Thứ Tư, 18 tháng 9, 2024

Bên dòng sầu diện 1

Bên dòng sầu diện 1

Vào chuyện
Khi tôi chào đời thì cái mà tôi cảm nhận được đầu tiên là mùi cháo lòng.
Buồng mẹ tôi nằm chờ đẻ nối liền với một chái bếp lợp giấy dầu. Trong bếp nồi cháo lòng sôi lục bục, bắn những tia bột dính như keo lên nắp vung mở hé. Mùi cháo lòng ngậy quá chừng! Lúc đầu tôi hớn hở hít lấy hít để. Thế rồi một cảm giác ngơn ngớn chạy dọc người tôi (tất nhiên vẫn trong tư thế nằm co) khiến tôi buồn nôn. Nhưng mà tôi không nôn được. Miệng tôi lúc ấy lòng thòng rất nhiều thứ dây dợ, dạ dày của tôi chỉ quen tiếp nhận, chưa bao giờ biết phản ứng ngược lại, vì thế tôi muốn khóc nhưng cũng không khóc được. Rồi tôi lại ngửi thấy mùi thơm thơm của thứ lục diệp đang ải dần trước sức nóng của chiếc nồi gang. Ấy là lúc bà tôi cho hành, rau răm, mùi tàu vào nồi cháo. Mùi thơm này nhanh chóng trở nên khó chịu vì mỗi lúc một ngai ngái, nồng nồng khiến tôi ngạt thở. Thế rồi một mùi tanh khủng khiếp lại ập vào mũi tôi. Ấy là lúc bà tôi đang lấy tay vét vét những vụn tiết, vụn mỡ, vụn rau bám trên thành chậu, những thứ còn sót lại sau khi dồi lòng. Cũng còn phải đến hơn một vốc tay. Nghiêng chậu, lại còn tới hơn một bát nước tiết nữa. Bà tôi úp cái chậu vào nồi tiết đang bốc khói, đập “cành cạch” lên thành nồi cho mọi thứ rơi vào khoảng mờ mịt của hơi nước. Lẳng cái chậu vào góc bếp, bà với lấy cái đũa cả to ngoáy nồi cháo theo chiều vun từ ngoài vào trong. Có vẻ như đã bằng lòng với nồi cháo cho buổi hàng của mình, bà nhặt hai mẩu rơm bện, gồng mình bê nồi cháo đặt sang một bên bếp. Bị giảm nhiệt, lập tức nồi cháo sôi nhỏ lại. Bà đi vào buồng mẹ đang nằm.
- Vẫn đau hả?
- Dạ...
- Bà Kim không ngồi trực được, về rồi. Mà cũng mấy ngày rồi còn gì. Chửa trâu rồi con ơi. Bước sang tháng ba tới cả chục ngày mà vẫn thế này thì tao cũng đến chịu. Thằng bố nó ở đâu, réo cho nó về.
Thì ra tôi đã ngửi thấy mùi cháo lòng từ mấy ngày hôm nay rồi. Cửa mình của mẹ tôi đã hé lộ vài chục tiếng đồng hồ mà tôi vẫn còn vương vấn cái chỗ nằm êm ái, ấm áp này, không chịu tòi ra. Bà tôi bảo: Tao thỉnh cha Phăng rồi, sáng nay cha sẽ đến cầu kinh cho mau ra.
Ngay sáng hôm ấy tôi được nghe giọng đọc ê a của một người đàn ông ngoại quốc. Ông ta ngồi ở gian ngoài nên tôi không rõ mặt. Giọng ông ta ấm, hơi trầm, rất da diết, như là để cho riêng tôi nghe, như là đang thủ thỉ tâm tình với tôi mặc dù tôi chẳng biết làm như thế là để làm gì? Buổi đầu tôi bị hấp dẫn ghê gớm bởi giọng đọc của người đàn ông được gọi là Cha Phăng này. Ông bảo với tôi: Này, chú bé ơi, mẹ chú là người ngoại đạo nên ta đọc bài Kinh Tín Kính trước, lòng tin được thắp lên trong lòng mẹ chú rồi, lúc ấy Chúa mới nghe thấy lời cầu nguyện của mẹ chú được. Thế rồi ông ta đọc. Lẩm nhẩm nhưng hào hứng. Tôi nằm nghe từ đầu đến cuối.
Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất. Tôi tin kính Đức Chúa Giê Su Ki Tô là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà người xuống thai, sinh bởi bà Maria đồng trinh, chịu nạn thời Phongxiô-Philatô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng, ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các thánh thông công.
Tôi, Phạm thị Mến, người đàn bà tội lỗi xin phép tha tội.
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại Tôi tin hằng sống vậy.
Amen.
Đọc xong bài Kinh Tín Kính, người đàn ông có tên là Cha Phăng hình như dừng lại, ngó vào căn buồng mẹ tôi đang nằm chờ sinh. Tôi thích thú lắm, mắt lim dim chờ nghe cha Phăng đọc tiếp. Sau một lúc im lặng cha Phăng bảo: Bây giờ tôi đọc Kinh Thú Nhận cho mẹ chú đây. Chúa sẽ tha tội và con trai thân mến ơi, con hãy chui ra nhé.
Ô hay! Tại sao tôi lại là con trai của ông được? Thì ta là Cha Phăng, Cha của mọi giáo dân kia mà. Sao ông vừa bảo mẹ tôi là người ngoại đạo? Mẹ tôi không phải là giáo dân, mẹ tôi không phải là con của ông, tôi cũng không phải là con của ông. Chú bé ngang bướng ơi, ừ thì ta không gọi chú là con trai của ta nữa. Bây giờ ta đọc kinh đây, chú hãy mau mau chui ra cho mẹ chú khỏi đau đớn nhé.
Và giọng đọc của cha Phăng lại bắt đầu cất lên.
Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng, và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những lời thiếu sót. (Hình như cha Phăng dừng lại để đấm ngực. Tôi nghe thấy tiếng bình bịch phát ra từ nắm tay của ông) Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Vì vậy tôi xin Rất Thánh Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các Thiên Thần, các Thánh và anh chị em khẩn cầu cho tôi trước tòa Thiên Chúa, Chúa chúng ta.
Amen.
Tôi nghe thấy tiếng bước chân của bà. Bà tiến đến chiếc giường nơi mẹ tôi nằm. Bà đưa tay lên sờ trán mẹ rồi lui xuống cuối giường, vén chiếc vỏ chăn đắp ngang bụng mẹ lên. Bà nhìn tôi bằng con mắt mệt mỏi và chán nản. “Dịch ra nhiều, cứ thế này rong huyết mà chết mất thôi”. Hình như mẹ tôi lấy sức để rặn. Cửa mình của mẹ hé lộ to hơn nhưng tôi chưa muốn rời bỏ chỗ nằm tuyệt vời này dù đầu tôi đang bị dốc ngược ra. Tôi cố níu kéo cuộc đời thai nhi trong khi mẹ và bà cứ muốn đẩy tôi ra. Bên ngoài kia là cái gì? Là nồi cháo lòng mà tôi phát kinh tởm mấy ngày nay ư? Là cha Phăng với giọng đọc như hát ru ư? Là bà Kim đỡ đẻ với giọng nói the thé luôn miệng giục mẹ tôi “Răng đi, rặn đi” mấy ngày vừa qua ư? Là bà tôi với hai bàn tay từng vét những vụn tiết, vụn mỡ lại đưa lên vuốt ve người tôi ư? Không, tôi nằm trong này được rồi. Đừng đẩy tôi ra nữa. Tôi đang ở trong tư thế khó chịu lắm. Sao mẹ không thương tôi, mẹ cứ cố sức đẩy tôi ra làm gì thế này? Và giọng đọc của cha Phăng lại cất lên kia kìa. Cha bảo gì với tôi cơ? “Thú nhận tội lỗi rồi thì phải ăn năn. Bây giờ ta đọc bài Kinh ăn năn tội cho mẹ chú bé đây, đừng nằm mãi trong ấy nữa nhé, chú bé hãy chui ra đi, Chúa sẽ ban cho chú cuộc sống, một cuộc sống đủ đầy và hạnh phúc, nghe không?”. Cha Phăng lại đọc. Hình như mẹ cũng lắng nghe những lời cha đọc. Khi lắng nghe mẹ không rặn nữa, mẹ để tôi yên, tư thế tôi ngồi đỡ khó chịu hơn.
Lạy Chúa, Chúa là Đấng trọn tốt, trọn lành vô cùng, Chúa đã dựng nên con và cho Con Chúa ra đời, chịu nạn, chịu chết vì con, mà con đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa, thì con lo buồn đau đớn cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi sự. Con hết lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa thì con sẽ tránh xa dịp tội cùng làm việc đền tội cho xứng.
Amen.
Đến lúc này thì tôi buồn ngủ. Tôi đã chán giọng đọc ê a, rầu rĩ của cha Phăng rồi. Khi cha Phăng đọc sang đến bài Kinh phù hộ thì tôi ngủ béng đi mất. Tôi ngủ rất lâu. Chỉ đến khi tôi nghe thấy hàng trăm tiếng đại bác nổ, nổ liên hồi, nổ dồn dập, nổ rền vang, nổ đanh xé, nổ dữ dội, nổ kinh khiếp thì tôi giật mình tỉnh dậy. Chân tôi đạp mạnh. Và tôi thấy ngột ngạt. Tôi tìm thấy hơi thở thoáng đãng ở phía cửa mình của mẹ. Tôi toài về phía ấy. Hình như mẹ tôi rùng mình. Rồi toàn cơ thể mẹ căng cứng lên, ép thành một luồng hơi mạnh, từ từ đẩy tôi ra. Tôi lại thấy ngột ngạt quá. Tôi đạp mạnh một cái nữa và đầu tôi chui tọt ra khỏi cửa mình mẹ. Tiếng đại bác vẫn nổ liên hồi. Tiếng sắt thép va vào nhau, tiếng xèo xèo của nhiệt độ nung chảy kim loại, tiếng vỡ toác, tiếng đổ sụp và cả tiếng hô xung phong nữa, tất cả theo dòng dư chấn từ ngàn dặm xa xôi ùa về khiến tôi hoảng hốt đẩy mình bật lao ra khỏi mẹ. Một đôi bàn tay rất mềm đỡ lấy đầu tôi, rồi vai, rồi lưng, rồi chân... Tôi khóc thét lên. Bao nhiêu những dây dợ lòng thòng quanh người tôi được đôi bàn tay mềm mại kia lau chùi sạch bách. Riêng có một thứ dây gắn với rốn tôi thì khi lấy đi có làm tôi hơi đau một tí. Thế là tôi chấm dứt cuộc sống thai nhi của mình. Thế là tôi bắt đầu một cuộc sống mới, cuộc sống như cha Phăng nói, là do Chúa ban cho. Đôi bàn tay mềm mại kia quấn quanh người tôi một thứ vải nhẹ và xốp. Sau đó tôi được trao cho mẹ. Không bao giờ tôi còn gặp lại đôi bàn tay mềm mại thần tiên đó nữa. Ngay hôm sau bà Kim sung vào đoàn dân công tiếp viện cho chiến trường Điện Biên. Hàng vạn tiếng nổ trong đêm tháng ba u huyền ấy đã đẩy bật tôi ra chào đời. Những tiếng nổ còn tiếp tục kéo dài trong mấy chục ngày sau nữa. Có một tiếng nổ đã cắt đứt cuộc đời bà Kim.
Vậy mà khuôn mặt đầu tiên tôi nhìn thấy lại không phải là khuôn mặt của bà Kim. Trong khi người đàn bà ấy đưa tay ra đỡ lấy tôi thì tôi còn đang mải khóc, mắt nhắm tịt lại nên không nhìn thấy nét mặt bà thế nào? Tôi chỉ ngừng khóc và mở mắt ra nhìn khi nghe thấy một tiếng nựng rất nhỏ nhưng ngọt ngào, cơ hồ như phát ra từ một làn gió thoảng trong không gian chật hẹp của căn buồng nồng nặc mùi cháo huyết. Và khuôn mặt của mẹ đập vào mắt tôi. Một đôi mắt to với những đường viền sắc nét rợp dưới bờ mi sũng nước. Cánh mũi cao chạy dài xuống bờ môi hơi mỏng và héo. Tôi nhìn thật lâu vào một chấm đen khó hiểu bên cánh mũi trái của mẹ. To bằng con ruồi, không, to bằng con ngươi mắt đang mở ra, tròn xoe, của tôi. Chiếc mụn ruồi ấy tạo nên một nét rất riêng nhưng cũng có nghĩa là đã can thiệp một cách thô bạo vào hệ thống thẩm mỹ của khuôn mặt mẹ. Nhưng tôi yêu chấm đen ấy ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tôi oe oe, ngọ nguậy và khi được mẹ bế lên tôi đã cố đưa tay sờ vào nốt ruồi trên mặt mẹ. Mẹ úp mặt tôi vào mắt mẹ, tôi đã đưa đôi môi non nớt của mình hôn vào chấm đen bên cánh mũi trái. Mẹ của tôi đã được định vị một cách rõ nét. Chấm đen trên mặt mẹ là khoảng sáng duy nhất không bao giờ tắt trong cõi lòng đôi khi có những lúc u tối của tôi.
Bà lập tức chạy vào nhà thờ để báo tin cho cha Phăng biết. Nhưng khi bà vào đến nơi thì cha Phăng vừa lên xe vào Tòa Sứ cũ để nghe thông báo về tình hình Việt Minh tấn công Điện Biên Phủ.
Mãi đến gần trưa hôm sau cha Phăng mới đến nhà tôi để xem mặt “đứa con của Chúa”. Trước khi cha Phăng bước vào buồng mẹ con tôi nằm, bà chặn cha ở cửa nói nhỏ điều gì đó. Cha Phăng vừa nhún vai, vừa “ô ố, la lá” rồi cúi người bước nhanh vào. Việc làm đầu tiên của cha Phăng là ông bế tôi lên đi ra phía bếp nơi có ánh sáng ngày tràn trề để nhìn tôi cho rõ. Tôi nhận thấy ánh mắt của ông nhìn lên mái tóc tôi, rồi nhìn sâu vào đôi mắt tròn xoe của tôi, sau đó tiếp tục nhìn qua cánh mũi, nhìn xuống làn da... Ông có một cử chỉ như là lắc đầu, rồi cất lên câu nói quen thuộc: “A men, lạy Chúa tôi!”. Tóc tôi màu đen, mắt tôi màu đen, mũi tôi hếch và hơi tẹt, da tôi vàng, không có một chút liên hệ gì với cái giống người Tây Ban Nha của cha cả. “Bé con! Con đúng là con của Chúa dù Chúa chưa bao giờ giáng sinh dưới lốt da vàng, mắt đen, mũi hếch. Thế là Thị trấn Nét Mặt Buồn lại thêm một tiểu thần dân, xứ đạo lại thêm một tín hữu, và ta lại có bổn phận chăn dắt thêm một con chiên lạc. Dẫu sao thì ta cũng rất yêu con, con trai, à không, cậu bé tóc đen của ta ạ”.
Bây giờ tôi mới có dịp nhìn rõ nét mặt cha Phăng, người đàn ông đã đọc kinh cầu nguyện cho tôi ra đời. Đầu ông hơi hói, tóc hất ngược ra phía sau có màu hung hung vàng. Mũi ông khoằm khoằm chạy giữa hai vệt mắt màu nâu xám. Ông có hàm răng rất đẹp, trắng và đều tăm tắp. Hình như ông có râu quai nón nhưng đã được cạo nhẵn nhụi. Cằm ông lõm, khi cọ vào má tôi tạo cảm giác hơi gồ ghề. Từ người ông tỏa ra một thứ mùi rất khó xác định. Sau này tôi mới biết đó là mùi hoa hồng. Tôi rất thích ngửi mùi này nhưng nó lại làm tôi ngạt. Tôi ngọ nguậy, nhăn nhó, mặt méo xệch như muốn khóc. Thứ mùi xa xỉ từ cha Phăng phải đến ba mươi năm sau tôi mới được ngửi lại. Ngửi trên một thân xác đàn bà đã từng trải qua rất nhiều người đàn ông. Cha Phăng thấy tôi phản ứng một cách khốn khổ bằng vẻ mặt sơ sinh nhàu nát liền bế tôi trả về chỗ mẹ. Cha hôn lên trán mẹ rồi bước ra khỏi căn buồng tối tăm, ẩm thấp. Bà tôi đi theo đằng sau cha ra tới tận chỗ để xe như để được nghe cha nói điều gì đó. Nhưng cha Phăng không nói gì cả. Đến khi ngồi lên xe rồi, cha mới chợt quay lại hỏi:
- Cô Mến định đặt tên đứa trẻ là gì?
Bà vội nói như giãi bày:
- Con muốn để cha rửa tội và đặt tên cho đứa bé nhưng con Mến nó bảo nó sẽ tự đặt tên. Thưa cha, con Mến gọi con nó là Minh Việt.
- Minh Việt à? - Cha Phăng nhún vai - Có vẻ như gợi nhắc đến những tên Việt Minh đang đánh nhau trên Điện Biên Phủ. Chúa đã chứng kiến sự trong sạch của tôi. Thằng bé thuần túy là một đứa trẻ An Nam. Nhưng Chúa sẽ ban phước lành cho nó. Thôi, chào bà.
Cha Phăng đi rồi, bà quay vào tiếp tục dọn dẹp đống bát đũa còn đang nằm lỏng chỏng trên bàn. Buổi bán hàng của bà đã xong. Nồi cháo lòng trơ vỉa cháy ố vàng. Còn một khúc ruột dài bằng gang tay, hình móc câu, được bà đặt vào bát mang xuống bếp dành làm thức ăn cho bữa trưa. Mẹ tôi nhìn thấy khúc lòng ấy bỗng ứa nước miếng. Bà liền đặt nó lên thớt thái từng miếng nhỏ, gạt vào bát rồi mang đến bên giường cho mẹ. Mẹ tôi gượng ngồi dậy, lưng tựa vào tường, bốc ăn hết chỗ lòng một cách ngon lành.
Bố tôi là ai? Câu hỏi ấy đang lởn vởn trong đầu cha Phăng, bà, và cả tôi nữa. Cha Phăng đã đúng khi liên tưởng giữa cái tên Minh Việt với bố tôi. Lúc ấy bố tôi đang đánh trận ở Điện Biên Phủ. Trong lúc bố tôi đang gào lên những tiếng hô xung phong, ông không hề biết rằng, một sự tiếp nối từ ông đã được bắt đầu ở nơi đây, quê nhà của ông - thị trấn Nét Mặt Buồn.
Bốn mươi năm sau, trong đoàn giáo chức quốc tế đến dự lễ ở nhà thờ An Lạc có một Đức giám mục tên là Phờrăngxoa đờ Bêhiêng. Trong bài nói chuyện không cần phiên dịch, cha Bêhiêng có kể rằng, năm lên 8 tuổi ông được theo Cha bề trên lên tàu thủy vượt đại dương đi truyền đạo. Sau sáu mươi mốt ngày lênh đênh trên biển, ông nhìn thấy một dải đất màu xanh nằm ở cuối đường chân trời. Ông hỏi Cha bề trên: Dải đất kia là xứ nào? Cha bề trên bảo: Đó là xứ An Nam, nơi chúng ta sẽ đến khai hóa và truyền đạo. Hai ngày sau cha Bêhiêng đặt chân lên dải đất mà ông đã nhìn thấy từ ngoài khơi. Ông đã ở lại đó hai mươi nhăm năm, nơi ông ở và hành đạo chính là thị trấn An Lạc này, thị trấn mà ông vẫn gọi bằng cái tên Nét Mặt Buồn. Còn giáo dân ở đây thì gọi ông một cách giản dị là: Cha Phăng!
Nhưng hãy khoan gặp cha Phăng sau bốn mươi năm cách biệt vì với tôi lúc này, sau khi chui ra khỏi cửa mình của mẹ, việc đầu tiên là phải tìm hiểu xem ai là bố tôi?
Phần 1- Những tháng ngày xa - Chương 1
Mục tiêu tấn công là ngôi nhà hai tầng khá rộng, phía sau có vườn cây và cổng ra vào. Mặt trước ngôi nhà là phố Tứ Phủ, bên kia đường là dãy nhà dân ở. Phố này không rộng lắm, khoảng sáu, bảy mét chiều ngang.
Nguyên Bình nhận ngay ra đó là hiệu Lúa Vàng của cha con nhà Phán Quý. Trông thế thôi chứ vào bên trong rất rộng. Trên gác hai kia có một phòng riêng của Tuấn Thành, cậu út nhà Phán Quý. Nguyên Bình đã từng đặt chân vào căn phòng ấy và ăn hết liền một lúc hai cặp bánh phu thê...
- Nguyên Bình! Chuẩn bị xong chưa?
- Báo cáo anh Hồng, xong rồi ạ.
Anh Hồng thò mặt vào hỏi rồi vụt biến sang phòng khác. Tổ ba người của Nguyên Bình được bố trí ở gác hai của một ngôi nhà nằm ở phía sau hiệu Lúa Vàng, cách một mảnh vườn có tường bao bọc. Anh Hồng là tổ trưởng, được giữ khẩu Mút cơ tông với hơn chục sắc sê, mỗi sắc sê có năm viên đạn. Hai tổ viên còn lại mỗi người được giữ một con dao găm. Nguyên Bình rất thích thú với con dao được cắm trong vỏ gỗ anh Hồng đưa cho, mấy lần định rút ra xem nhưng lại sợ anh Hồng nhìn thấy, cười, nên thôi. Nguyên Bình đã được học qua các thế vung, đâm, chém, đỡ do các anh chỉ huy thị vệ dạy nhưng chưa bao giờ cầm dao thật cả. Bây giờ thì được chính thức phát dao rồi, nghĩa là vào trận rồi, và Nguyên Bình đang thực hiện nhiệm vụ cao cả của một đội viên thị vệ.
Tiếp nhận căn gác này xong, anh Hồng bố trí cho Nguyên Bình ở một buồng nhỏ, có lẽ là buồng tắm, có cửa sổ trông sang nhà Lúa Vàng. Nguyên Bình rất phấn khởi, căng mắt ra quan sát mục tiêu ngay, nhưng nếu chiến sự xảy ra thì Nguyên Bình làm được gì từ cửa sổ này nhỉ? Chẳng lẽ khi nghe xung phong thì trèo qua cửa sổ, tụt xuống dải tường bao kia rồi nhảy xuống vườn cây, xông vào nhà? Mà thôi, anh Hồng sẽ giao nhiệm vụ cụ thể. Đội viên thị vệ không được thắc mắc, không được hỏi lại, không tỏ ý sợ sệt, ngại khó. Người của cách mạng đôi khi phải có huyễn tưởng phi thường về mình.
- Này, lại gọi loa rồi. Sau lần gọi này anh sẽ ngang nhiên đi thẳng vào chỗ chúng nó, bắt chúng nó phải đầu hàng.
Anh Hồng lại thò mặt vào buồng tắm nói với Nguyên Bình. Nguyên Bình tròn xoe mắt nhìn hai khẩu súng ngắn giắt hai bên hông của anh Hồng. Một khẩu Nguyên Bình nhận ra là Colt Harfort, khẩu còn lại không biết là Mauser, Browning, Unique hay An Hỏa? Tất cả các loại súng ấy Nguyên Bình mới được làm quen có một tuần nay, gọi loại này còn nhầm sang loại kia. Nhìn hai khẩu súng trước bụng anh Hồng, Nguyên Bình thấy anh oách quá, giá Nguyên Bình cũng được một khẩu như thế thật chẳng còn gì sướng hơn.
- Chỉ huy họp rồi. Anh sẽ cùng một đồng chí bên lực lượng Cảnh sát xung phong xông vào đầu tiên. Phải ăn mặc chỉnh tề, vũ khí đầy đủ cho chúng nó trông thấy mà mất tinh thần.
- Anh sẽ xông vào theo lối cửa trước hay cửa sau?
- Cửa trước chúng nó đóng chặt rồi, cổng sau còn đang mở. Chú đứng trên này sẽ nhìn thấy anh. Thôi anh đi đây.
Anh Hồng bước được vài bước lại quay lại bảo:
- Nguyên Bình, chuyển khẩu Mút cơ tông bên phòng anh về chỗ chú. Cửa sổ phòng chú đặt súng được đấy. Còn nhớ động tác bóp cò không?
- Dạ, em nhớ.
Nguyên Bình trả lời trong nỗi sung sướng đến nghẹt thở. Anh Hồng bước qua phòng bên, lát sau xách khẩu súng sang cho Nguyên Bình. Nguyên Bình đón lấy một cách kính cẩn rồi đặt lên bệ cửa sổ. Chà! Chĩa súng ở chỗ này thật thuận. Nhà Lúa Vàng sẽ ăn đủ sấm sét từ ô cửa nhỏ này.
- Thôi, anh đi nhá.
Anh Hồng chào Nguyên Bình lần nữa rồi mới bước đi. Hình như anh đi có phần hơi gượng nhẹ? Bộ quần áo màu vàng anh mặc trên người còn rất mới. Cả đôi giày da dưới chân nữa. Chắc vừa mới mượn của ai đó? Đôi giày rõ là kích so với chân anh. Nhưng anh cố tạo ra dáng đi tự nhiên. Người anh hùng vào hang bắt cọp phải thế chứ. Có oai linh mới khiến lũ Quốc Dân đảng đang trốn chui trốn lủi trong hiệu Lúa Vàng kia cụp mắt xuống, không dám ngẩng đầu lên. Nguyên Bình nín thở nhìn theo anh Hồng khi thấy bóng anh xuất hiện dưới đường. Có một người nữa từ trong một ngôi nhà nhỏ bước ra, bắt tay anh Hồng rồi đi sóng đôi cùng với anh. Người này cũng ăn mặc giống anh Hồng, hai khẩu súng để trễ trước bụng. Họ đi vòng ra phía nhà kho rồi bước thẳng vào cổng sau nhà Lúa Vàng. Họ đang bước một cách hùng dũng nhưng trông cứ như đi dạo vậy. Tới sát cổng rồi. Vẫn im ắng. Chắc chúng nó sợ. Trời càng về chiều càng trở nên oi bức. Mấy tán cây trong vườn nhà Phán Quý lặng như tờ. Không có một gợn gió nào cả. Có khi vào đến nơi thằng nào thằng ấy vãi đái ra rồi cũng nên. Bước qua cổng. Im lặng. Ôi, ước gì được đi cùng với anh Hồng lúc này nhỉ? Chỉ lát nữa thôi bọn Quốc Dân đảng sẽ quỳ lạy như tế sao, hai tay dâng nộp vũ khí, mồm lắp bắp những câu đầu hàng, lúc ấy thú phải biết! Bỗng “đoàng... đoàng... ù... chéo”. Súng từ trong nhà Lúa Vàng khạc lửa ra chiu chíu. Anh Hồng đang đi bỗng nhảy dựng lên, giật giật mấy cái, hai tay chới với vừa như cố rút súng ra lại vừa như muốn bám víu vào một cái gì đấy. Chân anh vừa như muốn bước lại vừa như cố trụ lại để đứng cho vững. Chiếc mũ vải trên đầu anh bị hất bay đi. Nguyên Bình tưởng gió giật nhưng khi nhìn kỹ lại thì ôm mặt không dám nhìn nữa. Đầu anh Hồng lúc này như một quả dưa nứt, máu trộn với một thứ dịch trắng như cháo loãng ứa ra. Anh Hồng đổ từ từ theo chiều xoay của kim đồng hồ, khi nằm soài ra đất rồi tay anh vẫn còn giật giật ở phía trước bụng. Chắc anh muốn móc khẩu súng ra. Có lẽ anh chưa từng được bắn khẩu Colt Harfort lần nào? Cả đôi giày da kia nữa, lần đầu tiên Nguyên Bình nhìn thấy anh đi. Bây giờ thì máu loang khắp người anh, phần trên cổ anh là một bãi bùng nhùng. Hộp sọ đã mở ra, không khí ùa vào, lùa hết mọi thứ phòi ra, bết nhuyễn với tóc, phủ xuống đất, trông xa như một con sứa biển mắc cạn.
Một cảm giác sợ hãi lần dọc người Nguyên Bình, tập trung về mang tai. Đánh nhau là thế này ư? Trong những lần tập luyện ở chân núi Cô Hồn, Nguyên Bình chỉ thấy sự lấm láp của đất cát, sự nhễ nhại của mồ hôi chứ chưa thấy máu bao giờ, chưa thấy cái đầu bị bửa đôi nó ra làm sao. Bên trong cái cơ thể đẹp đẽ như thế của con người lại có những dạng vật chất gây khiếp đảm cho thị giác như thế kia ư? Những ngày làm việc ở Phòng thông tin tuyên truyền Nguyên Bình được anh Hồng dạy cho viết, vẽ, cũng có nói đến chuyện cái chết nhưng cái chết ẩn sau câu chữ nó khác xa với cái chết trực quan như thế này. Trong Phòng thông tin Nguyên Bình là người trẻ nhất. Lúc đầu Nguyên Bình ở đội trống ếch. Đó là những tháng ngày đẹp đẽ và huy hoàng nhất của tuổi niên thiếu. Với chiếc quần soóc xanh trắng, với khăn quàng đỏ, Nguyên Bình nện trống thùng thình đi đầu trong các buổi mít tinh cổ động cho Bầu cử cho Tuần lễ vàng, cho phong trào Khỏe vì nước, cho Bình dân học vụ... Một buổi, anh Hồng đến gặp Nguyên Bình và hỏi:
- Em đã học đến lớp mấy?
