cất (Khóa dự định thầu xây cất trường trung học tại Hưng Yên); Hãng trở về sửa soạn hành trang cho ngày lên đường vào chủ nhật tới. Hãng biết sự ra đi của mình- dù là đi du học Pháp- cũng làm người mẹ cô độc và đáng kính của chàng càng sầu khổ vì bên sự thương chồng nay còn thêm niềm nhớ con; Hiển, Kha trở về để còn gặp Miên, hỏi Miên về công việc nàng mới tới nhận tại nhà thương Phủ Doãn và báo cho Miên hay tin Hiển quyết định đi Thủ Đức.
Hôm sau Kha dạy học xong ở trường ra, chàng đến thẳng tòa báo tính chuyện bàn với Khiết hoặc Khóa về bữa tiệc tiễn hành Hãng, Hiển lên đường. Vừa tới bến xe điện Bạch Mai sát bờ hồ thì bất chợt gặp Tân... Biết Tân đã thi tương đương để được ghi tên theo học năm thứ tư trường thuốc trong niên học tới, lại biết Tân đương thất nghiệp và đã quen với công việc nhà thầu, Kha bèn kéo tuột Tân theo đường Bờ Hồ ngược trở lại phía hội Khai Trí Tiến Đức, nói:
Anh đã quen với nghề thầu rồi, hay lắm, tôi sẽ giới thiệu anh ngay với một nhà thầu khác.
Tân há hốc mồm vẻ lo ngại ra mặt:
- Anh Kha này... hay là thôi anh ạ... cám ơn anh...
Kha vẫn kéo Tân:
- Cám ơn cái gì? Sao anh khách khí thế?
- Tôi... tôi...
Vì quý mến Kha, Tân không muốn nói thẳng là chàng “tởm” nghề thầu quá rồi, e phật lòng bạn, nhưng Kha hầu như chẳng để ý gì đến sự ngập ngừng đó, hoặc giả Kha vẫn đinh ninh là Tân ngại phiền mình nên chàng vẫn kéo bừa Tân đi:
- Anh hãy theo tôi đến tòa báo Văn Hóa đã.
“Ừ thì hay đến tòa báo Văn Hóa rồi minh liệu lời nói với bạn sau vậy”- Tân nghĩ thầm thế, rồi đi.
Tân theo Kha sang đường, ngang qua xe bán đồ giải khát đậu ở góc ngã ba, tiến theo con đường nhỏ tới tòa soạn tuần báo Văn Hóa. Đó chính là căn nhà Khiết ở xế chếch với cửa hàng của bà Đô. Nghe Kha reo mà Tân thấy chán ngán:
Kìa anh Khóa, may gặp anh ở đây. Anh bạn thân này của tôi cũng làm nghề thầu quen rồi.
“Thằng cha này đến hay- Tân nghĩ thầm- hẳn giới thiệu như thể mình là chủ thầu".
Tòa soạn Văn Hóa lúc đó chỉ có hai người đàn ông, người thư ký đánh máy đã đi phát báo tới địa chỉ những người mua năm.
Kha tiếp tục nói:
Giới thiệu hai anh đây là anh Tân, bạn kháng chiến của tôi, đây là anh Khóa hiện vừa là nhà buôn, vừa là chủ thầu (Tân chẳng buồn nhìn mặt), đây là anh Lãng phóng viên của tuần báo Văn Hóa. (Tân nhận thấy Lãng cao lớn trắng trẻo như tây, râu quai nón mới cạo xanh om, ánh mắt thì vui dí dỏm nhưng nụ cười thì buồn).
Tới lúc bắt tay nhau, Tân mới trễ nải ngẩng nhìn khuôn mặt vuông chữ điền với nước da rám nắng phong trần của Khóa. Tay Khóa cầm một cuốn sách thấp thoáng dòng chữ bìa in màu đỏ.
Kha hỏi Lãng:
- Anh Khiết không có nhà?
-  Khiết đến Etude - Khóa đáp.
-  Chị Khiết đâu?
-  Nó ở đằng mẹ tôi! - vẫn lời Khóa đáp.
Chú bé chừng lên tám ở nhà bên nhân lúc vắng người ra máy nước tắm rồi khum khum tay che hạ bộ. Lãng cười lớn hỏi:
- Tuynh, tắm hả?
Chú bé chào lại:
- Anh ạ!
Lãng cười lớn hơn:
-  Bằng quả ớt ấy che che dấu dấu cái gì!
Chú bé ngượng chạy vào nhà.
- Trước đây anh cũng đã làm nghề thầu?
Giọng Khóa hỏi vồn vã nhưng Tân thấy bực mình vô cùng, chàng đáp lạnh lùng:
- Tôi chỉ làm thư ký cho một nhà thầu.
Kha nói với Khóa:
Niên khóa sang năm anh Tân sẽ tiếp tục học năm thứ tư trường thuốc nên anh cần kiếm tiền gấp khoảng thời gian mấy tháng này, anh có thể dành cho anh Tân một chân thư ký?
Khóa đáp:
Được chứ, nếu anh Tân điều khiển việc thành thạo thay được tôi thì tôi trở lại đất Lào tiếp tục việc buôn.
- Anh còn buôn ở đất Lào? - Tân hỏi.
- Vâng, nghĩa là đi đi lại lại trên con đường hàng không Xiêng-Khoảng Hà Nội.
- Anh buôn gì?
Tôi thuê trọn chuyến phi cơ, chuyến đi chờ xi măng essence, sắt sang Lào, chuyến về thì chở bò. Có hàng đi có hàng về nên chuyên chở bằng phi cơ vẫn có lãi.
Biết Khóa là người có tài tổ chức, Tân hỏi thêm:
- Anh chở bò sống từ Lào về đây?
-  Vâng chở nguyên con! Chuyến đầu tôi thuê hẳn chiếc Bristol của hãng hàng không Việt Nam chở được hai mươi con từ Xiêng-Khoảng về Hà Nội, sau đó vì tình trạng chiến tranh, các phi cơ của hãng hàng không Việt Nam bị trưng dụng, tôi phải điều đình với hãng Autrex hàn sửa lại chiếc Junker để có thể chở được tối đa mười con bò- bằng phân nửa chiếc Bristol... ô kìa, Khiết đã về kìa!
Khiết vào. Lại một dịp Kha giới thiệu Tân. Tiếp đó Kha hỏi:
- Anh ở étude về?
-  Không tôi đi nghe ngóng tinh hình báo của mình, khá lắm! À anh Khóa, việc anh thầu xây cất ở Hưng Yên ra sao?
Nghe đến ba tiếng “thầu xây cất” mà Tân tháy chán ngán, mặc dầu khi nãy nghe Khóa nói chàng đã bớt thấy ác cảm với “người con buôn kiêm nhà thầu” đó (chỉ cần một trong hai nghề đã đủ chàng muốn kính nhi viễn chi rồi).
Khóa đáp lời Khiết:
-  Xong rồi. Anh bạn bí thư của ông tỉnh trưởng Hải Dương có gửi thư riêng sang giới thiệu nên họ tin tôi ngay.
“Tin nhà thầu- Tân nghĩ thầm- để rồi bán thóc giống đi mà ăn!” Và Tân lại thấy hậm hực với Khóa.
Nguyên do sau ngày tâm thần bị khích động về vụ bàn tay gián điệp thực dân tung tiền muốn bố trí trước một chính phủ lưu vong, Khóa từ chức hội viên hội đồng thành phố. Kể từ đó Khóa luôn luôn cảm thấy có móng vuốt của đế quốc thực dân bám vào da thịt các nhược tiểu quốc. Hễ một ung nhọt được duy trì, một mầm chia rẽ được ươm nuôi... linh tính như báo cho Khóa hay rằng đó đều là những trái mìn tinh thần do bàn tay hiểm ác của đế quốc thực dân bí mật đặt khéo để ngăn chặn bước tiện của dân ta. Cho nên Khóa hết sức giúp Khiết xúc tiến việc ra báo, hơn bao giờ hết, lúc này cần có một tiếng nói quang minh chính đại. Từ chức hội viên hội đồng thành phố, Khóa thầu xây cát trường trung học rọi trường mẫu giáo ở Hải Dương, kế đó Khóa bị sốt định kỳ tưởng bỏ mạng, mơ thấy lên thiên đàng xuống địa ngục... Khỏi bệnh, Khóa buôn liền mấy chuyến trên con đường hàng không Xiêng-Khoảng Hà Nội. Tuần báo Văn Hóa ra chào đời được phổ biến rộng rãi và nhiệt liệt hoan nghênh trong giới kiều bào ta ở Ai Lao chính là nhờ Khóa luôn luôn tìm cách cổ động. Nhưng Tân nào đã biết những chuyện đó, Tân chì biết Khóa là “nhà thầu xây cất” lại kiêm “nhà buôn” nữa!
Khiết hỏi Khóa:
- Thế chuyến buôn của anh vừa rồi có gì trắc trở không?
- Chẳng có gì trắc trở cả, khoái là đằng khác.
Lãng tủm tỉm cười:
- Chắc gặp gái Lào nên anh khoái chứ gì?
Không ngờ câu đoán mò áy lại đúng, Khóa được dịp thao thao không riêng gì với Hãng mà với tất cả:
-  Được đi chơi với bạn thân như các anh, không phải mang một cái gì trong người, tôi thích lắm! Giấy tờ không phải mang, tiền nong không phải mang, chỉ việc ngồi lên xe, mặc bạn đưa đi đây đó, sướng không thể tả được. Ấy khi trở lại đặt chân lên đất Lào, tôi cũng được sống thoải mái như thế. Lần này sang tới nơi, một anh bạn cũ đương làm chủ nhà giây thép bên đó kéo tôi đi Bạn Kơn (làng Kơn) cách Vientiane đến tám chục cây số. Rồi trong khung cảnh rừng núi mênh mông đó dân Bạn Kơn làm lễ ba-si (lễ chào mừng khách lạ tới), một cô gái mang vòng hoa lại quàng cổ, một cô khác lấy dây chỉ buộc vào tay, rồi ăn hoa quả, trứng gà, trứng vịt luộc... Tôi ở lại Bạn Kơn một ngày, lâu lắm mới lại trông thấy cảnh cô gái Lào gánh hai cái thúng trông như hai cái gầu dài ở xứ ta, trong thúng có vài nải chuối, hoa bắp chuối, trứng gà, trứng vịt, hoặc gạo, đòn gánh bằng gỗ dừa. Chắc các anh không biết cách ăn mặc của gái Lào: búi tóc đứng nghiêng trên đầu, bên trên mặc thứ áo trông như chemisette của đầm, bên dưới là cái xị (váy) có đường thêu bằng chỉ màu xanh đỏ, có cả đường kim tuyến nữa. Bán hết hàng, quẩy hai thúng không trên đường về, các cô có thể rẽ xuống một khúc sông nào đó tắm, tắm khỏa thân ạ! Chemisette cởi ra, cái xị nâng quấn lên đầu, đương tắm nghe có bước chân người, các cô lên bờ, kéo xị từ trên đầu xuống, lại kín đáo rồi. Trưa hôm đó tôi cùng anh bạn thủng thỉnh ra sông. Bỗng anh bạn để một ngón tay lên miệng “suỵt” làm hiệu im. Chúng tôi cùng đi rất êm, rồi bò xoài trên bờ cỏ từ cao ngó xuống. Dòng sông bao la và óng ánh dưới nắng, những cây mây sắc (như cây lim bên ta) la đà xõa cành xuống hai ven sông và...
- Và dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên? - Kha cười và nón đón.
Ảy, tòa thiên nhiên ngâm dưới nước! Rồi chúng tôi rút lui êm ái về chỗ cũ, dặng hắng làm bộ đường đường chính chính tiến lại. Người đẹp đã bỏ xị trên đầu xuống, mặc xong chiếc áo chẽn ở trên. Lâu lắm tôi mới lại nói tiếng Lào:
- Dù sẩy (Cô ở đâu)?
- Dù phuuuuun.. (ở xa lắm)\
Khóa cất tiếng cười sảng khoái rồi tiếp:
Tiếng Lào hầu như rất hiếm adverbe “phun” là xa, kéo dài tiếng “phuun” là khá xa, mà nói “phuuuuun” là xa, xa lắm. Tôi lại hỏi người đẹp:
- Chầu âu khôi bồ? (Cô có lấy tôi không)?
Người Lào hiếu khách lắm mà, nàng rất nhã nhặn đáp:
-Âuuu.. (lấy...)
Tiếng “Âuuu” kéo dài nghe đến yêu. Nhưng còn lấy hay không lại là chuyện khác!
Khiết thấy Khóa lần này hoàn toàn khác “thứ Khóa” ngày xưa, vẫn cách nói chuyện háp dẫn nhưng xưa là Khóa của khoa học huyền bí lần này là thứ Khóa bay bướm đa tình. Lãng hỏi:
- Thế thời gian mấy năm theo học ở Lào anh có mê cô nào không?
Tôi mê một cô hai năm liền! Lần nào gặp tôi, miệng cô cũng ngậm một bông hồng, người ta bảo đó là một cách bùa ngải.
- Anh mà nói chuyện nước Lào với nhà tôi thì cứ gọi là hết ngày!
Ai nấy giật mình quay lại và cùng cười ồ. Thì ra vợ Khóa đã từ nhà sang tòa báo lúc nào, mọi người mải nghe chuyện Khóa không ai để ý tới.
Tính Lãng hay bông đùa, chàng lắc đầu làm bộ cau mày:
Trời, cái ông Khóa này tệ lắm chị ạ, thì ra ông ấy đi buôn ở đất Lào chỉ vì mê gái Lào! Chị đừng để anh ấy sang Lào nữa, e có ngày bị gái Lào bỏ bùa bỏ ngải quên mất đương về!
Ôi chao- vợ Khóa đáp- càng hay anh ạ, hơi đâu mà giữ? Này ông ơi, liệu có về sửa soạn đi lấy hàng cho mẹ không.
Khóa hốt hoảng:
- À ờ nhỉ, tôi quên khuấy đi mất.
Lãng “bỏ bom” thêm:
- Thì đương nói chuyện tán gái Lào chầu âu khói bồ như thế gì mà chả quên?
Vợ Khóa mỉm cười ra về.
Kha vội nói:
Anh Khóa đừng về vội, hãy nán lại chút xíu bàn qua việc tổ chức bữa tiệc tiễn đôi bạn Hãng, Hiển của chúng ta.
Tân giữ ý đứng dậy từ biệt mọi người nói là phải lên Hàng Đào mua mấy thứ cần.
Khóa vội hỏi:
- Anh Tân, thế anh có nhận lời giúp tôi không nào?
Thực tình đến lúc đó Tân mới hết ác cảm với Khóa, và trước khi chia tay với gia đinh Văn Hóa, Tân đã nhận lời hôm sau sẽ cũng Khóa đi Hưng Yên để xem xét công việc.
Đến khi đã trở về ngồi một mình trong căn phòng thuê vừa khuát vừa tối vừa hẹp, Tân mới sực nhớ là quên không hỏi Kha xem hồi xưa, sau lúc chia tay ở Phú Thọ, Kha đi đâu, vì sao không ghi tên vào trường thuốc. Tân gặp Kha thì mừng quá mà quên hỏi, còn Kha thì về vấn đề đó lại rất... ẩu, chẳng hề chú ý đến.
III
Sau này có dịp hàn huyên mới hay là tính ra Tân đã vào thành trước bọn Hiển, Kha, Miên chừng sáu tháng. Chàng vào thành vì một trường hợp bất ngờ.
Thuở đó quân đội kháng chiến đã lớn mạnh lắm, đương bao vây đồng bằng và có cơ thắng lợi dù luôn luôn bị quân Pháp với ưu thế về võ khí và phương tiện chống trả những đòn ác liệt. Chẳng may một đơn vị nhỏ nàọ bất chợt gặp mũi dùi đột kích của chúng, sự tổn thương thường rất nặng nề. Có lần cả một tiểu đội kháng chiến, người nào ở vị trí nấy chiến đấu chống trận mưa lửa của địch (đại bác, moóc chê, trung, tiểu liên... của bộ binh; bom lửa, đại liên của phi cơ) cho đến khi gục ngã hết không một người sống sót. Nhưng Tân không còn tin tưởng ở sự sòng phẳng tinh thần của lũ người lãnh đạo kháng chiến nữa. Chàng hơn Kha, Hiển ở chỗ chàng có thể vui với thế giới của chàng, thế giới của con dao cái kéo cứu nhân độ thế.
