Nhưng khi đã đặt Thi nằm lên giường, ngồi bên Thi một lúc, rồi
từ biệt ra về, Kha bỗng ôn lại vẻ đẹp của Thi vừa rồi, đúng là vẻ đẹp mong-manh
của mảnh nắng vàng chiều hôm cố rực rỡ lên một phút trước khi đổ vỡ không một
tiếng vang và chìm nghỉm vào bóng đêm. Cảm giác ôm Thi trong lòng, Kha thấy như
cảm giác ôm một sự hoang vắng thân yêu, sự hoang vắng làm con người trở thành
nhẹ bỗng trở thành hư vô, thoát khỏi mọi phiền lụy của thế gian.
Lần đầu tiên Kha ôm Thi, nhưng đó cũng là lần cuối cùng vì tuần
sau chàng tiễn Hãng đi Pháp (Hãng xin được một học bổng sang đó tiếp tục học Luật).
Thi yếu không theo qua tận phi trường Gia Lâm tiễn anh được. Trước khi đi Hãng
nói với bà Phán “Sang bên đó con hỏi ngay xem có thứ thuốc nào mới nhất con sẽ
gửi về cho em Thi.” Nhưng việc đó Hãng không kịp làm. Hãng dời nước được chừng
dăm hôm thì Kha đến thăm bà Phán vào đúng lúc con sen vừa ở trong quê ra báo
tin chẳng lành. Bà Phán nghẹn lời không khóc được…Kha cùng bà về quê ngay.
Hơi thở Thi đã yếu lắm.
Nàng thiếp dần…
Đôi môi cố gắng mấp-máy nhưng không nói được, chỉ ứa nước mắt
nhìn mẹ, rồi nhìn Kha. Đôi mắt đó tràn đầy bóng tối rất mau, rồi hết tinh thần…thân
hình bất động…
Câu chuyện thương tâm về cô gái thùy mị, bạc phước, mong manh
đó chúng ta chỉ nên biết vậy là đủ. Hãy trở lại buổi chiều Kha từ biệt Thi rồi
qua đêm đầu tiên chàng ngủ lại giữa lòng quê thân yêu.
VI
Lạnh! Kha rùng mình, tâm trí bàng-hoàng trong tiếng u u đều đều
mà chàng chưa nhận ra là tiếng sáo diều. Chàng mở mắt trừng trừng như muốn dùng
cái nhìn đó để chống đỡ lấy khoảng trống rỗng mênh mông trong tâm trí, vì xung
quanh chàng tối đen như mực. Vô tình chàng quờ tay xuống ngực kéo chăn lên
ngang vai. Không phải là chiếc chăn len quen thuộc mà là tấm mền vải thoáng mùi
mốc dễ chịu. Kha nhớ ra rồi, chàng ngủ ở quê! Buổi chiều khi sang chứng kiến cảnh
nghèo của nhà chị Cầu, nghe tiếng khóc đau đớn dằn-vặt của thằng bé để tưởng
như nghe tiếng khóc của dân tộc và ngay lúc đó Kha đã có ý nghĩ: giá những kẻ
hiện được thực dân trao cho chút ít quyền hành, chúng có lòng thương dân tộc,
biết ôm ghì lấy lịch sử dân tộc mà san-sẻ niềm đau như hình ảnh chị cầu với nét
mặt xót xa bối rối ôm con lên, giá được như vậy…
Chị Cầu già đi rất nhiều, cảnh nghèo với biết bao lo âu đã
làm bệ rạc thân hình chị. Còn đâu sắc đẹp tràn trề sức sống thuở xưa, còn đâu
tiếng cười vẫn ròn tan, vô tư và đầy dung thứ khi chị dùng tay đấm, phóng chân
đạp những chàng trai cùng lứa tuổi và lực lưỡng không kém. Kha không được gặp
anh Cầu nhưng Kha chắc chắn có gặp anh thì cũng lại gặp một hình ảnh xác-xơ
khác chứ đâu còn là anh Cầu đùa cợt hồn nhiên “Của giời cho, ăn cắp ăn trộm của
ai mà sợ!” Anh Cầu, chị Trác cũng như hàng triệu thanh niên nam nữ tại khắp miền
đồng quê nước Việt tuy lớn lên trong cảnh nghèo của gia đình nhưng đi vào tuổi
thanh xuân chan hòa sức sống. Bầu không khí của đất nước màtrg sạch (trách nhiệm
của những kẻ nắm chính quyền) biết nuôi dưỡng họ, họ có thừa đức tính để trở
nên những vĩ nhân của thế giới ở mọi ngành văn học, khoa học, nghệ thuật. Tất cả
những sức sống phơi-phới đó bị bạo lực soi mòn, bị tham tàn bóp nghẹt cho rã-rời
tắc thở, sau cùng mụ-mẫm đi mà chỉ còn biết sống theo bản năng. Tuy chỉ sống
theo bản năng mà nếp cảm nghĩ cũ còn thể hiện được thành những cử chỉ nhỏ nhưng
mênh-mông cao quý. Như chị Cầu thức đến mười một giờ khuya xay bột, dậy từ bốn
giờ sáng để tráng bánh cuốn, rồi thổi cơm cùng hai con ăn bữa sáng, nắm cơm cho
hai con ăn bữa trưa, vội vã gánh hàng ra đi cho kịp buổi chợ, thường mãi đến
chiều mới về. Như anh Cầu ra đi cầm súng, rõ ràng là anh chiến đấu cho sự sống
còn của dân tộc nhưng bao công lao đều do thực dân và lũ tay sai hưởng thụ,
lòng thương vợ thương con của anh chỉ còn thể hiện được ở chỗ hà-tiện lấy vài
bánh xà phòng, bớt ra lấy vài hộp thực phẩm để mỗi khi về làm quà đón tay. Kha
nghĩ đến cả guồng máy hành chánh nặng nề của lũ thực dân và bù nhìn, chúng như
hợp nhất lại, biến thành một con vampire khổng lồ bám lấy người dân Việt mà hút
máu không ngớt. Thoáng trong trí Kha ánh đèn rực rỡ huy hoàng tại các công thự
(nơi lũ to đầu ở) những khuôn mặt phè-phỡn, áo quần tề chỉnh tấp nập trong các
quán ăn thủ đô mỗi chiều thứ bảy…
Khi về đến ngõ Kha lại gặp Ngân, biết thêm một chuyện về
nàng. Rồi Kha sang thăm Thi, bầu không khí kỷ niệm u buồn đó càng quyện lấy hồn
Kha rồi khuếch đại mãi lên như một cuồng phong đương thời hoạt động. Trời đã tối
mịt khi Kha về, bước vào nhà, lên phản nằm, trong trí ôn thêm những hình ảnh cũ
và suy nghĩ rất nhiều.
Ngân đã chửa hoang với một anh nào. Ngân phải yêu người đó vì
nàng đâu phải là gái lẳng lơ. Lời bà Hạo còn vẳng bên tai Kha:
“Con gái thế là hỏng một đời!”
Bà Hạo còn cho Kha biết thêm lão hàn Công dâm đãng làng bên
có ý định hỏi Ngân làm vợ bé, hắn đã trên năm mươi tuổi, người béo tốt, khuôn mặt
phì nộn hồng-hào. Nói về sức khỏe mạnh thô bỉ của hắn, một chàng trai xã Định
Quyết đã phê bình một câu khá hóm-hỉnh và cay độc “Thằng cha ấy đái vào gốc tre
khô cũng nẩy măng!” Ngân đã nhổ nước bọt khi nghe lão rắp-ranh hỏi nàng.
Kha buồn rầu nghĩ thầm “Thảo nào khi chào mình, Ngân cúi đầu
bẽn lẽn”.
Kha nhớ đến trước ngày kháng chiến. Tín cũng chửa hoang. Tín
cũng ở xóm chùa này và ngày đó cũng trạc tuổi Ngân bây giờ. Nàng là cô gái
chanh-chua nhất làng. Nàng chửi thẳng vào mặt những cô bạn nào dám “nói động” đến
nàng. Nàng chửi có sách và bài chửi linh động tùy theo hoàn cảnh, như một nhạc
sĩ sử dụng phím đàn tùy theo nhạc hứng. Nhất là khi đánh nhau với chị em, phải
nói làshe được đánh nhau, nàng say mê trong vật lộn y như một nghệ sĩ say mê
trong sáng tác, nàng nhỏ người và yếu nên thường bị đối phương đè rấp xuống bùn
nhưng nàng túm tóc đối phương mà kéo xuống. Đã có lần cả xóm đổ ra và những bà
lực-lưỡng nhất xúm lại phải vất vả đến mười lăm phút sau mới gỡ được tay nàng
ra khỏi mớ tóc nạn nhân (vẫn là nạn nhân, mặc dù đè lên trên). Khi đứng dậy mỗi
người bị kéo về một phía, nàng chỉ còn chửi, lời lời tuôn ra tưng bừng như dòng
suối xuân, đối phương không sao chửi kịp, bởi một lời của đối phương vừa cất
lên, lời đó lập tức đã bị chìm nghỉm vào cả một khối lời trơn-tru mà số lượng
cũng như chất lượng – có thể nói là chất lượng lắm chứ - phồn thịnh gấp trăm lần.
Rồi nàng về tắm rửa thay quần áo sạch, nhởn-nhơ đi ra đường,
tinh thần rõ ràng sảng khoái như một người đã thực-hiện đầy đủ nguyện vọng của
mình.
Năm 1945, sau cuộc khởi nghĩa tháng tám, tối tối nàng xách
đèn dầu ra đình theo lớp bình dân học vụ. Người dạy là Kiên, một thanh niên xóm
Quán, tính tình trang nhã, có vợ và hai con.
Tính tình Tín cũng thay đổi hẳn. Nàng trở nên dịu-dàng thuần-thục,
tuyệt nhiên không chửi nhau hoặc cãi lộn với ai.
Năm đó nước lớn, đê vỡ, lúa mùa bị ngập dưới sâu một thước. Một
đêm trung tuần tháng chín, Kiên chèo thuyền ra đồng đến quá nửa đêm mới về,
mang theo một con đỉa bám vào kẽ ngón chân cái mà không biết. sớm hôm sau con đỉa
hút đầy máu to kềnh rụng xuống sàn nhà. Ba tháng qua đi, sang hạ tuần tháng chạp
vào khoảng nửa đêm và sáng ngày hai mươi sáu tết cả làng Định Quyết đương chìm
trong giấc ngủ say sưa, bỗng có tiếng kêu kinh hoàng, đó là tiếng hú hồn của bà
Hương Trí (mẹ Tín):
- Hú ba hồn chín vía con Tín ở đâu thì về với cha mẹ, anh
eeeem!
Ba lần như vậy rồi im lặng.
Kiên là một trong những người dit vùng dậy, anh ngồi như tượng,
đôi mắt trừng trừng nhìn vào khoảng không, cả bầu trời bên ngoài đen kịt, lạnh
buốt căm căm. Từng cơn gió giật, hun-hút khô khan qua những cành bàng trụi lá,
rì-rào bí hiểm qua những lùm soan cao vút quanh nhà.
Tín uống thuốc phiện dấm thanh. Miệng nàng ngậm chiếc nhẫn
vàng khi chết (người ta bảo ngậm vàng thì chết linh thiêng). Nàng có mang được
ba tháng.
Kha thiếp ngủ lúc nào, không ăn cơm chiều. Bà Hạo buông màn
và đắp chăn cho chàng chiếc mền vải. Bà biết Kha có lòng thương người, bà
thương Kha cách biệt gia đình trong thuở ly loạn, bà giáo chết, mẹ con chẳng được
gặp nhau.
Một tia sáng như hư như thực lọt qua khe cửa giúp Kha đoán là
trăng hạ tuần đã lên. Chàng ngồi nhổm dậy, khẽ vén màn, khẽ rón-rén mở cửa rồi
lách ra ngoài. Dưới ánh trăng mờ đồng hồ tay chỉ ba giờ rưỡi sáng. Tiếng sáo diều
đều đều giờ đây nghe thật rõ.
Kha không ngờ sau bao ngày chinh chiến dân làng Định Quyết vẫn
còn giữ được thói quen thả diều sáo vào những đêm hạ và đêm thu. Diều cỡ trung
bình bề ngang chừng ba thước gọi là diều sáo, cỡ lớn bốn hoặc năm thước là diều
chiêng (có lẽ vì mang sáo lớn tiếng kêu âm u như tiếng chiêng). Giấy phết lên
diều được quét thêm một lần sơn sống để nhỡ rủi có gặp mưa bất ngờ diều cũng
không bị bục từ trên cao. Nếu gió cứ dìu-dịu đều đều, diều thả suốt đêm.
Kha bước xuống sân nhà ngẩng nhìn trăng hạwek giữa khoảng vắng
lặng của cảnh vật, ánh trăng buồn-bã chiếu sáng mấy vệt mây trắng bất động giữa
đỉnh trời, bóng những lá cau phơ phất, những cây soan cao như những cây thông với
những lùm lá thẫm màu nhòa nền trời, ngang tầm mắt, hình hàng rào duối dọc theo
ngõ xóm in thành một vệt sẫm thẳng tắp.
Kha tiến tới một cây thấp gần đấy, những hạt sương long-lanh
như những hạt lệ của cảnh vật khóc rưng rưng khi nghe tiếng than vãn từ vạn cổ
của sáo diều. Lòng se sắt Kha tưởng chàng có gom phần nước mắt của mình vào những
giọt sương đó. Hình như tiếng sáo diều chung kết lại tất cả những mối sầu của
tình quê kẻ còn (Ngân) cũng như người khuất (Tín). Ánh đèn thấp thoáng bên nhà
chị Cầu. Chắc chị đã dậy sửa soạn tráng bánh. Có tiếng chày mau và đều. Thốt
nhiên nhịp theo tiếng chày đó một giọng hát cất lên, giọng hát êm tưởng như
theo gió từ xa..xa lắm vẳng lại.
Kha đứng lặng như bị chôn chân xuống đất vì chàng chợt nhớ ra
rằng tiếng hát đó, cũng như tiếng sáo diều kia chàng đã được nghe từ lâu lắm, từ
ngày chàng còn nhỏ xíu luôn khóc đòi mẹ ẵm lên lòng. Rồi từ đấy vì được nghe
luôn nên chàng không hề lưu ý tới những âm thanh và âm điệu đó, cho đến nay bặt
một thời gian sáu bảy năm xa cách tiếng hát đột nhiên xuất hiện vào giờ này để
tự tô đậm nét trường cửu của nó. Tiếng hát giọng đò đưa buồn buồn, chơi vơi xa
vắng. Lời không rõ nhưng cảm giác thì như vậy. Tựa như tự thuở nào đến giờ cứ
vào những giờ thanh vắng đó là tiếng hát nổi lên, tiếng hát như thoát lên tự
lòng đất, kể lể nỗi niềm để vừa thoa dịu vừa làm cho thấm-thía thêm những sầu hận
của những kẻ chợt thức giấc đón nghe nó.
Một đợt gió lùa tới làm lanh gáy Kha. Chàng vẫn đứng chôn
chân một chỗ, lặng nghe tiếng hát. Có tiếng lá cây xào-xạc tự đàng xa, rồi một
đợt gió khác mạnh hơn ào ào lướt tới như một đoàn âm binh trẩy gấp vì một nhiệm
vụ khẩn cấp. Kha vẫn đứng nguyên chỗ cũ hoàn toàn bị giọng hát thôi mien, hay
đúng hơn để cho tâm hồn tan vào tiếng hát, xóa nhòa ý niệm về thời gian và
không gian. Tuy nhiên chàng vẫn cảm thấy lạnh, cái lạnh của một tâm hồn cô đơn.
Hình như chàng mỉm cười vì trong cái vô cùng cô đơn ấy chàng thấy rõ rằng chiến
tranh tàn phá gây biết bao cảnh đổi đời, nhưng có một cái mà không gì tàn phá nổi
là tiếng sáo diều và nhất là tiếng hát kia, tiếng hát tự lòng đất, tiếng hát sầu
dằng-dặc nhưng là tiếng hát bất tuyệt vỗ về an ủi sự sống làm cho sự sống càng
phì nhiêu và bất tuyệt như nó.
phần ii
Chương 8
Trên bờ vực lịch sử
i
Chợt thức giấc ra vườn dưới ánh trăng tà gần về sáng nghe tiếng
sáo diều buồn hiu hiu, nghe điệu đò đưa thổn thức như bốc lên tự lòng đất ghi
nhận sự bất tuyệt của tình quê, rồi Kha cũng phải trở vào nhà, ngả lưng xuống
phản, đắp chăn ngang bụng, để mặc cho ý nghĩ lông bông rồi chợp ngủ lại... Khi
chàng sực dậy đã có tiếng lách cách dọn cơm.
Nhà quê vì việc cày bừa vất vả nên có thổi bữa sáng, mâm cơm
thịnh soạn mà thân mật với những thức ăn dư hôm trước được đun lại. Lâu lắm Kha
mới được vục mặt vào chậu nước mưa trong vắt đầy ắp và hầu như có phảng phất
hương cau hương nhài. Rồi ba chú thím cháu vừa ăn vừa ôn lại chuyện mời mọc hôm
qua xem có điều gì khuyết điểm không. Ăn xong cũng đã tám giờ sáng, trong khi
ông bà Hạo sửa soạn đi thăm đồng, Kha tạm biệt chú thím ra Hà Nội. Khi qua cổng
nhà Thi, Kha đã thấy Thi từ trên hiên bước xuống tới chàng. Nàng hỏi:
- Anh ra phố?
Kha gật đầu âu yếm đáp:
- Anh phải ra phố sớm để kịp soạn bài dạy buổi chiều.
- Em tiễn anh một quãng.
Thi đi bên Kha, nhỏ bé.
- Đêm qua em ngủ ngon giấc?
- Cám ơn anh, khá.
Đi qua cổng chùa một chút Kha dừng lại bảo Thi:
- Thôi em yếu đừng tiễn anh xa lát nữa về một mình mệt.
Thấy không có bóng người, Kha dịu dàng cầm tay Thi:
- Vả lại sớm nay lành lạnh, em nên trở lại nằm nghi, tuần sau
anh về.
Thi ngoan ngoãn vâng lời.
Ra tới Hà Nội, Miên đã đi làm, buổi đầu tiên của nàng tại nhà
thương Phủ Doãn. Kha thấy Hiển ngồi thừ trước bàn, tay cầm mẩu giấy nhỏ. vẻ thẫn
thờ của Hiển làm Kha chột dạ. Kha hỏi:
- Có việc gì thế Hiển?
Hiển lắc đầu ngao ngán:
Tôi thật ngu như bò, lúc vào đây thực thà khai văn bằng, bây
giờ nó bắt vào Nam theo học lớp sĩ quan Thủ Đức. Giấy vừa nhận sáng này đây!
Kha chỉ thốt được tiếng “hừ”, chưa biết tính sao, Hiển đã
nói:
- Chúng mình đến thăm Hãng, cả ba cùng bàn xem sao.
- Nếu vậy nên đi ngay!
Hãng có nhà và khi hay tin Hiển bị gọi đi theo học lớp sĩ
quan Hãng cũng thốt tiếng “ủa” ngạc nhiên, thành thử ba người gặp nhau cho ấm
lòng thôi, chứ cùng vô kế khả thi. Hiển nói:
Đôi mắt Hãng bỗng trợn tròn, miệng há hốc rồi nói ngay:
- Ấy chớ! Nhục! Nhục, thật là nhục!
Thoạt Kha và Hiển chưa hiểu sao, nhưng khi nhớ lại những lời
trước đây Hãng thường cau có thốt ra thì cũng mang máng đoán được phần nào.
Thì ra con đường đó chính là con đường Hãng đã đi. Bỏ “ngoài
kia” vào thành, gặp lúc buôn bán khó khăn, mẹ túng, lại thêm vấn đề động viên,
Hãng vào làm interprète ( thông dịch) đồng hóa chân sergent trong quân đội. Thoạt
Hãng ngỡ là chỉ việc ngồi tại phòng nhì - (cái tên nghe đã gây nhiều ác cảm) -
dịch tài liệu ai ngờ họ còn có quyền bắt đi “ốp” (opération). Lần thứ nhất đi
theo chiến dịch Hãng được xếp ở một trại lọc tù binh - camp de triage. Các thầy
đội thông ngôn mỗi người một bàn, tù binh - những người dân tại các làng
lân cận đủ nam phụ lão ấu bị quây dẫn về- xếp thành từng hàng dài, các thầy hỏi
mấy câu theo chỉ thị, rồi tùy theo sự nhận xét của mình phát cho tờ phiếu xanh
hay đỏ (nguy hiểm hay không) nhốt vào hai nơi riêng. Người dân quê vốn giàu nhận
xét thực tế, thấy phiếu đỏ phát cho những người già, những người tàn tật thi họ
đoán ngay là những người phiếu đỏ sẽ được thả sớm bèn ăn cắp của nhau những phiếu
đỏ đó ngay khi còn trong hàng, thế là những lời than khóc, cãi cọ làm sốt tiết
một vài thầy đội thông ngôn đương hỏi cung, những đường gậy giáng xuống đầu, những
dòng máu đỏ tươi rỉ ra chảy xuống, quện đặc lại, tím đen dần bện vào mớ tóc rối
bản bên màu da vàng xỉn... Bức tranh điêu linh còn đó chỉ phản ảnh được
muôn một thảm trạng mênh mông rộng lớn mà người dân quê Việt đương phải chịu đựng.