Nguyên Bình thưa:
- Em có bằng Sơ học yếu lược.
Anh Hồng bảo:
- Tốt rồi. Em theo anh đi làm tuyên truyền nhá?
Làm tuyên truyền là gì? Nguyên Bình chả biết nhưng cứ đi theo anh Hồng dần dần rồi cũng hiểu ra việc mình làm. Anh Hồng bảo viết thì viết, bảo vẽ thì vẽ, bảo đi dán “tờ dài ở trên, tờ vuông ở dưới” thì đi dán, bảo làm thơ thì cũng tập làm thơ. Có lần mấy chị bên Phụ nữ muốn nhờ Phòng thông tin làm hộ cho ít thơ để đi tuyên truyền, anh Hồng bảo:
- Nguyên Bình về nghĩ ra thơ, mai nộp cho anh nhé.
Nguyên Bình về nghĩ mãi không biết viết như thế nào. Bỗng nghe nhà hàng xóm vẳng đưa sang mấy lời ru của người mẹ trẻ, liền nảy ra thơ. Thơ như thế này:
Chồng em khố rách em thương
Vì theo cách mạng giết phường xâm lăng
Chồng người quan “ách chi đằng”
Theo Tây vênh váo dở thằng dở ông
Mai ngày cách mạng thành công
Lon “ách” rơi xuống, khố bồng lên trên
Nguyên Bình đưa thơ cho anh Hồng, anh khen hay, lại còn bảo:
- Có một bài thôi à? Làm luôn mấy bài một thể chứ.
Được anh Hồng khen Nguyên Bình thích quá, hôm sau lại mang đến một bài thơ nữa, bài Thách cưới anh lính bảo an binh. Anh Hồng thú lắm, đọc oang oang cho cả phòng nghe:
Anh về thưa với mẹ cha
Nghe em thách cưới để mà liệu đây
Thách anh quay súng giết Tây
Thách anh một phát xuyên ngay ba thằng
Thách anh diệt hết xâm lăng
Thách anh khí thế đằng đằng lập công
Thì em nhất định theo không!
Những năm sau này thỉnh thoảng Nguyên Bình còn được đọc lại những bài thơ của mình trên nhiều nội san chép tay, trên cả báo in, các tờ áp phích, tranh cổ động, truyền đơn... Nguyên Bình bỗng trở thành cậu em út tài hoa nhất Phòng thông tin tuyên truyền. Nhưng rồi tình hình càng ngày càng xấu đi. Anh Hồng thông báo cho cả phòng biết như sau: Dựa thế Quân đoàn 50 của Tưởng Giới Thạch, cha con nhà Lúa Vàng cấu kết với một số thành phần Quốc Dân đảng trong chính quyền như Ủy viên phụ trách tư pháp Trần, Ủy viên phụ trách kinh tài Nguyễn ngang nhiên thành lập một trung đội tự vệ chủ yếu là binh lính cũ và con cái các nhà tư sản. Bọn này đang không ngừng xây dựng cơ sở và củng cố lực lượng. Bên thị vệ các anh ấy đang chuẩn bị thành lập tiểu đoàn 90 Giải phóng quân. Sẽ lấy người bổ sung từ các nơi. Phải chuẩn bị đánh nhau thôi. Ai muốn gia nhập thị vệ thì đăng ký cùng với tôi.
Nguyên Bình giơ tay xin theo ngay lập tức. Làm cái anh tuyên truyền chỉ là chạy vòng ngoài của chính sự. Phải gia nhập lực lượng vũ trang mới đáng mặt nam nhi thời loạn. Anh Hồng hỏi Nguyên Bình:
- Nguyên Bình bao nhiêu tuổi?
Nguyên Bình trả lời:
- Em vừa mới bước sang tuổi mười bảy được gần một tháng.
- Thế thì chưa đủ tuổi vào thị vệ. Nhưng được rồi, anh sẽ khai thêm cho chú một, hai tuổi. Vào thị vệ rồi lại càng phải gương mẫu hơn, nghe chưa?
- Dạ.
Thế là hai anh em rời khỏi Phòng thông tin tuyên truyền để trở thành những thị vệ quân. Tập luyện được có hơn một tuần, hôm nay thị vệ kết hợp với người của Ty liêm phóng tấn công nhà Lúa Vàng, trụ sở của bọn Quốc Dân đảng phản động.
Có lẽ không ai biết Nguyên Bình đã từng vào ra nhà Lúa Vàng rất nhiều lần, hơn thế còn là bạn thân của cậu út Tuấn Thành. Học xong yếu lược tiểu học Nguyên Bình nghỉ, còn Tuấn Thành vào thành phố học tiếp trường Bô-nan. Có một lần trước khi Cách mạng nổ ra, Tuấn Thành đi xe tay đến nhà Nguyên Bình. Tuấn Thành rủ:
- Đi sang phố chơi đi?
Nguyên Bình định trèo lên xe nhưng Tuấn Thành bảo:
- Mày ăn mặc thế này không được, chưa ra người lớn, nhà cô đầu nó không cho vào.
Nguyên Bình lại chạy vào trong nhà mặc chiếc áo trứng sáo mới may hồi Tết. Trông có vẻ chững chạc hơn, khi quay ra Tuấn Thành gật đầu, kéo lên xe. Tới đầu phố Tuấn Thành gọi thêm một chiếc xe tay nữa, hai đứa ung dung ngồi xe chạy thẳng một mạch sang ngõ Cấm. Tuấn Thành chụp chiếc mũ cát lên đầu, đi thẳng lên gác hai. Người đàn ông gác cổng chỉ nhìn lướt qua hai đứa, không nói năng gì. Lên tới gác hai, một người đàn bà chạy ra, vồn vã hỏi:
- Hai thầy hát luôn hay hút xong mới hát?
Tuấn Thành bảo:
- Không hút, hát luôn.
Người đàn bà liền dẫn hai người vào một buồng nhỏ nằm ở phía trong của căn gác. Trong buồng, có một người con gái độ hai nhăm tuổi đang ngồi trên chiếu, cây đàn đáy và chiếc trống chầu xếp cạnh nhau, để sát chân tường. Người kỹ nữ hỏi:
- Các thầy cầm dùi được chứ?
Tuấn Thành bảo:
- Gọi thêm một cô nữa gảy đàn cho vui, tôi sẽ cầm dùi.
Cô gái gật đầu, đưa tay ra gõ gõ vào bức vách ngăn. Lát sau thêm một cô gái nữa đi vào. Hai cô vừa đàn vừa hát, Tuấn Thành thỉnh thoảng gõ trống theo nhưng toàn sai nhịp, chẳng ăn nhập gì với lời ca cả. Có vẻ như đã biết được trình độ ăn chơi của hai chàng công tử, các kỹ nữ cũng hát một cách rời rạc, mắt cứ lóng la lóng lánh, nhìn như thôi miên vào khách ra chiều chờ đợi chuyển sang trò khác. Một cô cứ thỉnh thoảng lại vạch áo ở ngực ra, gãi gãi, còn một cô cứ vén quần lên, phô ra bắp chân tròn lẳn, trắng muốt. Nguyên Bình đứng dậy tìm chỗ đi giải. Cô vén quần vui vẻ đứng dậy dẫn đi. Cô ta đứng chờ Nguyên Bình đi tiểu xong, khoác vai, hôn đánh chụt vào thái dương rồi hỏi giọng nũng nịu:
- Các thầy chẳng muốn hát, các thầy muốn vui vẻ phải không?
Nguyên Bình chẳng biết trả lời thế nào, người run bắn lên. Tới chỗ cầu thang, cô ta ôm chặt lấy Nguyên Bình, hổn hển:
- Thầy đi về phía này, vào phòng ngủ của em nhé?
Mùi đàn bà xộc vào mũi, thân nhiệt của cô gái truyền sang người làm Nguyên Bình hốt hoảng. Nguyên Bình vội gạt phăng cô ta ra, chạy thục mạng xuống tầng dưới. Ở tầng dưới, người ra kẻ vào đông đúc, chẳng ai để ý đến vẻ mặt đang tái đi của Nguyên Bình. Bỗng Nguyên Bình nhìn thấy Tuấn Thành cũng đang ngơ ngác nhìn quanh tìm mình. Ánh mắt hai đưa gặp nhau, mừng quá, cả hai vội kéo nhau ra cửa gọi xe tay về thẳng An Lạc. Tới hiệu Lúa Vàng, Tuấn Thành bảo:
- Vào đây chơi đã, về làm gì, còn sớm.
Hai đứa đi thẳng vào trong nhà, lên gác hai, vào phòng của Tuấn Thành.
- Tao sợ quá - Nguyên Bình bảo - Bọn ấy làm điếm là chính, hát là phụ, che mắt thiên hạ thôi.
Tuấn Thành kể:
- Lúc mày đi rồi, cô ấy bảo: “Thầy xem hộ chỗ này trong áo em có cái gì vướng quá”. Tao tưởng thật, vừa đưa tay ra thì cả hàng cúc bấm bị giật tung, hai bầu vú sà xuống, nảy tưng tưng. Trong lúc tao đang bối rối thì cô ấy cầm tay tao lên đặt vào một bên vú. Eo ơi, mềm và ấm quá nhưng tao ngượng chín cả người, vội bỏ đấy chạy ra ngoài. Gặp bà chủ ở dưới gác đi lên, hỏi: “Thầy cần gì?”. Tao bảo: “Thôi, phải về, hôm nay ông bô không cho đi muộn”.
Nguyên Bình bảo:
- Tao tưởng mày biết hát chứ hóa ra mày cũng ngu ngơ như tao à?
Tuấn Thành bảo:
- Đây là lần thứ hai, lần trước con ông Kí Tơ bên phố dẫn tao đi. Bây giờ đám ca kỹ hỏng hết rồi. Chúng nó đói quá nên muốn bán hai bầu vú để nuôi thân. Mấy chục hàng ở ngõ Cấm giờ chỉ còn vài hàng thôi.
- Thế con ông Kí Tơ có chơi được cái ấy không?
- Được. Nó không dát như tao với mày.
Nguyên Bình muốn hỏi thêm nữa nhưng lại ngại. Thực ra lúc áp sát cô kỹ nữ Nguyên Bình cũng đã nghĩ đến việc thử khám phá mình xem như thế nào bởi cậu biết cậu động dục từ năm ngoái lại nay rồi. Nhưng một nỗi sợ hãi mơ hồ bỗng xuất hiện, lan tỏa khắp người cậu, ngăn cậu lại. Chẳng lẽ Tuấn Thành cũng thế sao?
- Tao cũng muốn thử một cái nhưng không hiểu sao khi nhìn thấy bộ ngực với hai đầu vú thâm sì cùng khuôn mặt nhăn ố, nhàu nhĩ của cô ấy tao lại kinh. Đến gần mới thấy cô ta già lắm mày ạ - Tuấn Thành nhỏ giọng thì thầm vào tai Nguyên Bình
- Ừ, nhìn chung là bẩn, lại lắm bệnh lậu, cũng kinh thật - Nguyên Bình phụ họa theo - Bây giờ tao đói quá, mày có cái gì thế kia?
Tuấn Thành đứng dậy, tới bên chiếc bàn cầm lên mấy cái hộp nhỏ:
- Bánh Phu Thê đấy. Mấy khách hàng mua gạo của nhà tao biếu đấy mà. Mày ăn đi.
Quả thật chưa bao giờ Nguyên Bình nhìn thấy loại bánh này. Bên ngoài là một lớp bột mỏng có màu trắng phơn phớt xanh, bọc bên trong là nhân đỗ, dừa, hạt sen, vừng, dinh dính nhưng ăn rất ngon. Mỗi hộp có hai chiếc làm thành một cặp. Tuấn Thành bảo: “Bánh này người ta vẫn dùng trong các đám hỏi, đám cưới”. Nguyên Bình ăn hết một cặp rồi vẫn còn thòm thèm. Tuấn Thành đưa tiếp hộp khác vào tay Nguyên Bình, bảo: “Ăn nữa đi, còn nhiều, cả một làn dưới nhà, tao chỉ ăn một cái là kinh, để đây rồi cũng lại vứt đi thôi”
Đó là hai cặp bánh Phu Thê đầu tiên mà Nguyên Bình được ăn trong đời. Hiệu Lúa Vàng của nhà Phán Quý vốn nổi tiếng với rất nhiều mặt hàng. Nào gạo, đường, rượu, đỗ xanh, nấm hương, mộc nhĩ, nhìn chung các mặt hàng lương thực đều được bán ra từ đây, mà mặt hàng nào cũng là hạng nhất cả. Người ta đồn đại về sự giàu có của nhà Lúa Vàng khắp mọi ngõ xóm, không biết đâu là hư, là thực. Nghe bảo biểu tượng mấy nhành lúa vàng chóe dài tới nửa mét ở cửa nhà Phán Quý đều là vàng mười cả, còn số tiền mà Phán Quý cất trong kho chở cả một chiếc tàu thủy không hết. Người ta còn bảo toàn bộ khuy cúc trên bộ quần áo đi học của cậu út Tuấn Thành đều được làm bằng vàng thật. Cả chiếc khuy cặp đựng sách vở to bằng nửa bàn tay mà Tuấn Thành vẫn xách hàng ngày cũng là vàng nốt. Có khi vàng còn được dát cả dưới đế giày của con nhà Phán Quý nữa cũng nên. Thế nhưng tính tình của cậu út lại rất dễ chịu, không có vẻ hách dịch, hợm của như mấy ông anh trai. Hồi cùng học đồng ấu với nhau, Nguyên Bình thấy Tuấn Thành rất hiền. Cũng có người đưa đi, rước về, cũng vòi vĩnh đủ điều nhưng đến lớp Tuấn Thành thường nô đùa, vui chơi tự nhiên với đám học trò nghèo. Cả thị trấn An Lạc có một trường tiểu học của người Pháp mở nhưng giáo viên là người Việt. Trong thời gian học ở trường này Tuấn Thành luôn là học trò giỏi. Tuấn Thành hay chơi với Nguyên Bình, có cái gì cũng mang cho, nhưng sau này nhà Nguyên Bình nghèo nên không theo lên được nữa. Từ ngày Tuấn Thành sang phố học, hai đứa ít gặp nhau. Sau đận đi hát ả đào được ít lâu thì Cách mạng nổ ra. Nguyên Bình quên bẵng mất gia đình nhà Lúa Vàng. Đến khi trở thành đội viên thông tin tuyên truyền Nguyên Bình mới lại nghĩ đến Tuấn Thành vì hay nghe anh Hồng nói tới việc “trụ sở của bọn Việt Nam Quốc Dân đảng đóng ở hiệu Lúa Vàng”.
Con trưởng nhà Lúa Vàng có một lần tìm đến Phòng thông tin tuyên truyền. Hôm ấy Nguyên Bình đang ngồi hý hoáy dán biểu ngữ, thấy anh trai Tuấn Thành bước vào, theo thói quen vẫn lễ phép thưa:
- Em chào anh Cửu. Anh tìm ai thế?
Cửu là con trai trưởng của Phán Quý. Có lẽ anh ta không nhận ra Nguyên Bình. Có bao giờ anh ta để ý đến lũ bạn của Tuấn Thành đâu. Thấy Nguyên Bình vồn vã, ra chiều quen biết, anh ta đành phải nở một nụ cười trước khi hỏi:
- Ông Hồng phụ trách tuyên truyền của Việt Minh đâu?
Nguyên Bình bỏ dở việc cắt dán, đứng dậy bảo:
- Anh ngồi đây để em vào báo cáo với anh Hồng. Anh ấy sẽ ra ngay.
Khi anh Hồng ra gặp Cửu, Nguyên Bình đứng ở gian trong lắng nghe hai người nói chuyện. Nguyên Bình nghe thấy Cửu bảo:
- Ông phụ trách tuyên truyền của Việt Minh, tôi phụ trách tuyên truyền của Việt Nam Quốc Dân đảng. Mời ông sáng mai đến hiệu Tân An chúng ta tranh luận một số vấn đề, phân rõ phải trái.
Anh Hồng bảo:
- Được, nhưng không mang theo vũ khí, không đi quá ba người.
Cửu không nói gì, quay ra, lên xe đi về luôn. Hôm sau Nguyên Bình được anh Hồng cho đi cùng đến hiệu Tân An để gặp Cửu. Cửu đi có một mình, mặc com lê trắng, cà vạt đen, đang ngồi chờ ở bên chiếc bàn nhỏ, đối diện có một chiếc ghế trống. Anh Hồng ngồi vào chiếc ghế trống đó, còn Nguyên Bình đứng đằng sau. Cửu không thèm để ý đến ai là người đi theo anh Hồng, hỏi luôn:
- Tại sao tờ Sao Trắng của chúng tôi luôn bị bóc đi, các ông muốn độc quyền tuyên truyền phải không?
Anh Hồng trả lời nhỏ nhẹ:
- Tưởng chuyện gì chứ chuyện này chả đã giải quyết xong rồi đấy thôi. Bây giờ đảng phái nhiều, năm bè, bảy mối làm sao chúng tôi giữ được. Tôi đã đề nghị anh cử người đến cùng thường trực ở Phòng thông tin với chúng tôi kia mà, anh không chịu hợp tác sao lại còn trách tôi?
Nhìn nét mặt Cửu lúc này thấy lộ rõ vẻ khó chịu nhưng trước sự nhã nhặn của anh Hồng, Cửu chưa có cớ gì để hạch sách. Không để cho Cửu kịp nghĩ ngợi thêm, anh Hồng lại nói tiếp:
- Thôi, chuyện đó bỏ qua, không nên nhắc lại nữa. Anh cho tôi biết vấn đề mà chúng ta cần bàn luận là gì? Anh mời tôi đến đây để trao đổi về công việc tuyên truyền của hai đảng, chúng ta cùng bình tĩnh lắng nghe ý kiến của nhau, anh đồng ý thế chứ?
Cửu bảo:
- Tôi yêu cầu thế này, một là không nói chuyện Liên Xô và thế giới, hai là không đả động đến lịch sử của bất cứ nước nào. Còn bây giờ anh trả lời cho tôi ba điểm, một là Việt Minh không thân Pháp sao lại để cho Pháp đi lông nhông ở Hà Nội, hai là Việt Minh nói lo cho dân, sao đồng bào còn nhiều người đói ăn thiếu mặc mà chẳng chịu mở kho ra phát chẩn cho dân như chúng tôi vẫn làm, ba là Việt Minh nói đoàn kết dân tộc sao Ủy ban không có người của Việt Nam Quốc Dân đảng?
Nguyên Bình nghe Cửu nói, không ngờ anh chàng bụng phệ, dáng đi ục ịch, mặt mũi toàn thịt là thịt kia cũng am hiểu chuyện dân nước đến thế. Hóa ra Quốc Dân đảng cũng rất quan tâm đến chuyện cách mạng. Mà chuyện cách mạng là chuyện gì? Chính Nguyên Bình cũng còn đang rất lơ mơ.
Anh Hồng bảo:
- Tôi xin trả lời anh thế này. Thứ nhất, những người lính Pháp qua lại trên đường phố Hà Nội là những tên lính chạy trốn quân Nhật sang trú ngụ bên Tàu, nay xin chính phủ cho phép tạm nghỉ trên đất ta để chờ ngày về nước. Thứ hai, làm gì cũng phải có thời gian, việc lo cho dân đủ ăn, đủ mặc là việc lâu dài của cả nước, không thể làm xong trong ngày một ngày hai được. Thứ ba, trong thành phần của Ủy ban có ông Trần và ông Nguyễn phụ trách tư pháp và kinh tài là người của ai anh thừa biết sao lại bảo là không có người của Việt Nam Quốc Dân đảng?
Hai người còn tiếp tục bàn luận sang một số vấn đề nữa, cuối cùng Cửu bảo:
- Thôi được rồi, kỳ sau sẽ tranh luận thêm, những gì chúng ta đã thống nhất, hai đảng cứ thế mà làm.
Lúc anh Hồng đứng lên, quay ra cửa, Nguyên Bình cố ý đi lùi lại sau để hỏi Cửu về Tuấn Thành. Nhưng Cửu không tiễn mà quay lưng đi thẳng vào phía trong cửa hiệu Tân An. Bây giờ thì cha con Phán Quý cùng một lũ những bọn Đội, Thừa, Ký, Quản đang cố thủ trong căn nhà có biểu trưng cây lúa vàng kia. Anh Hồng đã nằm im dưới gốc cây dâu da trong vườn nhà Phán Quý, tay không còn giật giật nữa. Hình như có tiếng hô rất to ở đâu đó và tất cả các khẩu súng được bố trí quanh hiệu Lúa Vàng cùng lúc vãi đạn như trấu. Súng từ trong nhà Phán Quý cũng bắn ra dữ dội. Một viên đạn nổ xẹt qua cửa sổ chỗ Nguyên Bình để khẩu Mút cơ tông, Nguyên Bình hét lên: “Anh Hồng ơi!” rồi chợt nhớ ra là anh Hồng không còn ở bên cạnh để chỉ dẫn mọi điều cho mình nữa. Có một người thò đầu vào, bảo:
- Hãy trả thù cho anh Hồng, bắn đi!
Thế là Nguyên Bình ôm lấy cây súng và bắn thẳng vào cửa sổ gác hai nhà Phán Quý, nơi phòng ở của Tuấn Thành. Trời đã chuyển sang tối. Cái người lúc nãy lại thò đầu vào, bảo:
- Cậu bắn khá lắm, cứ tiếp tục đi nhưng dè xẻn đạn thôi.
Nguyên Bình bình tĩnh trở lại, chỉ con ba sắc sê đạn nữa thôi, sức chống cự của cha con nhà Phán Quý cũng đã yếu dần, không còn bắn mạnh như trước nữa. Nguyên Bình chậm rãi rê đầu súng đến những chỗ có ánh sáng lọt ra, bóp cò từng phát một.
Giữa những tiếng nổ thỉnh thoảng có một khoảng lặng khiến Nguyên Bình thấy trong người căng thẳng đến ngột ngạt. Nguyên Bình lắng nghe thấy dưới vườn nhà Phán Quý có tiếng động mạnh như tiếng cào cuốc đất liền chĩa súng vào chỗ đó nhả đạn. Tiếng động lại càng phát ra mạnh hơn, hối hả, gấp gáp, cái người lúc nãy cũng nghe thấy, vác súng trường chạy sang, bảo với Nguyên Bình:
- Phải bắn mạnh vào chỗ có tiếng động, có khi chúng nó định đào hầm tẩu thoát.
Thế là cả hai cùng chĩa súng vào chỗ phát ra tiếng động, bóp cò liên tục. Vài phút sau không còn nghe thấy gì nữa, chắc có thằng chết ở đấy rồi, Nguyên Bình thầm nghĩ thế.
Mãi tới nửa đêm gần về sáng Nguyên Bình mới nghe thấy những tiếng hô xung phong ào lên từng đợt, từng đợt ở dưới đường. Cảnh sát xung phong và thị vệ đã tràn được vào hiệu Lúa Vàng rồi. Cái người cầm khẩu súng trường chạy đi đâu nãy giờ, bỗng lại ló đầu vào và bảo:
- Này, toàn bộ lực lượng ở đây được lệnh vượt tường xông vào, cậu không nghe thấy gì à?
Nguyên Bình liền ôm súng chạy theo anh ta. Hóa ra số người nằm trong nhà này cũng phải tới một tiểu đội chứ không ít. Tất cả trèo qua cửa sổ tầng một của ngôi nhà, vượt tường, băng qua vườn cây tiến thẳng vào cửa sau nhà Phán Quý. Đang chạy Nguyên Bình bỗng vấp phải xác một con ngựa chết. Nguyên Bình đã nhận ra đó chính là con ngựa trắng mà Phán Quý vẫn dùng để kéo xe chở thóc gạo từ các vùng quê về. Con ngựa này đã gây ra tiếng động vào lúc chập tối và Nguyên Bình đã phải tiêu tốn cả sắc sê đạn vào nó. Nguyên Bình có ý tìm xác anh Hồng nhưng loạt người vào trước đã mang anh ra ngoài rồi.
Nguyên Bình cùng một vài người nữa phá cửa để vào nhà trong lúc nhiều người khác tìm cách trèo qua cửa sổ tầng một để đột nhập vào bên trong. Khi cánh cửa được bẩy tung ra, Nguyên Bình là người lao vào đầu tiên. Nguyên Bình nhìn thấy một người ngồi trên ghế bành, quay lưng lại, liền dí mũi súng vào đầu, hô to:
- Giơ tay lên!
Chả hiểu sao tên này vẫn ngồi yên không nhúc nhích. Nguyên Bình chọc súng xuống cổ hắn, hất mặt lên. Mắt hắn nhìn chằm chằm vào Nguyên Bình. Một đôi mắt mờ đục, thất thần.
- Anh Cửu!
Nguyên Bình bật thốt lên. Người đàn ông ngồi chết trên ghế bành chính là Cửu, con trai trưởng của nhà Phán Quý. Lúc này mọi người tiếp tục ùa vào và lao lên gác, phá cửa tầng hai của ngôi nhà. Nguyên Bình tranh thủ sờ nắn khắp xung quanh người Cửu nhưng không thấy có vết máu nào cả. Anh ta đã chết vì sợ, vì cắn lưỡi hay vì uống thuốc độc? Nguyên Bình không còn thời gian để mà suy xét nữa, tự nhiên nghĩ đến Tuấn Thành, trong lòng thoáng một chút lo âu. Nguyên Bình liền bỏ Cửu đang từ từ đổ vật xuống thành ghế để lao lên gác hai. Cả một đống người nằm ngồi ngổn ngang. Nguyên Bình nhìn thấy Tuấn Thành ngồi nép ở góc trong cùng. Tất cả những người còn sống sót đều bị trói giật cánh khuỷu. Họ bị giải đi trước con mắt của Nguyên Bình. Khi đi ngang qua Nguyên Bình, Tuấn Thành có vẻ như muốn nói điều gì đó song lại thôi. Nguyên Bình nhìn thấy những giọt nước mắt còn vương trên má của cậu ta...
Thế là trận đánh đã kết thúc. Tự nhiên Nguyên Bình muốn bỏ súng, bỏ tất cả để chạy về nhà với mẹ. Quả thật nếu lại phải đánh nhau như thế này nữa, lại phải nã đạn bửa đôi đầu những kẻ như cha con Tuấn Thành ra nữa thì Nguyên Bình ớn lắm. Kẻ thù hóa ra lại là những người vốn thân quen với mình như thế này sao? Cứ tưởng sẽ phải đánh nhau với bọn lính trọc hay lũ mắt xanh mũi lõ chứ phải bắn vào lũ Việt gian này Nguyên Bình chẳng thấy sướng tay cho lắm. Nhưng mà chính chúng nó đã giết anh Hồng. Chúng nó độc ác thế, sao lại run tay trước chúng nó, sao bỗng dưng lại giảm sút ý chí chiến đấu đi như thế? Nguyên Bình đâm hoang mang, không dám nghĩ tiếp nữa. Anh Hồng thì đã chết rồi, còn trước mặt, Tuấn Thành đang lầm lũi bước đi, trông thật tội. Cả hai người ấy Nguyên Bình đều yêu mến và chẳng muốn ai phải chết. Nhưng ý muốn của Nguyên Bình thật đơn lẻ và lạc lõng vào lúc này. Sự thể đã xảy ra rồi, chẳng thể cứu vãn được điều gì nữa. Tuấn Thành sẽ được đưa lên Khu trong nay mai và tòa án quân sự sẽ xử bắn nó mất thôi. Xung quanh, mọi người đã rút hết. Nguyên Bình cũng bước xuống dưới nhà, lẳng lặng đuổi theo cho kịp mọi người. Khẩu súng bây giờ được kéo lê trên mặt đất, hắt lên những âm thanh lạnh tanh giữa lòng phố.
Hôm sau, tất cả những người tham gia trận đánh được ăn một bữa cơm mừng chiến thắng chủ yếu với những món chế biến từ con ngựa chết trong vườn nhà Phán Quý.
Nguyên Bình nhai phải một đầu đạn bằng ngón tay. Cả một bên hàm tê dại. May chỉ mẻ có một chiếc răng hàm.
Cơm xong, Nguyên Bình có tên trong danh sách những người áp giải bọn phản cách mạng về Lãng Tiên giao nộp cho cấp trên.
Có bốn mươi ba tên phản cách mạng cả thảy. Một tiểu đội đi theo áp giải. Tiểu đội trưởng là anh Mộc. Anh chính là cái người đã xách súng trường sang chỗ Nguyên Bình, cùng nã đạn bắn chết con ngựa trắng nhà Phán Quý.