Tân đã lần lượt đi sát quân đội, rất nguy hiểm, quanh vòng đai Bunker của tướng De L. để băng bó mổ xẻ cho các chiến sĩ bị thương. Đầu hạ 1951, Tân được lệnh dời Phủ Lý trở về Bắc Giang rồi vượt qua quốc lộ số Một theo bộ đội dự chiến dịch tấn công mấy đồn tiền tuyến địch miền duyên hải.
Quân đội chuyển dịch dưới rừng nứa thành một dòng người bất tận. Voi-đại bác- cứ tuần tự được hì hục khiêng lên tới đỉnh dốc này thả cho lăn xuống triền dốc để rồi lại được khiêng lên một đỉnh dốc khác. Mưa, đường lầy quánh. Khẩu lệnh truyền theo dòng người như chiếc ống bương trôi theo dòng sông, có điều cái “ống bương khẩu lệnh” này có thể trôi xuôi hay trôi ngược tùy lúc.
- Truyền lên, đại đội trưởng Lê Tâm cho biết voi tới đâu rồi?
- Xin đồng chí đại đội trưởng Lê Tâm cho biết voi tới đâu rồi, truyền lên?
- Voi đương lên đình Cây Diều, truyền xuống!
- Voi đương lên đình Cây Diều, truyền xuống!
-  Đồng chí trung đội phó Hùng Sơn lên gặp đồng chí chính trị viên đại đội ngay, truyền xuống!
-  Mời đồng chí Hùng Sơn lên gặp đồng chí chính trị viên đại đội ngay, truyền xuống!
Truyền xuống...truyền xuống... Tiếng nói cứ như thế nhấp nhô gập ghềnh trôi nổi cho đến chỗ có tiếng đón:
- Tôi đây. Có tôi rồi đây! Xin đồng chí cho tôi lên nhờ một tí!
Trời về chiều, bóng tối đổ ập xuống rất mau, bộ phận quân y được lệnh dừng lại. Tân cùng một số bạn đồng đội chặt vội những cây hóp làm sàn ngủ; một số ngủ trên sàn, một số luồn xuống gầm sàn trải vải bạt ra nằm, chân mọi người còn nhép bùn và tiếng cười luôn luôn khúc khích!
Một anh cất tiếng nói:
-  May mà khu rừng này ít vắt, nếu không, ngủ qua đêm, hôm sau máu trong người không còn mấy nữa, hai bàn chân có thể mọc thêm rất nhiều những ngón chân cái và vai, cổ có thể vướng víu rất nhiều những bướu nhỏ!
Không có vắt, nhưng Tân, nằm dưới gầm sàn, chập chờn không ngủ được. Chàng chỉ lo các dây lạt buộc lỏng, sàn trên sập xuống thì khi nửa tấn người bên trên có vùng dậy nhẩy ra khỏi sàn, lũ người bên dưới cũng đã chết bẹp rồi. Mãi đến gần sáng, Tân mới ngủ thiếp được một giấc ngon lành vì mệt.
Hôm sau, gay go nhất là đoạn bộ đội qua đèo Cóc, đèo phân ranh giới Bắc Giang và Quảng Yên. Dưới chân đèo Cóc bên địa phận Quảng Yên là một khoảng đồng ruộng dài trên năm cây số. Ban ngày phi cơ thám thính địch bay lượn thường xuyên, ban đêm đại bác địch tự các vị trí ở Mỏ Thổ (bên kia đèo, thuộc địa phận Bắc Giang) câu như giã gạo rất đúng sang sườn đèo bên này rồi rải rác xuống khắp cánh đồng bằng bện dưới làm một số ít bộ đội và một số lớn dân công, vào ngày đầu chuyển dịch, bất ngờ uổng mạng. Một số dân công được chỉ định ở lại đào hầm trú ẩn dọc theo khe con lạch nhỏ rồi đào hố công cộng chôn xác các nạn nhân để tránh mùi xú uế và nhất là để tránh cảnh chết phơi thây làm mất tinh thần quân đội. Đội quân y của Tân qua đèo vào lúc chập tối, mỗi lần nghe tiếng đại bác nổ bên kia đèo, ai nấy tìm ngay lấy một chướng ngại vật thiên nhiên gần nhất chạy tới nằm rạp xuống cho đến khi ngớt loạt súng. Có chừng hai cây số đường đèo mà phải mất ba tiếng đồng hồ mới đi thoát.
Chiến dịch này chì cốt dử địch ra khỏi đồng bằng, nhưng chúng không mắc mưu, chúng đành hy sinh những đồn nhỏ đó. Voi nhà được âm thầm chuyển vận tới sát đồn để bắn đạn đạo thẳng. Cách sử dụng đại bác kỳ khôi này chỉ có thể thực hiện ở một nước quân dân nhất trí diệt xâm lảng. Rồi quân ta xung phong. Trừ một vài tù binh ngắc ngoải bộ đội đành cho một phát tối hậu, các tù binh khác đều được băng bó tử tế, vài cán bộ quân báo tới láy lời khai tức thì. Những tù binh này có cách quan sát riêng của chúng. Với Tân, chúng xưng tụng là Mon colonel!(thưa đại tá); với những y tá giúp việc Tân, Mon lieutenant! (Thưa trung úy).
- Thưa đại tá, vết thương ở chân này có thể biến sang chứng hoại thư?
- Làm sao mà vết thương này biến sang chứng hoại thư được?
- Thưa đại tá tôi sợ trùng uốn ván.
- Anh sẽ được tiêm thuốc ngừa trùng uốn ván.
- Thua đại tá, trường hợp tôi cưa chân thì sao?
- Thì cưa chân chứ sao!
- Thưa đại tá, có thuốc tê?
- Các chiến sĩ của tôi có thể nhường thuốc tê cho anh.
Một buổi chiều cuối chiến dịch, tiếng đại bác đã dứt hẳn, trạm quân y tiền tuyến của Tân rút về đóng tại một làng tề cây cỏ xơ xác, nhà cửa đổ nát. Nhận được một số đồ hộp chiến lợi phẩm, có cả rượu vang, Tân bèn cùng các bạn bầy bàn tiệc tại một căn nhà ngói năm gian của một gia đình chắc là vào hạng khá giả nhất làng (toàn thể dân tề nơi đây đều đã lánh nạn). Thức ăn được bầy lên đĩa sứ trắng tinh, rượu vang đỏ thắm được rót vào ly pha lê. Bữa tiệc tiền tuyến đượm vẻ quý phái, cuối tiệc có cà phê và thuốc lá thơm. Tân lòng lại nhủ lòng: “Xong chiến tranh, nhất định mình sẽ kiếm ra tiền để sống một cuộc đời cho ra sống với tất cả vẻ đài các quyến rũ của nó. Đã sống gian khổ và không bao giờ quên những gian khổ, cuộc đời đài các kia càng thêm ý nghĩa!”
Chếnh choáng say, mỗi lần Tân nâng ly, ý nghĩ thầm càng bốc lên lẫn vào màu rượu đỏ thắm: “Phải kiếm cho ra tiền xây dựng một cuộc sống đài các quyến rũ chứ!”
IV
Yên Báy với rừng nứa hoang vu man rợ bên tả ngạn con sông Hồng cuồn cuộn, hai bờ đê cao đất đỏ. Dưới Yên Báy mười bốn cây số, trên Vũ Ẻn hai mươi ba cây, là một thị trấn nhỏ có trường trung học Đan Hà._ở bên kia hữu ngạn, đối diện với Đan Hà, là làng Hiền Lương cũng có đền thờ bà Âu Cơ như một vài nơi khác quanh vùng nhưng chắc chắn đề thờ Bà ờ Hiền Lương mới là đền chính vì hàng năm dân làng giữ tục lệ làm giỗ Bà linh đình.
Trang sử ngày nào Tân học: Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Ầu Cơ, bà đẻ ra trăm trứng nở ra trăm con. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: ‘Ta thuộc dòng dõi rồng, nhà ngươi thuộc dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được: nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem năm mươi đứa lên núi, còn năm mươi đứa ta mang xuống bể Nam Hải”.
Sau chiến dịch miền duyên hải, nhân một dịp đội quân y lưu động của Tân tạm đóng nơi đây mấy ngày, Tân được chứng kiến buổi lễ. Chỉ những cô gái đồng trình mới được rước kiệu Bà vào hậu cung. Tân cùng đoàn con giai làng quỳ xuống lễ bái vọng khi đoàn con gái rước kiệu đã khuất vào đền, lòng Tân tràn ngập một niềm thành kính cũng hoang vu, cũng rộng lớn, cũng tràn ngập sức sống của sinh thành như cảnh trí nơi đây đất đồ rừng xanh, núi chập chùng, sông cuồn cuộn.
-  Cháu nó cũng ở đoàn người rước kiệu! - một bà khuôn mặt phúc hậu có che mạng ở mắt đứng ngay bên khoe với Tân.
Tân cùng bà nói chuyện được mười lăm phút thì cô gái ra. Khuôn mặt nàng tròn phúc hậu, tóc cắt ngắn vừa che kín gáy, đôi má đỏ hồng vì vừa khiêng kiệu, đôi mắt bồ câu đen lóng lánh. Nàng nhìn Tân hơi e lệ. Tự nhiên Tân thấy muốn kết duyên cùng nàng, chàng muốn ngộ nghĩnh tin rằng chỉ những người con gái làng Hiền Lương này mới giữ được giòng máu chính thống của bà Âu Cơ.
Tân nhận lời về nhà cùng bà mẹ, rồi chàng thăm mắt cho bà. Bà bị lông quặm! Chính Tân mổ mắt chữa cho bà ngay chiều hôm áy.
Cô gái mới mười tám tuổi cuối niên học này nàng thi trung học phổ thông, tên nàng là Ngoan. Mẹ nàng trước đây buôn bán ở Vũ Ẻn, sau ngày cha nàng chết vì phi cơ địch khủng bố, gia đình nàng bèn rút về làng trông nom cầy cáy.
Một buổi sáng chủ nhật Tân cùng nàng đi thuyền nạn vào trại trong núi, được rõ thêm nàng còn ba chị em gái nữa. Người chị cả lấy chồng được ba tháng thì chồng theo bộ đội kháng chiến biệt tích, người chị thứ hai lấy một đại đội trưởng biết rõ là hiện đóng ở Yên Báy; thứ ba là ngoan; thứ tư là cô gái nuôi bằng tuổi Ngoan hiện lấy một thương binh, cặp vợ chồng này thường xuyên ở trại để trông nom hoa mầu.
Nhà trại ba gian lợp lá, bếp liền ngay bên, phía sau dựa vào núi, phía trước ià sận đát mịn rồi những thửa ruộng từng bậc... từng bậc đi xuống, tận cùng là con suối. Hàng xóm gần nhất cách đấy cũng phải hai cây số. Tất cả những con suối từ các ngả khe núi chảy đổ vào một khoảng sâu thung lũng thành hồ, rồi tư hồ các con suối lại chảy đi các ngả thành những đường giao thông rất tiện lợi cho thuyền nhỏ từ xóm này sang xóm khác trước khi đổ ra sông Hồng. Xung quanh hồ rát nhiều cây vú sữa cành chiu quả, vỏ xanh xanh tím tím. Dân các xóm từ bốn ngả ngày ngày đánh thuyền ra hồ tung lưới bắt cá về kho với măng nứa: đó là hai món ăn “tứ thời bát tiết” của dân vùng. Sang sáng tiếng vượn rúc từng hồi đánh thức người dậy.
Ngoan đi học mang theo đèn dầu. Học đêm để tránh phi cơ! Chiều chiều khi tắt nắng, người lái đò đến bến, cầm một ống tre nhỏ gõ lên mái chèo.;. Ngoan cùng một số bạn học khác- nam có, nữ có- biết hiệu chạy tới. Ngày cuối cùng ở lại Hiền Lương, Tân cùng Ngoan đi sâu vào miền núi chừng hai cây số rồi dừng lại ở dưới gốc một cây lim lá nhỏ, xanh mướt như tráng mỡ. Cuộc đi chơi không mục đích hay chỉ có mục đích để hai người được dịp đi sát bên nhau. Dừng lại dưới gốc lim, cả hai cùng nhìn con đường mòn vắt ngang sườn núi rồi khuất dưới một khu rừng xa:
-  Thời Pháp thuộc, vào mùa nắng- Ngoan nói- người Kinh minh vẫn dùng con đường mộn nàỵ đi tắt lên tới Ca Vịnh, Nghĩa Lộ buôn bán với người Thổ trên đó.
Tân ngồi xuống dựa mình vào gốc cây, khẽ kéo vành mũ lá che nắng, Ngoan ngồi xuống bên chàng tin cậy. Chưa một lần Tân nắm tay Ngoan, nhưng cả hai cũng thừa biết đã yêu nhau. Tân chưa muốn tuyên bố vì hôm sau chàng đã lên đường. Chàng hứa với Ngoan đến Tết chàng sẽ xin nghỉ phép về với Ngoan lâu.
Y hẹn, trưa ba mươi Tết Tân về Hiền Lương rồi theo đường vào trại trong núi. Cả nhà đương tụ tập giết lợn, gói bánh chưng ăn Tết. Mọi người đều tiếp đón Tân ồn ào đon đả, riêng Ngoan hơi bẽn lẽn, đôi má ửng hồng, cặp mắt ngước nhìn im lặng. Mười một giờ khuya, Tân đốt đuốc đưa Ngoan xuống suối rửa rổ bát đĩa cuối cùng.
Ánh đuốc bập bùng, tiếng nước róc rách... Xa... tít phía xa... con sông Hồng hẳn vẫn đương lao mình cuồn cuộn giữa khoảng bãi cát trắng phau, thoại thoải mênh mông. Tân cảm thấy mình đương đợi một cái gì bên kia sông. Phải rồi, mùa xuân! Mùa xuân hiện đang còn bên kia sông túc trực đợi đến phút giao thừa mới bước sang bên này... Tân đã dầm tắt đuốc lúc nào và ôm gọn Ngoan nép dưới ngực. Tân cúi xuống hôn lên má nàng. Hơi ấm của mùa xuân như bắt đầu tỏa ra từ đôi tình nhân trong sạch.
Rủi làm sao ngay trưa hôm sau, mùng một Tết, Tân nhận được lệnh theo quân đội xuôi gấp!
Khi ra đi, Tân không dám quay lại nhìn Ngoan; chàng biết Ngoan sẽ khóc nhiều ngay từ lúc chàng vừa đi khuất, khóc cho đến tối, khóc suốt đêm.
V
Tân theo bộ đội xuôi xuống ba ngày liền thì tới bò’ sông Đà, đóng quân tại làng Đề Thám bên tả ngạn thuộc Phú Thọ, bên kia hữu ngạn là Sơn Tây với ngọn Ba Vì cao ngất.
Hình như địch muốn nhảy dù chiếm lại Hòa Bình và đại quân ta đã túc trực ờ Tu Vũ để có thể nắm quyền chủ động tận diệt địch ngay từ phút đầu. Bộ đội Tân theo, một nửa đã sang sông từ tối hôm trước, vào sâu miền hậu địch quấy rối; tối hôm đó Tân sang sông cùng với một ít thuốc men cần thiết, theo Tân là mười hai nhân viên y tá và học sinh y tá. Mọi người băng qụa bãi cát trắng...bì bõm lội ngang dòng sông... băng qua mẩy cồn cát giữa dòng... rồi lại bì bõm lội... Bờ đê bên kia rát cao và như cố ý đổ bóng tối xuống lòng sông để yểm hộ. Đã có bộ đội bố trí trên bờ đê.
-  Đi nhanh lên các anh- tiếng một cán bộ chỉ huy- có thể ca nô địch sắp tuần tiễu qua.
Mười hai giờ khuya Tân và nhân viên của chàng mới tới địa điểm. Đấy không phải là làng, chỉ là một vùng cây rậm có lạch chảy qua, có những chòi lợp tranh cho thương binh nằm tạm. Rất nhiều phụ nữ từ các vùng tề lân cận tới để giặt giũ cho thương binh, mang theo bánh mỉ, trứng gà, sữa...