Lần thứ hai Hãng đi “ốp” theo sát hẳn đại đội hành quân càn quét. Hãng dừng lại
cùng bộ tham mưu bên một nhà thờ nghe bộ phận truyền tin gọi chasse- khu trục
cơ. Mười lăm phút sau bốn chiếc Hell Cat thay phiên nhau rú máy nhào xuống thả
bom napaim rồi nã liên thanh xuống khu đồi sừng sững ngay trước mặt. “Thực là
như ciné!” - một người nói vậy. Sau phần can thiệp của khu trục, bộ binh từng đợt
tiến lên chiếm lĩnh ngọn đồi, thường thì quân đội chính quy đã rút lui, chỉ còn
người dân giơ đầu chịu báng. Các thầy đội thông ngôn có việc làm, những người
dân bị dẫn tới, các thầy hỏi về tình hình địch, quân số địch khi họ chưa rút
lui. Hãng còn nhớ lắm đặc biệt lần đó người ta dẫn đến trước Hãng một cô gái
quê, khuôn mặt sầu khổ, đôi môi mím, đôi mắt luôn luôn gợn ánh căm hờn, Hãng chợt
chú ý đến chiếc quần của cô mặc trái, đũng có thắm chút máu. Nàng mới bị cưỡn
đoạt trinh tiết không bao lâu. Mặc dầu lời hỏi của Hãng rất dịu dàng lễ độ,
nhưng dịu dàng lễ độ như vậy để làm gì? Cứu gỡ được gì cho người con gái? Thay
vì lời hỏi lẽ ra Hãng phải lớn tiếng tự nguyền rủa mình đã là thầy đội thông
ngôn, nhân viên phòng nhì của quân đội viễn chinh Pháp... Lần thứ ba đi “ốp”,
Hãng phải theo bộ chỉ huy tiến sâu và mở rộng các mũi dùi vào một miền đồng bằng.
Trên các tường đình, chùa, miếu nào đều có ghi khẩu hiệu địch vận tiếng Việt
có, tiếng Pháp có, dọc đường tiến quân rải rác những truyền đơn địch vận. Hãng
nghĩ trước đây mình đã từng chỉ huy cơ quan địch vận, việc làm chính đính vằng
vặc như trăng sao, giờ đây lật ngược hoàn cảnh, chàng lại ở về phía địch làm thầy
đội thông ngôn phòng nhì, thật là bỉ ổi. Chàng có thể dẫm phải mìn mà tan thây,
có thể bị phục kích mà nằm gục trên vũng máu đỏ, thật ô nhục, chết cho bộ đội
viễn chinh, kẻ thù đương muốn cướp lại đất nước mình. Trong chuyến đi “ốp” này,
Hãng thực mục sở thị cảnh những xe lội nước theo lệnh dàn thế trận rồi bắn như
mưa vào một làng, những cây tre rập gục, thấp thoáng mấy con trâu con bò vùng
chạy lúng túng rồi ngã khuỵu dưới làn đàn chằng chịt bừng bừng sát khí. Rồi bộ
binh tiến vào làng, vắng teo. Và những khẩu hiệu những truyền đơn! Một binh sĩ
chui vào một cái hầm rộng buộc thừng vào cổ chân một người chết, kéo ra ánh
sáng: một cụ già đầu tóc bạc phơ vẻ mặt phong lưu, người cụ không một thương
tích chắc vì hầm nông quá, hơi bom đạn dội vào mạnh quá làm cụ đứt mạch máu đầu.
Rồi đây quân đội rút đi, cái xác còn lại, con cháu về khóc lóc, chôn cất, hận
thù bao giờ nguôi? Tát cả đồng quê chìm ngập trong hận thù như vậy, thứ hận thù
chính đáng rõ rệt như trắng với đen. Quân đội viễn chinh xì xồ nói tiếng ngoại
quốc ra lệnh bắn giết triệt hạ để hòng tái chiến. Hãng ở phía quân đội đó, thực
là sỉ nhục! Chua chát mỉa mai hơn nữa là nếu miền này hoàn toàn dưới chính quyền
vững chắc của cán bộ Việt Minh thì chỗ đứng của cụ già phong lưu kia lại là...
đấu trường, vậy xung quanh cụ không là lửa đạn nhưng là những cán bộ tam cùng,
người nguyền rủa cụ chẳng là thứ tiếng xì xồ ngoại quốc mà là tiếng nói biến dạng
của lũ con cháu đã được Đảng giáo dục lại...
Buổi chiều hôm đó bộ đội “ốp” đóng quân trong một làng khá
dài và rộng. Tiếng lợn eng éc, tiếng gà quang quác... có tên da đen lục lọi tìm
được máy quả trứng tươi trong ổ gà đẻ. Cùng buổi chiều đó Hãng chứng kiến một
“sen” hồi hộp suýt thành bi thảm. Quân đội tạm đóng chia nhau bố trí canh gác
quanh làng. Hãng phải ra đầu làng hỏi cung một thanh niên mới bị bắt giải về.
Người thanh niên ít tuổi hơn Hãng, khuôn mặt sáng sủa, đôi mắt ranh mãnh, nụ cười
cố làm ra ngờ nghệch. Hãng đoán ít nhất cũng là trưởng ban tuyên truyền hay trưởng
ban địch vận chi đây. Chàng làm mặt nghiêm hỏi:
- Tên anh là gì?
Anh chàng làm bộ khúm núm đáp:
- Bẩm quan tên con là Trần Văn Thiên.
Hãng cố dấu nụ cười vì chàng thấy ánh mắt kẻ đối diện thoáng
tia dí dỏm, chàng đoán song song với câu “bẩm quan” trên phải là câu chửi đổng
kèm theo một lời nguyền rủa ngầm bên trong. Hãng lại làm mặt nghiêm hỏi:
- Có phải anh là cán bộ tuyên truyền?
- Dạ bẩm quan không ạ.
- Anh là cán bộ địch vận?
- Dạ bẩm quan không ạ, lạy quan thương tình.
Nếu lật ngược tình thế- Hãng nghĩ thầm- chàng thanh niên này
bắt được Hãng, y chỉ cần biết đơn giản là Hãng làm ở phòng nhì nhất định y ra lệnh
xử bắn ngay, không một chút thắc mắc, mà chính Hãng trong trường hợp đó cũng
không hé một lời van xin, một phần vì biết van xin cũng chẳng được, một phần
Hãng cho rằng rủi mình bị bắt, chết cũng đáng đời mặc dù chàng chẳng làm điều
gì ác, mặc dù cha chàng bị tụi chúng bức tử. Chàng cho rằng riêng việc mình đứng
trong hàng ngũ quân cướp nước- dù là đứng hờ- cũng đáng chết rồi.
Sau một phút đờ đẫn Hang sực định thần bắt chợt ánh mắt riễu
cợt của đối phương. Có thể là y đương quan sát lại Hãng và tưởng tượng cảnh lật
ngược thế cờ xử bắn Hãng. Hãng mỉm nụ cười buồn rầu, chàng giao trả y cho quân
độj canh giữ, vừa lúc có máy người lính vác tiểu liên chạy rầm rập theo đường lớn
ra khỏi làng một quãng rồi lên một gò cao, nơi có bố trí lính canh. Thì ra họ rọi
ống nhòm thấy có ba người dân đương tiến về làng. Hãng theo chân bọn lính lên
gò. Tiếng nói chuyện của ba người dân càng ngày càng rõ dần, giọng họ trong trẻo,
vui vẻ, đượm chút hài hước mà không ngờ rằng đương đi vào tử địa. Khâu tiểu
liên đã được đặt trên chiếc giá ba càng vững chãi, mũi súng chĩa về phía ba người
xa, những người lính nằm nép xuống... rình mồi. Tiếng nói của ba người đã rõ hẳn,
họ đương thuật lại cho nhau nghe việc chạy loạn sáng này. May thay, cả ba rẽ xuống
con đường nhỏ. Thì ra không phải họ tiến thẳng về làng hiện bị chiếm, họ rẽ xuống
làng đối diện. Lập tức người tiểu đội trưởng cho lệnh bắn, khẩu tiểu liên khạc
lửa, tiếng nổ vang dội trong bóng chiều, ba người dân vùng chạy cuống quýt lảo
đảo nhưng vẫn giữ vững hướng tiến thẳng về phía trước mặt, họ bỏ đường mòn, lội
ùa xuống ruộng lúa, tiểu liên tiếp tục khạc lửa, tiếng những bước chân bì bõm lội
nhanh, nước bắn tung tóe. Hú vía, cả ba đã thoát xa tầm súng... Họ sẽ nhớ đời đời
chiều nay. Ngày mai, ngày mốt họ sẽ kể lại chuyện này cho con cháu nghe, câu
chuyện hào hứng biết là chừng nào, còn gì hào hứng hơn là chạm trán rồi chạy
đua với Thần Chết? Rồi từ đây cho đến ngày họ lìa bỏ cõi đời trên giường bệnh
làm sao họ quên đựợc chiều hôm nay, tất nhiên thỉnh thoảng họ phải ôn lại, thuật
lại. Chuyện thoát chết càng xa ngày, lời kể càng linh động vì thêm những chi tiết
hoang đường hơn một chút.
Hôm sau, quân đội tiếp tục cuộc hành quân càng quét. Vừa khi
gặp đường cái quan đưa về thị xã thì Hãng hay tin anh chàng trẻ tuổi tinh ranh
bị hỏi cung chiều hôm trước đã trốn thoát.
Không đi “ốp” ở lại bàn giấy cũng chẳng thanh thản gì hơn.
Đương dịch tài liệu có thể một sĩ quan Pháp đưa đến một nqười vừa bị tra tấn
xong mặt mũi sưng húp để hỏi cung lại, mình thông ngôn. Có thể một nguời mới
quy thuận được gọi tới đưa sang phòng không quân. Nơi đây Hãng thông ngôn cuộc
gạn hỏi về địa điểm những cơ quan kháng chiến. “Gần con đường Thái Nguyên Bắc Kạn
phải không? Gần suối lớn không? Gần núi không? Bên phải núi hay bên trái? Có phải
vào khoảng này không?” Những tấm hình lớn chụp từ máy bay xuống được đem ra sử
dụng -phòng Nhì Pháp đã chụp hết lãnh thổ Việt Nam. Nếu kẻ kia nhận ra địa điểm
gật đầu (hay gật đầu liều) thì viên sĩ quan tình báo khoanh một dấu tròn bằng
bút chì xanh hay đỏ để đưa sang phòng chiến dịch ủy nhiệm cho các loại phi cơ
phóng pháo đi oanh tạc.
“Nhục, thật là nhục!” Hiển vẫn hằng nghe câu nói đó thốt ra tự
miệng Hãng, khuôn mặt phong trần của Hãng lúc đó có một vẻ gì sót sa khôn tả.
Cho đến hôm nay nhân lời nói của Hiển muốn thi vào làm thông ngôn trong quân đội
viễn chinh để tránh đi lớp sĩ quan Thủ Đức, Hãng mới bộc lộ hết cả. Hãng kết luận
với Hiển:
Anh nên đi theo lớp sĩ quan đó. Anh biết đấy, trước đây Pháp
nó có dám cho chúng ta học chỉ huy quân sự đâu, chỉ được làm lính chết thay cho
nó thôi, nay gặp dịp nó phải nhả ít quyền hành chính và quân sự mình nên lợi dụng
học lấy, rồi khi ra đã là sĩ quan, dưới anh có bộ đội, ít nhất anh cũng được
quyết định theo lương tri của anh để chống lũ cộng sản mà ít làm thương tổn đến
dân chúng. Lóc những thớ thịt nhiễm độc cộng sản trong toàn cơ thể miền quê
mình hiện nay là một công việc vô cùng tinh tế, không phải là sĩ quan Việt Nam
đã sống với và đã lọt khỏi cộng sản rồi, không thể làm nổi. Anh nghe tôi, hãy cứ
đi đi. Chúng ta đâu có chịu tiếp tay cho thực dân cướp nước? Contrat đầu tiên
ba tháng tôi làm “thầy đội thông ngôn” trong phòng nhì Pháp, tôi cũng đã lợi dụng
được tờ giấy chứng nhận là quân nhân để nhờ một người bạn đồng học hiện làm ở Bắc
Bộ Phủ vận động cho được cái học bổng qua Pháp tiếp tục học Luật. Mọi công việc
đã xong, học bổng đã được cấp, contrat (hợp đồng) ba tháng của tôi vừa hết, tôi
vừa báo tin cho mẹ tôi hay là tuần sau tôi lên đường, bây giờ đến các anh hay
đó.
Kha sung sướng nắm tay Hãng.
- Trời ơi, sao cậu kín đáo thế, gần đến phút cuối cùng mới
cho mọi người hay.
Hãng cười khà:
Biết làm thế nào, vì chính tôi trong lúc chờ đợi cũng hồi hộp
không biết là có được hay không.
Hiển nói:
Thôi chúng ta đến tòa soạn Văn Hóa đi. Tôi cần gặp các anh
Khiết, Khóa một chút.
II
- Trời ơi anh Kha kìa, anh cũng đã vào đây?
- Ủa Tân!
Họ nhận ra nhau ngay sau một lần gặp nhau ngày nào và sau bao
nhiêu năm cách biệt.
- Bây giờ anh ở đâu, làm gì? Tân hỏi tiếp.
- Dạy học, làm báo, còn anh?
- Tôi ấy à - Tân cười nửa vui nửa buồn - thất nghiệp!
- Sao, thất nghiệp? Anh vào đây đã lâu chưa?
- Nghĩa là mới thất nghiệp thì đúng hơn. Tôi vào đây được tám
tháng rồi.
Kha trợn tròn mắt:
Trời, anh vào được tám tháng rồi. Tôi vào được ngót ba tháng,
sao chúng mình không gặp nhau?
- Có lẽ tại những ngày gần đây tôi phải đi đây đi đó luôn
theo nhà thầu.
- Anh đã về thăm quê bên Bắc Ninh chưa, cụ nhà ra sao?
Tân cảm động nhìn Kha, thì ra Kha không quên một điều gì,
chàng đáp:
Dạo đó chia tay cùng anh ở Phú Thọ, tôi về quê may được gặp mẹ
tôi lần chót, vài ngày sau người mất. Tôi muốn về thăm làng lắm nhưng chưa được,
làng tôi hiện nay nằm giữa vòng đai trắng của hai miền.
- Mệt quá nhỉ, thế trước đây anh thầu gì?
- Tôi làm cho một nhà thầu xây cất, tôi mới thôi được nửa
tháng nay.
- Ồ, thế tôi sẽ giới thiệu anh với một nhà thầu khác.
Ánh mắt Tân hốt hoảng, nhưng chàng tiếp:
Tôi cũng vừa thi tương đương ở trường thuốc xong, họ nhận
niên khóa sang năm cho phép tôi được học lại năm thứ tư.
- Trường thuốc cũng cho thi tương đương sao?
Bác sĩ Henri H. người Pháp đặc biệt có cảm tình với sinh viên
kháng chiến vì vậy mà tôi cũng đỡ thiệt. Bác sĩ H. muốn tôi phải đi nhà thương
thực tập ngay từ bây giờ và suốt vụ hè sắp tới; tôi thú thật với ông ta là tôi
mới về đây, tứ cố vô thân, cần phải kiếm tiền gấp từ nay cho đến đầu niên khóa
sang năm mới có đủ điều kiện tiếp tục việc học. Bác sĩ H. thông cảm ngay!
Hôm qua đây Hiển, Hãng, Kha đã gặp Khiết, Khóa, vừa may gặp cả
Luận mới ở Vĩnh Yên về thủ đô công tác và tạt vào tòa báo đưa bài, thế là cả
“gia đình Văn Hóa” hay tin Hãng sắp đi Pháp và Hiển có thể đi Thủ Đức. Chính Luận
cũng khuyên Hiển: “Anh đừng vào làm - dù là làm tạm- trong Deuxième bureau (văn
phòng thứ hai) của Pháp, mang tiếng lắm, anh cứ theo lớp sĩ quan đi, khi ra trường
có quân đội trong tay, sĩ quan Tây cũng không dám bắt nạt mình, trái lại bấy giờ
chúng nể mình lắm và minh có toàn quyền hành động”. Khóa tiếp lời Luận, bảo Hiển:
Tình thế đâu có tranh tối tranh sáng thế này mãi, tôi linh cảm
tháy vận hội đất nước đương chuyển mình, anh Hiển hãy vào Thủ Đức đi.
Khiết trầm ngâm gật đầu:
Anh Khóa nói đúng, anh Hiển yên tâm đi Thủ Đức đi, sau một
vài năm nữa tới ngày mãn khóa biết đâu chẳng đã có những biến cố lớn, khi đó
mình quyết định thái độ dễ hơn.
Câu chuyện còn kéo dài một tiếng nữa, tuy đã tìm ra lối giải
quyết tạm ổn, nhưng bầu không khí không vì thế mà bớt vẻ băn khoăn. Rồi mọi người
giải tán. Khiết đến nhà in thăm khuôn báo mới; Khóa về nhà đặt lại con tính xây
cất (Khóa dự định thầu xây cất trường trung học tại Hưng Yên); Hãng trở về sửa
soạn hành trang cho ngày lên đường vào chủ nhật tới. Hãng biết sự ra đi của
mình- dù là đi du học Pháp- cũng làm người mẹ cô độc và đáng kính của chàng
càng sầu khổ vì bên sự thương chồng nay còn thêm niềm nhớ con; Hiển, Kha trở về
để còn gặp Miên, hỏi Miên về công việc nàng mới tới nhận tại nhà thương Phủ
Doãn và báo cho Miên hay tin Hiển quyết định đi Thủ Đức.
Hôm sau Kha dạy học xong ở trường ra, chàng đến thẳng tòa báo
tính chuyện bàn với Khiết hoặc Khóa về bữa tiệc tiễn hành Hãng, Hiển lên đường.
Vừa tới bến xe điện Bạch Mai sát bờ hồ thì bất chợt gặp Tân... Biết Tân đã thi
tương đương để được ghi tên theo học năm thứ tư trường thuốc trong niên học tới,
lại biết Tân đương thất nghiệp và đã quen với công việc nhà thầu, Kha bèn kéo
tuột Tân theo đường Bờ Hồ ngược trở lại phía hội Khai Trí Tiến Đức, nói:
Anh đã quen với nghề thầu rồi, hay lắm, tôi sẽ giới thiệu anh
ngay với một nhà thầu khác.
Tân há hốc mồm vẻ lo ngại ra mặt:
- Anh Kha này... hay là thôi anh ạ... cám ơn anh...
Kha vẫn kéo Tân:
- Cám ơn cái gì? Sao anh khách khí thế?
- Tôi... tôi...
Vì quý mến Kha, Tân không muốn nói thẳng là chàng “tởm” nghề
thầu quá rồi, e phật lòng bạn, nhưng Kha hầu như chẳng để ý gì đến sự ngập ngừng
đó, hoặc giả Kha vẫn đinh ninh là Tân ngại phiền mình nên chàng vẫn kéo bừa Tân
đi:
- Anh hãy theo tôi đến tòa báo Văn Hóa đã.
“Ừ thì hay đến tòa báo Văn Hóa rồi minh liệu lời nói với bạn
sau vậy”- Tân nghĩ thầm thế, rồi đi.
Tân theo Kha sang đường, ngang qua xe bán đồ giải khát đậu ở
góc ngã ba, tiến theo con đường nhỏ tới tòa soạn tuần báo Văn Hóa. Đó chính là
căn nhà Khiết ở xế chếch với cửa hàng của bà Đô. Nghe Kha reo mà Tân thấy chán
ngán:
Kìa anh Khóa, may gặp anh ở đây. Anh bạn thân này của tôi
cũng làm nghề thầu quen rồi.
“Thằng cha này đến hay- Tân nghĩ thầm- hẳn giới thiệu như thể
mình là chủ thầu".
Tòa soạn Văn Hóa lúc đó chỉ có hai người đàn ông, người thư
ký đánh máy đã đi phát báo tới địa chỉ những người mua năm.
Kha tiếp tục nói:
Giới thiệu hai anh đây là anh Tân, bạn kháng chiến của tôi,
đây là anh Khóa hiện vừa là nhà buôn, vừa là chủ thầu (Tân chẳng buồn nhìn mặt),
đây là anh Lãng phóng viên của tuần báo Văn Hóa. (Tân nhận thấy Lãng cao lớn trắng
trẻo như tây, râu quai nón mới cạo xanh om, ánh mắt thì vui dí dỏm nhưng nụ cười
thì buồn).
Tới lúc bắt tay nhau, Tân mới trễ nải ngẩng nhìn khuôn mặt
vuông chữ điền với nước da rám nắng phong trần của Khóa. Tay Khóa cầm một cuốn
sách thấp thoáng dòng chữ bìa in màu đỏ.