Chương 2
Trung đoàn hỗn hợp thuộc Quân đoàn 50 của Tưởng Giới Thạch chỉ vì đi diễn tập xa có mấy ngày, khi trở về thì toàn bộ lực lượng Quốc Dân đảng ở thị trấn An Lạc bị tiêu diệt.
Lũ giặc trọc bèn cố vớt vát bằng cách rải lực lượng ra bao quanh thị trấn, lấy cớ bảo vệ sự an toàn cho An Lạc tìm mọi cách giải cứu những phần tử Quốc Dân đảng đang mắc nạn.
Chính vì vậy tiểu đội của Nguyên Bình được lệnh phải gấp rút đưa bốn mươi ba tên phản cách mạng vượt sông sang Lãng Tiên ngay trong đêm, trước khi trời sáng.
Tất cả đang ngủ lập tức bị đánh thức dậy. Anh Mộc đôn đáo khắp nơi, chỉ kiếm được một chiếc thuyền gỗ nhỏ, mỗi chuyến may ra chở được mươi người. Anh Mộc quyết định nhanh: Qua sông thành năm chuyến, mỗi chuyến chở mười tên phản cách mạng và hai thị vệ viên đi theo áp giải, cố gắng tập kết toàn bộ ở phía bên kia sông trước khi quân Tàu cho lính tới kiểm soát bến đò.
Mấy chục tên phản cách mạng ngồi lẫn trong đám cói um tùm sát mép sông. Tất cả đều bị trói chặt. Tuấn Thành ngồi cách xa bố khoảng dăm mét, trời tối nên không nhìn rõ khuôn mặt của Phán Quý lúc này thế nào. Gió sông ào ạt thổi tới khiến Tuấn Thành tỉnh táo hơn dù hai cánh tay vẫn đau nhức. Tuấn Thành đã bớt sợ nhưng cái đói và sự khó chịu luôn dày vò cậu. Họ sẽ đưa đoàn người đi đâu đây? Chẳng lẽ cả nhà sẽ chết sau đận này ư? Họ đã lục xét, thu giữ toàn bộ giấy tờ, tài liệu ở hiệu Lúa Vàng. Nhưng còn một thứ họ không sờ đến. Đó là chiếc va ly học sinh của Tuấn Thành. Nếu họ mở chiếc va-ly này ra thì chắc chắn họ sẽ ngạc nhiên bởi trong đó có khá nhiều tài liệu Mác-xít. Tuấn Thành đã đọc chúng một cách giấu diếm và thường đem những gì đọc được ra tranh luận với bố. Phán Quý bây giờ đang ngồi kia. Ông đang nghĩ gì? Mười lăm năm về trước chính ông cũng đã suýt chết sau cuộc khởi nghĩa bất thành. Cả đời ông đi làm cách mạng, con cái ông cũng được hướng cho đi làm cách mạng. Nhưng sao lắm cách mạng thế? Cách mạng nào là đúng? Cách mạng nào là sai? Cách mạng nào là cách mạng chân chính? Cách mạng nào là không cách mạng? Ông Phán Quý ơi, ông đang bị dẫn lên đoạn đầu đài đấy. Người ta sẽ bắn chết ông như bắn chết một con chó vì ông là một trong những tên đầu sỏ của cái tổ chức đã lỗi thời, bị coi là phản cách mạng. Hiệu Lúa Vàng nhà ông từ nay vĩnh viễn không bao giờ còn xuất hiện như một thương hiệu uy tín nhất vùng An Lạc này nữa. Tuấn Thành bỗng ứa nước mắt. Trong những câu chuyện kể hàng đêm, có bao giờ Tuấn Thành hình dung ra một ngày nào đó bố mình lại phải khoác lên đầu một cái ách khủng khiếp đến thế. Ông là người của cách mạng từ rất sớm kia mà?
Phải, Phán Quý là người của cách mạng từ rất sớm. Vào quãng những năm hai bảy, hai tám, các ông Khanh, ông Được, ông Dự về An Lạc xây dựng một tổ chức cách mạng bí mật. Tổ chức này đấu tranh cho dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Các ông này được phân công như sau: ông Khanh vận động các nho sĩ, lý dịch, hào phú ở nông thôn. Ông Được vận động trong giáo giới. Ông Dự vận động trong công chức, binh lính. Người được ông Dự vận động đầu tiên trong công chức là Phán Quý.
Vài năm sau An Lạc ra đời một loạt chi bộ Quốc Dân đảng như chi bộ giáo giới, chi bộ công chức, chi bộ lính khố đỏ, chi bộ Văn đẩu, chi bộ Kha Lâm, chi bộ Đồng Tải, rồi Lạng Côn, Đức Phong, Kim Đới, Thái Ngơi, Đông Thông... Các chi bộ lãnh đạo phong trào lên rất mạnh. Nhiều chi bộ còn lập căn cứ địa, mở xưởng sản xuất vũ khí. Ở xưởng của ông Phồn thuộc chi bộ Đồng Tải còn sản xuất được cả bom. Vỏ bom đúc bằng gang và đất nung, trong ruột có chất nổ lẫn với mảnh chai, mảnh bóng đèn, dây thép cắt vụn. Bom sản xuất ra được cất trong hang núi Cột Cờ. Tết Nguyên Tiêu năm ba mươi, đảng bộ Quốc Dân đảng An Lạc quyết định khởi nghĩa đánh cướp tỉnh lỵ.
Rằm tháng Giêng năm ấy các lực lượng tham gia khởi nghĩa đều đã tập kết đúng vị trí, khí thế đằng đằng, chỉ cần nhìn thấy pháo hiệu và lửa đốt ở đầu núi Cột Cờ là nhất loạt xông vào chiếm Tòa sứ và Dinh tuần phủ. Ông đội Cay được phân công vận động lính khố đỏ tạo phản. Lực lượng Kha Lâm do ông tổng Hộ chỉ huy, tập kết tại khu chùa Đồng. Lực lượng Văn Đẩu do ông Lý Chủ chỉ huy tập kết tại quán Tổng Thiềng. Lực lượng Đồng Tải do ông Phồn chỉ huy, mang theo bom, tạc đạn tập kết ở chân núi Cột Cờ, khi thấy pháo hiệu từ trại lính khố đỏ bắn lên thì đốt lửa trên đỉnh núi làm hiệu lệnh cho các nghĩa sĩ xuất trận.
Trăng sáng vằng vặc. Ông Phồn cùng với một số thân binh đem vàng hương lên đình Đẩu Sơn làm lễ thành hoàng. Đã qua hai mốt giờ mà vẫn không thấy pháo hiệu từ trại lính khố đỏ bắn lên. Các nhóm nghĩa sỹ đều căng mắt nhìn lên đỉnh ngọn Cột Cờ nhưng không thấy ánh lửa. Đến gần nửa đêm thì các nhóm lục tục cử người đến núi Cột Cờ để hỏi ông Phồn xem vì sao tình hình lại không diễn biến theo hiệp đồng. Ông Phồn cũng chẳng biết sự biến ở Tòa sứ, Dinh Tuần phủ và trại lính khố đỏ ra sao mà im ắng đến sốt cả ruột? Đúng lúc ấy có một chiếc xe ngựa hối hả lăn bánh theo con đường dẫn lên đỉnh núi. Khi nhìn thấy người đàn ông ngồi trên xe bước xuống, ông Phồn cùng mấy chục thân binh, nghĩa sĩ liền đổ xô lại.
- Phán Quý! Tình hình thế nào? Sao lại yên ắng thế? - Ông Phồn lên tiếng hỏi.
Người đàn ông từ trên xe ngựa bước xuống chính là Phán Quý, bí thư chi bộ Quốc Dân đảng trong hàng ngũ công chức. Phán Quý nói nhanh:
- Một đảng viên trong chi bộ tôi làm phản, đã hé lộ cơ sự với chánh sứ Béc-sông. Chánh sứ ra lệnh cho giám binh bố trí lực lượng phòng bị khắp nơi, lại báo cho quan ba trưởng trại lính khố đỏ cấm trại từ chập tối, thu hết vũ khí cho vào kho. Kế hoạch bại lộ rồi. Tôi phải tìm mọi cách mới lọt vào phòng giam tên phản bội trong Tòa sứ để giết người diệt khẩu. Tôi chưa biết hắn đã khai những gì, nhưng khả năng là chi bộ công chức lần này sẽ tổn thất nặng. Các ông hãy rút ngay may ra còn bảo toàn được lực lượng.
Phán Quý nói xong có ý quay ra xe ngay để xuống núi, nhưng ông Phồn níu lại, hỏi:
- Liệu có xông lên đánh liều được không?
Phán Quý bảo:
- Không thể! Có đánh tới rằm tháng Giêng năm sau cũng không chiếm nổi Tòa sứ và Dinh Tuần phủ. Giám binh đã bố trí quân Pháp ở tất cả những nơi đó rồi. Bọn mật thám cũng đang ra tay. Thôi, ông hãy báo cho anh em lui quân ngay. Chậm giờ nào là nguy thêm giờ đấy.
“Không được! Ông Phán Quý đứng lại đã”.
Từ phía sau ông Phồn bỗng có một người bước ra gọi giật ông Phán Quý lại. Đó là một người đàn bà đã cứng tuổi, quần đóng bịt, một tay cầm liềm, một tay xách bị tro bếp, đầu có quấn một chiếc khăn màu nâu đỏ. Phán Quý nhận ngay ra bà Quản Điền. Người đàn bà này đã từng bán năm mươi mẫu ruộng góp tiền cho tổ chức gửi người sang bên Tàu mua thuốc nổ. Cũng chính bà là người gánh hàng trăm quả tạc đạn từ xưởng sản xuất về giấu ở hang đá trong núi. Bà Quản Điền bước đến bên Phán Quý nhưng quay lưng lại như để nói cho tất cả mọi người cùng nghe:
- Thưa các quan! Nếu đêm nay các quan không lấy tỉnh thì em xin tự tử trước mặt các quan, em chết ngay bây giờ đây cho các quan xem.
Hành động của bà Quản Điền có vẻ như làm máu trong một số đảng viên sôi lên. Không thể để cho những bầu nhiệt huyết này bốc lên trong tình thế như hiện nay. Phán Quý liền gạt bà Quản Điền sang một bên, bảo:
- Lấy tư cách là ủy viên đảng bộ tỉnh, tôi yêu cầu các ông, bà đảng viên rút lui ngay. Làm cách mạng không thể liều. Còn người sẽ còn cách mạng. Sẽ có ngày chúng ta lấy tỉnh sau.
Không ngờ, nghe Phán Quý nói xong, bà Quản Điền bảo:
- Vậy thì em xin chết trước mặt các quan!
Dứt lời, bà Quản Điền đưa liềm lên giật phăng yết hầu. Việc làm của bà Quản Điền làm mọi người kinh hãi. Ông Phồn vội lao đến đỡ bà Quản nhưng máu ở cổ bà đã xối ra, sủi bọt theo nhịp thở ngắt quãng, đứt đoạn. Nhóm người bên sườn núi bỗng náo loạn cả lên. Phán Quý còn đang chết trân trước việc không ngờ này thì ông Phồn lại tỏ ra bình tĩnh hơn. Ông Phồn bảo:
- Không cứu được nữa rồi. Tất cả rút ngay xuống chân núi, tôi sẽ ở lại táng tạm bà Quản xuống dưới vách đá kia. Mọi người đi mau!
Phán Quý không dám chần chừ thêm, vội lên xe ngựa cho phu đánh thẳng xuống chân núi. Mấy ngày sau đó Pháp đưa lính về triệt hạ Văn Đẩu, Kha Lâm, Đồng Tải. Ông Phồn bị bắt đưa đi Côn Đảo. Lý Chủ trốn nhưng không thoát, bị bắt đưa đi căng Hải Phòng, sau bệnh chết ở nhà thương Tam Quán.
Một số ông Đội, ông Thừa, ông Kí bị đuổi về quê hoặc đổi đi nơi khác. Tên phản bội chưa kịp khai ra Phán Quý nhưng ông cũng bị thải loại khỏi tòa công sứ. Những tưởng đã chết bởi đận ấy nhưng Phán Quý thoát được, chuyển sang kinh doanh thóc lúa, lập hiệu Lúa Vàng nức tiếng mấy tỉnh Bắc Kỳ, sau còn buôn bán thêm cả tơ lụa nữa.
Thế rồi cơ hội lại đến khi Quân đoàn 50 của Trung Hoa dân quốc kéo vào. Các đồng chí cũ lại tìm đến với Phán Quý bàn việc phục quốc. Trong số những người tìm đến với Phán Quý có một người từ Côn Đảo thoát chết trở về. Phán Quý mang rượu ra đãi bạn nhưng cuộc rượu phải bỏ nửa chừng vì ông Phồn bảo với Phán Quý rằng:
- Tôi bây giờ là người của Đảng Cộng sản. Chúng ta làm cách mạng theo kiểu cũ là không được. Tôi muốn mời ông tham gia Việt Minh, vào đoàn thể, ông có giúp được không?
Phán Quý đáp ngay:
- Cách mạng mà giao vào tay lũ dân đen thì có khác gì nấu canh cái dân tộc này. Ông lại muốn trở về với những cuộc khởi nghĩa nông dân ngu xuẩn trong lịch sử à? Thôi, ông đi đường ông, tôi đi đường tôi, xem ai phục quốc nhanh hơn.
Ông Phồn cố níu kéo:
- Thực tế là họ đã làm cách mạng thành công, chẳng lẽ ông còn nghi ngờ điều ấy?
Phán Quý bảo:
- Chẳng qua họ gặp may thôi. Tôi không bao giờ ủng hộ việc trị nước lại đặt vào tay những kẻ vô học. Đời thủa nhà ai con sen thằng ở nhà tôi mà lại dám lên mặt dạy tôi thế nào là cách mạng, là giai cấp? Chúng nó chỉ biết cách mạng gói gọn có hai chữ: Ăn no! Ông đi theo chúng nó để rồi mất tất mà được gì? Được làm một người nghèo à? Còn chúng nó, chúng nó chỉ mất cái bụng đói còn được tất cả. Sao lại có cái thứ cách mạng bố láo như thế? Bây giờ là cơ hội giật lại ngọn cờ về tay mình, sao ông lại bảo tôi bỏ đường lớn để đi vào ngõ cụt? Bữa rượu hôm nay nhạt quá. Rượu quý không gặp bạn hiền đâm ra hỏng mất rồi.
Ông Phồn không nói thêm được câu nào nữa. Thế là cuộc rượu bỏ.
Bây giờ thì Phán Quý bị vứt lăn lóc giữa rừng cói như thế này đây. Ông có chết cũng không mấy nặng lòng nhưng cả nhà ông cùng chết trong đận này, kể ra oan nghiệt quá chăng? Ông ngồi nhìn lên đỉnh Cột Cờ như mười lăm năm trước nín thở chờ đợi ánh lửa bùng phát lên từ đấy. Không có ánh lửa nào thắp sáng niềm tin cho ông ở bờ bên kia cả. Nước sông Sầu Diện vẫn óc ách chảy xuôi, vô tình, vô nghĩa quá thể. Thằng Tuấn Thành nó đang ngồi nhìn ông từ góc khuất kia. Ông biết chứ. Nhưng ông không dám nhìn lại nó. Sắp tới, nó phải chết oan vì ông. Nó đã biết cách mạng là gì đâu. Trong những lần giảng cho nó nghe bài học đầu tiên về cách mạng, nó thường hỏi ông:
- Người giàu và người nghèo làm cách mạng ai quyết chết hơn ai?
Ông bảo:
- Người nghèo.
Nó bảo:
- Thế thì cách mạng của người giàu sẽ rất nửa vời, khó thành công!
Ông thường tránh tranh luận với nó vì coi nó còn nhỏ. Vậy mà nó vẫn bị người ta trừng phạt như ông. Người ta có coi nó là còn nhỏ đâu. Nó là một tên phản cách mạng từ trong trứng nước kia mà. Anh nó đã chết rồi. Chết một cách đớn hèn. Mới nghe có vài tiếng súng nổ đã đứt mạch máu ra mà chết. Chết khổ chết sở. Sợ sệt như thế làm sao nối được chí ông?
Ngồi ở góc khuất, lún mình trong bụi cói Tuấn Thành vẫn đang cố suy đoán xem bố nghĩ gì vào lúc này. Thuyền đã sang được một chuyến rồi. Chuyến thứ hai đang lạch cạch rời bãi. Vẫn chưa đến lượt cha con Tuấn Thành. Có một người trong đội áp giải dẫn Tuấn Thành đi nhưng không phải để lên thuyền mà ẩy cậu ngồi lút vào một bụi cói cách đám người bị trói khá xa. “Mày nhận ra tao chưa?”. Một giọng nói thoảng nhẹ, bạt đi trước gió sông. Ngay sau đó cái người áp giải ngồi xổm xuống cạnh Tuấn Thành và lật chiếc mũ vải trên đầu ra. “Sao mày lại dẫn tao ra đây?”. Tuấn Thành hỏi lại khi đã nhận ra người đang ngồi cạnh mình. Nguyên Bình móc trong túi quần soóc ra một gói nhỏ. “Đây là xôi gấc, tao lấy trong bữa trưa hôm qua, mày phải cố gắng nuốt cho hết để lấy sức”. Nguyên Bình vừa nói, vừa ấn từng miếng xôi đã khô cứng vào miệng Tuấn Thành. Tuấn Thành ăn một cách khổ sở nhưng dù sao thì cũng phải nuốt. Nguyên Bình rút con dao găm bên mình, cứa nhè nhẹ lên sợi dây trói trên tay Tuấn Thành. Chuyến thứ ba bắt đầu vượt sông. Đến lượt Nguyên Bình lên thuyền. Nguyên Bình dắt Tuấn Thành lên ngồi ở phía đầu mũi. Nước sông rút cạn nên thuyền nhanh chóng ra đến giữa dòng. Nguyên Bình cầm súng đứng ở đầu thuyền, lưng quay lại đám người bị trói đang ngồi chen chúc giữa lòng thuyền. Người chèo ngồi ở phía cuối, hai tay liên tục khoát mái. Đội viên áp giải thứ hai đứng sau người cầm mái chèo, mũi súng hếch lên trời. Nước sông vỗ lóc bóc bên mạn thuyền. Gió tạt những hạt nước nhỏ vào mặt Tuấn Thành. Hai bên bờ im ắng đến khó chịu. Cố căng mắt ra mới nhìn thấy vài đốm lửa nhỏ như đom đóm chỗ bụi cói ở bến bên kia. Tuấn Thành liên tục thở gấp. Nguyên Bình đứng ở mũi thuyền, thỉnh thoảng lại lấy gót chân gẩy gẩy vào vai Tuấn Thành. Một người thì sốt ruột đến cuống cả lên, còn một người thì hồi hộp, căng thẳng đến toát cả mồ hôi. Cảm giác phấp phỏng lo sợ cứ len lén, len lén luồn vào lồng ngực Tuấn Thành. Cuối cùng thì Tuấn Thành cũng lấy được can đảm. Cậu khẽ cựa mình, gồng tay lên. Sợi dây trói đứt tung. Một cảm giác tê dại xâm chiếm suốt cổ tay của Tuấn Thành. Nín thở ngồi yên một lát cho máu lưu thông xuống các ngón, rồi như một chiếc lò xo bị nén lâu ngày vụt bật lên, Tuấn Thành lao cả người vào Nguyên Bình. Con thuyền chòng chành, xoay ngang ra giữa dòng. Người chèo thuyền và đội viên áp giải ở cuối mũi bị bất ngờ, lúng ta lúng túng, tức thời chẳng biết xử trí thế nào. Những người còn lại trên thuyền ồn lên như bầy mối vỡ tổ, một số nháo nhào đứng phắt dậy.
- Tất cả ngồi xuống, ngồi xuống. Nếu không tôi bắn! - Tiếng người áp giải gào lên giữa lòng sông hoang vắng.
Nguyên Bình bỗng nói vọng từ dưới sông lên:
- Cứ cho thuyền cập bờ đi, đừng bắn xuống sông, để tôi lặn theo tên bỏ trốn.
Bóng hai người ở dưới sông dềnh lên, ngụp xuống một lúc rồi xa hẳn, mặt nước lại trở về lặng ngắt. Con thuyền lấy lại được thăng bằng, tiếp tục lao mũi về phía Lãng Tiên. Người áp giải còn lại định rê mũi súng xuống mặt sông, tìm cách nhả đạn vào tên tù sổng nhưng sợ đám tù gây xáo động nên không dám gạt mũi súng ra khỏi lòng thuyền. Sáng hôm sau, bốn mươi hai tên phản cách mạng được giao cho người của Bộ tư lệnh khu. Một tên đã trốn thoát, Nguyên Bình không đuổi bắt lại được. Trước khi trở về An Lạc, Nguyên Bình xuống lán giam tạm, nhìn mặt bọn phản cách mạng lần cuối. Phán Quý ngồi dựa đầu vào cột lán, mắt lim dim, nét mặt phờ phạc. Khi Nguyên Bình đi đến gần, vẫn ngồi yên trong tư thế đó, ông ta bỗng hỏi như cho chính ông ta nghe vậy:
- Nó trốn thoát rồi chứ?
Nguyên Bình sững người:
- Ông nói ai?
Phán Quý bỗng mở trừng mắt ra:
- Cậu nói đi, thằng con tôi thoát rồi phải không? Nó không đáng chết mà, có phải nó thoát rồi không?
Ánh mắt của Phán Quý khi ấy phát ra những tia khẩn nài đau đớn. Nguyên Bình không dám nhìn lâu vào đôi mắt ấy. Cậu khẽ gật gật.
- Tôi biết những việc cậu làm. Tôi ghi ơn cậu.
Phán Quý nói rất nhanh câu đó rồi thật bất ngờ, với một hành động quyết đoán, ông ta văng người quật đầu vào cây cột được đắp bằng gạch. Một số người ngồi gần đó kêu rú lên. Nguyên Bình hoảng hồn, chân tay bủn rủn hết cả ra. Có mấy thị vệ nữa chạy đến. Họ nâng đầu của Phán Quý lên. Cú đập quyết tử đã làm một mảnh đầu của Phán Quý bẹp rúm lại. Máu từ đó rỉ ra thành hai dòng, chảy xuống cổ và cằm. Mắt ông ta trợn ngược lên, đảo lòng rồi thất thần, bạc phếch đi. Một thứ dịch trăng trắng, nhờn nhợt từ đó tràn ra. Mảng đầu bẹp dúm, lõm xuống, biến dạng bây giờ bắt đầu phồng lên, há miệng...
 
 
Tám năm sau Nguyên Bình mới lại có dịp trở lại bến đò Lãng Tiên.
Đó là một đêm tối trời, Nguyên Bình náu mình bên vạt cói già, chờ đến giờ nổ súng, mở màn cho cuộc tập kích vào thị trấn An Lạc.
Trung đội của Nguyên Bình có nhiệm vụ tiêu diệt đội Com-măng-đô ở đền Bà Sùng thuộc thôn Khúc Trì, cách nhà thờ An Lạc một dải đầm rộng.
1 giờ 55 phút trận đánh bắt đầu. Tiếng bộc phá nổ ở phía kho xăng cùng với vệt sáng hắt lên nền trời là tín hiệu cho các mũi tấn công đồng loạt khai hỏa.
Trung đội trưởng Nguyên Bình khi tiến quân vào đền Bà Sùng đã không ngờ tới khả năng đội Ngự lâm quân Công giáo có thể vượt dải đầm rộng chỉ trong vài phút bằng ca nô do người Pháp trang bị. Khu đầm này thông ra với sông Sầu Diện. Khi nhà thờ lập đội dân binh, cha Phăng thường thích mặc áo sáu túi, giắt súng ngắn trước bụng, đi lại truyền đạo cho giáo hữu ở khu xóm Đáy bằng ca nô theo đường sông. Lực lượng trinh sát của bộ đội An Lạc đã không tính đến chiếc ca nô vẫn nằm như một con sư tử ngủ trên mặt đầm sau nhà thờ. Khi những tia lửa nhoằng lên ở phía đền Bà Sùng, cha Phăng lập tức cho đội Ngự lâm quân Công giáo lên tàu vượt mặt đầm sang bờ bên kia cứu nguy cho lực lượng biệt kích đang bị vây hãm. Trung đội của Nguyên Bình bị đánh tạt sườn, đành chững lại, không phát triển, thọc sâu được nữa, phải mất gần một tiếng sau mới tạm đẩy lui được lực lượng dân binh của cha Phăng. Mục tiêu đền Bà Sùng đành phải bỏ ngỏ, đến khi tổ chức tấn công tiếp thì trời đã gần sáng. Các cánh quân khác đều đã tiêu diệt xong mục tiêu, đang lặng lẽ rút ra ngoài theo hiệp đồng, chỉ mũi của Nguyên Bình “sa lầy” ở thôn Khúc Trì với một bên là đạn của bọn Com-măng-đô, một bên là đạn của đội dân binh nhà thờ. Quân Pháp bừng tỉnh sau một đêm kinh hoàng, đang bắt đầu đưa lực lượng từ Hải Phòng sang giữ lấy An Lạc. Nguyên Bình lệnh cho toàn trung đội rút lui, anh cùng một tổ ở lại vừa chặn địch vừa rút sau. Rút ra tới giữa thị trấn thì Nguyên Bình trúng đạn. Một viên đạn đã phá vỡ bắp chân phải, xé toạc phần cơ rắn chắc gần điểm gập của đầu gối. Trời đã sáng hẳn. Thiết giáp của Pháp đang nghễu nghện bò đi bò lại trên con đường dẫn ra bến đò Lãng Tiên. Phía kho xăng và kho vũ khí vẫn tiếp tục dội lên những quầng lửa đỏ cùng những tiếng nổ lúc rời rạc, lúc liên hồi. Hàng chục sắc lính, cả Pháp lẫn Việt đổ xô đến những địa điểm vừa bị tấn công, cố vớt vát những gì còn sót lại. Tòa Sứ cũ, tổng kho đạn, trại pháo thủ, bộ chỉ huy Bảo chính đoàn, Ty công an, bốt điện, bốt Cô Hồn, tất cả hầu như đã bị san phẳng hoặc xé rách nham nhở. Tiếng súng của lực lượng bảo vệ đường rút cho bộ đội An Lạc nhỏ dần rồi tắt hẳn ở phía bờ sông Sầu Diện. Cuộc tập kích đã thành công, đúng như trong kế hoạch. Chỉ có mũi tấn công của Nguyên Bình là không hoàn thành nhiệm vụ. Mọi người đã không nghĩ ra một mục tiêu vô cùng quan trọng nữa là nhà thờ An Lạc, nơi có tới 120 dân binh được tổ chức lại dưới cái tên Đội Ngự lâm quân Công giáo. Tổ ba người cuối cùng ở lại chặn địch cũng đã chết mất hai. Nguyên Bình cố lết đến cổng Rồng, nơi dẫn lên ngọn núi Cô Hồn thì kiệt sức. Không còn cách nào khác Nguyên Bình đành lăn vào một bụi cây đang xòe ra, rậm rạp, nơi chân núi rồi ngất xỉu sau khi rơi tọt vào một cái hốc nông choèn, được che lấp bởi rất nhiều cây dại. Cả ngày hôm đó, hàng trăm gót giày chạy qua, chạy lại chỗ Nguyên Bình nằm mà anh không hề biết gì hết. Cơn sốt đã ấn đầu Nguyên Bình xuống, đẩy anh chìm vào vô thức.
Tại sao người dân An Lạc lại gọi dãy núi nằm án ngữ giữa thị trấn bằng cái tên Cô Hồn?
An Lạc xưa kia là trấn Biên Hải, thuộc xứ Câu Lậu. Những đoàn người đầu tiên đặt chân tới xứ này là các chiến binh của một bà nữ tướng dưới quyền Hai Bà Trưng. Thời ấy nơi đây chỉ có một dải núi dài như hình con nghé nằm, xung quanh chân núi là vịnh nông đang được phù sa bồi đắp. Cùng với sự hiện diện của các chiến binh những xóm làng cũng bắt đầu mọc lên rải rác dưới chân núi. Từ những xóm làng đầu tiên này dần hình thành nên các tổng Kha Lâm, Văn Đẩu, Trữ Khê, Phù Lưu, An Lạc, Phù Liễn... Đến triều đại nhà Trần, địa hạt Biên Hải thuộc huyện Nam Sách, phủ Kinh Môn, châu Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Khi ấy ngọn núi có hình con nghé có tên là Phù Liễn. Vào dịp thái tử Hoảng đi thị sát vùng biển, có dừng tại trấn Biên Hải, ra lệnh dựng cột thật cao, treo cờ Đại Việt trên đỉnh Phù Liễn, từ ấy núi có tên là Cột Cờ. Dân Văn Đẩu xây dựng dưới chân núi một ngôi đình, gọi là đình Đẩu Sơn. Vào những năm cuối của thế kỷ 13, với khí thế sục sôi giết giặc Nguyên Mông, dân chúng Văn Đẩu tập trung tại đình Đẩu Sơn cử ra một bô lão là cụ Hai Chấn thay mặt dân chúng về kinh dự Hội nghị Diên Hồng bàn quốc sự. Từ ấy ngọn núi này lại mang tên Đẩu Sơn.