Tân cùng đoàn nhân viên quân y làm việc suốt đêm rồi suốt ngày, nhiệm vụ giản dị là băng bó cho thương binh nặng trước để chở sang sông tức khắc, rồi đến những thương binh nhẹ.
Tối hôm sau nghe tin địch tới, có tiếng súng lớn. Tân ra lệnh cho nhân viên điều khiển việc chở thương binh sang sông, chàng theo liên lạc viên đến bộ tham mưu để được rõ về tình hình địch và hỏi xem quân y sẽ đi đâu. Chàng và chú bé liên lạc đi từ mười một giờ khuya mãi đến hai giờ sáng mới tìm thấy bộ tham mưu. Sớm hôm sau chàng gặp đầy đủ số ý tá, và các thương binh đều đã được chờ hết sang sông. Thủy, lục, không quân địch tấn công ào ạt suốt ngày hôm ấy. Ba giờ sáng đoàn quân y của Tân cùng bộ đội đi miết theo một con đường dốc ngược, sáu giờ sáng Tân thấy mình đã đứng trên Ba Vì. Một y tá giở cơm nắm chia cho chàng một nửa. Tiếng súng lớn dội vào sườn núi liên tiếp và phi cơ địch oanh tạc một mỏm núi bên kia. Có lệnh phải tức khắc đào hố cá nhân. Tiếng nổ rùng rợn đâu gần đấy, tiếng mảnh đạn réo trong không khí và người y tá vừa chia cơm cho Tân ngã gục xuống hố mới đào được nữa khoang ngang bụng, máu chảy ra thấm đẫm áo. Tân cuối xuống vén mi nạn nhân thì thầy tròng mắt trắng dã, dại hẳn.
Lại có tiếng đại bác nhả đạn đằng sau. Ai nấy nép mình nằm im dưới đáy hố nông. Đã làm việc mấy ngày đêm liền, Tân ngủ thiếp đi lúc nào không biết, tiếng đại bác nổ đều đặn và trong giấc ngủ chập chờn Tân nghe tiếng phi cơ địch rú mơ hồ như tiếng ruồi, tiếng nhặng vo ve. Khi bừng tỉnh dậy, cảm giác đầu tiên xâm chiếm hồn Tân là một sự vắng lặng ghê rợn. Đã ba giờ chiều! Cây cối vẫn thế, ánh nắng vẫn thế mà sao không khí đượm vẻ rùng rợn dị thường. Tân cử một y tá sang liên lạc với bộ tham mưu ở mỏm núi bên kia. Bộ tham mưu đã rút lui tự lúc nào.
- Thế là quân y mình bị bỏ rơi - anh y tá đi liên lạc về than phiền.
Chúng ta sửa soạn lên đường- Tân nói với tất cả- rồi cứ tiến thẳng hướng Tây Bắc sẽ gặp tham mưu đại đoàn, họ đã dặn tôi trước thế.
-  Chúng ta còn phải chôn anh bạn đã chứ?- một y tá nói.
Tân đưa mắt nhìn người đã bẻ nửa nắm cơm cho minh ban sáng nằm cứng đờ trên miệng hố, da mặt bắt đầu xám đen.
Vâng - Tân nói - các đồng chí chôn cất anh bạn rồi sửa soạn ngay nhé, tôi xuống trước kiếm đường rồi trở lại.
Tân thoăn thoắt theo đường mòn xuống được chừng năm trăm thước vừa lội qua dòng suối nhỏ thì có tiếng rên gọi tự trong bụi cây ngay bên lối đi.
-Chở tôi đi
Đó là một quân nhân bị thương mất nhiều máu và cũng nằm lả bên hố cá nhân đào dở. Tân cuối xuống nắm lấy cổ tay xem mạch thấy yếu lắm. Chàng mở đồ băng bó cho người bị thương xong rồi dặn:
Đồng chí cứ nằm đây. Đừng rên nhỡ quân địch qua, chúng biết thì khổ, chúng tôi sẽ đến cáng đồng chí đi.
Khi Tân trở lên, đám y tá đã đi mất, họ cũng đi tìm đường. Tân trở xuống thì người thương binh đã chết. Hố cá nhân biến thành huyệt. Chôn cất xong cho người tử sĩ, chỉ còn một mình Tân, trời vừa nhòa nhòa tối. Theo kinh nghiệm, Tân đi dưới suối để tránh cọp và may ra có thể gặp một bản nào.
Chín giờ khuya...Mệt quá, Tân chui vào nằm trong chiếc nhà mồ nhỏ dựng bằng tre, lợp gianh, bên trên có treo những đạc gỗ và những hình nhân bằng giấy. Ngủ như vậy đỡ sương. Vừa đặt minh nằm, Tân thoáng nghe có tiếng gà, xa xăm như có tiếng người. Vùng dậy, tiến lên chút nữa, lối mòn rõ hơn, rồi đường đất rộng, rồi bờ ruộng. Tới khoảng rẽ ngoặt có tiếng chặt câỵ và thấp thoáng ánh đèn. Đường hoàng tiến vào, Tân tin là đã tìm thấy đại đoàn. Thấy một nhóm người ngồi quanh lửa, Tân cất tiếng hỏi:
- Đây là đơn vị nào, đồng...
Chưa kịp nói tiếp tiếng “chí” Tân phải nhìn vội lại vì vừa nhận ra chiếc mũ partisan bên ngọn lửa. Đó là tiểu đội tiền đồn của địch vừa tới chặt cây chưa kịp đặt lính canh. Một partisan đeo lon cai chĩ súng vào ngực Tân, đồng thời hai lính Pháp xô tới, Tân nói ngay bằng tiếng Pháp:
- Tôi là sinh viên quân y!
Một tên lính Pháp đáp gọn:
- Được lắm!
Rồi trói tay chàng, dẫn đi ngay. Qua đường mòn một quãng dài tới đường cái lớn, xe tăng san sát. Tân bị nhốt xuống hầm.
Mãi đến sáng hôm sau Tân mới được biết là mình bị nhốt ở ấp Đá Chông, một căn cứ hậu tuyến địch.
Quả thực chúng đương chuẩn bị đánh Hòa Bình!
Vừa lúc đó một sĩ quan phòng nhì Pháp đích thân đến tìm Tân ở hầm rồi mới dẫn lên bàn giấy của y. Y cầm tập sách in ronéo, chậm rãi mở từng trang, có ghi quân số từng tiểu đoàn cùng tên các vị chỉ huy... Y muốn gián tiếp tỏ cho Tân hay là y đã biết hết, Tân có dấu cũng vô ích, nhưng Tân làm vẻ hết sức thẳng thắn khai mình chi là một sinh viên quân y, và ngày nay đoàn thể Việt Minh đã lộ khuôn mặt thực, cuộc kháng chiến mất ý nghĩa thiêng liêng buổi đầu (điều này chàng nói thực), chàng muốn trở về Hà Nội, tiếp tục học thuốc vì hay tin vị khoa trưởng Y khoa đại học, bác sĩ Henri H. là người có quan niệm rộng rãi ưng cho sinh viên kháng chiến về Hà Nội được theo học lớp tương đương, chỉ cần qua một kỳ sát hạch (điều này chàng biết là do lời một người bạn cán bộ quân báo cho hay). Tân nhấn mạnh là chàng cố ý tìm đến quân đội Liên Hiệp, bằng chứng chàng đã dõng dạc lên tiếng hỏi trước: “Đây là đơn vị nào đấy?” (Sự thực: “Đây là đơn vị nào, đồng...)
Thấy lời đáp bằng tiếng Pháp trôi chảy hợp lý tên sĩ quan phòng nhì ngừng lấy khẩu cung ở đấy, Tân được dẫn trở về hầm. Sau bữa cơm trưa, Tân đương dựa lưng vào tường lim dim ngắm bóng tên tây đen to lớn vai đeo khẩu tom-sơn đứng canh cửa hầm, thì một trung úy quân y Pháp đến tìm chàng để hỏi về tổ chức quân y cùng tình trạng thuốc men vùng kháng chiến. Khi Tân hỏi lại việc muốn về Hà Nội tiếp tục học thuốc, viên y sĩ trả lời: “Ngày mai chúng tôi sẽ đưa anh về trại tập trung, ở đó anh sẽ gặp đại tá bác sĩ quân y, đại tá mới đủ thẩm quyền trả lời anh”.
Quả nhiên hôm sau Tân được theo xe chở thư về trại tập trung cách đấy chừng hai chục cây số. Chàng không được gặp viên đại tá bác sĩ quân y, có lẽ họ cho là không cần thiết. Buổi chiều chàng được gửi theo một convoi (đoàn)về thành và đưa đến ở trú xá Maison de passage ( nhà tạm trú).
Tân ngồi xuống chiếc ghế dựa kê bên chiếc bàn mộc, nhìn sang căn nhà bên kia khu vườn hoa nhỏ. Qua khung cửa sổ để ngỏ, một người đàn bà đưa mắt nhìn chàng từ lúc nào, miệng mủm mìm khá lẳng lơ. Tân quay đi ngượng ngập nhưng mỗi lần quay lại thì “nàng” trong cửa sổ dường như cũng chỉ đợi có vậy để ngước lên với nụ cười nửa như riễu cợt nửa như khiêu khích. Tân đoán chừng nàng là một me tây. Nàng có khuôn mặt tròn, đôi má bánh đúc, nước da bánh mật, vóc người đẫy đà và chắc lẳn, nàng hẳn từng lam lũ ở đồng quê nhưng nay đã biết tô môi màu đỏ thẫm và đôi lông mày kẻ chì khá đậm. Nàng đứng lên tiến tới giường kê ngay phía bên cửa sổ rồi vừa vỗ nệm vừa nói một người bạn nào ngồi khuất gần đó:
- Xứ mình nóng chết cha chết mẹ mà chúng nó cứ thích nằm nệm, thật khỉ!
Nàng liếc mắt đưa tình với Tân. Bất giác Tân mỉm cười vì tiếng bạn nàng hỏi:
- Thế mày không thích nằm nệm?
Không! - nàng đáp - mùa hè tao thích nằm phản ghế ngựa lau bóng, mùa đông nằm ổ rơm!
Tân quay nhìn sang phía khác vừa quan sát những người lính có công việc qua lại nơi đây vừa suy nghĩ đến tâm trạng một số cô gái quê đất Việt sa cơ thất thế lấy Tây rồi, nhưng vẫn thích những cuộc chung đụng “Nam quốc Nam nhân với nhau”.
Có tiếng chân xịch tới phía sau, Tân quay lại: nàng đã xuống đường đi quành khu giồng hoa sang bên này.
- Ông ở đâu về đấy? - nàng hỏi.
Tân nghĩ nên trả lời giản dị:
- Tôi ơ Sơn Tây về.
- Ông là người “ngoài ấy” bị bắt?
- Sao cô biết?
Trông cách ăn mặc thì biết chứ sao. Nhưng ông đừng lo, đã đưa về đây thì chỉ nay mai là được cấp giấy tha.
Tân không nói gì và cũng không nhìn nàng.
- Ông biết viết tiếng Pháp? - nàng hỏi.
- Vâng, có!
Ông làm ơn viết giúp em một lá thư gửi cho George, chồng em, hiện ở mặt trận Nam Định.
Nàng kéo ghế ngồi đối diện với Tân, cách chiếc bàn mộc, đặt trước mặt chàng tờ giấy viết thư màu xanh và chiếc bút chì nguyên tử đỏ. Tân nghe nàng kể lể rồi viết vắn tắt ý nàng muốn nói, trong khi một người đàn ông chạc năm mươi tuổi, đầu hoa râm, râu mép màu muối tiêu đeo lon sergent chef trên tay áo, thỉnh thoảng qua lại ném vào những tia nhìn hằn học.
Lá thư viết xong, nàng ghé sang gần Tân giải thích thầm:
- Đội thông ngôn đấy! Lão ta theo lơn em hơn một tháng nay mà không được. Rõ thực già rồi mà còn muốn chơi trống bỏi! Ấy trông dáng hắn có vẻ bề thế, vạm vỡ nhưng nghiện oặt, khi hắn cười, ông trông bộ răng thì biết.
Nàng mủm mỉm cười, đưa đẩy con mắt sắc như dao cau, cám ơn Tân rồi trở về.
Đã đến giờ tan sở, ánh đèn vừa bật lên lấp lánh đây đỏ sau các lùm cây. Người đội thông ngôn bĩu môi nhìn Tân, trước khi nhảy lên xe đạp ra về hắn chửi đổng:
- Mẹ kiếp, tưởng theo Vẹm được mãi!
Hôm sau quân đội Pháp gửi trả Tân sang bên công an Bắc Việt. Nơi đây người ta cũng chỉ lấy khẩu cung qua loa rồi cấp giấy thông hành tạm mười ngày cho chàng. Ba lô quần áo được trả lại, trong đó còn hai lọ penicilline, di sản của thời kháng chiến, chàng đem bán được năm đồng. Tờ giấy năm đồng màu nâu nhạt có vẽ hình lượng long chầu nguyệt đối với Tân lúc ấy là cả một tài sản nuôi sống chàng trong mấy ngày cầm cự. Tân lần lượt đi dọc theo các phố Hàng Trống, Hàng Đào” Hàng Ngang, Hàng Bồ, Hàng Buồm, chợ Đồng Xuân, khi nào mỏi chân lại quay về ngồi ghế đá bờ hồ phía gần bến xe điện. Chẳng gặp người quen nào! Mười hai giờ khuya, Tân vào bót Hàng Trống, xuất trình giấy thông hành tạm, xin ngủ nhờ tránh sương. Hôm sau chàng xin một chân đánh trống quảng cáo cho rạp Quảng Lạc, được ăn nhưng không có tiền công. Vào lúc nghĩ việc chàng đi lang thang các phố dừng bước khá lâu trước cổng ra và hoặc trước cửa văn phòng các trường tư thục mong gặp được người bạn cũ giáo sư nào chăng. Toàn những khuôn mặt lạ! Một lần chàng dừng lại trước Y Khoa Đại Học Đường, đôi tay thấy ngứa ngáy nghĩ đến con dao cái kéo, nhưng rồi chàng cắm đầu đi thẳng ngay: mộng tiếp tục học Thuốc giờ đây xa vời quá!
Nửa tháng đánh trống kiếm ăn qua...ông chủ rạp Quảng Lạc cho ngừng diễn trò một tuần để sửa lại sân khấu. Bữa cơm chiều cuối cùng Tân ăn cùng mấy bạn “đồng nghiệp” trẻ, vẫn như thường lệ được dọn trên chiếc bàn mộc tròn kê ngay bên dưới sân khấu, mấy tờ nhật báo trải ra thay khăn bàn. Cơm xong Tân chưa dời khỏi rạp, thâm tâm băn khoăn chẳng biết rồi mai đây kiếm ăn bằng cách nào đây.
Ồng chủ thầu nhận sửa sân khấu vừa tới, phía sau là người bạn gái của ông, áo màu quần trắng, dáng đi chao chát mỗi khi qua mặt ai, hai vai nàng rung động, một tay nâng lên che miệng cười. Nàng tiến lại gần... Tân giật mình! Hai người nhận ra nhau, nàng là cô me tây mà nửa tháng trước Tân gặp ở maison de passage, ông chủ thầu hẳn là đối tượng để nàng "Nam quốc Nam nhân với nhau" khi chồng nàng George còn bận rộn ờ mặt trận Nam Định. Nàng đã giới thiệu Tân cho ông chủ thầu khi đó đương cần một người thư ký thạo tiếng Pháp.
Thế là Tân làm quen với nghề mới, nghề thầu.
VI
Hãng DRAGAGES chuyên thầu về nhà cửa cầu cống, trụ sở bên... “mẫu quốc”. (Tân vẫn thầm gọi thế, chàng không hề đi vào ảo tưởng cho là miền quốc gia này đã độc lập). Chi nhánh chính của hãng DRAGAGES đặt ờ Saigon, hai chi nhánh phụ một ở Huế, một ở ngay Hà Nội này.