Kha hỏi Lãng:
- Anh Khiết không có nhà?
- Khiết đến Etude - Khóa đáp.
- Chị Khiết đâu?
- Nó ở đằng mẹ tôi! - vẫn lời Khóa đáp.
Chú bé chừng lên tám ở nhà bên nhân lúc vắng người ra máy nước
tắm rồi khum khum tay che hạ bộ. Lãng cười lớn hỏi:
- Tuynh, tắm hả?
Chú bé chào lại:
- Anh ạ!
Lãng cười lớn hơn:
- Bằng quả ớt ấy che che dấu dấu cái gì!
Chú bé ngượng chạy vào nhà.
- Trước đây anh cũng đã làm nghề thầu?
Giọng Khóa hỏi vồn vã nhưng Tân thấy bực mình vô cùng, chàng
đáp lạnh lùng:
- Tôi chỉ làm thư ký cho một nhà thầu.
Kha nói với Khóa:
Niên khóa sang năm anh Tân sẽ tiếp tục học năm thứ tư trường
thuốc nên anh cần kiếm tiền gấp khoảng thời gian mấy tháng này, anh có thể dành
cho anh Tân một chân thư ký?
Khóa đáp:
Được chứ, nếu anh Tân điều khiển việc thành thạo thay được
tôi thì tôi trở lại đất Lào tiếp tục việc buôn.
- Anh còn buôn ở đất Lào? - Tân hỏi.
- Vâng, nghĩa là đi đi lại lại trên con đường hàng không
Xiêng-Khoảng Hà Nội.
- Anh buôn gì?
Tôi thuê trọn chuyến phi cơ, chuyến đi chờ xi măng essence, sắt
sang Lào, chuyến về thì chở bò. Có hàng đi có hàng về nên chuyên chở bằng phi
cơ vẫn có lãi.
Biết Khóa là người có tài tổ chức, Tân hỏi thêm:
- Anh chở bò sống từ Lào về đây?
- Vâng chở nguyên con! Chuyến đầu tôi thuê hẳn chiếc
Bristol của hãng hàng không Việt Nam chở được hai mươi con từ Xiêng-Khoảng về
Hà Nội, sau đó vì tình trạng chiến tranh, các phi cơ của hãng hàng không Việt
Nam bị trưng dụng, tôi phải điều đình với hãng Autrex hàn sửa lại chiếc Junker
để có thể chở được tối đa mười con bò- bằng phân nửa chiếc Bristol... ô kìa,
Khiết đã về kìa!
Khiết vào. Lại một dịp Kha giới thiệu Tân. Tiếp đó Kha hỏi:
- Anh ở étude về?
- Không tôi đi nghe ngóng tinh hình báo của mình, khá lắm!
À anh Khóa, việc anh thầu xây cất ở Hưng Yên ra sao?
Nghe đến ba tiếng “thầu xây cất” mà Tân tháy chán ngán, mặc dầu
khi nãy nghe Khóa nói chàng đã bớt thấy ác cảm với “người con buôn kiêm nhà thầu”
đó (chỉ cần một trong hai nghề đã đủ chàng muốn kính nhi viễn chi rồi).
Khóa đáp lời Khiết:
- Xong rồi. Anh bạn bí thư của ông tỉnh trưởng Hải
Dương có gửi thư riêng sang giới thiệu nên họ tin tôi ngay.
“Tin nhà thầu- Tân nghĩ thầm- để rồi bán thóc giống đi mà
ăn!” Và Tân lại thấy hậm hực với Khóa.
Nguyên do sau ngày tâm thần bị khích động về vụ bàn tay gián
điệp thực dân tung tiền muốn bố trí trước một chính phủ lưu vong, Khóa từ chức
hội viên hội đồng thành phố. Kể từ đó Khóa luôn luôn cảm thấy có móng vuốt của
đế quốc thực dân bám vào da thịt các nhược tiểu quốc. Hễ một ung nhọt được duy
trì, một mầm chia rẽ được ươm nuôi... linh tính như báo cho Khóa hay rằng đó đều
là những trái mìn tinh thần do bàn tay hiểm ác của đế quốc thực dân bí mật đặt
khéo để ngăn chặn bước tiện của dân ta. Cho nên Khóa hết sức giúp Khiết xúc tiến
việc ra báo, hơn bao giờ hết, lúc này cần có một tiếng nói quang minh chính đại.
Từ chức hội viên hội đồng thành phố, Khóa thầu xây cát trường trung học rọi trường
mẫu giáo ở Hải Dương, kế đó Khóa bị sốt định kỳ tưởng bỏ mạng, mơ thấy lên
thiên đàng xuống địa ngục... Khỏi bệnh, Khóa buôn liền mấy chuyến trên con đường
hàng không Xiêng-Khoảng Hà Nội. Tuần báo Văn Hóa ra chào đời được phổ biến rộng
rãi và nhiệt liệt hoan nghênh trong giới kiều bào ta ở Ai Lao chính là nhờ Khóa
luôn luôn tìm cách cổ động. Nhưng Tân nào đã biết những chuyện đó, Tân chì biết
Khóa là “nhà thầu xây cất” lại kiêm “nhà buôn” nữa!
Khiết hỏi Khóa:
- Thế chuyến buôn của anh vừa rồi có gì trắc trở không?
- Chẳng có gì trắc trở cả, khoái là đằng khác.
Lãng tủm tỉm cười:
- Chắc gặp gái Lào nên anh khoái chứ gì?
Không ngờ câu đoán mò áy lại đúng, Khóa được dịp thao thao
không riêng gì với Hãng mà với tất cả:
- Được đi chơi với bạn thân như các anh, không phải
mang một cái gì trong người, tôi thích lắm! Giấy tờ không phải mang, tiền nong
không phải mang, chỉ việc ngồi lên xe, mặc bạn đưa đi đây đó, sướng không thể tả
được. Ấy khi trở lại đặt chân lên đất Lào, tôi cũng được sống thoải mái như thế.
Lần này sang tới nơi, một anh bạn cũ đương làm chủ nhà giây thép bên đó kéo tôi
đi Bạn Kơn (làng Kơn) cách Vientiane đến tám chục cây số. Rồi trong khung cảnh
rừng núi mênh mông đó dân Bạn Kơn làm lễ ba-si (lễ chào mừng khách lạ tới), một
cô gái mang vòng hoa lại quàng cổ, một cô khác lấy dây chỉ buộc vào tay, rồi ăn
hoa quả, trứng gà, trứng vịt luộc... Tôi ở lại Bạn Kơn một ngày, lâu lắm mới lại
trông thấy cảnh cô gái Lào gánh hai cái thúng trông như hai cái gầu dài ở xứ
ta, trong thúng có vài nải chuối, hoa bắp chuối, trứng gà, trứng vịt, hoặc gạo,
đòn gánh bằng gỗ dừa. Chắc các anh không biết cách ăn mặc của gái Lào: búi tóc
đứng nghiêng trên đầu, bên trên mặc thứ áo trông như chemisette của đầm, bên dưới
là cái xị (váy) có đường thêu bằng chỉ màu xanh đỏ, có cả đường kim tuyến nữa.
Bán hết hàng, quẩy hai thúng không trên đường về, các cô có thể rẽ xuống một
khúc sông nào đó tắm, tắm khỏa thân ạ! Chemisette cởi ra, cái xị nâng quấn lên
đầu, đương tắm nghe có bước chân người, các cô lên bờ, kéo xị từ trên đầu xuống,
lại kín đáo rồi. Trưa hôm đó tôi cùng anh bạn thủng thỉnh ra sông. Bỗng anh bạn
để một ngón tay lên miệng “suỵt” làm hiệu im. Chúng tôi cùng đi rất êm, rồi bò
xoài trên bờ cỏ từ cao ngó xuống. Dòng sông bao la và óng ánh dưới nắng, những
cây mây sắc (như cây lim bên ta) la đà xõa cành xuống hai ven sông và...
- Và dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên? - Kha cười và nón
đón.
Ảy, tòa thiên nhiên ngâm dưới nước! Rồi chúng tôi rút lui êm
ái về chỗ cũ, dặng hắng làm bộ đường đường chính chính tiến lại. Người đẹp đã bỏ
xị trên đầu xuống, mặc xong chiếc áo chẽn ở trên. Lâu lắm tôi mới lại nói tiếng
Lào:
- Dù sẩy (Cô ở đâu)?
- Dù phuuuuun.. (ở xa lắm)\
Khóa cất tiếng cười sảng khoái rồi tiếp:
Tiếng Lào hầu như rất hiếm adverbe “phun” là xa, kéo dài tiếng
“phuun” là khá xa, mà nói “phuuuuun” là xa, xa lắm. Tôi lại hỏi người đẹp:
- Chầu âu khôi bồ? (Cô có lấy tôi không)?
Người Lào hiếu khách lắm mà, nàng rất nhã nhặn đáp:
-Âuuu.. (lấy...)
Tiếng “Âuuu” kéo dài nghe đến yêu. Nhưng còn lấy hay không lại
là chuyện khác!
Khiết thấy Khóa lần này hoàn toàn khác “thứ Khóa” ngày xưa, vẫn
cách nói chuyện háp dẫn nhưng xưa là Khóa của khoa học huyền bí lần này là thứ
Khóa bay bướm đa tình. Lãng hỏi:
- Thế thời gian mấy năm theo học ở Lào anh có mê cô nào
không?
Tôi mê một cô hai năm liền! Lần nào gặp tôi, miệng cô cũng ngậm
một bông hồng, người ta bảo đó là một cách bùa ngải.
- Anh mà nói chuyện nước Lào với nhà tôi thì cứ gọi là hết
ngày!
Ai nấy giật mình quay lại và cùng cười ồ. Thì ra vợ Khóa đã từ
nhà sang tòa báo lúc nào, mọi người mải nghe chuyện Khóa không ai để ý tới.
Tính Lãng hay bông đùa, chàng lắc đầu làm bộ cau mày:
Trời, cái ông Khóa này tệ lắm chị ạ, thì ra ông ấy đi buôn ở
đất Lào chỉ vì mê gái Lào! Chị đừng để anh ấy sang Lào nữa, e có ngày bị gái
Lào bỏ bùa bỏ ngải quên mất đương về!
Ôi chao- vợ Khóa đáp- càng hay anh ạ, hơi đâu mà giữ? Này ông
ơi, liệu có về sửa soạn đi lấy hàng cho mẹ không.
Khóa hốt hoảng:
- À ờ nhỉ, tôi quên khuấy đi mất.
Lãng “bỏ bom” thêm:
- Thì đương nói chuyện tán gái Lào chầu âu khói bồ như thế gì
mà chả quên?
Vợ Khóa mỉm cười ra về.
Kha vội nói:
Anh Khóa đừng về vội, hãy nán lại chút xíu bàn qua việc tổ chức
bữa tiệc tiễn đôi bạn Hãng, Hiển của chúng ta.
Tân giữ ý đứng dậy từ biệt mọi người nói là phải lên Hàng Đào
mua mấy thứ cần.
Khóa vội hỏi:
- Anh Tân, thế anh có nhận lời giúp tôi không nào?
Thực tình đến lúc đó Tân mới hết ác cảm với Khóa, và trước
khi chia tay với gia đinh Văn Hóa, Tân đã nhận lời hôm sau sẽ cũng Khóa đi Hưng
Yên để xem xét công việc.
Đến khi đã trở về ngồi một mình trong căn phòng thuê vừa
khuát vừa tối vừa hẹp, Tân mới sực nhớ là quên không hỏi Kha xem hồi xưa, sau
lúc chia tay ở Phú Thọ, Kha đi đâu, vì sao không ghi tên vào trường thuốc. Tân
gặp Kha thì mừng quá mà quên hỏi, còn Kha thì về vấn đề đó lại rất... ẩu, chẳng
hề chú ý đến.
III
Sau này có dịp hàn huyên mới hay là tính ra Tân đã vào thành
trước bọn Hiển, Kha, Miên chừng sáu tháng. Chàng vào thành vì một trường hợp bất
ngờ.
Thuở đó quân đội kháng chiến đã lớn mạnh lắm, đương bao vây đồng
bằng và có cơ thắng lợi dù luôn luôn bị quân Pháp với ưu thế về võ khí và
phương tiện chống trả những đòn ác liệt. Chẳng may một đơn vị nhỏ nàọ bất chợt
gặp mũi dùi đột kích của chúng, sự tổn thương thường rất nặng nề. Có lần cả một
tiểu đội kháng chiến, người nào ở vị trí nấy chiến đấu chống trận mưa lửa của địch
(đại bác, moóc chê, trung, tiểu liên... của bộ binh; bom lửa, đại liên của phi
cơ) cho đến khi gục ngã hết không một người sống sót. Nhưng Tân không còn tin
tưởng ở sự sòng phẳng tinh thần của lũ người lãnh đạo kháng chiến nữa. Chàng
hơn Kha, Hiển ở chỗ chàng có thể vui với thế giới của chàng, thế giới của con
dao cái kéo cứu nhân độ thế.
Tân đã lần lượt đi sát quân đội, rất nguy hiểm, quanh vòng
đai Bunker của tướng De L. để băng bó mổ xẻ cho các chiến sĩ bị thương. Đầu hạ
1951, Tân được lệnh dời Phủ Lý trở về Bắc Giang rồi vượt qua quốc lộ số Một
theo bộ đội dự chiến dịch tấn công mấy đồn tiền tuyến địch miền duyên hải.
Quân đội chuyển dịch dưới rừng nứa thành một dòng người bất tận.
Voi-đại bác- cứ tuần tự được hì hục khiêng lên tới đỉnh dốc này thả cho lăn xuống
triền dốc để rồi lại được khiêng lên một đỉnh dốc khác. Mưa, đường lầy quánh.
Khẩu lệnh truyền theo dòng người như chiếc ống bương trôi theo dòng sông, có điều
cái “ống bương khẩu lệnh” này có thể trôi xuôi hay trôi ngược tùy lúc.
- Truyền lên, đại đội trưởng Lê Tâm cho biết voi tới đâu rồi?
- Xin đồng chí đại đội trưởng Lê Tâm cho biết voi tới đâu rồi,
truyền lên?
- Voi đương lên đình Cây Diều, truyền xuống!
- Voi đương lên đình Cây Diều, truyền xuống!
- Đồng chí trung đội phó Hùng Sơn lên gặp đồng chí
chính trị viên đại đội ngay, truyền xuống!
- Mời đồng chí Hùng Sơn lên gặp đồng chí chính trị viên
đại đội ngay, truyền xuống!
Truyền xuống...truyền xuống... Tiếng nói cứ như thế nhấp nhô
gập ghềnh trôi nổi cho đến chỗ có tiếng đón:
- Tôi đây. Có tôi rồi đây! Xin đồng chí cho tôi lên nhờ một
tí!
Trời về chiều, bóng tối đổ ập xuống rất mau, bộ phận quân y
được lệnh dừng lại. Tân cùng một số bạn đồng đội chặt vội những cây hóp làm sàn
ngủ; một số ngủ trên sàn, một số luồn xuống gầm sàn trải vải bạt ra nằm, chân mọi
người còn nhép bùn và tiếng cười luôn luôn khúc khích!
Một anh cất tiếng nói:
- May mà khu rừng này ít vắt, nếu không, ngủ qua đêm,
hôm sau máu trong người không còn mấy nữa, hai bàn chân có thể mọc thêm rất nhiều
những ngón chân cái và vai, cổ có thể vướng víu rất nhiều những bướu nhỏ!
Không có vắt, nhưng Tân, nằm dưới gầm sàn, chập chờn không ngủ
được. Chàng chỉ lo các dây lạt buộc lỏng, sàn trên sập xuống thì khi nửa tấn
người bên trên có vùng dậy nhẩy ra khỏi sàn, lũ người bên dưới cũng đã chết bẹp
rồi. Mãi đến gần sáng, Tân mới ngủ thiếp được một giấc ngon lành vì mệt.
Hôm sau, gay go nhất là đoạn bộ đội qua đèo Cóc, đèo phân
ranh giới Bắc Giang và Quảng Yên. Dưới chân đèo Cóc bên địa phận Quảng Yên là một
khoảng đồng ruộng dài trên năm cây số. Ban ngày phi cơ thám thính địch bay lượn
thường xuyên, ban đêm đại bác địch tự các vị trí ở Mỏ Thổ (bên kia đèo, thuộc địa
phận Bắc Giang) câu như giã gạo rất đúng sang sườn đèo bên này rồi rải rác xuống
khắp cánh đồng bằng bện dưới làm một số ít bộ đội và một số lớn dân công, vào
ngày đầu chuyển dịch, bất ngờ uổng mạng. Một số dân công được chỉ định ở lại
đào hầm trú ẩn dọc theo khe con lạch nhỏ rồi đào hố công cộng chôn xác các nạn
nhân để tránh mùi xú uế và nhất là để tránh cảnh chết phơi thây làm mất tinh thần
quân đội. Đội quân y của Tân qua đèo vào lúc chập tối, mỗi lần nghe tiếng đại
bác nổ bên kia đèo, ai nấy tìm ngay lấy một chướng ngại vật thiên nhiên gần nhất
chạy tới nằm rạp xuống cho đến khi ngớt loạt súng. Có chừng hai cây số đường
đèo mà phải mất ba tiếng đồng hồ mới đi thoát.
Chiến dịch này chì cốt dử địch ra khỏi đồng bằng, nhưng chúng
không mắc mưu, chúng đành hy sinh những đồn nhỏ đó. Voi nhà được âm thầm chuyển
vận tới sát đồn để bắn đạn đạo thẳng. Cách sử dụng đại bác kỳ khôi này chỉ có
thể thực hiện ở một nước quân dân nhất trí diệt xâm lảng. Rồi quân ta xung
phong. Trừ một vài tù binh ngắc ngoải bộ đội đành cho một phát tối hậu, các tù
binh khác đều được băng bó tử tế, vài cán bộ quân báo tới láy lời khai tức thì.
Những tù binh này có cách quan sát riêng của chúng. Với Tân, chúng xưng tụng là
Mon colonel!(thưa đại tá); với những y tá giúp việc Tân, Mon lieutenant! (Thưa
trung úy).
- Thưa đại tá, vết thương ở chân này có thể biến sang chứng
hoại thư?
- Làm sao mà vết thương này biến sang chứng hoại thư được?
- Thưa đại tá tôi sợ trùng uốn ván.
- Anh sẽ được tiêm thuốc ngừa trùng uốn ván.
- Thua đại tá, trường hợp tôi cưa chân thì sao?
- Thì cưa chân chứ sao!
- Thưa đại tá, có thuốc tê?
- Các chiến sĩ của tôi có thể nhường thuốc tê cho anh.
Một buổi chiều cuối chiến dịch, tiếng đại bác đã dứt hẳn, trạm
quân y tiền tuyến của Tân rút về đóng tại một làng tề cây cỏ xơ xác, nhà cửa đổ
nát. Nhận được một số đồ hộp chiến lợi phẩm, có cả rượu vang, Tân bèn cùng các
bạn bầy bàn tiệc tại một căn nhà ngói năm gian của một gia đình chắc là vào hạng
khá giả nhất làng (toàn thể dân tề nơi đây đều đã lánh nạn). Thức ăn được bầy
lên đĩa sứ trắng tinh, rượu vang đỏ thắm được rót vào ly pha lê. Bữa tiệc tiền
tuyến đượm vẻ quý phái, cuối tiệc có cà phê và thuốc lá thơm. Tân lòng lại nhủ
lòng: “Xong chiến tranh, nhất định mình sẽ kiếm ra tiền để sống một cuộc đời
cho ra sống với tất cả vẻ đài các quyến rũ của nó. Đã sống gian khổ và không
bao giờ quên những gian khổ, cuộc đời đài các kia càng thêm ý nghĩa!”
Chếnh choáng say, mỗi lần Tân nâng ly, ý nghĩ thầm càng bốc
lên lẫn vào màu rượu đỏ thắm: “Phải kiếm cho ra tiền xây dựng một cuộc sống đài
các quyến rũ chứ!”
IV
Yên Báy với rừng nứa hoang vu man rợ bên tả ngạn con sông Hồng
cuồn cuộn, hai bờ đê cao đất đỏ. Dưới Yên Báy mười bốn cây số, trên Vũ Ẻn hai
mươi ba cây, là một thị trấn nhỏ có trường trung học Đan Hà._ở bên kia hữu ngạn,
đối diện với Đan Hà, là làng Hiền Lương cũng có đền thờ bà Âu Cơ như một vài
nơi khác quanh vùng nhưng chắc chắn đề thờ Bà ờ Hiền Lương mới là đền chính vì
hàng năm dân làng giữ tục lệ làm giỗ Bà linh đình.
Trang sử ngày nào Tân học: Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế
Lai tên là Ầu Cơ, bà đẻ ra trăm trứng nở ra trăm con. Một hôm Lạc Long Quân bảo
Âu Cơ rằng: ‘Ta thuộc dòng dõi rồng, nhà ngươi thuộc dòng dõi thần tiên, ăn ở
lâu với nhau không được: nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem năm mươi đứa
lên núi, còn năm mươi đứa ta mang xuống bể Nam Hải”.