Khi chính phủ bảo hộ Pháp kiểm soát được xứ này, đã đặt ở đây một tỉnh lỵ có tên là An Lạc với cái nghĩa tốt đẹp: an cư, lạc nghiệp. Người Pháp cũng đã trèo lên núi, san bằng ngọn Đẩu Sơn, dựng tháp canh, cắm cờ tam tài, xây đài quan trắc khí tượng và hầm địa chấn. Người Pháp đi đến đâu những con đường rải nhựa hoặc láng xi măng lăn theo đến đấy. Một con đường nhỏ, rất đẹp, uốn lượn theo sườn núi, leo lên đến tận đỉnh núi nơi đặt đài quan trắc được xây dựng. Con đường được bắt đầu từ một phố chính của thị trấn An Lạc. Đường lên có cổng đắp hình lưỡng long chầu nguyệt, hai bên đề đôi câu đối: Đông Pháp Thiên Văn đại tổng cục - Bắc Kỳ Phù Liễn thị danh sơn. Vậy là từ đây ngọn núi này có tên mới: Thiên Văn.
Còn tên Cô Hồn ra đời từ khi nào?
Trong cuộc khởi nghĩa bất thành của những đảng viên Quốc Dân đảng, có một sự kiện không ai quên được, đó là việc bà Quản Điền dùng liềm rạch cổ tự vẫn nêu cái chí một lòng phục quốc. Bà Quản Điền chết rồi nhưng mấy trăm quả tạc đạn do bà góp công, góp của làm ra vẫn còn nằm yên trong hang đá ở phần bụng của dải núi hình con nghé. Sau mấy tháng tích cực tìm kiếm, cuối cùng người Pháp cũng đã tìm ra chỗ giấu bom của bà Quản. Lạ một điều, bao nhiêu lính Pháp vào hang thì bấy nhiêu bộ xương đè lên nhau mà lấp đường vào chứ không sao lấy ra nổi một quả tạc đạn. Hồn ma bà Quản hiện về với quần đóng bịt, đầu quấn khăn nâu đỏ, dùng liềm rạch cổ hết tên Pháp này đến tên Pháp khác là nỗi kinh hoàng cho chính quyền bảo hộ, thêu dệt ngàn vạn những điều huyền bí, phủ lớp sương mờ khó hiểu lên dải núi linh thiêng nằm giữa lòng thị trấn. Cuối cùng người Pháp buộc phải dùng đại bác bắn vào hang núi, xoá sạch những dấu vết u uẩn gợi nhắc những ám ảnh nổi loạn của đám dân bản xứ. Tạc đạn có thể đã bị phá hủy, nổ âm ỉ trong lòng núi suốt mấy ngày liền, nhưng hồn ma bà Quản thì không súng đạn nào huỷ diệt được, bà vẫn hiện về vật cổ những viên quan hai, quan ba Pháp trong Trại pháo thủ vào đêm Nguyên Tiêu hàng năm. Sau Phán Quý đã trình lên Chánh sứ một dự án tâm linh khả dĩ có thể làm yên lòng người Pháp, ấy là cho dựng một ngôi miếu thờ bà Quản Điền ngay giữa lưng chừng núi, nơi bốn mươi quả đại bác đã nã vào cửa hang chứa bom. Ngôi miếu dựng xong thì Phán Quý về vườn, người dân quanh vùng cũng bắt đầu gọi núi Thiên Văn bằng một cái tên mới, không có trong văn bản: Núi Cô Hồn!
Người ta thích gọi tên núi là Cô Hồn có lẽ cũng còn vì nó tương thích với dòng sông Sầu Diện. Khi toàn bộ khu vực vịnh nông quanh chân núi Cột Cờ đã được phù sa bồi đắp biến thành thổ địa của các nhóm cư dân từ các nơi kéo về, cũng là lúc biển rút ra xa, các dòng sông tự chôn sống mình, chỉ còn một dòng duy nhất làm công việc nhuần tưới, như mạch máu của một cơ thể đất mà thôi. Dòng sông ấy đón đoàn thuyền của thái tử Hoảng vào, đưa thái tử đến với ngọn Phù Liễn cây cối giăng mắc như rừng già, rất nhiều hoa thơm quả lạ, lại nhiều cầm thú quý hiếm, đứng trên đỉnh núi, ngắm nhìn bao quát ra xung quanh, thấy cảnh vật sơn thuỷ hữu tình, có cảm giác đang được đặt chân lên chốn địa linh văn vật, thái tử hứng khoái, quyết định hạ trại nghỉ ngơi.
Thái tử lần theo con đường mòn giữa những bụi lau lách sim mua đi về phía đồi thông nơi có dòng suối róc rách chảy. Vượn hót, chim kêu, mùi trái chín thoang thoảng đưa hương, bao loài cây lạ xòe hoa nở cánh trước mắt thái tử khiến ngài cao hứng cứ đi mãi không muốn dừng, miệng lại còn lẩm nhẩm đọc thơ nữa. Bỗng ngài nhìn thấy đôi bắp chân trần trắng ngà, thuôn thuôn, chắc khỏe thập thò dưới lớp vải nâu bã bên đám cỏ tranh nọ. Định thần, nhìn kỹ, ngài nhận ra một cô gái đang lúi húi cắt cỏ, yếm thắt qua gáy, vai để trần, đôi tay như múa lượn, dáng dấp khỏe khoắn, quê kệch nhưng mát mẻ, lấm láp nhưng tự nhiên, hạ tiện nhưng gợi hứng, mộc mạc nhưng bắt cháy dục tình. Đến khi nhìn rõ mặt người cắt cỏ, thái tử thật sự xúc động trước vẻ đẹp của sơn nữ, bỗng dưng động tình, một lòng muốn truy hoan dù cô gái hết sức chống cự. Sau thái tử rút kiếm lệnh, xưng dòng giống hoàng tộc, sơn nữ nọ mới kinh hoảng vội quỳ sụp xuống chịu lỗi, nhận một lòng hầu hạ.
Thái tử đã có một buổi chiều nồng nã ân tình với sơn nữ trong chiếc lều cỏ bỏ không nằm kề bên bờ suối. Sau đó quân hầu tìm đến bẩm với thái tử đằng Tây đang có một cơn dông to, mây mưa sắp kéo đến, mưa ngàn thác đổ, chẳng thể biết trước được lành dữ thế nào, xin thái tử hạ sơn cho yên lòng kẻ hầu cận. Thái tử vội theo quân hầu rời núi, trước khi đi ngài có hỏi qua họ tên, bản quán của sơn nữ nọ rồi bảo:
- Ta sẽ cho người rước nàng về kinh để sớm tối gần gũi, hầu hạ ta.
Những ngày sau đó cô gái cắt cỏ bên núi cứ ngóng chờ hoài mà không thấy có kiệu loan nào tới rước cả. Mầm sống trong bụng cô ngày một to lên. Đám hào mục trong làng truy gắt, cuối cùng cô gái phải nhận là đã hầu hạ Đức thái tử đương triều nên mới có cái sự xấu mặt ấy. Đám hào lý không tin, đường đường là thái tử con vua mà lại thèm ngủ với cái con bé cắt cỏ, hạ tiện xứ quê mùa này à? Thế là lệ làng thế nào thì cứ thế mà làm cho đúng, cho nghiêm. Họ trói cô sơn nữ chửa hoang vào một tảng đá to rồi đem quẳng xuống sông. Cô gái than khóc thảm thiết. Trước khi bị dìm chết cô thề rằng: “Nếu gái này bị oan thì không đá nào dìm nổi”. Quả thật cứ hạ thuỷ lần nào là dây thừng đứt tung lần ấy, cô gái lại nổi phềnh trên mặt nước. Hàng tháng sau cô mới chịu theo dòng trôi ra ngoài biển Đông. Sau này đoàn thuyền nào đi qua khúc sông ấy cũng nhìn thấy khuôn mặt cô gái với đôi mắt mở to, u buồn, chập chờn dưới mặt nước lăn tăn sóng vỗ. Khuôn mặt ấy lúc thì vỡ ra theo cánh sóng, lúc tụ lại dưới mặt nước phẳng lặng, gây hoảng sợ cho tất cả các ngư phủ qua lại khúc sông này. Sau tin đồn về tới kinh thành, thái tử vội ban chiếu giải oan cho cô gái và lệnh cho chính quyền sở tại lập miếu thờ. Từ ấy khuôn mặt cô gái không còn hiện lên mặt nước nữa. Nhưng dòng sông lại mang tên Sầu Diện. Thị trấn An Lạc nằm lọt thỏm giữa một bên là núi Cô Hồn, một bên là dòng Sầu Diện man mác chảy trong u sầu, tẻ lặng. Chính điều này đã làm Cha bề trên của Đức Phờrăngxoa Đơ Bêhiêng khi đặt nhà thờ xứ ở đây bảo: Thị trấn này như một khuôn mặt có dòng nước mắt chảy tràn, lại gắn một vết chàm nhỏ là ngọn núi Cô Hồn kia, bây giờ thêm một gác chuông nữa để chiều chiều rung lên những tiếng thở dài. Ôi, quả đúng là thị trấn Nét Mặt Buồn!
Cha Phăng rất thích cái tên ấy. Mọi thư từ, giấy tờ của ông trên đầu đều in dòng chữ: Thị trấn Nét Mặt Buồn, An Lạc, ngày, tháng, năm...
Thị trấn Nét Mặt Buồn bây giờ đang bị cào cấu, rạch xé nham nhở bởi trận tập kích đêm qua của Việt Minh. Tháp canh trên đỉnh núi Cô Hồn cạnh đài quan trắc cũng đã bị pháo cối quật đổ. Người Pháp đang rầm rập đưa nguyên vật liệu lên để sửa chữa lại. Dân thị trấn sau một đêm kinh hoàng lại trở dậy làm việc bình thường. Quán cháo lòng của bà Cả Ngật không những không phải đóng cửa mà còn đặt thêm nửa cỗ lòng nữa mới đủ bán cho đội dân binh nhà thờ. Cha Phăng là khách hàng quen thuộc của bà Cả Ngật. Cha muốn ăn tiết canh, cháo lòng tại quán chứ không muốn đưa về phòng. Bao giờ cha cũng ngồi một mình ở gian trong. Bà Cả Ngật chạy ra, chạy vào phục vụ cha rất tận tình, thỉnh thoảng còn hỏi cha vài câu về tình hình chiến sự thế nào, lễ hội trong tháng tới ra sao? Cả thị trấn An Lạc có hai khu vực tập trung giáo dân là khu Nhà Thờ và khu Xóm Đáy. Khi Đức bề trên của cha Phăng truyền đạo đến đây thì đám dân theo Ngài đầu tiên là những vạn chài nằm rải rác ở cuối dòng Sầu Diện, nơi dòng sông chuẩn bị đổ ra biển. Đám dân này khi nhập đạo rồi, liền bỏ thuyền lên bờ ở quanh khu đất bồi chỗ dòng Sầu Diện vặn mình đổi hướng. Đây là chỗ đất đầu thừa đuôi thẹo của An Lạc, là đáy sông nên gọi là Xóm Đáy. Xóm Đáy là xóm đạo toàn tòng nhưng dân ở đây rất nghèo. Họ lên bờ nhưng không biết làm ruộng, chỉ biết đan lưới rồi bắt tôm, bắt cá hai bên bờ sông mà sống qua ngày. Sau này cùng với việc xây dựng tỉnh lỵ, Đức bề trên đã cho xây ngôi nhà thờ to cao ngay bên một bờ đầm rộng, gần trung tâm thị trấn. Tòa công sứ xây xong thì nhà thờ cũng được khánh thành. Tòa ngang dãy dọc, nhà nguyện, nhà bếp, nhà kho, văn phòng, nhà khách, hội trường, sau này cha Phăng cho xây thêm một gian để máy phát điện nữa, khu nhà thờ trở thành một quần thể góp phần tạo nên cái dáng vóc như ngày nay của An Lạc. Nhà thờ xây xong, tín đồ các nơi cũng kéo đến dựng nhà, mở chợ, thành lập các hội đoàn... ngày một đông đúc. Có điều dân đạo khu Nhà Thờ giàu hơn dân đạo khu Xóm Đáy. Dân đạo khu Nhà Thờ nếu không là công chức, binh lính thì cũng là dân buôn bán hoặc làm nghề thợ thủ công. Bà Cả Ngật về khu này ở từ khi ông Đội Ngật còn sống. Sau khi ông Đội chết vì say rượu thì bà Cả ở vậy, nuôi đứa con nuôi, chẳng đi thêm bước nữa. Bà Cả là người sùng đạo, rất chiều cô con nuôi nhưng cũng rất khắt khe. Con Mến năm nay đã mười chín rồi. Hồi bà nhặt về nuôi nó đâu có mười một, mười hai. Mến giúp bà làm mọi việc, từ dồi lòng, làm nhân, hãm tiết, pha cháo đến đổ rượu, rửa bát, nhặt rau. Mến thường phải lên núi Cô Hồn lấy lá xương sông về dồi lòng. Không có thứ lá đó coi như miếng dồi bỏ, không còn mùi vị riêng của nó nữa. Lá xương sông có rất nhiều ở chân núi Cô Hồn, chỉ cần qua cổng Rồng vài bước chân là thấy xương sông mọc, xanh thẫm từng vạt.
Buổi chiều hôm ấy, Mến cũng quờ tay vào bẻ lá xương sông như mọi khi nhưng cô đã rú lên khi trông thấy một người đàn ông nằm chết trong bụi cây.
Cùng với tiếng rú của cô cái xác ấy bỗng dưng mở mắt ra.
Cái xác ấy chưa chết và cái xác ấy chính là Nguyên Bình Cô Mến rụng rời chân tay nhưng rồi nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Đôi mắt của người chưa kịp chết kia hiền và đẹp quá. Anh ấy đang nhìn cô cầu khẩn...
Chương 3
Mến là một trường hợp đặc biệt của khu Nhà Thờ. Cô là người duy nhất sống trong lòng thánh địa mà không phải là giáo dân.
Ngay từ khi bà Cả Ngật nhặt được Mến ốm o, rách rưới bên cột cây số Mười Tám mạn đi về Thái Bình, bà đã có ý cải đạo cho Mến nhưng cô dứt khoát không chịu. Trong ký ức nặng nề của một cô bé mười hai tuổi, hình chữ thập là một biểu tượng khủng khiếp. Nó không gợi nhắc điều gì khác ngoài cái chết. Ấn tượng không thể nào xoá đi được trong trí óc Mến là những chuyến xe trâu nối nhau chở những xác người hấp hối đi vào nghĩa địa có cắm những cây thánh giá. Hình chữ thập cũng là nơi có những vị mặc áo chùng thâm, mặt lanh tanh vô cảm, múc từng muôi cháo đổ vào bát cho đoàn người đói khát, nhàu nhĩ xếp hàng dài dưới sân nhà thờ. Nhiều người đã gục xuống chết ngay dưới nồi cháo loãng, trong mắt họ, hình ảnh cuối cùng của dương gian còn đọng lại là cây thánh giá trên đỉnh tháp chuông xoay nghiêng, xoay nghiêng đến chóng mặt. Bố mẹ Mến đã chết trong tư thế ấy. Chính Mến cũng tưởng mình đã chết dưới chân giáo đường với hình chữ thập dựng lên, ngả xuống, đổ ngang đổ dọc trong đầu.
Vì thế, Mến đã gào thét chống cự quyết liệt, không chịu theo bà Cả Ngật vào nhà thờ làm lễ thanh tẩy. Cô cũng không thích những hình khối uy nghi, những hình ảnh rùng rợn, thương xót, đớn đau của tòa giáo đường. Không khí trong nhà thờ cùng với những buổi đọc kinh và giảng đạo đối với Mến thật kinh khủng. Nó buồn nản, ảm đạm, khó hiểu và ức chế đến mức ngột ngạt. Hình như bà Cả Ngật có phàn nàn điều này với cha Phăng, và cha Phăng bảo rằng: “Con chiên lạc xa đàn nhất là con chiên biết tìm về sám hối một cách thành kính nhất”. Từ ấy bà Cả Ngật mới chịu bỏ mặc Mến, không ép chuyện cải đạo nữa.
Mến thoát khỏi sự kiềm tỏa của bà Cả, cứ thế lớn lên một cách hồn nhiên, vô lo cho đến một chiều kia, cô vào sân sau nhà thờ gánh nước, bỗng nhìn thấy một quả cam trĩu xuống bên hông nhà nguyện. Sát nhà nguyện là một vườn cây rộng, chạy thẳng ra cánh đồng. Mến chưa bao giờ đặt chân vào khu vườn ấy. Hôm nay nhìn thấy quả cam buông ơ hờ, ngon lành quá, Mến liền bỏ đôi thùng nước chạy lại bẻ. Bỗng Mến nhìn thấy bóng cha Phăng cùng với một thầy dòng đi bên hai người đàn ông mặc đồ lính trận từ hướng văn phòng đi xuống. Họ mất hút sau dải núi tự tạo có đặt bức tượng Đức Mẹ bồng con ở giữa khu vườn. Mến vừa bóc cam vừa để ý xem họ chui đi đâu mà bỗng dưng lại biến mất nhanh đến thế? Khi Mến ăn hết quả cam thì thầy dòng ló đầu ra, đi sau thầy là hai người lính lúc nãy đang khênh theo một chiếc cáng. Vật nằm trên cáng lúc đầu rất khó xác định, đến khi nhìn rõ mồn một thì Mến vội đưa tay lên bóp miệng cho khỏi thốt ra tiếng kêu kinh ngạc. Vật được khiêng là một người đàn ông đầu tóc cạo nham nhở, mình mặc bộ quần áo cánh nâu, hai tay bẻ quặt ra đằng sau, cổ tay bị trói lại bằng một sợi dây nhựa màu xanh. Một bắp chân của người đàn ông này bị bẻ gẫy hoặc bị cưa bằng lưỡi sắt, máu và tuỷ vẫn đang đùn ra, nhểu xuống đất thành một vệt dài. Đầu ông ta bị đập bẹp, không nhìn thấy tai đâu. Ông ta nằm trong một tư thế co quắp, hơi nghiêng, mắt nhắm nghiền, mặt đầy vết thâm tím. Có lẽ ông ta đã chết? Hai người lính trận khiêng cáng đi theo thầy dòng. Họ lách qua những tán cây rậm rạp của khu vườn, bước về phía cánh đồng. Tới cuối vườn thì Mến không nhìn thấy họ nữa. Mấy cây chuối cùng với vạt đu đủ mọc dầy đã cản mất ánh nhìn của Mến. Họ đưa người đàn ông ấy đi đâu nhỉ? Mến đã trải qua những giây phút hồn xiêu phách lạc, sau một hồi đứng chết lặng đi, cô lặng lẽ trở lại chỗ giếng nước, múc đầy hai thùng rồi đưa lên vai gánh về. Sáng hôm sau Mến vẫn thấy cha Phăng ra quán ăn tiết canh và uống rượu với lòng lợn như thường lệ. Cha vẫn làm dấu thánh, vẫn mỉm cười thân thiện với Mến và nhìn Mến bằng ánh mắt màu nâu xám ấm áp đến khó hiểu. “Con nghĩ gì vậy?”. Tiếng cha Phăng hỏi làm Mến giật nảy mình. Mến vội che đậy sự lúng túng bằng cách giả bộ chạy xuống bếp lấy rau thơm lên cho khách. Mến như mụ mị người đi khi nghĩ đến hình ảnh người đàn ông nằm trên chiếc cáng ở phía sau khu vườn nhà thờ chiều tối hôm qua. Chẳng lẽ dưới mảnh vườn ấy là địa ngục, nơi vẫn dùng để hành hình các tội nhân? Tại sao lúc người đàn ông bị đánh đập đến biến dị cả thân hình ấy được khênh từ dưới lòng đất lên Mến không nhìn thấy cha Phăng đâu nhỉ? Thầy tu sĩ mặc áo chùng thâm dài quá gối, chân đi ủng, mắt đeo kính trắng lẽ nào giữ được vẻ mặt thản nhiên đến thế trước cái xác người kỳ dị đang nằm trên cáng? Khó hiểu quá! Mến không sao lý giải nổi những gì đã xảy ra vào buổi chiều hôm qua trong mảnh vườn trồng cây ăn quả thuộc khuôn viên nhà thờ. Những buổi chiều tiếp theo đối với Mến là cả một trò chơi ú tim. Mến thường cố ý lại gần chỗ vườn cây, nấp bên hông nhà nguyện nhìn về phía dải núi nhân tạo có hình Đức Mẹ chờ đợi những sự khác lạ với một tâm trạng vừa hồi hộp, lo sợ vừa tò mò, thích thú. Mến không còn gặp lại những hình ảnh hãi hùng như buổi chiều nọ nữa nhưng thính giác của cô bị kích thích ghê gớm. Cô nghe thấy những tiếng rên la, gào thét, không rõ rệt lắm nhưng có sức lan tỏa, gây bủn rủn chân tay. Mến cố lắng nghe mà không sao xác định được thứ âm thanh ám ảnh kia phát ra từ đâu. Nó âm âm, u u như bị hàng loạt ngách cửa bịt lại, chỉ còn thoát ra được một cách yếu ớt và bay là là trên mặt đất mà thôi. Mến chẳng lạ gì đường ngang ngõ tắt của khu thánh đường này. Phía cửa chính to rộng là nơi để xe của cha, của tỉnh trưởng, của các quan hai, quan ba Pháp và lũ lính trận ra vào thường xuyên. Nơi ấy có các dân binh phòng vệ nhà thờ đứng ngồi, mắt mũi dáo dác, lúc thành kính tôn nghiêm, lúc vằn lên những tia tàn ác. Mến không bao giờ đi vào nhà thờ bằng cổng ấy. Mến chỉ vào theo cái ngách nhỏ mà các bõ già vẫn đi. Ngách này nằm ở ngay bên hông nhà thờ. Lũ trẻ quanh xóm cũng thường vào sân nhà thờ chơi theo lối này nhưng vài năm nay bõ Câm cấm không cho chúng nó vào nữa. Chỉ có Mến là bõ cho vào vì bõ biết cô không có tính tò mò, mắt mũi không nhòm ngược, nhòm xuôi. Hơn nữa, bõ Câm không có con cái, thỉnh thoảng cũng có lúc bõ phải nhờ Mến việc này, việc nọ, nhất là lúc ốm đau, nên việc Mến ra vào nhà thờ dần trở thành một sự ưu tiên đặc biệt.
Sau cái lần Mến nhìn thấy người đàn ông bị hành hạ đến thân tàn lực kiệt ở trong vườn cây gần nhà nguyện cũng là lúc thị trấn An Lạc nóng dần lên như một cái nồi gang để trên bếp than đang bắt đầu bén lửa. Khắp nơi nói đến đánh nhau. Những tiếng nổ ở xa, đâu mãi tận bên Lãng Tiên, bên Hải An, bên Bảo Vĩnh ì ầm vọng về suốt đêm ngày. Rồi những tiếng nổ gần. Nổ ban ngày. Nổ buổi sáng. Nổ buổi trưa. Nổ trong đêm. Nổ ở phía trại lính. Nổ ở bến sông Sầu Diện. Nổ ở Trại Pháo thủ. Mến bước vào tuổi thiếu nữ trong thời đoạn đầy biến động như thế. Mến không xinh đẹp đến mức nhìn thấy là các chàng trai phải ngơ ngẩn. Thậm chí nốt mụn ruồi to khác thường ở bên cánh mũi trái còn làm cô không đáng để mọi người chú ý tới. Nghề nghiệp của Mến lại khoác lên Mến dáng vẻ của một cô gái lọ lem. Chính vì thế dường như mọi sự đều đang diễn ra một cách hối hả ở đâu đó xung quanh Mến chứ không phải với chính Mến. Mến vẫn bình yên, nhàn tản với cuộc sống lặp đi lặp lại đến buồn tẻ ở nhà bà Cả Ngật. Sức ám ảnh trong vườn cây ăn quả của nhà thờ còn trở đi trở lại trong cô đôi ba lần nữa. Nhưng rồi nó cũng không đủ để biến cô thành con người khác, nghĩa là không buộc cô phải quan tâm đến thời cuộc hơn.
Nhưng sau đêm thị trấn An Lạc bị tập kích thì Mến bắt đầu có những biểu hiện khác thường.
Cô đặc biệt hứng thú đối với việc đi hái lá xương sông ở chân núi Cô Hồn. Cô thường đi sớm về muộn. Ẩn sau đôi mắt cô là nỗi bồn chồn day dứt không yên. Mỗi khi nhìn thấy bóng dáng một tên Com-măng-đô hay Bảo chính đoàn loáng thoáng ở đâu đó là tim cô cứ đập rộn lên. Nhưng nỗi lo sợ không giày vò Mến quá lâu. Cái người tưởng là đã chết ở trong núi ấy không ngờ hồi phục rất nhanh. Người ấy thường nhìn Mến bằng đôi mắt có những ánh lấp lánh rất lạ. Người ấy rất hiền. Người ấy có chiếc răng khểnh và khi cười có thể làm mụ mẫm bất cứ cô gái nào. Mến đã đưa người ấy ra chỗ hồ nước ở lưng chừng núi để tắm. Không ngờ người ấy thông thuộc quả núi còn hơn cả Mến. Người ấy bảo: “Cái hồ này chính là hốc mắt của con nghé. Nước hồ không bao giờ cạn vì có dòng suối kia đổ vào đây. Nhưng nước hồ cũng ít khi đầy. Nó chỉ đầy sau một cơn mưa lớn. Dãy núi này tôi đã từng đặt chân không sót một chỗ nào. Nó có hình con nghé nằm ghểnh đầu”. Mến đã ngồi bên lòng hồ vừa trông cho anh ta tắm, vừa nghe anh ta kể chuyện. Anh ta bảo: “Chân thế này là tạm ổn rồi, đêm nay tôi sẽ tìm ra vùng của ta thôi”. Mến thấy sợ, bảo: “Họ mà bắt được anh thì chết”. Anh ta cười: “Không lo đâu. Tôi chỉ cần ra đến bến đò Lãng Tiên là coi như xong. Chỗ ấy cài răng lược, người của ta rất nhiều”. Mến hỏi: “Vậy, mai em lên đây là không gặp anh nữa hả?”. Anh ta lại cười, và bất thần tiến sát lên bên cô, nói rất nhỏ: “Cô hãy cầu nguyện cho tôi nhé”. Mến bủn rủn cả người. Hơi thở của anh ta ấm sực bên tai Mến. Bờ môi anh ta hình như lướt nhẹ bên mang tai, dừng lại ở bên má cô. Mến run bắn người lên. Cô chẳng biết điều gì đang xảy ra với mình nữa. Lần đầu tiên cô được gần gũi với một người con trai đến thế. Lần đầu tiên cô được khám phá chính cơ thể mình. Lần đầu tiên cô được hưởng cái khoái cảm mà người con trai và người con gái có thể mang lại cho nhau. Tối hôm ấy Mến về nhà hơi muộn. Má cô vẫn còn đỏ bừng lên. Dư âm ngọt ngào của sự đụng chạm khác giới vẫn đang lan tỏa đâu đó khắp cơ thể cô, luồn lách tới từng tế bào. Chính điều đó làm cô đẹp đến ngỡ ngàng trong con mắt của bà Quản hội Con hoa. Bà Quản đang ngồi bàn với bà Cả Ngật về việc tổ chức lễ dâng hoa Đức Mẹ vào mấy ngày tới. Nhìn thấy Mến bước vào nhà, bà giật mình quay sang hỏi bà Cả Ngật:
- Con này năm nay nó bao nhiêu tuổi hả bà?
Bà Cả Ngật bảo:
- Đâu mười chín, hai mươi gì đó. Lớn thế chứ còn tồ lắm bà ạ.
Bà Quản xuýt xoa tiếc rẻ: “Giá nó mười bốn đổ lại thì tốt bà nhỉ?”. Bà Quản nói thế và hình dung ra Mến diện áo dài trắng, quần lụa hoa, thêm chiếc ô đen lợp chéo go, đi đôi guốc cao gót vào nữa thì sẽ chả chịu kém ai. Nhưng tuổi ấy chỉ vào hội Pha-ti-ma được thôi chứ không vào hội Con hoa được. Sau bữa đó bà Quản cảm tình với Mến lắm, lôi kéo cô vào nhà thờ bằng được để giúp bà một tay lo việc thánh. Ngay ngày hôm sau bà Quản đưa người sang nhắn bà Cả Ngật cho Mến sang nhà thờ giúp phục vụ cơm nước cho các cha và khách khứa ở các giáo phận về dự lễ. Liên tục mấy hôm liền Mến phải ở lỳ trong nhà thờ lo việc ăn uống cho các cha. Cô cương quyết không vào một hội đoàn nào cả, chỉ nhận mỗi việc phụ giúp nấu nướng thôi. Quần là áo lượt là việc xưa nay Mến không quen. Với lại, cô cũng chả thích các kiểu hội hè, rước xách của nhà thờ tí nào.