Xương, ông chủ thầu của Tân, chỉ là người thầu lại việc của người Pháp, ông ta ngót năm mươi tuổi, khuôn mặt vuông, cằm bạnh, nước da bánh mật, khuôn mặt với nước da đó thật hợp với dáng người vạm vỡ của ông, duy mái đầu hoa râm quá nửa khiến mỗi tháng ông phải đi nhuộm lại một lần, tóc vì thế khô xác, màu đen thô kệch như màu mực tàu rẻ tiền. Sáu tháng đầu Tân giúp việc cho ông Xương, ông toàn thầu về nhà cửa tại các nơi đô hội có an ninh. Tân theo ông đi giao thiệp với những nhân vật có thế lực. Họ hẹn nhau bàn chuyện tiền nong toàn ở những nơi ăn chơi xa xỉ, bên bàn đèn với một số đĩ quý phái, hoặc tại những quán rượu tiệm nhảy quanh khi Tràng Tiền, hoặc đưa nhau đi ăn tại các khách sạn Métropole, Splendide. Tân phải tập nhảy, tập lái xe vào dịp này.Ông Xương hết sức cưng chiều Tân chẳng phải riêng vì chàng giao dịch với người Pháp thạo mà còn vì - theo sự nhận xét tinh tế của ông- ở cõi đời này mà còn gặp được một thanh niên chân thật như vậy quả là một điều quá hiếm.
Về phần Tân, Tân chẳng ưa gì ông Xương, đúng hơn chẳng ưa gì cái nghề thầu khoán của ông. Được theo sát ông để chứng kiến các vụ mặc cả giữa ông với các vị tai to mặt lớn, Tân mới có dịp thấy rõ mặt trái của đời.
Tân đã đại diện ông để điều đinh với tên trùm hành chánh Bắc Việt kia, biếu y mười ngàn đồng, y chưa chịu, ông Xương hay tin, nổi xung chửi đổng, gọi y là “con dê cụ”, rồi đích thân ông Xương vào năn nỉ - (lúc này ông có bộ mặt khác) - “khấn” thêm một ngàn nữa mới được.
Với những loại phải điều đình khác, ở cấp giám đốc hay chủ sự, ông Xương thường tỏ thái độ thân mật vồn vã bằng cách xưng hô “quan bác” và “đàn em” (tuy sau lưng ông vẫn chửi đổng và gọi xách mé), tỉ như giao thiệp với chủ sự phòng vật liệu công chánh để vừa được chọn vừa để được cấp dư dật những dụng cụ tốt, giao thiệp với cán sự công chánh để họ kiểm soát “đại khái” công việc của mình:
-  Nếu việc này quan bác giúp đàn em trôi chảy đàn em xin biếu quan bác mười lăm phần trăm tiền lời.
- Việc này khó lắm - “quan bác” trả lời - đại huynh cho tiểu đệ như vậy ít quá.
Rồi họ uống rượu, ôm gái nhảy, hoặc hút thuốc phiện, ôm điếm. Cuộc điều đình tiếp tục tiến hành theo thể nhát gừng và thường là vào lúc gay cấn nhất thì bỏ lửng, rồi nâng rượu cười ngất, mời mọc điếu thuốc đã tiêm xong, cấu véo cô gái điếm... Sau sự cò kè bớt một thêm hai, khi tiệc vui bế mạc, tỉ số mười lăm phần trăm thường được nâng lên thành mười bảy hoặc mười tám phần trăm, về tới nhà mệt nhừ, ông Xương lại xổ ra một tràng tiếng chửi đổng với một nếp sống mới ráo riết, keo kiệt, chi ly với nhân công từng đồng khiến iũ người khốn nạn này khi nhận iương khoán khó lòng kiếm dư được một chút.
Theo sự phác tính của Tân thì một nửa số tiền nhà thầu chi tiêu vào mục “ngoại giao” - tiếng lóng của họ - với lũ tai to mặt lợn đó.
Rồi ông Xương tham lợi thầu cả cầu cổng và đồn bót tại những nơi hoàn toàn thiếu an ninh về đêm. Một buổi sớm, một thanh niên lạ mặt tới tìm gặp ông, xin được nói chuyện riêng với ông. Khi y đường hoàng ra khỏi nhà, ông Xương xuất hiện mặt cắt không còn hột máu. Thanh niên đó là một cán bộ Việt Minh hoạt động nội thành, y đến nói rất ngọt xin ông ủng hộ cho một món tiền cần thiết. Y kể vanh vách rằng “Đảng và nhân dân” biết ông đã thầu những đồn bót nào để giúp địch chuyển vận binh nhu, đã thầu những đồn bốt nào để giúp địch chống lại “nhân dân”...
Lần đó số tiền mà ông Xương “xung phong ủng hộ Đảng và nhân dân” để chuộc lỗi là bao nhiêu, Tân không rõ
Mặc dầu suốt ngày công việc liên lạc giao thiệp nhà thầu bận rộn, có khi kéo dài tới quá nửa đêm, Tân vẫn giữ được nếp sống quân y ngoài hậu phương, sớm sớm tập ngoài hậu phương, sớm sớm tập thể dục tắm nước lạnh, ở buồng tắm ra chàng cảm thấy minh mẫn, chàng chọn lúc đó để trù tính công việc, giúp ý kiến ông Xương và phác thời khóa biểu cho cả ngày. (Căn phòng Tân ở ngay sát phòng làm việc của ông Xương).
Sáng hôm đó, ở phòng tắm ra uống xong tách cà phê sữa, Tân yên lặng đợi xem ông Xương định trù làm gì.
Báo chí thủ đô liên tiếp đăng các trận lớn và không dắu cả những thất thiệt nặng nề về phía quân đội liên hiệp. Giới nhà thầu mấy khi để ý đến loại tin này! ông Xương khi vở được tờ báo chỉ chăm chú vào mục rao bán xi măng, tôn, gỗ... hoặc mục đau thầu.
Tắm xong trông tươi trẻ nhỉ- ông Xương nói với Tân- thôi, anh thay quần áo nhanh lên đi đằng này với tôi.
-  Nhưng chúng ta phải bàn trước công việc chút ít chứ.
Công việc này không phải bàn! (ông bật cười) Muốn lấy vợ không? (ông cười lớn hơn).
Tân chĩ cười không đáp và đi thay quần áo. ông Xương lần này, trong khi chờ đợi, đặc biệt đọc lớn mấỵ tin chiến sự về công đồn và phục kích. Bỗng ông gập tờ báo lại ngả ngưòi trên ghế xích đu lim dim nhìn trần nhà, thốt:
-  Merde, quelle saloperie!
Tân đã đứng trước ông và nhận ra rằng lời nguyền rủa đó không phải để ám chỉ những tin tức ông vừa đọc. ồng đương nghĩ gì.
Đi thôi - ông nói - chúng ta cùng xuống garage và đi đón ông Hiệp ông Bích đã (hai người hùn vốn với ông Xương). Sau đó thì...
- Thưa ông thì đi đâu?
Ông Xương cười bí mật:
Việc không quan trọng mấy. Lẽ ra chỉ có tôi với ông Hiệp ông Bích đi nhưng tôi muốn kéo thêm anh cho vui, anh còn là thanh niên mà!
Ồng Xương nhất định cầm lái. Tân ngồi ngay bên.
Hai ông Hiệp và Bích cùng chạc tuổi ông Xương nghĩa là khoảng trên dưới năm mươi chút ít, đầu tóc đều đã hoa râm, có điều hai ông này muốn níu lấy thời gian hơn ông Xương bằng cách nói chuyện rất tục, toàn là chuyện trai gái. Cả ba đều đồng ý lên mặt “cha chú” thân mật đuổi Tân xuống ngồi một mình ở ghế dưới rồi cười ngặt nghẽo.
Tân nghi là các ông sắp dở trò gì đây.
Ông Xương phanh xe lại trước cửa một villa gần dốc đê Yên Phụ rồi bấm còi. Hai phút sau ông lại bấm còi nữa, giục giã.
-Ô. Hiệp - Cội vừa vừa chứ, nhỡ bố nó ra, ăn nói làm sao? Ô. Bích - Bố bố nó cũng chẳng dám ra!
- Ổ. Xương - Cháu kia rồi!
Tân thoang thấy bóng một thiếu nữ mặc đầm, toàn đồ trắng tất tả chạy trên đường sỏi ra cửa. Nàng đã tới. Ô. Bích - Sao chậm thế Poupée?
Poupée - Bác ạ. Ồ! cả bác Hiệp nữa kìa, cháu không ngờ. Ô. Hiệp - Có gì là lạ, thế cháu không thích gặp bác à?
Poupée (cười rất thơ ngây) - Có chứ ạ.
Nàng đã nhìn ra Tân và dáng nàng e lệ.
Ô. Xương - Vào đi cháu, vào ngồi cạnh anh tre trẻ bên dưới đó rồi có muốn lấy thì bác làm mối cho.
Poupée - ứ, bác! ô. Bích - Vào đi, mau lên.
Nàng mở cửa vào, khép nép ngượng ngập. Nàng và Tân cúi chào nhau. Hai tay vẫn đặt lên thành ghế, nàng nghển người về phía trước để nói chuyện với ba ông Xương, Hiệp, Bích. Nàng không dám ngồi sát và ngồi ngang với Tân.
Poupée - Cháu đã chuẩn bị xong từ lâu rồi, nghe tiếng còi cháu mở ngăn kéo tủ lấy giầy, thế mà bác Xương còn bấm còi giục.
Ô. Xương - Hai phút chờ ở ngoài đường nghe máy nổ đều dài lắm cháu ạ.
Poupée - Khiếp, nghe tiếng còi giục lần thứ hai của bác như tiếng mắng, Ô. Bích - Các bác mắng thật chứ Sao. Nhưng kìa, nói chuyện với anh Tân ở dưới đi chứ. Sợ à?
Poupée nhìn Tân rồi lại quay lên ngay, cười cúi đầu.
Ô. Hiệp - Anh Tân là cựu sinh viên quân y chán nghề thuốc nên mới sang nghề thầu.
Tân hơi cau mày. Chàng thiết tha với nghề thuốc biết chừng nào, bao giờ chàng mới được quay về với nghề yêu dấu đó, bao giờ chàng mới được tiếp tục học nốt?
Poupée lại quay sang nhìn chàng và cả hai cùng mỉm cười. Nụ cười thơ ngây của Poupée làm Tân quên câu nói của ông Hiệp.
Tân - Trước đây Poupée học ở đâu? (Tân mỉm cười vì thấy mình đã chấp nhận cái tên "Poupée”của nàng)
Poupée - Em học ở Couvent des oiseaux nhưng em thôi rồi, thôi từ năm ngoái.
Poupée có khuôn mặt trái soan, nước da giữa khoảng trắng hồng và bánh mật, đôi mắt nhìn nửa thẳng thắn nửa e ngại, đôi môi không dầy không mỏng hơi trắng bợt và không một chút son khiến nụ cười càng thơ ngây, đôi cánh tay và cả thân hình nàng chắc lẳn nếu không phải là hơi đẫy, một sự “hơi đẫy” lẽ ra không thể có ở tuổi nàng.
Tân - Poupée năm nay độ mười sáu?
Poupée (cải chính rất khẽ, Tân hiểu vì nhìn kỹ đôi môi) - Mười bảy!
Poupée vô cớ nhè nhẹ gật đầu, nụ cười giữ trên miệng, đôi mắt nhln Tân rồi lại hơi cúi xuống ngước lên. “Một thiên thần hơi thô một chút” - Tân nghĩ thầm.
Ô. Bích (vẫn nhìn về phía trước, giơ cao cánh tay về phía sau, qua đầu) - Tay cháu đâu, hãy nắm lấy tay bác!
Poupée - ứ, bác!
Ô. Hiệp - Chẳng hay cháu có tay để nắm tay bác không, hay là cái anh con giai ngồi cạnh cháu đã nắm cả rồi.
Poupée - ứ, bác!
Ô. Bích - Nghe bác đếm đây, từ một đến ba mà không thấy cháu thì ôi thôi... Một...Tay cháu đâu...Hai...Oi cháu ôi là cháu ôi...
Poupée - Bác làm như cháu chết rồi không bằng, bậy quá!
Ô. Hiệp (quay lại) - Cháu có biết cách người Tây Phương tặng hoa không?
Poupée - Sao bác?
Ô. Hiệp - Khi người đàn ông tặng người đàn bà một bó hoa hồng, thế là người đó muốn tỏ tình đấy, lần thứ hai tặng hồng mà người đàn bà vẫn nhận, ấy là đã nhận tình yêu. Thường thì lần thứ ba người đàn ông gửi tới bó hoa pensée ấy là người ấy muốn xin được... hôn cháu.
Poupée - ứ, bác!
Ổ. Bích - Không phải chỉ muốn hôn mà còn muốn...
Ông Bích ghé sát tai Poupée nói thầm, Poupée rẫy nảy vừa kêu “Bác, bác!” vừa cười, vừa lườm!
“Lũ giặc già này thật cynique- Tân nghĩ thầm.
Ông Xương đã cho dừng xe trước một Villa tráng lệ có cảnh binh canh ngoài. Villa này ở vào khoảng trung tâm thành phố và nếu ngồi ờ sân thượng chắc chắn sẽ nhìn được toàn vẹn cảnh hồ Hoàn Kiếm, ống Xương bảo Tân hãy lái xe đi chơi lăng quăng đâu chừng nửa giờ thì quay lại bấm còi, rồi cả ba ông và Poupée cùng xuống xe để vào biệt thự.
Nửa giờ sau, Tân quay lại, bộ bốn đó cũng vừa ở trong biệt thự ra. Ông Xương ngồi cạnh tay lái của Tân, hàng ghế dưới Poupée ngồi giữa hai ông Hiệp, Bích. Poupée xin được trở về ngay, Tân lái xe lên phía bờ sông để rồi theo đường lớn đó phóng về Yên Phụ. ông Bích ông Hiệp thay phiên nhau ghé tai Poupée nói thầm và Poupée luôn miệng nói “ứ, bác!- Bác!- Bác bậy quá à!” Và tiếng hai ông cười ngặt nghẽo.
Poupée về rồi, ông Xương đề nghị cả bốn đi ăn chim quay Siêu Nhiên. Có bốn người mà ông Hiệp gọi hai chai vang. Rượu vào nhời ra, ba ông Xương, Hiệp, Bích, nói về Poupée.
Poupée mồ côi mẹ từ sớm, tên nàng là Nguyên, cha nàng cũng làm nghề thầu. Năm ngoái Nguyên vừa tới tuổi đôi tám, ông bố dùng Nguyên trong việc “ngoại giao” để tranh mối thầu. Việc đó không dấu được ai. Nguyên xin thôi học (vì cô ở lại trường cũng bị đuổi), nàng trở về trông nom sổ sách cho cha. Có những gã ăn chơi tìm gặp nàng rủ nàng đi. Nàng từ chối - bao giờ nàng cũng từ chối - nhưng vẫn đi. Sau mỗi lần đi gã trai nhét vào tay nàng tiền, rất nhiều tiền, nàng không cần tiền nhưng cảm thấy gần đàn ông hay hay. Rồi đến “các bác” nữa. Giáo dục gia đinh với nếp sống vô liêm sỉ của người cha đã phá hủy trong tâm linh nàng thứ tình cảm coi việc trao thân là một cái gì tối thiêng liêng. Nhưng dù sao thì nàng cũng chỉ là cô gái mười sáu mười bảy mới lớn, nếu ngươi cha phá huỷ thứ tình cảm kia trong việc dùng nàng để “ngoại giao” thì nếp sống hồn nhiên của tuổi nàng vẫn giữ cho nàng những cử chỉ, những lời nói, những tình cảm thơ ngây khác. Thanh thư Tân thấy ở nàng là cả một nếp sống mâu thuẫn xé lòng. Thủ hiến phủ đương cố tung người đi giao thiệp với một số nữ sinh nghèo để sửa soạn dân cho tên trùm chính phủ bù nhìn sắp tuần du Bắc Việt. Việc này mà làm đẹp lòng tên Thủ hiến thì có thể thầu được con đường dải đá từ ồ cầu Giấy chéo sang đường Chuôi vồ, nơi có một Francis Garnier. Các “bác” bèn nảy ra sáng kiến dùng Nguyên, ông Xương đã tìm gặp Nguyên từ chiều hôm trước. “Cháu chịu thôi, không đi đâu”, Nguyên nói thế, nhưng ông Xương đã biết tính bèn át giọng: “Liệu hồn đó, mai tám giờ rưỡi đã phải sửa soạn xong rồi, nghe tiếng còi phải ra ngay nghe không”.