Sau chiến dịch miền duyên hải, nhân một dịp đội quân y lưu động
của Tân tạm đóng nơi đây mấy ngày, Tân được chứng kiến buổi lễ. Chỉ những cô
gái đồng trình mới được rước kiệu Bà vào hậu cung. Tân cùng đoàn con giai làng
quỳ xuống lễ bái vọng khi đoàn con gái rước kiệu đã khuất vào đền, lòng Tân
tràn ngập một niềm thành kính cũng hoang vu, cũng rộng lớn, cũng tràn ngập sức
sống của sinh thành như cảnh trí nơi đây đất đồ rừng xanh, núi chập chùng, sông
cuồn cuộn.
- Cháu nó cũng ở đoàn người rước kiệu! - một bà khuôn mặt
phúc hậu có che mạng ở mắt đứng ngay bên khoe với Tân.
Tân cùng bà nói chuyện được mười lăm phút thì cô gái ra.
Khuôn mặt nàng tròn phúc hậu, tóc cắt ngắn vừa che kín gáy, đôi má đỏ hồng vì vừa
khiêng kiệu, đôi mắt bồ câu đen lóng lánh. Nàng nhìn Tân hơi e lệ. Tự nhiên Tân
thấy muốn kết duyên cùng nàng, chàng muốn ngộ nghĩnh tin rằng chỉ những người
con gái làng Hiền Lương này mới giữ được giòng máu chính thống của bà Âu Cơ.
Tân nhận lời về nhà cùng bà mẹ, rồi chàng thăm mắt cho bà. Bà
bị lông quặm! Chính Tân mổ mắt chữa cho bà ngay chiều hôm áy.
Cô gái mới mười tám tuổi cuối niên học này nàng thi trung học
phổ thông, tên nàng là Ngoan. Mẹ nàng trước đây buôn bán ở Vũ Ẻn, sau ngày cha
nàng chết vì phi cơ địch khủng bố, gia đình nàng bèn rút về làng trông nom cầy
cáy.
Một buổi sáng chủ nhật Tân cùng nàng đi thuyền nạn vào trại
trong núi, được rõ thêm nàng còn ba chị em gái nữa. Người chị cả lấy chồng được
ba tháng thì chồng theo bộ đội kháng chiến biệt tích, người chị thứ hai lấy một
đại đội trưởng biết rõ là hiện đóng ở Yên Báy; thứ ba là ngoan; thứ tư là cô
gái nuôi bằng tuổi Ngoan hiện lấy một thương binh, cặp vợ chồng này thường
xuyên ở trại để trông nom hoa mầu.
Nhà trại ba gian lợp lá, bếp liền ngay bên, phía sau dựa vào
núi, phía trước ià sận đát mịn rồi những thửa ruộng từng bậc... từng bậc đi xuống,
tận cùng là con suối. Hàng xóm gần nhất cách đấy cũng phải hai cây số. Tất cả
những con suối từ các ngả khe núi chảy đổ vào một khoảng sâu thung lũng thành hồ,
rồi tư hồ các con suối lại chảy đi các ngả thành những đường giao thông rất tiện
lợi cho thuyền nhỏ từ xóm này sang xóm khác trước khi đổ ra sông Hồng. Xung
quanh hồ rát nhiều cây vú sữa cành chiu quả, vỏ xanh xanh tím tím. Dân các xóm
từ bốn ngả ngày ngày đánh thuyền ra hồ tung lưới bắt cá về kho với măng nứa: đó
là hai món ăn “tứ thời bát tiết” của dân vùng. Sang sáng tiếng vượn rúc từng hồi
đánh thức người dậy.
Ngoan đi học mang theo đèn dầu. Học đêm để tránh phi cơ! Chiều
chiều khi tắt nắng, người lái đò đến bến, cầm một ống tre nhỏ gõ lên mái
chèo.;. Ngoan cùng một số bạn học khác- nam có, nữ có- biết hiệu chạy tới. Ngày
cuối cùng ở lại Hiền Lương, Tân cùng Ngoan đi sâu vào miền núi chừng hai cây số
rồi dừng lại ở dưới gốc một cây lim lá nhỏ, xanh mướt như tráng mỡ. Cuộc đi
chơi không mục đích hay chỉ có mục đích để hai người được dịp đi sát bên nhau.
Dừng lại dưới gốc lim, cả hai cùng nhìn con đường mòn vắt ngang sườn núi rồi
khuất dưới một khu rừng xa:
- Thời Pháp thuộc, vào mùa nắng- Ngoan nói- người Kinh
minh vẫn dùng con đường mộn nàỵ đi tắt lên tới Ca Vịnh, Nghĩa Lộ buôn bán với
người Thổ trên đó.
Tân ngồi xuống dựa mình vào gốc cây, khẽ kéo vành mũ lá che nắng,
Ngoan ngồi xuống bên chàng tin cậy. Chưa một lần Tân nắm tay Ngoan, nhưng cả
hai cũng thừa biết đã yêu nhau. Tân chưa muốn tuyên bố vì hôm sau chàng đã lên
đường. Chàng hứa với Ngoan đến Tết chàng sẽ xin nghỉ phép về với Ngoan lâu.
Y hẹn, trưa ba mươi Tết Tân về Hiền Lương rồi theo đường vào
trại trong núi. Cả nhà đương tụ tập giết lợn, gói bánh chưng ăn Tết. Mọi người
đều tiếp đón Tân ồn ào đon đả, riêng Ngoan hơi bẽn lẽn, đôi má ửng hồng, cặp mắt
ngước nhìn im lặng. Mười một giờ khuya, Tân đốt đuốc đưa Ngoan xuống suối rửa rổ
bát đĩa cuối cùng.
Ánh đuốc bập bùng, tiếng nước róc rách... Xa... tít phía
xa... con sông Hồng hẳn vẫn đương lao mình cuồn cuộn giữa khoảng bãi cát trắng
phau, thoại thoải mênh mông. Tân cảm thấy mình đương đợi một cái gì bên kia
sông. Phải rồi, mùa xuân! Mùa xuân hiện đang còn bên kia sông túc trực đợi đến
phút giao thừa mới bước sang bên này... Tân đã dầm tắt đuốc lúc nào và ôm gọn
Ngoan nép dưới ngực. Tân cúi xuống hôn lên má nàng. Hơi ấm của mùa xuân như bắt
đầu tỏa ra từ đôi tình nhân trong sạch.
Rủi làm sao ngay trưa hôm sau, mùng một Tết, Tân nhận được lệnh
theo quân đội xuôi gấp!
Khi ra đi, Tân không dám quay lại nhìn Ngoan; chàng biết
Ngoan sẽ khóc nhiều ngay từ lúc chàng vừa đi khuất, khóc cho đến tối, khóc suốt
đêm.
V
Tân theo bộ đội xuôi xuống ba ngày liền thì tới bò’ sông Đà,
đóng quân tại làng Đề Thám bên tả ngạn thuộc Phú Thọ, bên kia hữu ngạn là Sơn
Tây với ngọn Ba Vì cao ngất.
Hình như địch muốn nhảy dù chiếm lại Hòa Bình và đại quân ta
đã túc trực ờ Tu Vũ để có thể nắm quyền chủ động tận diệt địch ngay từ phút đầu.
Bộ đội Tân theo, một nửa đã sang sông từ tối hôm trước, vào sâu miền hậu địch
quấy rối; tối hôm đó Tân sang sông cùng với một ít thuốc men cần thiết, theo
Tân là mười hai nhân viên y tá và học sinh y tá. Mọi người băng qụa bãi cát trắng...bì
bõm lội ngang dòng sông... băng qua mẩy cồn cát giữa dòng... rồi lại bì bõm lội...
Bờ đê bên kia rát cao và như cố ý đổ bóng tối xuống lòng sông để yểm hộ. Đã có
bộ đội bố trí trên bờ đê.
- Đi nhanh lên các anh- tiếng một cán bộ chỉ huy- có thể
ca nô địch sắp tuần tiễu qua.
Mười hai giờ khuya Tân và nhân viên của chàng mới tới địa điểm.
Đấy không phải là làng, chỉ là một vùng cây rậm có lạch chảy qua, có những chòi
lợp tranh cho thương binh nằm tạm. Rất nhiều phụ nữ từ các vùng tề lân cận tới
để giặt giũ cho thương binh, mang theo bánh mỉ, trứng gà, sữa...
Tân cùng đoàn nhân viên quân y làm việc suốt đêm rồi suốt
ngày, nhiệm vụ giản dị là băng bó cho thương binh nặng trước để chở sang sông tức
khắc, rồi đến những thương binh nhẹ.
Tối hôm sau nghe tin địch tới, có tiếng súng lớn. Tân ra lệnh
cho nhân viên điều khiển việc chở thương binh sang sông, chàng theo liên lạc
viên đến bộ tham mưu để được rõ về tình hình địch và hỏi xem quân y sẽ đi đâu.
Chàng và chú bé liên lạc đi từ mười một giờ khuya mãi đến hai giờ sáng mới tìm
thấy bộ tham mưu. Sớm hôm sau chàng gặp đầy đủ số ý tá, và các thương binh đều
đã được chờ hết sang sông. Thủy, lục, không quân địch tấn công ào ạt suốt ngày
hôm ấy. Ba giờ sáng đoàn quân y của Tân cùng bộ đội đi miết theo một con đường
dốc ngược, sáu giờ sáng Tân thấy mình đã đứng trên Ba Vì. Một y tá giở cơm nắm
chia cho chàng một nửa. Tiếng súng lớn dội vào sườn núi liên tiếp và phi cơ địch
oanh tạc một mỏm núi bên kia. Có lệnh phải tức khắc đào hố cá nhân. Tiếng nổ
rùng rợn đâu gần đấy, tiếng mảnh đạn réo trong không khí và người y tá vừa chia
cơm cho Tân ngã gục xuống hố mới đào được nữa khoang ngang bụng, máu chảy ra thấm
đẫm áo. Tân cuối xuống vén mi nạn nhân thì thầy tròng mắt trắng dã, dại hẳn.
Lại có tiếng đại bác nhả đạn đằng sau. Ai nấy nép mình nằm im
dưới đáy hố nông. Đã làm việc mấy ngày đêm liền, Tân ngủ thiếp đi lúc nào không
biết, tiếng đại bác nổ đều đặn và trong giấc ngủ chập chờn Tân nghe tiếng phi
cơ địch rú mơ hồ như tiếng ruồi, tiếng nhặng vo ve. Khi bừng tỉnh dậy, cảm giác
đầu tiên xâm chiếm hồn Tân là một sự vắng lặng ghê rợn. Đã ba giờ chiều! Cây cối
vẫn thế, ánh nắng vẫn thế mà sao không khí đượm vẻ rùng rợn dị thường. Tân cử một
y tá sang liên lạc với bộ tham mưu ở mỏm núi bên kia. Bộ tham mưu đã rút lui tự
lúc nào.
- Thế là quân y mình bị bỏ rơi - anh y tá đi liên lạc về than
phiền.
Chúng ta sửa soạn lên đường- Tân nói với tất cả- rồi cứ tiến
thẳng hướng Tây Bắc sẽ gặp tham mưu đại đoàn, họ đã dặn tôi trước thế.
- Chúng ta còn phải chôn anh bạn đã chứ?- một y tá nói.
Tân đưa mắt nhìn người đã bẻ nửa nắm cơm cho minh ban sáng nằm
cứng đờ trên miệng hố, da mặt bắt đầu xám đen.
Vâng - Tân nói - các đồng chí chôn cất anh bạn rồi sửa soạn
ngay nhé, tôi xuống trước kiếm đường rồi trở lại.
Tân thoăn thoắt theo đường mòn xuống được chừng năm trăm thước
vừa lội qua dòng suối nhỏ thì có tiếng rên gọi tự trong bụi cây ngay bên lối
đi.
-Chở tôi đi
Đó là một quân nhân bị thương mất nhiều máu và cũng nằm lả
bên hố cá nhân đào dở. Tân cuối xuống nắm lấy cổ tay xem mạch thấy yếu lắm.
Chàng mở đồ băng bó cho người bị thương xong rồi dặn:
Đồng chí cứ nằm đây. Đừng rên nhỡ quân địch qua, chúng biết
thì khổ, chúng tôi sẽ đến cáng đồng chí đi.
Khi Tân trở lên, đám y tá đã đi mất, họ cũng đi tìm đường.
Tân trở xuống thì người thương binh đã chết. Hố cá nhân biến thành huyệt. Chôn
cất xong cho người tử sĩ, chỉ còn một mình Tân, trời vừa nhòa nhòa tối. Theo
kinh nghiệm, Tân đi dưới suối để tránh cọp và may ra có thể gặp một bản nào.
Chín giờ khuya...Mệt quá, Tân chui vào nằm trong chiếc nhà mồ
nhỏ dựng bằng tre, lợp gianh, bên trên có treo những đạc gỗ và những hình nhân
bằng giấy. Ngủ như vậy đỡ sương. Vừa đặt minh nằm, Tân thoáng nghe có tiếng gà,
xa xăm như có tiếng người. Vùng dậy, tiến lên chút nữa, lối mòn rõ hơn, rồi đường
đất rộng, rồi bờ ruộng. Tới khoảng rẽ ngoặt có tiếng chặt câỵ và thấp thoáng
ánh đèn. Đường hoàng tiến vào, Tân tin là đã tìm thấy đại đoàn. Thấy một nhóm
người ngồi quanh lửa, Tân cất tiếng hỏi:
- Đây là đơn vị nào, đồng...
Chưa kịp nói tiếp tiếng “chí” Tân phải nhìn vội lại vì vừa nhận
ra chiếc mũ partisan bên ngọn lửa. Đó là tiểu đội tiền đồn của địch vừa tới chặt
cây chưa kịp đặt lính canh. Một partisan đeo lon cai chĩ súng vào ngực Tân, đồng
thời hai lính Pháp xô tới, Tân nói ngay bằng tiếng Pháp:
- Tôi là sinh viên quân y!
Một tên lính Pháp đáp gọn:
- Được lắm!
Rồi trói tay chàng, dẫn đi ngay. Qua đường mòn một quãng dài
tới đường cái lớn, xe tăng san sát. Tân bị nhốt xuống hầm.
Mãi đến sáng hôm sau Tân mới được biết là mình bị nhốt ở ấp
Đá Chông, một căn cứ hậu tuyến địch.
Quả thực chúng đương chuẩn bị đánh Hòa Bình!
Vừa lúc đó một sĩ quan phòng nhì Pháp đích thân đến tìm Tân ở
hầm rồi mới dẫn lên bàn giấy của y. Y cầm tập sách in ronéo, chậm rãi mở từng
trang, có ghi quân số từng tiểu đoàn cùng tên các vị chỉ huy... Y muốn gián tiếp
tỏ cho Tân hay là y đã biết hết, Tân có dấu cũng vô ích, nhưng Tân làm vẻ hết sức
thẳng thắn khai mình chi là một sinh viên quân y, và ngày nay đoàn thể Việt
Minh đã lộ khuôn mặt thực, cuộc kháng chiến mất ý nghĩa thiêng liêng buổi đầu
(điều này chàng nói thực), chàng muốn trở về Hà Nội, tiếp tục học thuốc vì hay
tin vị khoa trưởng Y khoa đại học, bác sĩ Henri H. là người có quan niệm rộng
rãi ưng cho sinh viên kháng chiến về Hà Nội được theo học lớp tương đương, chỉ
cần qua một kỳ sát hạch (điều này chàng biết là do lời một người bạn cán bộ
quân báo cho hay). Tân nhấn mạnh là chàng cố ý tìm đến quân đội Liên Hiệp, bằng
chứng chàng đã dõng dạc lên tiếng hỏi trước: “Đây là đơn vị nào đấy?” (Sự thực:
“Đây là đơn vị nào, đồng...)
Thấy lời đáp bằng tiếng Pháp trôi chảy hợp lý tên sĩ quan
phòng nhì ngừng lấy khẩu cung ở đấy, Tân được dẫn trở về hầm. Sau bữa cơm trưa,
Tân đương dựa lưng vào tường lim dim ngắm bóng tên tây đen to lớn vai đeo khẩu
tom-sơn đứng canh cửa hầm, thì một trung úy quân y Pháp đến tìm chàng để hỏi về
tổ chức quân y cùng tình trạng thuốc men vùng kháng chiến. Khi Tân hỏi lại việc
muốn về Hà Nội tiếp tục học thuốc, viên y sĩ trả lời: “Ngày mai chúng tôi sẽ
đưa anh về trại tập trung, ở đó anh sẽ gặp đại tá bác sĩ quân y, đại tá mới đủ
thẩm quyền trả lời anh”.
Quả nhiên hôm sau Tân được theo xe chở thư về trại tập trung
cách đấy chừng hai chục cây số. Chàng không được gặp viên đại tá bác sĩ quân y,
có lẽ họ cho là không cần thiết. Buổi chiều chàng được gửi theo một convoi
(đoàn)về thành và đưa đến ở trú xá Maison de passage ( nhà tạm trú).
Tân ngồi xuống chiếc ghế dựa kê bên chiếc bàn mộc, nhìn sang
căn nhà bên kia khu vườn hoa nhỏ. Qua khung cửa sổ để ngỏ, một người đàn bà đưa
mắt nhìn chàng từ lúc nào, miệng mủm mìm khá lẳng lơ. Tân quay đi ngượng ngập
nhưng mỗi lần quay lại thì “nàng” trong cửa sổ dường như cũng chỉ đợi có vậy để
ngước lên với nụ cười nửa như riễu cợt nửa như khiêu khích. Tân đoán chừng nàng
là một me tây. Nàng có khuôn mặt tròn, đôi má bánh đúc, nước da bánh mật, vóc
người đẫy đà và chắc lẳn, nàng hẳn từng lam lũ ở đồng quê nhưng nay đã biết tô
môi màu đỏ thẫm và đôi lông mày kẻ chì khá đậm. Nàng đứng lên tiến tới giường
kê ngay phía bên cửa sổ rồi vừa vỗ nệm vừa nói một người bạn nào ngồi khuất gần
đó:
- Xứ mình nóng chết cha chết mẹ mà chúng nó cứ thích nằm nệm,
thật khỉ!
Nàng liếc mắt đưa tình với Tân. Bất giác Tân mỉm cười vì tiếng
bạn nàng hỏi:
- Thế mày không thích nằm nệm?
Không! - nàng đáp - mùa hè tao thích nằm phản ghế ngựa lau
bóng, mùa đông nằm ổ rơm!
Tân quay nhìn sang phía khác vừa quan sát những người lính có
công việc qua lại nơi đây vừa suy nghĩ đến tâm trạng một số cô gái quê đất Việt
sa cơ thất thế lấy Tây rồi, nhưng vẫn thích những cuộc chung đụng “Nam quốc Nam
nhân với nhau”.
Có tiếng chân xịch tới phía sau, Tân quay lại: nàng đã xuống
đường đi quành khu giồng hoa sang bên này.
- Ông ở đâu về đấy? - nàng hỏi.
Tân nghĩ nên trả lời giản dị:
- Tôi ơ Sơn Tây về.
- Ông là người “ngoài ấy” bị bắt?
- Sao cô biết?
Trông cách ăn mặc thì biết chứ sao. Nhưng ông đừng lo, đã đưa
về đây thì chỉ nay mai là được cấp giấy tha.
Tân không nói gì và cũng không nhìn nàng.
- Ông biết viết tiếng Pháp? - nàng hỏi.
- Vâng, có!
Ông làm ơn viết giúp em một lá thư gửi cho George, chồng em,
hiện ở mặt trận Nam Định.
Nàng kéo ghế ngồi đối diện với Tân, cách chiếc bàn mộc, đặt
trước mặt chàng tờ giấy viết thư màu xanh và chiếc bút chì nguyên tử đỏ. Tân
nghe nàng kể lể rồi viết vắn tắt ý nàng muốn nói, trong khi một người đàn ông
chạc năm mươi tuổi, đầu hoa râm, râu mép màu muối tiêu đeo lon sergent chef
trên tay áo, thỉnh thoảng qua lại ném vào những tia nhìn hằn học.
Lá thư viết xong, nàng ghé sang gần Tân giải thích thầm:
- Đội thông ngôn đấy! Lão ta theo lơn em hơn một tháng nay mà
không được. Rõ thực già rồi mà còn muốn chơi trống bỏi! Ấy trông dáng hắn có vẻ
bề thế, vạm vỡ nhưng nghiện oặt, khi hắn cười, ông trông bộ răng thì biết.
Nàng mủm mỉm cười, đưa đẩy con mắt sắc như dao cau, cám ơn
Tân rồi trở về.
Đã đến giờ tan sở, ánh đèn vừa bật lên lấp lánh đây đỏ sau
các lùm cây. Người đội thông ngôn bĩu môi nhìn Tân, trước khi nhảy lên xe đạp
ra về hắn chửi đổng:
- Mẹ kiếp, tưởng theo Vẹm được mãi!
Hôm sau quân đội Pháp gửi trả Tân sang bên công an Bắc Việt.