Tháng Năm năm nay cha Phăng quyết định tổ chức lễ dâng hoa Đức Mẹ thật to. Các quan người Pháp và người Việt đều rất ủng hộ. Buổi lễ được tổ chức ngay sau trận tập kích độ mươi hôm để chứng tỏ An Lạc chẳng hề hấn, sứt mẻ gì, chẳng qua Việt Minh húc đầu vào đá mà thôi. Giáo dân cả các xứ khác cũng kéo đến dự. Hình như họ muốn đến để học tập cách tổ chức đội “Ngự lâm quân Công giáo” của cha Phăng nữa. Mến chẳng hiểu ý đồ của các cha nhà thờ, chỉ thấy mệt phờ người với những công việc ngổn ngang theo sự chỉ đạo của các bà, các cô. Buổi chiều hôm làm lễ Mến cũng chen được vào sát cửa sân nhà thờ để xem các con hoa múa hát. Đó là lễ hội lớn nhất mà Mến được xem kể từ ngày về làm dân xứ đạo này. Đó cũng là lễ hội cuối cùng gợi nhắc những hào nhoáng tâm linh của một tôn giáo khó hiểu trong cuộc đời vô đạo của Mến.
Đúng giờ lễ, tiếng chuông nhà thờ đổ hồi, kiệu hoa được con hoa nâng lên vai. Trước buổi lễ, kiệu hoa đã được đưa vào nhà xứ để cha Phăng làm phép thánh. Bây giờ cuộc rước bắt đầu cử hành từ trong thánh đường đi vòng quanh khuôn viên nhà xứ sau đó trở về trước sân nhà thờ. Mười ba con hoa được chia làm sáu cặp, năm cặp đầu mỗi cặp cầm một sắc hoa, cặp thứ sáu thì cầm một bó hoa nhiều màu. Hoa được cắm vào mâm bồng. Các con hoa đều mặc áo tứ thân, thắt lưng hoa lý, hoa cà. Khi múa, dây lưng các màu bằng lụa bay lượn trông mềm mại, uyển chuyển, rất đẹp mắt. Trong lúc các con hoa múa hát, ở một góc sân con hoa thứ mười ba đánh trống cầm phách giữ nhịp. Lại có cả đàn, sáo, nhị đệm thêm vào nữa. Các con hoa vừa hát vừa múa.
Chúng tôi mọn mạy, phàm hèn
Dám đâu ghé mắt trông lên bàn thờ
Ngửa xin tràn xuống ơn thừa
Rộng ban giải tấm lòng thơm trước tòa
Khi dâng hoa, các con hoa tỏ lòng thành của mình bằng các động tác lúc thì úp hai tay vào ngực, khi thì giơ hoa lên hoặc làm động tác ước lệ như đang hái hoa. Các con hoa nhìn chung được luyện tập kỹ nên khi vào điệu rất đều và tự nhiên. Tay cầm hoa uốn lượn, các ngón tay, cổ tay, cánh tay dẻo và đẹp mắt. Bàn chân, khuỷu chân nhún nhảy, có lúc chỉ đi bằng năm đầu ngón chân như đi xuyến, có lúc bàn chân chuyển động là là mặt đất, nhẹ êm, lại có lúc dừng một chân làm trụ để xoay người, rất duyên dáng. Khi múa, cả đội hình con hoa được di chuyển, sắp xếp theo hình thập giá rồi lại biến hóa thành hình ngôi sao, hình mặt trăng, hình mỏ neo, hình triều thiên. Bái vịnh xong các con hoa lần lượt tiến hoa.
Chúng con bồ liễu phận hèn
Ơn thương đã được bước lên gọi mừng
Đóa hoa khóm nóm tay bưng
Cứ thế, nào là Nhiệm thay hoa đỏ hồng hồng, nhuộm riêng Máu Thánh thơm chung lòng người chuyển sang Xinh thay hoa trắng tốt lành, vì cùng nhân đức đồng trinh Đức Bà, lại đến Quý thay này sắc hoa vàng, sánh nhân đức mến Bà càng trọng hơn tiếp theo Dịu thay hoa tím càng màu, ý trên Bà những cúi đầu vâng theo rồi Lạ thay là sắc hoa xanh, mừng Bà nhân đức trọn lành cực cao...
Mến xem đến tan buổi lễ thì thấm mệt. Bõ Câm bảo Mến mang thức ăn lên cho cha Phăng. Lần đầu tiên Mến bước chân vào phòng riêng của cha. Khi Mến đẩy cánh cửa ra thì cha Phăng đang ngồi bệt dưới đất, đầu gục lên thành ghế. Mến đặt thức ăn lên bàn rồi bước tới dìu cha đứng dây. Mùi rượu tỏa ra nồng nặc. Cha uống quá nhiều, uống suốt mấy ngày hôm nay nên người rũ xuống. Khi Mến chạm vào người cha thì cha từ từ mở mắt ra. Cha ngẩng phắt đầu lên rồi từ từ gục đầu vào thành ghế. Mến dùng hết sức đỡ cha dậy, đưa cha vào giường. Tới bên giường, cha bỗng ôm chặt lấy Mến. Hình như cha rất cần thứ da thịt mát lạnh toát ra từ người Mến. Chiếc áo nâu xẻ tà có túi Mến mặc hôm nay ôm lấy eo lưng mảnh khảnh làm cơ thể Mến nổi bật lên những đường nét duyên dáng, nữ tính. Chiếc cổ khoét rộng, mái tóc vén cao lên, phần mang tai của Mến trắng hồng, mát mẻ và quyến rũ quá. Cha Phăng hôn vào phần dưới mang tai của Mến. Mến thấy rùng mình, vội giãy giụa tìm cách thoát ra khỏi tay cha. Nhưng quả thật là cha rất yếu. Mến chỉ vùng dậy một cái là cha đã tuột xuống giường, oặt ẹo như một dải chăn mỏng. Nhìn cha trong tình cảnh ấy Mến lại thấy thương hại. Ở cha vừa có nét đại lượng, cao cả vừa có nét uy quyền, độc ác. Cha vừa là thánh nhưng cũng lại rất đời khi luôn sốt sắng qua lại với đám các quan ở trại lính và Tòa sứ cũ. Quanh cha có rất nhiều đoàn, hội, rất nhiều các bà, các chị, mặc dù mấy năm trở lại đây ít có điều kiện tổ chức tế lễ, rước xách nhưng đám đàn bà con gái quần là áo lượt vẫn thậm thụt qua lại nhỏ to với cha. Liệu đứng trước họ cha có còn là thánh nữa không hay cha cũng ham muốn, trần tục như những người đàn ông khác? Hôm nay với hành động của cha, Mến chưa thấy cha đáng ghét dù có lúc cô thấy sợ. Cha đang rất say và mệt, cha ôm hôn Mến như vẫn thường tỏ sự âu yếm với con chiên chứ chưa hẳn đã vì sự thôi thúc của sắc dục. Bằng chứng là cha hầu như không còn khả năng nhận biết những gì xảy ra xung quanh nữa. Mến kéo chiếc vỏ chăn đắp lên nửa người cha, rồi xuống bếp bảo với bõ Câm:
- Cha uống nhiều quá nên say, ngủ rồi, bõ nấu cho cha bát xúp, nửa đêm mời cha xơi cho lại người.
Xong xuôi, Mến cũng theo ngách nhỏ bên hông nhà thờ trở về nhà. Bà Cả Ngật ngủ lâu rồi. Mấy hôm nay bà phải nghỉ hàng để tham gia chuẩn bị cho lễ dâng hoa. Hôm nay mọi sự đã xong, chắc mệt nên phải ngủ từ sớm. Mến cũng thấy mệt bã người, thay quần áo ra xong là cô chui tọt vào giường, thả cho toàn thân trôi vào miền vô cảm kỳ bí.
Nhưng gần về sáng thì Mến tỉnh dậy, chạy vội ra đằng sau bếp nôn thốc nôn tháo. Bắt đầu từ hôm ấy, hầu như sáng nào Mến cũng nôn khan. Mùi cháo lòng là kẻ thù của khứu giác Mến. Cứ mỗi khi nồi cháo sôi ùng ục, hơi mỡ quẩn với mùi tiết, mùi gạo thoảng bay khắp gian buồng là Mến lại vuốt cổ nôn khan. Gân xanh ở cổ Mến nổi những đường mờ mờ. Mến hay thấy mệt và thèm ăn chua. Vào nhà thờ lấy nước, mắt trước mắt sau thế nào Mến cũng phải vặt được một thứ quả gì đó ở trong vườn. Những đổi thay ở Mến không qua được mắt bà Cả Ngật. Bà chết sững người. Bà lôi ngược tóc Mến từ dưới bếp lên nhà trên, vả cho tối tăm mặt mũi rồi hỏi:
- Mày bôi tro trát trấu vào mặt bà như thế à? Mày ăn nằm với ai? Bà tống mày ra khỏi nhà chứ bà không để cái giống mèo mả gà đồng ở trong nhà bà nghe chưa? Nói ngay, mày ngủ với ai?
Mến vừa đau, vừa sợ, cứ khóc ưng ức ở trong cổ họng. Bà Cả Ngật giậm chân bình bịch ở nhà trên rồi lại vỗ đùi bành bạch chạy xuống nhà dưới. Bà xót công nuôi nấng từng ấy năm của bà. Bà tiếc đứt ruột vì cái dự định của bà bị hỏng. Bà đã có ý gả con Mến cho anh cai Doãn, lính ở trên quận, vẫn thường đến quán ăn của bà. Nghe ra anh ta cũng ưng ý, bàn tới bàn lui, cả hai đều hả lòng rồi, chỉ còn hẹn ngày nữa thôi. Nhưng thế này thì bà mất cả chì lẫn chài rồi. Thế này thì còn ai rước cái của nợ kia về nhà nữa. Rồi lại suốt đời cắm mặt xuống đất làm lụng nuôi con và ôm lấy cái tiếng không chồng thôi. Sao số bà khổ thế, nhục thế? Ông trời sao nỡ đày đoạ bà thế, cho bà rước cái của lăng loàn, đĩ thõa, ngu đần kia về làm gì để bây giờ muối mặt với thiên hạ, nhục nhã với giáo giới, đồng đạo. Mà ai mới được chứ, nó có đi đâu ra khỏi nhà bà đâu nhỉ? Suốt ngày làm lụng với bà, chỉ có mấy hôm vừa rồi sểnh ra ít bữa lo việc ở nhà thờ thôi, chẳng lẽ nó đã kịp hủ hóa nhanh đến thế? Bà Cả Ngật đau đớn, rền rĩ, đánh đập Mến chán tay rồi lại ra ngồi bệt giữa nhà than khóc. Mến cũng thấy nhục nhã quá, thương bà Cả Ngật quá nhưng đâu có ngờ mọi sự nó lại ra thế này. Khốn khổ cho cái thân Mến, khốn nạn cho cái đời Mến, nhìn bà mẹ nuôi như đang đứt từng khúc ruột, ngồi hời lên những tiếng ai oán, thảm thiết, Mến lại càng thấy ân hận. Ai mà biết được cái chuyện trai gái lại dễ dẫn đến những điều phiền phức như thế này. Đời Mến chỉ va chạm có một lần duy nhất với cái người đàn ông tưởng đã chết ở chân núi Cô Hồn đấy thôi. Lần thứ hai là với cha Phăng, mềm oặt, ngúc ngắc như một thân chuối đổ sau bão. Sự va chạm với cha Phăng không gợi lên điều gì cả. Nó không phải là sắc dục. Nó không phải là chuyện của đàn ông và đàn bà. Nhưng nếu là cha Phăng thì sao nhỉ? Có thể bà Cả Ngật sẽ đỡ đau đớn, chua xót hơn chăng? Liệu có đỡ tủi phận, muối mặt, nhục nhã hơn không? Có thấy lòng mình thanh thản, vợi bớt đi những nặng nề, u ám hơn không?
Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Mến. Nó đến rất nhanh rồi cứ thế trở đi trở lại trong Mến. Và Mến quyết định nói cái điều mà cô cho rằng làm thế bà Cả Ngật sẽ bớt tủi nhục hơn. Lúc đầu, bà Cả Ngật ớ người ra. Chả nhẽ lại như thế thật sao? Cha Phăng là một con người vô cùng đáng kính trong con mắt bà Cả. Cha là người có thế lực cả ở bên đời lẫn bên đạo. Cha lại thuộc một dòng giống cao sang, có thể làm được những việc dời sông lấp bể, nếu con Mến có một cái gì đó với cha, tuy không đến nỗi tưng tưng sung sướng nhưng cũng không đến nỗi phải hổ thẹn. Thế là khí hỏa trong người bà Cả Ngật cứ tụt dần, tụt dần. Càng nghĩ, bà càng thấy nhẹ nhõm. Ừ, nếu thế thì đáng được an ủi quá đi chứ. Nếu thế thì con Mến cũng đâu đáng trách. Nó phải thế nào đấy mới được cha yêu, cha quý. Tất nhiên việc của cha là việc kín đáo, chuyện của cha là chuyện động trời, nhưng như thế chẳng phải nhà bà là trường hợp hi hữu đặc biệt của cả xứ đạo này đấy sao? Mà cái lẽ hi hữu ở đây nó huyền diệu lắm. Nó mang lại cho bà Cả Ngật một cảm xúc thầm kín, không nói ra được nhưng vô cùng phấn khích.
Bà Cả Ngật xoay ra đối xử với Mến khác hẳn mấy ngày vừa qua. Bà thì thụt qua lại chỗ cha Phăng, rồi chăm lo cho Mến đến đầu đến đũa, cứ như thể Chúa đã gửi gắm cho bà một việc trọng, cao cả mà đắng cay lắm, vinh quang đấy nhưng cũng là kiếp nạn thử thách phải gánh chịu. Mến tự dưng thoát khỏi tình trạng khốn nhục, tiếp tục sống trong nỗi phấp phỏng lo âu, vừa căng thẳng vừa mừng vui, vừa chờ đợi một điều gì đó rất mơ hồ lại vừa hốt hoảng sợ hãi cho cái kết cục sẽ phải đến trong nay mai không biết sẽ ra sao?
Bây giờ thì cái kết cục ấy đã đến.
Sau những giờ phút vật vã, khổ sở đứa trẻ đã ra đời từ Mến và nó ngay lập tức bác bỏ cái danh phận hờ được khoác lên người khi còn ở dạng bào thai.
Cả bà Cả Ngật và cha Phăng dường như đều không bận tâm lắm đến cái sắc diện của đứa trẻ, mặc dù họ cũng hơi có chút lấn cấn trong lòng khi lần đầu nhìn thấy thằng bé. Niềm tin được thắp lên trong họ cháy âm ỉ suốt một năm qua, không dễ mà tắt phụt đi được. Bà Cả Ngật rất yêu đứa trẻ. Hình như với bà, đứa trẻ là sự gửi gắm của Chúa, nó có giống cha Phăng hay không, bà chẳng lấy làm bận lòng về điều đó nữa. Thằng bé ăn khỏe, ngủ khỏe, đôi mắt lúc nào cũng mở to nhìn lên trần nhà, trong trẻo nhưng thoáng u buồn. Nó có vẻ hiểu sự ra đời của nó là trớ trêu và nó không ngừng lý giải cho cái sự trớ trêu ấy bằng một cơ thể khỏe mạnh, một đôi mắt trầm tư, khắc khoải, lúc nào cũng như đang dõi về xa xăm, trắc ẩn và đầy dự cảm bất hạnh.
Cha Phăng cũng yêu thằng bé chả kém gì bà Cả Ngật. Có lẽ trong thẳm sâu vô thức của người đàn ông hiến cả đời mình cho sứ mệnh hành đạo này cũng có khát vọng trường tồn hiện sinh bản ngã. Khát vọng ấy được bắt cháy một cách mơ hồ trong ông ta, đến khi đứa trẻ ra đời thì nó không thể tắt được nữa, nó - cái khát vọng nhỏ nhoi ấy - cứ cháy mãi trong bầu khí giả tưởng ẩn sâu dưới đáy góc tâm hồn. Vì thế cậu bé Minh Việt được hưởng một cuộc sống đầy yêu thương mà không cần biết tới cái khắc nghiệt định mệnh đang đón đợi. Những tháng tuổi đầu tiên của Minh Việt trôi đi cùng sự giãy chết của một thể chế đã úa tàn. Đội quân khổng lồ của người Pháp đang rã đám từng mảng, thời tiết chính trị biến động từng ngày, công việc hành đạo của cha Phăng đang có vẻ đi vào ngõ cụt. An Lạc nằm cách cảng biển Hải Phòng không xa. Khi những phát đại bác cuối cùng làm xong công việc của nó ở lòng chảo Điện Biên, An Lạc trở thành nơi dồn chứa tất cả các sắc lính thua trận. Hơn tám năm về trước Trung đoàn hỗn hợp thuộc Quân đoàn 50 của Tưởng Giới Thạch buộc phải rút khỏi An Lạc sau khi đã tìm mọi cách ở lại mà không được. Sau đó đến những đội viên thị vệ của An Lạc cũng phải ngậm ngùi ra đi, mang theo lời thề sẽ có ngày trở về đuổi sạch người Pháp ra khỏi thị trấn. Suốt tám năm qua các đội viên thị vệ không ngừng mơ tới ngày băng qua sông Sầu Diện, vượt bến đò Lãng Tiên, tiến vào giải phóng thị trấn thân yêu của họ. Bây giờ thì An Lạc nằm trong vòng ngắm của họ rồi. Nguyên Bình cùng đội quân tiếp quản đã có mặt ở bên kia bến đò Lãng Tiên. An Lạc tạm thời còn đang là một khối bùng nhùng những quan quân thất trận, những tàn dư cũ nát của một thể chế đã lỗi thời, những con buôn chiến tranh và đám cò mồi chính trị, những khuôn mặt mệt mỏi, bơ phờ của đám giáo dân các xứ dồn tụ về chờ ngày được hót đi. Chúa đã vào Nam rồi, đám chiên ghẻ chẳng còn lý do gì để mà ở lại đất này nữa. Cha Phăng bận tối mắt, tối mũi với việc tổ chức cho đám chiên mà cha chăn dắt suốt bao nhiêu năm qua xuống tàu vào Nam theo Chúa. Toàn bộ số dân khu vực Nhà Thờ sẽ ra đi hết. Đành phải bỏ lại giữa lòng thị trấn An Lạc này ngôi thánh đường to đẹp mà Đức bề trên đã từng mất nhiều công sức xây dựng. Thị trấn Nét Mặt Buồn rồi đây sẽ chỉ còn dòng nước mắt chảy tràn cùng ngọn núi Cô Hồn như nốt mụn ruồi đơn lẻ bên cánh mũi phập phồng mà không còn tiếng chuông nhà thờ vang lên vào mỗi buổi chiều nữa. Việt Minh sẽ là những chủ nhân mới của thị trấn này, Nét Mặt Buồn sẽ chỉ còn là ký ức phai mờ trong lòng những người như cha Phăng mà thôi. Một trăm ngày là khoảng thời gian để các bên tham chiến tập kết về hai bờ vĩ tuyến mười bảy. Một trăm ngày này cũng là khoảng thời gian để những người như cha Phăng tích cực lo cho đám chiên sùng đạo di cư về phương Nam. Tàu Mơ-na và tàu Giê-nê-ran chở hết chuyến này đến chuyến khác, nửa triệu giáo dân đã rời cảng Hải Phòng theo về nước Chúa trên những chiếc tàu này. Các tàu chiến cũng tham gia chở giáo dân di cư. Lại thêm mấy trăm nghìn người nữa đặt chân xuống những chiếc tàu chiến của người Pháp, gửi gắm thân phận mình cho biển cả đưa về nơi Chúa ngự, bất biết nơi đến ở đâu, có những gì đang đón đợi? Bà Cả Ngật và Mến cũng đã chuẩn bị từ lâu, ráo riết nhưng âm thầm vì họ sẽ là những người ra đi cuối cùng. Hàng cháo lòng chưa bao giờ đắt khách như những ngày này. Cha Phăng cũng đã hứa sẽ để dành chỗ cho mẹ con bà Cả Ngật trên một chuyến tàu quân sự đặc biệt. Chuyến tàu này sẽ nhổ neo trước khi Việt Minh tiến vào thị trấn Nét Mặt Buồn.
Mến sẽ không khó khăn cho sự lựa chọn nếu cô không bất ngờ nhận ra người đàn ông ở chân núi Cô Hồn. Người đàn ông ấy bỗng dưng có mặt ở đầu phố Tứ Phủ trong bộ quân phục sậm màu, súng đeo trễ trước bụng, bước đi điềm tĩnh, đàng hoàng cùng vài ba người nữa. Hôm đó Mến đi lấy nợ cho bà Cả Ngật, khi ngang qua phố Tứ Phủ, tới trước cửa hiệu Lúa Vàng cũ, cô tò mò ngắm nhìn dòng chữ viết bằng phấn trắng, to đậm: Ủy ban quân quản lâm thời thị trấn An Lạc. Cạnh đó có mấy anh lính Việt Minh xách súng đứng gác. Mến thấy là lạ. Vậy là những người lính ở bên kia bến đò Lãng Tiên đã có mặt ở phố chính của thị trấn rồi. Họ là những người đầu tiên trở về đây sau hơn tám năm bị đẩy bật ra khỏi thị trấn. Rồi đây họ là chủ và những người như cha Phăng là kẻ thù của họ. Họ sẽ làm cỏ ngôi giáo đường vốn chứa vô vàn tội ác, sẽ treo cổ đám dân binh nhà thờ, sẽ đuổi những giáo dân chăm chỉ đọc kinh nhất lên núi ở với khỉ, sẽ xử bắn tất cả những ai từng làm cai, đội xách súng theo người Pháp. Mến rất lo sợ điều ấy xảy ra. Nhưng nghĩ đến người đàn ông của mình Mến lại thấy hồi hộp, mong mỏi, run rẩy, bồn chồn. Thật khó phân biệt được cảm xúc của Mến lúc này. Sự thực là cô chưa kịp hiểu gì nhiều về người đàn ông ấy. Ngay cả khi người ta làm chủ cơ thể cô, cô cũng chỉ nghĩ một cách giản đơn rằng chiến chinh là việc của những người đàn ông, còn đàn bà như cô chỉ biết yêu và yêu hết mình cho người đàn ông của mình mà thôi. Cô lớn lên giữa lúc chiến tranh đang chụp xuống quanh cô nhưng cô không hiểu gì về nó. Cô là người đứng giữa hai làn đạn mà không biết mình thuộc về phía nào. Ở cô chẳng có cái gọi là ý thức chính trị gì hết. Cô chỉ biết cô thuộc về người đàn ông có đôi mắt rất hiền đã từng nhìn cô mê dại bên hồ nước cạn trên ngọn núi Cô Hồn năm nào. Cô đã có con với người ấy. Theo lẽ thông thường thì đã có thể coi cô là vợ của người ta được rồi. Nhưng nếu bây giờ người ấy trở về và đuổi mẹ con cô cùng bà Cả Ngật lên núi ăn lá dại mà sống thì sao? Người ấy có thế lực, có súng đạn trong tay, có sự thâm thù với đám giáo dân một lòng thần phục cha Phăng, ai biết được người ấy sẽ làm gì khi An Lạc thuộc về Việt Minh? Mến cứ tần ngần trước cửa trụ sở đóng tạm của Ủy ban quân quản lâm thời mà nghĩ vu vơ về người đàn ông thầm kín của cô. Cô nhìn những người lính đi đi lại lại kia, thấy họ nghiêm trang nhưng có nét gì đó lành lành, dễ gần, quân phục trên người họ trông không gớm ghiếc, nhức mắt như những kiểu quần áo mà anh cai Doãn vẫn mặc. Sức mạnh toát ra từ họ không hàm chứa sự tàn ác như đám dân binh mà Mến vẫn thường gặp. Mến có thiện cảm với họ dù Mến đang rất lo sợ sự có mặt của họ ở thị trấn này. Những luồng cảm xúc trái ngược trong Mến không ngừng hành hạ cô. Lý trí không soi sáng được điều gì khi mà khoảng tối trong lòng Mến được đám dân Nhà Thờ dát một thứ hắc ín suốt bao ngày qua. Người ấy chưa từng hứa hẹn điều gì với Mến cả. Người ấy cũng không nói những lời mà đàn ông thường nói với đàn bà khi phải lòng nhau. Người ấy cứ thế chiếm ngự Mến như không thể không ăn trái cam trước mặt, không thể không hái bông hoa trong tầm tay với. Mến chỉ còn biết đờ đẫn trước hành động của người ấy, chẳng kịp nghĩ suy hay nói đúng hơn, chẳng muốn nghĩ suy gì hết, cứ thả lỏng mọi cảm xúc cho sự luyến ái âm thầm mà chằm bặp, lặng lẽ mà ngốn ngấu, rụt rè, e ngại nhưng không thể không đi đến cùng...
Giữa lúc những kỷ niệm vừa đẹp đẽ vừa nặng nề ấy len lén trở về trong Mến thì người đàn ông hiện ra ngay trước mắt cô như một cơn mơ trong giấc ngủ tạm. Người ấy từ trong trụ sở Ủy ban quân quản bước ra, vừa đi vừa nói chuyện với hai người đàn ông mặc quân phục nữa. Họ có vẻ như đang tập trung bàn bạc một vấn đề gì đó quan trọng lắm. Mến dụi mắt nhìn lại cho kỹ rồi không kìm nén được, cô cất tiếng gọi:
- Nguyên Bình!
Đúng là Nguyên Bình thật. Anh đang cùng mấy đồng chí của mình dừng lại trước cửa ngôi nhà dùng làm trụ sở Ủy ban quân quản để chờ xe tới đón đi. Nguyên Bình nghe thấy tiếng gọi, quay ra nhìn Mến từ đầu đến chân, mày nhíu lại như cố nhớ xem người đang đứng trước mặt mình là ai, rồi anh bỗng bước nhanh tới bên cô, nói một cách dứt khoát:
- Cô nhầm người rồi. Tôi không quen biết cô.
Giữa lúc Mến sững sờ không thốt nổi một lời thì người đàn ông luôn án ngữ trong tâm tưởng cô đã quay gót trở lui. Mến không tin vào tai mình nữa, chỉ thấy con phố Tứ Phủ như tối sầm lại. Mến vội vịn vào gốc cây bàng gần đó để giữ cho mình khỏi ngã. Cô cảm thấy đất dưới chân như đang chao đảo. Phía sau cô có tiếng của một người đàn ông cất lên:
- Ai vậy Nguyên Bình? Người quen của cậu hả?
Giọng Nguyên Bình gạt đi:
- Không, không. Báo cáo thủ trưởng, cô ta nhầm người đấy ạ. Kìa xe đến rồi, mời thủ trưởng lên xe cho kịp họp.
Quả là có một chiếc xe đang trờ tới và cả đám bọn họ lục tục mở cửa xe, bước lên. Mến úp nón vào bụng, rảo bước về phía cuối phố. Mến đi như chạy, trong đầu như có cả một đàn ong đang bay. Đúng là Nguyên Bình rồi. Không thể có chuyện anh ta không nhận ra Mến được. Người đàn ông ấy đã cố tình phủi Mến đi như phủi một hạt bụi trong ký ức mà thôi. Có thể do công việc của anh ấy đang rất phức tạp nên buộc phải hạn chế tiếp xúc với những người quen biết cũ chăng? Hay anh ấy sợ Mến sẽ gặp họa giữa thời buổi nhốn nháo, hỗn quân hỗn quan này? Tất cả các ý nghĩ trong Mến đều không làm cô thỏa mãn, nó như những dòng sông có khởi nguồn mà không tìm ra tới biển cả. Nó làm cho đầu óc cô như muốn vỡ tung ra. Thái độ của người đàn ông ấy thật quá khó hiểu đối với Mến. Mến không muốn tin anh ta là một người tàn tệ, vô tình, vô nghĩa. Mến tìm mọi cách biện hộ cho cách cư xử lạ lùng vừa rồi nhưng không sao yên được lòng mình.
Giữa lúc ấy thời hạn cuối cùng của khoảng thời gian một trăm ngày đã đến.
Toàn bộ giáo dân khu Nhà Thờ đã dứt bỏ An Lạc ra đi. Bà Cả Ngật và Mến được cha Phăng cho ngồi lên xe chạy một mạch ra tới bến tàu. Họ bước xuống một chiếc tàu chiến vẫn dùng để chở xe tăng. Cha Phăng xếp cho ba bà cháu một góc boong ở trên tầng hai. Bà Cả Ngật trải chiếu xuống mặt boong rồi mắc chiếc võng gai lên cho mẹ con Mến nằm. Cha Phăng ở một phòng riêng trên tầng ba của con tàu. Thỉnh thoảng cha lại xuống boong bế thằng nhỏ con Mến, đi đi lại lại giữa các tầng, nói những lời âu yếm với nó, cho nó những thứ bánh trái mà người ta dâng lên cha. Thằng bé bụ bẫm, đáng yêu lắm. Quần áo nó mặc trên người là thứ vải nhung lót lụa do chính tay cha nhờ mua ở mấy hiệu vải lớn bên phố. Cổ chân nó đeo lục lạc bằng bạc cũng do chính tay cha tặng. Nó có đôi mắt đẹp nhưng buồn. Nó không khóc, không cười, ai bế cũng được, riêng với cha Phăng nó tỏ ra khá quyến luyến.