Giấc ngủ trưa của Tân chập chờn, chàng thấy hơi bứt rứt khó chịu nửa sót thương nửa hờn giận nếp sống của Nguyên, ôi khuôn mặt của nàng, khuôn mặt thiên thần nhưng hơi thô! Nhưng nỗi buồn ray rứt đó không kịp kéo dài, Tân đã phải cùng ông Xương đi Nam Định ngay khoảng hai giờ chiều: một đồn xây ở ngoài châu thành Nam Định trên con đường đi bến đò Tân Đệ do ông Xương thầu đã hoàn thành.
Tới nơi, công việc bàn giao xong vừa sáu giờ chiều.
Tân cho xe chạy dìu dịu để còn ngắm cảnh mây chiều trôi nhẹ theo gió. Dòng sông nhỏ xa màu xanh lục, khoảng đồng nước gần đó láp lánh như hồ, một con lạch đôi bờ cỏ từng lùm vàng ánh, và bên khoảng đồng nước là cả cánh đồng lúa sắp chín rỡ ràng nhuộm màu nắng quái. Một đồn binh xuất hiện ở khúc quành xa, thấp thoáng mấy tên lính lê dương cởi trần màu da nâu xẫm, đầu đội ca lô xanh. Buổi chiều êm ả, chiếc xe của Tân đã lướt tới khúc quành có đồn binh lê dương ngay bên.
Tiếng ông Xương hốt hoảng:
-  Chết cha, khéo nó bắn!
Ông vừa dứt lời, một tiếng nổ chát chúa, đồng thời mặt và tay Tân cảm thấy những gì như kim đâm, kính chắn gió vỡ tan. Tân thoáng nhận bằng đuôi mắt hình ảnh mấy tên lê dương cùng say lảo đảo, một tên vừa bất ngờ giơ súng bắn. Chân ga nhấn mạnh thêm, chiếc xe vụt chồm lên vì vấp phải ổ gà. Tiếng cười nói của lũ lính say đuổi theo đầy vẻ riễu cợt:
- T'as raison ha ha ha!
- T'sais... ça pète!
Giong chàng hỏi ông Xương hơi hổn hển:
-  Ồng xem mặt tôi có việc gì không?
Ông Xương đã xem kỹ:
-  Không sao, thằng say chỉ bắn vỡ kính chắn gió, mảnh vụn làm đỏ trên má như mấy nốt muỗi đốt, không sao.
-  Mảnh vụn mà văng vào mắt thi chết tôi rồi còn gì.
Xe đã vào thành phố cả hai chưa định thần hẳn, tiếng máy GMC vo vo phía sau, tiếng còi đòi vượt, tiếng còi như tiếng chửi thách thức ném vào mặt hai người. Tân nhả bớt ga lái sát vào lề nhường đường. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, lại lũ lê dương! Chiếc GMC phăng phăng vượt lên, vừa tới ngã tư rẽ sang trái. Tân thoáng thấy bóng một người đàn bà tay xách làn mây hốt hoảng định nhảy lên vỉa hè, nhưng không kịp. Tiếng thắng ghê rợn! Tân đã dừng xe đúng ở góc cạnh nhìn rõ kẻ tử nạn. Đời chàng cho tới hôm đó mới hiểu thế nào là chết tươi: người đàn bà bị hất ngang tung lên một chút rồi ngã ngửa, đầu vỡ tan, óc và máu hòa vào nhau thành mọt khoảng bầy nhầy, cả khuôn mặt giờ đây bẹt lại chỉ còn bằng chiếc chôn bát, chân tay bà còn rẫy... Người tự bốn bề ngã tư đổ xô lại vây xung quanh, xác chết đã hết rẫy.
-  Khổ chưa!
-  Lại xe lính!
Mới tuần trước một GMC lao vào tiệm sách ở phố Hàng Giấy, ba mẹ con đương ăn cơm chết tức khắc.
Hình như vì không giết lại được ai ở mặt trận nên về căn cứ chúng giết lương dân trả thù.
Xe Tân vẫn dừng nguyên chỗ cũ, chàng đã gạt cần về số không tắt máy mà chàng còn bàng hoàng có cảm tưởng như máy vẫn nổ dìu dịu và chiếc xe còn bồng bềnh như con thuyền trên một dòng sông xuôi miết.
Phần ii
Chương 9
Ngọn đèn lương tri
i
Y hẹn để cùng đi Hưng Yên từ sớm, Tân tới nhà Khóa đã thấy Khóa chuẩn bị xong xuôi. Khóa bắt tay Tân chặt chẽ. Một chú chừng mười sáu mười bảy tuổi ở căn phòng bên nhô ra hỏi Khóa rất khẽ:
-  Thưa cậu con pha cà phê?
Khóa hỏi Tân cũng bằng giọng êm khẽ như vậy:
Anh uống cà phê hay cà phê sữa? cần uống cho tỉnh người, hôm nay buổi đầu chủng ta sẽ phải làm việc nhiều.
Tân đáp:
- Vâng anh cho uống cà phê.
Khóa bảo chú nhỏ:
-  Mày pha cho cậu hai ly cà phê.
-  Vâng ạ.
-  Nhớ đi nhẹ bước để bà ngủ.
- Vâng ạ.
Tân hỏi Khóa:
-  Có phải cháu gọi anh bằng cậu?
-  Con giai tôi đấy chứ? - Khóa đáp
- Trời anh đã có con lớn thế?
Tên cháu là Thanh, đỗ trung học đệ nhất cáp từ năm ngoái, năm nay còn học thêm về họa với một họa sư nổi tiếng từ thời Tự Lực Văn Đoàn. Cháu nó sinh năm 1937, năm đó mẹ tôi còn ở Nam Kinh.
Tân gật đầu:
Tối hôm qua tôi đến thăm anh Kha nữa, anh Kha giới thiệu thêm về anh nên tôi cũng được biết cụ đã ở Nam Kinh hơn mười năm, nhưng quả thật không ngờ anh có con lớn thế.
Tại tôi lấy vợ sớm. Điều này là tự ý tôi quyết định, tôi biết mẹ tôi ở Nam Kinh ngày đó vui lắm, các cụ bao giờ chẳng muốn sớm thấy con độc cháu đàn cho vững bụng. Nhưng rồi tôi cũng chỉ được có một cháu Thanh này, hai lần sau nhà tôi đều bị hư thai rồi tịt!
Thanh đã mang ra hai ly cà phê khá đặc, thơm ấm.
-  Ê, ê, hai cốc không đủ, phải sẻ ra làm ba đi!
Tân reo:
-  Ô kìa anh Kha này, anh cũng dậy sớm thế?
Tân hỏi xong chợt thấy cảm động vì chàng biết Kha đến sớm như vậy cũng chỉ để săn sóc và theo dõi công việc của chàng. Khóa đã ngoắc Thanh ra bảo lấy thêm một cốc và mang cả bình thủy nước sôi ra, rồi nói với Kha:
-  Cậu rón rén tài đấy chứ, vào lúc nào mà tụi này không hay.
Kha đáp:
Tôi biết phải đến sớm thế mới còn được gặp các anh. Các anh đi thì tôi cũng đi dạy học. À hà, cốc cà phê san sẻ lại được uống trong sương sớm lành lạnh, sướng ghê.
Tân đam mê Kha như đam mê gái, không hiểu sao, kể từ ngày gặp nhau lần đầu ở đồn điền Lợi Ký. Tiếc rằng lần này chàng không được ngồi cùng Kha lâu, Khóa đã đặt ly cà phê uống cạn xuống, giọng lanh chao hẳn:
-  Thôi nào chúng ta đi cho được việc!
Cả ba cùng đứng dậy, vừa ra tới cửa Kha dừng lại đón nhận tiếng saxophone êm êm từ tòa báo Văn Hóa đối diện vẳng sang và nói khẽ:
Các anh thấy không, Lãng đã dậy, thằng cha dậy sớm thế! Tiếng kèn của anh ấy thật hay, êm như tiếng ru.
Tân cười và giải thích:
- Đó là bài berceuse “La jeune mère” cùa Schubert đấy.
Khóa gật đầu vẻ khôi hài:
- Vả giờ này vợ chồng Khiết còn ngủ nên Lãng thổi nhạc ru là phải.
Tân hỏi:
- Anh Lãng cùng ở bên đó?
Khóa đáp:
Hắn độc thân mà. Hắn ở bên đó để trông coi tòa báo một thể. Ấy là vào những hôm không phải đi phóng sự.
Kha giải thích thêm cho Tân hiểu:
- Anh Lãng phụ trác mục phóng sự cho tờ Văn Hóa.
Khóa hỏi Kha:
- Anh có cần tôi đưa đến trường không?
Thôi còn sớm mà - Kha đáp - anh cứ mặc tôi. Vào thăm Lãng một tí. À các anh nhớ chiều mai đã phải có mặt ở Hà Nội rồi để dự tiệc tiễn Hãng, Hiển. Anh Tân nhớ nhé.
Kha bắt tay từ biệt hai người. Tân trìu mến nhìn Kha qua đường rồi mới mở cửa xe vào ngồi bên Khóa.
Nhớ lại tối hôm qua Tân tìm đến địa chỉ Kha mà chàng đã ghi vội trên sổ tay. Trước khi gặp Hiển và Kha, Tân đã gặp Miên ngồi buồn rầu dưới ánh đèn trước cửa ra vào (nàng buồn rầu vì Hiển sắp vào Nam theo lớp quân sự). Miên nhận ra Tân ngay ỉập tức, đôi mắt nàng sáng một niềm kính mến làm rạng rỡ cả khuôn mặt hiền thục, vẻ u sầu vừa qua của nàng hoàn toàn biến hẳn. Miên chỉ kịp cất tiếng reo vui “anh Tân!” thì Kha, Hiển cũng vừa tự bên trong ra đón. Tân chợt nhớ ngay đến buổi chiều nào tại trạm quân y hậu cần, Miên thủ thỉ kể hết cảnh mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Tân cũng chưa kịp tự đặt câu hỏi trường hợp nào đã run rủi cho Kha, Hiển gặp nhau để ngày nay tụ họp cùng một nhà, chỉ biết khi bắt tay Hiển chàng nói ngay:
Ngày tôi gặp cô Miên ở huyện Tam Lộng, cô có nói cho tôi hay là cô còn một người anh trạc tuổi tôi trong đội chiến đấu, ngày đó tôi đã nhận cô là em gái nuôi, đến nay mới được gặp anh!
Hiển không biết nói gì thêm ngoài lời cám ơn Tân, lời nói có bề ngoài như khách sáo nhưng bên trong Hiển thực tình cảm động lắm.
Sau đó ba người rủ nhau đến Hãng. Trên đường đi Tân nói với Hiển, Kha:
Sáu tháng giời qua chẳng gặp người quen nào, nay gặp anh Kha thì lại khám phá ra khối người khác.
Tới nơi Tân cùng bà Phán và Hãng thoạt nhắc lại kỷ niệm xưa khi lớp huấn luyện cán bộ tăng gia sản xuất thiết lập ở đồn điền Lợi Ký. Bà Phán thuật lại cái chết của ông Phán. Hãng cúi đầu thở dài. Trước khi lui về phòng mình ngủ nhường chuyện cho những người bạn trẻ với nhau, bà Phán chớp chớp mắt nói với tất cả:
Thế nào tôi cũng phải ra cải táng bằng được cho ông nhà tôi, rồi chúng có giết nốt tôi thì giết!
II
Suốt dọc đường từ Hà Nội đến Hưng Yên, Khóa vừa lái chiếc Traction 15 vừa làm chủ câu chuyện, đường dài thành ngắn. Đã được thưởng thức thái độ nồng nhiệt của Khóa khi thuật chuyện trong buổi sơ kiến hôm qua, nên điều đó với Tân không có gì là lạ, lần này Khóa tiếp tục câu chuyện bỏ dở khi nãy, lúc Kha chợt vào rồi cả ba cùng uống cà phê.
-  Kể ông trời cũng đa đoan thật - giọng Khóa thoạt trầm ngâm khi xe vừa lên cầu Long Biên, thấp thoáng một mảnh sông Hồng bên dưới mờ trong sương sớm và gió lạnh - mẹ tôi chỉ có một mình tôi là giai, thương và quý tôi không thể nào tả được, thế mà mẹ con phải xa nhau ngót mười lăm năm giời. Cho đến giờ, tôi ngần nhiêu tuổi đầu, có con lớn bằng ngần áy, nhưng đứng trước mẹ, tôi vẫn cảm thấy mình là con nít. Mẹ tôi cương nghị và trung hậu quá, gương sống của người luôn luôn là bài học sống cho tôi noi theo. Khi còn ở bên Lào mỗi lần đọc thơ mẹ là một lần tôi khóc. Tuy ở xa hàng vạn cây số, người vẫn giáo dục tôi, giáo dục gián tiếp bằng lời thư, còn gián tiếp hơn nữa là nhiều khi người chỉ kể lại cảm giác của người lúc nhớ cố hương làm tôi càng thấy trìu mến đất nước. Người kể lại nỗi vui khi gặp người đồng hương (hẳn là Khiết) khiến tôi càng thấy thương mến những người đồng hương quanh tôi ở ngay Vạn Tượng và những đồng bào mà tôi được may mắn gần gũi hơn ở bên kia đeo Kim Cương.
Khóa nhấn mạnh ga vượt qua một xe hàng. Mặt trời đã ló khỏi mây sớm, khí trời bạn mai còn lành lạnh, con đường nhựa sạch bóng như luôn luôn trườn mình chạy trốn một cách cương trực về phía trước giữa khoảng đồng ruộng bao la lốm đốm đây đó những mẫu xanh thẫm của lũy tre làng, thỉnh thoảng con đường lại trườn mình qua một chiếc cầu ngắn, hoặc là con cầu sắt sơn hắc ín đen xì, hoặc là cầu xi măng màu trắng đã xám với thời gian.
Khóa tiếp tục kể cho Tân nghe ngày Khóa hay tin mẹ đã ờ Nam Kinh về Hà Nội.
Việc nhắn tin không ngoài cách cổ điển là gặp bất cứ ai buôn bán giữa hai miền kháng chiến và bị chiếm, dù thân hay sơ, dù quen biết hay không quen biết chút nào, bà Đô đều thiết tha nhờ: “Phiền bà (hay ông) ra ngoài đó có gặp ai tên là Khóa trạc trên ba mươi tuổi, xin mách dùm cháu nó là tôi đã ở Nam Kinh về, để cháu nó biết mà vào đây gặp tôi ngay”.
Bà Đô cũng biết con dân nước Việt thiếu gì người trạc trên ba mươi tên là Khóa, nhưng có mẹ ở Nam Kinh mới về hẳn là điểm độc đáo để con có thể nhận ra mẹ. Chỉ có điều bà Đô không để ý là lý trí giúp bà nhớ tuổi trên ba mươi của con nhưng tình cảm lại chỉ ghi nhớ hình ảnh Khóa ngót mười lăm năm về trước, cho nên kể cả khi nhờ người trên dưới ba mươi một chút bà cũng ân cần nói “xin làm ơn mách dùm cháu nó là tôi đã ở Nam Kinh về, để cháu nó...”
Khi tậu được căn nhà mở cửa hàng ở phố Hàng Trống, bà Đô bèn cho đăng vào cả mấy tờ báo hàng ngày tại Hà Nội:
Khóa con,
Mẹ đã ở Nam Kinh về, hiện ngụ tại sổ... phố Hàng Trống. Con về ngay, mẹ đợi.
Bà Đô nghĩ rằng rất có thể Khóa hoặc các bà con, bè bạn Khóa tại một cơ quan chính phủ nào ở ngoài đó được quyền theo dõi báo chí Hà Nội và đọc được tin nhắn này.