Nơi đây người ta cũng chỉ lấy khẩu cung qua loa rồi cấp giấy thông hành tạm mười
ngày cho chàng. Ba lô quần áo được trả lại, trong đó còn hai lọ penicilline, di
sản của thời kháng chiến, chàng đem bán được năm đồng. Tờ giấy năm đồng màu nâu
nhạt có vẽ hình lượng long chầu nguyệt đối với Tân lúc ấy là cả một tài sản
nuôi sống chàng trong mấy ngày cầm cự. Tân lần lượt đi dọc theo các phố Hàng Trống,
Hàng Đào” Hàng Ngang, Hàng Bồ, Hàng Buồm, chợ Đồng Xuân, khi nào mỏi chân lại
quay về ngồi ghế đá bờ hồ phía gần bến xe điện. Chẳng gặp người quen nào! Mười
hai giờ khuya, Tân vào bót Hàng Trống, xuất trình giấy thông hành tạm, xin ngủ
nhờ tránh sương. Hôm sau chàng xin một chân đánh trống quảng cáo cho rạp Quảng
Lạc, được ăn nhưng không có tiền công. Vào lúc nghĩ việc chàng đi lang thang
các phố dừng bước khá lâu trước cổng ra và hoặc trước cửa văn phòng các trường
tư thục mong gặp được người bạn cũ giáo sư nào chăng. Toàn những khuôn mặt lạ!
Một lần chàng dừng lại trước Y Khoa Đại Học Đường, đôi tay thấy ngứa ngáy nghĩ
đến con dao cái kéo, nhưng rồi chàng cắm đầu đi thẳng ngay: mộng tiếp tục học
Thuốc giờ đây xa vời quá!
Nửa tháng đánh trống kiếm ăn qua...ông chủ rạp Quảng Lạc cho
ngừng diễn trò một tuần để sửa lại sân khấu. Bữa cơm chiều cuối cùng Tân ăn
cùng mấy bạn “đồng nghiệp” trẻ, vẫn như thường lệ được dọn trên chiếc bàn mộc
tròn kê ngay bên dưới sân khấu, mấy tờ nhật báo trải ra thay khăn bàn. Cơm xong
Tân chưa dời khỏi rạp, thâm tâm băn khoăn chẳng biết rồi mai đây kiếm ăn bằng
cách nào đây.
Ồng chủ thầu nhận sửa sân khấu vừa tới, phía sau là người bạn
gái của ông, áo màu quần trắng, dáng đi chao chát mỗi khi qua mặt ai, hai vai
nàng rung động, một tay nâng lên che miệng cười. Nàng tiến lại gần... Tân giật
mình! Hai người nhận ra nhau, nàng là cô me tây mà nửa tháng trước Tân gặp ở
maison de passage, ông chủ thầu hẳn là đối tượng để nàng "Nam quốc Nam
nhân với nhau" khi chồng nàng George còn bận rộn ờ mặt trận Nam Định. Nàng
đã giới thiệu Tân cho ông chủ thầu khi đó đương cần một người thư ký thạo tiếng
Pháp.
Thế là Tân làm quen với nghề mới, nghề thầu.
VI
Hãng DRAGAGES chuyên thầu về nhà cửa cầu cống, trụ sở bên...
“mẫu quốc”. (Tân vẫn thầm gọi thế, chàng không hề đi vào ảo tưởng cho là miền
quốc gia này đã độc lập). Chi nhánh chính của hãng DRAGAGES đặt ờ Saigon, hai
chi nhánh phụ một ở Huế, một ở ngay Hà Nội này.
Xương, ông chủ thầu của Tân, chỉ là người thầu lại việc của
người Pháp, ông ta ngót năm mươi tuổi, khuôn mặt vuông, cằm bạnh, nước da bánh
mật, khuôn mặt với nước da đó thật hợp với dáng người vạm vỡ của ông, duy mái đầu
hoa râm quá nửa khiến mỗi tháng ông phải đi nhuộm lại một lần, tóc vì thế khô
xác, màu đen thô kệch như màu mực tàu rẻ tiền. Sáu tháng đầu Tân giúp việc cho
ông Xương, ông toàn thầu về nhà cửa tại các nơi đô hội có an ninh. Tân theo ông
đi giao thiệp với những nhân vật có thế lực. Họ hẹn nhau bàn chuyện tiền nong
toàn ở những nơi ăn chơi xa xỉ, bên bàn đèn với một số đĩ quý phái, hoặc tại những
quán rượu tiệm nhảy quanh khi Tràng Tiền, hoặc đưa nhau đi ăn tại các khách sạn
Métropole, Splendide. Tân phải tập nhảy, tập lái xe vào dịp này.Ông Xương hết sức
cưng chiều Tân chẳng phải riêng vì chàng giao dịch với người Pháp thạo mà còn
vì - theo sự nhận xét tinh tế của ông- ở cõi đời này mà còn gặp được một thanh
niên chân thật như vậy quả là một điều quá hiếm.
Về phần Tân, Tân chẳng ưa gì ông Xương, đúng hơn chẳng ưa gì
cái nghề thầu khoán của ông. Được theo sát ông để chứng kiến các vụ mặc cả giữa
ông với các vị tai to mặt lớn, Tân mới có dịp thấy rõ mặt trái của đời.
Tân đã đại diện ông để điều đinh với tên trùm hành chánh Bắc
Việt kia, biếu y mười ngàn đồng, y chưa chịu, ông Xương hay tin, nổi xung chửi
đổng, gọi y là “con dê cụ”, rồi đích thân ông Xương vào năn nỉ - (lúc này ông
có bộ mặt khác) - “khấn” thêm một ngàn nữa mới được.
Với những loại phải điều đình khác, ở cấp giám đốc hay chủ sự,
ông Xương thường tỏ thái độ thân mật vồn vã bằng cách xưng hô “quan bác” và
“đàn em” (tuy sau lưng ông vẫn chửi đổng và gọi xách mé), tỉ như giao thiệp với
chủ sự phòng vật liệu công chánh để vừa được chọn vừa để được cấp dư dật những
dụng cụ tốt, giao thiệp với cán sự công chánh để họ kiểm soát “đại khái” công
việc của mình:
- Nếu việc này quan bác giúp đàn em trôi chảy đàn em
xin biếu quan bác mười lăm phần trăm tiền lời.
- Việc này khó lắm - “quan bác” trả lời - đại huynh cho tiểu
đệ như vậy ít quá.
Rồi họ uống rượu, ôm gái nhảy, hoặc hút thuốc phiện, ôm điếm.
Cuộc điều đình tiếp tục tiến hành theo thể nhát gừng và thường là vào lúc gay cấn
nhất thì bỏ lửng, rồi nâng rượu cười ngất, mời mọc điếu thuốc đã tiêm xong, cấu
véo cô gái điếm... Sau sự cò kè bớt một thêm hai, khi tiệc vui bế mạc, tỉ số mười
lăm phần trăm thường được nâng lên thành mười bảy hoặc mười tám phần trăm, về tới
nhà mệt nhừ, ông Xương lại xổ ra một tràng tiếng chửi đổng với một nếp sống mới
ráo riết, keo kiệt, chi ly với nhân công từng đồng khiến iũ người khốn nạn này
khi nhận iương khoán khó lòng kiếm dư được một chút.
Theo sự phác tính của Tân thì một nửa số tiền nhà thầu chi
tiêu vào mục “ngoại giao” - tiếng lóng của họ - với lũ tai to mặt lợn đó.
Rồi ông Xương tham lợi thầu cả cầu cổng và đồn bót tại những
nơi hoàn toàn thiếu an ninh về đêm. Một buổi sớm, một thanh niên lạ mặt tới tìm
gặp ông, xin được nói chuyện riêng với ông. Khi y đường hoàng ra khỏi nhà, ông
Xương xuất hiện mặt cắt không còn hột máu. Thanh niên đó là một cán bộ Việt
Minh hoạt động nội thành, y đến nói rất ngọt xin ông ủng hộ cho một món tiền cần
thiết. Y kể vanh vách rằng “Đảng và nhân dân” biết ông đã thầu những đồn bót
nào để giúp địch chuyển vận binh nhu, đã thầu những đồn bốt nào để giúp địch chống
lại “nhân dân”...
Lần đó số tiền mà ông Xương “xung phong ủng hộ Đảng và nhân
dân” để chuộc lỗi là bao nhiêu, Tân không rõ
Mặc dầu suốt ngày công việc liên lạc giao thiệp nhà thầu bận
rộn, có khi kéo dài tới quá nửa đêm, Tân vẫn giữ được nếp sống quân y ngoài hậu
phương, sớm sớm tập ngoài hậu phương, sớm sớm tập thể dục tắm nước lạnh, ở buồng
tắm ra chàng cảm thấy minh mẫn, chàng chọn lúc đó để trù tính công việc, giúp ý
kiến ông Xương và phác thời khóa biểu cho cả ngày. (Căn phòng Tân ở ngay sát
phòng làm việc của ông Xương).
Sáng hôm đó, ở phòng tắm ra uống xong tách cà phê sữa, Tân
yên lặng đợi xem ông Xương định trù làm gì.
Báo chí thủ đô liên tiếp đăng các trận lớn và không dắu cả những
thất thiệt nặng nề về phía quân đội liên hiệp. Giới nhà thầu mấy khi để ý đến
loại tin này! ông Xương khi vở được tờ báo chỉ chăm chú vào mục rao bán xi
măng, tôn, gỗ... hoặc mục đau thầu.
Tắm xong trông tươi trẻ nhỉ- ông Xương nói với Tân- thôi, anh
thay quần áo nhanh lên đi đằng này với tôi.
- Nhưng chúng ta phải bàn trước công việc chút ít chứ.
Công việc này không phải bàn! (ông bật cười) Muốn lấy vợ
không? (ông cười lớn hơn).
Tân chĩ cười không đáp và đi thay quần áo. ông Xương lần này,
trong khi chờ đợi, đặc biệt đọc lớn mấỵ tin chiến sự về công đồn và phục kích.
Bỗng ông gập tờ báo lại ngả ngưòi trên ghế xích đu lim dim nhìn trần nhà, thốt:
- Merde, quelle saloperie!
Tân đã đứng trước ông và nhận ra rằng lời nguyền rủa đó không
phải để ám chỉ những tin tức ông vừa đọc. ồng đương nghĩ gì.
Đi thôi - ông nói - chúng ta cùng xuống garage và đi đón ông
Hiệp ông Bích đã (hai người hùn vốn với ông Xương). Sau đó thì...
- Thưa ông thì đi đâu?
Ông Xương cười bí mật:
Việc không quan trọng mấy. Lẽ ra chỉ có tôi với ông Hiệp ông
Bích đi nhưng tôi muốn kéo thêm anh cho vui, anh còn là thanh niên mà!
Ồng Xương nhất định cầm lái. Tân ngồi ngay bên.
Hai ông Hiệp và Bích cùng chạc tuổi ông Xương nghĩa là khoảng
trên dưới năm mươi chút ít, đầu tóc đều đã hoa râm, có điều hai ông này muốn
níu lấy thời gian hơn ông Xương bằng cách nói chuyện rất tục, toàn là chuyện
trai gái. Cả ba đều đồng ý lên mặt “cha chú” thân mật đuổi Tân xuống ngồi một
mình ở ghế dưới rồi cười ngặt nghẽo.
Tân nghi là các ông sắp dở trò gì đây.
Ông Xương phanh xe lại trước cửa một villa gần dốc đê Yên Phụ
rồi bấm còi. Hai phút sau ông lại bấm còi nữa, giục giã.
-Ô. Hiệp - Cội vừa vừa chứ, nhỡ bố nó ra, ăn nói làm sao? Ô.
Bích - Bố bố nó cũng chẳng dám ra!
- Ổ. Xương - Cháu kia rồi!
Tân thoang thấy bóng một thiếu nữ mặc đầm, toàn đồ trắng tất
tả chạy trên đường sỏi ra cửa. Nàng đã tới. Ô. Bích - Sao chậm thế Poupée?
Poupée - Bác ạ. Ồ! cả bác Hiệp nữa kìa, cháu không ngờ. Ô. Hiệp
- Có gì là lạ, thế cháu không thích gặp bác à?
Poupée (cười rất thơ ngây) - Có chứ ạ.
Nàng đã nhìn ra Tân và dáng nàng e lệ.
Ô. Xương - Vào đi cháu, vào ngồi cạnh anh tre trẻ bên dưới đó
rồi có muốn lấy thì bác làm mối cho.
Poupée - ứ, bác! ô. Bích - Vào đi, mau lên.
Nàng mở cửa vào, khép nép ngượng ngập. Nàng và Tân cúi chào
nhau. Hai tay vẫn đặt lên thành ghế, nàng nghển người về phía trước để nói chuyện
với ba ông Xương, Hiệp, Bích. Nàng không dám ngồi sát và ngồi ngang với Tân.
Poupée - Cháu đã chuẩn bị xong từ lâu rồi, nghe tiếng còi
cháu mở ngăn kéo tủ lấy giầy, thế mà bác Xương còn bấm còi giục.
Ô. Xương - Hai phút chờ ở ngoài đường nghe máy nổ đều dài lắm
cháu ạ.
Poupée - Khiếp, nghe tiếng còi giục lần thứ hai của bác như
tiếng mắng, Ô. Bích - Các bác mắng thật chứ Sao. Nhưng kìa, nói chuyện với anh
Tân ở dưới đi chứ. Sợ à?
Poupée nhìn Tân rồi lại quay lên ngay, cười cúi đầu.
Ô. Hiệp - Anh Tân là cựu sinh viên quân y chán nghề thuốc nên
mới sang nghề thầu.
Tân hơi cau mày. Chàng thiết tha với nghề thuốc biết chừng
nào, bao giờ chàng mới được quay về với nghề yêu dấu đó, bao giờ chàng mới được
tiếp tục học nốt?
Poupée lại quay sang nhìn chàng và cả hai cùng mỉm cười. Nụ
cười thơ ngây của Poupée làm Tân quên câu nói của ông Hiệp.
Tân - Trước đây Poupée học ở đâu? (Tân mỉm cười vì thấy mình
đã chấp nhận cái tên "Poupée”của nàng)
Poupée - Em học ở Couvent des oiseaux nhưng em thôi rồi, thôi
từ năm ngoái.
Poupée có khuôn mặt trái soan, nước da giữa khoảng trắng hồng
và bánh mật, đôi mắt nhìn nửa thẳng thắn nửa e ngại, đôi môi không dầy không mỏng
hơi trắng bợt và không một chút son khiến nụ cười càng thơ ngây, đôi cánh tay
và cả thân hình nàng chắc lẳn nếu không phải là hơi đẫy, một sự “hơi đẫy” lẽ ra
không thể có ở tuổi nàng.
Tân - Poupée năm nay độ mười sáu?
Poupée (cải chính rất khẽ, Tân hiểu vì nhìn kỹ đôi môi) - Mười
bảy!
Poupée vô cớ nhè nhẹ gật đầu, nụ cười giữ trên miệng, đôi mắt
nhln Tân rồi lại hơi cúi xuống ngước lên. “Một thiên thần hơi thô một chút” -
Tân nghĩ thầm.
Ô. Bích (vẫn nhìn về phía trước, giơ cao cánh tay về phía
sau, qua đầu) - Tay cháu đâu, hãy nắm lấy tay bác!
Poupée - ứ, bác!
Ô. Hiệp - Chẳng hay cháu có tay để nắm tay bác không, hay là
cái anh con giai ngồi cạnh cháu đã nắm cả rồi.
Poupée - ứ, bác!
Ô. Bích - Nghe bác đếm đây, từ một đến ba mà không thấy cháu
thì ôi thôi... Một...Tay cháu đâu...Hai...Oi cháu ôi là cháu ôi...
Poupée - Bác làm như cháu chết rồi không bằng, bậy quá!
Ô. Hiệp (quay lại) - Cháu có biết cách người Tây Phương tặng
hoa không?
Poupée - Sao bác?
Ô. Hiệp - Khi người đàn ông tặng người đàn bà một bó hoa hồng,
thế là người đó muốn tỏ tình đấy, lần thứ hai tặng hồng mà người đàn bà vẫn nhận,
ấy là đã nhận tình yêu. Thường thì lần thứ ba người đàn ông gửi tới bó hoa
pensée ấy là người ấy muốn xin được... hôn cháu.
Poupée - ứ, bác!
Ổ. Bích - Không phải chỉ muốn hôn mà còn muốn...
Ông Bích ghé sát tai Poupée nói thầm, Poupée rẫy nảy vừa kêu
“Bác, bác!” vừa cười, vừa lườm!
“Lũ giặc già này thật cynique- Tân nghĩ thầm.
Ông Xương đã cho dừng xe trước một Villa tráng lệ có cảnh
binh canh ngoài. Villa này ở vào khoảng trung tâm thành phố và nếu ngồi ờ sân
thượng chắc chắn sẽ nhìn được toàn vẹn cảnh hồ Hoàn Kiếm, ống Xương bảo Tân hãy
lái xe đi chơi lăng quăng đâu chừng nửa giờ thì quay lại bấm còi, rồi cả ba ông
và Poupée cùng xuống xe để vào biệt thự.
Nửa giờ sau, Tân quay lại, bộ bốn đó cũng vừa ở trong biệt thự
ra. Ông Xương ngồi cạnh tay lái của Tân, hàng ghế dưới Poupée ngồi giữa hai ông
Hiệp, Bích. Poupée xin được trở về ngay, Tân lái xe lên phía bờ sông để rồi
theo đường lớn đó phóng về Yên Phụ. ông Bích ông Hiệp thay phiên nhau ghé tai
Poupée nói thầm và Poupée luôn miệng nói “ứ, bác!- Bác!- Bác bậy quá à!” Và tiếng
hai ông cười ngặt nghẽo.
Poupée về rồi, ông Xương đề nghị cả bốn đi ăn chim quay Siêu
Nhiên. Có bốn người mà ông Hiệp gọi hai chai vang. Rượu vào nhời ra, ba ông
Xương, Hiệp, Bích, nói về Poupée.
Poupée mồ côi mẹ từ sớm, tên nàng là Nguyên, cha nàng cũng
làm nghề thầu. Năm ngoái Nguyên vừa tới tuổi đôi tám, ông bố dùng Nguyên trong
việc “ngoại giao” để tranh mối thầu. Việc đó không dấu được ai. Nguyên xin thôi
học (vì cô ở lại trường cũng bị đuổi), nàng trở về trông nom sổ sách cho cha.
Có những gã ăn chơi tìm gặp nàng rủ nàng đi. Nàng từ chối - bao giờ nàng cũng từ
chối - nhưng vẫn đi. Sau mỗi lần đi gã trai nhét vào tay nàng tiền, rất nhiều
tiền, nàng không cần tiền nhưng cảm thấy gần đàn ông hay hay. Rồi đến “các bác”
nữa. Giáo dục gia đinh với nếp sống vô liêm sỉ của người cha đã phá hủy trong
tâm linh nàng thứ tình cảm coi việc trao thân là một cái gì tối thiêng liêng.
Nhưng dù sao thì nàng cũng chỉ là cô gái mười sáu mười bảy mới lớn, nếu ngươi
cha phá huỷ thứ tình cảm kia trong việc dùng nàng để “ngoại giao” thì nếp sống
hồn nhiên của tuổi nàng vẫn giữ cho nàng những cử chỉ, những lời nói, những
tình cảm thơ ngây khác. Thanh thư Tân thấy ở nàng là cả một nếp sống mâu thuẫn
xé lòng. Thủ hiến phủ đương cố tung người đi giao thiệp với một số nữ sinh
nghèo để sửa soạn dân cho tên trùm chính phủ bù nhìn sắp tuần du Bắc Việt. Việc
này mà làm đẹp lòng tên Thủ hiến thì có thể thầu được con đường dải đá từ ồ cầu
Giấy chéo sang đường Chuôi vồ, nơi có một Francis Garnier. Các “bác” bèn nảy ra
sáng kiến dùng Nguyên, ông Xương đã tìm gặp Nguyên từ chiều hôm trước. “Cháu chịu
thôi, không đi đâu”, Nguyên nói thế, nhưng ông Xương đã biết tính bèn át giọng:
“Liệu hồn đó, mai tám giờ rưỡi đã phải sửa soạn xong rồi, nghe tiếng còi phải
ra ngay nghe không”.
Giấc ngủ trưa của Tân chập chờn, chàng thấy hơi bứt rứt khó
chịu nửa sót thương nửa hờn giận nếp sống của Nguyên, ôi khuôn mặt của nàng,
khuôn mặt thiên thần nhưng hơi thô! Nhưng nỗi buồn ray rứt đó không kịp kéo
dài, Tân đã phải cùng ông Xương đi Nam Định ngay khoảng hai giờ chiều: một đồn
xây ở ngoài châu thành Nam Định trên con đường đi bến đò Tân Đệ do ông Xương thầu
đã hoàn thành.
Tới nơi, công việc bàn giao xong vừa sáu giờ chiều.