Buổi chiều hôm đó, Mến ôm con trong lòng mà mắt không rời bến cảng. Mến đã nhận ra một dáng dấp quen thuộc. Phải, vẫn là người đàn ông ấy. Anh ta đang đứng dưới chiếc dù che tạm nơi đầu cầu cảng, lúc thì lật lật sổ sách để trên bàn, lúc quay ra trao đổi bàn bạc gì đó với mấy người xung quanh. Họ đều mặc quân phục cả. Thái độ của họ khẩn trương, nghiêm túc lắm, cả một chút lạnh lùng nữa. Bỗng Mến nhìn thấy từ phía ngoài cổng cảng hàng đoàn lính Pháp và lính Việt nối đuôi nhau tiến về chỗ mấy con tàu đang đỗ. Nguyên Bình và những đồng chí của anh đang làm những thủ tục cuối cùng cho đội quân thất trận xuống tàu rút đi. Anh là người chiến thắng. Trong nỗi mừng vui này anh chưa biết là mình còn có một cậu con trai nữa. Anh cần phải biết điều đó. Và Mến đã gào lên:
- Nguyên Bình! Nguyên Bình!
Nguyên Bình đang bước từng bước chậm rãi trên cầu cảng. Tiếng gọi của Mến làm anh sững lại. Mến giơ cao đứa bé lên cho anh ta nhìn thấy. Nhưng anh ta đã lại bước đi về phía bờ kia của cầu cảng, khuất sau những người lính Pháp đang xếp hàng xuống tàu. Mến lại gọi:
- Nguyên Bình! Nguyên Bình!
Tiếng gọi của Mến chỉ làm một người duy nhất đang đứng trên mặt boong gần đó, giật mình!
Chương 4
Sau này, trong tất cả các bản khai lý lịch của mình, tôi đều ghi: Tôn giáo: Không!
Nhưng thực ra tôi đã được nhận lĩnh bí tích Rửa tội sau hai tuần tuổi. Tôi còn có tên thánh là Phê Rô. Tôi đã gia nhập đạo khi còn chưa biết gì, và sau này, cũng vì chưa biết gì về đạo, tôi là người không tín ngưỡng.
Đã là người theo đạo, không ai lạ gì việc thụ lĩnh các bí tích. Có bảy bí tích cả thảy: Rửa tội, Thêm sức, Mình Thánh Chúa, Giải tội, Xức dầu Thánh, Truyền chức Thánh và Hôn phối. Không phải tín đồ nào cũng được nhận đủ bảy bí tích nói trên. Những người như cha Phăng sẽ không có bí tích Hôn phối và những người như bà tôi sẽ không được nhận bí tích Truyền chức Thánh. Tất nhiên cũng có những trường hợp đặc biệt có thể lĩnh đủ bảy bí tích, đó là các vị linh mục xuất tu lấy vợ. Tôi cũng có thể coi là một trường hợp đặc biệt, vì tôi chỉ được nhận một trong bảy bí tích mà thôi.
Hôm ấy, khi tôi được hai tuần tuổi, bà bế tôi vào nhà thờ cho cha Phăng làm lễ Rửa tội. Bà mặc cho tôi một chiếc áo lụa màu mỡ gà có viền vàng thẫm. Đó là chiếc áo choàng kiểu cung đình có dây lưng thắt lại ở trước bụng. Tay và chân tôi đều được đi vớ màu trắng ngà, sợi rút màu đỏ có đính các hạt gỗ thơm. Cha Phăng cầm một cành dương liễu nhỏ nhúng vào bình sứ trắng viền vàng in hình Đức Mẹ đựng đầy nước lã tinh khiết rồi rẩy lên đầu tôi. Vừa rẩy nước cha vừa đọc: Ta rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần...
Sau buổi lễ này cha Phăng đã quàng vào cổ chân bên trái của tôi một chiếc vòng bạc. Chiếc vòng này được làm rất kỳ công. Nó có hình con rắn, đầu và đuôi ngậm chặt vào nhau, ngoài những đường nét hoa văn chạm khắc cầu kỳ, đầu con rắn còn được gắn một viên đá màu xanh lam, nhỏ như hạt vừng. Đây là một ân sủng của cha Phăng đối với tôi. Bà rất lấy đó làm hãnh diện. Bà chẳng tiếc tôi điều gì. Bà sắm cho tôi đầy một thúng quần áo, tã lót, khăn, vớ, tất, mũ, giày, dép. Bà mong chờ tôi lớn lên từng ngày để diện được tất cả những thứ đó. Trong ngăn tủ của cha Phăng cũng chứa nhiều thứ để dành sẵn cho tôi. Có lần cha Phăng bảo tôi: “Con có đôi mắt của một giáo sĩ đấy con trai ạ!”. Ba tháng biết nẫy, sáu tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi, tôi tuân theo cái quy luật ấy của dân gian. Nhưng lúc tôi không tuổi là lúc xung quanh đang diễn ra những biến động lớn. Đứa trẻ sơ sinh của nhà bà Cả Ngật phổng phao dần lên chính vào khoảng thời gian một trăm ngày đặc biệt của lịch sử. Đây là khoảng thời gian cha Phăng và những người như bà chuẩn bị rời khỏi An Lạc để theo Chúa vào phương Nam. Đây cũng là khoảng thời gian để cho những người như bố tôi, những đội viên thị vệ năm xưa chuẩn bị vượt sông Sầu Diện tiến vào giải phóng thị trấn An Lạc. Tôi hưởng mọi niềm yêu thương của bà, của mẹ, của cha Phăng, của bõ Câm, của bà Quản hội Con hoa, của cả cộng đồng giáo dân quanh khu Nhà Thờ từ không tuổi đến một tuổi mà không hề ý thức được điều ấy. Bước sang tuổi thứ hai của cuộc đời, mọi niềm yêu thương ngày một rời bỏ tôi mà đi, dĩ nhiên tôi cũng không ý thức được điều ấy để mà níu kéo hay buồn tiếc. Đám dân khu Nhà Thờ lần lượt xuống tàu, bỏ lại sau lưng thị trấn An Lạc với ngôi thánh đường uy linh một thủa. Họ không muốn sống chung với những đội viên thị vệ đang tập kết ở bên kia bến đò Lãng Tiên, chỉ còn chờ vài ngày nữa thôi là sẽ vượt sông tiến vào thị trấn. Tôi chỉ còn được hưởng niềm yêu thương của bà và cha Phăng một cách gấp gáp, vội vàng. Cha Phăng dạo này bận việc suốt, chẳng mấy khi chịu gặp tôi. Bà thì tối ngày lo chuẩn bị cho sự ra đi. Hết bán hàng lại tìm cách thu gom tiền bạc, mua vàng dự trữ, bán những đồ đạc không mang theo được, nhắc nhở mẹ tôi thúc nợ chỗ này, đòi bạc chỗ kia, cả nhà cứ quay như chong chóng. Nhưng dù bận thế nào đi nữa thì bà vẫn không bỏ thói quen đọc kinh. Bà yêu quý tôi, ngoài việc cho tôi ăn mặc, bà còn nhồi cả những thứ bà tụng hàng ngày vào đôi tai trẻ thơ của tôi nữa. Tôi nằm trong chiếc nôi đan bằng mây được chuốt kỹ ánh lên màu nâu bóng. Chiếc nôi được gắn với một giá đỡ bằng gỗ, có thể di chuyển được. Bà thường đặt cái nôi nằm bên cạnh bà trong những lúc bà đọc kinh, dù ở nhà hay ra nhà thờ. Tôi ít khóc, mắt lúc nào cũng mở to, nhìn hút vào miệng bà. Như thế có vẻ như tạo hứng khởi cho bà nhiều hơn. Bà vừa đọc vừa làm dấu thánh và nhìn tôi âu yếm. Đôi lúc mắt bà lim dim. Lại có khi bà mải nhìn tôi đến quên cả làm dấu thánh. Bà không hề biết chữ nhưng lại thuộc rất nhiều kinh. Sáng, trưa, chiều, tối, ngày lễ, ngày chủ nhật bà đều đọc cả, mỗi lần đọc là một bài khác nhau. Tôi vô cùng ấn tượng về bài Kinh cầu các Thánh dài lê thê với những tên ông Thánh, bà Thánh loằng ngoằng, ngúc ngắc, khó nghe, khó nhớ vô cùng. Vậy mà bà vẫn đọc trôi chảy, đọc vanh vách trước con mắt mở to của tôi.
... Rất Thánh Đức Mẹ Chúa Trời
Rất Thánh Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh
Đức Thánh Mi-ca-e
Đức Thánh Ga-bi-ri-e
Đức Thánh Ra-pha-e
Các Thánh thiên thần cùng các Thánh Tổng lãnh Thiên thần
Chín phẩm các Thánh Thiên thần
Ông Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta
Ông Thánh Giu-se
Các Thánh Tổ tông cùng các Thánh Tiên tri
Ông Thánh Phê-rô
Ông Thánh Phao-lô
Ông Thánh An-rê
Ông Thánh Gia-cô-bê
Ông Thánh Gio-an
Ông Thánh Tô-ma
Ông Thánh Phi-líp-phê
Ông Thánh Ba-tô-lô-mê-ô
Ông Thánh Mát-thê-ô
Ông Thánh Xi-mong
Ông Thánh Ta-đê-ô
Ông Thánh Mát-thi-a
Ông Thánh Ba-na-bê
Ông Thánh Lu-ca
Ông Thánh Mát-cô
Ông Thánh Tê-pha-nô
Ông Thánh Lô-ren-xô
Ông Thánh Vi-xen-tê...
Các Thánh Đồng trinh cùng các Thánh Thủ tiết
Các Thánh Nam cùng các Thánh Nữ
Chúa hằng có lòng lành
Chúa tha tội chúng con
...
Bài kinh cứ thế kéo dài vô cùng vô tận. Tôi đã được thụ lĩnh một bí tích, tức đã nhận được dấu hiệu khả giác, linh hồn đã được thông ban ân sủng vô hình và thánh hóa nội tâm. Bây giờ lại hàng ngày được tráng rửa tâm hồn bằng những bài Kinh sáng, Kinh tối, Kinh chủ nhật, Kinh nguyện, Kinh cầu, Kinh dâng lễ dọn mình của bà. Chả biết Chúa thật có trên đời này không, chỉ biết lòng tôi luôn trống rỗng, niềm tin chưa kịp đến và ở lại thì đã bị đẩy bật ra khỏi đạo rồi. Cái hôm mẹ bế tôi xuống tàu ở cầu cảng số ba là buổi cuối cùng tôi được nghe những câu kinh từ miệng bà. Cũng là buổi cuối cùng tôi được cha Phăng bế ẵm và hôn những cái hôn nồng ấm lên hai bên má.
Khi mẹ bế tôi giơ lên thật cao, miệng không ngừng gọi to: Nguyên Bình! Nguyên Bình! đã làm một người đứng gần đó giật mình. Đó là một ngườiđàn ông đứng cùng mặt boong với mẹ. Ông ta mặc đồ ka ki vàng, đeo thắt lưng to bản, chân đi giày da đen bóng, đầu đội mũ lưỡi trai mềm, bao súng để trễ trước bụng. Ông ta là lính liên hiệp, đeo lon trung sĩ. Người đàn ông ấy tiến đến sát bên mẹ tôi và hỏi:
- Chị biết anh ta à?
Mẹ tôi giật mình nhìn sang người đàn ông lạ, miệng bỗng trở nên lắp bắp:
- Vâng... à không... à vâng. Nhưng sao ạ?
- Tôi là người quen của anh ấy. Nhưng tôi rất lạ là không hiểu sao anh ấy không chịu nhận ra tôi. Tôi đã tự hỏi không lẽ trí nhớ của anh ấy đã suy giảm? Hay là anh ấy sợ điều gì?
Mẹ bỗng òa lên khóc. Hình như nỗi tủi thân của mẹ được người đàn ông kia khơi nguồn cho tuôn chảy, cứ thế trào ra, nức lên thành tiếng khóc không sao nín lại được. Người lính thất trận có vẻ lúng túng trước những giọt nước mắt của mẹ tôi, ông ta bảo:
- Thôi, chị đừng khóc nữa. Chị là thế nào với anh ấy?
Điều mà mẹ tôi giữ kín suốt bấy nhiêu ngày qua giây phút này bỗng được xổ hết ra, thật thà và ai oán. Có thể anh lính thua trận kia có khuôn mặt chân thành quá, cũng có thể vì anh ta cũng đang tâm trạng như mẹ, buồn, giận, nghi hoặc, bất nhẫn nên mẹ dốc hết những điều sâu kín trong lòng ra chăng? Mẹ bảo:
- Em khổ lắm bác ơi. Anh ấy là bố thằng bé này đây. Đận đánh nhau năm kia bác còn nhớ không? Em gặp anh ấy chạy lạc vào núi Cô Hồn. Rồi em mang thai thằng này. Em tưởng anh ấy sẽ về nhận hai mẹ con em. Ai ngờ anh ấy hờ hững như người dưng. Lại bảo em nhìn lầm người. Lầm làm sao được! Đúng tên, đúng hình ấy, vóc ấy, mặt ấy lại bảo không đúng người là sao? Em biết làm thế nào bây giờ hả bác? Chúng em mà đi lần này biết đến bao giờ mới quay trở lại được? Chẳng lẽ để thằng bé không được nhận bố? Thực sự thì anh ấy là người thế nào? Bác là bạn của anh ấy, bác có hiểu anh ấy là người thế nào không?
Người đàn ông mặc đồ lính trận ngồi bệt xuống mặt boong, tay cầm chiếc mũ vải để kẹp giữa hai đùi, chân hơi duỗi, mũi giày ghếch lên. Ông ta bảo:
- Tôi và anh ấy đã từng cùng học, cùng chơi với nhau. Tôi nợ anh ấy cái mạng sống này. Chúng tôi không thể đi chung với nhau một con đường nhưng tôi vẫn coi anh ấy là bạn. Chẳng hiểu sao anh ấy lại không nhận tôi nữa.
Mẹ hỏi:
- Đã bao lâu rồi bác không gặp anh ấy?
Người đàn ông bảo:
- Gần chục năm.
Mẹ bảo:
- Thế đã đành. Đằng này em và anh ấy mới gặp nhau có năm ngoái, năm kia thôi. Gặp tình cờ ở trong núi ấy mà. Đận ấy khiếp lắm. Em cứ tưởng anh ấy đã chết trong hốc núi, dưới đám lá xương sông...
Người đàn ông tủm tỉm cười rồi hỏi:
- Gặp nhau ngắn ngủi thế mà đã kịp có thằng cu này cơ à?
Mẹ giãi bày:
- Em khổ lắm bác ơi. Gần nhau có mấy ngày là em coi như mình đã thuộc về anh ấy. Bây giờ thằng bé lớn bằng ngần này rồi, chẳng lẽ bố con lại không nhận nhau?
Người lính liên hiệp vò vò chiếc mũ ở trong tay, tỏ vẻ ái ngại cho mẹ. Lát sau ông ta bảo:
- Chị nên gặp bằng được anh ấy một lần, nói rõ mọi điều cho anh ấy nghe, rồi tùy theo cư xử của anh ấy mà chọn cho mình việc đi hay ở. Tôi hiểu lúc này mọi việc đều rất phức tạp. Anh ấy là người của quân đội Việt Minh, kỷ luật của họ rất nghiêm và quan điểm chính trị của họ rất khô cứng. Nhưng biết đâu, khi đã rõ sự thật thế này, anh ấy lại liệu được. Việt Minh thì cũng phải có vợ, có con chứ? Tôi nghĩ thế.
Mẹ ôm chặt tôi vào lòng, sụt sịt một lúc rồi bỗng quay sang người đàn ông, nói như trút lòng mình:
- Em nghe lời bác, có khi em phải lên bờ tìm anh ấy. Bà cụ nhà em đang cầu kinh ở đầu boong kia. Nếu em không quay trở lại thì nhờ bác nói khéo với cụ hộ em nhé. Em ơn bác!
Người đàn ông có vẻ bất ngờ trước thái độ dứt khoát của mẹ. Ông ta bảo:
- Tàu sắp rời cảng rồi. Đây là những chuyến cuối cùng, chị phải lo việc của mình cho nhanh mới kịp.
Mẹ như không nghe lời ông ta nói, vụt đứng dậy, vừa nhìn về phía bà vừa len lén bước xuống cầu thang. Người đàn ông cũng bật dậy theo. Ông ta đi ngay đằng sau mẹ. Tới chỗ lên xuống giữa hai tầng tàu, ông ta giữ mẹ lại, thò tay vào túi móc ra một sợi dây chuyền màu vàng, bảo:
- Tôi linh cảm là chị lên bờ lần này sẽ không xuống lại nữa. Chị giữ vật kỷ niệm này của tôi cho đứa bé. Nếu anh ấy nhận chị và con, khi nhìn thấy chiếc dây này anh ấy sẽ nhớ ra tôi. Tôi là Thành, Tuấn Thành. Nào để tôi đỡ chị lên.
Mẹ trèo lên thành tàu rồi bước lên bờ. Người đàn ông chờ sẵn bế tôi trao cho mẹ. Mẹ ôm tôi, cứ thế chạy về phía có tấm dù che tạm ở đầu cầu cảng số Ba. Mẹ hỏi một câu gì đó với người đàn ông đang ngồi trên ghế. Người này quay ra bảo:
- Anh Nguyên Bình đang ở trong khu nhà hai tầng kia, chị vào đó mà tìm.
Theo tay chỉ thì người mà mẹ tôi muốn tìm đang có mặt ở đâu đó trong khu nhà quét ve màu vàng ẩn sau rặng phi lao phía đầu cầu cảng số Một. Mẹ đi như chạy về phía khu nhà ấy. Đằng sau mẹ bỗng hàng loạt âm thanh chói gắt rú lên inh ỏi, trên nóc những con tàu những cột khói phụt ra, quẩn vào nền trời đang tắt nắng. Hình như có tiếng thét gọi mẹ và tôi. Đúng rồi, tiếng gọi lạc giọng của bà! Bà đã dứt ra khỏi bài kinh cầu của mình và đang hốt hoảng tìm kiếm mẹ con tôi trên các mặt boong. Mẹ vẫn đi như chạy. Có một niềm hy vọng đang lớn dần lên trong mẹ. Nhưng những người lính gác đã không cho mẹ bước chân vào ngôi nhà hai tầng quét ve màu vàng. Họ bảo:
- Đây là khu quân sự, nhà chị tìm ai mà vào đây? Dân di cư tập trung ở phía đằng kia cơ mà?
Mẹ nói trong hơi thở hổn hển:
- Xin các anh cho tôi gặp anh Nguyên Bình. Anh ấy cũng là nhà binh như các anh. Mấy anh ở cầu cảng bảo anh ấy đang ở đây - À, họ vừa lên xe về rồi - Những người lính gác bảo với mẹ vậy - Chị là vợ anh ấy à?
- Vâng, tôi rất cần gặp anh ấy - Mẹ đáp vội vã.
- Thế thì chị cứ ở đây chờ, chỉ tí nữa thôi lại có chuyến xe chạy về tỉnh đấy. Tưởng chị là dân di cư?
- Không, không, tôi đi tiễn người nhà thôi - Mẹ bỗng trở nên hoạt bát, nói năng trôi chảy hơn và không còn thở hổn hển nữa.
Đúng là lại có xe chạy về tỉnh thật. Chiều tối hôm đó mẹ con tôi có mặt ở trước trụ sở Ủy ban quân quản. Vắng tanh vắng ngắt. Đứng chờ mãi vẫn chẳng thấy có ai ra mở cửa, sốt ruột quá, mẹ hỏi một người đi ngang qua phố:
- Bác ơi, những người vẫn đứng gác ở đây họ đi đâu hết rồi hả bác?
Người này nhìn mẹ con tôi từ đầu đến chân rồi bảo:
- Nhà chị này chẳng biết gì cả. Họ chuyển hết về Tòa Sứ cũ rồi, chỗ dinh Tỉnh trưởng ấy.
Mẹ thở dài ngao ngán, thẫn thờ bước đi. Đến cuối phố, mẹ quặt về hướng Nhà Thờ. “Thôi, mẹ con mình về nhà cũ nghỉ đã, sáng mai sẽ tìm bố con sau”, mẹ bảo với tôi vậy.
Người mà mẹ gặp ở cửa nhà cũ là bà Quản hội Con hoa. Bà Quản vội nắm lấy tay mẹ tôi lôi ra một góc tối, thì thào:
- Sao cô chưa đi còn về đây làm gì?
Mẹ bảo:
- Con không đi nữa. Con không muốn xa đất An Lạc này bà ạ.
Bà Quản nói như rít lên:
- Thế thì không còn nhà cho cô về đâu. Toàn bộ khu này họ chiếm hết rồi. Chẳng ai dám về nhà cũ của mình mà ở. Họ bảo dân khu Nhà Thờ có nhiều nợ máu với cách mạng, sẽ giết tất. Bọn tôi phải chuyển xuống Xóm Đáy ở. Dân Xóm Đáy nghèo. Chế độ mới không giết dân nghèo, chỉ giết người giàu, người theo Pháp và người đi nhà thờ nghe cha Phăng giảng đạo. Tôi mò về nhà cũ xem còn ít đồ đạc nào thì lấy nốt mang xuống Xóm Đáy. Mẹ con cô cũng xuống đó đi thôi. Bây giờ hở mồm ra phải nói là sống dưới chế độ cũ bị bóc lột khổ lắm, nghèo lắm, thế mới sống được, nghe chưa?
Đó là bài học đầu tiên về cách sống dưới chế độ mới mẹ tôi được thụ lĩnh từ bà Quản. Rời nhà đi có một hôm, khi quay về mọi sự đã đảo lộn đến chóng mặt, mẹ chỉ còn biết ôm chặt tôi vào lòng mà khóc thầm. Tần ngần một lúc trước cửa nhà cũ, hai mẹ con tôi đành đi theo bà Quản xuống Xóm Đáy tìm chỗ ở. Cũng có vài ba nhà bỏ vào Nam đóng cửa để không. Bà Quản bảo:
- Cứ chiếm đại lấy một cái mà ở. Đã đi rồi chẳng ai còn dám quay về mà đòi đâu. Tao cũng thế. Cái nhà tao chiếm may còn đầy cả một bể nước mưa. Nếu cần nước mưa cứ sang tao nhá!
Cho đến mãi sau này tôi mới hiểu lý do vì sao bà Quản hội Con hoa lại không di cư vào Nam. Thời điểm ấy bà Quản đang phải lòng ông Mật rỗ. Ông Mật rỗ là người đàn ông kỳ lạ nhất thị trấn An Lạc. Mặt ông rỗ chằng rỗ chịt, tiếng ông rền vang như tiếng máy nổ, người ông to cao, thô rám như một cây bàng cổ thụ. Ông từng đi lính cho Pháp, thuộc đại đội địa phương quân, đóng ở gần Trại pháo thủ cũ. Tính ông nóng nảy, lại thích tự do và ghét Pháp nên hay lôi kéo binh lính bỏ trại. Sau này đại đội địa phương quân chia làm phe, trong một buổi rượu say hai phe đã xích mích và dùng súng bắn lẫn nhau. Ông Mật bị liệt vào hạng cầm đầu một trong hai phe nên bị đưa đi làm lao dịch ngoài mặt trận. Thời gian làm lao dịch ông có công cứu thoát gần một tiểu đội Việt Minh rồi cùng trốn lên rừng với họ. Ở rừng chẳng được bao lâu ông lại trốn về An Lạc. Từ ấy ông trốn chui trốn lủi, ngày bốc vác, đêm làm cướp, bị bắt lại trốn, đói rách lại đi cướp, cứ thế sống cho đến ngày An Lạc được giải phóng. Ông là người có sung năng tình dục mạnh mẽ chưa từng thấy. Ông có tới bảy người vợ cả thảy. Đấy là kể cả những bà sau này, còn khi bà Quản gặp ông thì ông mới có ba bà thôi. Bà Quản vừa xấu vừa thô, tính tình lại đồng bóng, thế mà dính vào với ông Mật rồi, không sao dứt ra được.
Hồi An Lạc đang một trăm ngày ông Mật tranh thủ mua bán, vơ vét, đổi chác, cả ăn chặn, ăn cướp nữa, nên sống khá phong lưu. Một lần ông bị Hiến binh Pháp đuổi bắt, súng bắn “pằng, pằng” ở phía sau, ông Mật chạy vòng vèo qua mấy phố rồi theo lối bờ đầm chui tọt vào nhà thờ. Bà Quản lúc ấy đang lúi húi quét dọn trước sân nhà nguyện. Bà vội nhét ông Mật vào gian để máy phát điện. Hiến binh vào tìm quanh một lúc không thấy liền rút đi. Tối ấy ông Mật vật bà Quản rình rịch ngay bên cỗ máy phát điện. Chưa bao giờ bà Quản được hưởng niềm lạc thú tuyệt vời đến thế. Bà Quản đưa ông Mật về nhà mình, suốt ngày quấn lấy nhau không rời. Mươi hôm sau ông Mật lại biến đi, thỉnh thoảng mới mò về với bà Quản một vài đêm. Tình đang nồng như thế, bà Quản không thể rời An Lạc mà ra đi được. Dưới chế độ mới ông Mật làm nghề chở xe bò. Ông có một gian nhà nhỏ, một vườn đất rộng và một cái đầm mênh mông. An Lạc chỉ có vài con phố, còn lại là những đầm nước, ao hồ, đồng ruộng bao bọc xung quanh. Hồi mới giải phóng nhà bỏ không nhiều, đất đai hoang hóa, bao nhiêu những trại lính, khu quân sự trước đây để cỏ lún, rêu phủ, cột kèo mối mọt, tường đổ từng mảng, chả ai ngó ngàng tới. Đám dân dưới đáy xã hội cũ như ông Mật nghiễm nhiên trở thành công dân của chế độ mới, tha hồ khai hoang đất đai, ao hồ, đầm phá. Ông Mật dựng thêm hai gian nhà cói ở hai đầu bờ đầm cho hai bà vợ ở. Bà ba có nhà riêng ở Đồng Tải rồi, bà Quản thì ở Xóm Đáy, ông Mật cứ thế thay phiên nhau làm nghĩa vụ với bốn bà, sau này còn thêm vài ba bà nữa.
Mẹ tôi lại mở hàng cháo để kiếm sống. Chế độ mới không cho giết mổ lợn như trước, mẹ phải bỏ món tiết canh và cháo lòng, chỉ nấu cháo đỗ hoặc cháo hoa bỏ đường. Mẹ cũng không ngồi một chỗ như bà mà thường quẩy gánh cháo đi bán rong khắp thị trấn. Những tháng ngày sau này mẹ âm thầm đi tìm bố, không biết đã gặp chưa, chỉ thấy mẹ rất buồn và thường khóc rấm rứt vào ban đêm, mỗi khi tôi ngủ say.