Đất nước tuy phân chia hai miền, đường giao thông tuy chằng chịt, nhưng tình mẹ mong con tỏa ra bao phủ cả sơn khê và Khóa đã nhận được tín đó do một người mới tới cất muối của chàng tại bến đò Bất Bạt, Sơn Tây. Lập tức Khóa bán vội chuyến muối đó, xuôi thuyền gấp trở về Lạt Sơn, Phủ Lý, thu xếp một ba lô hành trang nhỏ và trước khi lên đường vào Hà Nội, chàng giặn vợ:
-  Mình ờ ngoài này trông con, tôi vào gặp mẹ xem tình thế ra sao rồi hoặc tôi mang mẹ ra đây, hoặc tôi trở lại đây đón mình và con về.
Tiếng là nói nước đôi thế, nhưng vốn Khóa đã ghét Việt Minh ngay từ thuở ban đầu khởi nghĩa, thành kiến đó sớm giúp Khóa quyết định ngầm: Lũ cờ gian bạc bịp ngoài này với lũ ăn cướp trong kia cũng như Sở Khanh với Mã Giám Sinh, biết rõ bộ mặt thật của chúng kệ xác chúng với nhau, mình cứ yên lặng phụng dưỡng mẹ già là hơn cả.
Khóa dời Lạt Sơn lên đường đi chợ Đồng Quan ngay chiều tối hôm đó. Tại Đồng Quan Khóa gặp cô nữ thư ký làm tại sở thuể quan Văn Lý xưa. Cô tên là Jeanne Lệ Thủy có lai Pháp chút ít. Cha chết sớm, cô cùng mẹ tản cư từ đầu kháng chiến, nhưng rồi gia cảnh sa sút dần, bà mẹ vào thành trước để thu thập tài sản, nay đến lượt cô vào cùng với người đầy tớ gái. Khóa quyết định cả ba sẽ theo đường mòn vào Thành qua lối Văn Điển (cuối 1947 quân Pháp chỉ mới tiến tới ga này và lập một tiền đồn ở đó). Gần tới Văn Điển cả ba cùng không biết đường nào mà đi, bốn bề vắng tanh vắng ngắt, đường đồng thì nơi này ruộng chiêm lấp loáng nước, nơi kia ruộng mùa bỏ hoang cỏ mọc ngập đầu gối; tìm tới quốc lộ số một thì những hầm hố phá hoại xưa nay trông càng đượm vẻ điêu tàn với rêu phong cỏ mọc, có quãng ba người phải lách vào giữa những ụ đất cỏ ranh rậm như rừng, mấy lần giật mình vì những con cò đậu nấp dưới cỏ kín thấy động bất chợt vù bay lên. Bỗng cả ba cùng đứng sững lại, bất giác Jeanne níu chĩu lấy cánh tay Khóa và con bé đầy tớ thi thốt tiếng kêu khẽ “chết mất bác ơi” rồi lùi một chút để nép hẳn phía sau Khóa. Nguyên do ba người mải mê lách giữa những hố phá hoại, đến khi vừa cùng nhô ra khỏi ụ đát cuối cùng với cỏ ranh cao rậm thì đồn binh Pháp bỗng xuất hiện sừng sững phía trước, ngang bờ thành nhấp nhô đầu lính Pháp và tại mỗi lỗ châu mai đều có một miệng súng đen ngòm hướng về phía ba người.
“Mẹ ơi, con về để gặp mẹ, lẽ nào con chết được!” - Khóa nghĩ thầm thế mà chỉ trong một xích na Khóa toan tính được hết điều thiệt hơn. Ụ đất chỉ cách có chừng hai bước phía sau nhưng đừng nói lùi lại, chỉ cần cả ba cứ đứng sững thế vài giây nữa đủ để các miệng súng đa nghi phía trước kia quyết định khạc đạn đều một lúc và cả ba tất chết lật ngửa về phía sau nửa bước là cùng. Khóa kẹp chặt lấy bàn tay Jeanne tiến lên, kéo theo cả con bé đầy tớ níu áo đằng sau, và nói khẽ:
- Đi ngay! Phải đi như thường chúng mới không bắn.
Cùng với bước tiến đó Khóa khẽ phanh chiếc veston bằng vải ka ki cho hở đúng khoảng tim, không phải lúc đó chàng toát mồ hôi mà vì chàng ý thức được rõ rằng ranh giới giữa sống và chết lúc đó chỉ bằng một phần tư sợi tóc, lý trí hay tình cảm không ăn nhằm gì vào cái xích na mà bất kỳ một tên lính nào phía trước nhấn cò súng. Khóa chỉ muốn rằng nếu rủi chúng có nhấn cò súng thì viên đạn chỉ việc xuyên thẳng vào tim chàng. “Mẹ ơi, con về để gặp mẹ lẽ nào con chết cho được!”. Tiến được chừng mười bước, không một miệng súng nào lóe lửa, lúc đó Khóa mới yên chí là sống. Viên trung úy Pháp chỉ huy đồn xuất hiện, Jeanne giơ tay làm hiệu. Jeanne cũng hiểu phải nước cờ mỹ nhân kế lúc đó mới đủ bảo đảm cho ba người. Viên trung úy ra hiệu thôi ngắm bắn cho những tay súng trong đồn, rồi tiến lên mấy bước:
-  Giời ơi sao các người tiến thẳng vào tới đồn? Không sợ chết à?
-  Chúng tôi hồi cư mà! - Jeanne trả lời bằng tiếng Pháp thế, không quên kèm một một nụ cười và một khóe nhìn.
Sau vài lời trao đổi với Khóa nữa, viên trung úy bèn đưa ba người vào làng gần đấy thuộc đồn này, ở tạm tại nhà ông đại diện xã và hứa sáng hôm sau cổ xe sẽ đưa về Hà Nội. Trời chiều cũng vừa xuống màu.
Chín giờ hôm sau xe nhà binh tới. Về Hà Nội, từ biệt cùng Jeanne, Khóa tìm đến căn nhà ở Hàng Trống thì cả mẹ và em vừa đi sang Gia Lâm thăm hỏi một người bà con nào đó ở gần phi trường. Khóa thuê xe ra phố Bờ Sông những định sang ngay Gia Lâm, nhưng tới đây Khóa mới hay là từ Hà Nội sang Gia Lâm phải có giấy phép mới qua cầu được. Chàng không ăn gì suốt nửa ngày hôm đó mà không thấy đói, chỉ uống dù là không khát, nhưng sự khát khao gặp mẹ làm cồn cào lòng ruột thì làm sao mà uống nước cho dịu được? Đến bốn giờ chiều hôm đó mẹ con, anh em mới gặp nhau.
Rồi Khóa trở ra đón vợ con về. Buồng vợ chồng Khóa ngay sát với buồng mẹ. Khóa bố trí vậy để nhỡ nửa đêm gà gáy mẹ có cần sai bảo điều gì, mẹ chỉ việc gọi một tiếng. Ai ngờ mẹ rất ít sai bảo chẳng riêng gì với con cháu mà cả với người làm.
Khóa thấy mẹ thức khá khuya mà vẫn dậy sớm, điều khiển cửa hàng rất chu đáo, Khóa hầu như chỉ giúp mẹ có việc duy nhất là đi lấy hàng về. Buồng của cụ chằng chịt dây điện, nào để cắm đèn đêm, nào để cắm đèn đọc sách (cụ vẫn đọc sách kể cả sách chữ Hán), nào để cắm bàn là, nào để cắm bếp điện pha nước uống trà sớm. Cụ dậy trước, khi qua buồng con, rón rén êm như bước mèo, sợ con thức giấc. Có những ngày hai mẹ con không nói với nhau một câu nhưng Khóa vẫn có cảm tưởng được thường xuyên đàm thoại với mẹ. Đó là thứ im lặng cô đọng trong đó vang lên những lời thở than của mẹ ngót mười lăm năm xa nước, cùng những lời khuyên nhủ trong thư. Nhiều sớm mai, Khóa thức giấc vừa kịp vươn vai, mẹ nghe tiếng động, biết con đã dậy, giọng dịu dàng gọi: “Anh sang đây uống chén trà nóng!” Tiếng gọi đó bao giờ cũng làm Khóa lặng người, nước mắt rưng rưng, chàng muốn quì xuống cám ơn mẹ đã ban cho chàng phép lạ khiến chàng được sống lại một lần nữa tuổi thơ trong sạch quý giá.
III
Tân quan sát thấy cách làm việc của Khóa bao giờ cũng nhẹ nhàng và sáng suốt. Trước khi bắt tay vào việc Khóa đã tính toán kỹ mà sự tính toán đó dường như được hướng dẫn bởi một linh tính huyền bí và vô cùng bén nhạy nào.
Sau một buổi thảo luận với ông tỉnh trưởng Hưng Yên, Khóa sang văn phòng lấy đủ các giấy tờ cần thiết, giao thiệp vừa đủ thân mật và rất thẳng thắn với những người có phận vụ vào việc cho xây ngôi trường. Hôm sau Khóa và Tân về Hà Nội từ sớm. Sau hai lần thầu xây cát trường tại Hải Dương, Khóa đã có được một số thợ nề, thợ mộc tin cẩn để có thể giao khoán cho từng người số công việc thích hợp với từng khả năng công tác và tài chính. Họ biến thành những chủ nhân ông của từng tiểu bộ phận. Họ không bị bóc lột và còn hoàn toàn được dịp phát triển sáng kiến.
Khóa dự định khi công việc xây cất bắt đầu thì Tân phải ở lại Hưng Yên ít nhất hai tuần liền, vạn sự khởi đầu nan. Tân đồng ý. Khóa nói vanh vách những việc Tân sẽ làm theo thứ tự hợp lý. Tân ghi vội vào cuốn sổ tay. Nhà cuối cùng hai người tới là nhà một kiến trúc sư mà Khóa cần hỏi lại một vài chi tiết chuyên môn. Khi mọi công việc thu xếp đã đâu vào đấy, ngày khởi công quyết định vào tuần sau. Ra xe Khóa chưa cho xe chạy vội, thở phào nói với Tân:
-  Công việc thế là tạm ổn. Quê anh ở đâu nhĩ?
- Quê tôi ờ làng Lại Vũ, Bắc Ninh - Tân đáp.
-  Ủa, thế anh biết Đạo người cùng làng anh?
-  Có biết chứ anh, Đạo con cụ huyện Từ.
-  Đúng, hiện Đạo làm bí thư cho ông tỉnh trưởng Hải Dương. Năm ngoái tôi thầu xây cát trường trung học, rồi trường mẫu giáo ở đấy do Đạo giới thiệu. Tôi cũng gặp Chủy ở đấy, chắc anh biết Chủy con ông đồ Thinh?
-  Có chứ! Anh gặp Chùy ở nhà Đạo?
Khóa gật đầu:
-  Phải, ngày đó Chủy vừa ở trạm giam Hải Dương ra, bị sốt rét nằm lại ở nhà Đạo, Chủy nói hết sốt sẽ ra hậu phương ngay.
- Anh biết Chủy lấy Vân em anh Hãng?
-  Có. Tôi đã nói chuyện này với Hãng. Hãng vui vẻ nói với Kha: “Thế thì Chủy không bị Tây thủ tiêu, như vậy không sớm thì muộn Vân sẽ gặp chồng nó”.
Đôi mắt Tân đăm chiêu, chàng nghĩ đến hình ảnh Chủy tức Mạnh, chủ tịch huyện Thanh Ba ngày nào, chợt chàng hỏi:
-  Sao anh quen Đạo và Chủy người làng tôi?
-  Tôi biết Chủy thì đúng hơn mà cũng chỉ là biết mang máng thôi, chả là bà đồ Thinh cùng quê làng Liên Phú với tôi, có liên hệ bác thúc chút ít, hình như tôi phải gọi bằng “dì” thì phải. Thuở sinh thời thầy tôi và ông đồ Thinh hai người thân nhau lắm, bạn tri kỷ về tử vi.
Khóa đã cho xe nổ máy và nói tiếp:
-  Nào bây giờ tôi đưa anh về qua nhà lấy bộ quần áo sạch, anh lại đằng tôi, chúng ta tắm rửa nghỉ ngơi một chút rồi cùng đi dự tiệc là vừa.
Tân cười:
-  Hình như anh giải quyết mọi công việc đều bằng linh tính, lời anh đề nghị đúng hệt như ý tôi định nói.
-  Nếu đấy là một lời khen thì công đó là công của mẹ tôi, tôi luôn luôn suy tưởng và hành động theo ảnh hưởng của người. Ngày nay ôn lại thái độ khi tôi còn là cậu trò nhỏ ở Lào, khi là người công chức ở Văn Lý, khi là người dân tản cư ngoài hậu phương, tôi tự khám phá thấy rằng nhất nhất mọi hành động đều do tình mẹ chỉ huy, dù mẹ tôi khi đó còn ở Nam Kinh. Tôi đi đến kết luận: phải sống nhiệt thành! Có Thành mà không Nhiệt, không có sức gì đun đẩy; có Nhiệt mà không Thành, chỉ là một sự phung phí không đưa đến kết quả nào. Vì hoàn cảnh bắt xa quê hương đất nước mà mẹ tôi càng nhiệt thành với quê hương đất nước, vì hoàn cảnh bắt mẹ con xa cách, tôi càng xa nhiệt thành hướng về tình từ mẫu. Tôi nghĩ con người ta ai cũng lầm lẫn, nhưng nếu nuôi được một điều nhiệt thành hướng thiện trong ta, lương tri sẽ luôn luôn thức tỉnh mà giúp ta có nhiều công hơn tội với tất cả mọi người. Cũng tỉ như trong năm điều nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của đạo Khổng kẻ nào nhiệt thành với một trong năm điều, vô hình chung thực hiện được cả năm điều.
Tân gật đầu:
- Anh nói đúng!
Khóa tiếp:
-  Không xa đâu, mới năm ngoái trong một chuyến xe hàng từ Hải Dương về Hà Nội, tôi ngồi hàng ghế trên. Xe đi được nửa đường, đã mẩy lần có kẻ lên người xuống, tôi chợt thấy một quả ổi lớn lăn từ phía sau lên đụng phải chân tôi. “Quả ổi lớn của kẻ nào đánh rơi, mình có quyền nhặt chứ, được không một quả ổi cũng là một điều hay chứ sao” - Tôi nghĩ thế rồi cúi xuống nhặt, cho lẹ vào túi giấy đựng những hoa quả khác mà tôi mua ở bến xe Hải dương về làm quà cho mẹ và vợ con. Nhưng tôi chỉ vừa kịp ngồi thẳng thì có tiếng nói đằng sau, tiếng của một đàn bà ôm con: “Ông cho xin quả ổi đó của cháu”. Tôi vội gật đầu đáp “vâng ạ” rồi cúi xuống lấy quả ổi trao liền lại phía sau, tôi không dám nhìn thẳng vào mặt bất cứ ai lúc đó. Cũng may xe tới Gia Lâm thì người đàn bà ôm con xuống. Tôi cứ ngồi yên lặng như vậy cho đến khi xe lên cầu, gặp chuyến tàu hỏa Hà Nội Hải Phòng rầm rộ qua cầu, rồi xe tới bến Bờ Sông, tôi xuống. Anh xem tôi luôn luôn nghĩ thẳng thắn, làm thẳng thắn mà rồi tự nhiên nảy lòng tham quả ổi rơi như vậy; Tôi tự hỏi vì sao, tôi tự phân tích ý nghĩ của minh khi quyết định cúi xuống nhặt quả ổi, tôi thấy rằng dù mình rộng lượng đến đâu, có đủ những duyên cớ để tự bào chữa đến đâu thì thái độ kia vẫn hai năm rõ mười do lòng tham mà ra. Và việc kiến tạo một xã hội có giáo dục để hướng dẫn cá nhân cần thiết biết chừng nào. Tôi thấy con người chúng ta bao giờ và mãi mãi chỉ là con vật dễ sa ngã, đừng ai nói thánh nói tướng, bịp hết! Điều quan trọng: hãy nuôi lấy lòng nhiệt thành về một ý hướng thiện làm ngọn đuốc luôn luôn soi sáng cho lương tri. Con người với mấy ngàn năm văn hóa tích lũy, nhưng nếu buông tuồng một thời gian nho là trở về với thú tính ngay. Leo lên thì lâu rớt xuống thì chóng, vo tròn thì khó, bóp bẹp thì dễ quá đi!