Tân cho xe chạy dìu dịu để còn ngắm cảnh mây chiều trôi nhẹ
theo gió. Dòng sông nhỏ xa màu xanh lục, khoảng đồng nước gần đó láp lánh như hồ,
một con lạch đôi bờ cỏ từng lùm vàng ánh, và bên khoảng đồng nước là cả cánh đồng
lúa sắp chín rỡ ràng nhuộm màu nắng quái. Một đồn binh xuất hiện ở khúc quành
xa, thấp thoáng mấy tên lính lê dương cởi trần màu da nâu xẫm, đầu đội ca lô
xanh. Buổi chiều êm ả, chiếc xe của Tân đã lướt tới khúc quành có đồn binh lê
dương ngay bên.
Tiếng ông Xương hốt hoảng:
- Chết cha, khéo nó bắn!
Ông vừa dứt lời, một tiếng nổ chát chúa, đồng thời mặt và tay
Tân cảm thấy những gì như kim đâm, kính chắn gió vỡ tan. Tân thoáng nhận bằng
đuôi mắt hình ảnh mấy tên lê dương cùng say lảo đảo, một tên vừa bất ngờ giơ
súng bắn. Chân ga nhấn mạnh thêm, chiếc xe vụt chồm lên vì vấp phải ổ gà. Tiếng
cười nói của lũ lính say đuổi theo đầy vẻ riễu cợt:
- T'as raison ha ha ha!
- T'sais... ça pète!
Giong chàng hỏi ông Xương hơi hổn hển:
- Ồng xem mặt tôi có việc gì không?
Ông Xương đã xem kỹ:
- Không sao, thằng say chỉ bắn vỡ kính chắn gió, mảnh vụn
làm đỏ trên má như mấy nốt muỗi đốt, không sao.
- Mảnh vụn mà văng vào mắt thi chết tôi rồi còn gì.
Xe đã vào thành phố cả hai chưa định thần hẳn, tiếng máy GMC
vo vo phía sau, tiếng còi đòi vượt, tiếng còi như tiếng chửi thách thức ném vào
mặt hai người. Tân nhả bớt ga lái sát vào lề nhường đường. Tránh voi chẳng xấu
mặt nào, lại lũ lê dương! Chiếc GMC phăng phăng vượt lên, vừa tới ngã tư rẽ
sang trái. Tân thoáng thấy bóng một người đàn bà tay xách làn mây hốt hoảng định
nhảy lên vỉa hè, nhưng không kịp. Tiếng thắng ghê rợn! Tân đã dừng xe đúng ở
góc cạnh nhìn rõ kẻ tử nạn. Đời chàng cho tới hôm đó mới hiểu thế nào là chết
tươi: người đàn bà bị hất ngang tung lên một chút rồi ngã ngửa, đầu vỡ tan, óc
và máu hòa vào nhau thành mọt khoảng bầy nhầy, cả khuôn mặt giờ đây bẹt lại chỉ
còn bằng chiếc chôn bát, chân tay bà còn rẫy... Người tự bốn bề ngã tư đổ xô lại
vây xung quanh, xác chết đã hết rẫy.
- Khổ chưa!
- Lại xe lính!
Mới tuần trước một GMC lao vào tiệm sách ở phố Hàng Giấy, ba
mẹ con đương ăn cơm chết tức khắc.
Hình như vì không giết lại được ai ở mặt trận nên về căn cứ
chúng giết lương dân trả thù.
Xe Tân vẫn dừng nguyên chỗ cũ, chàng đã gạt cần về số không tắt
máy mà chàng còn bàng hoàng có cảm tưởng như máy vẫn nổ dìu dịu và chiếc xe còn
bồng bềnh như con thuyền trên một dòng sông xuôi miết.
Phần ii
Chương 9
Ngọn đèn lương tri
i
Y hẹn để cùng đi Hưng Yên từ sớm, Tân tới nhà Khóa đã thấy
Khóa chuẩn bị xong xuôi. Khóa bắt tay Tân chặt chẽ. Một chú chừng mười sáu mười
bảy tuổi ở căn phòng bên nhô ra hỏi Khóa rất khẽ:
- Thưa cậu con pha cà phê?
Khóa hỏi Tân cũng bằng giọng êm khẽ như vậy:
Anh uống cà phê hay cà phê sữa? cần uống cho tỉnh người, hôm
nay buổi đầu chủng ta sẽ phải làm việc nhiều.
Tân đáp:
- Vâng anh cho uống cà phê.
Khóa bảo chú nhỏ:
- Mày pha cho cậu hai ly cà phê.
- Vâng ạ.
- Nhớ đi nhẹ bước để bà ngủ.
- Vâng ạ.
Tân hỏi Khóa:
- Có phải cháu gọi anh bằng cậu?
- Con giai tôi đấy chứ? - Khóa đáp
- Trời anh đã có con lớn thế?
Tên cháu là Thanh, đỗ trung học đệ nhất cáp từ năm ngoái, năm
nay còn học thêm về họa với một họa sư nổi tiếng từ thời Tự Lực Văn Đoàn. Cháu
nó sinh năm 1937, năm đó mẹ tôi còn ở Nam Kinh.
Tân gật đầu:
Tối hôm qua tôi đến thăm anh Kha nữa, anh Kha giới thiệu thêm
về anh nên tôi cũng được biết cụ đã ở Nam Kinh hơn mười năm, nhưng quả thật
không ngờ anh có con lớn thế.
Tại tôi lấy vợ sớm. Điều này là tự ý tôi quyết định, tôi biết
mẹ tôi ở Nam Kinh ngày đó vui lắm, các cụ bao giờ chẳng muốn sớm thấy con độc
cháu đàn cho vững bụng. Nhưng rồi tôi cũng chỉ được có một cháu Thanh này, hai
lần sau nhà tôi đều bị hư thai rồi tịt!
Thanh đã mang ra hai ly cà phê khá đặc, thơm ấm.
- Ê, ê, hai cốc không đủ, phải sẻ ra làm ba đi!
Tân reo:
- Ô kìa anh Kha này, anh cũng dậy sớm thế?
Tân hỏi xong chợt thấy cảm động vì chàng biết Kha đến sớm như
vậy cũng chỉ để săn sóc và theo dõi công việc của chàng. Khóa đã ngoắc Thanh ra
bảo lấy thêm một cốc và mang cả bình thủy nước sôi ra, rồi nói với Kha:
- Cậu rón rén tài đấy chứ, vào lúc nào mà tụi này không
hay.
Kha đáp:
Tôi biết phải đến sớm thế mới còn được gặp các anh. Các anh
đi thì tôi cũng đi dạy học. À hà, cốc cà phê san sẻ lại được uống trong sương sớm
lành lạnh, sướng ghê.
Tân đam mê Kha như đam mê gái, không hiểu sao, kể từ ngày gặp
nhau lần đầu ở đồn điền Lợi Ký. Tiếc rằng lần này chàng không được ngồi cùng
Kha lâu, Khóa đã đặt ly cà phê uống cạn xuống, giọng lanh chao hẳn:
- Thôi nào chúng ta đi cho được việc!
Cả ba cùng đứng dậy, vừa ra tới cửa Kha dừng lại đón nhận tiếng
saxophone êm êm từ tòa báo Văn Hóa đối diện vẳng sang và nói khẽ:
Các anh thấy không, Lãng đã dậy, thằng cha dậy sớm thế! Tiếng
kèn của anh ấy thật hay, êm như tiếng ru.
Tân cười và giải thích:
- Đó là bài berceuse “La jeune mère” cùa Schubert đấy.
Khóa gật đầu vẻ khôi hài:
- Vả giờ này vợ chồng Khiết còn ngủ nên Lãng thổi nhạc ru là
phải.
Tân hỏi:
- Anh Lãng cùng ở bên đó?
Khóa đáp:
Hắn độc thân mà. Hắn ở bên đó để trông coi tòa báo một thể. Ấy
là vào những hôm không phải đi phóng sự.
Kha giải thích thêm cho Tân hiểu:
- Anh Lãng phụ trác mục phóng sự cho tờ Văn Hóa.
Khóa hỏi Kha:
- Anh có cần tôi đưa đến trường không?
Thôi còn sớm mà - Kha đáp - anh cứ mặc tôi. Vào thăm Lãng một
tí. À các anh nhớ chiều mai đã phải có mặt ở Hà Nội rồi để dự tiệc tiễn Hãng,
Hiển. Anh Tân nhớ nhé.
Kha bắt tay từ biệt hai người. Tân trìu mến nhìn Kha qua đường
rồi mới mở cửa xe vào ngồi bên Khóa.
Nhớ lại tối hôm qua Tân tìm đến địa chỉ Kha mà chàng đã ghi vội
trên sổ tay. Trước khi gặp Hiển và Kha, Tân đã gặp Miên ngồi buồn rầu dưới ánh
đèn trước cửa ra vào (nàng buồn rầu vì Hiển sắp vào Nam theo lớp quân sự). Miên
nhận ra Tân ngay ỉập tức, đôi mắt nàng sáng một niềm kính mến làm rạng rỡ cả
khuôn mặt hiền thục, vẻ u sầu vừa qua của nàng hoàn toàn biến hẳn. Miên chỉ kịp
cất tiếng reo vui “anh Tân!” thì Kha, Hiển cũng vừa tự bên trong ra đón. Tân chợt
nhớ ngay đến buổi chiều nào tại trạm quân y hậu cần, Miên thủ thỉ kể hết cảnh mồ
côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Tân cũng chưa kịp tự đặt câu hỏi trường hợp nào đã run
rủi cho Kha, Hiển gặp nhau để ngày nay tụ họp cùng một nhà, chỉ biết khi bắt
tay Hiển chàng nói ngay:
Ngày tôi gặp cô Miên ở huyện Tam Lộng, cô có nói cho tôi hay
là cô còn một người anh trạc tuổi tôi trong đội chiến đấu, ngày đó tôi đã nhận
cô là em gái nuôi, đến nay mới được gặp anh!
Hiển không biết nói gì thêm ngoài lời cám ơn Tân, lời nói có
bề ngoài như khách sáo nhưng bên trong Hiển thực tình cảm động lắm.
Sau đó ba người rủ nhau đến Hãng. Trên đường đi Tân nói với
Hiển, Kha:
Sáu tháng giời qua chẳng gặp người quen nào, nay gặp anh Kha
thì lại khám phá ra khối người khác.
Tới nơi Tân cùng bà Phán và Hãng thoạt nhắc lại kỷ niệm xưa
khi lớp huấn luyện cán bộ tăng gia sản xuất thiết lập ở đồn điền Lợi Ký. Bà
Phán thuật lại cái chết của ông Phán. Hãng cúi đầu thở dài. Trước khi lui về
phòng mình ngủ nhường chuyện cho những người bạn trẻ với nhau, bà Phán chớp chớp
mắt nói với tất cả:
Thế nào tôi cũng phải ra cải táng bằng được cho ông nhà tôi,
rồi chúng có giết nốt tôi thì giết!
II
Suốt dọc đường từ Hà Nội đến Hưng Yên, Khóa vừa lái chiếc
Traction 15 vừa làm chủ câu chuyện, đường dài thành ngắn. Đã được thưởng thức
thái độ nồng nhiệt của Khóa khi thuật chuyện trong buổi sơ kiến hôm qua, nên điều
đó với Tân không có gì là lạ, lần này Khóa tiếp tục câu chuyện bỏ dở khi nãy,
lúc Kha chợt vào rồi cả ba cùng uống cà phê.
- Kể ông trời cũng đa đoan thật - giọng Khóa thoạt trầm
ngâm khi xe vừa lên cầu Long Biên, thấp thoáng một mảnh sông Hồng bên dưới mờ
trong sương sớm và gió lạnh - mẹ tôi chỉ có một mình tôi là giai, thương và quý
tôi không thể nào tả được, thế mà mẹ con phải xa nhau ngót mười lăm năm giời.
Cho đến giờ, tôi ngần nhiêu tuổi đầu, có con lớn bằng ngần áy, nhưng đứng trước
mẹ, tôi vẫn cảm thấy mình là con nít. Mẹ tôi cương nghị và trung hậu quá, gương
sống của người luôn luôn là bài học sống cho tôi noi theo. Khi còn ở bên Lào mỗi
lần đọc thơ mẹ là một lần tôi khóc. Tuy ở xa hàng vạn cây số, người vẫn giáo dục
tôi, giáo dục gián tiếp bằng lời thư, còn gián tiếp hơn nữa là nhiều khi người
chỉ kể lại cảm giác của người lúc nhớ cố hương làm tôi càng thấy trìu mến đất
nước. Người kể lại nỗi vui khi gặp người đồng hương (hẳn là Khiết) khiến tôi
càng thấy thương mến những người đồng hương quanh tôi ở ngay Vạn Tượng và những
đồng bào mà tôi được may mắn gần gũi hơn ở bên kia đeo Kim Cương.
Khóa nhấn mạnh ga vượt qua một xe hàng. Mặt trời đã ló khỏi
mây sớm, khí trời bạn mai còn lành lạnh, con đường nhựa sạch bóng như luôn luôn
trườn mình chạy trốn một cách cương trực về phía trước giữa khoảng đồng ruộng
bao la lốm đốm đây đó những mẫu xanh thẫm của lũy tre làng, thỉnh thoảng con đường
lại trườn mình qua một chiếc cầu ngắn, hoặc là con cầu sắt sơn hắc ín đen xì,
hoặc là cầu xi măng màu trắng đã xám với thời gian.
Khóa tiếp tục kể cho Tân nghe ngày Khóa hay tin mẹ đã ờ Nam
Kinh về Hà Nội.
Việc nhắn tin không ngoài cách cổ điển là gặp bất cứ ai buôn
bán giữa hai miền kháng chiến và bị chiếm, dù thân hay sơ, dù quen biết hay
không quen biết chút nào, bà Đô đều thiết tha nhờ: “Phiền bà (hay ông) ra ngoài
đó có gặp ai tên là Khóa trạc trên ba mươi tuổi, xin mách dùm cháu nó là tôi đã
ở Nam Kinh về, để cháu nó biết mà vào đây gặp tôi ngay”.
Bà Đô cũng biết con dân nước Việt thiếu gì người trạc trên ba
mươi tên là Khóa, nhưng có mẹ ở Nam Kinh mới về hẳn là điểm độc đáo để con có
thể nhận ra mẹ. Chỉ có điều bà Đô không để ý là lý trí giúp bà nhớ tuổi trên ba
mươi của con nhưng tình cảm lại chỉ ghi nhớ hình ảnh Khóa ngót mười lăm năm về
trước, cho nên kể cả khi nhờ người trên dưới ba mươi một chút bà cũng ân cần
nói “xin làm ơn mách dùm cháu nó là tôi đã ở Nam Kinh về, để cháu nó...”
Khi tậu được căn nhà mở cửa hàng ở phố Hàng Trống, bà Đô bèn
cho đăng vào cả mấy tờ báo hàng ngày tại Hà Nội:
Khóa con,
Mẹ đã ở Nam Kinh về, hiện ngụ tại sổ... phố Hàng Trống. Con về
ngay, mẹ đợi.
Bà Đô nghĩ rằng rất có thể Khóa hoặc các bà con, bè bạn Khóa
tại một cơ quan chính phủ nào ở ngoài đó được quyền theo dõi báo chí Hà Nội và
đọc được tin nhắn này.
Đất nước tuy phân chia hai miền, đường giao thông tuy chằng
chịt, nhưng tình mẹ mong con tỏa ra bao phủ cả sơn khê và Khóa đã nhận được tín
đó do một người mới tới cất muối của chàng tại bến đò Bất Bạt, Sơn Tây. Lập tức
Khóa bán vội chuyến muối đó, xuôi thuyền gấp trở về Lạt Sơn, Phủ Lý, thu xếp một
ba lô hành trang nhỏ và trước khi lên đường vào Hà Nội, chàng giặn vợ:
- Mình ờ ngoài này trông con, tôi vào gặp mẹ xem tình
thế ra sao rồi hoặc tôi mang mẹ ra đây, hoặc tôi trở lại đây đón mình và con về.
Tiếng là nói nước đôi thế, nhưng vốn Khóa đã ghét Việt Minh
ngay từ thuở ban đầu khởi nghĩa, thành kiến đó sớm giúp Khóa quyết định ngầm:
Lũ cờ gian bạc bịp ngoài này với lũ ăn cướp trong kia cũng như Sở Khanh với Mã
Giám Sinh, biết rõ bộ mặt thật của chúng kệ xác chúng với nhau, mình cứ yên lặng
phụng dưỡng mẹ già là hơn cả.
Khóa dời Lạt Sơn lên đường đi chợ Đồng Quan ngay chiều tối
hôm đó. Tại Đồng Quan Khóa gặp cô nữ thư ký làm tại sở thuể quan Văn Lý xưa. Cô
tên là Jeanne Lệ Thủy có lai Pháp chút ít. Cha chết sớm, cô cùng mẹ tản cư từ đầu
kháng chiến, nhưng rồi gia cảnh sa sút dần, bà mẹ vào thành trước để thu thập
tài sản, nay đến lượt cô vào cùng với người đầy tớ gái. Khóa quyết định cả ba sẽ
theo đường mòn vào Thành qua lối Văn Điển (cuối 1947 quân Pháp chỉ mới tiến tới
ga này và lập một tiền đồn ở đó). Gần tới Văn Điển cả ba cùng không biết đường
nào mà đi, bốn bề vắng tanh vắng ngắt, đường đồng thì nơi này ruộng chiêm lấp
loáng nước, nơi kia ruộng mùa bỏ hoang cỏ mọc ngập đầu gối; tìm tới quốc lộ số
một thì những hầm hố phá hoại xưa nay trông càng đượm vẻ điêu tàn với rêu phong
cỏ mọc, có quãng ba người phải lách vào giữa những ụ đất cỏ ranh rậm như rừng,
mấy lần giật mình vì những con cò đậu nấp dưới cỏ kín thấy động bất chợt vù bay
lên. Bỗng cả ba cùng đứng sững lại, bất giác Jeanne níu chĩu lấy cánh tay Khóa
và con bé đầy tớ thi thốt tiếng kêu khẽ “chết mất bác ơi” rồi lùi một chút để
nép hẳn phía sau Khóa. Nguyên do ba người mải mê lách giữa những hố phá hoại, đến
khi vừa cùng nhô ra khỏi ụ đát cuối cùng với cỏ ranh cao rậm thì đồn binh Pháp
bỗng xuất hiện sừng sững phía trước, ngang bờ thành nhấp nhô đầu lính Pháp và tại
mỗi lỗ châu mai đều có một miệng súng đen ngòm hướng về phía ba người.
“Mẹ ơi, con về để gặp mẹ, lẽ nào con chết được!” - Khóa nghĩ
thầm thế mà chỉ trong một xích na Khóa toan tính được hết điều thiệt hơn. Ụ đất
chỉ cách có chừng hai bước phía sau nhưng đừng nói lùi lại, chỉ cần cả ba cứ đứng
sững thế vài giây nữa đủ để các miệng súng đa nghi phía trước kia quyết định khạc
đạn đều một lúc và cả ba tất chết lật ngửa về phía sau nửa bước là cùng. Khóa kẹp
chặt lấy bàn tay Jeanne tiến lên, kéo theo cả con bé đầy tớ níu áo đằng sau, và
nói khẽ:
- Đi ngay! Phải đi như thường chúng mới không bắn.
Cùng với bước tiến đó Khóa khẽ phanh chiếc veston bằng vải ka
ki cho hở đúng khoảng tim, không phải lúc đó chàng toát mồ hôi mà vì chàng ý thức
được rõ rằng ranh giới giữa sống và chết lúc đó chỉ bằng một phần tư sợi tóc,
lý trí hay tình cảm không ăn nhằm gì vào cái xích na mà bất kỳ một tên lính nào
phía trước nhấn cò súng. Khóa chỉ muốn rằng nếu rủi chúng có nhấn cò súng thì
viên đạn chỉ việc xuyên thẳng vào tim chàng. “Mẹ ơi, con về để gặp mẹ lẽ nào
con chết cho được!”. Tiến được chừng mười bước, không một miệng súng nào lóe lửa,
lúc đó Khóa mới yên chí là sống. Viên trung úy Pháp chỉ huy đồn xuất hiện,
Jeanne giơ tay làm hiệu. Jeanne cũng hiểu phải nước cờ mỹ nhân kế lúc đó mới đủ
bảo đảm cho ba người. Viên trung úy ra hiệu thôi ngắm bắn cho những tay súng
trong đồn, rồi tiến lên mấy bước:
- Giời ơi sao các người tiến thẳng vào tới đồn? Không sợ
chết à?
- Chúng tôi hồi cư mà! - Jeanne trả lời bằng tiếng Pháp
thế, không quên kèm một một nụ cười và một khóe nhìn.
Sau vài lời trao đổi với Khóa nữa, viên trung úy bèn đưa ba
người vào làng gần đấy thuộc đồn này, ở tạm tại nhà ông đại diện xã và hứa sáng
hôm sau cổ xe sẽ đưa về Hà Nội. Trời chiều cũng vừa xuống màu.