Tôi lớn dần lên, thành một đứa trẻ Xóm Đáy đặc sệt không lẫn vào đâu được, nghĩa là tóc thì cháy khét và người thì lúc nào cũng hôi mùi bùn đất. Bao bọc xung quanh xóm là bãi bờ cửa sông, ở đó có vô vàn thú vui cho bọn trẻ. Chúng tôi thường rủ nhau đi lội bùn, đi bắt còng rồi be bờ tát nước bắt cá, bắt tôm rồi đặt đó, đặt lờ bắt cua, bắt rạm, chán thì chơi trò tết những sợi cói lại làm chỗ chui ra chui vào hoặc ngủ luôn trong những đám cói đó sau khi đã nổi lửa nướng tất cả những gì bắt được, cho vào mồm. Rồi tập bơi, đánh trận giả, tập đan lưới, đan rổ rá, thỉnh thoảng mò xuống thuyền theo người lớn dong buồm ra biển. Năm tôi lên Năm tuổi tôi được bà Quản cho đi chơi xa. Gọi là xa, thực chất là đến nhà ông Mật rỗ ăn cỗ nhân dịp ông cưới bà thứ Năm. Đó là một ngày đáng nhớ trong đời vì chưa bao giờ tôi được đến một chỗ có nhiều trẻ con như thế. Riêng con ông Mật đã có tới bảy người. Đất đai, vườn tược, ao đầm nhà ông Mật quả là một thế giới mới lạ mà tôi khám phá suốt cả ngày không hết. Tôi được đám trẻ nhà ông Mật cho lên chiếc thuyền tôn chèo chơi trên mặt đầm. Quanh bờ đầm có nhiều thứ cây có quả ăn được. Cây sung, cây khế, cây doi, cây chay, cây duối, cây sắn, cây quất hồng bì, cây dâu da đất... Tôi đã ăn đầy một bụng sung chín. Những quả sung chín chỉ cần lấy tay bửa nhẹ là nó toác ra làm hai nửa. Bên trong những quả sung ấy có rất nhiều những con muỗi nhỏ, hay còn gọi là bọ gió. Tôi thổi cho những con bọ gió ấy bay đi hết rồi mới bỏ vào mồm nhai ngon lành. Bữa trưa hôm ấy tôi lại được đánh chén cỗ no nê. Tôi được xếp ngồi cùng chiếu với hơn chục đứa trẻ con khác. Chúng tôi tranh nhau bốc lòng, thịt, xương mà nhai, mà gặm, mà chí chóe cãi nhau, mà mách người lớn, mà khóc, mà cười. Bữa cỗ còn có cả khoai ninh và xôi trắng nấu dẻo nữa. Ông Mật đã giết một con lợn sáu mươi cân, đủ để làm một bữa cỗ phong lưu cho tất cả mọi người đến dự đám. Bà Quản nhọ đen, nhọ đủi, chạy ra chạy vào chỗ cửa bếp và cầu ao, miệng nói tay làm, mặt cứ giãn nở ra từng thớ, lẽ chừng cũng đang vui như chính ông Mật vậy. Ông Mật hôm ấy mặc một chiếc áo bộ đội còn mới, chỉ ngồi ở nhà trên tiếp khách, mặt chẳng ra vui chẳng ra buồn, thỉnh thoảng lại cười phá lên một tràng làm lạnh đít trẻ con. Trông ông cứ như là người đang lo làm đám cho con gái đi lấy chồng chứ chả ra người sắm vai chú rể. Tối muộn hôm ấy tôi mới về tới nhà. Mẹ hỏi: “Con có lấy phần cho mẹ không?”. Tôi bảo: “Có”. Và tôi móc trong túi quần ra một miếng gan lợn to bằng nửa bàn tay. Đây là món quà đặc biệt hậu hĩnh mà thằng Chột đã dúi vào tay tôi trong lúc cả nhà chưa ai được ngồi vào mâm. Mẹ hét lên một tiếng “Ối trời!” rồi vứt miếng gan lợn thâm xì, cứng queo ra sau nhà. Nhưng sau đó mẹ cũng có khen tôi ngoan, hiếu thảo, biết thương mẹ song mẹ không thể ăn nổi thứ tôi mang về. Sau cái ngày đáng nhớ đó khoảng mươi hôm bà Quản hốt hoảng chạy sang nhà tôi. Bà bảo:
- Cô Mến ơi, bà Tư nhà tôi chẳng hiểu sao bụng cứ chướng lên, cô với tôi lên viện trông bà ấy hộ ông Mật đêm nay, tôi đi một mình cũng được, nhưng ở một mình cạnh nhà xác tôi sợ lắm.
Thế là mẹ tôi cùng bà Quản te tái lên viện. Bệnh viện nằm ở gần Ngã Năm, qua Tòa công sứ cũ độ hơn cây số. Tối hôm ấy tôi ôm thằng Chột ngủ ở ngoài hành lang, mẹ tôi và bà Quản tựa lưng vào chân giường bệnh gà gật chờ trời sáng. Quãng nửa đêm tôi nghe thấy tiếng khóc nhưng chả thèm để ý, tiếp tục ôm thằng Chột ngủ. Sáng ngày ra, mở mắt chẳng thấy mẹ và bà Quản đâu. Tôi hớt hải chạy dọc dãy hành lang tìm kiếm. Một cô hộ lý bảo:
- Tất cả đang ở dưới nhà xác.
Tôi nghe mà lạnh mình. Thế là bà Tư đã chết. Gần trưa hôm ấy ông Mật cho xe bò lên nhà xác chở vợ ra bãi tha ma. Cỗ ván mộc được đặt giữa lòng xe, bên trên có để bát cơm quả trứng và một bó hương to đang cháy nghi ngút. Thằng Chột vừa khóc vừa đòi cạy áo quan ra để đòi lại mẹ. Nó khóc cho đến khi mẹ nó được đặt xuống đáy huyệt thì bỗng im bặt. Sau này nó bảo với tôi rằng lúc ấy nó sợ. Hỏi sợ gì, nó bảo không biết, chỉ là cảm giác thôi, khó diễn tả lắm, có lẽ là sợ sự biến mất đột ngột của người thân yêu nhất dưới cái đáy huyệt sâu hun hút kia chăng?
Ba ngày sau thằng Chột thành hàng xóm của tôi. Bà Quản quyết định đem nó về nuôi. Thằng Chột hơn tôi hai tuổi nhưng còi cọc nên chỉ cao bằng đầu tôi. Một bên mắt của nó không hiểu sao bị những sợi thịt loằng ngoằng phong kín lại. Lúc đầu tôi rất sợ khi phải nhìn vào bên mắt ấy của nó. Nhưng rồi cũng quen đi. Nó là một đứa bạn tốt. Cái gì nó cũng hay, cũng giỏi hơn tôi. Nó nhanh nhẹn, sáng ý và cười nói luôn mồm chứ không lặng lẽ, ẩn khuất, u sầu như tôi. Bà Quản là một bà tiên đối với mọi đứa trẻ mặc dù nhìn bà người ta có thể liên tưởng đến một mụ phù thủy. Bà có dáng đi huỳnh huỵch như vác gạo trên vai (nhưng khi hướng dẫn đám con hoa múa thì lại rất điệu đàng, uyển chuyển), có làn da dày như áo mưa, mặt thô, mắt trắng, bàn tay, bàn chân ráp như vỏ dứa (thế mà nấu ăn lại rất ngon, làm cỗ rất hoạt), có giọng nói khàn khàn, rền rền trong cổ, lại thô, lại tục, lại cứ như xói vào tai người ta (thế mà nghe bà nói chuyện ai cũng há hốc mồm ra). Nhưng ở với bà càng lâu càng thấy bà là người phụ nữ nhân hậu nhất trên thế gian này. Vào những hoàn cảnh phức tạp nếu bà tôi, mẹ tôi là những phụ nữ chỉ biết xử sự một cách thụ động và bế tắc thì bà Quản là người luôn tìm ra lối thoát hợp lý cho cách hành xử của mình. Cuộc sống đối với bà, vì thế, nhẹ nhàng hơn, bớt nặng nề hơn, dễ vượt qua hơn mặc dù bà là người bất hạnh. Bà Quản không có con. Bà bảo: “Chúa không cho đứa trẻ nào ra đời nhờ cửa mình thì đành nuôi những đứa trẻ ra đời từ cửa người khác vậy”. Bà rất yêu ông Mật, hoàn toàn tự nguyện chấp nhận cái kiểu sống đa thê của ông, lại còn vui vẻ, lại còn lo lắng cho cả cái “gia tộc Mật rỗ”, lại còn nhận về mình mọi thiệt thòi, khổ cực. Bà nhận nuôi thằng Chột như một sự đương nhiên. Bà còn bảo tôi: “Sướng nhá, thế là từ nay có cậu có cháu, dựa vào nhau mà sống, chẳng hơn à?” Như thế nghĩa là tôi phải gọi thằng Chột bằng cậu vì mẹ tôi vẫn xưng “con” với bà Quản. Thằng Chột về Xóm Đáy được chưa lâu thì mẹ tôi một hôm đi bán cháo về, bỗng lao vào giường khóc như mưa như gió, vật mình vật mẩy như mất vàng mất bạc. Tôi sợ quá, cứ ngồi bệt ở cửa không dám ho he, thút thít gì. Qua trưa, xuống chiều, vật vã mãi rồi mẹ tôi cũng thiếp đi. Tôi đói đến lả cả người mà khômg dám bước lại gần mẹ. Tiếng hời ai oán, thảm thiết của mẹ làm tất cả các sợi thần kinh trong tôi mềm nhão hết cả ra, tê liệt tứ chi, toàn thân rơi vào tình trạng vô cảm. Khi bóng tối bắt đầu buông xuống thì mẹ choàng tỉnh dậy. Như vậy là mẹ đã nằm cả ngày, bỏ mất buổi cháo chiều như mọi hôm. Mẹ bỗng nhìn thấy tôi ngồi bệt ở cửa buồng. Mẹ xốc tôi lên, nước mắt mẹ rơi xuống mặt tôi. Mẹ nói khào khào, giọng khản đặc:
- Thế là hết rồi con ạ. Bố con đi lấy vợ rồi. Bố con không đáng mặt đàn ông đâu. Bố con hèn lắm.
Tôi bảo:
- Mẹ tìm được bố con rồi à?
Mẹ gật đầu:
- Tìm được lâu rồi. Nhưng mẹ phải giữ cho bố con, mẹ không dám nhận. Bố con là người của chế độ mới. Người của chế độ mới không thể có mối quen biết với người của cha Phăng, của giáo dân khu Nhà Thờ như mẹ. Mẹ cứ tưởng rồi bố con sẽ tìm cách thu xếp. Ai ngờ bố con lại bỏ mặc mẹ con mình để đi lấy vợ mới. Biết thế này mẹ đi với bà vào Nam cho xong.
Tôi thương mẹ quá mặc dù chẳng hiểu nỗi mất mát trong mẹ nó to lớn đến đâu, đau đớn đến mức độ nào. Với tôi, cái người gọi là “bố” kia chẳng có gì đáng phải quan tâm cả. Tôi chưa bao giờ cần đến ông ta. Tôi cũng chẳng biết là có ông ta thì tôi được gì, hơn gì mà không có ông ta thì tôi sẽ thiệt gì, mất gì? Những điều mẹ nói với tôi lúc ấy phải tới hai mươi năm sau tôi mới hiểu được. Nhưng mẹ chỉ nói có thế thôi. Mẹ nhìn ánh mắt đờ dại, u tối của tôi, nhận ra rằng nó còn quá non dại để có thể hiểu những điều mẹ nói. Mẹ đặt tôi ngồi xuống một bên giường, thắp lên ngọn đèn dầu rồi ra sân rửa mặt mũi, chải lại đầu tóc. Sau đó mẹ bảo tôi:
- Đi, mẹ cho con đi ăn phở!
Tôi thấy mẹ lúc này khác hẳn với hồi chiều. Mẹ đã lấy lại được thần thái cho mình rồi. Sau này tôi tự lý giải rằng khi ấy mẹ đã làm ma xong hình ảnh của bố, đã rũ sạch cái mối tình duyên trắc trở và lắm ưu phiền của đời mẹ. Để rồi sau đó mẹ con tôi thong dong đi ăn phở. Hai mẹ con phải đi tới hơn cây số mới đến phố Tứ Phủ. Mẹ dắt tôi vào hiệu Lúa Vàng cũ, bây giờ có tên mới là Cửa hàng ăn uống mậu dịch Tứ Phủ. Mẹ mua hai vé ở quầy ngoài rồi đi vào gian trong đưa hai vé đó cho một người phụ nữ mặc chiếc áo khoác màu trắng dài quá đầu gối, trên ngực có in một dòng chữ màu xanh cong theo hình bán nguyệt. Người phụ nữ ấy xiên hai chiếc vé vào một que sắt nhọn có bàn đáy bằng gỗ. Sau đó cô ta vào bếp mang phở ra cho hai mẹ con tôi. Đó là lần đầu tiên tôi được ăn phở mậu dịch. Sau này tôi còn được qua lại chỗ cửa hàng ăn uống này nhiều lần nữa, thậm chí còn trở nên thân thiết với nó. Mẹ tôi không thể hình dung ra nổi điều đó. Mắt mẹ không ngừng quan sát người phụ nữ bê phở ra cho chúng tôi. Rồi mẹ nhìn ngó, để ý tất cả những người đang làm ở cửa hàng để kiếm tìm một dáng hình nào đó nhưng cái dáng hình đó không có ở đây. Cái dáng hình đó làm sao có ở đây được vì cô ta mới làm đám cưới sáng nay. Giờ này cô ta đang ở bên người chồng của mình. Mẹ đến cái nơi cô ta làm việc để cố hình dung ra con người cô ta thế nào chứ chắc mẹ cũng biết là cô ta không thể có ở đây vào giờ phút này? Tôi đã ăn xong lâu rồi mà mẹ vẫn còn ngồi đờ đẫn trước bát phở nguội ngắt. Bao nhiêu thịt mẹ đã gắp cả sang bát tôi, bát phở của mẹ bây giờ chỉ còn vài cọng hành nổi trên mặt đám bánh đã nở hết cỡ. Cuối cùng mẹ cũng chẳng ăn hết bát phở của mình. Mẹ chỉ húp tí nước rồi đứng dậy dắt tôi ra về.
Sau này mẹ không nói gì với tôi về bố nữa. Tôi cũng coi như không cần phải nghĩ đến chuyện ấy. Nhưng rồi tôi cũng đã được gặp bố. Tôi gặp bố trong một hoàn cảnh chẳng nên có chút nào. Tôi gặp bố trong tâm trạng của thằng Chột một năm về trước khi nó đòi cạy áo quan để đòi lại mẹ.
Phải, tôi gặp bố khi đang ngồi trên chiếc xe bò của ông Mật rỗ, trước mặt là chiếc quan tài của mẹ. Bố tôi đi đằng sau đám tang, trên một chiếc xe đạp hai dóng, khung sắt, có đính biển số màu trắng. Tôi nhìn ông, ông nhìn tôi, rõ ràng như người dưng thế mà ánh mắt cứ bắt chặt lấy nhau, đẩy đưa, trao đổi những tín hiệu linh cảm thật lạ lùng.
Tôi không gào khóc xé ruột xé gan như thằng Chột mà chỉ ngồi lặng yên cho nước mắt trào ra. Tôi là một đứa trẻ kháu trai nhưng có đôi mắt buồn. Đã có rất nhiều người lớn bảo với tôi thế. Một đứa trẻ kháu trai có đôi mắt buồn quấn trên đầu vành khăn tang trắng ngồi thẫn thờ trước cỗ quan tài trên xe bò kéo sẽ thế nào nhỉ? Hình ảnh ấy hẳn gây xúc động cho bố tôi, cho bà Quản, cho thằng Chột và những người hàng xóm của tôi nữa. Tôi thấy họ chép miệng rồi quay đi đưa tay áo lên chấm mắt. Riêng bố tôi, ông không khóc nhưng mắt ông đỏ hoe.
Thế là tôi trở thành đứa trẻ mồ côi khi chưa đầy sáu tuổi. Bà Quản lại mang tôi về nuôi. Cũng bắt đầu từ ấy tôi phải chính thức gọi thằng Chột bằng cậu. Người thân duy nhất của tôi bây giờ, ngoài bà Quản ra, chẳng còn ai khác ngoài... cậu Chột!
Phần 2- Những tháng ngày chưa xa
Chương 5
Cho đến mãi sau này, khi đã lớn, được nghe mọi người nói lại thì Minh Việt mới biết nguyên nhân cái chết của mẹ là do mắc bệnh lỵ.
Thứ bệnh ấy là tai họa của trời đất giáng lên đầu lũ dân nghèo đói và tăm tối. Ở thời tương lai, người ta chỉ cần nhét vào miệng người bệnh vài viên thuốc bé con là đám trực khuẩn sẽ bị quét hết ra khỏi cơ thể, nhưng dân Xóm Đáy thời bấy giờ chỉ biết chữa đau bụng bằng cách uống nước gạo rang. Cô Mến cứ nằm trên giường uống hết nồi nước gạo rang này đến nồi nước gạo rang khác. Uống vào bao nhiêu thì tháo ra đằng hậu môn bấy nhiêu. Đến nỗi cô không còn quần để mặc, phải dùng tất cả các loại khăn khố lót xuống dưới giường, chốc chốc lại thay ra mang đi giặt. Bà Quản là người chăm sóc cô Mến suốt mấy ngày đi kiết ròng rã đó. Bà giặt rồi phơi đám giẻ của cô Mến như người ta phơi tã lót cho trẻ con. Đi ngoài liên tục mấy ngày như thế, cơ thể cô Mến mất nước, tọp như một xác tôm, sức lực cạn kiệt nhanh chóng. Thấy cô Mến yếu quá, bà Quản mới vội bảo ông Mật đánh xe bò chở lên bệnh viện. Ở bệnh viện được một ngày thì người ta đưa cô Mến xuống nhà xác. Sức đề kháng của cô Mến đã thua những con vi khuẩn mà y học hiện đại rất coi thường. Minh Việt còn quá nhỏ để hiểu những gì đang diễn ra trong mẹ. Nó chỉ nhớ là mẹ nằm ly bì trên giường, thỉnh thoảng lại ngóc đầu tu ực một bát nước gạo rang. Rồi mẹ nhăn nhó, quằn quại, nước mắt trào ra hai bên khóe, mồ hôi lấm tấm bờ trán, tóc tai mẹ xơ xác, khuôn mặt mẹ nhàu nhĩ, phờ phạc. Đến khi ông Mật rỗ đưa mẹ lên bệnh viện Minh Việt còn vui mừng vì lại được lên xe bò đi chơi xa. Sau này thỉnh thoảng Minh Việt lại có những lúc bất chợt thấy trong lòng rỗng rễnh đến lạ lùng. Cảm giác bơ vơ, trống trải, lạc loài thường trở đi trở lại trong nó, kể cả khi đã lớn. Những ngày mới mất mẹ, Minh Việt thường hay ngồi bệt trước cửa nhà, đầu óc chìm đắm vào một cõi mông lung, mơ hồ nào đó, như hóa đá. Bà Quản đi làm về nhìn thấy thế, thương lắm nhưng chẳng biết làm thế nào để khỏa lấp đi khoảng trống sâu hoắm trong lòng nó. Đám trẻ trong xóm gọi nó là Việt thiu. Cái biệt danh ấy gắn liền với Minh Việt suốt cả cuộc đời sau này. Bà Quản nhiều lần bảo thằng Chột đưa Việt thiu đi chơi, lôi kéo nó vào những trò nghịch ngợm trẻ con để nó không còn nhớ mẹ nữa. Bà sợ nó trầm uất rồi thành điên dại, rồi có những hành động khác thường, lỡ có làm sao thì bà lại ân hận, lại thấy mình có lỗi dù giữa bà và nó chẳng có quan hệ máu mủ ruột rà gì.
Bà Quản nuôi Việt thiu đến năm lên tám tuổi thì một hôm bà bỏ dở buổi làm giữa chừng về tìm nó. Bà Quản làm nghề đội than, đội cát ở đằng bến đò Lãng Tiên. Hôm ấy chân tay, mặt mũi bà còn lấm lem bụi than. Bà bảo:
- Việt, con xách chiếc túi này rồi theo bà.
Việt thiu rất ngạc nhiên, nó hỏi:
- Đi đâu hả bà?
Bà Quản bảo:
- Bà không nuôi được con nữa rồi, bà trả con về cho bố con nuôi, con cứ đi theo bà, nhà ấy to rộng, con có phần ở đấy, con không được sợ, con phải giành giật phần sống của con ở trong ngôi nhà ấy, nghe chưa?
Việt thiu hoảng sợ:
- Con không đi đâu bà ơi, con muốn ở với bà, con xin bà...
Bà Quản hạ giọng ngọt nhạt:
- Nhưng con ơi, con có thân có phận của con, phận con không phải như thằng Chột, phận con không phải ăn khoai ăn sắn, không phải sống khốn sống khổ thế này. Con phải về phố Tứ Phủ. Phận con ở đấy. Con phải được ăn được học. Con phải cố mà kiếm lấy chỗ sống ở đó. Bà đã nói toạc với thằng bố con rồi. Hôm nay nó chấp nhận đón con. Đi, thôi đi theo bà. Rồi con lại về với bà, về chơi với cậu Chột. Nhưng con không thể ở đây được, con phải nghe bà, bà chỉ muốn tốt cho con thôi.
Việt thiu vừa mếu máo vừa bước đi theo bà Quản. Hết con đê vòng thì ra đến ngoài đường quốc lộ. Nó nhìn thấy một người đàn ông đứng bên chiếc xe đạp, dáng vẻ như đang chờ hai bà cháu. Nó nhận ngay ra cái biển số màu trắng gắn ở khung xe. Bố nó đấy. Người đàn ông nhìn nó suốt buổi đưa ma mẹ hai năm về trước. Bố nó bảo:
- Con lên xe đi, bố lai con về.
Bà Quản bế xốc nó đặt lên gác ba ga. Bố nó gò chân đạp luôn, chẳng nói một câu gì với bà Quản cả. Cũng chẳng nói năng gì với nó. Qua mấy dãy phố thì bố nó dừng xe lại. Nhà nó đây ư? Tường xây, mái ngói, một cửa chính, hai cửa sổ, vỉa hè rộng, có một cây bàng xòe tán phủ lên nửa mái nhà. Bố dắt xe vào. Nó lặng lẽ bước theo. Cái túi vải đựng đồ nó vẫn ôm khư khư trước ngực. Bố nó bảo:
- Con để đồ xuống chiếc bàn kia, rồi ngồi xuống ghế.
Nó làm theo như một cái máy. Bố đi vào nhà trong, lát sau mang ra cho nó một túi bánh bích qui vụn có nhiều mẩu cháy xám đen. Nó ăn ngon lành. Chưa bao giờ nó được cầm cả một túi bánh như thế. Và nó không phải chia cho ai cả. Nó vừa ăn vừa nhìn bố một cách lấm lét. Bố nó thì chốc chốc lại nhìn lên chiếc đồng hồ quả quýt để trên nóc tủ. Bố nó có vẻ sốt ruột. Nét mặt ông căng thẳng. Nó cứ ngồi ăn. Những mẩu bánh cháy hơi đăng đắng một chút nhưng nó vẫn tận hưởng thứ hương vị ấy một cách dè dặt và nhấn nhá. Bố nó lại nhìn đồng hồ. Kim ngắn đã chỉ chéo xuống góc dưới, bên phải. Một bóng người sà xuống trước cửa nhà nó. Người này hai tay dắt xe đạp, đầu đội nón, trước xe có cặp lồng, sau xe có túi vải và rau muống. Bố nó nói nhanh:
- Mẹ con đấy, con hãy ngoan ngoãn và lễ phép nhé!
Dứt lời, ông ra cửa đón vợ vào. Vợ ông nhìn xéo qua nó rồi dắt thẳng xe vào nhà trong. Bố nó cũng đi vào theo. Nó nín nặng chờ đợi. Hai người nói với nhau điều gì đó ở bên trong, rất lâu, mãi đến khi nó nghe thấy giọng của vợ bố nó cất lên, như ở ngay bên tai:
- Được rồi, để tôi ra xem nó thế nào. Nhục này thì cũng phải nuốt vào thôi chứ biết nhả ra làm sao, thiên hạ rồi người ta sẽ cười cho.
Nó nghe thấy giọng thì thầm của bố nó. Nhưng cái giọng thì thầm ấy lại bị cắt ngang:
- Anh để mặc tôi. Anh xê ra đi.
Rồi nó nghe thấy tiếng guốc. Nó bỗng nổi da gà. Nó sợ.
Nó cảm thấy như có ai thò tay vào bóp chặt lấy lồng ngực mình. Vợ bố nó đã ra tới trước mặt. Cảm nhận đầu tiên của nó là bà ta đẹp. Nhưng hơi khô lạnh. Bà ta nhìn thẳng vào nó rồi bảo:
- Nào, đứng dậy, ra đây!
Bố nó đâu? Nó không thấy bố nó đâu cả. Ông ở nhà trong làm gì? Tại sao ông đưa nó về đây rồi bỏ mặc nó rơi vào tình thế khốn khổ này? Nó len lén đứng dậy, bước tới trước mặt vợ bố. Vợ bố quét tia mắt như có lửa lên khắp người nó. Rồi bà bảo:
- Khoanh tay vào. Mồm đâu? Có biết chào không?
Nó sợ đến tê cứng cả người. Nó biết chào thế nào nhỉ? Nó bỗng nghĩ đến thằng Chột. Thằng Chột vẫn gọi các bà Tư, bà Năm nhà ông Mật là dì. Nó cũng sẽ chào như thế. Nó liền lấy hết can đảm cất lời nhưng mặt thì cúi gằm xuống:
- Con chào dì!
“Bốp”. Một cái tát như trời giáng vả vào mặt nó. Nó ngã soài ra đất. Mặt nó suýt vập vào bàn chân trái của người đang đứng trước nó. Mắt nó hoa lên nhưng nó vẫn nhận ra chiếc guốc có quai màu đen ở ngay trước trán. Nó lồm cồm bò dậy. Vợ bố nó vẫn đứng yên chờ đợi. Nó lại khoanh tay trước ngực dù rất muốn khóc oà lên.
- Tao là dì mày bao giờ? Tao về làm hai cho bố mày từ bao giờ? Bố mày hỏi cưới tao đàng hoàng, thề sống thề chết với tao là chưa có vợ có con, lại nhờ cả tổ chức đến làm công tác tư tưởng tao mới chịu lấy bố mày. Ông Mộc còn kia. Tiểu đội trưởng cũ của bố mày đấy. Bây giờ là bí thư của thị trấn đấy. Vậy mà mày dám gọi tao bằng dì. Thế ra mẹ mày là cả còn tao là hai hử? Vậy về ở với mẹ mày nhá. Ở đây tao chỉ nuôi con tao thôi chứ tao không nuôi con người khác. Mày coi tao là mẹ thì tao nuôi, còn coi tao là dì thì đi, đi ngay khỏi nhà này. Bố mày muốn gửi mày cho ai nuôi thì gửi, tao không nuôi cáo để có ngày nó quay về núi, nhá? Nghe chưa? Cất mồm lên?
Sau một mớ những âm thanh khủng khiếp như thế là một bàn tay vuốt xuống cằm nó, hất lên. Bàn tay của vợ bố. Bà muốn nó nhìn thẳng vào mặt bà chứ không được cúi gằm mãi xuống như thế. Nó lại nghĩ đến thằng Chột. Bà Quản không phải là mẹ thằng Chột, và thằng Chột đã gọi bà là mợ. Người đàn bà trước mặt nó đây không muốn nó gọi bằng dì, nhưng bà không phải là mẹ nó, nó cũng sẽ gọi bà như thằng Chột gọi bà Quản vậy. Ý nghĩ ấy làm cái miệng méo xệch của nó phát ra lời chào không thành tiếng:
- Con chào mợ!
“Hả?”. Vợ bố nó tròn miệng, lông mày dựng đứng lên, bà không ngờ nó lại chọn một cái từ lạ hoắc như thế để thay cho cái từ “dì” đáng ghét lúc nãy. Đúng lúc bà đang không biết phải xử trí thế nào thì bố nó từ trong nhà bước ra. Ông không dám bước lại gần hai người. Ông đứng ở ngưỡng cửa và nói bằng một giọng từ tốn:
- Thôi mình ạ. Đã lâu rồi nó không quen gọi tiếng “Mẹ”. Nó sẽ làm quen từ từ. Mình đừng làm nó sợ quá thế, nó còn bé mà, mình hãy thương lấy nó.
Vợ bố nó bỗng hắt ánh nhìn như có lửa về phía bố:
- Ông đi vào trong nhà để tôi hỏi chuyện nó. Ông có đi không? Ông không đi tôi để mặc hai bố con ông ở đây tôi đi khỏi cái nhà này...
Vợ bố nó nói chưa hết lời thì bố nó đã quay khỏi ngưỡng cửa, bước vào phía trong. Thế là người duy nhất có thể bênh vực cho nó đã không còn đứng ở đó nữa. Tinh thần nó hoàn toàn suy sụp. Nó không còn một chỗ bấu víu nào, dù trong tâm tưởng. Thế này thì sấm chớp sẽ lại tiếp tục đổ xuống đầu nó thôi!
- Nào, mở túi lôi hết các thứ ra!
Vợ bố nó ngồi xuống ghế rồi chỉ vào bọc quần áo của nó, nói như ra lệnh. Nó vội làm theo, các ngón tay vừa tháo nút dây buộc vừa run cầm cập. Chẳng có gì ra hồn cả. Hai cái áo đều đã có miếng vá. Một cái quần dài màu xanh lá chuối rách chỗ đầu gối. Hai cái quần đùi vải nâu. Và cuối cùng, một chiếc túi vải nhỏ có thắt dải rút. Vợ bố nó bảo:
- Mở nốt ra đi!
Nó hơi do dự một lúc rồi lần tay tháo miệng túi. Chính nó cũng không rõ là trong đó có những thứ gì. Một chiếc vòng bạc có gắn lục lạc. Một chiếc dây chuyền đeo một tấm vàng mỏng hình chữ nhật. Vợ bố nó cầm mọi thứ lên ngắm nghía. “Lúa Vàng, sao lại có hình lúa vàng này?”. Nó lắc đầu:
- Con không biết. Đã lâu lắm rồi con không đeo những thứ này. Bà Quản cất cho con chứ con tưởng mất rồi.
- Thế mẹ con trước làm gì? - Vợ bố nó bỗng buông một câu nhẹ nhàng đến mức nó muốn òa lên khóc vì mủi lòng. Nét mặt bà đã mềm lại rồi, không còn khô cứng như lúc trước nữa. Ánh mắt của bà cũng đã ấm áp hơn. Bà không nhìn nó như nhìn một con chuột chết nữa. Tự dưng nó lại mếu máo: “Mẹ con bán cháo”.
Vợ bố nó bảo:
- Con đừng khóc. Mợ đánh con vì mợ giận bố con thôi. Bây giờ mợ dẫn con đi tắm rửa. Mai mợ sẽ mua cho con quần áo mới. Rồi mợ nấu cơm. Chờ bà và các em con về cả nhà sẽ ăn cơm. Nào, đi xuống bể với mợ.