Tiếng máy xe vo vo, bóng người hai bên vỉa hè lùi lại phía sau, Tân và Khóa cùng lặng thinh. Rồi xe tới nhà. Khóa nhường cho Tân tắm trước. Tắm xong, còn nhiều thì giờ Tân ra nằm ghế xích đu. Khi đến lược Khóa ở buồng tắm ra, Tân vờ ngủ. Tân phải vờ ngủ để giữ lấy khoảng thời gian im lặng đó mặc cho câu chuyện quả ổi Khóa vừa kể bám rịt vào óc như con đỉa đói bám rịt vào bắp chân người làm ruộng. Và
trong khoảng im lặng đó thỉnh thoảng Tân lại cho vang lên trong tâm khảm câu nói thầm:
“Con người thành thực đến thế là cùng!"
Phần ii
Chương 10
Thần tượng
i
Vân đã về Hà Nội, nhưng nàng không ở đây lâu, Kha biết lắm. Lý do ư? - Con nàng, đứa con giai độc nhất của nàng, còn ở ngoài hậu phương, tất nhiên không sớm thì muộn nàng phải trở sang bên kia vòng đai trắng.
Vân đã về! Nàng về muộn mạn đủ mọi vẻ! Nàng về chồng chất thêm mối sầu cho bà Phán: chồng chết, con gái út chết, con trai lớn đi xa và con rể... đến nay thì cũng rõ ràng là đã chết trên khoảng vòng đai trắng cách tỉnh lỵ Hải Dương chừng mười cây số. Là biết vậy thôi, chứ Mạnh chết mát xác!
Dù sao thì Vân cũng đã về! Vân đã ở lại bên mẹ được hai tháng qua.
Đó là một buổi trưa thứ bảy đầu xuân! Không ngủ trưa, lần này Kha dắt xe ra cửa với ý định lờ mờ sẽ đến gặp Vân. Phải gặp Vân! Bởi hoặc nay hoặc mai, biết đâu Vân sẽ khuất nẻo vĩnh viễn bên kia vòng đai trắng ngoài hậu phương.
Tiếng một phụ nữa lanh lảnh, lời nói lên với tiếng cười lẳng lơ:
- Anh sắp đi đâu đấy anh Kha?
- Chào cô Diễm.
Giọng thiếu phụ giằn xuống nũng nịu một cách đặc biệt:
- Anh đi đâuuu...?
Kha vẫn chưa dắt xe tiến lên được vì Diễm còn đứng chắn ngang, chàng đáp:
- Tôi đi đằng này có chút việc, cô sang đây chơi?
- Vâng em sang thăm mấy người bạn cũ.
Tháy Diễm vẫn chưa đứng tránh sang bên, Kha miễn cưỡng hỏi thêm:
- Cháu nhỏ vẫn ngoan chứ, sao cô không bế sang chơi.
- Cháu ngủ mà anh, anh đi đâuuu...?
Diễm né sang một bên và Kha dắt vội xe ra cổng miệng giữ nụ cười lịch sự miễn cưỡng.
Đạp xe được một quãng đường thẳng, Kha quay lại tháy Diễm cũng đã rẽ theo đường về. Kha biết câu “em sang thăm mấy người bạn cũ” của Diễm là nói cho có chuyện, sự thực Diễm sang chỉ để gặp chàng.
Hãng lên đường sang Pháp, Hiển lên đường vào Nam đã được một tháng. Kha hiểu việc trai gái đến tuổi này ở chung một nhà sao được nên trước đây chàng đã định sau bữa tiệc tiễn hành khi trở về chàng sẽ chính thức hỏi Hiển xin Miên làm vợ - ít nhất là vợ chưa cưới- để bạn ra đi yên lòng. Nhưng Miên đã kín đáo lo việc đó trước, nàng xin được chính phủ cấp cho một phòng tại khu nữ nhân viên ngay trong nhà thương. Thế là Kha chưa phải quyết định gì cả, chàng nghĩ để rồi ngày Hiển học xong về phép, điều kiện kinh tế của chàng vững chắc hơn, ngày đó sẽ hỏi và tổ chức lễ cưới ngay. Trong thâm tâm Kha càng quyết định hỏi Miên làm vợ, bề ngoài chàng càng giữ vẻ điềm đạm.
Trước ngày Hiển lên đường vào Nam, Miên đã dọn đến chỗ ở riêng của nàng trong nhà thương. Nàng để lại cho Kha dùng chiếc xe đạp nàng mới mua. Kể từ đấy chiều thứ bảy hoặc ngày chủ nhật, Miên về thăm Kha và làm những bữa ăn đặc biệt riêng cho hai người hay mời cả gia đình văn hóa cùng ăn.
Ông Ký Thản bên hàng xóm đã theo sở Mỹ vào Nam. Một thiếu phụ một tay bồng con, một tay dắt con đến thuê căn trống đó: Diễm.
Với Kha, còn một minh chàng ở lại, căn phòng trở nên mênh mông trống trải lạ, nhưng với Diễm thì trên đời này chẳng còn gì quyến rũ hơn hình ảnh chàng trai chưa vợ sống một mình trong một căn phòng. Chồng nàng, người chồng thứ hai, là một quân nhân đi vắng luôn... Kha lại hay làm việc khuya và bỏ ngỏ cửa. Ngay hôm đầu dọn đến đây khoảng một giờ sáng sực dậy nhìn qua cửa sổ sát bên giường nằm, Diễm còn thấy ánh đèn bên phòng Kha in dài một phiến vàng rộng ra đến giữa sân. Nàng vờ đi tiểu, liếc mắt nhìn vào, Kha ngồi trước bàn cắm cúi vừa viết vừa suy nghĩ, sách vở ngổn ngang bên tả bên hữu. Kha quả là một mồi ngon mà Diễm tự cho là mình đã cầm lỏng trong tay. Ngày hôm sau Diễm làm quen với Kha liền, nàng không gọi là “ông giáo” hay “anh giáo” gì cả, thân mật gọi luôn tên chàng. Thoạt nàng ôm con đứng nói chuyện với Kha ở trước cửa phòng, rồi những buổi tối nàng kiếm cớ vào tuột bên trong hỏi mượn Kha bao diêm, cái bút chì, hay lọ mực. Thấy Kha không để ý gì đến “cánh cửa bỏ ngỏ” của mình, vẫn một điều “thưa chị” hai điều “thưa chị” đã hơn một lần Diễm trở về phòng lẩm bẩm “Mặt mũi thế mà ngốc tệ!” Thậm chí một đêm đã quá mười hai giờ khuya, Diễm vùng dậy mở cửa ra sân đi vào phiến ánh sáng thoát ra từ phòng Kha, tì vai vào cửa, một bàn tay đỡ lấy má, nghiêng đầu lẳng lơ nhìn Kha làm việc và nói:
- Anh làm việc khuya thế anh Kha.
- Vâng, thưa chị, làm việc ban đêm, tĩnh. Ban ngày tôi có làm được gì đâu.
Kha đáp vậy rồi lại cắm cúi làm việc, Diễm thấy mình còn đứng lại nữa thì trơ quá nên trở vào phòng, xung quanh nàng, nhà trên nhà dưới bốn bề ngủ yên cả. “Rõ hoài, thằng ngốc! - Diễm nghĩ thầm, đay nghiến - Giá nó cứ vẫy mình một cái, tắt đèn đi ế.. khép cửa lại... Thằng ngốc! Thằng ngốc!”
Thứ bảy Miên làm cơm. “Thì ra thế, chắc là thằng ngốc muốn chung tình với con bé mặt mũi phúc hậu” - Diễm nghĩ.
II
Từ thuở mới mười lăm tuổi Diễm đã khát tình. Hồi đó Diễm còn ởquê nhà, một huyện lỵ thuộc Kiến An. Diễm yêu một bạn trai cùng lớp và ngỏ ý với một bạn gái khác: “Anh T. đẹp trai quá, tao muốn kết bạn với anh ấy!” Cô bạn gái bèn đứng làm môi giới cho đôi bên thư từ và tặng ảnh nhau. Gần mãn niên học Diễm bỗng khám phá được một cậu trai học dưới nàng một lớp, đóng kịch giỏi, ngâm thơ hay, bèn tự ý tỏ tình. Cả hai lại cùng tập kịch rồi đóng kịch vào ngày phát phần thưởng cuối niên học. Đôi bên lại tặng ảnh nhau và thư từ trao đổi suốt vụ hè. Cho tới đầu niên học mới, gặp phải ông thầy hắc búa ra lệnh từ bảy giờ rưỡi chiều trở đi học sinh bất kỳ nam nữ không được nhởn nhơ ngoài đường. Lại có kẻ mách lẻo khiến ông biết hết chuyện viết thư tặng ảnh, ông gọi anh học trò con trai cùng lớp tới hỏi vào giờ ra chơi, anh này hoảng viết thư cho Diễm đòi lại ảnh. Anh lớp dưới cũng sợ lây và theo gương anh lớp trên viết thư đòi lại ảnh cùng tất cả những bức thư đã viết trước đây. Diễm thoạt không chịu, hai anh lại đón đường dọa làm ầm câu chuyện lên, nàng mới chịu. Năm sau Diễm thôi học. Thuở đó Diễm vẫn còn vẻ người thanh như mai. Kế tiếp cũng có một vài cuộc phiêu lưu tình ái khác nữa nhưng Diễm vẫn chưa hề được thỏa tình hoặc vì chàng trai nhát quá hoặc vì họ thấy Diễm quá dễ dãi nên đâm hờ hững vì “chiến đấu không gian nan thắng lợi không vinh quang”. Năm hai mươi tuổi Diễm xúc động vì đoạn cuối một bài tường thuật của nhà phóng viên thể thao trẻ tuổi nọ mà sau này khi gặp gỡ nàng mới hay cũng là một bạn học cùng lớp với nàng xưa. Đầu đề bài báo đó là: “Cuộc đua tài của hai đội bóng tròn Olympic và Racing trên sân Mangin”. Nguyên văn đoạn kết như sau:
“Thế là đôi bên quần thảo mãi tới phút sáu mươi tư của cuộc so tài Racing mới phá được sự trinh bạch của màng lưới Olympic, nâng thành tỷ sổ thắng lợi một không. ”
Bài tường thuật đã bị dư luận thủ đô lên án là dâm ô, chính ông chủ nhiệm cũng phê bình gay gắt chàng phóng viên, ông có biết đâu vì bài báo đó kèm theo một cái may khác gặp và nhận ra Diễm là bạn học cũ ở rạp xi-nê Olympia mà chàng phóng viên đó đã trở thành nguời bạn lòng đầu tiên thực sự chiếm hữu Diễm. Lẽ cố nhiên cuộc tình duyên phóng đãng đó chẳng kéo dài được bao lâu, vì chàng phóng viên nào có lạ gì thành tích của cô bạn gái mình xưa. Có điều đáng ghi là sau cuộc tình duyên này Diễm bắt đầu đẫy người. Bà hàng xóm vốn không lạ gì tính Diễm phê bình một câu cay độc: “Gái bén hơi trai mà!” Mãi đến năm hai mươi bốn Diễm mới lấy chồng thực sự. Người chồng nhà buôn này đã tử nạn trong chuyến xe hàng bị mìn trên đường Phủ Lý Nam Định, đứa con đầu lòng còn trong bụng mẹ. Sinh con được hơn ba tháng, có hôm đến thăm cô bạn gái, Diễm gặp một chàng trai quân nhân cao khỏe là anh em bá thúc với cô bạn. Nhà này phòng khách cách với phòng tắm chỉ có mấy tấm cánh cửa đã được đóng đinh. Diễm bèn vào tắm nhờ, rồi vừa tắm nàng vừa nói chuyện trõ ra với cô bạn. Nàng kỳ cọ, nàng vỗ vào da thịt, nàng xối nước. Khi ngừng câu chuyện nàng luôn luôn khen nước mát. Mỗi lần xối nước là một lần nàng rùng mình và thở dài lớn, khoan khoái. Lúc gần tắm xong nàng la lên với cô bạn: “Trời ơi, có để cho người ta tắm không, nỡm, dòm gì? Đừng hé cửa gió vào, lạy đấy!”
Sự thực cô bạn Diễm khi đó đã vào sâu trong bếp có hề đứng ở cửa buồng tắm đâu, Diễm chỉ cốt khích động chàng trai quân nhân ngoài phòng khách (nàng góa chồng ngót một năm trời rồi còn gì). Và chàng trai quả đã bị khích động. Chàng tìm đến tận căn nhà Diễm thuê, rồi thì thọt tới luôn, rồi Diễm có mang. Tính ra trong vòng chưa đầy hai năm nàng đã có hai đứa con với hai đời chồng. Chỗ ởcũ của Diễm xung quanh hàng xóm toàn các cụ các bà thế hệ trước, mọi người thành thật nhìn nàng như quái vật, lời dè bỉu, thái độ dè bỉu công khai. Một hôm vô tình ra phố Hàng Vôi, Diễm thấy có căn phòng cho thuê (căn của ông Ký Thản vừa theo sở Mỹ vào Saigon) nàng vào găp mụ chủ trương, chuyện trò đon đả như với người thân cũ, rồi hỏi thuê luôn và mang hai con lại ở gọi là để thay đổi không khí. Nàng có viết thư báo cho người chồng quân nhân biết địa chỉ mới. Đến chỗ ở mới, người xung quanh mới, dư luận mới, nàng thấy dễ thở hơn nhưng chỉ một tuần qua, bất luận trai gái cứ khoảng từ mười sáu trở lên -tuổi đã biết nhận xét suy luận- đều thấu hiểu nàng là một người đàn bà lẳng lơ quá cỡ. Thoạt dư luận đó còn bàng bạc hờ hững chưa tạo nên áp lực nặng nề như ở chỗ cũ, nàng tin rằng nàng còn thì giờ tấn công Kha. Nàng đã kịp ghi nhận đối thủ của nàng - Miên, con bé mặt mũi phúc hậu- chỉ thứ bảy hay chủ nhật mới tới một lần (nghề của Miên có những phiên gác bất tử. Nhưng đã mấy lần đợi khoảng đêm khuya thanh vắng nàng đi vào phiến ánh sáng trước phòng Kha, tựa vào vai cửa, tì má vào ngón tay trỏ uốn cong, lẳng lơ ra mặt, ướm hỏi Kha những câu rất bâng quơ, nhưng Kha chỉ ngẩng lên trả lời vừa đủ lễ phép rồi lại cúi xuống cắm cúi viết. “Thằng ngốc! - lần nào thất bại Diễm cũng nghiến răng nghĩ thầm thế - Trông mặt mũi thế mà ngốc!” Dư luận nhũng người xung quanh đã muốn dè bỉu công khai nàng. Mấy lần ông Cai hềnh hệch cười chào ỡm ờ khi nàng qua cửa phòng ông: “Áy chào côôô!”
Ngay sát căn nhà lớn này là một villa nhỏ gần như biệt lập vì một bên là đường đi ra bờ sông, một bên là lối đi rộng có trồng những cây muỗm, na, ổi đã khá cao, cành lá xum xuê. Ngoài cửa villa thấy có biển: “Nhà cho thuê”. Dò la, Diễm được hay nhà đó trước có người tự tử nên cho thuê rất rẻ, tuy nhiên gia đình thuê vừa rồi làm ăn lụn bại quá không dám ở nữa, trả lại chủ nhà. Người chồng quân nhân về kịp lúc. Qua một đêm ân ái, Diễm tỉ tê bàn bạc với chàng và chàng ưng cho nàng thuê villa bên, giá tiền cũng chỉ gấp đôi căn phòng hiện thuê. Từ khi nàng ờ biệt lập nàng dễ thở mà những người xung quanh nàng cũng dễ thở hẳn. Và vì xa nhau như vậy nên mọi người trở lại thái độ niềm nở và lễ độ mỗi khi nàng bế con sang chơi. Sự thật nàng chỉ sang chơi khi biết đích có Kha ở nhà. Đùng một cái có tin người tình thứ hai của nàng tử trận tại Ninh Bình. Nàng buồn mất ba hôm, ba hôm nang không sang chỗ ở cũ để đưa mắt tống tinh Kha. Nhưng rồi nỗi buồn đó cũng qua mau. Lý do: cái chết của người chồng quân nhân kia không làm xáo trộn đến đời sống kinh tế của nàng, nàng đã có một số vốn kha khá hùn với người cô buôn hàng tấm ở chợ Đồng Xuân, tháng tháng chia lãi. Một chiều thứ bảy nàng sang chơi như thường lệ. Miên đương làm cơm trong bếp. Kha đứng nói chuyện ngoài sân với Luận mới ờ nhà thương ra.
Diễm vừa nói chuyện với mụ chủ trương vừa theo theo dõi câu chuyện giữa Kha với chàng thanh niên vạm vỡ đó mà nàng cũng rất ưng (Luận). Kha hỏi Luận:
- Thế là viên đạn làm gẫy xương cánh tay bên phải của cậu gắp ra rồi?
- Rồi! -Luận đáp.
- Và như anh Khiết nói thì cậu đã xin giải ngũ?
Luận gật đầu:
- Chắc chắn là được.
Cậu xin giải ngũ rất đúng lúc, công việc tòa soạn một mình Lãng làm không xuễ, Lãng còn phận sự phải làm phóng sự và nhất là Lãng nhất định chủ trương chỉ viết những gì chính Lãng đến tận nơi quan sát.
Ừ thì xương cánh tay gẫy ghép lại rồi, tay không cầm được súng nhưng cầm nổi bút chứ! Sao anh Khiết chưa lại nhỉ?
-Sẽ có cả Tân nữa, Tân ờ Hưng Yên về, Khóa mới xuống thay, căn trường xây cất cũng xong một nửa rồi (Luận đã một lần gặp Tân tại nhà báo Văn Hóa).
Thấy hai chàng trai quá mải mê câu chuyện chẳng để ý gì đến mình ngồi ở thềm cửa cũng gần đấy, Diễm tiến lên trong khi mụ chủ trương mỉm cười tinh quái vào nhà.
- Chào anh Kha. Chào anh.
Câu “chào anh” thứ hai là Diễm chào Luận.
- Vâng chào cô - Kha đáp.
- Chào... cô! - Luận cũng tiếp theo và hiểu.
Diễm đã tới sát hai người hỏi một câu theo ý chợt đến trong trí nàng:
- Chiều thứ bảy hai anh không đi xi nê?
Luận lắc đầu nhìn chòng chọc vào nàng:
- Không cô ạ. Xem cô thế này chẳng hơn ư?
Tuy thường xuyên thèm ái tình nhưng cái nhìn cùng lời nói của Luận sỗ sàng quá, lúc khác thì được, lúc này Diễm không ưng, có lẽ tại Luận ở bên Kha, nàng bèn cúi chào hai người rồi ra về.
- Đào nào thế mày? - Luận hỏi.
- Thuê nhà kế bên. Trước cùng ở đây.
- Mày có ngửi thấy mùi mồ hôi của en?
Kha phì cười không đáp. Luận tiếp:
- Mùi mồ hôi hăng hắc!
Kha lại bật cười nữa và nói:
- Như tiếng kêu khẩn cấp siêu âm của loài cái gọi loài đực trong tạo vật!
- Ha ha đúng! ô kìa anh Khiết! Tân nữa.
Miên ở trong bếp vừa định ra chào thì tiếng Tân nói với Kha:
- Vân đã về!
Và tiếng Kha hốt hoảng làm Miên thấy đau thắt bụng và rã rời chân tay:
- Thế ừ? Ồ Van!
Giác quan thứ sáu đã như báo trước phần thiệt thòi cho nàng. Kha còn hỏi tiếp ngay:
- Anh thấy Vân ra sao?
Tân đáp:
- Vân cùng vừa bác Phán về làng thăm mộ Thi ra.
- Như vậy Vân phải về từ trưa?
Đúng, Vân về mới hay tin anh Hãng đã đi Pháp, Thi đã mất. Và bác Phán cũng mới hay là Chủy vẫn mát tích, không thấy trở về ngoài đó.
-  Ủa, năm kia Khóa đã gặp Chủy lúc Chủy vừa được tha ở trại Hải Dương ra mà.
-  Thì tôi cũng nhắc thế, bởi vậy mai tôi đưa Vân đi Hải Dương đến nhà Đạo xem sao. Tôi cần gặp Đạo hỏi thăm tin tức làng nữa.
Tuy tiết trời cuối đông về chiều khá lạnh, Kha thấy nóng ran người vì niềm xúc động thương Vân. Chàng nói:
- Để ăn cơm xong tôi đến thăm Vân ngay. Tội nghiệp!
Tiếng Khiết hỏi lớn:
-  Cô Miên đâu? Hỏa đầu quân hôm nay cho ăn gì thế?
Miên vùng đứng dậy, nàng chấm vội hai giọt nước mắt (lúc đó nàng mới biết là mình khóc) ra cửa bếp và chào lớn:
-  Chào hai anh mới tới ạ. Hôm nay mời các anh xơi món em mới học được, món bún bò. Xong cả rồi, để em dọn bát đũa lên.
Tân tiến tới hối hả:
- Để chúng tôi tiếp một tay chứ.
IV
Kha đã gặp Vân ngay buổi tối hôm đó, sau bữa ăn họp mặt của gia đình Văn Hóa. Đôi mi mắt nàng còn đỏ mọng vì khóc. Kha kính trọng nỗi đau khổ của Vân.
Tân đã rõ mối tình tan vỡ của Kha với Vân từ ngày đôi bạn dời khỏi đồn điền Lợi Ký (Kha thủ thỉ thuật lại tất cả trên quãng đường vắng từ đồn điền ra đường cái lớn). Sớm hôm sau, trước khi tới đón Vân, Tân tạt vào thăm Kha, muốn kéo Kha cùng đi. Kha từ chối nói là không thể bỏ lớp được, nhưng khi vào lớp, Kha thấy rằng mình nghỉ một buổi để cùng đi với Vân có sao đâu. Tuy nhiên, chàng cũng không hối tiếc, còn cho là mình đã hành động khôn ngoan. Gặp lại Vân lòng chàng xôn xao quá. Nên xa Vân! Nên xa Vân! Như thuốc nổ nên xa lửa.
Thấy bạn nhất định từ chối không chịu đi, Tân đến phố Hàng Vải Thâm đón Vân, chàng lái chiếc traction 15 của Khóa. Khi Vân đã vào ngồi bên tay lái của chàng, tự nhiên Tân thấy cảm động lạ. Bao nhiêu kỷ niệm buổi đầu kháng chiến chàng theo lớp huấn luyện tăng gia sản xuất tại đồn điền Lợi Ký, xô dồn chen chúc nhau xuát hiện không theo thứ tự gì hết trong đầu óc chàng. Cảnh mùa đông mây xám nhìn qua những cành cây thưa lá, cảnh những lá vàng đuổi nhau trong cơn lốc, cảnh Vân ngồi đan áo bên Thi, âm thanh rào rạt của của trận gió khuya đương ra công quét sạch mây trời đêm ba mươi Tết đầu tiên Tân xa quê nhà, xa mẹ, âm thanh nức nờ của bài ca “Nguyễn Thái Học”, âm thanh gọn nhẹ của chiếc cành khô gãy trong đêm khuya và... và thốt nhiên Tân nhớ lại cả mối tình phi lý với người đẹp gặp một lần ờ ga Thanh Ba, người con gái có nước da trắng mát, một nốt ruồi đen, phải, một nốt tuồi đen trên gò má ế... Chiếc traction rùng mình chuyển bánh, Tân như có rùng mình theo nhớ lại hình ảnh tưởng tượng con sông đêm ở ga Thanh Ba, nước sông tuy có ướp muôn thứ hoa rừng, mùi thơm hoang dại ngây ngô nhưng cũng biết quấn lấy thân hình ngà ngọc của cô gái đẹp mát như lụa. Xe chạy ngược lên dốc Hàng Than, tiến ra bờ sông và lên cầu. Tân chưa dám hỏi Vân điều gì. Khi xe qua Gia Lâm, rẽ vào đường số 5, đường vắng thênh thang, Tân mới cùng Vân nói chuyện. Những câu hỏi đáp lễ phép xen vào những tiếng cười khẽ xã giao. Những nhận xét của Tân về Vân khi chàng quay sang nhìn nàng hay khi vô tình quan sát thấy ở đuôi mắt cùng những cảm nghĩ của chàng suốt trên đường đi rồi trên đường về, đều rất lộn xộn y như những kỷ niệm đầu kháng chiến xô dồn chen chúc vừa qua. Nhưng cảm giác chung là Tân thấy rạo rực, rồi hoang vắng, rồi rã rời. Tân phải luôn luôn thức tỉnh với hình ảnh của Kha, người bạn mà chàng quý mến nhất đời và luôn luôn tự nhủ “ý dâm còn tội lỗi hơn hành động dâm” để tránh mọi sa ngã trong tinh thần.
Vân quả là trái nho mọng nhưng rắn chắc, chất ngọt dưới sức nóng mặt trời đã chuyển sang chất đường cô đọng, răng người yêu khẽ cắn vào đậu đều có thể làm vỡ ra dòng suối vô hình của hương thơm -hương ái tình- và chát ngọt. Vân là vợ Chủy, trong thâm tâm Tân vẫn phủ nhận điều đó, nhưng Vân là người yêu của Kha, sự thực này mới là điều ngăn cấm Tân tuyệt đối không được có ý nghĩ tình ái về Vân, một sự phản bội tình bạn không thể tha thứ được. Tân nói chuyện với Vân, thái độ nghiêm chỉnh như nói với vợ bạn. Với Tân, Vân chỉnh là vợ Kha! ồ, Tân lại chợt nhớ đến mối tình của chàng với Ngoan, cô gái làng Hiền Lương (quê hương của bà Âu Cơ?) nhớ đến cuộc đi chơi cùng nàng dưới ánh nắng chói chan nhưng vắng lặng của miền rừng núi oi bức chập chùng, nhớ ngồi cùng nàng dưới gốc lim trên con đường đi Ca Vịnh heo hút, nhớ có ôm và hôn nhẹ lên má nàng sau khi đã giảm tắt đuốc bên bờ suối đêm ba mươi Tết, xa thật là xa có tiếng vọng mùa xuân của con sông Hồng hùng vĩ. Mối tình thơ mộng thật đấy nhưng đượm màu khắc khổ của kháng chiến, có thể đã để lại một vết cháy trong lòng Tân nhưng là vết cháy nhỏ, Tân hiểu nếu Tân yêu Vân, lập tức tình yêu đó biến thành đám cháy rừng. Tính Tân thận trọng, nhiều khi rụt rè nữa, thì sức sống tràn đầy của Vân kia chính là điều Tân khao khát, bởi nếu quả thực Tân kết hôn với Vân, cuộc hôn nhân sẽ thực hiện thế quân bình cho cả hai. Nhưng làm sao mà kết hôn với Vân cho được? Vân là vợ Chủy, điều đó quan hệ gì, nhưng Vân lại là người tình của Kha!
Tới Hải Dương Tân tìm ra nhà Đạo ngay. Chủy đã chết thực. Vân ôm mặt thoạt kêu lên một tiếng rồi khóc nức, tiếng kêu đó làm ruột Tân quạnh đau. Vợ chồng Đạo cho gọi người bán bánh mì, người này thuật lại cảnh Chuỷ bị trúng đạn phi cơ... Vân muốn người bán bánh mì đưa nàng tới chỗ đó, nhưng người này lắc đầu nói ông đã chôn vội tử thi ngay khoảng huyệt mới bốc mộ, rồi bàng hoàng ôm con ra đi, nay không sao nhận được nơi ấy nữa.
Như vậy rồi còn ở lại Hải Dương làm gì? Tân đưa Vân về ngay mặc dù vợ chồng Đạo vật nài hai người hãy nán lại ăn cơm trưa. Trên đường về đôi môi Vân mím thành một đường cương quyết kết hợp một cách khắng khít với sống mũi dọc dừa thẳng xuống theo một đường thanh tú vô cùng, đôi lúc nàng giơ tay lên đỡ lấy đầu, khuỷu tay tì trên gối, cổ tay tròn, một viền đen làm tăng nước da trắng hồng (giây đồng hồ). Tóc nàng hơi rối về phía trước khoảng rủ xuống trán, khá mượt khoảng trên đầu, nhưng lại rối tơi bời, khoảng từ gáy tới ngang vai. Tân an ủi, Vân trả lời gượng gạo, lời Vân nói tuy hướng thẳng tới Tân vì Vân ngồi sát bên chàng, nhưng lời nàng thật nhẹ, nhẹ như lời nói của ai từ xa theo gió vọng lại, tuy nhẹ như hơi gió thoảng nhưng lại rất rõ, rõ từng lời, từng hơi thở ngừng, một lần Vân để xen một tiếng thở dài, Tân rùng minh tưởng như vừa có cả hơi thở ấm của nàng phà lên gáy. Những hình ảnh cứ thánh thót lọt vào nhãn giới Tân như vậy, nhất là gặp lúc đường vắng, cả hai cùng im lặng. Có lúc Vân gục xuống thấp hơn nữa như muốn úp mặt trên đầu gối, khoảng eo thót lại, hai đầu gối gập hơn nữa, một bàn chân với những ngón chân uốn cong tì trên guốc tưởng như tuy nàng ngồi trên nệm mà sức nặng của cơ thể còn làm cong những ngón chân đó. Hình ảnh nàng lúc đó đau khổ mà sượng sùng, vành môi mím lại càng thanh, đường sống mũi càng thanh, hai đường lông mày càng thanh âu yếm che chở bên trên cho đường thanh của hai hàng lông mi, đôi mắt mở vừa đủ để nhìn -nàng nhin gì, nàng nhìn đôi chân hay nhìn vào tâm tưởng- miệng hé một chút rồi mím lại ngay, gò má hơi rung chuyển làm lay động nhẹ vệt ánh sáng đọng trên đó. Xe đã lên cầu, xe đã vào Hà Nội, thật là may xe đến nhà vừa đúng lúc, Tân không nào chịu đựng sự tàn phá hơn nữa, cả tâm hồn chàng lúc đó là hình ảnh khoảng rừng cây non tơi bời chịu bão.
Vân đã viết thư cho Hãng và đã được hồi âm. Dĩ nhiên nàng khóc lóc khi đọc thư anh. Một lần Kha ướm hỏi Vân còn ở lại Hà Nội bao nhiêu lâu nữa. Nàng chớp mắt giây lâu mới đáp khẽ là có lẽ đến sau Tết.
V
Gặp lại Kha, Vân không dấu tình nàng và tiếp nhận tình Kha nhưng nhất định nàng tuột khỏi tay Kha. Thời con gái đã qua, Vân đã là đàn bà, Vân chẳng lạ gì tính tình đàn ông, chính vì yêu Kha mà nàng cương quyết tuột khỏi tay Kha. Nàng biết chỉ có cách ấy là bắt Kha phải tưởng nhớ đến nàng mãi mãi.

Kha cảm thấy mình thất bại và nhận ra ở thân hình Diễm vài nét thật quyến rũ hao hao giống Vân. Mỗi khi tìm cớ đến nói chuyện với Kha ngoài sân, Diễm vẫn cố tinh đứng thật sát. Mỗi lần Diễm đứng gần như vậy Kha càng ao ước được ôm ghì Vân trong cánh tay cho mối tính được toàn vẹn, và mỗi lần gặp Vân rồi bị Vân tinh ý lẩn tránh giây phút quyết liệt, Kha lại nẩy ý định tìm gặp Diễm tức khắc mà vò nát thân thể chắc lẳn đó cho thỏa lòng khát khao Vân.
Khi yêu Thi, tình cảm Kha mơn man êm dịu, nhưng với Vân sao chàng muốn trở nên thô bạo?.
Đây mới là giấy gọi lần đầu, còn thì giờ xoay xở. Ban sáng ông Cai hàng xóm trước khi đi làm, thấy tôi nhận được giấy này bèn góp ý là tôi nên thi vào làm thông ngôn trong thành, thi xong chi một tháng sau đi làm và đóng đội ngay, như vậy tránh được lệnh động viên này.
Doãn Quốc Sỹ
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thời gian

Thời gian...! Có ai níu được thời gian! Níu lại những khoảnh khắc ấm áp, hạnh phúc, hay níu lấy thời gian mang lại cho ta sự vinh quang tr...