Chín giờ hôm sau xe nhà binh tới. Về Hà Nội, từ biệt cùng
Jeanne, Khóa tìm đến căn nhà ở Hàng Trống thì cả mẹ và em vừa đi sang Gia Lâm
thăm hỏi một người bà con nào đó ở gần phi trường. Khóa thuê xe ra phố Bờ Sông
những định sang ngay Gia Lâm, nhưng tới đây Khóa mới hay là từ Hà Nội sang Gia
Lâm phải có giấy phép mới qua cầu được. Chàng không ăn gì suốt nửa ngày hôm đó
mà không thấy đói, chỉ uống dù là không khát, nhưng sự khát khao gặp mẹ làm cồn
cào lòng ruột thì làm sao mà uống nước cho dịu được? Đến bốn giờ chiều hôm đó mẹ
con, anh em mới gặp nhau.
Rồi Khóa trở ra đón vợ con về. Buồng vợ chồng Khóa ngay sát với
buồng mẹ. Khóa bố trí vậy để nhỡ nửa đêm gà gáy mẹ có cần sai bảo điều gì, mẹ
chỉ việc gọi một tiếng. Ai ngờ mẹ rất ít sai bảo chẳng riêng gì với con cháu mà
cả với người làm.
Khóa thấy mẹ thức khá khuya mà vẫn dậy sớm, điều khiển cửa
hàng rất chu đáo, Khóa hầu như chỉ giúp mẹ có việc duy nhất là đi lấy hàng về.
Buồng của cụ chằng chịt dây điện, nào để cắm đèn đêm, nào để cắm đèn đọc sách
(cụ vẫn đọc sách kể cả sách chữ Hán), nào để cắm bàn là, nào để cắm bếp điện
pha nước uống trà sớm. Cụ dậy trước, khi qua buồng con, rón rén êm như bước
mèo, sợ con thức giấc. Có những ngày hai mẹ con không nói với nhau một câu
nhưng Khóa vẫn có cảm tưởng được thường xuyên đàm thoại với mẹ. Đó là thứ im lặng
cô đọng trong đó vang lên những lời thở than của mẹ ngót mười lăm năm xa nước,
cùng những lời khuyên nhủ trong thư. Nhiều sớm mai, Khóa thức giấc vừa kịp vươn
vai, mẹ nghe tiếng động, biết con đã dậy, giọng dịu dàng gọi: “Anh sang đây uống
chén trà nóng!” Tiếng gọi đó bao giờ cũng làm Khóa lặng người, nước mắt rưng
rưng, chàng muốn quì xuống cám ơn mẹ đã ban cho chàng phép lạ khiến chàng được
sống lại một lần nữa tuổi thơ trong sạch quý giá.
III
Tân quan sát thấy cách làm việc của Khóa bao giờ cũng nhẹ
nhàng và sáng suốt. Trước khi bắt tay vào việc Khóa đã tính toán kỹ mà sự tính
toán đó dường như được hướng dẫn bởi một linh tính huyền bí và vô cùng bén nhạy
nào.
Sau một buổi thảo luận với ông tỉnh trưởng Hưng Yên, Khóa
sang văn phòng lấy đủ các giấy tờ cần thiết, giao thiệp vừa đủ thân mật và rất
thẳng thắn với những người có phận vụ vào việc cho xây ngôi trường. Hôm sau
Khóa và Tân về Hà Nội từ sớm. Sau hai lần thầu xây cát trường tại Hải Dương,
Khóa đã có được một số thợ nề, thợ mộc tin cẩn để có thể giao khoán cho từng
người số công việc thích hợp với từng khả năng công tác và tài chính. Họ biến
thành những chủ nhân ông của từng tiểu bộ phận. Họ không bị bóc lột và còn hoàn
toàn được dịp phát triển sáng kiến.
Khóa dự định khi công việc xây cất bắt đầu thì Tân phải ở lại
Hưng Yên ít nhất hai tuần liền, vạn sự khởi đầu nan. Tân đồng ý. Khóa nói vanh
vách những việc Tân sẽ làm theo thứ tự hợp lý. Tân ghi vội vào cuốn sổ tay. Nhà
cuối cùng hai người tới là nhà một kiến trúc sư mà Khóa cần hỏi lại một vài chi
tiết chuyên môn. Khi mọi công việc thu xếp đã đâu vào đấy, ngày khởi công quyết
định vào tuần sau. Ra xe Khóa chưa cho xe chạy vội, thở phào nói với Tân:
- Công việc thế là tạm ổn. Quê anh ở đâu nhĩ?
- Quê tôi ờ làng Lại Vũ, Bắc Ninh - Tân đáp.
- Ủa, thế anh biết Đạo người cùng làng anh?
- Có biết chứ anh, Đạo con cụ huyện Từ.
- Đúng, hiện Đạo làm bí thư cho ông tỉnh trưởng Hải
Dương. Năm ngoái tôi thầu xây cát trường trung học, rồi trường mẫu giáo ở đấy
do Đạo giới thiệu. Tôi cũng gặp Chủy ở đấy, chắc anh biết Chủy con ông đồ
Thinh?
- Có chứ! Anh gặp Chùy ở nhà Đạo?
Khóa gật đầu:
- Phải, ngày đó Chủy vừa ở trạm giam Hải Dương ra, bị sốt
rét nằm lại ở nhà Đạo, Chủy nói hết sốt sẽ ra hậu phương ngay.
- Anh biết Chủy lấy Vân em anh Hãng?
- Có. Tôi đã nói chuyện này với Hãng. Hãng vui vẻ nói với
Kha: “Thế thì Chủy không bị Tây thủ tiêu, như vậy không sớm thì muộn Vân sẽ gặp
chồng nó”.
Đôi mắt Tân đăm chiêu, chàng nghĩ đến hình ảnh Chủy tức Mạnh,
chủ tịch huyện Thanh Ba ngày nào, chợt chàng hỏi:
- Sao anh quen Đạo và Chủy người làng tôi?
- Tôi biết Chủy thì đúng hơn mà cũng chỉ là biết mang
máng thôi, chả là bà đồ Thinh cùng quê làng Liên Phú với tôi, có liên hệ bác
thúc chút ít, hình như tôi phải gọi bằng “dì” thì phải. Thuở sinh thời thầy tôi
và ông đồ Thinh hai người thân nhau lắm, bạn tri kỷ về tử vi.
Khóa đã cho xe nổ máy và nói tiếp:
- Nào bây giờ tôi đưa anh về qua nhà lấy bộ quần áo sạch,
anh lại đằng tôi, chúng ta tắm rửa nghỉ ngơi một chút rồi cùng đi dự tiệc là vừa.
Tân cười:
- Hình như anh giải quyết mọi công việc đều bằng linh
tính, lời anh đề nghị đúng hệt như ý tôi định nói.
- Nếu đấy là một lời khen thì công đó là công của mẹ
tôi, tôi luôn luôn suy tưởng và hành động theo ảnh hưởng của người. Ngày nay ôn
lại thái độ khi tôi còn là cậu trò nhỏ ở Lào, khi là người công chức ở Văn Lý,
khi là người dân tản cư ngoài hậu phương, tôi tự khám phá thấy rằng nhất nhất mọi
hành động đều do tình mẹ chỉ huy, dù mẹ tôi khi đó còn ở Nam Kinh. Tôi đi đến kết
luận: phải sống nhiệt thành! Có Thành mà không Nhiệt, không có sức gì đun đẩy;
có Nhiệt mà không Thành, chỉ là một sự phung phí không đưa đến kết quả nào. Vì
hoàn cảnh bắt xa quê hương đất nước mà mẹ tôi càng nhiệt thành với quê hương đất
nước, vì hoàn cảnh bắt mẹ con xa cách, tôi càng xa nhiệt thành hướng về tình từ
mẫu. Tôi nghĩ con người ta ai cũng lầm lẫn, nhưng nếu nuôi được một điều nhiệt
thành hướng thiện trong ta, lương tri sẽ luôn luôn thức tỉnh mà giúp ta có nhiều
công hơn tội với tất cả mọi người. Cũng tỉ như trong năm điều nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín của đạo Khổng kẻ nào nhiệt thành với một trong năm điều, vô hình chung
thực hiện được cả năm điều.
Tân gật đầu:
- Anh nói đúng!
Khóa tiếp:
- Không xa đâu, mới năm ngoái trong một chuyến xe hàng
từ Hải Dương về Hà Nội, tôi ngồi hàng ghế trên. Xe đi được nửa đường, đã mẩy lần
có kẻ lên người xuống, tôi chợt thấy một quả ổi lớn lăn từ phía sau lên đụng phải
chân tôi. “Quả ổi lớn của kẻ nào đánh rơi, mình có quyền nhặt chứ, được không một
quả ổi cũng là một điều hay chứ sao” - Tôi nghĩ thế rồi cúi xuống nhặt, cho lẹ
vào túi giấy đựng những hoa quả khác mà tôi mua ở bến xe Hải dương về làm quà
cho mẹ và vợ con. Nhưng tôi chỉ vừa kịp ngồi thẳng thì có tiếng nói đằng sau,
tiếng của một đàn bà ôm con: “Ông cho xin quả ổi đó của cháu”. Tôi vội gật đầu
đáp “vâng ạ” rồi cúi xuống lấy quả ổi trao liền lại phía sau, tôi không dám
nhìn thẳng vào mặt bất cứ ai lúc đó. Cũng may xe tới Gia Lâm thì người đàn bà
ôm con xuống. Tôi cứ ngồi yên lặng như vậy cho đến khi xe lên cầu, gặp chuyến
tàu hỏa Hà Nội Hải Phòng rầm rộ qua cầu, rồi xe tới bến Bờ Sông, tôi xuống. Anh
xem tôi luôn luôn nghĩ thẳng thắn, làm thẳng thắn mà rồi tự nhiên nảy lòng tham
quả ổi rơi như vậy; Tôi tự hỏi vì sao, tôi tự phân tích ý nghĩ của minh khi quyết
định cúi xuống nhặt quả ổi, tôi thấy rằng dù mình rộng lượng đến đâu, có đủ những
duyên cớ để tự bào chữa đến đâu thì thái độ kia vẫn hai năm rõ mười do lòng
tham mà ra. Và việc kiến tạo một xã hội có giáo dục để hướng dẫn cá nhân cần
thiết biết chừng nào. Tôi thấy con người chúng ta bao giờ và mãi mãi chỉ là con
vật dễ sa ngã, đừng ai nói thánh nói tướng, bịp hết! Điều quan trọng: hãy nuôi
lấy lòng nhiệt thành về một ý hướng thiện làm ngọn đuốc luôn luôn soi sáng cho
lương tri. Con người với mấy ngàn năm văn hóa tích lũy, nhưng nếu buông tuồng một
thời gian nho là trở về với thú tính ngay. Leo lên thì lâu rớt xuống thì chóng,
vo tròn thì khó, bóp bẹp thì dễ quá đi!
Tiếng máy xe vo vo, bóng người hai bên vỉa hè lùi lại phía
sau, Tân và Khóa cùng lặng thinh. Rồi xe tới nhà. Khóa nhường cho Tân tắm trước.
Tắm xong, còn nhiều thì giờ Tân ra nằm ghế xích đu. Khi đến lược Khóa ở buồng tắm
ra, Tân vờ ngủ. Tân phải vờ ngủ để giữ lấy khoảng thời gian im lặng đó mặc cho
câu chuyện quả ổi Khóa vừa kể bám rịt vào óc như con đỉa đói bám rịt vào bắp
chân người làm ruộng. Và
trong khoảng im lặng đó thỉnh thoảng Tân lại cho vang lên
trong tâm khảm câu nói thầm:
“Con người thành thực đến thế là cùng!"
Phần ii
Chương 10
Thần tượng
i
Vân đã về Hà Nội, nhưng nàng không ở đây lâu, Kha biết lắm.
Lý do ư? - Con nàng, đứa con giai độc nhất của nàng, còn ở ngoài hậu phương, tất
nhiên không sớm thì muộn nàng phải trở sang bên kia vòng đai trắng.
Vân đã về! Nàng về muộn mạn đủ mọi vẻ! Nàng về chồng chất
thêm mối sầu cho bà Phán: chồng chết, con gái út chết, con trai lớn đi xa và
con rể... đến nay thì cũng rõ ràng là đã chết trên khoảng vòng đai trắng cách tỉnh
lỵ Hải Dương chừng mười cây số. Là biết vậy thôi, chứ Mạnh chết mát xác!
Dù sao thì Vân cũng đã về! Vân đã ở lại bên mẹ được hai tháng
qua.
Đó là một buổi trưa thứ bảy đầu xuân! Không ngủ trưa, lần này
Kha dắt xe ra cửa với ý định lờ mờ sẽ đến gặp Vân. Phải gặp Vân! Bởi hoặc nay
hoặc mai, biết đâu Vân sẽ khuất nẻo vĩnh viễn bên kia vòng đai trắng ngoài hậu
phương.
Tiếng một phụ nữa lanh lảnh, lời nói lên với tiếng cười lẳng
lơ:
- Anh sắp đi đâu đấy anh Kha?
- Chào cô Diễm.
Giọng thiếu phụ giằn xuống nũng nịu một cách đặc biệt:
- Anh đi đâuuu...?
Kha vẫn chưa dắt xe tiến lên được vì Diễm còn đứng chắn
ngang, chàng đáp:
- Tôi đi đằng này có chút việc, cô sang đây chơi?
- Vâng em sang thăm mấy người bạn cũ.
Tháy Diễm vẫn chưa đứng tránh sang bên, Kha miễn cưỡng hỏi
thêm:
- Cháu nhỏ vẫn ngoan chứ, sao cô không bế sang chơi.
- Cháu ngủ mà anh, anh đi đâuuu...?
Diễm né sang một bên và Kha dắt vội xe ra cổng miệng giữ nụ
cười lịch sự miễn cưỡng.
Đạp xe được một quãng đường thẳng, Kha quay lại tháy Diễm
cũng đã rẽ theo đường về. Kha biết câu “em sang thăm mấy người bạn cũ” của Diễm
là nói cho có chuyện, sự thực Diễm sang chỉ để gặp chàng.
Hãng lên đường sang Pháp, Hiển lên đường vào Nam đã được một
tháng. Kha hiểu việc trai gái đến tuổi này ở chung một nhà sao được nên trước
đây chàng đã định sau bữa tiệc tiễn hành khi trở về chàng sẽ chính thức hỏi Hiển
xin Miên làm vợ - ít nhất là vợ chưa cưới- để bạn ra đi yên lòng. Nhưng Miên đã
kín đáo lo việc đó trước, nàng xin được chính phủ cấp cho một phòng tại khu nữ
nhân viên ngay trong nhà thương. Thế là Kha chưa phải quyết định gì cả, chàng
nghĩ để rồi ngày Hiển học xong về phép, điều kiện kinh tế của chàng vững chắc
hơn, ngày đó sẽ hỏi và tổ chức lễ cưới ngay. Trong thâm tâm Kha càng quyết định
hỏi Miên làm vợ, bề ngoài chàng càng giữ vẻ điềm đạm.
Trước ngày Hiển lên đường vào Nam, Miên đã dọn đến chỗ ở
riêng của nàng trong nhà thương. Nàng để lại cho Kha dùng chiếc xe đạp nàng mới
mua. Kể từ đấy chiều thứ bảy hoặc ngày chủ nhật, Miên về thăm Kha và làm những
bữa ăn đặc biệt riêng cho hai người hay mời cả gia đình văn hóa cùng ăn.
Ông Ký Thản bên hàng xóm đã theo sở Mỹ vào Nam. Một thiếu phụ
một tay bồng con, một tay dắt con đến thuê căn trống đó: Diễm.
Với Kha, còn một minh chàng ở lại, căn phòng trở nên mênh
mông trống trải lạ, nhưng với Diễm thì trên đời này chẳng còn gì quyến rũ hơn
hình ảnh chàng trai chưa vợ sống một mình trong một căn phòng. Chồng nàng, người
chồng thứ hai, là một quân nhân đi vắng luôn... Kha lại hay làm việc khuya và bỏ
ngỏ cửa. Ngay hôm đầu dọn đến đây khoảng một giờ sáng sực dậy nhìn qua cửa sổ
sát bên giường nằm, Diễm còn thấy ánh đèn bên phòng Kha in dài một phiến vàng rộng
ra đến giữa sân. Nàng vờ đi tiểu, liếc mắt nhìn vào, Kha ngồi trước bàn cắm cúi
vừa viết vừa suy nghĩ, sách vở ngổn ngang bên tả bên hữu. Kha quả là một mồi
ngon mà Diễm tự cho là mình đã cầm lỏng trong tay. Ngày hôm sau Diễm làm quen với
Kha liền, nàng không gọi là “ông giáo” hay “anh giáo” gì cả, thân mật gọi luôn
tên chàng. Thoạt nàng ôm con đứng nói chuyện với Kha ở trước cửa phòng, rồi những
buổi tối nàng kiếm cớ vào tuột bên trong hỏi mượn Kha bao diêm, cái bút chì,
hay lọ mực. Thấy Kha không để ý gì đến “cánh cửa bỏ ngỏ” của mình, vẫn một điều
“thưa chị” hai điều “thưa chị” đã hơn một lần Diễm trở về phòng lẩm bẩm “Mặt
mũi thế mà ngốc tệ!” Thậm chí một đêm đã quá mười hai giờ khuya, Diễm vùng dậy
mở cửa ra sân đi vào phiến ánh sáng thoát ra từ phòng Kha, tì vai vào cửa, một
bàn tay đỡ lấy má, nghiêng đầu lẳng lơ nhìn Kha làm việc và nói:
- Anh làm việc khuya thế anh Kha.
- Vâng, thưa chị, làm việc ban đêm, tĩnh. Ban ngày tôi có làm
được gì đâu.
Kha đáp vậy rồi lại cắm cúi làm việc, Diễm thấy mình còn đứng
lại nữa thì trơ quá nên trở vào phòng, xung quanh nàng, nhà trên nhà dưới bốn bề
ngủ yên cả. “Rõ hoài, thằng ngốc! - Diễm nghĩ thầm, đay nghiến - Giá nó cứ vẫy
mình một cái, tắt đèn đi ế.. khép cửa lại... Thằng ngốc! Thằng ngốc!”
Thứ bảy Miên làm cơm. “Thì ra thế, chắc là thằng ngốc muốn
chung tình với con bé mặt mũi phúc hậu” - Diễm nghĩ.
II
Từ thuở mới mười lăm tuổi Diễm đã khát tình. Hồi đó Diễm còn ởquê
nhà, một huyện lỵ thuộc Kiến An. Diễm yêu một bạn trai cùng lớp và ngỏ ý với một
bạn gái khác: “Anh T. đẹp trai quá, tao muốn kết bạn với anh ấy!” Cô bạn gái
bèn đứng làm môi giới cho đôi bên thư từ và tặng ảnh nhau. Gần mãn niên học Diễm
bỗng khám phá được một cậu trai học dưới nàng một lớp, đóng kịch giỏi, ngâm thơ
hay, bèn tự ý tỏ tình. Cả hai lại cùng tập kịch rồi đóng kịch vào ngày phát phần
thưởng cuối niên học. Đôi bên lại tặng ảnh nhau và thư từ trao đổi suốt vụ hè.
Cho tới đầu niên học mới, gặp phải ông thầy hắc búa ra lệnh từ bảy giờ rưỡi chiều
trở đi học sinh bất kỳ nam nữ không được nhởn nhơ ngoài đường. Lại có kẻ mách lẻo
khiến ông biết hết chuyện viết thư tặng ảnh, ông gọi anh học trò con trai cùng
lớp tới hỏi vào giờ ra chơi, anh này hoảng viết thư cho Diễm đòi lại ảnh. Anh lớp
dưới cũng sợ lây và theo gương anh lớp trên viết thư đòi lại ảnh cùng tất cả những
bức thư đã viết trước đây. Diễm thoạt không chịu, hai anh lại đón đường dọa làm
ầm câu chuyện lên, nàng mới chịu. Năm sau Diễm thôi học. Thuở đó Diễm vẫn còn vẻ
người thanh như mai. Kế tiếp cũng có một vài cuộc phiêu lưu tình ái khác nữa
nhưng Diễm vẫn chưa hề được thỏa tình hoặc vì chàng trai nhát quá hoặc vì họ thấy
Diễm quá dễ dãi nên đâm hờ hững vì “chiến đấu không gian nan thắng lợi không
vinh quang”. Năm hai mươi tuổi Diễm xúc động vì đoạn cuối một bài tường thuật của
nhà phóng viên thể thao trẻ tuổi nọ mà sau này khi gặp gỡ nàng mới hay cũng là
một bạn học cùng lớp với nàng xưa. Đầu đề bài báo đó là: “Cuộc đua tài của
hai đội bóng tròn Olympic và Racing trên sân Mangin”. Nguyên văn đoạn kết như
sau:
“Thế là đôi bên quần thảo mãi tới phút sáu mươi tư của cuộc
so tài Racing mới phá được sự trinh bạch của màng lưới Olympic, nâng thành tỷ sổ
thắng lợi một không. ”
Bài tường thuật đã bị dư luận thủ đô lên án là dâm ô, chính
ông chủ nhiệm cũng phê bình gay gắt chàng phóng viên, ông có biết đâu vì bài
báo đó kèm theo một cái may khác gặp và nhận ra Diễm là bạn học cũ ở rạp xi-nê
Olympia mà chàng phóng viên đó đã trở thành nguời bạn lòng đầu tiên thực sự chiếm
hữu Diễm. Lẽ cố nhiên cuộc tình duyên phóng đãng đó chẳng kéo dài được bao lâu,
vì chàng phóng viên nào có lạ gì thành tích của cô bạn gái mình xưa. Có điều
đáng ghi là sau cuộc tình duyên này Diễm bắt đầu đẫy người. Bà hàng xóm vốn
không lạ gì tính Diễm phê bình một câu cay độc: “Gái bén hơi trai mà!” Mãi đến
năm hai mươi bốn Diễm mới lấy chồng thực sự. Người chồng nhà buôn này đã tử nạn
trong chuyến xe hàng bị mìn trên đường Phủ Lý Nam Định, đứa con đầu lòng còn
trong bụng mẹ. Sinh con được hơn ba tháng, có hôm đến thăm cô bạn gái, Diễm gặp
một chàng trai quân nhân cao khỏe là anh em bá thúc với cô bạn. Nhà này phòng
khách cách với phòng tắm chỉ có mấy tấm cánh cửa đã được đóng đinh. Diễm bèn
vào tắm nhờ, rồi vừa tắm nàng vừa nói chuyện trõ ra với cô bạn. Nàng kỳ cọ,
nàng vỗ vào da thịt, nàng xối nước. Khi ngừng câu chuyện nàng luôn luôn khen nước
mát. Mỗi lần xối nước là một lần nàng rùng mình và thở dài lớn, khoan khoái.