Nó đi theo người đàn bà đã chấp nhận cho nó gọi bằng “Mợ” vào nhà trong, qua một khoảng sân, xuống chỗ bể nước. Lạ thật. Cũng người đàn bà này vừa nãy còn muốn nghiền nát nó ra, bây giờ lại ân cần kỳ cọ, tắm rửa cho nó. Cũng bàn tay này, vừa cho nó một cái tát vẹo mặt bây giờ lại luồn lách trên cơ thể nó như vờn như múa, mềm mại và yêu thương. “Khiếp, người với ngợm gì mà hơi toàn mùi bùn đất. Thế ở dưới Xóm Đáy ai tắm rửa cho con?”. “Con tắm sông. Thỉnh thoảng bà Quản mới tắm cho con”. “Bố có bao giờ xuống thăm con không?”. “Không”. “Sao thế?”. “Con không biết. Hôm nay con mới biết bố”
Càng hỏi chuyện nó, vợ bố càng dịu dàng hơn. Nó không hiểu thứ dịu dàng đó đến với nó lâu hay mau? Nó hồ nghi và cẩn trọng. Lúc nào nó cũng sợ sẽ có một cái tát bay vèo vào mặt. Khi trời nhá nhem tối thì bà nội và hai đứa em nó về. Nhà nó còn một lối vào nữa, đó là cái ngõ ở bên hông. Bà và hai đứa em nó đẩy cái xe cải tiến vào lối ngõ. Từ lối ngõ chiếc xe cải tiến được đưa vào khoảng sân sau. Trên xe là rau khoai lang và le. Bà và hai em đi hái rau và vớt le về cho lợn. Công việc này chỉ mấy ngày sau trở nên quen thuộc đối với nó. Nhà nuôi hai con lợn, lại cả một đàn gà. Le là thứ rau trời cho, rất sẵn ở các vùng đầm hồ. Le có thể nấu chín thành cám lợn hoặc cho gà, lợn ăn sống. Các thứ rau dành cho người ăn đều là thứ nhà nước phân phối, không sẵn, nên nhà nào nuôi lợn cũng phải vớt le. Le ở gần hết thì phải đi vớt ở xa. Đầm nông hết thì mò tìm ở các đầm sâu. Năm tuổi như cái Ánh hay ba tuổi như thằng Đình đều tham gia đi vớt le cùng bà. Bà nội đã ngoài sáu mươi nhưng còn khỏe. Tối bà ngủ cùng cái Ánh và thằng Đình. Nhưng từ hôm nay bà ra ngủ võng. Giường để dành cho nó cùng với hai em. Nó không hề biết rằng nó đã trở thành thành viên của một gia đình danh giá vào bậc nhất nhì thị trấn. Bố nó chính là phó chủ tịch Ủy ban hành chính đầu tiên của thị trấn An Lạc kể từ ngày hòa bình lập lại. Nó cũng không hề biết rằng sự có mặt của nó ở trong ngôi nhà này buộc bố nó phải từ bỏ chức vụ phó chủ tịch vì đã mắc tội không trung thực với tổ chức. Nhưng nó biết một điều, cả nhà đều yêu thương nó và người mà nó gọi bằng mợ rất yêu bố nó. Nó về với bố được vài tuần thì nó nghe lỏm được chuyện của hai người. Chuyện như thế này:
“Bố bảo:
- Hôm nay họp thường vụ, họ yêu cầu tôi phải giải trình ba vấn đề. Một là, trong trận tập kích năm xưa, tôi bị thương rút ra sau, trong thời gian đó tôi nằm ở cơ sở nào? Hai là, mẹ thằng Minh Việt có phải là người của cha Phăng không? Ba là, tại sao tôi lại giấu tổ chức, không báo cáo ngay sau khi tiếp quản thị trấn?
Vợ bố bảo:
- Thế mình nói với họ thế nào?
Bố bảo:
- Có thế nào thì nói thế ấy. Nhưng họ bảo phải xác minh lại. Tạm thời tôi phải nghỉ công tác phó chủ tịch, sắp tới có thể xuống đội thủy lợi. Tỉnh đang chuẩn bị xây cầu Lãng Tiên. Tôi xuống phụ trách dưới đó. Anh Mộc bí thư rất tin, rất muốn bảo vệ tôi nhưng anh ấy bảo phải xuống dưới đó thôi. Khi nào tình hình dịu đi thì mới tính tiếp được.
Vợ bố hỏi:
- Cha Phăng là ai mà có vẻ ghê gớm thế?
Bố bảo:
- Theo các anh ở bên quân báo thì Cha Phăng là một linh mục người Tây Ban Nha thuộc dòng Đa Minh, từng rất ghét Pháp nhưng lại bắt đầu làm việc cho quân đội Pháp từ những năm năm mươi, có nhiều nợ máu với nhân dân.
Vợ bố hỏi:
- Sao ngày mới tiếp quản anh không nhận mẹ thằng Việt?
Bố bảo:
- Không thể tin nổi chuyện đó xảy ra làm sao dám nhận? Anh Mộc lại đang giới thiệu mình cho tôi. Những ngày ấy tôi chỉ nghĩ đến mình thôi. Tôi cứ nghĩ chắc đó là con của người khác, ai có thể ngờ được chỉ một đêm bên chân núi...
Vợ bố bảo:
- Thế ra anh cũng khốn nạn lắm đấy nhá!
Bố im lặng một lúc rồi bảo:
- Hoàn cảnh nó thế.
Vợ bố bảo:
- Hoàn cảnh gì? Không có người ta thì anh chết rồi.
Bố bảo:
- Đấy là chuyện khác”.
Sau buổi chuyện ấy được một tuần thì bố không đi làm theo hướng Tòa Sứ cũ nữa mà đạp về hướng bến đò Lãng Tiên. Minh Việt được cắp sách tới trường, nhưng ngày nào cũng hai ba lần đảo qua chỗ mợ làm xem có gì thì mang về cho bà nội. Cửa hàng ăn uống mậu dịch không nằm ở phố Tứ Phủ nữa mà chuyển về Ngã Năm. Cả thị trấn An Lạc mới có một cửa hàng ăn uống quốc doanh như thế. Hai tầng. Nhà ngang, dãy dọc. Có xưởng kem. Có xưởng bánh kẹo. Có khu lò mổ. To lắm, đàng hoàng lắm, lịch sự lắm, văn minh lắm. Bất kỳ đứa trẻ nào đã từng đi học đến đấy cũng lẩm nhẩm đọc dòng chữ Vui lòng khách đến vừa lòng khách đi kẻ to, choán cả bức tường tầng một. Đó là tổng hành dinh của ngành thương nghiệp thị trấn, là đơn vị lá cờ đầu trong nhiều năm liền. Bây giờ Minh Việt mới hiểu cái cặp lồng mợ vẫn mang theo ích lợi thế nào. Trong đó có đủ các thứ sơn hào hải vị. Tôm chiên, mực xào, cá rán, thịt kho tàu, trứng muối, lạp xường. Lại cả kem, chè đỗ đen, bánh bích qui, kẹo lạc. Rồi bánh ga tô, thịt hộp, nước hoa quả... Ở cửa hàng ăn uống mậu dịch của mợ có thứ gì là mợ có phần thứ đó. Khi thì mợ đáo xe qua nhà, trút vội những thứ trong cặp lồng ra, khi thì chờ Minh Việt qua đưa cặp lồng cho Minh Việt xách về sau khi đã dặn dò kỹ lưỡng phải làm những gì những gì để bữa ăn của cả nhà luôn có chất tươi. Đó là những năm tháng tuyệt vời nhất dưới chế độ mới. Có một nhà thơ đã gọi những năm tháng đó là đỉnh cao muôn trượng. Tất nhiên, đặc lợi chỉ dành cho những người nhà nước, người có biên chế. Sau này vì phải dồn sức cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam, cuộc sống không còn được sung túc như thế nữa. Nhưng dù thế nào thì môi trường sống mới của Minh Việt cũng ngàn vạn lần hơn thời kỳ ở với bà Quản. Những hình ảnh nghèo nàn, xơ xác, quê kệch, tù túng, hoang dã nơi Xóm Đáy tự bao giờ cứ vắng dần đi trong ký ức của Minh Việt. Thi thoảng Minh Việt vẫn gặp bà Quản ở đâu đó, trên đường đi học hoặc những lúc la cà theo chúng bạn đi chơi, lần nào cũng thấy bà vội vội vàng vàng, đầu tóc xộc xệch, người ngợm nhếch nhác. Có một lần bà hỏi:
- Con mẹ cháu nó còn hay đánh cháu không?
Minh Việt tự nhiên cảm thấy khó chịu. Cậu bảo:
- Mợ cháu không ác như bà đâu, có bà hay đánh cậu Chột thì có.
Chẳng hiểu sao lúc ấy Minh Việt lại trả lời như thế. Bà Quản có đánh thằng Chột thật nhưng đấy là những lúc bà không bảo được nó. Mà nó lại là một đứa trẻ nghịch ngợm. Nghe Minh Việt trả lời như vậy bà Quản cười:
- Cha tiên sư bố anh, cũng biết bảo vệ mẹ kế cơ đấy, gớm thật!
Bà cười nhưng mắt bà như có hơi nước mờ đục bao phủ. Rồi bà bỏ đi, tất tả, vội vã, bước chân như có kim châm. Minh Việt muốn chạy theo nói một câu gì đó, đại loại là cháu không có ý bảo bà ác độc đâu, cháu nói một cách không suy nghĩ đấy thôi. Nhưng cậu lại cứ đứng ỳ ra đấy, mấy ngày sau còn ân hận mãi về lời nói của mình.
Đám trẻ ở phố Tứ Phủ cũng bắt đầu gọi Minh Việt bằng cái biệt danh được đem từ Xóm Đáy lên: Việt thiu. Nếu tính từ đầu đến cuối phố thì số trẻ con cũng phải lên tới hai chục đứa. Lũ trẻ này rất thích chơi trò đánh trận giả. Có dạo cả bọn chọn nhà Lúa Vàng cũ làm nơi chia quân ra đánh nhau. Sau khi Cửa hàng ăn uống chuyển về Ngã Năm, nhà Lúa Vàng cũ được dùng làm nhà hộ sinh. Ba đứa em sau này của Minh Việt đều ra đời ở đây. Vì nó là nhà hộ sinh nên có nhiều bà bụng chửa đi đi lại lại nơi hành lang. Thế là bọn trẻ đâm ra tò mò. Chúng thì thầm với nhau rằng những người đàn bà chửa kia sẽ đi vào một gian phòng ở phía đầu hồi. Rồi ở đó người ta sẽ rạch bụng họ và các em bé được lấy ra từ đấy. Bọn trẻ được kích thích trí tò mò, không còn thiết chơi trò đánh trận giả nữa. Chúng kéo nhau đến chỗ cửa sổ của căn phòng bí ẩn, kiễng chân nhòm vào xem điều kỳ lạ xảy ra như thế nào. Minh Việt cũng nằm trong số ấy. Và cái mà cậu nhòm được chính là đứa em thứ ba chui ra từ bụng mợ. Tự nhiên Minh Việt thấy sợ. Hóa ra cái Ánh, thằng Đình cũng từ đó mà chui ra cả sao? Mợ cũng ăn các thứ như mọi người, tại sao bụng mợ lại to lên và có một “em bé” nằm trong đó còn bụng mọi người thì lại không? Minh Việt chỉ dám đem thắc mắc này hỏi một người duy nhất mà thôi. Ấy là thằng Sinh hạt mít. Thằng Sinh nhà ở bên kia đường, đối diện với nhà Minh Việt. Nó là đứa khôn ngoan nhất trong số những đứa trẻ ở phố Tứ Phủ. Nó có biệt danh là hạt mít vì nó còi cọc nhất bọn. Nó bảo:
- Bụng mợ mày to là vì mợ mày ngủ với bố mày.
Minh Việt hỏi:
- Sao bụng mẹ mày không to?
Thằng Sinh bảo:
- Đàn bà phải ngủ với đàn ông thì bụng mới to được, bố tao đi đánh Mỹ làm gì có ở nhà mà đòi bụng mẹ tao to.
Minh Việt cãi:
- Sao tao ngủ với cái Ánh mà bụng nó không to?
Thằng Sinh hỏi:
- Thế mày đã chơi trò vợ chồng với nó chưa?
Minh Việt bảo:
- Tao với nó là anh em, làm vợ chồng làm sao được.
Thằng Sinh cười gằn:
- Thế thì bao giờ mày lấy vợ mày sẽ biết.
Minh Việt hỏi:
- Ai bảo mày thế?
Thằng Sinh đáp:
- Ông Mật rỗ bảo.
Minh Việt tạm thời dừng những thắc mắc của mình ở đây, tạm hiểu rằng cứ có hai người là vợ chồng ngủ với nhau thì bụng vợ sẽ to và trong đó sẽ chứa em bé. Sau này Minh Việt chơi trò vợ chồng với cái Lý, ngủ với nó mấy buổi trưa mà bụng nó chẳng to gì cả. Nhưng đấy là chuyện sau này, và khi ấy thằng Sinh không còn nữa để mà giải đáp những thắc mắc cho Minh Việt.
Việc để bọn trẻ vào nhà hộ sinh là điều không nên, chúng nghịch ngợm, quấy phá, ảnh hưởng không tốt đến các sản phụ nên người ta không cho chúng vào chơi ở đó nữa. Lũ trẻ phố Tứ Phủ chuyển chỗ chơi đến một nơi xa hơn, đó là cầu Lãng Tiên. Sau mấy năm xây dựng, cây cầu treo đã hiện hình, vươn mình vắt qua dòng Sầu Diện nối liền thị trấn An Lạc với huyện lỵ Lãng Tiên. Bố Minh Việt cũng đã rời đi làm việc ở một huyện khác, sát biển, xa nhà hơn hai chục cây số. Minh Việt lơ mơ hiểu rằng vì có “bác Mộc bí thư” bảo vệ nên bố mới không bị kỷ luật nhưng phải đi “lấn biển” để lập công chuộc tội. Hàng ngày, cứ tối nhọ mặt người bố mới đi làm về. Hôm nào vào “chiến dịch” thì bố phải ngủ lại ở công trường với anh em, không được về. Khi cùng lũ bạn chạy nhảy, chơi đùa trên cây cầu Lãng Tiên, Minh Việt vô cùng tự hào về bố. Chính bố đã làm nên cây cầu này. Cả một con đường rải nhựa được treo lơ lửng trên mặt sông bởi mấy sợi dây cáp to như bắp chân, thật là vĩ đại và kỳ diệu! Qua cây cầu sẽ đặt chân tới đất Lãng Tiên. Cái tên ấy gợi nhắc trong lòng Minh Việt toàn những điều hào hùng. Những câu chuyện bố kể, có mặt cả bác Mộc bí thư, bao giờ cũng nhắc đến “chiến khu Lãng Tiên”. Từ chiến khu ấy những con người mình đồng da sắt, những anh hùng dân tộc, những đơn vị tự vệ thị trấn đã vượt sông vào giải phóng An Lạc. Chiến khu ấy sừng sững hiên ngang bẻ gẫy mọi cuộc tấn công của quân Pháp. Chiến khu ấy là nơi trú ngụ an toàn cho những đội viên diệt ác, đêm đêm bơi qua sông tìm vào thị trấn cắt cổ bọn phản dân hại nước. Chiến khu ấy đã tổ chức một trận tập kích kỳ khôi, làm rung chuyển cả mấy tỉnh thành hữu ngạn sông Hồng, lửa cháy sáng rực An Lạc suốt ba đêm liền... Bây giờ chiến khu ấy đang ở trước mắt Minh Việt và bọn trẻ phố Tứ Phủ. Tinh thần tự hào của con cái những thị vệ viên năm xưa thúc giục chúng tìm về chiến khu xem hình thù nó thế nào? Thằng Sinh hạt mít dẫn đầu cả bọn hùng dũng tiến qua cầu. Cây cầu rung rung dưới chân bọn trẻ, nhất là khi có một chiếc xe ô-tô chạy qua. Cả bọn xuống tới chân dốc cầu bên kia thì niềm hưng phấn không còn nữa. Xa hút tầm mắt của chúng chỉ thấy đồng ruộng và những lũy tre xanh trải dài dưới trưa hè nắng lửa mà thôi. Không có thành quách, hầm hào, không có những khẩu đại bác thò cổ ra từ đám lá ngụy trang, không có những đoàn người ngựa vũ trang tập luyện, không có những điệp viên bịt kín mặt đấu võ tay không. Không có gì hết! Chỉ lơ thơ vài ba nếp nhà mái tranh ẩn mình sau lũy tre. Có thể chiến khu ở một nơi rất xa, ở cuối con đường trải nhựa tiếp nối với chân dốc cầu này chăng? Như thế thì đôi chân bọn trẻ không thể đi bộ tới đó được. Chúng ngao ngán dõi mắt nhìn về xa xăm mà không thể hình dung nổi điều gì. Sinh hạt mít ra hiệu cho đám trẻ dừng lại. “Xuống ruộng bắt cá đi?”. Có một đứa nào đó đã hô lên như thế. Bỗng chốc chiến khu không còn là mối quan tâm đối với bọn trẻ nữa. Cả bọn chạy ào xuống chân đê. Nhưng đúng lúc ấy có một tiếng hét:
- Đánh bỏ mẹ bọn thị trấn đi, chúng mày ơi!
Minh Việt thấy từ dưới chân những thửa ruộng gần đấy lố nhố chui ra mấy thằng bé nhà quê đen đủi, to khỏe, chúng nhảy lên thành ruộng và hằm hè lao tới. Sinh hạt mít có một chiếc gậy ở trong tay. Nó hét lên:
- Chúng mày nhặt đá ném đi, bọn bên sông đấy!
Cả bọn vội nhặt đá ném về phía trước nhưng đám trẻ nhà quê kia chẳng sợ gì cả, cứ chạy ào tới. Minh Việt thấy bên hông đứa nào cũng đeo một cái giỏ, còn tay chúng nó mỗi thằng cầm một thanh sắt. Thằng Sinh bỗng hô lên:
- Bọn nó có thuổng sắt, cẩn thận đấy!
Ngay lập tức có đứa hét toáng lên:
- Chạy thôi!
Đám trẻ thị trấn vội rời khỏi chân đê, cắm cổ chạy lên dốc cầu. Nhưng đám trẻ bên sông chạy nhanh hơn. Thoáng cái chúng đã ở sát ngay sau lưng rồi. Minh Việt chạy đến giữa cầu, lén quay nhìn lại, thấy bọn đuổi theo có vẻ vẫn hăm hở lắm, như quyết bắt cho bằng được một đứa trong bọn của Minh Việt. Cái Lý là đứa chạy sau cùng, chắc nó dự cảm thấy nguy hiểm nên vừa chạy vừa khóc, miệng thét gọi “Anh Việt”, “Anh Sinh”. Nhưng anh Việt, anh Sinh còn đang cuồng cẳng chạy cho nhanh vì các anh cũng sợ chả kém gì nó. Giữa lúc ấy có tiếng hét vọng lên từ dưới bãi sông:
- Bọn bên sông kia đứng lại, chúng mày thích chết hả?
Ngay sau tiếng thét ấy là một dáng người đen đủi, tay cầm chiếc xẻng con, bám vào dây sắt nơi mố cầu thoăn thoắt leo lên. Dây sắt gắn vào mố cầu theo hình bậc thang nên chỉ nháy mắt cái người đen đen ấy đã leo lên đến thành cầu. Rồi cái người ấy chạy ngược lại phía sau Minh Việt, vung xẻng đứng chắn ngay ở giữa cầu. Đám trẻ bên sông như đã quen mặt cái người cầm xẻng, lập tức dừng lại rồi quay trở lui. Bọn trẻ thị trấn hoàn hồn, co cụm lại phía bên này cầu. Minh Việt nhìn kỹ lại cái người cầm xẻng. Rất quen. Đúng rồi! Không ghìm được, Minh Việt gào lên sung sướng:
- Cậu Chột!
Phải, cái người cầm xẻng ấy chính là cậu Chột nhà bà Quản. Cậu Chột không cao lên được bao nhiêu nhưng cơ thể nở nang hơn, chân tay đã ra bắp, đen bóng. Cậu Chột đang đội than ở dưới bến sông. Toàn thân cậu phủ một lớp bụi than, lem luốc và tức cười. Nhận ra Minh Việt, cậu Chột bảo:
- Ra mãi đây chơi cơ à? Sang bên sông làm gì, lại cầm gậy gộc thế kia, chúng nó tưởng sang gây sự nên đánh cho là phải. Thôi về đi!
Bọn trẻ phố Tứ Phủ ra về nhưng ấm ức lắm. Thằng Sinh hạt mít là đứa tức tối nhất. Bố nó là bộ đội đang đánh nhau ở chiến trường Miền Nam, nó luôn tự hào về điều đó và luôn được dạy rằng bộ đội đánh nhau không bao giờ biết thua và con của bộ đội lại càng không cho phép ai bắt nạt mình. Chẳng lẽ nó lại chịu để cho bọn bên sông đuổi re kèn thế này à? Bố nó mà biết chuyện thì nó không còn xứng đáng là con của bộ đội nữa. Nó phải tìm cách trả thù. Nó bàn với Minh Việt, với mấy thằng to đầu nhất phố, cả với cái Lý nữa. Từ hôm ấy bọn trẻ phố Tứ Phủ được tập hợp lại, được trang bị gậy gộc, hễ có dịp là kéo sang bên kia cầu tìm bọn bên sông để “rửa hận”. Nhưng mấy lần “kéo quân” sang đều không gặp “kẻ thù”. Chiều chiều, đám trẻ thị trấn cho người ra đứng gác ở đầu cầu, thấy đứa trẻ nào từ bên sông mò sang là chặn đánh. Nếu thấy bọn bên sông đông hơn thì cho người về gọi thêm “lực lượng”. Bọn bên sông biết là đám trẻ thị trấn đã chính thức “tuyên bố chiến tranh”, căm lắm, cũng chỉ chờ có dịp là kéo sang đánh úp. Hai bên cứ ở thế giằng co nhau như thế, cũng chạm chán vài lần, có sứt đầu mẻ trán nhưng không nghiêm trọng lắm. Cả hai đều đã lắm được thực lực của nhau. Thủ lĩnh của bọn bên sông là Thức cụt. Thằng ấy có biệt danh thế là vì trong một lần đi bắt cua chẳng may lia thuổng phải ngón chân cái nên bàn chân bên phải của nó chỉ còn bốn ngón. Còn thủ lĩnh của đám trẻ thị trấn là Sinh hạt mít. Sinh tuyên bố xanh rờn rằng: “Khi nào bố tao về tao sẽ xách súng sang bắn nát óc thằng Thức cụt”. Bố nó có súng lục giắt ở trước bụng. Nhưng biết đến bao giờ bố nó mới về? Nó chỉ biết bố qua lời kể của mẹ. Hồi bố nó đi, nó còn bé tí. Thỉnh thoảng nó vẫn chỉ vào một chú bộ đội nào đó ngang qua đường và bảo: “Chú ấy ở chỗ bố tao đấy!”. Minh Việt vẫn tin thế. Và đám trẻ phố Tứ Phủ cũng tin thế. Nhưng bây giờ bố nó chưa về nên hai bên tạm chọn nhịp cầu ở giữa sông làm “biên giới”. Bên nào cũng muốn vượt biên giới nhiều hơn để chứng tỏ mình mạnh. Hôm cái Lý đứng gác cầu, bọn bên sông lại mò sang. Cái Lý vội chạy về gọi Minh Việt. Minh Việt chạy đi tập hợp bọn trẻ phố Tứ Phủ. Đến nhà thằng Sinh thì nó đang nằm trên giường. Nó đang ốm. Nó bị sốt cao đã ba ngày hôm nay rồi. Nhưng khi thấy Minh Việt vào báo bọn bên sông mò sang, nó liền bật dậy, rút cây gậy ở dưới gầm giường, cùng cả bọn kéo nhau lên cầu Lãng Tiên. Hai bên chạm nhau và gậy gộc cứ thế phang loạn xạ. Lúc đầu tương đối cân sức. Nhưng rồi đám trẻ thị trấn vỡ trận, bị lùa chạy như vịt. Sinh mải đánh quá nên quay ra không còn đường chạy nữa, bị vây chặt, cuối cùng đành chịu để bọn bên sông bắt. Bọn bên sông lôi Sinh về mố cầu bên phía Lãng Tiên. Chúng trói Sinh vào một cây cột bê tông được dùng trong những đợt chặn thuỷ còn sót lại, nước ngập đến nửa người. Mấy lần Minh Việt kéo bọn trẻ thị trấn sang đánh giải cứu cho Sinh mà không được. Cả buổi chiều hôm đó Sinh bị trói dưới chân cầu, bên cây cột bê tông, giữa đám cói ngập nước. Bọn bên sông hả hê sung sướng, còn đám trẻ thị trấn thì không biết làm cách nào để cứu thủ lĩnh của mình? Mãi sau Minh Việt mới nhớ ra cậu Chột. Phải rồi, chỉ có cậu Chột mới là vị cứu tinh vào lúc này. Minh Việt chạy xuống bãi than nhưng than đã hết, không còn ai ở đó cả. Minh Việt lại chạy về Xóm Đáy. Cậu Chột đang ngủ, thấy Minh Việt đến cầu cứu, chẳng kịp mặc áo, cứ thế cởi trần chạy lên cầu. Thấy cậu Chột, bọn bên sông lủi hết. Cậu Chột lao xuống đám cói ngập nước cởi trói cho thằng Sinh. Khi lên tới mặt cầu, thằng Sinh bước đi hiên ngang giữa đám trẻ thị trấn, như một người anh hùng. Sinh bảo:
- Bọn nó trói tao đến đêm tao vẫn chịu được!
Sinh muốn chứng tỏ nó cũng dũng cảm như bố nó ở ngoài chiến trường. Đúng là trong con mắt của đám trẻ thị trấn, nó rất dũng cảm. Chỉ có con của các chú bộ đội đang chiến đấu ở Miền Nam mới dũng cảm như thế. Nhưng nó không nói cười được lâu. Về tới đầu phố Tứ Phủ bỗng mặt nó tái mét đi. Rồi nó đổ vật xuống hè đường. Có mấy người lớn đi ngang qua vội xốc nó lên, bế nó về nhà. Đêm hôm ấy nó sốt cao. Mẹ nó phải đưa nó lên bệnh viện. Sáng hôm sau nhà nó im lặng như tờ. Đám trẻ phố Tứ Phủ vẫn đi học như thường, không hề quan tâm đến chuyện ấy. Trưa, Minh Việt đi học về thấy nhiều người ra vào nhà thằng Sinh, cả mợ cũng có mặt ở đấy. Minh Việt vứt cặp sách chạy sang, gặp ngay tấm ảnh thằng Sinh đập vào mắt. Tiếng mẹ thằng Sinh vừa hời khóc vừa kể lể:
- Em đưa cháu ra đồng rồi. Cháu đi mà môi cứ mím chặt, không kêu rên một lời. Mặt cháu vẫn hồng hào như ngủ. Em gọi mà cháu chẳng nghe gì cả, cháu cứ thiêm thiếp rồi bỏ em mà đi...
Minh Việt không dám tiến sát tới chỗ chiếc tủ có đặt ảnh của thằng Sinh. Ảnh nó đấy nhưng nó đã bị mấy tầng đất phủ lên người rồi. Gai ốc nổi khắp người Minh Việt. Mợ khóc sụt sùi. Tất cả những người lớn có mặt ở đấy đều khóc. Không ai biết chuyện thằng Sinh bỏ nhà đi chơi đánh trận ở cầu Lãng Tiên cả. Cũng không ai biết thằng Sinh đã bị ngâm dưới nước sông Sầu Diện suốt nửa buổi chiều ngày hôm qua. Mẹ nó lúc tỉnh lúc ngất. Cứ khi nào tỉnh lại vừa khóc vừa kể lể về những giây phút cuối cùng trước khi thằng Sinh “bỏ đi”. Sau này đám trẻ thị trấn không chơi trò đánh trận ở cầu Lãng Tiên nữa. Chúng kéo nhau tới khu đầm cạn ở sau trại Pháo Thủ cũ chơi trò “hòa bình”. Minh Việt làm chú rể còn cái Lý là cô dâu. Hai đứa là vợ chồng của nhau, ngủ với nhau dưới gốc gạo già mọc cuối đầm nhưng bụng cái Lý chẳng to lên như bụng mợ. Minh Việt rất muốn hỏi thằng Sinh về chuyện đó nhưng nó đã không còn nữa. Minh Việt không dám hỏi ai, cứ ôm thắc mắc ấy trong lòng cho đến khi tự mình trả lời được.
10/3/2006
Nguyễn Đình Tú
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Hoàng Nhuận Cầm có đủ nỗi buồn để sống, nhưng nếu không buồn có lẽ lại buồn hơn? Khắp nơi nơi từ thế giới mạng đến ngoài đời thực, bạn b...