Lúc gần tắm xong nàng la lên với cô bạn: “Trời ơi, có để cho người ta tắm
không, nỡm, dòm gì? Đừng hé cửa gió vào, lạy đấy!”
Sự thực cô bạn Diễm khi đó đã vào sâu trong bếp có hề đứng ở
cửa buồng tắm đâu, Diễm chỉ cốt khích động chàng trai quân nhân ngoài phòng
khách (nàng góa chồng ngót một năm trời rồi còn gì). Và chàng trai quả đã bị
khích động. Chàng tìm đến tận căn nhà Diễm thuê, rồi thì thọt tới luôn, rồi Diễm
có mang. Tính ra trong vòng chưa đầy hai năm nàng đã có hai đứa con với hai đời
chồng. Chỗ ởcũ của Diễm xung quanh hàng xóm toàn các cụ các bà thế hệ trước, mọi
người thành thật nhìn nàng như quái vật, lời dè bỉu, thái độ dè bỉu công khai.
Một hôm vô tình ra phố Hàng Vôi, Diễm thấy có căn phòng cho thuê (căn của ông
Ký Thản vừa theo sở Mỹ vào Saigon) nàng vào găp mụ chủ trương, chuyện trò đon đả
như với người thân cũ, rồi hỏi thuê luôn và mang hai con lại ở gọi là để thay đổi
không khí. Nàng có viết thư báo cho người chồng quân nhân biết địa chỉ mới. Đến
chỗ ở mới, người xung quanh mới, dư luận mới, nàng thấy dễ thở hơn nhưng chỉ một
tuần qua, bất luận trai gái cứ khoảng từ mười sáu trở lên -tuổi đã biết nhận
xét suy luận- đều thấu hiểu nàng là một người đàn bà lẳng lơ quá cỡ. Thoạt dư
luận đó còn bàng bạc hờ hững chưa tạo nên áp lực nặng nề như ở chỗ cũ, nàng tin
rằng nàng còn thì giờ tấn công Kha. Nàng đã kịp ghi nhận đối thủ của nàng -
Miên, con bé mặt mũi phúc hậu- chỉ thứ bảy hay chủ nhật mới tới một lần (nghề của
Miên có những phiên gác bất tử. Nhưng đã mấy lần đợi khoảng đêm khuya thanh vắng
nàng đi vào phiến ánh sáng trước phòng Kha, tựa vào vai cửa, tì má vào ngón tay
trỏ uốn cong, lẳng lơ ra mặt, ướm hỏi Kha những câu rất bâng quơ, nhưng Kha chỉ
ngẩng lên trả lời vừa đủ lễ phép rồi lại cúi xuống cắm cúi viết. “Thằng ngốc! -
lần nào thất bại Diễm cũng nghiến răng nghĩ thầm thế - Trông mặt mũi thế mà ngốc!”
Dư luận nhũng người xung quanh đã muốn dè bỉu công khai nàng. Mấy lần ông Cai hềnh
hệch cười chào ỡm ờ khi nàng qua cửa phòng ông: “Áy chào côôô!”
Ngay sát căn nhà lớn này là một villa nhỏ gần như biệt lập vì
một bên là đường đi ra bờ sông, một bên là lối đi rộng có trồng những cây muỗm,
na, ổi đã khá cao, cành lá xum xuê. Ngoài cửa villa thấy có biển: “Nhà cho
thuê”. Dò la, Diễm được hay nhà đó trước có người tự tử nên cho thuê rất rẻ,
tuy nhiên gia đình thuê vừa rồi làm ăn lụn bại quá không dám ở nữa, trả lại chủ
nhà. Người chồng quân nhân về kịp lúc. Qua một đêm ân ái, Diễm tỉ tê bàn bạc với
chàng và chàng ưng cho nàng thuê villa bên, giá tiền cũng chỉ gấp đôi căn phòng
hiện thuê. Từ khi nàng ờ biệt lập nàng dễ thở mà những người xung quanh nàng
cũng dễ thở hẳn. Và vì xa nhau như vậy nên mọi người trở lại thái độ niềm nở và
lễ độ mỗi khi nàng bế con sang chơi. Sự thật nàng chỉ sang chơi khi biết đích
có Kha ở nhà. Đùng một cái có tin người tình thứ hai của nàng tử trận tại Ninh
Bình. Nàng buồn mất ba hôm, ba hôm nang không sang chỗ ở cũ để đưa mắt tống
tinh Kha. Nhưng rồi nỗi buồn đó cũng qua mau. Lý do: cái chết của người chồng
quân nhân kia không làm xáo trộn đến đời sống kinh tế của nàng, nàng đã có một
số vốn kha khá hùn với người cô buôn hàng tấm ở chợ Đồng Xuân, tháng tháng chia
lãi. Một chiều thứ bảy nàng sang chơi như thường lệ. Miên đương làm cơm trong bếp.
Kha đứng nói chuyện ngoài sân với Luận mới ờ nhà thương ra.
Diễm vừa nói chuyện với mụ chủ trương vừa theo theo dõi câu
chuyện giữa Kha với chàng thanh niên vạm vỡ đó mà nàng cũng rất ưng (Luận). Kha
hỏi Luận:
- Thế là viên đạn làm gẫy xương cánh tay bên phải của cậu gắp
ra rồi?
- Rồi! -Luận đáp.
- Và như anh Khiết nói thì cậu đã xin giải ngũ?
Luận gật đầu:
- Chắc chắn là được.
Cậu xin giải ngũ rất đúng lúc, công việc tòa soạn một mình
Lãng làm không xuễ, Lãng còn phận sự phải làm phóng sự và nhất là Lãng nhất định
chủ trương chỉ viết những gì chính Lãng đến tận nơi quan sát.
Ừ thì xương cánh tay gẫy ghép lại rồi, tay không cầm được
súng nhưng cầm nổi bút chứ! Sao anh Khiết chưa lại nhỉ?
-Sẽ có cả Tân nữa, Tân ờ Hưng Yên về, Khóa mới xuống thay,
căn trường xây cất cũng xong một nửa rồi (Luận đã một lần gặp Tân tại nhà báo
Văn Hóa).
Thấy hai chàng trai quá mải mê câu chuyện chẳng để ý gì đến
mình ngồi ở thềm cửa cũng gần đấy, Diễm tiến lên trong khi mụ chủ trương mỉm cười
tinh quái vào nhà.
- Chào anh Kha. Chào anh.
Câu “chào anh” thứ hai là Diễm chào Luận.
- Vâng chào cô - Kha đáp.
- Chào... cô! - Luận cũng tiếp theo và hiểu.
Diễm đã tới sát hai người hỏi một câu theo ý chợt đến trong
trí nàng:
- Chiều thứ bảy hai anh không đi xi nê?
Luận lắc đầu nhìn chòng chọc vào nàng:
- Không cô ạ. Xem cô thế này chẳng hơn ư?
Tuy thường xuyên thèm ái tình nhưng cái nhìn cùng lời nói của
Luận sỗ sàng quá, lúc khác thì được, lúc này Diễm không ưng, có lẽ tại Luận ở
bên Kha, nàng bèn cúi chào hai người rồi ra về.
- Đào nào thế mày? - Luận hỏi.
- Thuê nhà kế bên. Trước cùng ở đây.
- Mày có ngửi thấy mùi mồ hôi của en?
Kha phì cười không đáp. Luận tiếp:
- Mùi mồ hôi hăng hắc!
Kha lại bật cười nữa và nói:
- Như tiếng kêu khẩn cấp siêu âm của loài cái gọi loài đực
trong tạo vật!
- Ha ha đúng! ô kìa anh Khiết! Tân nữa.
Miên ở trong bếp vừa định ra chào thì tiếng Tân nói với Kha:
- Vân đã về!
Và tiếng Kha hốt hoảng làm Miên thấy đau thắt bụng và rã rời
chân tay:
- Thế ừ? Ồ Van!
Giác quan thứ sáu đã như báo trước phần thiệt thòi cho nàng.
Kha còn hỏi tiếp ngay:
- Anh thấy Vân ra sao?
Tân đáp:
- Vân cùng vừa bác Phán về làng thăm mộ Thi ra.
- Như vậy Vân phải về từ trưa?
Đúng, Vân về mới hay tin anh Hãng đã đi Pháp, Thi đã mất. Và
bác Phán cũng mới hay là Chủy vẫn mát tích, không thấy trở về ngoài đó.
- Ủa, năm kia Khóa đã gặp Chủy lúc Chủy vừa được tha ở
trại Hải Dương ra mà.
- Thì tôi cũng nhắc thế, bởi vậy mai tôi đưa Vân đi Hải
Dương đến nhà Đạo xem sao. Tôi cần gặp Đạo hỏi thăm tin tức làng nữa.
Tuy tiết trời cuối đông về chiều khá lạnh, Kha thấy nóng ran
người vì niềm xúc động thương Vân. Chàng nói:
- Để ăn cơm xong tôi đến thăm Vân ngay. Tội nghiệp!
Tiếng Khiết hỏi lớn:
- Cô Miên đâu? Hỏa đầu quân hôm nay cho ăn gì thế?
Miên vùng đứng dậy, nàng chấm vội hai giọt nước mắt (lúc đó
nàng mới biết là mình khóc) ra cửa bếp và chào lớn:
- Chào hai anh mới tới ạ. Hôm nay mời các anh xơi món
em mới học được, món bún bò. Xong cả rồi, để em dọn bát đũa lên.
Tân tiến tới hối hả:
- Để chúng tôi tiếp một tay chứ.
IV
Kha đã gặp Vân ngay buổi tối hôm đó, sau bữa ăn họp mặt của
gia đình Văn Hóa. Đôi mi mắt nàng còn đỏ mọng vì khóc. Kha kính trọng nỗi đau
khổ của Vân.
Tân đã rõ mối tình tan vỡ của Kha với Vân từ ngày đôi bạn dời
khỏi đồn điền Lợi Ký (Kha thủ thỉ thuật lại tất cả trên quãng đường vắng từ đồn
điền ra đường cái lớn). Sớm hôm sau, trước khi tới đón Vân, Tân tạt vào thăm
Kha, muốn kéo Kha cùng đi. Kha từ chối nói là không thể bỏ lớp được, nhưng khi
vào lớp, Kha thấy rằng mình nghỉ một buổi để cùng đi với Vân có sao đâu. Tuy
nhiên, chàng cũng không hối tiếc, còn cho là mình đã hành động khôn ngoan. Gặp
lại Vân lòng chàng xôn xao quá. Nên xa Vân! Nên xa Vân! Như thuốc nổ nên xa lửa.
Thấy bạn nhất định từ chối không chịu đi, Tân đến phố Hàng Vải
Thâm đón Vân, chàng lái chiếc traction 15 của Khóa. Khi Vân đã vào ngồi bên tay
lái của chàng, tự nhiên Tân thấy cảm động lạ. Bao nhiêu kỷ niệm buổi đầu kháng
chiến chàng theo lớp huấn luyện tăng gia sản xuất tại đồn điền Lợi Ký, xô dồn
chen chúc nhau xuát hiện không theo thứ tự gì hết trong đầu óc chàng. Cảnh mùa
đông mây xám nhìn qua những cành cây thưa lá, cảnh những lá vàng đuổi nhau
trong cơn lốc, cảnh Vân ngồi đan áo bên Thi, âm thanh rào rạt của của trận gió
khuya đương ra công quét sạch mây trời đêm ba mươi Tết đầu tiên Tân xa quê nhà,
xa mẹ, âm thanh nức nờ của bài ca “Nguyễn Thái Học”, âm thanh gọn nhẹ của chiếc
cành khô gãy trong đêm khuya và... và thốt nhiên Tân nhớ lại cả mối tình phi lý
với người đẹp gặp một lần ờ ga Thanh Ba, người con gái có nước da trắng mát, một
nốt ruồi đen, phải, một nốt tuồi đen trên gò má ế... Chiếc traction rùng mình
chuyển bánh, Tân như có rùng mình theo nhớ lại hình ảnh tưởng tượng con sông
đêm ở ga Thanh Ba, nước sông tuy có ướp muôn thứ hoa rừng, mùi thơm hoang dại
ngây ngô nhưng cũng biết quấn lấy thân hình ngà ngọc của cô gái đẹp mát như lụa.
Xe chạy ngược lên dốc Hàng Than, tiến ra bờ sông và lên cầu. Tân chưa dám hỏi
Vân điều gì. Khi xe qua Gia Lâm, rẽ vào đường số 5, đường vắng thênh thang, Tân
mới cùng Vân nói chuyện. Những câu hỏi đáp lễ phép xen vào những tiếng cười khẽ
xã giao. Những nhận xét của Tân về Vân khi chàng quay sang nhìn nàng hay khi vô
tình quan sát thấy ở đuôi mắt cùng những cảm nghĩ của chàng suốt trên đường đi
rồi trên đường về, đều rất lộn xộn y như những kỷ niệm đầu kháng chiến xô dồn
chen chúc vừa qua. Nhưng cảm giác chung là Tân thấy rạo rực, rồi hoang vắng, rồi
rã rời. Tân phải luôn luôn thức tỉnh với hình ảnh của Kha, người bạn mà chàng
quý mến nhất đời và luôn luôn tự nhủ “ý dâm còn tội lỗi hơn hành động dâm” để
tránh mọi sa ngã trong tinh thần.
Vân quả là trái nho mọng nhưng rắn chắc, chất ngọt dưới sức
nóng mặt trời đã chuyển sang chất đường cô đọng, răng người yêu khẽ cắn vào đậu
đều có thể làm vỡ ra dòng suối vô hình của hương thơm -hương ái tình- và chát
ngọt. Vân là vợ Chủy, trong thâm tâm Tân vẫn phủ nhận điều đó, nhưng Vân là người
yêu của Kha, sự thực này mới là điều ngăn cấm Tân tuyệt đối không được có ý
nghĩ tình ái về Vân, một sự phản bội tình bạn không thể tha thứ được. Tân nói
chuyện với Vân, thái độ nghiêm chỉnh như nói với vợ bạn. Với Tân, Vân chỉnh là
vợ Kha! ồ, Tân lại chợt nhớ đến mối tình của chàng với Ngoan, cô gái làng Hiền
Lương (quê hương của bà Âu Cơ?) nhớ đến cuộc đi chơi cùng nàng dưới ánh nắng
chói chan nhưng vắng lặng của miền rừng núi oi bức chập chùng, nhớ ngồi cùng
nàng dưới gốc lim trên con đường đi Ca Vịnh heo hút, nhớ có ôm và hôn nhẹ lên
má nàng sau khi đã giảm tắt đuốc bên bờ suối đêm ba mươi Tết, xa thật là xa có
tiếng vọng mùa xuân của con sông Hồng hùng vĩ. Mối tình thơ mộng thật đấy nhưng
đượm màu khắc khổ của kháng chiến, có thể đã để lại một vết cháy trong lòng Tân
nhưng là vết cháy nhỏ, Tân hiểu nếu Tân yêu Vân, lập tức tình yêu đó biến thành
đám cháy rừng. Tính Tân thận trọng, nhiều khi rụt rè nữa, thì sức sống tràn đầy
của Vân kia chính là điều Tân khao khát, bởi nếu quả thực Tân kết hôn với Vân,
cuộc hôn nhân sẽ thực hiện thế quân bình cho cả hai. Nhưng làm sao mà kết hôn với
Vân cho được? Vân là vợ Chủy, điều đó quan hệ gì, nhưng Vân lại là người tình của
Kha!
Tới Hải Dương Tân tìm ra nhà Đạo ngay. Chủy đã chết thực. Vân
ôm mặt thoạt kêu lên một tiếng rồi khóc nức, tiếng kêu đó làm ruột Tân quạnh
đau. Vợ chồng Đạo cho gọi người bán bánh mì, người này thuật lại cảnh Chuỷ bị
trúng đạn phi cơ... Vân muốn người bán bánh mì đưa nàng tới chỗ đó, nhưng người
này lắc đầu nói ông đã chôn vội tử thi ngay khoảng huyệt mới bốc mộ, rồi bàng
hoàng ôm con ra đi, nay không sao nhận được nơi ấy nữa.
Như vậy rồi còn ở lại Hải Dương làm gì? Tân đưa Vân về ngay mặc
dù vợ chồng Đạo vật nài hai người hãy nán lại ăn cơm trưa. Trên đường về đôi
môi Vân mím thành một đường cương quyết kết hợp một cách khắng khít với sống
mũi dọc dừa thẳng xuống theo một đường thanh tú vô cùng, đôi lúc nàng giơ tay
lên đỡ lấy đầu, khuỷu tay tì trên gối, cổ tay tròn, một viền đen làm tăng nước
da trắng hồng (giây đồng hồ). Tóc nàng hơi rối về phía trước khoảng rủ xuống
trán, khá mượt khoảng trên đầu, nhưng lại rối tơi bời, khoảng từ gáy tới ngang
vai. Tân an ủi, Vân trả lời gượng gạo, lời Vân nói tuy hướng thẳng tới Tân vì
Vân ngồi sát bên chàng, nhưng lời nàng thật nhẹ, nhẹ như lời nói của ai từ xa
theo gió vọng lại, tuy nhẹ như hơi gió thoảng nhưng lại rất rõ, rõ từng lời, từng
hơi thở ngừng, một lần Vân để xen một tiếng thở dài, Tân rùng minh tưởng như vừa
có cả hơi thở ấm của nàng phà lên gáy. Những hình ảnh cứ thánh thót lọt vào
nhãn giới Tân như vậy, nhất là gặp lúc đường vắng, cả hai cùng im lặng. Có lúc
Vân gục xuống thấp hơn nữa như muốn úp mặt trên đầu gối, khoảng eo thót lại,
hai đầu gối gập hơn nữa, một bàn chân với những ngón chân uốn cong tì trên guốc
tưởng như tuy nàng ngồi trên nệm mà sức nặng của cơ thể còn làm cong những ngón
chân đó. Hình ảnh nàng lúc đó đau khổ mà sượng sùng, vành môi mím lại càng
thanh, đường sống mũi càng thanh, hai đường lông mày càng thanh âu yếm che chở
bên trên cho đường thanh của hai hàng lông mi, đôi mắt mở vừa đủ để nhìn -nàng
nhin gì, nàng nhìn đôi chân hay nhìn vào tâm tưởng- miệng hé một chút rồi mím lại
ngay, gò má hơi rung chuyển làm lay động nhẹ vệt ánh sáng đọng trên đó. Xe đã
lên cầu, xe đã vào Hà Nội, thật là may xe đến nhà vừa đúng lúc, Tân không nào
chịu đựng sự tàn phá hơn nữa, cả tâm hồn chàng lúc đó là hình ảnh khoảng rừng
cây non tơi bời chịu bão.
Vân đã viết thư cho Hãng và đã được hồi âm. Dĩ nhiên nàng
khóc lóc khi đọc thư anh. Một lần Kha ướm hỏi Vân còn ở lại Hà Nội bao nhiêu
lâu nữa. Nàng chớp mắt giây lâu mới đáp khẽ là có lẽ đến sau Tết.
V
Gặp lại Kha, Vân không dấu tình nàng và tiếp nhận tình Kha
nhưng nhất định nàng tuột khỏi tay Kha. Thời con gái đã qua, Vân đã là đàn bà,
Vân chẳng lạ gì tính tình đàn ông, chính vì yêu Kha mà nàng cương quyết tuột khỏi
tay Kha. Nàng biết chỉ có cách ấy là bắt Kha phải tưởng nhớ đến nàng mãi mãi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét