Thứ Năm, 19 tháng 9, 2024

Phiên bản 1

Phiên bản 1

GIỚI THIỆU
"Phiên bản" là cuốn tiểu thuyết thứ tư của Nguyễn Đình Tú. Cuốn sách có 31 khúc được sử dụng với 3 ngôi kể khác nhau, giống như một bản nhạc nhiều bè, khai mở nhiều lối đi vào chiều sâu tâm lý nhân vật.
Diệu, cô nữ sinh ngây thơ trong sáng, sinh ra trong một gia đình có người anh trai phạm tội, phải đi tù. Bí bức, gia đình cô, trừ bà nội, còn bố, mẹ và cô liều lĩnh thuê tầu vượt biển đi nước ngoài. Cuộc vượt biên trốn chạy và giải thoát không thành. Hơn một trăm con người trên chuyến tầu bị bọn cướp biển giết chết hết. May mắn, cô cùng một người đàn ông theo đạo và đứa cháu trai mới chín tháng tuổi của ông - sau này nó sẽ là một nhà nghiên cứu tội phạm học - thoát chết, sống sót trở về được đất liền.
Trở lại cuộc sống bên người bà, Diệu gặp Hưng, một gã lưu manh, bạn tù của anh trai Diệu, rồi từng bước một, như một định mệnh, một tất yếu không sao cởi thoát được, cô dấn thân dần dần vào cuộc đời gió bụi giang hồ. Giang hồ gió bụi ngẫm ra vậy mà có nhiều cung bậc! Hạ đẳng nhất phải kể là loại đao búa côn đồ, gặp người là đánh, thấy của là cướp. Kế đó là lớp bất tri lý, coi thường công an, chính quyền, cả gan chống lại cả người thi hành công vụ, được đồng loài mệnh danh là những kẻ thích tự sát. Loại ba là loại ma xui quỷ khiến, chuyên dùng thuốc kích thích để gia cường “bản lĩnh” chém giết, hiếp đáp, cướp giật. Đại để là vậy! Chứ còn chi ly ra thì có thể phân thành nhiều loại nữa; chẳng hạn, loại chỉ chuyên kiếm tiền, loại chỉ thích ra oai, loại trộm cắp vặt, loại đi ăn cướp chỉ vì phẫn chí, loại bần cùng mà sinh đạo tặc, loại làm ẩu vì chứng rối loạn tâm thần, loại vì tình ái mà gây thù chuốc oán, loại manh động vì ăn phải bùa mê thuốc lú...
CHƯƠNG 1
Mảnh trăng cong vênh nghễu nghện đi ngang chấn song kia, ai cho người dừng lại trước cửa phòng ta?
Ngươi muốn gì?
Ngươi không sợ quyền lực vô biên của ta ư? Ngươi không cảm nhận được mùi chết chóc tỏa ra từ hơi thở của ta? Không thấy được sát khí lạnh lẽo từ ánh mắt ta? Không nhận ra nét mặt tức giận và hàm răng khát máu đang nghiến lại của ta?
Hừ. Ngươi dám bỏ qua mọi sợ hãi thường tình ấy mà lẻn vào đây làm phiền ta?
Hay thật! Mảnh trăng kia bây giờ lại tròn đầy hơn, có dáng có hình, thoạt trông như ma quỷ, nhìn mãi thì ra một bức tượng, lúc bất động như gốc cây, khi biến chuyển như cái bóng, lúc giống như một con người, khi lại mờ ảo như một vệt sáng. Mà cái hình ấy dù có biến thiên thế nào thì vẫn đọng lại trong trí óc ta một hình nhân đội mũ đeo sao. Thế là sao nhỉ? sắc áo vàng chẳng lẽ lại ám ảnh ta đến mức nhìn một mảnh trăng đi lướt qua cửa phòng cũng vội liên tưởng đến sự bất an? Ta mà lại biết sợ ư?
Ta đã dựng lên một đế chế.
Và ta là nữ hoàng.
Không phải trong ta không có những nỗi sợ hãi. Nhưng ta biết vượt qua những nỗi sợ hãi đó. Ta có nhiều kẻ thù. Điều đó đương nhiên. Một người bình thường còn có kẻ thù, những là ta, một nữ hoàng đen, một ong chúa, một chị cả trong giới giang hồ thì thiếu gì kẻ muốn lấy số. Đôi lần ta cũng tự hỏi, kẻ thù lớn nhất của ta là ai? Là những ông trùm, là đám sát thủ thuê, là đám thuộc hạ phản trắc, hay lũ ong ve mới vào nghề đâm chém? Là người ta yêu, là những vua, những chúa, những bố già, mẹ trẻ trong cái xã hội đen trải rộng khắp trong Nam ngoài Bắc kia hay là đám người đội mũ đeo sao mặc cảnh phục? Hay là chính ta với bia, rượu, ma túy, thuốc lắc và những trò mua vui thâu đêm suốt sáng?
Phải rồi. Ta thừa nhận là không phải trong ta không có những nỗi sợ hãi. Có những nỗi sợ mơ hồ. Có những nỗi sợ thường trực, hiển hiện trong đời sống hàng ngày. Có nỗi sợ chỉ xuất hiện sau những cơn say. Có nỗi sợ thoáng qua như một cái rùng mình. Nhưng dù thế nào thì ta cũng không chịu khuất phục nỗi sợ. Nếu không bước qua sợ hãi thì làm sao ta có thể trở thành nữ hoàng của cái đế chế giang hồ đầy rẫy những hận thù và giết chóc này? ừ thì ta sống trong xã hội đen nhưng thử hỏi cái xã hội ấy nào có thiếu điều hỉ nộ ái ố nào? ừ thì ta là nữ hoàng đen nhưng khoái cảm quyền lực có thể cân đong đo đếm được bao lăm mà so sánh đen với trắng? ừ thì ta là một nữ hoàng không ngai nhưng chỗ ngồi của ta đủ để bốn phương tám hướng chầu về. ừ thì vương triều của ta không thành lũy, không điện rồng, không chầu phục nhưng thử hỏi có mấy ai vào được đến nơi ta ở, đặt chân được đến chỗ ta ngự? ừ thì đế chế của ta không cương thổ nhưng có “vua”, có “chúa” nào dám vượt đường biên vô hình mà xâm lấn vào lãnh địa ta cai quản? Ta chưa từng bị nỗi sợ nào vây bủa quá một canh bạc trong đêm khuya, vậy mà sao hôm nay cái bóng trăng ma quái kia lại phiền nhiễu ta? Ngươi là ai hả bóng trăng khốn khiếp?
Bây giờ ngươi lại còn dám cả gan tiến đến cả chỗ ta nằm nữa đấy! Bọn thằng Tân, cái Mỹ đâu cả rồi? Sao lại để cho một kẻ chán sống vô hình vô ảnh như thế này bước vào phòng ta? Mà ta đang nằm ở đâu đây? Thành phố Lớn hay thành phố Ngã ba sông? Trên khoang máy bay hạng nhất hay trong trại giam Nguyên Dương? Ngôi nhà nhỏ ở xóm Đường Tàu hay căn phòng của người đàn ông ngoại quốc ở thành phố Toronto xa xôi?
Ta đang nằm ở đâu?
Không phải căn phòng ở số 4 phố Trường Thành quen thuộc vì thiếu con chó đá ngồi chầu bên giường ta. Cũng không phải căn phòng trên tầng ba của Nhà hàng Sóng Biển vì không có cánh cửa thoát hiểm cho ta chạy lên tầng bốn. Hay ta đang nằm trên biển nhỉ?
Không phải. Có chút dập dềnh, đung đưa đấy nhưng không phải căn buồng nhỏ trên chiếc du thuyền vẫn buông neo ngoài cửa vịnh. Phòng ngủ của ta không có cánh cửa thô kệch với những nan hoa sắt cong queo, đen đúa, han rỉ, giăng mắc đầy mạng nhện thế kia. cả chiếc giường này nữa. Sao nó lại cho ta cái cảm giác nửa nằm nửa ngồi chết tiệt này? Ta vẫn thường gối cao nhưng không cao đến mức nửa thân ta như bị nhấc lên khỏi giường. Và tay ta nữa. Ta quờ quạng mãi mà sao chỉ với vào khoảng chân không rỗng rễnh? Mọi khi ta chỉ cần quờ nhẹ tay thôi là có thể lấy được mấy món đồ trong miệng con chó đá. Có thể là khẩu K54 với sáu viên đạn chì sẵn sàng khạc ngay vào bóng trăng đội mũ đeo sao kia. Cũng có thể là con dao bấm Mỹ với bốn lưỡi thép cùng cái nẫy nhạy đến mức gẩy nhẹ một cái là những lưỡi thép sẽ vun vút lao đi. Hoặc là lọ xịt hơi cay gọn như một lọ nước hoa mà đám đàn bà đỏm dáng vẫn thường dùng nhưng có thể phá hủy mọi đôi mắt kẻ thù chỉ trong chớp nhoáng. Nhưng bất đắc dĩ lắm ta mới phải thò tay vào lấy đồ trong miệng con chó đá. Chưa ai vào được phòng ngủ của ta mà lại không được phép cả. Để bước chân được vào đấy phải qua tầng một do một võ sĩ karate ngũ đẳng huyền đai án ngữ. Rồi lại phải qua tầng hai do một mụ đàn bà chột mắt có khoái cảm nhìn máu người canh trấn. Chỉ có thể đến được phòng của ta khi bước qua xác võ sĩ Tân và con Mỹ "chột». Chỉ có thể đến được phòng của ta khi đã xơi tái hai thằng nhóc lỳ lợm ở tầng bốn. Chỉ có thể đến được phòng ngủ của ta khi đã vô hiệu hai con chó, sáu khẩu súng, tám thanh mã tấu và năm xác người. Ngôi nhà ta ở gồm bốn tầng lầu, một tầng trệt. Phòng ngủ của ta đặt ở tầng ba. Thường trực quanh ta ngoài thằng Tân với con Mỹ còn có lão gác cổng trung thành dưới tầng trệt và hai thằng tiểu yêu được ta lấy ra từ trại giam Tân Phú cố thủ ở tầng bốn. Vậy là không thể độn thổ mà lên, hạ thiên mà xuống để có thể mò đến phòng ngủ của ta vào giữa giấc đêm như thế này. Tay ta chưa phải thò vào miệng con chó đá để phòng thân bao giờ. À, có một lần. Phải rồi. Đến giờ phút này ta mới chỉ thực hiện động tác đó có một lần duy nhất nhưng lại là hành động bất đắc dĩ vì dù sao thì ta cũng không muốn giết người ta từng yêu. Đó là ta chủ động mời khách vào nhà rồi vô tình mà ngộ sát.
Tóm lại, căn phòng đó là nơi bất khả xâm phạm. Nếu ngôi nhà số 4 phố Trường Thành là hoàng cung của ta thì phòng ta ngủ chính là tử cấm thành.
Ngươi là ai mà có thể vào được đây hả bóng trăng huyền hoặc kia?
Ôi, ta nhức đầu quá.
Hai vì sao bay vào miệng ta đêm qua đang đi lên não, đang lượn những đường bay tráo trở dưới vỏ bán cầu đánh thức những đớn đau trên toàn thân thể ta. Nhanh quá! Mọi thứ diễn ra nhanh quá, ta không sao nhớ nổi sự việc diễn ra như thế nào nữa. Ta chỉ lờ mờ nhớ rằng có một dáng người thư sinh, mảnh khảnh đi về phía bàn ta ngồi. Người ấy lách mình như vướng vào chiếc ghế nhỏ, rồi người ấy rút một vật gì đó ra. Từ trong bàn tay của người ấy, hai vì sao sáng quác như hai viên lửa hoa bay về phía ta. Ta không kịp né tránh, chỉ hét lên được một tiếng rồi lập tức ngậm miệng lại, cảm nhận rất rõ sức nóng khủng khiếp xuyên qua vòm họng, thốc ngược lên não. Rồi ta thiếp đi, trôi vào một giấc ngủ kỳ lạ để đến khi tỉnh lại, thấy căn phòng này có quá nhiều điều khác lạ với căn phòng quen thuộc của ta ở phố Trường Thành.
Ta đã thiếp đi bao nhiêu lâu? Và ta đã tỉnh lại bao nhiêu lần? Không thể nào biết được. Chỉ biết là không phải một lần. Nhưng lần nào cũng thấy bóng trăng mờ ảo kia lượn lờ quanh ta, như thể có duyên nợ gì đó, đặc biệt lắm, với căn phòng chật hẹp này. Thậm chí, hình trăng quái gở kia còn đang tìm cách tiến lại gần ta hơn nữa. Như một phản xạ tự nhiên, ta quờ tay tìm khẩu súng trong miệng con chó đá. Nhưng ta nhận ra không có con chó đá nào nằm trong căn phòng này cả. Và thế là nỗi sợ xuất hiện. Nỗi sợ như một sinh thể lạ được dịp lồng lên trong tinh cốt ta. Không! Không được phép sợ. Ta là người dựng lên đế chế này. Và ta là một nữ hoàng...
- Đế chế ấy sụp đổ rồi!
Cái gì? Tiếng nói ấy phát ra từ đâu vậy? Liệu ta có nghe nhầm không? Chẳng lẽ tiếng nói ấy phát ra từ hình trăng đội mũ đeo sao kia? Cái hình trăng ấy bây giờ đã rõ là một bóng người rồi. Một bóng người quen mà lạ. Không rõ mặt, không rõ tuổi tác, không rõ thái độ nhưng rõ ràng là người mà ta đã từng biết, từng quen, thậm chí từng thân thiết. Người ấy mặc cảnh phục và đội mũ đeo sao. Người ấy tiến sát đến bên giường và đứng lại ngay trước mặt ta. Chỗ đứng ấy là chỗ mà ta vẫn để con chó đá. Ta quờ tay lên là chạm vào người đó. Nhưng ta không thể nhấc được cánh tay. Không. Ta đang kề sát sự nguy hiểm. Ta phải thoát khỏi tình trạng này. Một nữ hoàng như ta không thể để rơi vào tình trạng không điều khiển nổi cánh tay mình...
- Thoái vị đi thôi, nữ hoàng đen ơi. Đế chế của mi sụp đổ rồi, quyền lực của mi đã hết, sức mạnh của mi cũng lụi tàn, mi chỉ còn lý do duy nhất để tồn tại trên cõi đời này, ấy là sám hối, sám hối và sám hối.
Sao? Tiếng nói ấy lại phát ra từ bóng trăng kia sao? Mà còn ai vào đây nữa đâu? Chỉ có ta và ngươi trong căn phòng này. Đúng là ngươi thách thức ta rồi. Ta phải hét lên mới được. Ta phải hét lên để thu nỗi sợ hãi về. Ta phải giấu nỗi sợ thật sâu đâu đó trong góc khuất tối tăm của con người ta. Ta phải hét lên để thoát khỏi tình trạng này. Phải hét lên để trở về trong ta nguyên vẹn quyền uy của một nữ hoàng.
Nhưng sao ta không thể hét lên được thế này?
- Đừng vật vã mình mấy như thế làm gì. Linh hồn mi đang cố thoát khỏi thể xác mi. Còn thể xác mi thì đang cố níu kéo linh hồn mi ở lại. Mi đang ở trong trạng thái bất động hoàn toàn. Mi hãy dùng phần hồn mà nói chuyện với ta. Hãy để cho phần xác mi nghỉ ngơi đi. Khi nào hồn ngươi trở về nguyên vẹn trong xác thì ngươi mới có thể ngồi dậy được. Mi hiểu chưa?
Thôi được rồi. Ta không cố hét lên làm gì nữa. Nhưng ngươi hãy nghe ta hỏi đây. Ngươi là ai?
- Là ai ư? Thì mi cứ gọi ta là bóng trăng đi.
- Bóng trăng?
- Phải. Chỉ có bóng trăng mới có thể đến được gần mi một cách tự tin như thế này thôi. Đúng không?
- Sao lại là bóng trăng?
- Vì mi vốn là kẻ tàn bạo. Chỉ những ai chế ngự được sự tàn bạo mới dám đến gần mi. Ta đang ở bên cạnh mi đây. Rõ ràng ta chẳng coi sự tàn bạo của mi ra cái thá gì. Thậm chí, ta đang dẫm đạp lên sự tàn bạo tỏa ra từ con người mi. Còn mi thì bất lực nhìn ta với nỗi sợ hãi giày vò. Ha, ha. Ai làm được điều ấy? Ai có thể có thể hóa giải được sự tàn bạo của mi? Ai có thể nói chuyện được với linh hồn mi? Ai có thể coi thường cái thể xác đang chết giấc kia của mi? Ai? Bóng trăng. Chỉ có bóng trăng thôi. Chỉ có bóng trăng mới có đủ quyền năng vô biên thức dậy sự ngộ nhận đáng thương của mi. Mi hiểu không?
ừ, phải. Con người thì không thể đến gần ta được. Chỉ có những thứ không phải là con người, như mây, như gió, như tia nắng hay một ánh trăng suông thì mới có thể đến được gần ta. Chỉ những thứ đó mới có thể vô hiệu hai con chó, sáu khẩu súng, tám thanh mã tấu và năm xác người. Nhưng bóng trăng ơi, ngươi không là người thì là cái giống gì mà lại đến nát ta vào lúc ta đang chìm trong giấc đêm mê mệt như thế này? Ngươi không tồn tại trong đời này kiếp này thì ngươi hiện về từ cõi vô biên nào mà kỳ lạ thế? Ngươi trả lời ta đi? Ngươi từ đâu đến đây? Nguơi cần gì ở ta?
- Ta ở đâu đến đây ư? ở nơi mà quyền lực của mi không chạm đến được. Ta cần gì ở mi ư? Cần nghe lời sám hối của một nữ hoàng bị hạ bệ trước những ảo vọng đã lụi tàn.
- Không, ta đã dựng lên một đế chế và ta là nữ hoàng...
- Nữ hoàng? Ha, ha... Mi hãy nhìn lại mi một lần nữa đi. Mi có khác gì một xác chết, và đế chế của mi, khác gì bong bóng xà phòng đang tan ra thê thảm. Mi hãy sám hối đi. Mi chỉ còn thời gian để sám hối về những việc mình làm. Mi không còn nhiều thời gian để tranh cãi với ta nữa đâu. Ta ở đây là để giúp mi. Mi hiểu không?
- Giúp ta?
- Phải. Giúp mi sám hối về những việc mi làm. Giúp mi thanh lọc tâm hồn, tẩy rửa những cặn bã trong cái đầu đang tê liệt bởi hai vì sao lọt vào miệng mi đêm qua.
- Ngươi là ai?
- Là chỗ dựa cho mi nhận diện ra bản thân mi vì ta là người duy nhất hiểu mi, thương mi và có thể chia sẻ cùng mi vào giờ phút này.
- Giúp ta nhận diện bản thân ư?
- Phải. Mi quên mất rằng mi đã hỏi ta quá nhiều, mà không hỏi mi lấy một câu. Một câu thôi nhưng đó là điều cần nhất đối với mi vào lúc này.
- Câu gì?
-Mi là ai?
- Ta là ai? Ta là ai ư? ừ nhỉ, ta là ai? Là nữ hoàng đen. Nhưng nữ hoàng thì cũng phải là một ai đó chứ?
Ôi, sao đầu ta lại đau nhức thế này?
Mà ngươi biến đi đâu rồi, bóng trăng! Ngươi vừa nói rằng khi nào hồn ta về lại nguyên vẹn trong thể xác thì ta mới ngồi dậy được. Ngồi dậy được tức là ta sẽ gọi ra được ta là ai? Vậy hồn ta đi đâu? Bao giờ hồn ta mới về? Bóng trăng ơi, ngươi đâu rồi. Ta không sợ ngươi nữa nhưng ta thấy sợ phải nằm một mình trong căn phòng này. Một căn phòng lạnh lẽo, thông thống ánh sáng và những mịt mùng bí hiểm. Hồn và xác ta đâu? Hỡi bóng trăng kia! Ngươi vừa bảo ta phải tự hỏi ta là ai. Ta đang tự hỏi ta đây.
Ta là ai?
Là ai?
CHƯƠNG 2
Đó là buổi học cuối cùng của em. Năm đó em học lớp 9. Còn anh và Đinh học lớp 10 (tức lớp 12 bây giờ). Nhà em ở ngõ trên. Nhà anh ở ngõ dưới. Hai ngõ có thể thông sang nhau qua một đường tàu. Em biết Đinh trước anh vì Đinh thường qua nhà em lấy hương về cho mẹ anh ấy đi giao lại các cửa hàng xén ngoài chợ. Cái buổi học cuối cùng ấy em mới biết anh.
Anh thật sáng láng trong buổi chào cờ. Thày hiệu phó có mái tóc bạc phơ mà bây giờ em không còn nhớ tên nữa đã nói về anh như một thần đồng. Anh là học sinh duy nhất của trường được vào đội tuyển thi học sinh giỏi toán của thành phố và được giải nhì. Hôm ấy thầy thông báo trước toàn thể học sinh của trường rằng với kết quả giải nhì thành phố anh sẽ đương nhiên được vào đội tuyển thi toán toàn quốc. Rồi thầy gọi tên anh lên đứng dưới chân cột cờ. Em nhìn khá rõ anh vì em ngồi ở hàng trên cùng của lớp 9C. Anh không cao hơn cái trụ cột cờ bao nhiêu. Anh mặc cái áo sơ mi màu trứng sáo, buông chùng, lụng thụng. Quần anh mặc màu xanh da trời, phải xắn lên một gấu. Trông anh vẹo vọ trong bộ quần áo của bố hoặc anh trai anh để lại, hơi quá khổ và cũ kỹ. Tóc anh phủ dài xuống trán. Giữa sân trường, anh vừa phải dùng tay kéo quần lên cho khỏi vướng víu lại vừa phải liên tục gạt mái tóc phủ xuống mặt. Cậu học trò cuối cấp là anh hôm ấy đã đỏ mặt khi thầy hiệu phó giơ tay ra bắt và trao cho anh một gói tặng phẩm, cả sân trường ào lên vỗ tay. Anh bước về chỗ ngồi với dáng đi như muốn biến khỏi trái đất này dù lúc đó anh có quyền ngẩng cao đầu kiêu hãnh. Em cố ngoái nhìn theo anh dù anh đã bước về phía cuối lớp lOA của mình. Hình ảnh anh hôm ấy tuy có chút thiếu tự tin nhưng lại ấn tượng với em vô cùng.
Tất nhiên lúc đó em không thể nghĩ nhiều về anh vì em còn đang phải nghĩ đến một điều khác. Điều mà em nghĩ khủng khiếp lắm. Em và gia đình em đang chuẩn bị làm một chuyện động trời. Chỉ khoảng hơn chục tiếng đồng hồ nữa thôi, chuyện động trời ấy sẽ xẩy ra. Và em đang phân vân là có nên học nốt buổi sáng ấy không? Em đã định nghỉ học rồi nhưng không hiểu sao em vẫn cứ xách cặp đến trường và dự buổi chào cờ cuối cùng trong đời học sinh của mình. Và em vào lớp với một cái cặp sách rất nặng nhưng em cũng chả biết là chứa trong đó những gì? Em không hề chuẩn bị bài vở cho các môn học của ngày hôm ấy. Đến hai tiết học cuối thì em bị gọi lên bảng để trả lời câu hỏi kiểm tra đầu bài của cô giáo dạy lý. Em không có vở bài tập, cũng không có vở lý thuyết. Em cũng không trả lời được câu hỏi nào của cô giáo. Em đã làm cô bực mình. Và cô đuổi em ra khỏi lớp. Em bước về ngăn bàn lẩy cặp sách và bước đi. cả lớp nhìn theo em. Học sinh thời ấy khá ngoan, hi hữu lắm mới bị đuổi ra ngoài, và thường là chờ cho đến hết tiết rồi lại vào lớp. Nhưng đằng này em lại xách cặp bỏ đi luôn, cả lớp nghĩ em phản ứng tiêu cực theo kiểu học sinh cá biệt. Cô giáo dạy lý cũng nghĩ em có dấu hiệu nổi loạn của học sinh hư. Nhưng thực ra hôm ấy em còn tâm trí đâu nữa mà học. Em đến trường như một thói quen thôi. Em muốn nhìn lại lần nữa lớp học, nhìn lại lần nữa những khuôn mặt bạn bè, nhìn lại lần nữa chỗ ngồi của mình và nhìn lại lần nữa ngôi trường mà rất có thể em sẽ không bao giờ còn quay trở lại.
Nhưng xách cặp ra khỏi lớp rồi em lại chẳng biết đi đâu. Sân trường vào giờ học vắng vẻ, các dãy hành lang im phắc, em đi ra trụ cột cờ, ngồi bệt xuống đó nhìn đám mây tráng đang trôi vô định trên bầu trời mà lòng rỗng rễnh đến tê dại. Thỉnh thoảng lại có một thầy cô giáo đi ra từ Ban giám hiệu, từ thư viện, từ nhà để xe... Khi ngang qua sân trường, họ đều đưa mắt về phía em. Biết đâu cô chủ nhiệm sẽ đi ngang qua đây và nhìn thấy em thì sao? Em không muốn gặp cô chủ nhiệm vì em sẽ không thể trả lời được em ngồi ở đấy làm gì giữa giờ học như thế này. Nhưng em biết đi đâu bây giờ? về nhà ư? Gia đình em sắp xảy ra một biến cố lớn rồi. Em sẽ không bao giờ còn tìm lại được tuổi học trò nữa. Em chỉ còn vài tiếng đồng hồ để được nấn ná ở lại đây thôi. Vì thế em chưa muốn về. Em muốn tiêu cho hết khoảng thời gian cuối cùng của mình sao cho thật ý nghĩa với mảnh sân này, ngôi trường này, lớp học kia và chúng bạn phổ thông của em. Em đi về phía vườn ươm. Anh biết rồi đấy. vườn ươm là niềm tự hào của trường chúng ta. Nhờ có vườn ươm này mà môn sinh học trở nên sinh động hơn. Anh và em ít ra cũng đã một lần được bước vào đây để học cách nuôi cấy các mô, tế bào sinh vật, học cách ghép cây, chiết cành, cách lai tạo và nhân bản các giống cây ăn quả sản lượng cao. Em định chui vào vườn ươm, đến một lùm cây nào đó, ngồi lặng lẽ ngắm khoảng sân trường vào giờ ra chơi cho đến tan buổi học mới về. Nhưng em nhìn thấy anh và các bạn anh đang đứng túm năm tụm ba học về cách ghép cành dâu. Mẩy năm đó đang có phong trào trồng dâu nuôi tằm nên các anh được thực hành môn sinh vật trên những thân cây dâu trồng thành từng luống trong vườn ươm.
Em liền đi ra phía cổng trường, ở đó có hai hàng cây trúc đào chạy dài đến lối rẽ vào nhà để xe. Hàng cây bên phải có hoa màu đỏ, còn hàng cây bên trái có hoa màu trắng. Em bước đến hàng cây bên phải và ngồi xuống dưới gốc một cây trúc đào nở hoa đỏ rực. Em với tay bẻ một chùm hoa và nhìn dòng nhựa tỏa mùi hăng hắc của nó chảy xuống lòng bàn tay mình. Lá trúc đào rất độc. Thầy giáo dạy sinh học bảo rằng nó độc chẳng kém gì lá ngón ở trên miền ngược. Đã từng có người lấy lá trúc đào giã ra uống, tự tử. Còn bọn con gái lớp em thì thường lấy hoa trúc đào để bói thi. Chúng nó cứ cấu từng cánh hoa rồi lẩm nhẩm “đỗ - không đỗ”. Nếu cánh hoa cuối cùng ứng với từ “đỗ” thì hét ầm lên sung sướng, còn ứng với từ “không đỗ” thì mặt buồn thiu, hồi hộp lo âu đến mất ăn, mất ngủ. Sau này chúng nó còn dùng hoa trúc đào để bói nhiêu thứ nữa, nhất là bói yêu. Em chưa bói hoa trúc đào bao giờ. Lần này em thử bói xem sao. Nhưng bói cái gì đây? Thì bói về điều mà em đang nghĩ. Thế là em bói về biến cố sắp xảy ra đối với gia đình em. Em cấu cánh hoa đầu tiên và lẩm nhẩm: “thoát”, “Không thoát”... Em hồi hộp nhìn những cánh hoa lần lượt bị bứt ra khỏi bông. “Thoát”, “Không thoát”... Còn hai cánh nữa thôi. “Không thoát”, “Thoát”! ôi, em khẽ kêu lên, sung sướng. Vậy là lần đầu tiên em đã bói ra một kết quả rất tuyệt vời. cả nhà em sẽ thoát. Em cũng sẽ thoát. Thế là em không còn bao giờ được quay trở lại đây nữa. Lúc đó em tin như thế. Tin đến độ xác quyết. Và trong khi em đang vừa vui mừng vừa bâng khuâng trước kết quả bói hoa của mình thì anh và anh Đinh bước đến sau lưng em từ bao giờ. Giọng anh Đinh cất lên làm em giật thật:
- Chết nhé, trốn học ra đây ngồi bói hoa nhé!
Quả là em rất ngượng khi gặp người quen vào lúc đó. Nhưng các anh hồn nhiên đến độ chả cần quan tâm đến việc vì sao em lại ra ngồi ở đấy. Anh Đinh với tay dứt một bông trúc đào rồi sà đến bên em, bảo: “Em bói hoa cho anh với?”. Em còn chưa hết ngượng ngùng thì anh Đinh quay ra, thấy anh vẫn đứng nép mình bên cành trúc đào, liền hất mặt lên bảo:
- Ngồi xuống đây, mày!
Em bỗng thấy run khi anh lúng túng tìm một chỗ ngồi xuống bên cạnh em. “Biết thằng này chưa, Diệu?”. Đinh lại tiếp tục giới thiệu về anh cho em bằng một câu hỏi hất hàm như thế. Rồi không cần biết phản ứng của em ra sao, Đinh nói một hơi về anh.
- Thằng Nhân đấy. Nó ở ngõ dưới, gần nhà anh. Sáng nay chào cờ nó vừa được bêu dương trước toàn trường đấy, em có nhìn thấy không? Chả biết nó ăn cái gì mà học giỏi thế chứ, mà thôi, em bói hoa cho anh với?
Em nhìn sang anh, xem cái người “chả biết ăn cái gì mà học giỏi thế” mặt mũi, vóc dáng như thế nào. Lần đầu tiên em được nhìn anh gần như thế. Khuôn mặt anh toát lên vẻ khôi ngô. Đôi mày anh giao nhau, rậm rì. Mắt anh sáng đến độ khoảng tối trong lòng em lúc đó như bị hai đồng tử của anh soi rọi thấy hết cả. Ngồi cạnh em mà anh chẳng nói chẳng rằng, chỉ tủm tỉm cười. Cái miệng anh cười cứ như cậu bé được cho quà ấy, nó làm khuôn mặt anh trở nên rạng rỡ và sáng láng. Hàng ria lún phún bên mép anh làm em liên tưởng đến cái sự trưởng thành của một vài đứa con trai ở lớp em. Chúng đã bắt đầu biết yêu đương, tán tỉnh và nói những chuyện làm em đỏ mặt. Hào quang từ anh, một học sinh học giỏi nhất khối lớp 10 tỏa sang làm em ngây ngất dù anh không ý thức được điều đó. Anh ngồi cạnh em mà hai cánh tay thừa thãi đến tội nghiệp. Chiếc áo màu trứng sáo của anh phủ dài quá gối. Trong lúc em rất muốn nghe một tiếng nói từ anh thì Đinh cứ xán vào người em, ấn bông hoa trúc đào vào tay em, bảo bói hộ. Em nhích sang bên cạnh và khẽ chạm vào người anh. Em dẫu sao cũng chỉ là cô gái mười sáu, tự dưng bị ngồi ép giữa hai anh học sinh khóa trên, bối rối ngượng ngập quá, nhưng hình như các anh không để ý đến điều ấy. Em nói với Đinh rằng việc bói hoa là phải tự làm. Định ước nguyện điều gì thì hãy nghĩ đến điều đó và bắt đầu dùng tay mà bứt những cánh hoa kia ra khỏi bông đi, để người khác làm sẽ mất thiêng. Đinh bảo muốn bói về việc đòi nợ. Một cửa hàng xén nào đó ở trong chợ Ga còn nợ tiền hương của nhà Đinh, đã nhiều 1ần Đinh đòi mà không trả, chiều nay Đinh lại phải tiếp tục đi đòi về cho gia đình. “Được” - “Không được”... Đinh bắt đầu bói theo sự hướng dẫn của em. Anh ngồi cạnh em dõi mắt nhìn theo từng động tác bói hoa của Đinh. Nhưng Đinh chưa bói xong thì tiếng kẻng ra chơi vang lên. Đinh như chợt nhớ ra điều gì, ngẩng phắt lên, bảo:
- Ra chơi rồi. Thế nào bọn lOC cũng sang cà khịa chuyện hôm qua với lớp mình. Để tao chạy về lớp xem thế nào?
Bây giờ anh mới cất tiếng. Anh nói bằng thứ giọng nhát ngừng, âm sắc nhỏ nhẹ: ‘Thôi, mày mà gặp chúng nó bây giờ là đánh nhau đấy. Mày lúc nào cũng nóng thế làm gì. Chuyện có gì đâu”.
- Mày cứ ngồi đây. Để tao về xem thế nào. Bọn này mà thích thì chơi luôn. Mẹ chúng
nó...
Đinh còn định văng tục nữa nhưng chợt nhớ ra là còn em ngồi đấy nên thu lời lại. Đinh ném bông hoa đang bói dở đã bứt gần hết cánh xuống đất, bỏ đi về lớp. Nhoáng cái, bóng Đinh đã mất hút giữa sân trường đang đầy chật học sinh nô đùa vào giờ ra chơi. Đinh đi rồi, chỉ còn lại em và anh dưới gốc cây trúc đào. Em chả dám nhìn anh, cứ cúi gằm mặt xuống đất. Anh cũng không nhìn em mà nhìn hút theo bóng Đinh rồi nói:
- Hôm qua lớp bọn anh đá bóng với bọn lOC. Chúng nó thua nên cãi nhau. Thằng Đinh nóng quá, tí nữa thì đánh nhau. Hôm nay mà không cẩn thận thì dễ đánh nhau lắm.
Em tỏ ra lo lắng:
- Chết. Thế phải làm thế nào bây giờ?
Đúng lúc đó anh chỉ về phía nhà hiệu bộ:
- À, thằng Đinh kia rồi. Nó đang đi với thầy chủ nhiệm. Chắc có việc gì đấy. Có thày chủ nhiệm thì không dám đánh nhau đâu.
Anh bỗng quay sang em hỏi:
- Em dạy anh bói hoa được không?
Em bảo, thì anh cứ cầm bông hoa lên đi, rồi anh cầu nguyện điều gì, anh cứ nghĩ về điều ấy và bứt từng cánh hoa một. Thế, thế... Ví như anh muốn yêu ai chẳng hạn. Anh sẽ nói là “Yêu” rồi bứt một cánh, lại nói là “Không yêu” rồi bứt một cánh. Thế, thế... Anh bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào em. ôi, cái nhìn của anh mới chói lòa làm sao. Em vội cụp ánh mắt mình xuống. Bất ngờ anh hỏi em:
- Sao em lại trốn học ra đây ngồi?
- Em... em...
Quả thật là em không biết phải trả lời anh như thế nào. Trước ánh mắt của một “con ngoan trò giỏi” như anh thì cái việc em phải ra đây ngồi thật không thể chấp nhận được. Vậy mà chả hiểu sao em lại trả lời rất thật:
- Em bị cô giáo dạy lý đuổi ra khỏi lớp.
- Sao lại đuổi?
- Em không mang vở đi.
- Sao đi học lại không mang vở?
- Em sẽ không học nữa. Đây là buổi cuối cùng. Em chỉ muốn đến lớp để chơi thôi...
Anh nhìn em im lặng. Hình như anh đang tự đặt ra câu hỏi vì sao đây lại là buổi học cuối cùng của em và đang tự trả lời. Nhưng anh không trả lời nổi. Và anh lại buông ra một câu hỏi:
- Sao em lại nghỉ học?
Sao em lại nghỉ học? Điều này thì em không thể nói với anh được. Ánh mắt anh đáng tin cậy lắm, khuôn mặt anh có thể khiến em dốc bầu tâm sự. Nhưng đây là sự sống chết của cả gia đình em. Em mà hở ra thì em sẽ chết. Nhưng em trót nói ra rồi. Thì thôi, em đành phải tiếp tục trả lời. Nhưng em phải giấu đi sự thật. Em nghỉ vì nhà em nghèo quá, không có tiền đi học. Em nghỉ để ra chợ bán hàng cùng với mẹ em. Anh tin ngay. Anh bảo, ừ, nhà em làm hương ở ngõ trên. Anh biết. Có lần anh cùng thằng Đinh qua nhà em lấy hương. Anh đứng ngoài giữ xe đạp. Anh có nhìn vào nhà em và thấy em gói hương đưa cho Đinh. Trên đường về anh cứ hỏi thằng Đinh về em. Chả biết nói thế nào về cái cảm giác của anh lúc ấy nhỉ? Em không xinh, đúng rồi, không thật xinh lắm. Em không ăn diện, đúng rồi, bộ quần áo giản dị em mặc hôm ấy chỉ vừa đủ tôn lên cái dáng dấp thiếu nữ mười sáu của em thôi. Em cũng không nói cười nhiều để anh nhận ra duyên chìm duyên nổi gì ở em cả. Nhưng mà anh thấy ấn tượng. Đúng rồi, một ấn tượng khó diễn giải. Có lẽ là ở ánh mắt. Em tiễn Đinh ra cửa và đưa mắt nhìn theo hai đứa bọn anh. Anh có ngoái lại và thấy ánh mắt của em chứa một cái gì đó rất lạ. Bây giờ anh mới gặp được em. Nhưng mà em bảo sao? Em nghỉ học vì nhà nghèo quá ư? Anh nói thật nhé, nhà em còn khá giả hơn cả nhà anh và nhà thằng Đinh đấy. Chắc là em thích bán hàng hơn đi học nên bỏ thôi?
Em cúi gằm mặt xuống không nói gì. Thôi thì anh nghĩ thế nào cũng được. Em chả còn thời gian mà ngồi nói chuyện với anh nữa đâu. Cái thiện cảm em có đối với anh thế này là quý lắm rồi, em sẽ lưu giữ nó và mang nó theo trong tâm hồn mình tới phương trời xa xôi kia. Và phải nói thật với anh là em rất vui. Rất vui vì lần đầu tiên em biết đã có một người con trai ấn tượng tốt về em. Người con trai ấy lại là anh, một khuôn mặt sáng láng, một học sinh giỏi giang, một cậu trai mảnh khảnh với giọng nói nhỏ nhẹ. Tóm lại là cái sự con gái thường tình trong em bắt đầu biết thế nào là sóng sánh, chao nghiêng. Nhưng kẻng vào học lại vang lên rồi. Thôi, anh vào học nốt tiết cuối đi. Em về đây.
Em xách cặp đứng lên. Em chào anh. Em tạm biệt anh. Và có thể là không bao giờ gặp lại anh nữa.
Gió bỗng thổi thốc lên từ phía vườn ươm. Những chùm hoa trúc đào rung rinh trên đầu anh và em. Em bước về phía cổng trường. Học sinh bắt đầu vào học tiết cuối rồi. Thôi, coi như em không học hết buổi học cuối cùng này. Em về với gia đình em đây. về với biến cố lớn sắp xảy ra trong đời em. Anh vào học đi, cậu trai đáng mến ạ. Em nghĩ đến kết quả bói hoa của em khi nãy. “Thoát”. Nhất định là gia đình em sẽ thoát. Và như thế có nghĩa là sẽ rất khó có cơ hội gặp lại anh.
- Từ từ đã, để anh đưa em về nhé!
Thoạt tiên là giật mình. Rồi một một cảm giác rợn ngợp bắt đầu từ cổ tay, lan dần lên khắp cơ thể em. ôi chao, lần đầu tiên em được một người con trai nắm tay. Anh đã chạy theo em và đề nghị đưa em về. Hàng ria mép trên mặt anh căng ra bởi cơ mặt anh đang giãn nở theo nhịp thở ngấp ngáp. Anh không giấu được em sự bồi hồi run rẩy. Có lẽ với anh cũng là lần đầu tiên nắm tay một người con gái. Tình cảnh của một đứa con gái như em đã làm anh xúc động và dẫn tới sự bùng nổ một hành động báo hiệu sự trưởng thành triệt để của một cậu con trai trong anh. Nhưng anh còn phải vào lớp học tiết cuối? Không, anh không vào lớp nữa, anh bỏ cũng được. Còn cặp sách của anh? Không lo đâu, thằng Đinh sẽ mang về cho anh. Thôi, anh đừng bỏ học. Em về được mà.
- Không nói nhiều nữa, Diệu, để anh đưa em về.
Nắng đã bắt đầu loang lổ khắp sân trường. Gió vẫn thổi tới từ vườn ươm và những cánh hoa em vừa bứt lìa khỏi bông bay tứ tung khắp gốc trúc đào.
Anh hiên ngang đi bên em bước về phía cổng trường. Tự nhiên em thấy cái áo sơ mi màu trứng sáo anh mặc trên người không còn lụng thụng nữa. Cái dáng anh không giống lúc sáng, chỉ như muốn biến mất khỏi mặt đất, mà vững chãi một khát vọng hiện tồn bên em. Em không hiểu lúc ấy lòng em xao xuyến như thế nào nữa.
Em thấy mình hạnh phúc.
CHƯƠNG 3
Khi quyết định ra tay thực hiện phi vụ cướp tù có một không hai này thị đã chấp nhận mọi nguy hiểm đang dành sẵn cho mình.
Nhưng thị không suy nghĩ nhiều. Cái quyền lực cỏn con mà thị đang có được là do Tùng mang lại. Bây giờ thị dùng tất cả quyền năng của mình để trả lãi cho Tùng. Tù tội là thứ lúc nào cũng giăng ra phía trước cuộc đời của những kẻ như Tùng và thị. Nhưng tù tội cũng là thứ chó chết nhất. Đó là một khái niệm mù mờ mà hiện thực, bảng lảng mà gần gũi, khắc nghiệt mà khốn nạn, thị không muốn nghĩ đến nó, không muốn nó tồn tại như một tứ ám ảnh trong đầu. Vậy mà giờ đây Tùng không chỉ tù tội mà còn đang chờ cái án tử lơ lửng trên đầu nữa. Tin trong trại đưa ra là Đơn xin tha chết của Tùng đã được gửi lên Chủ tịch nước rồi nhưng chưa có hồi âm. Lần này Tùng bị chuyển trại không biết là để đưa đến một chỗ chết khác kín đáo hơn hay là để thụ án chung thân nếu Chủ tịch nước đã chấp nhận đơn xin ân xá? Thị không nắm được những tin tức quan trọng cỡ ấy, nhưng thị nắm được ngày giờ xe tù xuất phát, số lượng phạm nhân chuyển trại, những quản giáo nào đi theo. Và kế hoạch của thị cùng đám đàn em được vạch ra hết sức cụ thể, tỉ mỉ. Trước hết là thị tìm cách gửi vào cho Tùng quả lựu đạn hơi cay. Việc này không khó lắm vì nhà tù là nơi để nhốt con người, có thể một con kiến chui không lọt nhưng lại có rất nhiều khe hở để có thể tuồn mọi thứ vào. Thế giới tù nhân cực kỳ phức tạp và kỳ bí. Thế giới tù nhân chứa đựng trong nó ngàn vạn những bất ngờ. Và vụ cướp tù mà thị ra tay lần này cũng sẽ là một bất ngờ lớn, đủ sức gây cho thế giới trại giam phải bàng hoàng, sửng sốt.
Khi Tùng nhận được quả lựu đạn đó thì cũng có nghĩa là Tùng sẽ đọc được những ám hiệu ngầm để kết hợp hành động với thị đúng lúc nhất. Lộ trình của xe tù thị cũng đã nắm được. Xe tù sẽ phải chạy qua một cái ngã ba nhỏ. Khi xe tù vừa chớm đến cái ngã ba này thì có một chiếc xe tải nhỏ xập xệ, rách nát chở rau quả tươi sẽ lao thẳng vào xe tù và đứng khựng lại ngay trước mũi nó. Ngồi trong thùng xe tù, khi thấy có dấu hiệu xe dừng, Tùng sẽ rút chốt quả lựu đạn cay ném ra sàn xe. Đám quản giáo không chịu nổi hơi cay sẽ phải nhảy xuống đất. Người của thị lúc đó sẽ khống chế lái xe, cướp vô lăng và cho xe tù rẽ vào hướng còn lại của ngã ba, cứ thế thả hết tốc lực mà chạy. Rất nhiều xe ôm, công nông, xe đạp thồ nằm chờ sẵn ở nhũng đoạn đường gần đó sẽ lao ra cản trở sự truy đuổi của công an. Xe tù chạy cụt đường thì sẽ ra tới bờ sông, ở đó đã có một chiếc xuồng máy chờ sẵn. Tùng sẽ nhanh chóng được đưa xuống xuồng, được giải phóng mọi xiềng xích, được giải độc hơi cay, rồi xuồng đưa Tùng ra một hòn đảo nhỏ. Từ đảo này, sẽ có tàu đưa Tùng vượt biên sang Hồng Kông, Thái Lan hay Ma Cao. Bây giờ bên đó không còn trại cấm nữa. Nhưng cứ sang đó rồi tìm đường đi tiếp. Những vùng đất đó Tùng đều có bạn bè chiến hữu cả.
Tùng phải được tự do! Đó là mục đích tối hậu mà thị cần phải làm lúc này. Còn thị có gặp lại được Tùng nữa hay không điều đó tính sau. Nếu Tùng đã ra khỏi song sắt thì đôi cánh đại bàng của Tùng sẽ lại cất lên, bay cao bay xa trên bầu trời giang hồ rộng lớn kia. Thị tin rằng Tùng sẽ lại tạo ra một vương quốc mới, dù ở bất kỳ nước nào, khi ấy việc cho người về đón thị, một ái phi vốn được sủng ái, lại có công liều mình cứu chúa chỉ là vấn đề thời gian thôi. Thị tin thế. Thị biết là Tùng yêu thị. Yêu nhiều lắm. Đó là tình yêu của một bạo chúa nhưng ngọt ngào và lãng mạn làm sao! Thị yêu và được yêu gấp nhiều lần. Với thị, Tùng không phải là tình yêu đầu tiên nhưng đó quả đích thực là tình yêu lớn của thị. Nó khác với tình yêu giữa thị và Hưng “mã”. Nó mang màu sắc của ông hoàng bà chúa, nó không mang nỗi niềm khắc khoải, hy sinh, chờ đợi, hiến tặng và đắng cay lừa dối như với Hưng. Thị gặp Tùng khi thị bị Hưng đánh tráo. Tùng đã trả đúng thị về với thị. Thị phải là một bà hoàng. Thị có đủ phẩm chất của một bà hoàng mà bấy lâu nay Hưng đã tráo đi, đã thay vào đó là một phụ nữ tầm thường, một mụ lưu manh rẻ rúng, một thứ đàn bà qua tay, nạn nhân của sự phỉnh phờ, một con cái ngoan ngoan ngoãn và dễ lừa bịp. Tùng thắp lên trong thị khí phách của một con cái ngang tàng, một ái phi lọc lõi, một nữ giang hồ tầm cỡ, một mụ đàn bà quyền lực, một phận gái cơ mưu và quyền biến. Thị chỉ thực sự thức tỉnh khi gặp Tùng. Sự thức tỉnh ấy có được là bởi cái dáng khom lưng quỳ gối của Hưng “mã” trước Tuấn chợ. Để rồi, thị trở thành thị của ngày hôm nay, một nữ đại bàng cai quản thế giới ngầm một phần ba địa bàn thành phố với một sân ga, hai bến xe, ba chợ lớn, nhà hàng Sóng Biển và hai mươi mốt sòng bài. Cơ nghiệp ấy do Tùng để lại. Nhưng cơ nghiệp ấy cũng do một phần công sức của thị tạo lên. Và thị đang dùng tất cả sức mạnh của nó để trả cái giá tự do cho Tùng. Tất cả đã đâu vào đấy. Tất cả đã được lên kế hoạch một cách hoàn chỉnh. Tất cả đã an bài nếu sức người có thể thắng được thiên thời. Tự do đang chờ đón Tùng ngay khi cánh cổng trại giam mở ra để chuyến xe chuyển tù định mệnh chuyển bánh...
Chính vì cái sòng bài thứ hai mươi mốt đó mà Tùng phải lĩnh án dựa cột. Đáng lẽ Tùng không nên xuất hiện ở cái sòng bài đó làm gì. Bọn thằng Tính “dao mổ” sẽ có nhiệm vụ cướp sòng bài đó nếu chủ nó cương quyết không chịu nhượng hồ. Và với sự ra tay của thằng Tính thì thị tin là cái sòng bài thứ hai mốt đó cũng sẽ thuộc về thị. Nhưng rồi ma xui quỷ khiến thế nào, Tùng lại “xuất tướng” cùng với đám thằng Tính trong buổi thanh toán ân oán giang hồ hôm ấy. Thị đang đi thu hồ ở sòng bài 19 thì nhận được tin dữ. Con Mỹ “chột” báo tin cho thị mà mặt nó cũng tái đi, miệng láp ba láp bắp, nói mãi không rõ ngọn nguồn đầu đuôi câu chuyện. Con Mỹ này vào trận thì rất lỳ đòn. Thế nhưng gặp xúc động mạnh thì như lên cơn động kinh, người cứ giật đùng đùng, nói năng như bị dán băng keo vào miệng. Thị phải tát vào mặt nó: “Mày dừng cái cơn động kinh của mày lại đi. Từ từ nói tao nghe xem nào?”. Sau cái tát ấy con Mỹ mới tỉnh hẳn. Mỹ nói với thị rằng chính mắt nó đã chứng kiến đám bảo kê ở sòng 21 “dám chống lại bọn anh Tùng”. Và trận huyết chiến đã xảy ra. Tính “dao mổ” dùng lê xiên chết ngay một thằng ở cửa sòng bài. Bọn sòng 21 cũng nổi máu điên, dùng mã tấu bổ tới tấp vào người Tính. Giữa lúc hai bên đang loạn đả lẫn nhau thì Tùng áp sát được thằng chủ sòng. Tùng đã dùng súng bắn chết nó rồi cùng mọi người tháo thân...
Nghe đến đây thị nghiến răng lại, thề sẽ băm nhỏ bọn 21 này ra. Chúng nó láo quá. Mà Tính “dao mổ” cũng chủ quan quá. Kéo vài đứa đến như thế thì cướp sòng làm sao được? Bọn 21 này lại được bọn Cộc “ba tai” bảo kê, phải thương thuyết trước xem thế nào, nếu chúng không chịu thì phải tính cách dằn mặt rồi mới tìm cách cướp sòng. Đúng là một lũ ngu. Đã thế lại lôi Tùng vào cuộc. Cũng may Tùng dùng đồ “nóng” chứ không thì mất mặt với bọn Cộc “ba tai”. Thôi được rồi, thế bây giờ Tùng và Tính đâu? Mỹ “chột” bảo: “Anh Tính bị thương nặng lắm. cả hai đang trốn ở bên kia sông”. Thị vội vã mang đồ tiếp tế đến nơi ấn náu của Tùng và Tính. Nhìn cái thân quấn băng trắng muốt của Tính, thị thoáng e ngại. Mỹ “chột” bảo: “Hay đưa anh Tính vào bệnh viện?”. Thị lắc đầu: “Vào đó chắc chắn sẽ bị bắt. Mà có khi công an chưa đến thì bọn Cộc “ba tai” đã cho người đến xử rồi”. Thị bàn cách cho Tùng và Tính lên thuyền gỗ chạy ra Quảng Ninh. Thị sẽ tìm cách móc nối với đám tổ chức vượt biên ở ngoài đấy cho hai người “phắn” đi đâu đó một thời gian, may ra mới thoát được cái nạn này. Thuyền gỗ chạy đi rồi, thị cùng năm thằng đệ tử xách dao sang sòng 21. Không khí ở đấy thật tan hoang, ảm đạm. Vợ thằng chủ sòng đang phủ phục bên quan tài của chồng, kẻ vừa ăn phát đạn xuyên qua mang tai của Tùng. Thị túm tóc vợ chủ sòng, giật ngược lên, nói gằn từng tiếng: “Tao cho mày đúng một tuần để làm ma cho chồng và đám đệ tử chó chết của mày. Rồi sang gặp tao bàn chuyện nhượng hồ. Mày còn cứng đầu nữa thì tuần sau người nằm trong quan tài kia sẽ là mày”.
Nghĩ lại, quả là thị đã rất liều mạng khi làm việc này. Xác chết của thằng chủ sòng còn chưa kịp nguội. Lệnh truy nã Tùng và Tính “dao mổ” vừa mới được ban ra. Công an đang lảng vảng quanh sòng 21 và thị cũng là đối tượng bị theo dõi rất sát. Nhưng thị buộc phải làm thế. Thị phải ra tay ngay để dằn mặt đối thủ và lấy lại tinh thần cho đám đàn em của thị. Đúng một tuần sau sòng bài thứ 21 về tay thị. Nhưng cũng đúng một tuần sau thì Tùng bị bắt ở Quảng Ninh khi đang trốn chui trốn lủi để chờ ngày lên tàu vượt biên. Tính “dao mổ” thì đã chết trước đó vì mất quá nhiều máu. Gần chục phát mã tấu vào người, lại không được chạy chữa nên Tính không thể sống được.
Vậy là cùng một lúc băng đảng của thị vừa bị mất thủ lĩnh - Tùng “he rô”, vừa mất một đại đệ tử, tên sát thủ số một của băng - Tính “dao mổ”, lại mất luôn cả mấy thằng lâu la có mặt trong trận huyết chiến ở sòng 21 hôm ấy chậm chân chưa kịp chạy trốn. Nếu thị không vững tay chèo, không tỏ rõ bản mặt thì khó mà lèo lái được thế giới ngầm mà Tùng “he rô” đã tạo lập nên. Thị phải căng mình ra để tính toán. Tất cả những kẻ dính líu đến Tùng lập tức được thị tổ chức cho đi trốn. Thị cũng không chịu ngồi yên để đối phương có thể thừa cơ ra tay. Thị mà lún lúc này thì bọn Lân “sói”, bọn Cộc “ba tai” sẽ giày xéo thị như giày xéo một con giun không hơn không kém. Giang hồ tàn khốc. Dấn thân vào chốn này chỉ có lên thang chứ không được xuống. Xuống thang là thân bại danh liệt. Thị quá hiểu cái quy luật khủng khiếp đó. Cũng may bên thị còn có những đứa như con Mỹ “chột”. Nó đã sát cánh cùng thị, tỏ rõ chí khí của một con ma đầu có một không hai ở cái thành phố Ngã ba sông này.
Và khi không còn Tùng nữa, thị đã lộ diện một khuôn mặt khác, khét tiếng hơn, trong giới giang hồ.
Nhiều người nghĩ ràng Tùng sa lưới thì phen này thị cũng hết thời. Một vài sòng bài dưới tay thị có biểu hiện chậm hồ hoặc ngả sang tay bảo kê khác. Điều này làm thị không chịu nổi. Thị trực tiếp mang dao đi dần mặt. Vũ khí mà thị thường mang theo bên mình là con dao bầu chọc tiết lợn sáng loáng. Hình ảnh thị cùng con dao bầu đã trở thành biểu tượng của một nữ quái máu lạnh có một không hai trong giới giang hồ thành phố Ngã ba sông. Đi cùng thị thường có năm thằng đệ tử cực kỳ trung thành. Hai thằng luôn kè kè bên thị, còn ba thằng sẽ bảo vệ vòng ngoài, ở sòng bài số 15 thị xử lý thằng chủ sòng bằng một hành động hết sức rùng rợn, đủ để làm rúng động cả hai chục sòng bài còn lại. Mấy thằng đệ tử ghì chủ sòng xuống, thị cầm ngón trỏ trái của hắn đặt lên bàn và con dao bầu của thị vung lên. Ngón tay trỏ văng ra đất trước những khuôn mặt xám ngoét của đám bảo vệ sòng. Thị nhặt ngón tay còn đang rỉ máu và co giật hên hồi đó lên, đặt vào trong chiếc đĩa vẫn dùng để chơi xóc đĩa. Thị tuyên bố: “Chậm hồ không có lý do thực chất là chống lại tao. Tao chặt của mày một ngón tay trỏ để mày đừng nghĩ đến chuyện phản thùng, đổi chủ”. Rồi thị úp cái bát vào, cầm đĩa đưa cho một tên đàn em, bảo: “Mang về”. Ba ngày sau thị cho người mang đến trả ngón tay cho chủ sòng với lời nhắn: “Đặt ở ngay phòng khách để hàng ngày nhìn thấy mà nhớ là đừng có nghĩ đến chuyện chậm hồ”. Ngón tay đó đã được thị cho vào một chiếc lọ thủy tinh có chứa dung dịch phoóc môn, đổ chì bọc kín lại.
Với đòn ra tay dữ dằn này, hầu hết các sòng bài còn lại đều răm rắp tuân theo thị. Một vài đối thủ của Tùng cũng định nhân cơ hội này để ra tay tranh đoạt địa bàn làm ăn và khuếch trương vòng ảnh hưởng giang hồ nhưng đều thất bại trước thị. Biết tin Lân “sói” định tổ chức phá động mại dâm Sóng Biển bằng cách cho người đến đòi gái. Thị mời Lân đến, chỉ vào một loạt các em chân dài đang phục vụ ở nhà hàng Sóng Biển, hỏi:
- Trong số những đứa này, anh định đòi đứa nào?
Lân chỉ vào Hồng “sư sư”, người với tần suất tiếp khách cao nhất động, nói: “Con bé này trước là do anh nhặt về. Nó làm ở chỗ anh mới được có mấy tháng thì lại chạy sang em. Tội nó nặng lắm. Anh nhất định phải kêu nó về quy án”.
Thị lại hỏi:
- Anh định quy án gì cho nó?
Lân “sói” đáp bàng giọng lạnh lùng:
- Nó làm cho em bao nhiêu năm thì trả lại cho anh bấy nhiêu thôi. Một ngày nó tiếp bao nhiêu khách, cứ thế mà nhân lên. Còn phần bên em hưởng lợi từ nó, anh không đòi, coi như nể tình anh em mình mà cho qua. Đấy là án tiền. Còn án hình thì tội trốn khỏi tay anh chắc cũng phải chặt tay hoặc chặt chân. Việc đó bên anh có nội quy hẳn hơi. Em cứ yên tâm, anh xét xử công minh, đúng người đúng tội.
Thị bảo:
- Được rồi. Anh cứ về đi. Đúng hai ngày nữa em sẽ mang trả con Hồng “sư sư’ này cho
anh.
Hai ngày sau, thị cho người chở một chiếc quan tài sang giao cho Lân “sói” với lời nhắn: “Anh cần người em trả người. Từ nay chúng ta không nợ nần gì nhau nữa”. Lân cùng đàn em mở quan tài ra. cả bọn sCtng sờ trước một cái xác là nữ giới nhưng không thể nào nhận ra được là ai vì mặt đã bị đổ a xít biến dạng. Trước ngực xác chết có một tấm vải màu hồng thêu dòng chữ: Hồng sư sư. Lân vội tổ chức cho chôn cất, từ ấy trong lòng có ý ghê sợ thị, không còn ý định “đòi gái” để phá thị nữa.
Việc trả người trong quan tài của thị được đồn khắp giới giang hồ thành phố, khiến cho không một đối thủ nào dám coi thường thị. Thực ra cái xác đó không phải là Hồng “sư sư”. Thị chưa ác đến mức đi giết người vô lối như vậy. Thị xin Lân hai ngày là để có thời gian đi vào các nhà xác bệnh viện tìm mua một xác chết vô thừa nhận. Sau đó thị cho mặc quần áo của Hồng “sư sư’ rồi đổ a xít làm khuôn mặt biến dạng. Trước khi đổ a xít vào mặt cái xác chết đó, thị tháp hương khấn vái, xin xỏ hẳn hơi. Sau đó thị còn cho người tìm ra manh mối gia đình của người chết, trả họ một món tiền lớn. Coi như thị đã sòng phẳng “mua” cái xác đó với một cái giá đủ để người nhà của họ phần nào đỡ đần cuộc sống, còn thị khỏi mang tiếng ác và không lấy đó làm điều phải ăn năn day dứt.
Thị cũng đã dốc sức chạy vạy cho Tùng ngay sau khi Tùng bị bắt. Nhưng mấy phiên xử đã diễn ra không như ý định của thị. Tùng vẫn phải lĩnh án tử. Đến nước này thì thị phải ra tay cướp tù.
Ngày mùng tám tháng tư sẽ là ngày người ta mang lệnh trích xuất vào trại giam đưa Tùng đi.
Trước đó mấy ngày thị gặp Nhân.
CHƯƠNG 4
Chuyến tàu ấy có một trăm ba mươi sáu người cả thảy. Đa số đi cả gia đình. Nhà em góp mặt ba người.
Bà nội cương quyết không đi. Bà bảo bà già rồi. Sung sướng thế nào chả biết chứ đi biết bao nhiêu cây số, vượt qua bao nhiêu sóng bể trùng dương như thế thì bà chịu. Bố mẹ thuyết phục mãi không được đành để bà ở lại. Bà có nghề làm hương gia truyền. Bà không chết đói được. Nếu cả nhà em đi thoát thì sau này sẽ gửi đô về, tha hồ cho bà tiêu. Rồi bố mẹ em và em sẽ thành kiều, sẽ thường xuyên về thăm bà. Khi đã khá giả, có điều kiện hơn nữa thì sẽ bảo lãnh cho bà đi luôn. Sẽ không phải trải qua “bao nhiêu sóng bể trùng dương” nữa. Máy bay bay vèo một cái là bà được đặt chân đến một đất nước khác. Với lại bà cũng cần phải ở nhà để anh trai em ra trại còn có chỗ mà tìm về. Anh em đang thụ án mười tám năm về tội giết người ở trại 5 Thanh Hóa. Đã được hơn năm năm rồi. Bố em bảo: “Âu cũng là đâu vào đấy”.
Để có thể đi được cả ba người như thế này, bố mẹ em đã phải bán tất cả những gì có thể bán được trong nhà. Tính đổ đầu một người là chín chỉ vàng, cả nhà em phải chuẩn bị hai cây bảy vàng. Tiền ấy được nộp hai phần ba từ trước đó nửa năm. Những người tổ chức chuyến đi dùng tiền ấy để thuê đóng tàu. Khi tàu đã đóng xong thì mọi người nộp nốt một phần ba còn lại. Số tiền này dùng để thuê tài công, mua xăng dầu, lương thực thực phẩm dự trữ. Con tầu được tính toán là sẽ chạy trên biển bảy ngày. Nếu quá bảy ngày thì tất cả sẽ lâm nguy, sẽ rơi vào một trong những hiểm họa sau: Thứ nhất là đói; Thứ hai là dạt vào hải phận của một nước mà mình không muốn vào, sẽ bị trao trả về; Thứ ba là nhầm đường, lệch hướng, lại quay trở về nơi xuất phát, án “vượt biên trái phép” sẽ lập tức choàng vào cổ mọi người; Thứ tư là gặp cướp biển; Thứ năm là gặp bão lớn, sóng gió sẽ nuốt chửng con tàu; Thứ sáu là tàu bị hỏng hóc, trục trặc, phải ăn dầm nằm dề trên biển... Người ta đã rút ra được quy luật rồi. Nhất định những hiểm họa ấy sẽ xảy ra nếu sau bảy ngày mà con tàu không cập đất Hồng Kông.
Nhưng thôi, đó là chuyện của người lớn, chuyện của những người tổ chức chuyến đi này. Em không cần biết những chuyện đó. Em chỉ là một con bé mới lớn, một suất đi kèm của gia đình. Việc của em là cầu nguyện cho ông bà ông vải phù hộ cho con tàu cập đích như mong muốn. Thế thôi. Không nên nghĩ đến những rủi ro trên biển làm gì.
Khi con tàu ra khơi rồi, bỗng nhiên em lại nhớ đến anh. Hôm qua em đã hai lần nói dối anh. Sáng nay không biết anh có sang lớp 9C để tìm em không? Trên đường anh đưa em từ trường về nhà, thỉnh thoảng mặt em lại đỏ nhừ, còn anh thì không giấu được những ánh nhìn gượng gạo. Anh cố gợi chuyện còn em thì cố lảng tránh. Anh dẫn em đi theo lối đường tàu. Lối ấy vắng vẻ và ít gặp người quen. Em cảm thấy đỡ ngại, và anh cũng thấy thoái mái hơn. Anh bảo bố mẹ anh đều là công nhân nhà máy xi măng. Nếu nhìn vào bữa ăn hàng ngày thì nhiều lúc còn thiếu chất hơn những gia đình buôn bán như nhà em. Vậy mà sao em lại nghỉ học. Cố gắng học cho hết cấp ba rồi hãy nghỉ. Những năm cấp ba là những năm vui nhất của đời học sinh mà. Hay em có bị thày cô giáo trù ghét gì không? Hay em thấy mình học yếu môn nào? Nếu là mẩy môn toán, lý, hóa thì để anh kèm cho? Cũng không khó đâu mà. Hóa ra anh cũng đâu có ít nói như lúc đầu em tưởng. Và anh cũng đâu có rụt rè, nhút nhát gì. Anh là một con gà trống choai rất biết gáy đấy chứ. Đoạn đường hôm ấy sao mà ngắn thế? Đoạn đường tàu lại càng ngắn hơn nữa. Mọi khi em rất ghét đi theo lối đường tàu. Nó bẩn thỉu, tối tăm, chật chội, lại vắng vẻ. Đi giữa hai thanh ray em cứ sờ sợ thế nào ấy. Vậy mà hôm đó anh xách cặp cho em. Hai đứa đi giữa hai thanh ray, vừa đi vừa nói chuyện, thỉnh thoảng lại bật lên những tràng cười. Chả đâu vào đâu. Nhưng em thấy vui lắm, trong lòng cứ Châng lâng, chộn rộn thế nào ấy. Rồi cũng đến lối rẽ vào nhà em. Em xin lại anh cái cặp sách. Anh không đưa ngay mà bảo:
- Nhưng Diệu phải hứa với anh một điều cơ?
Em cúi mặt, chân cứ di di mẩy hòn đá dăm bên đường ray:
- Hứa cái gì ạ?
- Mai Diệu phải đi học!
Em cười chua chát, rồi khẽ lắc đầu. Thôi anh ạ. Em không học được đâu. Tại sao lại không? Những lý do Diệu đưa ra vớ vẩn bỏ xừ. Diệu không tin vào sự giúp đỡ của anh à? Diệu cần gì anh sẽ giúp. Anh tin là không phải chuyện hoàn cảnh gia đình. Anh cũng tin là không phải Diệu đã chán học. Những chuyện khác thì anh giúp được mà. Diệu hứa đi! Mai Diệu vẫn đến lớp nhé!
Em im lặng, chân vẫn cứ di di mẩy hòn đá dăm bên đường ray.
- Nào, Diệu hứa với anh đi?
- Vâng, em hứa. Mai em sẽ đến lớp.
Em đã buột miệng để tuôn ra một lời nói dối nữa. Mà lại là một lời hứa. Không, em không hứa gì đâu. Chẳng qua là em muốn anh vui thôi. Em muốn anh trao lại cho em cái cặp sách và thanh thản ra về thôi. Anh đã bỏ cả tiết học cuối để đưa em về. Anh đã quan tâm đến cái con bé xấu xí ở xóm đường tàu chả có gì đặc biệt này. Anh đã cho em được hiện hũu bên cạnh sự sáng láng của anh. Thì em tiếc gì anh một lời hứa. Nhưng mãi mãi đó chỉ là một lời hứa suông. Anh đừng bắt em phải làm một việc mà em không thể làm được. Sáng mai em đã bồng bềnh trên biển để đi về một nơi xa lắm. Làm sao em thực hiện được lời hứa với anh? Anh hãy nhận lời hứa này và quên nó đi nhé. Em cúi mặt xuống, di đến vỡ viên đá dăm dưới chân mà không dám ngẩng đầu lên nhìn anh, ngay cả khi anh ấn vào tay em chiếc cặp sách.
- Sáng mai anh sẽ sang lớp em. Anh chờ Diệu đấy. Thôi anh về đây.
Anh đi rồi mà em vẫn không dám ngẩng đầu lên. Tay em cầm chiếc cặp sách anh trao rồi mà em vẫn chưa muốn rẽ vào con ngõ dẫn về nhà em. Thôi, anh đi đi. Chút xao lòng của tuổi mới lớn sẽ đến rồi qua như cơn gió thoảng. Em không muốn nhìn thấy anh nữa, dù là một dáng dấp xa mờ. Anh đi đi. Đi đi để em còn về. Bố mẹ em đang chờ. cả nhà em đang chuẩn bị rời bỏ quê hương nghèo đói và túng quẫn này. Em và anh quá khác nhau để có thể đi thêm một đoạn đường, dù đó là đoạn đường ray cóc ghẻ, tồi tàn. Em và anh quá khác nhau để có thể hưởng chung niềm vui của thời cáp sách đến trường, quá khác nhau để có thể ở cùng bên nhau, dù giây lát, để nghe tiếng thở bối rối từ nhau. Thôi anh đi đi. Đi đi...
Tu... u... u...
Tiếng còi tàu tru lên rất dài rồi tiếp theo đó là tiếng xinh xịch của bánh sắt nghiến vào đường ray. Em vừa choàng tỉnh trước những âm thanh nặng nề và rùng rợn ấy thì nhận ra đất đang chuyển động dưới chân mình. Hai đường ray rung lên bần bật. Tàu đang sắp sửa lướt qua chỗ em và anh đứng trong nỗi bối rối chia tay. Em chỉ kịp nhận ra có thế thôi thì như một cơn gió từ đâu ào đến, bốc em lên. Em nhận ra anh với mùi con trai mới lớn, với hai cánh tay chưa kịp đầy đặn cơ bắp, với hàng ria mép lún phún trên cặp môi đỏ nhạt đang mím lại. Và em nhận ra giọng nói như gió thoảng của anh: "Em sao thế? Muốn chết à? Tàu sáp đâm vào mình rồi mà còn đứng ngây ra đó làm gì?"
...Sang đến ngày thứ hai thì em say sóng. Em đã từng say rượu, say xe, say nắng, say cả cà phê nữa. Nhưng lần đầu tiên em biết thế nào là say sóng. Thật khủng khiếp. Mọi thứ trong cơ thể, kể cả lục phủ ngũ tạng cứ muốn trào ra qua cửa miệng. Ngày đầu tiên các gia đình còn qua lại thăm hỏi nhau. Chị ở phố nào? Anh ở phường nào? À, ra bác ở gần ga ạ. Em buôn ở chợ ga. Thế à, chị cũng bán ở ngay cổng chợ. Thế mà chị em mình không biết nhau nhỉ? Cháu bán hàng ở bến xe phía Nam. ô, thế bác mày bán hàng nước ở cổng bến gần chục năm rồi đây. Tớ làm ở Nông trường ông Hợi. ôi, tôi biết cái Nông trường đó rồi. Lão Hợi giám đốc ở đấy thụt két bỏ trốn rồi chứ gì? Thì tớ cũng dính vụ ấy đây. Tớ làm ở phòng kế hoạch mà. Không phải bênh đâu, nhưng ông Hợi mang tiếng thế thôi chứ chả mang được về cho vợ cho con đồng các nào. Toàn bị nhân viên ở dưới nó chơi xỏ. Tớ đã khuyên bao nhiêu lần mà ông ấy không nghe. Còn em gái kia chác đang học hả? Trẻ quá! Mà thôi, học làm gì, học cũng chả mọc mũi sủi tăm lên được ở cái đất này đâu. Sang bên kia kiếm thằng Tây mà lấy. Được thằng Ca na đa hay thằng Hà Lan là tốt nhất. Chúng nó văn minh lắm. Bọn kiều Ca na đa và kiều Hà Lan về nước, trông khác hẳn bọn kiều úc hay kiều Nhật. Chớ có dại mà lẩy HôngKông. Thành kiều Trung Quốc thì chết...
Cứ thế chuyện trò nổ như pháo rang. Mẹ em cũng lân la làm quen hết người này đến người nọ trong số ba mươi sáu con người cùng mang một nỗi niềm bỏ xứ mà đi trên con tàu nhỏ nhoi này. Em bám theo mẹ đến ngồi bên một góc khuất của hầm tàu. Nơi đó gần cửa bếp. Có mùi xào nấu từ bên trong đó bay ra. Em ghé mắt vào nhìn thấy có nhiều món lắm. Có cả một con gà. cả một đĩa xào đầy tú hụ. cả một đĩa cá rán vàng ươm. cả một tảng thịt luộc chưa kịp thái nữa. Em cứ chắc mẩm là tí nữa mình sẽ được ăn những món đó. Chà, thế thì khác gì một chuyến đi chơi xa. Không phải học hành, không phải làm gì, lại tha hồ ngắm biển cả bao la, đến bữa lại được ăn những món ngon như thế kia thì thích quá đi mất. Nhưng rồi em thấy một người phụ nữ bê cái mâm bày những món ăn ngon lành đó từ trong bếp ra, đi thẳng lên buồng lái. Mẹ bảo thức ăn đó mang cho mấy người tài công. Tìm thuê được tài công khó lắm. Cũng giống như chúng ta có một cái xe ô tô mà không có ai biết lái vậy. Phải tìm một người biết lái, biết đường để đưa cả đoàn đi. Kiếm một người biết lái xe ô tô khó một thì kiếm một người biết lái tàu khó một trăm. Kiếm được người biết lái tàu khó một trăm rồi nhưng gạ gẫm được họ ra đi với mình còn khó gấp một nghìn. Những người biết lái tàu thường có công việc ổn định. Gia đình họ cũng có đời sống sung túc, khá giả. Họ quyết định ra đi với mình là họ bỏ công việc, bỏ gia đình, bỏ sự yên ổn và không còn quay trở về được nữa. Nếu bị bắt họ sẽ bị quy án nặng hơn những người như mẹ con mình. Họ không phải đóng góp chín chỉ vàng như những người khác, ngược lại họ còn được trả công thêm một cây vàng nữa. Nếu họ đưa thêm gia đình đi thì người nhà của họ sẽ được ưu tiên, chỉ phải đóng năm chỉ một người thôi. Vì họ là người cầm lái đưa con tàu cập bến bờ Hồng Kông, đưa đoàn người đến với thế giới tự do nên được chăm chút, được hưởng một chế độ ăn riêng. Có người chuyên nấu nướng cho họ. Còn lại thì sẽ ăn chung. Bánh mì, xôi, cơm nắm, mì tôm... các món đó sẽ là thực đơn chính và lần lượt được chia đều cho tất cả mọi người trên tàu từ ngày hôm nay cho đến những ngày tới. Bữa ăn càng đơn giản, gọn nhẹ càng tốt. Mẹ bảo: “Đây là chuyến đi trốn chứ không phải một chuyến đi chơi. Cái ăn cái uống chỉ là phụ. Cố nhắm mắt cho qua một tuần để đến được nơi cần đến. Lạy giời chỉ mong có thế thôi”.
Bước chân lên tàu rồi thì tất cả phó thác cho tài công. Biển bao la rộng lớn dường kia, đâu có ai thấy bến, thấy bờ. Đường trên biển là thứ vô hình, những người như em có cho cầm lái cũng chả biết hướng nào mà đi. Con tàu được chia thành nhiều ngăn, các gia đình chia nhau mà ngồi, nằm trong đó. Bố em hay chạy lăng xăng đi đâu đó, thi thoảng mới thấy về với mẹ em, hai người rì rầm vào tai nhau những điều gì đấy, em không nghe được. Một lần em lén đi theo bố và phát hiện ra bố cùng hai người đàn ông nữa lên ngồi với bác tài công ở buồng lái. Bố em là một trong nhũng người tổ chức chuyến đi này. Bố em và hai người đàn ông kia có nhiệm vụ giúp bác tài những việc lặt vặt và phụ trách buồng máy. Bố em vui vẻ nói: “Bọn tôi là nhũng thủy thủ bất đắc dĩ nhưng chả kém gì những người chuyên nghề đi biển. Hì, hì... Âu cũng đâu vào đấy!”. Thỉnh thoảng em thấy bố chui xuống buồng máy, ở dưới đó khá lâu, khi chui lên tay chân bố lem nhem đầy dầu mỡ.
ở cửa bếp em còn được nghe lỏm câu chuyện của mẹ với người đàn ông nhiều tuổi nhất trong số một trăm ba mươi sáu con người tham gia chuyến đi này. “Gia đình” ông khá đặc biệt, chỉ có hai thành viên thôi, ông đã năm mươi ba tuổi - cao niên nhất, còn thằng bé con trên tay ông vừa 9 tháng tuổi - bé bỏng nhất đoàn, ông không phải người thành phố này. ông ở mãi thủ đô xuống đây bắt mối đi cùng với gia đình em. ông đã vượt biên ba lần rồi nhưng lần nào cũng không thoát. Có lần xuống ăn chầu ở chực ngoài huyện biển cả tháng trời mà không đi được. Có lần bị sóng đánh hỏng tàu, dạt vào đảo hoang, phải nhờ ngư dân đánh cá trên biển đưa về. Có lần bị bắt, phải đi tù mất mấy năm. Mà nhà cửa thì bán hết rồi. Vợ ông đi lao động bên Tiệp, ở lại bên đó với người đàn ông khác, không về nữa. ông cứ làm thuê làm mướn, gom góp được ít tiền rồi lại vay mượn thêm của họ hàng, người thân tìm mối đi. Lần này ông đi với một lá bùa hộ mệnh mà Chúa đã phán bảo ông phải mang theo. Trong giấc mơ ngán ngủi mười ngày trước đây, Chúa đã sai một thiên thần cánh trắng bay đến nói vào tai ông rằng, phải có đứa trẻ này đi theo thì biển cả mới mở lối cho ông tới thiên đường, ông hỏi đứa trẻ nào? Thiên thần bảo đứa trẻ tôi đang vác trên đôi cánh của mình đây này. Lúc ấy ông mới nhìn ra trên lưng thiên thần có một đứa bé trai kháu khỉnh đang năm chơi với một bình sữa nhỏ. ông nhìn kỹ thì nhận ra đứa trẻ đó hao hao giống đứa cháu nội của mình. Tỉnh dậy, ông nghĩ mãi về những điều diễn ra trong giấc mơ. Chúa đã nhắn gửi thế thì có lẽ là những lời nguyện cầu của ông đã tới tai Người rồi. Nhưng thằng cháu ông còn nhỏ quá, bố mẹ nó đâu chịu để ông mang đi? Trùng dương cách trở thế, người lớn còn phải gắng gượng, đứa bé chưa cai sữa mẹ kia làm sao chịu được cảnh lăn lóc tàu bè cả tháng trời trên biển? Nhưng ý Chúa là thế. ông không theo ý Người thì chuyến đi sắp tới rồi cũng lại hỏng mất thôi. Cuối cùng ông đã bế trộm đứa cháu đích tôn vừa mới 9 tháng tuổi này đi cùng.
Nhũng người trong ban tổ chức chuyến đi lúc đầu cũng hơi bực mình vì cái suất “Chín tháng tuổi” kia. Biết tính thế nào bây giờ? Chả lẽ cũng cứ đổ đồng chín chỉ vàng một đầu người? Mà ông ta giấu cũng tài. Không ai biết có một đứa bé con được đưa lên tàu, cho đến khi con tàu rời bến. Mãi đến lúc ông ta xuống bếp xin nước sôi pha sữa cho đứa bé mọi người mới phát hiện ra “thành viên đặc biệt” của chuyến đi. Đứng trước sự đã rồi, những người tổ chức đành chép miệng cho qua, chứ chả lẽ lại bắt ông ta vứt đứa bé xuống biển? ông ta có vẻ cũng biết lỗi, cứ ngồi lặng lẽ ở góc cuối tàu, gần cửa bếp, hầu như không nói năng gì. Sau khi câu chuyện của ông được mẹ kể lại, mọi người mới chú ý đến ông, quay ra săn sóc đứa bé. Cứ theo như ông ta nói thì đứa trẻ kia chả phải là vị thần hộ mệnh cho chuyến đi này đó sao? Mọi người gọi ông là ông Trượt. Đứa trẻ được gọi là thằng Chín tháng. Mẹ còn thì thầm vào tai em: "ông ấy theo đạo Thiên Chúa đấy". Em ngây thơ hỏi lại: "Đạo thì sao?". Mẹ nhìn trước nhìn sau, định giải thích điều gì đó, nhưng thấy cái bản mặt ngốc nghếch của em đang ngước lên, mẹ chùng giọng, buông vài lời ngán gọn: "Dân theo đạo ở nước ngoài nhiều lắm. ông này mà sang đến Hồng Kông sẽ là đối tượng được đi nước thứ ba ngay. Như mẹ con mình thì còn xem xét chán!".
Em loanh quanh bên thằng Chín tháng cả buổi mà không biết chán. Nó cứ nhìn em cười, chân tay giơ lên, đập xuống, nhộn ơi là nhộn. Chơi được một lúc thì nó ngủ mất, nhìn cái đầu ngó ngoẹo sang một bên, bờ môi mềm như một cánh hồng, yêu ơi là yêu. ông Trượt đặt thằng Chín tháng đang say giấc vào tay em, bỏ đi ra phía đầu tàu. Trước khi đi ông còn đá cái làn mây đựng toàn quần áo của trẻ sơ sinh vào sát thành tàu. Em bỗng nhìn thấy một cuốn sách thò ra từ những nếp gấp quần áo của thằng Chín tháng. Em cầm lên và nhận ra đó là một quyển truyện. Truyện cổ Việt Nam. Chắc ông Trượt vơ ở đâu đó cuốn truyện này mang đi đọc cho đỡ buồn. Em mở ra xem và mang máng nhớ là có nhiều truyện em đã đọc rồi, như truyện Trău cau, truyện Bọc trăm trứng, truyện Ọuả khế vàng... Em lật lật đến những trang cuối và thấy rơi ra một cây thánh giá bằng bạc to bằng ngón tay. Chắc ông Trượt kẹp vào đây để đánh dấu truyện. Trang truyện được đánh dấu có tên là Giao Long. Cái tên truyện hơi là lạ. Thằng Chín tháng vẫn ngủ ngon lành. Em ngồi tựa vào thành tàu, vừa bế nó vừa đọc truyện. Cái truyện Giao Long ấy, đơn giản, nhưng mà cũng hay. Em chưa đọc truyện này lần nào. Đây có lẽ là lần cuối cùng em đọc truyện cổ tích. Tuổi thơ của em chấm dứt quá nhanh. Tâm hồn em không có chỗ để chứa những câu chuyện cổ tích hoang đường, ma mị và vô bổ như thế này...
CHƯƠNG 5
Đây là cuộc gặp hết sức bất ngờ đối với thị.
Nhân vẫn vậy. Hầu như nói rất ít, chỉ nhìn thị bằng con mắt giải phẫu. Con người này luôn là điều bí ấn đối với thị. Dường như anh ta luôn xuất hiện trước những biến cố lớn trong đời thị. Đôi mắt anh ta rất kinh khủng. Thị sợ đôi mắt ấy. Mỗi khi nhìn vào đó, tuổi thơ của thị, những ẩn ức nặng nề mà tinh khôi, những phần đời chật chội khuất lấp, những bóng hình vay mượn, những thăm thẳm hồng hoang thiếu nữ lại len lén tìm về quanh cái vỏ não đã nhuốm máu tội ác của thị.
Đó là lần cuối cùng thị đi kiểm tra lại tình hình để thực hiện kế hoạch cướp tù. Thị và con Mỹ “chột” bắt đầu cho xe chạy từ cổng trại giam. Chạy đến cái ngã ba mà thị tính sẽ chặn xe chuyển tù để cướp Tùng thì thị bảo con Mỹ “chột” dừng lại. Ngó nghiêng một hồi thị lại vẫy tay bảo Mỹ tiếp tục chạy theo hướng đường dẫn ra bờ sông. Vừa nhìn đường thị vừa hình dung các tình huống sẽ xảy ra nếu như cuộc cướp tù diễn biến theo đúng như ý thị. Đến bờ sông thị xuống xe, để con Mỹ lại đứng chờ, thị đi lên đoạn đê cao nhất, nhìn bao quát một lượt. Rồi thị bước vào cái quán nhỏ nằm bên gốc cây gạo. Quán váng teo, có mỗi thằng bé con trạc mười tuổi ngồi trông hàng. Trước mặt nó, trên chiếc bàn nhựa bạc mầu có bộ ấm chén cáu bấn, lèo tèo vài cái bánh đa, mấy phong bánh khảo, hộp kẹo lạc cùng dăm bao thuốc lá. Đầu thị tí nữa thì chạm phải gói thuốc lào treo lủng lẳng ngay cửa quán. Quán dựng lên nơi bờ sông heo hút gió này chắc chỉ để bán cho mấy người làm muối, nuôi tôm, bắt trạch, hoặc trồng cói. Thị chưa kịp nâng chén nước chè nhạt hoe nhạt hoét lên miệng thì Nhân và một người nữa bước vào.
Thị giật mình.
Thảo nào thị thấy có chiếc xe 67 đỗ dưới chân đê. Chắc của Nhân. Lúc đầu Nhân không nhận ra thị vì thị đeo kính râm to bản, choán hết cả khuôn mặt. Giá tránh mặt được thì thị tránh luôn cho khỏi ngại. Nhưng ánh mắt Nhân đã quét một vòng và dừng lại trên khuôn mặt thị. Quán có mình thị là khách, nếu đông hơn có thể đã không khiến Nhân chú ý. Không còn đường lui nữa, thị đành phải hạ kính nhận người quen. “Em vào trại thăm người quen, nực quá, qua đây ngồi nghỉ tí rồi về”. Tuy lúng túng nhưng thị vẫn nói được một câu khôn ngoan như thế. Dẫu sao thì Nhân cũng đã quá biết thị. Nói dối chỉ càng làm Nhân đặt ra những nghi vấn không cần thiết, ở đây gần trại giam. Thị lại là dân giang hồ. Cứ nói đi thăm nuôi bạn tù là hợp lý nhất, lại chẳng gây ngờ vực gì cho Nhân. “Lâu lắm rồi em cũng không gặp anh Đinh. Hình như cũng đi trại gì đó ở mãi trong Thanh Hoá. Còn anh thế nào ạ? Bác gái vẫn khoẻ chứ ạ?”. Nhân chỉ cười và gật đầu. Có lẽ còn có người bạn đi cùng nên Nhân không muốn nói chuyện nhiều. Chờ người bạn hút xong điếu thuốc lào, Nhân mua thêm gói Bông Sen rồi trả tiền đi ngay. Thị thấy hai người đi lên phía bờ đê rồi mất hút sau một con dốc. Thị rất rõ về con người Nhân. Sau khi làm ở Đội hình sự của quận một thời gian, Nhân đã chuyển lên Đội trọng án của thành phố. Hồ sơ lý lịch của thị chắc nằm cả trong ngăn kéo tủ của Nhân rồi.
Nhân đi khuất thì con Mỹ bước vào quán giục thị về. Thị bảo Mỹ chạy lên đê nhìn xem hai người đàn ông vừa ra khỏi đây đi về hướng nào. Mỹ chạy đi, lát sau về nói lại với thị rằng hai người đó đã lên chiếc 67 chạy ngược về phía ngã ba rồi. Thị cảm thấy có gì đó hơi khó hiểu. Nhân cũng như thị vậy. Nếu bình thường chắc chả ai ra cái bờ sông chết tiệt này làm gì. ừ thì cứ cho là Nhân có việc của Nhân, thị có việc của thị, thì việc của Nhân là gì? Một tuần nay đàn em của thị bám địa bàn này rất sát. Bãi sông hoang váng này hầu như chả có ma nào lui tới? Phục bắt tội phạm ư? Hôm qua ở đây có xác chết bị vùi chăng? Có kẻ trốn tù? Có âm mưu dùng bãi sông này vượt biên? Có cán bộ xã, huyện lũng đoạn cửa sông? Tàu bè buôn lậu ở khúc sông này? Loại trừ tất cả những điều đó ra thì còn lại duy nhất một lý do để Nhân có mặt ở đây, đó là âm mưu cướp tù của thị đã bị lộ. Chà. Thế này thì gay quá. Không thể nào. Thị rất tin vào sự bí mật của kế hoạch táo bạo này. Chỉ những thằng sẵn sàng chết vì thị và Tùng mới được vào cuộc, làm sao có thể lọt tin tức ra ngoài?
Nhìn con Mỹ đứng ngoài quán thả khói thuốc phì phèo thị bỗng thấy thèm thèm ở đầu lưỡi. Thần kinh thị như căng ra. Miệng thị nhạt nhẽo. Thị bảo thằng bé con đưa cho thị một điếu thuốc rồi thị châm lửa hút. Rít vài hơi liên tục để lấy lại bình tĩnh, thị tự nhủ mình không được thần hồn nát thần tính. Chưa chi đã vơ lấy những ý nghĩ độc địa vào người. Biết đâu chỉ đơn giản là Nhân vào trại giam tống đạt quyết định cho phạm rồi qua đây hóng gió trời trước khi về lại thành phố, giống như thị đã nói dối rất trơn tru lúc nãy thì sao? Và bây giờ, có lẽ chính Nhân cũng đang đặt ra rất nhiều những giả thiết về thị, rằng thị có mặt ở đây để làm gì, có âm mưu gì với khúc sông này, định thanh toán băng đảng nào, định buôn hàng cẩm gì, định mở sòng thu hồ trên con đê này chăng, định đóng tàu đi vượt biên, định thủ tiêu đồng bọn rồi vùi xác phi tang giữa đồng cói kia, hay đúng như thị nói, đi thăm tù rồi nghé đây ngắm sông đón gió trời? Ha, ha... Có gì đâu mà thị phải nghĩ quẩn quanh thế nhỉ?
Tất nhiên khi về nhà thị vẫn kiểm tra lại lần cuối bằng cách gọi tất cả những đệ tử thân tín đến để hỏi han thật cụ thể, thật tỉ mỉ, thật cặn kẽ về công tác chuẩn bị cho phi vụ “động trời” có một không hai của giới giang hồ thành phố này. Tất cả đều có vẻ rất ổn. Không có động thái gì đáng ngờ vực cả. Và ngày hành động đã đến. Thị đích thân có mặt tại ngã ba đường làng để xem bọn đàn em ra tay thế nào. Thị sẽ không nhúng tay vào nếu không cần thiết. Theo như kế hoạch đã phân công, con Mỹ sẽ đưa Tùng ra bến sông. Khi xuồng máy đưa Tùng đi rồi, Mỹ sẽ tìm đường về thành phố. Thị sẽ rút trước đó, ngay khi nhìn thấy Tùng được giải thoát khỏi xe tù. Đám đàn em của thị đều đã vào vị trí. Tên lái xe tải đã cầm vô lăng chỉ chực lao lên phía trước chặn xe tù. Đám đeo kứih đen thọc hai tay túi quần đang đi đi lại lại kia, sẵn sàng vung dao và mã tấu giấu sẵn trong những cái bao tải xác rắn vứt rải rác ven đường kia khống chế mẩy cảnh sát trại giam đi theo xe tù. Còn trên con đường chạy ra bờ sông mẩy thằng xe ôm giả dạng cũng đang chờ đến lúc lao ra cản đường cảnh sát, hỗ trợ cho xe tù chạy ra tới bến sông, nơi có chiếc xuồng máy đang đợi. Cả vũ khí nóng lẫn vũ khí lạnh đều được huy động vào vụ này. Thị cũng đã tính cả rồi. Một Uều ba bảy cũng Uều. Đến bước đường cùng, nếu càn, cả bọn sẽ lên tàu vượt biển ra đi. Đằng nào thị cũng đã tính đến chuyện thuê tàu đưa Tùng đi. Tùng không đi được thì con tàu đó sẽ đưa thị và đám đàn em trung thành dám xả thân vì nghĩa giang hồ ra khỏi cái đất nước lúc nào cũng ngộp thở đến căng nhức này.
Nhưng mọi sự chuẩn bị của thị đã vô ích.
Cả buổi sáng trôi qua trong sự nóng lòng đến điên đảo của thị mà cánh cửa trại giam vẫn đóng im ỉm. Không có chiếc xe tù nào xuất phát cả. Con Mỹ trực tiếp ngồi ở quán nước, chếch cổng trại giam, chờ đợi cánh cửa nhà tù mở ra, nhưng cổng chính vẫn đóng chặt, chỉ lác đác những sắc cảnh phục qua lại mé cổng phụ. Khi mặt trời nhô lên đằng bờ đê, chiếu ánh nắng gắt gao xuống khúc sông chảy ra cửa biển thì thị hiểu là đã có chuyện gì đó xảy ra với Tùng rồi. Thị cho gọi người kiểm tra lại nguồn thông tin từ trại nhưng không sao liên lạc được với mấy thằng oát con, vốn là đàn em của thị đang thụ án trong đó. Quá trưa thì tất cả đều oải. Đến cuối giờ chiều thị mới nhận được thông tin từ trong trại báo ra. “Anh Tùng bị đưa đi từ hôm qua rồi, khu B lại bị cấm trại nên không thể báo tin ra ngoài, chắc họ đã đánh hơi thấy động tĩnh gì đó nên đột ngột thay đổi kế hoạch”. Thị đọc đi đọc lại mấu giấy từ trại giam gửi ra do con Mỹ mang tới mà tức muốn nổ con mắt. Giải tán ngay! Thị ra lệnh cho đồng bọn rồi lập tức rút về thành phố. Chắc chắn công an chưa nắm được kế hoạch của thị, nếu nắm được họ đã tương kế tựu kế hót luôn cả đám rồi. Nhưng họ đã mơ hồ nhận thấy điều gì đó bất thường. Hoặc giả đám Lân “sói”, Cộc “ba tai” đã cho người phun đểu điều gì đó. Dẫu sao thì kế hoạch cũng đã hỏng, không xử trí nhanh, bại lộ thêm thì lần lượt dát nhau vào nhà đá. Hoặc nhân cơ hội này bọn Lân “sói” lại ra tay cướp sòng hay đám Cộc “ba tai” nổi điên cướp bãi thì lãnh địa ngầm của thị dễ có nguy cơ mất về tay mấy thằng giang hồ có thẻ đó. Thị bàn với con Mỹ đưa quân về giữ chặt các sòng bạc, bến bãi, tăng cường cảnh giác đồng thời cho người tích cực đi tìm hiểu xem số phận của Tùng được pháp luật định đoạt ra sao?
Chưa đến hai mươi tư giờ sau thì tin dữ bay về. Tùng đã dựa cột. Hoá ra không hề có sự thuyên chuyển nào cả. Họ đã thi hành lệnh tử hình Tùng vào mờ sáng, đúng hôm thị định ra tay cướp tù. Chiều hôm trước họ chuyển Tùng sang phòng giam đặc biệt để sáng hôm sau đưa đi sớm. Người của thị không biết điều này, chỉ nghĩ đơn giản là họ chuyển Tùng sang trại khác.
Vậy là Tùng đã chết thật rồi. Chồng thị đã chết và thị chính thức trở thành góa bụa. Tin Tùng “hê rô” bị bắn khiến cho giới giang hồ thành phố Ngã ba sông xao xác. Đàn em Tùng, người nhà Tùng, bất kể những ai có mối quan hệ làm ăn ngầm với Tùng đều chấn động. Những tiếng thở dài, những cái nhìn ngao ngán, những câu chửi rủa bốc đồng, những gào thét trả thù, những nỉ non thương xót, những bi quan rồ dại... tất cả đều vọng vào thị, cắt cứa, công phá, xô dạt những cảm xúc trong thị. Nhưng thị cố giữ thăng bằng.
Thị phải vượt lên trên tất cả những thứ đó. Thị lẳng lặng thắt lên đầu chiếc khăn tang trắng rồi đứng ra lo toan mọi việc hậu sự của chồng. Thị không muốn làm ầm ĩ. Hãy coi đây như là một chuyện tang ma bình thường, chỉ cần đưa xác Tùng về, mồ yên mả đẹp cho Tùng là xong. Không phát tang, không phúng viếng, không phô trương thanh thế, không biểu dương lực lượng, không manh động và tránh va chạm với hết thảy mọi thành phần. Đám ong ve của thị án binh bất động, coi như đó là hành động để tang Tùng.
Thị đóng cửa, ở lỳ trong phòng ngủ ba ngày liền. Cứ khi nào thị gọi điện xuống thì vợ Châu lại mang rượu lên. vợ Châu chỉ dám he hé cửa đưa rượu vào. Lần nào cũng thế, vợ Châu thấy thị ôm chai rượu, ngồi gục bên thành giường, trước mặt là chiếc ly nhỏ rỗng không.
Trên chiếc bàn giữa phòng là tấm ảnh phóng to của Tùng. Thị đốt nhang liên tục, cắm vào bát hương trước ảnh chồng. Căn phòng ngập mùi nhang khói. Thị một mình ngồi uống rượu với Tùng. Thị cứ rót cho mình một ly, đưa lên miệng uống cạn, rồi lại rót vào chiếc ly đã cạn ấy, đặt lên trước ảnh Tùng. Thị giục Tùng uống đi, có uống không, không uống được hả, thì để thị uống. Thế là thị lại dốc ngược cái ly ấy vào miệng mình. Cũng có lần thị đổ ly rượu ấy vào bát nhang, dưới lên những chân hương đỏ tía, hy vọng Tùng có thể nhận được những giọt rượu thơm lừng từ tay thị. Rồi thị lẩm nhẩm nói chuyện với Tùng. Chả biết chuyện gì mà nhiều thế. Rì rầm suốt đêm. Lẩm bẩm suốt ngày. Có lúc thị bật cười khanh khách. Lại có lúc thị xoay mặt đi, im lặng, như hờn như dỗi.
Thị nhìn ảnh chân dung của chồng chán lại lấy bức ảnh đen trắng ở đầu giường ra ngắm. Bức ảnh chụp bốn người: Tùng, Tính dao mổ, Châu điên và thị. Đó là những tháng ngày thị mới quen Tùng. Đó là chuỗi thời gian rất đẹp của thị. cả chục năm đã trôi qua. Bốn con người này đã tạo dựng lên một thế lực. Bốn con người này đã có những khoảnh khắc bình yên và sóng gió, đủ đầy và đói khát, tự do và trốn chạy, yêu thương và tàn sát. Bây giờ thì hai người đã chết. Bức ảnh chụp bên một mé đồi nằm trên đường đi ra biển. Cả bốn đều mặc bò. Bốn cây bò. Bốn cặp kính màu. Bốn kẻ giang hồ. Đằng sau họ là rặng mua tím. Một góc đồi lộng gió. Và cả một đại dương bao la.
Tại sao trời lại cho bốn con người này gặp nhau? Tại sao thị lại gắn đời mình với người đàn ông đứng giữa bức ảnh này? Tại sao chồng thị lại có thể trở thành kẻ giết người và phải bị dong đến trước cột xử bắn?
Nào, rượu. Ngày xưa Tùng chả thích uống loại rượu này là gì? Sao bây giờ cứ để cái ly nó đầy thế? Muốn vợ uống hộ cho hả? ừ thì uống. Nào, uống!
Thế là Tùng chết thật rồi đấy hả? Tùng đi hẳn mà không bao giờ về nữa hả? Bỏ vợ dại em thơ ở lại thế này hả? Có biết là vợ khổ thế nào không? Hả? Nào, rượu. Uống nhá! Uống với vợ một chén nhá!
Ngày Tùng mới bị bắt thị đã phải gồng mình lên để củng cố băng nhóm, cố giữ cho được thế lực của chồng. Bây giờ nghe ra thị còn phải xả thân nhiều lắm để trụ lại với giang hồ đất này. Nhưng thị cũng chỉ là đàn bà con gái mà thôi. Xưa nay gái nhờ uy chồng, người đẹp dựa thế các đấng quân vương. Tùng chết rồi, làm sao giang hồ vẫn chịu công nhận thị, chịu nghĩ rằng thị có thể thay thế được Tùng? Thị ăn theo cái tiếng của chồng, bản thân thị số má được bao nhiêu mà đòi tiếp quản cái thế chân vạc đã được sắp xếp từ trước đến nay?
Nào, rượu! Chồng ơi, sao chồng không uống mà cứ nhìn vợ mãi thế? Có biết là chồng chết thì yên cái thân chồng, còn vợ khổ thế nào không? Ai bảo chồng chết làm gì để đám Lân “sói”, Cộc “ba tai” mở cờ trong bụng? Ai bảo Tùng chết làm gì để thế chân vạc chông chênh, có cớ cho giang hồ nổi sóng? Nào, thế thì uống đi. Uống đi mà chia sẻ với vợ. Uống đi mà sống khôn chết thiêng phù hộ cho vợ đứng vững giữa cuộc đời này. Nghe chưa? Nào, uống!
Thị cứ uống như thế, một mình, với những bức ảnh và mịt mù hương khói, vợ Châu sợ hết hồn, cứ giục Châu lên “can chị ấy một câu, không thì chị ấy chết mất, chai này nữa là bốn chai rồi đấy”. Châu lên đến cửa phòng rồi lại lặng lẽ đi xuống. Chị đang đau đớn, chị đang điên loạn. Chị chán sống, mình lò dò bước vào, chị lại mở đồ nóng ra rủ mình cùng xuống dưới kia thăm anh Tùng thì toi. Ai có thể vào phòng chị lúc này nhỉ? Bà nội chị? Nhưng bà già lắm rồi. Bắt bà lên đây, thấy cảnh này, khổ bà, mà có khi chị lại không tha tội cho mình cũng nên. Mỹ “chột”? ừ, hay là chị Mỹ? Thôi kệ, cứ báo cho Mỹ xem sao. Châu vội chạy xuống quán bia hơi tìm Mỹ.
“Nào, uống đi. Ly này là vợ rót cho chồng đấy. Uống xong rồi vợ nói cho chồng nghe cái dại của chồng”.
Thị vừa dứt lời thì có một bàn tay giật lấy ly rượu của thị. Thị giật mình ngẩng nhìn lên. A, con Mỹ “chột”, mày vào đây làm gì, chỗ phòng riêng của vợ chồng tao, để tao tâm sự, đi ra đi. Hương Ga, mày nghe tao đi, mày uống nhiều quá rồi, cứ thế này mày chết mất, thôi, đi xuống với tao, đi ăn cái gì đi, không uống nữa. Thị giật lại cái ly trên tay Mỹ, mẹ mày, cái con Mỹ kia, mày biến mẹ mày đi, để tao uống với chồng tao, mày có thương anh Tùng không, sao mày lại không cho tao uống với anh ấy, đi đi, ra ngoài đi, để mặc tao. Thị lại rót rượu vào ly. Con Mỹ giật lấy cái ly trên tay thị. Rượu bắn cả vào tóc tai, quần áo thị. A, con Mỹ này, mày dám láo với tao hả. Đ. mẹ, rượu này, thì rượu này. Mỹ giơ tay ném mạnh cái ly vào tường. Rồi Mỹ lao đến vô lấy chai rượu trong tay thị. cả chai rượu cũng bay vèo vào tường, nhưng cái chai không vỡ, chỉ lăn lông lốc vào gầm giường. Thị uất quá. Thị chạy lại đầu giường, lật cái gối lên, cầm khẩu K54 chĩa thẳng vào con Mỹ. Mẹ mày, con chột này, mày muốn chết hả? Mỹ lừ lừ nhìn thị bằng một mắt còn lại, mày bắn đi, bắn chết mẹ tao đi, rồi mày cũng dựa cột như ông Tùng này này. Ngu lắm. Đ, mẹ, sống mới khó chứ chết thì khó đéo gì. Thị sững người lại. Tay thị run rẩy. Mắt thị hoa lên. Người thị lẩy bẩy. Con Mỹ chạy đến đỡ lấy thị. Thị lảo đảo ngã xuống giường. Khẩu súng rơi đánh cốp xuống nền nhà. Con Mỹ vội nhặt khẩu súng cất xuống dưới gối. Rồi nó lẩy chai nước trong tủ lạnh đổ lên mặt thị. Mát quá, thị khẽ he hé mắt. Ba ngày không ăn gì, chỉ uống rượu thì chết cha mày à. Ngu thế. Tội đéo gì mà phải thế. ông Tùng đã chết rồi có sống lại được đéo đâu. Mình phải sống chứ. Đời ra cái đéo gì đâu nhưng có thằng đéo nào không muốn sống đâu. Mà mày đéo nghĩ đến anh em à. Mày định bỏ chúng nó hay sao?
- Nhưng anh Tùng chết rồi, bây giờ sống thế nào đây hả mày?
Giữa cơn thiêm thiếp vì kiệt sức, thị ứa ra một câu đầy phiền muộn. Mỹ bảo, nằm yên đây, tao đưa cháo lên cho ăn rồi nói chuyện. Đời còn dài lắm, đéo chết được đâu mà lo.
Đó là lần uống rượu kỳ quái nhất trong cuộc đời thị. Ăn xong bát cháo của Mỹ, thị nằm lịm đi đến hai ngày sau mới tỉnh. Chưa bao giờ thị say như thế. Cũng chưa bao giờ thị để rượu đánh gục mình đến tệ hại như thế.
Sau khi đã hoàn toàn bình tâm, thị cho chuyển ảnh Tùng về gian thờ chung. Phòng ngủ của thị lúc nào cũng mở toang các cánh cửa cho thoáng đãng. Thị muốn mọi điều u ám cần phải được quét sạch ra khỏi nhà mình. Thị đã bình tĩnh trở lại và cái đầu bươn chải mười mẩy năm giang hồ của thị bắt đầu hiện lên những mưu mô, tính toán. Thị ngồi bàn với Mỹ về thế và lực của thị. Trước đây, khi Tùng chưa chết, tuy nằm trong tù nhưng dù sao cái uy lực của Tùng vẫn khiến thị có thêm sức mạnh vô hình để điều hành lũ lưu manh, côn đồ trong thế giới ngầm. Con hổ nằm trong cũi nhưng tiếng gầm của nó vẫn làm thất điên bát đảo nhiều lỗ tai muông thú. Nay Tùng đã chết rồi. Con hổ đã chết thì chỉ là da bọc xương, đến khỉ đột cũng ném trái cây thối vào được, còn tỏ oai linh với ai nữa? Cho nên, điều nguy hiểm nhất hiện nay đối với thị là Lân và Cộc sẽ bắt tay nhau thực hiện ý đồ xoá thế “chân vạc”, chuyển sang thế “thiên hạ chia hai”. chắc bọn chúng đang tìm những cơ hội để nhắm vào thị. Lũ ong ve cũng đang trông vào bản lĩnh của thị mà chiến hay hòa, công hay thủ. Thực lực của thị lúc này rõ ràng không thể nói là mạnh. Ngoài thị, con Mỹ “chột” và thằng Châu điên ra, quả thực băng nhóm của thị đang rất thiếu những sát thủ lấy số không gớm tay.
Nhưng trời đã giúp thị khi cho thị cuộc gặp gỡ duyên nợ với Tân “võ sĩ”.
Hôm ấy thị đang ngồi nói chuyện với con Mỹ về vụ thằng Hoàng “lợn” bị giết thì có người đến tìm thị. Đó là một người đàn ông to con, thoáng nhìn có vẻ chậm chạp, ánh mắt lạnh tanh, giọng nói đều đều không bộc lộ cảm xúc, tư thế ngồi điềm tĩnh, toát lên thái độ làm bạn hơn là thù. Tất nhiên để có thể vào tận phòng tiếp khách riêng của thị ở nhà hàng Sóng Biển thì hắn đã phải qua nhiều vòng kiểm tra kỹ càng rồi. Nhưng thị vẫn cẩn thận giắt thêm khẩu súng bên mình. Con Mỹ biết ý đứng lui ra đằng sau thủ thế. hắn ngồi nghiêng, mắt nhìn thẳng vào bức tường trước mặt, ánh mắt vuông góc với ánh nhìn của thị. Thị hất hàm hỏi hắn: “Anh gặp tôi làm gì?”.
Hắn chỉ vào tờ báo An ninh trên bàn nước, hỏi ngược lại:
- Diệu đọc vụ thằng Hoàng “lợn” bị giết chưa?
Thị giật mình. Đã lâu lắm rồi, không ai gọi thị bằng cái tên đó cả. Người ta vẫn thường gọi thị bằng một cái tên khác. Cái tên gán liền với nghề làm hương và khu chợ gần nhà thị. Hương “ga”. Cái tên ấy cũng hàm nghĩa tính cách mà người đời muốn gán cho thị: Con bé bán hương ghê gớm ở chợ ga. Thị đã quen với cái tên Hương “ga”, cả giới giang hồ thành phố này chỉ biết có một nữ đại ca là Hương “ga” chứ có ai biết cái con Diệu ngày xửa ngày xưa đâu? Nhưng mà thôi, bây giờ không phải lúc nói với nhau những chuyện riêng tư đó. Hắn ta có vẻ cũng nhiều tuổi. Có thể hắn ở cùng ngõ nhà thị, cũng có thể hắn chơi với anh trai thị, hoặc đơn giản là hắn từng buôn bán ở chợ Ga nên biết thị. Chuyện đó cũng không có gì đáng phải bận tâm. Vấn đề là hắn tìm đến đây gặp thị để làm gì?
Thị gật đầu:
- Đọc rồi. Không biết bọn nào ra tay?
Hắn bảo:
- ở cái thành phố này, ngoài Cộc “ba tai” và Diệu ra, ai dám động đến đệ tử ruột của Lân “sói”?
Thị nhíu mày:
- Anh muốn đến đây để điều tra tôi?
Hắn lắc đầu:
- Tôi đến đây để nhờ Diệu.
Thị hỏi:
- Anh muốn gì?
Hắn thủng thẳng:
- Chính tôi là người giết Hoàng “lợn”. Lân “sói” vừa cho người đến giết vợ tôi. Tôi đã sai lầm khi làm vụ này. Bây giờ tôi không thể ra khỏi thành phố. Vì tôi còn mang theo đứa con gái. Tôi đến đây xin tá túc Diệu vài ngày. Hiện chỉ duy nhất có Diệu là đang căng mình lên để chống lại Lân “sói”. Diệu nhận giúp thì tôi ở lại. Vài ngày thôi, hễ đi được là tôi sẽ đi. Còn Diệu không giúp được thì thôi. Tôi đang đường cùng. Nhưng chắc giết được tôi cũng không dễ...
Nói đến đây, hắn bỗng đưa tay lên ôm mạng sườn. Thị nhìn thấy có vết máu ở vạt áo bên phải của hán. Thị hỏi:
- Anh bị thương à?
Hắn gật đầu:
- Tôi bị một nhát dao của thằng Hoàng. Tự băng bó lấy nên vẫn ra máu. Nhưng không sao. Tôi chịu được.
Thị đảo mắt ra cửa như một phản xạ tự nhiên rồi hỏi tiếp:
- Con gái anh đâu?
Hắn vẫn nói bằng giọng đều đều, ánh mắt không nhìn thị, lạnh tanh:
- Tôi gửi nó ở quán cà phê bên kia đường. Nếu Diệu không giúp thì tôi đi. Tôi không muốn nó nghe chuyện của người lớn.
Đầu óc thị bắt đầu đảo hên hồi. Thị không biết có nên tin người đàn ông này hay không? Hắn cần thị giúp thực sự hay đây là trò của bọn Lân, Cộc? Hắn có vẻ biết thị nhiều hơn những gì mà một đàn em thông thường của thị có thể biết. Hắn mang theo một vết thương và một đứa con gái, điều này có thể tin là hắn thực tâm cần thị giúp. Nhưng giúp hắn rồi có nghĩa là thị sẽ phải đối đầu với Lân “sói”, và biết đâu đây là cách mà bọn Lân muốn đưa chị vào tròng, muốn nhân cơ hội này để mở cuộc chiến sinh tử diệt phe nhóm của thị? Thị vừa suy nghĩ nhưng lại vừa không muốn để hắn đọc được những gì đang diễn
ra trong đầu mình. Vì thế thị vẫn phải tiếp tục hỏi chuyện hắn. Thị bảo hắn:
- Anh vén áo lên để tôi xem vết thương thế nào?
Hắn vẫn ngồi yên, mắt nhìn thẳng vào bức tường trước mặt, đưa một tay vén vạt áo bên phải lên. Thị khẽ nén một tiếng kêu phát ra từ trong cổ họng, cả một đống giẻ quấn quanh chỗ bụng hắn, mà vẫn thấy ruột phòi cả ra ngoài.
- Đêm qua, giết thằng Hoàng xong, tôi chạy về nhà thì thấy vợ tôi bị thằng Lân cho người đến giết rồi - Hắn vẫn nói bằng thứ giọng đều với ánh mắt nhìn thẳng, lạnh tanh -Con gái tôi trốn dưới gầm giường nên thoát, cả đêm qua chúng nó truy đuổi tôi. Tôi chỉ tranh thủ xé cái màn ra quấn quanh bụng, chưa vào viện khâu được. Diệu đừng ngại. Máu tôi lành. Chỉ vài hôm là khỏi thôi.
Một quyết định vụt đến trong đầu thị. Trời mang đến cho băng nhóm của thị người đàn ông này. Thị phải chớp cơ hội giúp hắn không thì có thể sẽ hối không kịp. Thị đá mắt bảo Mỹ:
- Mày qua bên đường đưa đứa bé vào đây. Chuẩn bị cái phòng trên tầng bốn cho hai bố con. Mà anh tên là gì?
- Tôi là Tân.
Nói xong câu đó hắn đứng dậy đi theo Mỹ ra cửa. Lát sau hắn quay lại cùng một đứa bé gái khoảng sáu, bảy tuổi, tóc buộc hai ngoe, hai tay đang ôm chặt một cái túi da khá to. Khuôn mặt con bé ánh lên sự mệt mỏi, đói khát, hoảng sợ. Thị bảo Mỹ:
- Đưa đứa bé lên nhà tắm rửa, làm cái gì cho nó ăn rồi cho nó ngủ, lát nữa bố nó sẽ lên sau.
Người đàn ông tên Tân không nói gì nữa, lẳng lặng ngồi xuống, có vẻ như phó thác đứa con gái cho thị. Mỹ cầm lấy cái túi da rồi dát đưa bé lên cầu thang. Con bé ngoái nhìn bố không muốn đi. Nhưng thấy Tân vẫn giữ thái độ im lặng, không nói năng gì, con bé đành phải miễn cưỡng bước theo Mỹ.
Còn lại hai người trong phòng khách, thị bảo:
- Bây giờ phải giải quyết cái bụng kia của anh. Tôi sẽ cho gọi bác sĩ đến đây, họ sẽ khâu lại cho anh. Không chủ quan được đâu. Để lâu nữa là nguy hiểm đấy.
Thị đứng dậy, định gọi một đứa nào đấy vào để sai việc, nhưng thị bước ra gần đến cửa thì nghe thấy một tiếng “huỵch” sau lưng. Thị quay lại, thấy Tân ngã lăn ra nền nhà, trong tư thế như lúc ngồi. Thị chạy lại đỡ Tân lên. Anh ta đã bất tỉnh. Có lẽ Tân kiệt sức vì tất cả những gì mà anh ta đã làm từ tối hôm qua đến giờ. Dù sao thì anh ta cũng cho thấy mình là một người có bản lĩnh. Thị tin là thị đã không nhìn lầm người. Giúp được anh ta hôm nay, ngày mai anh ta sẽ là người “ăn quả nhả vàng”. Đời đôi khi phải biết dựa vào nhau. Càng đến nước cùng, càng cần có người giúp, cái nghĩa giang hồ, khi ấy, mới càng bền chặt.
CHƯƠNG 6
Nội dung cái truyện Giao Long nó như thế này:
Ngày xưa, tại xã Khúc Phụ, Thổ Bình, châu Chiêm Hoá thuộc tỉnh Tuyên Quang miền Bắc Việt Nam, có một bà lão goá, không có con. Bà ở thôn Mô Cuống, mỗi ngày thường đến thác Cuống bắt tôm bắt cá về ăn.
Một ngày kia, bà lão trông thấy một quả trứng màu trắng, to gần bằng trứng gà. Bà cảm thấy sợ, bèn lượm trứng vứt ra xa. Nhưng rồi hai ba lần khác, bà cứ lại gặp quả trứng này ở mấy nơi khác. Bà bèn đem về nhà, cho gà ấp.
Chừng khoảng một tháng sau, quả trứng bí mật này nở ra một con vật thân dài, tựa như con lươn. Bà bèn bỏ nó vào một Chĩnh nước. Con vật lớn rất nhanh. Bà lão đưa nó qua một cái vại. Nó lại lớn chật vại. Bà đem thả nó xuống suối Mô Cuống, mới hay đó là con Giao Long.
Con vật này sắc trắng, thuộc loài thuỷ tộc, nhưng thỉnh thoảng nó lại hoá thành người, nói được tiếng người. Giao Long gọi bà lão là mẹ nuôi, và bắt tôm bắt cá nuôi bà. Nhờ vậy, mỗi lần đến kỳ cúng giỗ, bà lão đến bên dòng nước gọi tên:
- Cuống, Cuống.
Khi thấy con Giao Long trồi đầu lên mặt nước, bà bảo:
- Ngày mai nhà có giỗ, con nhớ bắt cho mẹ một ít cá.
Giao Long lập tức vâng lời, bắt nhiều cá để lên bờ cho mẹ nuôi đến lấy về. Bao nhiêu người ăn, số lượng cá cũng đủ.
Về sau, có một con Giao Long khác, sắc đen, ở dòng thác lớn Sa Hương thuộc xã Miên Hương, cách đó mấy dặm. Nó lội ngược dòng đến thác Cuống, đánh nhau với Giao Long sắc trắng, vì muốn chiếm lấy nơi này. Cuộc giao chiến kéo dài 3 ngày, chưa rõ con nào thắng. Bỗng thấy Giao Long trắng chạy về nhà cầu cứu mẹ nuôi, nói với bà hãy đến dòng thác giúp nó một tay. Nó dặn mẹ:
- Khi nào thấy thân hình đen trôi lên mặt nước, thì mẹ lấy dao mà chém.
Bà lão nghe lời, hôm sau, giờ ngọ, ra bờ thác, cầm theo một con dao dài và sắc bén. Bà hốt hoảng thấy 2 con Giao Long đang đánh nhau, quậy đục cả mặt nước. Bà cầm dao chờ sẵn, khi thấy thân hình đen nổi lên mặt nước liền chém xuống thật mạnh. Nhưng chẳng may, lại trúng nhầm con Giao Long trắng của bà.
Con vật trôi lên, rên xiết:
- Mẹ ơi, mẹ đã chém lầm vào bụng con rồi. Số mệnh con phải chịu như vậy, xin mẹ đừng thương tiếc con.
Nói xong, Giao Long trắng biến mất. Ba ngày sau, xác nó nổi lên ngay chỗ ấy. Dân trong vùng trông thấy, vớt Giao Long đem về chôn ở cánh đồng trước nhà bà lão.
Ngày nay, mộ Giao Long vẫn còn. Người ta gọi là Mộ Thần Cuống, được sùng bái như vị thần linh. Mỗi năm, vào dịp tháng 2, dân ở 4 xã vùng này kéo tới cúng tế Giao Long.
Đọc xong cái truyện, em quay ra hôn thằng Chín tháng. Nhưng em không ôm nó được lâu hơn nữa. Người em bỗng dưng khó chịu quá. Em kịp thơm vào đôi má còn ngầy ngậy mùi sữa của Chín tháng xong, chả nó cho mọi người, lê về đến chỗ ngồi của mình là say. Cái thứ say sóng này khó chịu vô cùng. Ngồi không được, đứng không được, nằm cũng không được. Tư thế nào cũng làm em như đang trong trạng thái bị treo ngược. Cuối cùng em cũng chọn được một tư thế khả dĩ dễ chịu hơn cả. Đó là nằm ngửa. Làm sao cái lưng em càng áp sát xuống sàn tàu càng dễ chịu. Hễ thay đổi một chút thôi cái tư thế này là mọi thứ trong người lại dồn lên cổ. Em cứ nằm như thế, không biết bao lâu. Ánh sáng đến rồi qua đi ngoài khung cửa bên mạn tàu kia. Đêm hay ngày không còn hiện hữu trong em nữa. Em rcd vào giấc chiêm bao dài bất tận.
Và em nhìn thấy con giao long trườn từ dưới biển lên, chui qua khung cửa nhỏ bên mạn tàu, tới gác cái đầu gớm ghiếc của nó lên người em. Không phải một mà là hai, ba, bốn, chín, mười... con giao long hình đầu người từ dưới biển trườn lên mạn tàu. Có rất nhiều tiếng la hét. Nhưng người em như bị bóng đè, toàn thân căng ra, không sao cựa quậy được. Một cái gì thật là khủng khiếp thọc vào người em. Em đau đớn đến ngất lịm đi. Rồi em lại tỉnh dậy và thấy mình như liên tục bị nhồi trên đầu sóng. Trên em, dưới em là hai, ba con giao long đầu người đang gào rú những tiếng quái đản, ngập ngụa nhục dục. Ôi chao, em thấy người mình như bị xé ra với mênh mang nước. Nước làm em bớt đau đớn nhưng nước lại như muốn hoà tan em ra với những cú thúc nhồi của sóng. Em nghe thấy rất nhiều âm thanh khác nữa. Tiếng sắt thép va chạm vào thành tàu, tiếng súng nổ, tiếng thằng Chín tháng khóc, tiếng đàn bà con gái giằng xé, tiếng tát vả vào mặt người... Em có thể nhận ra từng thứ tiếng một, dù khi ấy tất cả ập đến với em cùng lúc, khiến em gần như không thể phân biệt. Thứ tiếng sắt thép va chạm vào thành tàu chính là từ con dao của bố em. ông từ dưới hầm tàu lao lên, tay cầm thanh mã tấu, lăn xả vào một con giao long đang nằm trên người em. Nhưng ngay khi đó tiếng súng vang lên. Bố em lảo đảo rồi ngã xuống, thanh ma tấu đổ ập theo ông, tạo một đường chém sáng trắng bên mạn tàu. Một con giao long đầu người tiến đến bên bố em, lôi ông ra phía thành tàu rồi quẳng ông xuống biển. Chỉ khi cái xác ông lơ lửng trên đôi tay đầy lông lá của con giao long mặt người, trước khi rơi xuống nước, em mới nhìn ra máu đỏ ối nơi ngực ông. Rồi tiếng khóc của thằng Chín tháng. Cứ ré lên từng chặp, ông Trượt chạy đến bên nó định bế lên thì một tiếng “bục” phát ra, ông Trượt đổ sấp suống sàn tầu. Một con giao long khác tay cầm thanh gỗ dài vừa phang thẳng cánh xuống đầu ông từ phía sau. Nó dùng chân hất ông Trượt sang một bên rồi tiến đến chỗ cái làn quần áo, nhấc thằng Chín tháng lên. Thằng Chín tháng vẫn khóc ngần ngặt, mặt nó tím tái, mắt nó nhắm nghiền, những thanh âm sơ sinh thỉnh thoảng chết lặng đi rồi lại ré lên lẫn với rất nhiều thứ âm thanh hoảng loạn khác. Có bóng bác tài công chạy vụt ra từ một góc tàu. Tay bác có cầm một vật gì đó như khẩu súng săn. Đúng rồi. Đây là khẩu súng của bố em, ông vẫn dùng để đi bắn chim trong thành phố. Bây giờ bác tài công cầm khẩu súng đó và em không biết bác sẽ dùng nó để làm gì? Bác có vẻ rất lúng túng với khẩu súng ấy. Chắc bác không tìm ra đạn. Mà mấy viên đạn chì vốn dùng để giết vài con chim sẻ hệu có ích gì vào lúc này cơ chứ?
Con giao long đang nắm thằng Chín tháng đã nhìn thấy bác. Nó vội vứt thằng Chín tháng xuống làn quần áo, lao đuổi theo bác tài công. Một vài con giao long khác cũng chạy theo, như thể bác tài công là sự phản kháng cuối cùng, đầy dũng khí, trên con tàu này, cần phải dập tắt ngay lập tức. Có tiếng gậy gỗ vụt xuống. Có tiếng hừ hự, bùm bụp như là sắt đập vào người. Có tiếng hét man rợ của con giao long nào đấy từ phía xúm xít vật lộn đó. Có cả tiếng van xin của mẹ. Đúng rồi, mẹ đang quỳ xuống van xin mấy con giao long dừng tay lại, tha cho bác tài công. Nhưng một con giao long đã túm tóc mẹ lôi tuột về phía đuôi tàu. mấy con giao long còn lại nhấc chiếc neo ở bên hông tàu lên, buộc bác tài công lúc này như một cái giẻ rách vào mỏ neo rồi hò nhau thả neo xuống biển trong sự hân hoan vui sướng. Đúng lúc ấy con giao long từ phía đuôi tàu quay lại, nó hua hua lên trước mặt mấy con giao long kia một lưỡi dao ngập máu, như muốn thông báo rằng đã xử lý xong mụ đàn bà lắm lời dám van xin tha chết cho tài công. Và tiếng tát vả chính là từ em. Em đã gào thét trong cơn ác mộng đó mà không biết. Để rồi em bị những con giao long mặt người kia vả cho ù tai nên không phân biệt được những âm thanh phát ra từ mình nữa.
Khi em hỗn loạn về khả năng thính giác là lúc mà xúc giác của em hoạt động. Cơ thể em vẫn liên tục bị xé rách. Những âm thanh không phải tiếng người vẫn hổn hển, gấp gáp, rú gào xung quanh em. Tay chân em cứng ngắc. Thân thể em căng ra như mặt trống. Bao nhiêu những bàn tay, bàn chân lông lá, cáu bấn, nhớp nháp của những con giao long mặt người kia lướt trên cái mặt trống ấy, thô bạo tìm khoái cảm. Em thoáng nghĩ đến cái chết. Dù em biết là mình đang ở trong cơn ác mộng. Thà không bao giờ tỉnh lại nữa, thà em chết đi, thà cái mặt trống kia căng ra một lần rồi rách nát, tả tơi, vỡ vụn... thì cũng còn hơn là cứ để em phải đối mặt với giấc chiêm bao khủng khiếp này. Cái đau này lần đầu tiên em nếm trải. Không phải đòn roi của cha mẹ, không phải đòn thù của người đời, không phải đòn phản trắc của bạn bè, không phải đòn hoạn nạn của số kiếp, không phải đòn bội tín của tình yêu... Mà sao đau đớn lắm. Một cực hình mà số kiếp bắt em phải chịu đựng. Cái đau không hình thù, không tên gọi, không sắc màu, cứ dập dềnh chảy tràn trong người em, càn qua quét lại trên cơ thể em, gặm nhấm trí não em. Em kêu mà không thấu, em im lặng mà không nổi, em phiêu diêu trong cõi địa ngục mà không thoát ra được. Em muốn điên anh ơi. Biết đâu điên sẽ mất đi cảm giác đau. Em muốn ngất nữa anh à. Có thể ngất là lúc không còn biết đau đớn là chi. Nhưng em không điên, không ngất, không chết. Tức là em phải sống và phải chịu nỗi đau đớn này. Em chịu đựng nó cho đến khi em vô cảm. Em đã tiêu hóa hết cái đau rồi. Và em sẽ trở thành chủ nhân của nỗi đau ấy.
Nhưng khi mà em không còn cảm giác đau đớn nữa thì em lại bị tra tấn bằng thị giác. Em nhìn thấy rất nhiều thứ mà em không muốn nhìn. Trước tiên là máu. Sao đâu cũng thấy máu nhiều thế? Máu dập dềnh trên nước, máu không tan ra được mà tụ lại thành một đám trôi xung quanh em. Có một lần đám máu như rong rêu ấy dạt vào người em. Em nhận ra khuôn mặt của bố. Đôi mắt bố vẫn mở. Máu bao trùm xung quanh bố. Chiếc áo bố mặc là một tấm áo máu, phất phơ, nổi nênh, đùa giỡn quanh thân thể bố. Em cố hét lên mà không được. Đám máu ấy rời xa em, chìm vào trong lòng một con sóng rồi trồi lên, dập dềnh, xa tít. Em muốn lao lại chỗ đám máu ấy để ôm lấy bố. Nhưng em không bơi đi được. Bố cùng tấm áo máu cứ rời xa em, trôi vào màu đêm chập chùng, xa hút.
Rồi em lại nhìn thấy máu vãi xung quanh chỗ em nằm. Em cố lăn vào sát thành tàu để tránh máu, nhưng càng lăn thì càng thấy máu rải khắp nơi. Em lăn cả lên máu. Tóc tai, quần áo, tay chân em đều có máu. Và em nhìn thấy dưới sâu thăm thẳm kia có một vòi máu đang đội nước phun lên. Đó là máu của bác tài công. Móc sắc của mỏ neo đã ngập sâu vào cơ thể bác, từ đó dòng máu phụt ra, tìm đường ngoi lên mặt nước, như một dải lụa hồng. Bác tài vẫn đang cố vặn vẹo người. Mỗi khi như thế máu lại càng rỉ ra. Thân thể bác bị trói như bó giẻ, bị thả chìm cùng mỏ neo sâu tới hai chục mét dưới thân tầu. Bác có một sức khỏe phi thường. Bằng chứng là cơ thể bác vẫn liên tục vặn vẹo. Đã lâu lắm rồi mà bác không chịu nằm im. Bác cứ tự vắt máu trong người mình ra, tạo thành một đám bụi máu bao bọc quanh chiếc mỏ neo. Em thầm bảo bác đừng giãy giụa nữa. Đau đớn lắm. Nhưng bác không chịu. Bác vẫn đang chứng tỏ sức khỏe phi phàm của mình. Em không dám nhìn về phía ấy nữa. Đám bụi máu ấy vẫn đang tỏa ra, thành một đám mây đỏ, bao quanh bác tài công. Em quay mặt về phía đuôi tàu. Mẹ đang rũ rượi nằm ở đó. Tay mẹ ôm lấy bụng. Hình như có một vết rạch rất dài từ ngực xuống đến bụng mẹ. Mẹ nói điều gì đó mà em không nghe thấy. Cái ánh mắt mẹ nhìn em rất giống như hôm chuẩn bị xuống tàu. Đêm cuối cùng đó bất chợt mẹ hỏi em: “Con có nhớ anh con không?”. Thú thực là em không lưu giữ nhiều hình ảnh về người anh trai hơn em tới mười tuổi, lại đã không ở cùng em bốn, năm năm nay. Anh ấy hầu như chả bao giờ nói chuyện với em cả. Anh ấy cũng chả học hành gì. Không mấy khi thấy anh ấy ở nhà. Có lẽ anh ấy chỉ về nhà để ngủ. Anh ấy hay dùng từ “ra bến”. Ra bến làm gì? Sau này em mới biết ra bến là để móc túi, ăm trộm hay đánh nhau.
Có một lần anh ấy về nhà khá sớm. Mẹ lôi sềnh sệch anh ấy vào nhà tắm. Lát sau anh ấy quay ra, ôm một đống chăn chiếu lên mái nhà. Em hỏi mẹ, anh ấy đi đâu? Mẹ bảo, anh lên trần nhà ngủ cho mát. Mẹ đưa em một cái bao xác rắn, bảo em mang ra bờ sông vứt, nhớ là thấy nó chìm hẳn xuống thì mới được về. Em mang cái bao đi. Mọi khi nếu có vứt rác thì chỉ mang ra đường tàu thôi, lần nay mẹ bắt em mang ra tận sông là sao? Em tò mò quá. Đến chân cột điện ở cổng chợ, em dừng lại mở bao ra xem bên trong có những thứ gì? Đó là bộ quần áo của anh trai em. Nhưng nó tanh nồng mùi máu. Tay em còn chạm vào một vật rắn ở dưới bao nữa. Em không dám cầm vật đó lên, mà chỉ lần lần, sờ sờ xem nó là cái gì. Mẹ em đã quấn nó trong một chiếc quần đùi của anh trai em. Đó là một con dao bầu. Đây là con dao bầu của bố em. ông vẫn để nó ở dưới chiếu, nơi đầu giường mình nằm. Có lần mẹ bảo bố có nhiều kẻ thù từ thời trai trẻ. Bây giờ không còn nữa nhưng lúc nào cũng phải phòng thân. Vậy là anh trai em đã lấy dao bầu của bố mang ra bến. Mang dao bầu ra bến để làm gì? Chắc chắn không phải mổ lợn rồi. Một nỗi sợ hãi vụt đến, làm toàn thân em run rẩy. Em gói chiếc bao lại, buộc chặt, vừa làm vừa thấy hai bàn tay mình run bắn. Anh trai em đã chém người rồi. Con dao bầu này mà bổ vào ai, chắc chắn người ấy chỉ có chết hoặc tàn tích suốt đời. Còn máu nữa chứ. Máu nhiều như thế, chắc anh em phải đâm người nào đó ở cự ly rất gần máu mới xối vào người như vậy. Em không dám nghĩ thêm nữa. Em đạp xe thật nhanh ra bờ sông, quầng cái bao xuống dòng nước đen thui dưới đó rồi vội vã lên xe đạp về nhà.
Đêm đó bố đi đánh bạc không về. Em nằm với bà mà không ngủ được. Thỉnh thoảng lại thấy mẹ em leo lên mái nhà rồi tụt xuống. Lát sau lại thấy mẹ thì thầm nhỏ to với anh trai ở dưới bếp. Em chui ra khỏi giường, tìm xuống bếp. Thấy em, mẹ không nói gì, chỉ ôm em khóc. Anh trai em cứ ngồi quay mặt vào góc bếp hút thuốc. Có một lần anh trai quay lại nhìn em. Cái nhìn không quá ba mươi giây, như muốn nói nhiều điều mà lại chả nói gì. Rồi anh ấy lại quay mặt vào góc bếp. Một lúc sau, anh ấy đứng dậy, bảo với mẹ là lên mái nhà ngủ. Mặt mẹ căng ra. Mẹ đi lên cửa trước nghe ngóng rồi xuống bếp ngồi với em. Mẹ bảo, anh trai con vừa giết người, giết ai không giết lại giết một cán bộ quản lý bến xe. Em ngây thơ hỏi lại: “Thế có bị sao không mẹ?”. Mẹ gạt nước mắt, bảo: “Mai cho anh ấy trốn vào Sài gòn. ở đây thì chết. Tù mọt gông”. Rồi mẹ hời lên: “Sao tôi khổ thế này. Trời ơi là trời! Hu, hu...”. Em hốt hoảng nhìn lên và thấy bà đang đứng ở cửa bếp. Hóa ra bà cũng không ngủ được, theo em xuống bếp tự bao giờ. Bà bước đến bên mẹ, vuốt vai mẹ, bảo: “Đất này dữ, trai hay gái đều thành nghịch tặc cả. Kiếp này coi như nó thế, có tránh cũng chả được. Thôi đừng khóc nữa, lên nhà đi ngủ đi”.
Mẹ và em theo bà lên nhà trên. Không biết mẹ có ngủ được không, còn em thì thiếp đi nhanh chóng. Sáng hôm sau em mải đến trường như thường lệ. Buổi trưa, em xách cặp về đến nhà thì thấy bà đang ngồi giữa một đống ngổn ngang ngay gian ngoài cùng. Thấy em, bà khóc. Hai tay bà đang cầm hai chiếc giẻ. Em hoảng hồn khi thấy bà giơ giẻ lên. cả hai tấm giẻ đều dính máu tươi. Em chưa kịp hỏi gì thì bà đã nói trong tiếng sụt sịt: “Anh trai con bị bắt rồi. Họ phục quanh đây suốt đêm qua. Nó vừa ra đến cổng thì bị họ chặn lại. Nó bỏ chạy. Họ bắn gẫy chân. Rồi họ dong về đây khám nhà. Đồ đạc bị lật tung hết cả lên. Bà đang sáp xếp lại. Nhưng nhiều máu quá. Bà phải lau...”. Em vội hỏi: “Bố, mẹ cháu đâu?”. Bà đáp: “Lánh tạm về quê ít ngày, ở đây người ta cho người sang đòi mạng. Bố mày nóng thế, có khi lại giết người ta trước. Thôi, hai bà cháu mình ở với nhau vài ngày, khi nào yên bảo bố mẹ mày về sau...”.
Thế là chẳng bao giờ em còn nhìn thấy anh trai nữa. mấy lần xét xử sau này bố mẹ đều không cho em đi. Em cũng mau quên. Sự vắng mặt của anh trai lâu ngày làm em cũng chả nhớ về người anh máu mủ ruột già với mình. Đến khi nghe mẹ hỏi, em lại giật mình nhớ đến hình ảnh anh trai ngồi hút thuốc trong góc bếp, trước ngày bị bắt. Và bây giờ, em lại thấy hai tấm giẻ của bà giơ lên, đầm đìa máu. Đó là máu chảy ra từ chân phải của anh trai em. Họ đã bắn nát bắp chân của anh. Và anh phải nghiến răng chịu đau với sự băng bó tạm thời để chờ họ làm thủ tục khám nhà. Máu đã rỉ ra nền nhà và bà em lau đến mấy ngày vẫn không sạch. Bây giờ em nhìn thấy hai tấm giẻ đầy máu ấy trên đầu mẹ. Mẹ đang gối lên mấy tẩm giẻ máu, hai tay ôm chặt lấy ngực và bụng. Mẹ không đứng dậy được. Người mẹ nằm vắt bên thành tàu. Một chân mẹ buông hờ ngoài mạn tàu, nửa người còn lại của mẹ vẫn kẹt lại trên sàn tàu. Con giao long đã cố đấy mẹ xuống biển nhưng trời tối nên nó không biết là mẹ bám được vào lan can tàu, và dắt ở đó, không rơi xuống được. Bây giờ mẹ đang nằm đó, đưa ánh mắt tràn đầy thương cảm nhìn em. Đêm trước hôm xuống tàu, mẹ cũng nhìn em như thế, rồi nhắc lại lời nói của bà: “Đất này dữ, trai hay gái đều thành nghịch tặc cả...”. Vì thế phải đi thôi con ạ. Đi mới mong thoát khỏi đất dữ này. Đi chuyến này không biết thế nào. Anh trai con đang ở trong trại. Con thì còn bé quá. Nhưng bây giờ thì mẹ hối hận vì đã đưa con vào cuộc hành trình khủng khiếp này. vết rạch từ giữa ngực xuống tới bụng không làm mẹ đau bằng nhìn thấy con chết đi sống lại thế kia. Nếu con còn sống thì con tha lỗi cho mẹ. Mẹ đã cho con một kiếp sống đọa đầy. Mẹ đã hại con. Mẹ đã giết dần giết mòn con mà chỉ đến khi chết mẹ mới nhận ra điều ấy... Em quay mặt đi, không muốn nghe những lời mẹ nói. Nhưng đúng lúc em quay mặt đi thì hai tay mẹ không giữ nổi vết rạch trên người nữa. Ngực và bụng của mẹ vỡ ra, máu bắn tung khắp đuôi tàu.
Ánh mắt em chỉ còn nhìn thấy quầng đỏ ối cuối cùng này nữa thì em hoàn toàn chìm vào vô thức.
Em đã chết trong cơn ác mộng của đời mình.
CHƯƠNG 7
Sau khi đặt Tân nằm lên chiếc salông rộng như một cái giường, thị gọi người vào, dặn dò cẩn thận rồi sai đi mời bác sĩ thân tín đến. Trong lúc chờ đợi, thị mở tờ báo An ninh ra đọc lại. Tấm ảnh Hoàng “lợn” khi còn chưa bị giết đập vào mắt thị. Thằng này vô cùng lợi hại. Lân “sói” có nó như có thêm một con hùm xám bên mình. Trong đám ong ve của Lân, Hoàng là sát thủ đáng gờm nhất. Vậy mà lại bị chết bằng chính con dao vẫn mang theo bên người kể cũng lạ. Thị đọc lại bài báo lần nữa, xem người ta có nhắc gì đến hung thủ không? Nội dung bài báo như sau:
Vào hồi 20 giờ tối hôm qua, tại quán cà phê Ánh Hồng trên đường Cầu Gỗ đã xảy ra một cuộc xô xát, kết quả là một người đàn ông bị chết ngay tại chỗ. Theo kết quả điều tra ban đầu thì nạn nhân là Nguyễn Minh Hoàng, một giang hồ cộm cán, có biệt danh là Hoàng “lợn”. Hoàng vốn xuất thân từ võ đường Tân Đạo, từng nhận giải thưởng về thi đấu Karate cấp thành phố, do ăn chơi đua đòi nên đã dấn sâu vào vòng tội lỗi với hai tiền án, bảy tiền sự. Được biết quán cà phê Ánh Hồng do chính tay Hoàng tạo dựng lên và cũng là nơi xảy ra nhiều vụ thanh toán đẫm máu của giới giang hồ thành phố, từng bị dẹp bỏ nhiều lần. Theo một vài nhân chứng có mặt tại quán vào buổi tối hôm qua cho biết, một người đàn ông lạ mặt đã vào quán hỏi tìm Hoàng, rồi người đàn ông này đã vào phòng riêng, hạ sát Hoàng bằng chính con dao quắm mà nạn nhân vẫn mang theo bên mình. Nhiều nghi vấn cho đây là một vụ thanh toán lẫn nhau của các băng nhóm xã hội đen. Tuy nhiên các cơ quan chức năng vẫn chưa bình luận gì. Theo đồn thổi của giới thạo tin thì trước khỉ Hoàng chết, Phạm Trần Lân (hay còn gọi là Lân “sói”) - một chiến hữu thân thiết của Hoàng đã có mặt tại quán cà phê Ánh Hồng, và là người duy nhất nghe được lời trăng trối của Hoàng. Nhiều khả năng Lân “sói” đã biết được hung thủ là ai và sẽ là nhân chứng quan trọng trong vụ án này trước cơ quan điều tra. Phóng viên báo An ninh sẽ tiếp tục đưa tin trong những số báo tới.
Vậy là Tân đã không nói sai. Rất có thể Lân đã nghe được lời trăng trối của Hoàng và biết người ra tay hạ sát Hoàng là Tân, để rồi ngay đêm hôm qua, hắn đã cho người đến nhà Tân giết bừa không tha. Bây giờ là lúc Lân đang cuồng điên tìm Tân để trả thù. Có hai nơi Lân không dám xông thẳng vào chém giết là nhà của thị và nhà của Cộc “ba tai”. Nhưng với vụ án mới, giết vợ Tân, thì Lân cũng lo bị công an tìm ra. Hơn nữa mất Hoàng, bản thân Lân cũng đã mất đi một cánh tay phải, hắn cố tỏ ra hung hãn chẳng qua cũng để che giấu nỗi sợ hãi trước các đối thủ của mình mà thôi.
Thành phố Ngã ba sông từ lâu đã mặc định một thế giới ngầm với ba vùng lãnh địa đen mà giới giang hồ không ai không biết. Vùng thứ nhất do Tùng “hê rô” cai quản, chủ yếu khai thác các sòng bài và bảo kê bến bãi, vùng thứ hai thuộc về Lân “sói” chủ yếu chăn các động gái và bảo kê các nhà hàng, vùng thứ ba của Cộc “ba tai” chủ yếu buôn lậu, bán lẻ ma túy và mở tiệm cầm đồ tiêu thụ hàng trộm cướp. Tuy nhiên mỗi băng nhóm cũng có thể hợp tác làm ăn với nhau trong từng phi vụ cụ thể, hoặc lúc mạnh, lúc yếu, lúc phình to, lúc thu hẹp địa bàn hay lĩnh vực hoạt động, nhưng căn bản được chia ra như vậy. Giang hồ có thẻ hay không có thẻ, số má nhiều hay ít đều ngầm hiểu sự phân định này mà dễ bề hành xử với nhau. Bây giờ là lúc phe nhóm của thị mất đầu lĩnh. Đám ong ve có thể bỏ thị mà đi. Bọn Lân, Cộc cũng rất muốn xẻ đôi lãnh địa của thị ra để mỗi đứa thêm về cho mình phần béo bở từ những sòng bài và bến bãi mà thị quản lý.
Nếu còn Tính “dao mổ” thì thị đã vững tâm hơn. Nhưng bây giờ chỉ còn thị, Châu điên và Mỹ “chột” thôi, làm thế nào để đứng vững được nếu bọn Lân, Cộc liên thủ tấn công? Thị biết là tạm thời phe nhóm của mình không được mạnh nên cách tốt nhất là lui về thế thủ. Nhưng thủ thế nào để không quá mất mặt và không tỏ ra yếu thế? Quy luật của giang hồ xưa nay là cá lớn nuốt cá bé. Muốn có ong ve thì phải có số má. Muốn nổi lên hàng đại ca thì phải đi lấy số của những đại ca khác. Lấy được mạng thằng nào số càng cao thì vị trí được xác lập trong giới càng lớn. Điều đáng lo ngại nhất với thị lúc này là đám ong ve của thị biết đâu lại nghe xằng nghe bậy, trở giáo muốn lấy số thị thì họa thật khó lường. Đầu lĩnh Tùng “hê rô” không còn nữa, bang nhóm rất dễ sinh loạn. Thủ thế với người ngoài thị không sợ, nhưng với người nhà thì biết đâu mà phòng bị?
“Cách phòng thủ tốt nhất là tấn công”, Tân đột ngột xuất hiện nơi phòng khách với cái bụng còn đang cố định vì vết thương chưa lành, đã nói với thị như vậy. cả thị và con Mỹ đều ngơ ngác trước sự hiện diện và thái độ tự tin đến cao ngạo của Tân. Riêng thị còn cảm thấy khó chịu khi thấy Tân tỏ ra hiểu quá rõ về nỗi lo lắng của mình. “Nãy giờ tôi nghe lỏm được những gì Diệu nói với cô Mỹ. Tôi biết là Diệu đang lo cho băng của mình. Nhưng ngồi đấy mà lo thì không giải quyết được gì đâu. Diệu nghe tôi. Cứ cho bọn ong ve nã đạn vào cửa nhà thằng Lân, thằng Cộc đi”.
- Nếu chúng dồn sức lại đánh thốc vào đây thì sao?
Nghe thị hỏi lại như vậy, Tân đáp điềm tĩnh:
- Hiện nay bọn Lân “sói” và Cộc “ba tai” không biết thực lực băng nhóm của Diệu mạnh yếu thế nào, nếu Diệu luôn đe dọa tấn công chúng, điều ấy đương nhiên được hiểu là thế lực của Diệu còn rất mạnh, còn đang hung hãn và rất muốn dùng máu để mở rộng lãnh địa. Điều này làm bọn chúng phải nghĩ cách đối phó. Nghĩ cách đối phó chính là lui về thế thủ, làm gì còn rảnh rang mà nghĩ đến chuyện tấn công. Hơn nữa, đám ong ve kia liên tục được giao việc thì chúng cũng nhanh chóng lên số và nể sợ Diệu hơn. Như thế là làm một mà hưởng hai...
- Anh có vẻ cũng hiểu tình thế của tôi lúc này nhỉ?
“Tôi không phải sinh ra để làm giang hồ. Tôi không muốn lấy số của ai cả. Chẳng qua cuộc đời run rủi tôi tới nước này, thì tôi phải làm mọi điều để bảo vệ mình. Tôi đang tá túc nhờ Diệu. Tôi không ra tay giúp Diệu thì thôi chứ không bao giờ hại Diệu. Tôi hiểu giới xã hội đen ở thành phố này chẳng qua vì tôi đã dấn quá sâu vào cái sự “giết người đền mạng” mà tôi tôn thờ. Nếu Diệu tin tôi thì cứ thử làm những điều tôi nói”.
Tất nhiên thị nghe lời Tân. Thị lệnh cho mấy thằng tiểu yêu lượn lờ quanh mấy động gái của Lân “sói” ra chiều như sẵn sàng gây sự phá đám. Rồi thị lại cho người đến đánh nhau với bọn đàn em của Cộc “ba tai” như có vẻ muốn tranh cướp, mở rộng lãnh địa. Thị bỗng nhận ra một điều, Tân không chỉ là một sát thủ độc lập mà còn là một người đàn ông có hiểu biết, có học thức, có mưu lược, và đúng như Tân nói, anh ta sinh ra không phải để làm giang hồ.
Vậy Tân là ai?
Anh ta chính là ông chủ của võ đường Tân Đạo.
Tân vốn xuất thân trong ngành thể thao. Anh ta từng được đào tạo ở Liên Xô về và có thời gian khá dài công tác ở sở thể dục thể thao của thành phố. Vì một lý do nào đó, Tân bỏ ngành về mở võ đường. Môn sinh của Tân khá đông, có không ít những đệ tử từng đoạt các giải thưởng võ thuật danh giá ở cấp thành phố. Nhưng Tân cũng thuộc loại có đầu óc không bình thường. Khi còn ở bên Liên Xô anh ta từng tham gia vào một tổ chức có tên gọi là “Thay trời hành đạo”. Tổ chức này có chân rết ở khắp châu âu, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện với một nguyên lý xác tín là pháp luật không bao giờ đem lại sự công bằng. Vì thế những người tham gia tổ chức này cho rằng mọi tội ác gây ra đều phải trả giá ngang bằng, giết người phải đền mạng, gây thương tích thì phải bị gây thương tích lại, làm người thiệt hại thì phải bị thiệt hại lại. Họ tự điều tra các vụ án và khi tìm ra kẻ phạm tội rồi thì họ sẽ tự xử theo công thức “trả giá ngang bằng”.
Vụ đầu tiên Tân ra tay ở xứ người là dùng hai quả đấm của mình đánh đến nhũn não một người đàn ông gốc Agiecbaigian dưới bến xe tàu điện ngầm. Một người bạn cùng học với Tân đã bị người đàn ông này đánh đập không thương tiếc trong một cơn say rồi sau đó bị để nằm vắt ngang trên thanh ray tàu điện. Người ta đã kịp thời phát hiện ra và đưa nạn nhân đến bệnh viện. Tân cùng các bạn trong lóp thay nhau cắt cử người đến trông nom bạn, nhưng cả tháng sau bạn vẫn không tỉnh lại. “Chấn động não dẫn đến bại liệt”, đó là những gì mà bác sĩ nói về người bạn học của Tân.
Một liên tưởng vụt đến làm Tân rùng mình. Nỗi ám ảnh quái ác lại bắt đầu hành hạ Tân bằng những cơn buốt nhói nơi đỉnh đầu. Tân thẫn thờ ra ngoài hành lang, ngồi bệt xuống đất, ôm đầu đau đớn. Tân cứ ngồi như thế rất lâu, rồi chìm vào một cảm giác rất lạ. Bức ảnh trong ví Tân như động đậy. Đó là một bức ảnh bé như con tem, có hình một cậu bé. Bức ảnh ấy trôi ra khỏi ví, trườn lên lưng, lên cổ, lên đầu rồi rơi lơ lửng trước mặt Tân. Tân muốn nhắm mắt lại nhưng không được. Tân muốn quay mặt đi chỗ khác nhưng đốt sống cổ cứng ngắc, không sao cựa quậy được. Tân buộc phải đối mặt với bức ảnh. Cái miệng nhỏ kia không ngừng mấp máy, thét gọi Tân. Ánh mắt trong trẻo kia đang nhíu lại, giận dữ. Một khuôn mặt nửa tĩnh nửa động đang cố hiện lên những biểu cảm thù hận. những lọn tóc tơ bay ra hai bên thái dương. Cánh mũi chun lại rồi giãn ra. Đôi môi mỏng he hé để lộ những chiếc răng nhỏ như hạt ngô nếp. Các nét ảnh rùng rình, vặn vẹo, biến hóa, tróc vỡ một cách đau đớn. Bỗng một cơn gió mạnh thốc tới. Như có ai hất cả bụm máu lên bức ảnh. Máu chảy tràn vào đôi mắt đang hấp háy, chảy vào cái miệng đang mím chặt. Máu bết lên tóc và phủ nhòa khuôn mặt đang dàn biến mất khỏi mặt giấy. Tân vội hét lên: “Không!” rồi chạy ra khu vườn rộng sau nhà xác bệnh viện. Tân đấm liên tục vào thân cây thông trước mặt, cho đến khi máu rỉ ra ở các kẽ tay. Tân dừng lại, móc tấm ảnh trong ví ra đưa lên kiểm tra lại. vẫn còn nguyên vẹn. Những hình ảnh vừa ập đến trong trí não Tân chỉ là ảo giác. Tân lác lắc đầu cho những ảo giác đó rơi rụng đi. Rồi Tân quay lại hành lang bệnh viện, vào toa lét vốc nước lên rửa mặt.
Khi đã hoàn toàn tỉnh táo, Tân quay lại phòng bệnh nhân để trông bạn. Nhìn khuôn mặt người bạn nằm thiêm thiếp như ngủ, một sự so sánh lóe lên trong Tân. Nếu kẻ sát hại bạn Tân bị bắt, pháp luật sẽ xử anh ta như thế nào? Căn cứ vào tỉ lệ thương tật để định tội và lượng hình với dăm bảy năm tù ư? Rồi sau đó gã lại ra tù, lại nhởn nhơ sống, lại uống rượu và một lúc nào đó lại ra tay đánh đập người khác ư? Trong khi đó bạn Tân sẽ phải về nước sống đời sống thực vật không biết đến bao giờ. Nỗi đau đớn mà bạn phải gánh chịu đã đành, nhưng còn cha mẹ, người thân, và cả một tương lai dài rộng của bạn bị hủy hoại, lấy gì đong đếm được những mất mát này? Không phải ngẫu nhiên mà tổ chức “Thay trời hành đạo” lại ra đời và có lịch sử tồn tại mấy trăm năm nay, từ thời I van Đệ Tứ đến giờ. Tân ngẫm thấy nền tảng tư tưởng của nó quả thực rất đúng đán, công bằng và hợp lý, không giống như cái lẽ công bằng của xã hội hiện đại, luôn lấy pháp luật ra làm đầu nhưng thực chất là một thứ văn minh tha hóa, máy móc và phi nhân.
Ngay đêm đó Tân âm thầm đi tìm tên côn đồ dưới ga tàu điện ngầm kia. Chỉ vài ngày sau Tân đã tìm ra gã. Đó là một người đàn ông nát rượu, có tư tưởng bài ngoại, sống bằng nghề sửa chữa máy ở một xưởng dệt gần đấy. Tân đã tìm cách đưa gã đến một quán rượu, chuốc cho say mèm rồi vác đến ga tàu điện gầm vào lúc nửa đêm. Tại đây Tân đã tưởng tượng ra những gì hắn hành hạ người bạn của mình và trả lại lên thân thể gã đúng y như thế. Hôm sau người ta phát hiện ra gã nằm vắt qua thanh ray tàu điện gầm, cơ thể lạnh cóng, không còn hơi thở nữa. Tân đã quá tay. Những người trong tổ chức đã cảnh cáo Tân về việc này và Tân phải chịu phạt bằng hình thức nộp vào quỹ mười nghìn rúp.
Vụ thứ hai xảy ra ở trong rừng. Đó là khu rừng nằm ở ngoại ô thành phố nơi có ngôi trường mà Tân đang theo học. Vào kỳ nghỉ, sinh viên các trường đại học thường nhảy vài chặng tàu điện ngầm hoặc ngồi ô tô bus về vùng nông thôn kiếm việc làm thêm hay vào rừng tìm niềm vui thám hiểm. Vào ngày nghỉ cuối tuần, một đôi trai gái người Ba Lan đang học Quan hệ quốc tế đã vào khu rừng đó chơi, nhưng mấy hôm sau người ta chỉ còn thấy chàng trai bị treo trên chạc cây bạch dương, cạnh hồ nước giữa rừng, còn cô gái thì mất tích.
Chàng trai chết rất thê thảm. Thân thể bị lột truồng. Bộ phận sinh dục bị xẻo mất. Máu chảy thành dòng ngược theo thân người, đen bầm, đọng lại ở cổ và mặt. Kiến bu đặc theo vết máu và co cụm lại trong hai hốc mắt. Chưa hết, những kẻ giết người quái đản trước khi bỏ đi còn cắm vào hậu môn của chàng sinh viên xấu số một cành thông lòa xóa lá kim. Cảnh sát đã mở đợt truy tìm hung thủ và cứu được cô gái trong một căn nhà gỗ bỏ không, giữa bụi dây leo um tùm.
Theo lời kể của cô gái thì đôi tình nhân bắt đầu vào rừng khi trời đã tối. Họ ngồi bên nhau cạnh bụi lam tường, cách hồ nước khá xa và trong lúc họ đang tình tự thì bỗng có tiếng đập mạnh từ phía sau. Cú đập làm cô gái ngất đi, đến khi tỉnh lại thì cô thấy mình đã bị trói chặt, miệng ngậm đầy giẻ. Cô nghe thấy tiếng gào thét thất thanh của ai đó, và cô nhìn thấy xa xa bên hồ nước, dáng một người đàn ông mặc áo lông cừu đang đánh đập một vật gì đó treo lơ lửng trên cây bạch dương. Đến khi cô nhận ra vật treo trên cây chính là người yêu của mình thì cô lại ngất đi. Tỉnh lại lần thứ hai, cô thấy mình nằm trong căn nhà gỗ bỏ hoang, tay chân bị trói nhưng trên người chỉ được đắp hờ bằng chiếc áo măng tô mà cô vẫn dùng để mặc ngoài. Rồi người đàn ông mặc áo lông cừu xuất hiện. Hắn đội mũ lông hở hai mắt nên cô không thể biết được người đó trẻ hay già. Hắn hất cái áo măng tô ra, nhìn thân thể lột truồng cô một lúc rồi bắt đầu dùng hai tay sờ soạng, bấu véo từng bộ phận trên cơ thể cô. Hắn thích thú xem cô kêu la, giãy đạp, van xin, gào khóc, chửi bới... Rồi hắn bỏ đi. Hôm sau hắn lại đến và lại dùng tay bấu véo cô, kể cả những chỗ kín nhất. Ngày nào hắn cũng đến vào buổi nhập nhoạng tối. Trước khi bỏ đi hắn thường để lại cho cô chai sữa và một mấu bánh mỳ đen. Khi cảnh sát tìm đến thì cô đã kiệt sức, lả người, nằm co quắp như ngọn rau nhúng nước sôi. Khám nghiệm cơ thể cô gái cho thấy có nhiều vết bầm tím, thâm đen nhưng không hề có sự xâm phạm tình dục. Sau rất nhiều ngày điều tra, cuối cùng vụ án cũng chìm vào quên lãng, hung thủ vẫn biệt vô âm tín.
Chính Tân là người đã phát hiện ra hung thủ một cách rất tình cờ.
Hôm ấy là ngày nghỉ cuối tuần. Tân vào rừng chơi và vô tình gặp được một người đàn ông đi thuyền trên lòng hồ. Tân nổi máu khám phá thiên nhiên, hỏi thuê người đàn ông kia chở mình đi chơi. Hồ rất rộng và có nhiều đảo nhỏ. Qua chuyện trò, Tân được biết người đàn ông này sống độc thân trên một hòn đảo nằm về phía tây của khu hồ. Tân thích thú với kiểu sống Rôbinsơn ấy và ngỏ ý muốn về nhà ông ta chơi. Có lẽ đang buồn, hoặc thấy Tân là một thanh niên châu Á dễ mến nên ông ta đồng ý.
Tân ở nhà ông ta chơi hai ngày.
Ông ta bỏ mặc Tân muốn làm gì thì làm, còn ông đi đánh bắt cá trên hồ hoặc đi chở khách du lịch, đến chiều tối mới về. ông ta ăn uống rất đơn giản, hầu như chỉ dùng sữa với bánh mì đen. Một lần ông ta vứt vào lòng Tân chai sữa và mẩu bánh mỳ đen, bảo: “Ăn đi, ở đây chỉ có thế này thôi”. Tân giơ tay bắt chai sữa và mẩu bánh mỳ, bất chợt nhớ đến lời kể của cô sinh viên người Ba Lan, nạn nhân của vụ án diễn ra trong khu rừng này vào đầu năm ngoái. Hồi đó báo chí đưa tin ầm ĩ. Tân cũng theo dõi và rất căm phẫn kẻ thủ ác. Chiếc áo lông cừu cùng chai sữa và mẩu bánh mỳ đen là những hình ảnh ám ảnh Tân mãi từ vụ án đó. Bây giờ những hình ảnh đó đang hiện lên trước mắt Tân. Tân sinh nghi và âm thầm tìm hiểu người đàn ông lạ. Tân phát hiện ra ông ta thường đến một ngôi nhà gỗ bỏ hoang trong rừng sâu, ngồi trầm ngâm hàng tiếng đồng hồ trước mấy cái lọ thủy tinh. Khi ông ta bỏ đi Tân đã vào xem mấy cái lọ đó và tá hỏa khi thấy trong đó ngâm toàn “của quý” của đàn ông. Tân nhờ chính quyền sở tại xác minh hộ nhân thân của người đàn ông kia. Và Tân phát hiện ông ta từng đi viện điều trị dài ngày. Tại bệnh viện tâm thần thành phố, khi xem lại bệnh án của người đàn ông bí ẩn trên lòng hồ, Tân được biết ông ta không có năng lực tình dục và rất có khoái cảm thị dâm.
Vậy là đã rõ. Tân được sự giúp sức của một vài người nữa trong tổ chức “Thay trời hành đạo”, đã buộc người đàn ông kia khai nhận những việc mình làm. Hóa ra ông ta đã làm đến bốn vụ mà không hề bị phát hiện. Ba vụ trước đây ông ta thường vùi xác nạn nhân xuống lòng hồ nên không để lại dấu tích. Vụ thứ tư vì ông ta không kịp phi tang nên mới để cơ quan điều tra vào cuộc. Đã ngoài bốn mươi tuổi, lại mắc chứng tâm thần phân liệt, bình thường thì không sao, nhưng cứ mỗi khi nhìn thấy hành động tình ái của các đôi trai gái là ông ta nổi cơn điên, ông ta có khoái thú cắt của quý của đàn ông cất đi, thỉnh thoảng mang ra ngắm chơi. Còn với phụ nữ thì ông ta chỉ thích cấu véo để nghe họ kêu gào, la hét rồi sẽ giết họ trước khi họ kiệt sức.
Trò thị dâm quái đản của một kẻ tâm thần, bệnh hoạn trong khu rừng Nga bị Tân phát giác và Tân đã theo nguyên tắc “trả giá ngang bằng” để làm lại y như những gì mà người đàn ông kia đã làm với những nạn nhân của bốn vụ án trước.
Và ngay dưới cây bạch dương, nơi người đàn ông bị Tân treo ngược lên để “giết người đền mạng”, có cuốn sổ ghi lại toàn bộ lời khai của ông ta về những hành vi phạm tội của mình.
Cơ quan cảnh sát nước sở tại có tiếp tục mở rộng điều tra vụ này nữa hay không?
Tân không biết.
Tân đã bay về nước ngay sau đó ít hôm.
CHƯƠNG 8
Cơn ác mộng khủng khiếp nhất đời em rồi cũng qua đi.
Em bừng tỉnh dậy trong cái gió biển mát rười rượi thổi đến từ đuôi tàu. Ánh sáng tràn ngập và không khi yên ắng đến hoài nghi. Đầu óc em đã tỉnh táo, em quên mất là mình đang đau, vùng dậy như một ngọn sóng rồi bật ngược trở lại trong cảm giác ê chề. Em tưởng mình bước ra từ một giấc mơ, và khi cơn ác mộng đã chấm dứt rồi thì em tận hưởng sự vượt thoát. Nhưng rồi em nhận ra hiện thực phũ phàng đang bày ra trước mắt em. Và em không biết mình có chịu đựng nổi sự tỉnh thức này không?
Quần áo em bị xé rách tả tơi. Trên người em có nhiều vết máu. Toàn thân em đau đớn. Chạm vào chỗ nào cũng đau. Hai bầu vú em tê dại. Giữa hai chân em cũng không còn cảm giác dù em mót đái. Em rất muốn đái. Có vẻ như em phải nhịn sự bài tiết này lâu quá rồi. Nhưng không sao điều khiển được phía bụng dưới. Em cứ nằm như thế, chỉ mong một dòng nước ấm thoát ra cho người nhẹ nhõm, cho những ẩn ức vỡ òa, vậy mà điều kỳ diệu ấy không đến.
Em vịn vào thành tàu để đứng lên. Gió thổi đến mạnh quá. Có vẻ như gió sắp thổi bay cả em đi. Em loạng choạng trên đôi chân rã rời. Bỗng có bàn tay của ai đó bám vào người em. Em thoáng nhớ đến hình ảnh của những con giao long ở dưới biển trườn lên. Em gai buốt hết cả người và khạc ra một tiếng hét khản đặc.
- Bác đây. Cháu đừng sợ, để bác đỡ cháu dậy...
Em nhận ra ông Trượt. Toàn thân ông cũng đầy máu. Nhưng khuôn mặt ông ánh lên niềm vui. Hai tay ông đỡ lấy người em. ông dìu em đi về phía đuôi tàu. Em hỏi: “Bác đưa cháu đi đâu?”. Ông bảo: “Để bác đưa cháu vào trong buồng tắm. Người cháu đầy máu. Quần áo cháu cũng rách hết cả rồi”. Em thèm nước quá. Rất muốn ngụp lặn trong nước, khoả mình trong nước, gột rửa trong nước, giận hờn và khóc lóc cùng nước, ông Trượt quả là người từng trải, ông hiểu em cần nước, dù chính ông cũng cần phải tắm mình trong nước cho trôi hết những dấu tích hãi hùng, ông đưa em đến buồng tắm rồi đẩy cánh cửa ra. Nhà tắm đơn sơ này em đã từng vào, bây giờ nó trở nên cần thiết và thân thương vô cùng, ông Trượt nhẹ nhàng đỡ em vào, thậm chí còn muốn cởi bỏ hộ em những thứ giẻ rách trên người. Nhưng rồi ông hiểu ra là không nên để em ngượng, ông lui ra ngoài và khép cửa lại.
Bước chân vào nhà tắm rồi, em ngồi xụp xuống, không muốn đứng lên nữa. Nhưng ông Trượt đã lại gõ cửa rồi đưa qua khe cho em cái tã lót của thằng Chín tháng:
- Cháu dùng cái này mà lau rửa người ngợm. Dù thế nào cũng phải sống cháu ạ.
Thùng nước trong nhà tắm vẫn còn lưng lửng. Em nhúng cái khăn tã vào đó rồi bắt đầu lau người. Chỉ hai lần lau thôi thùng nước đã chuyển sang màu đỏ tươi. Bỗng em đái được. Ôi chao, em cứ đứng lom khom cho dòng nước chảy ra ướt đầm cả háng. Mọi thứ trong người em như cũng đang chảy theo, tống những thứ rác rưởi, cặn bạ ra ngoài. Xong cái việc bài tiết này em thấy sảng khoải hơn rất nhiều. Em dùng thứ nước đỏ lờ lờ trong thùng nước để tiếp tục lau rửa mình mấy. Mỗi lần lau lên đến ngực, chạm vào hai đầu vú là em lại đau đến rụng rời. Trong một lần đau như thế, em đã úp cái tã lót nhoè nước huyết ấy lên mặt mà tức tưởi khóc. Em khóc không thành tiếng. Mãi đến khi ông Trượt gõ vào thành cửa, đưa cho em bộ quần áo của ai đó thì em mới thôi khóc. Em mặc bộ quần áo ông Trượt đưa cho rồi bước ra ngoài. Đó là bộ quần áo kỳ cục nhất mà em mặc trong đời. Quần xa-tanh đen, áo đuôi tôm màu hạt dẻ. cả một chiếc quần lót không có đăng ten nữa. Ông Trượt đã nhặt nhạnh những thứ đó ở đâu không biết, và đối với em lúc này, những thứ đó quý hơn vàng.
Ông Trượt đỡ em vào trong gian bếp. ở đây ông đã pha sẵn một cốc sữa nóng. Em uống đến đâu biết đến đó. Thứ nước ngọt đến khé cổ đó đi từ từ vào cổ họng, trôi xuống thực quản, vào thượng vị, quẩn quanh một lúc rồi xuống hạ vị, rồi nó dừng lại hay hoà tan vào đâu em cũng không biết nữa. Cốc sữa làm em đổ mồ hôi. Và khi đặt cốc xuống, em ngạc nhiên đến trố mắt khi nhìn thấy chiếc làn con đựng thằng Chín tháng đặt ở góc bếp. Trong làn, thằng bé vẫn thiêm thiếp ngủ. Sữa em vừa uống là của nó. ông Trượt đã lấy lon sữa bò cuối cùng ra để pha cho em uống. “Cố gắng sống để còn hy vọng có người đến cứu, đưa mình về. Đời cay đắng lắm. Nhưng cay đắng đến đâu cũng phải sống cháu ạ”, ông Trượt bảo với em thế. Em ngao ngán nhìn ra ngoài sàn tàu. Các vết máu đã khô lại. Nhưng không có một bóng người nào cả. Con tàu trở nên trống trải, hoang vắng. “Mọi người đâu hết rồi hả bác?”, em cất tiếng hỏi như mê sảng.
-Chết hết rồi.
- Thế xác của họ đâu? Bố cháu, mẹ cháu...?
- Xuống biển hết rồi.
- Cháu thấy mẹ cháu còn ở trên tàu cơ mà?
Ông Trượt đứng dậy, tiến đến bên em, ôm lấy đầu em, nói như niệm chú: “Bác xin lỗi cháu. Bác đã đẩy tất cả xuống biển rồi. Lúc cháu đang ở trong nhà tắm ấy. Bác tranh thủ dọn dẹp đi chứ cảnh tượng kinh hoàng lắm. Cháu sẽ không chịu nổi khi nhìn thấy người thân của mình như thế đâu. Hãy quên tất cả đi. Coi như cháu chưa từng bước chân xuống con tàu này. Coi như cháu không nhìn thấy gì cả. Nếu còn sống mà trở về được, hãy học cách quên những gì cháu chứng kiến. Phải quên! Bác không muốn cháu nhìn thấy một cái xác chết nào cả. Chỉ tiếc là bác không lau chùi sạch sẽ được cả những vết máu kia. Quên! Quên đi cháu ạ”.
Em lại hỏi như mê sảng:
- Thế còn những con giao long đâu?
Ông Trượt ngạc nhiên nhìn em:
- Giao long nào?
Em bỗng ôm mặt khóc, ừ, giao long nào nhỉ? Sao em không nhớ được rõ ràng một cái gì cả. Em cũng không rõ hình thù bất cứ một con giao long nào. Tất cả đến với em hư hư thực thực, như một giấc chiêm bao. Sao em chỉ trải qua một giấc mơ thôi mà đến khi tỉnh lại thì em lại phải đối mặt với một sự thực kinh khủng như thế này?
- Cháu nói lại đi? Giao long nào? Cháu có bị sao không đấy? Cháu có còn nhận ra bác là ai không? Cháu có nhớ cháu tên là gì không?
Ông Trượt không giấu được ánh mắt hoảng hốt khi liên tục hỏi em những câu ấy. Chắc ông nghĩ em đã phát điên mất rồi. Không, em không điên. Em không mê lú. Em không loạn trí. Em gạt nước mắt, hỏi lại:
- Thế ai đã giết những người trên tàu?
- Cướp biển.
-Giết hết à?
- Giết hết. Không từ một ai. Bác và cháu sống được cũng là vì chúng tưởng bác cháu mình chết rồi. Có lẽ duy nhất chỉ có thằng bé còn đỏ hỏn kia là chúng nó không sờ tới...
- Vậy bây giờ mình đang ở đâu?
- Bác cũng không biết.
- Sao bọn cướp lại lên được tàu mình?
- Hỏng chân vịt. Tàu phải dừng lại, chờ sửa. Đúng lúc ấy bọn nó xuất hiện. Chúng nó quăng dây có móc sắt sang. Rồi cứ thế nó bắn, nó giết...
- Mình chịu để nó giết thế à?
- Đáng lẽ nó không ra tay tàn sát dã man như thế đâu. Nhưng vì tàu mình chống lại nó. Bố cháu và chú lái tàu hăng lắm, chống cự tới cùng. Nhưng bọn nó ra tay nhanh như chớp. Ngay cả bác đây, bị đánh chết giấc lúc nào cũng không biết...
- Chúng nó cũng là người Việt mình à?
- Bọn này chắc người philippin hoặc inđô hay malai gì đấy. Bác thấy nó cũng giống người mình, chỉ có tiếng nói là khác. Nó tưởng những người vượt biên sẽ mang theo nhiều tiền vàng. Khốn nạn. Chó cắn áo rách. Đã đến nước phải bỏ xứ ra đi thì còn cái gì nữa mà cướp cơ chứ...
- Thế là chúng nó giết hết?
- Thì hết chứ sao? À, nhưng mà... Không biết chúng nó có bắt đi người nào không? Thường thì khi cướp một tàu như thế này chúng nó vẫn cướp theo cả người. Mà không phải ít đâu, hàng chục người đấy. Cũng chả biết là những ai. Trai vào tay chúng thì thành lao động khổ sai, còn gái vào tay chúng thì thành món đồ chơi, khi nào chán thì chúng cũng giết nốt. Bác cháu mình thế này vẫn còn là may đấy cháu ạ...
Thằng Chín tháng bỗng cụ cựa và khóc, ông Trượt dừng lời, tiến lại bế đứa cháu nội lên. Ông dỗ nó nín rồi đưa sang cho em. “Cháu bế em bé tí, để bác pha sữa cho nó uống”. Em đưa tay ra bế thằng Chín tháng. Nó nhoẻn miệng cười với em. ôi, nụ cười của nó mới rạng rỡ làm sao. Em tạm quên đi những đắng đót vừa trải quá, khẽ thơm nựng lên má nó. Ông Trượt mang đến bình sữa nhỏ, hơ hơ trước mặt nó. Thằng Chín tháng há miệng bập lấy núm cao su, bú lấy bú để. ông Trượt bảo: “Tỉnh dậy, bác kiểm tra từng người, thấy còn mỗi mình cháu là thở. Bác cũng đã xem xét hết tàu. Chúng nó phá máy rồi. Lương thực, thực phẩm cũng lấy hết. Đồ đạc của mọi người bị lục tung cả. Bác thu gom lại chỉ còn ít quần áo và chút bánh trái nằm lung tung ở trong túi đồ của từng người. Bác đưa hết về gian bếp này. Chúng ta sẽ sống lần hồi bằng những thứ đó. Bác từng bị dạt vào đảo hoang một lần. Chỉ còn cách cầm cự sự sống mà chờ người đến cứu thôi cháu gái ạ”.
Em nhìn ra ngoài biển. Không thấy đường chân trời nằm ở đâu cả. Chỉ một màu xanh đen, lai láng, mênh mông, xa hút. Chờ người đến cứu ư? Có chờ được không hay hai bác cháu chết đói trên con tàu nát này? Mặt em lạnh căng. Bác Trượt chỉ lo em khóc, em vật vã, em hờn tủi, em chán sống... Nhưng em không khóc. Không bao giờ em khóc nữa. Em chỉ muốn nổi loạn. Có một cái gì đó như kìm hãm trong người em, chỉ muốn bung phá ra. Giống như người học võ lâu ngày không có ai đối kháng vậy, muốn vung tay, vung chân ra đòn quá thôi. Sau này, nhiều lúc em tự hỏi, nếu em tỉnh lại trên con tàu đó mà không có ông Trượt thì em sẽ thế nào? Chắc là em lao đầu xuống biển chết quách cho xong. Hoặc là em đói rã họng ra trước khi thành cái xác khô dập dềnh trên con tàu cũ nát, giữa biển cả bao la. ông Trượt rất giỏi giang, ông chế ra được cần câu để câu cá. Rồi biết cách trưng cất nước biển để lấy nước ngọt. Hai bác cháu ở với nhau đến ngày thứ ba mà vẫn không thấy có ai đến cứu thì ông Trượt bảo: “Hai bác cháu mình kéo neo lên, để tàu trôi tự do, nhất định nó sẽ phải dạt vào một bờ bãi nào đó. Có đất liền, dù là một đảo hoang cũng có thức ăn. Cứ ở lênh đênh giữa biển thế này mãi sẽ chết đói mất”. Em hỏi lại: “Cháu tưởng nó vẫn đang trôi?”, ông Trượt gật đầu:
- ừ, nó vẫn trôi. Nhưng có neo nên trôi rất chậm...
Thật kỳ lạ là mấy ngày đó biển rất lặng. Nếu có cái đầu lãng mạn và sống trong một cảnh huống khác thì em đã rất hạnh phúc để hưởng những cảm giác tuyệt vời do biển cả mang lại. Nhưng lúc này em đang lo đến sự sinh tồn của bản thân, cả em và ông Trượt chỉ chú tâm đến việc cầm cự sự sống cho ba con người giữa trùng khơi, mọi đau khổ khác đều bị nén lại, dìm xuống, càng không có tâm trạng đâu mà cảm nhận cái đẹp của trời nước hay vân về khoái cảm chinh phục biển khơi, hay một cái gì đó đại loại như thế.
Nhưng đến ngày thứ ba rồi. Quả thật em hơi có chút tuyệt vọng. Xung quanh là nước biển mặn chát, đồ ăn thức uống cứ cạn kiệt dần, chưa kể bão gió sẽ còn càn quét đến bất kỳ lúc nào. Trước hết là thằng Chín tháng, nó sẽ sống được thêm mấy ngày nữa? Rồi tới em và bác Trượt, ai sẽ nhận cái chết trước để nhường sự sống ngắn ngủi lại cho người sau? Em không dám nghĩ tiếp nữa. Cái đầu em chứa đựng quá nhiều sự khủng khiếp rồi. Hãy để nó nguội đi một chút, đừng bắt nó nóng thêm, nó sẽ nổ tung mất.

Ý kiến của ông Trượt làm loé lên trong em tia hy vọng. Em hỏi: “Sao bác không nói từ mấy ngày trước, có khi bây giờ hai bác cháu mình dạt vào tới đất Hồng Kông rồi?”, ông Trượt cười khi thấy thái độ của em trở nên hớn hở như vậy. ông giải thích: “Để nó trôi tự do thì năm ăn năm thua. Có thể nó dạt sang Hồng Kông nhưng biết đâu nó lại dạt vào nước khác thì sao? Nó mà dạt vào đất của mình cũng nguy. Biên phòng sẽ tóm ngay. Bác mà bị bắt lần này nữa chắc chắn là phải đi tù...”
- Thế không còn cách nào nữa ạ? - Em hỏi một cách ngây thơ.
Ông Trượt lác đầu:
- Bây giờ thì không còn cách nào nữa, chỗ này không nằm trên tuyến đường hàng hải nên không thấy có tàu thuyền nào qua lại. Phải để cho nó trôi ra chỗ khác thôi.
Ông Trượt hướng dẫn em cách kéo neo lên. Có ba bốn cái neo cả thảy. Em và ông Trượt kéo cái neo ở hông tàu lên trước. Dùng tời quay để thu dây neo lại. Khi mỏ neo nhô lên khỏi mặt nước thì ông Trượt hét lên một tiếng lạc giọng:
-Ôi trời...!
Còn em thì ôm lấy bụng nôn thốc nôn tháo.
Mỏ neo đã mang theo lên khỏi mặt nước cả một khối thịt vàng ệch, co quắp, rách nát. Chỉ cần nhìn thoáng qua thôi em nhận ngay ra đó là xác của bác tài công. Hai đầu móc neo xiên qua bụng và ngực của bác như xiên qua thân một con cá mập vậy. Người bác tài công lúc này như một cái xác ngâm nước muối, tứ chi cứng ngắc, mặt biến dạng, lớp da trên cơ thể bị cá rỉa lỗ chỗ...
Cả em và ông Trượt cùng buông tay tời, mặc cho chiếc neo lại lao thun thút xuống dưới lớp nước biển xanh đen. Toàn thân em run rẩy, hai tay níu chặt lẩy thành tàu, nôn mãi không hết cơn. ông Trượt buông phịch người xuống sàn tàu, thở dốc. Trong gian bếp thằng Chín tháng lại khóc ré lên. ông Trượt vội chạy vào với nó. Đêm ấy hai bác cháu ngủ một giấc chập chờn. Mỗi người đều có những suy nghĩ riêng, nhưng em tin là không ai gạt ra được khỏi đầu hình ảnh hãi hùng ban chiều. “Vậy là còn nhiều người chết nữa bị chúng nó hành hạ rồi vứt xác đâu đó dưới thân tàu này mà bác không biết”, ông Trượt nói với em câu ấy khi dậy pha sữa đêm cho thằng Chín tháng. Gần về sáng em mới thiếp đi. Và trời chưa kịp sáng thì em tỉnh dậy trong tiếng hét gọi của ông Trượt.
- Nhanh, dậy nào, có tàu, có tàu...
Em vùng dậy và như kịch bản đã tập dượt sẵn, em chạy xuống dưới hầm tàu cầm lấy cây gậy có quấn một cục giẻ ở đầu, nhúng vào chậu xăng nhớt để bên cạnh, rồi hớt hải leo lên boong. Trời vẫn còn lờ mờ tối. ông Trượt đã đứng ở đó với một cây gậy y như của em nhưng đã được châm lửa. ông hua hua cây gậy lên như hua một ngọn đuốc, ông cầm ngọn đuốc đó châm lửa vào đầu gậy bọc giẻ của em. Giẻ tẩm xăng nhớt gặp lửa bùng cháy ngay tắp lự. Hai bác cháu giơ cao hai cây đuốc chạy dọc thân tàu, vừa vẫy vừa la hét. Đúng là có một chiếc tàu to đang chạy không xa chỗ em. Ánh sáng của nó phát ra trông như một ngôi nhà có đầy đủ đèn điện đang di động trên đại dương. Kinh nghiệm của ông Trượt đã có ích. Nhờ hai ngọn đuốc mà chiếc tàu lạ đã phát hiện ra hành động kêu cứu của em và ông. Nó từ từ tiến về phía con tàu gặp nạn. Ba sự sống khắc khoải là em, ông Trượt và thằng Chín tháng đã có cơ được cứu vớt. Đó là một chiếc tàu đánh cá của dân đi biển. Trường hợp như của em và ông Trượt không phải là lần đầu tiên họ gặp. Vì thế, sau khi được họ cứu rồi, khi gần về tới đất liền, ông Trượt đã xin họ đừng khai báo với chính quyền, họ không mảy may thắc mắc mà đồng ý ngay.
“Hóa ra mình chưa ra khỏi hải phận của nước mình được bao nhiêu cháu ạ”, ông Trượt bảo với em vậy. Rồi ông lắc đầu chán ngán: “Quá tam ba bận. Vậy mà vẫn không thoát được. Số bác đúng là đen như cứt chó. Đ. mẹ nó. Đời sao mà khốn nạn thế”. Cho đến lúc ấy, tức là chắc chắn hai bác cháu đã được cứu sống, em mới lần đầu tiên nghe thấy ông Trượt nói bậy.
Sau đúng bảy ngày trên biển, em lại trở về chính nơi em đã xuống tàu bỏ xứ ra đi cùng bố và mẹ.
Chỉ khác là lần này em trở về có một mình.
Ông Trượt về nhà em, ở lại cùng bà cháu em ba ngày bốn đêm. mấy ngày đó em sống được là nhờ thằng Chín tháng. Em muốn nằm xuống và không dậy nữa nhưng tiếng khóc của nó lại khiến em gượng dậy. Em muốn chết nhưng nhìn cái mặt nó mếu máo đòi sữa, em lại nghĩ mình phải sống. Em bế ẵm nó suốt ngày mà quên đi những hãi hùng như vẫn đang hiện hữu. Khi ông Trượt rời khỏi nhà em, em đã nói một câu ngây ngô: “Hay bác cho cháu thằng bé này để cháu nuôi?”, ông Trượt ôm lấy em, bảo: “Bác phải đưa nó về cho bố mẹ nó. Như thế này là bác có lỗi lắm rồi. Đừng làm khó cho bác. Để bác đưa trả nó về với bố mẹ nó”.
Buổi sáng hôm ấy, trong lúc em còn ngủ, ông Trượt đã ôm đứa cháu nội ra bến, bắt xe về thủ đô.
Trộm vía, thằng Chín tháng không hề đau ốm gì...
CHƯƠNG 9
Nếu Tân còn ở lại Liên Xô thì chắc chắn còn tham gia nhiều vụ “tự phá án, tự xét xử, tự hành hình” kiểu như anh ta đã làm với gã Agiecbaidan hay người đàn ông bí ẩn trên lòng hồ giữa khu rừng bạch dương kia nữa.
Tân rất khoái cảm với những hành động kiểu đó. Khi về nước, anh ta cũng tiến hành thực hiện cái gọi là thay trời hành đạo ở thành phố vốn nổi tiếng là nghịch tặc này. Nền tảng lý thuyết của nó có vẻ cũng thuận tai, hợp với tâm lý chính thắng tà, thiện thắng ác, nhân nào quả ấy của người Việt. Tuy nhiên Tân không áp dụng nguyên xi mô hình tổ chức “Thay trời hành đạo” ở Liên Xô vào nước mình mà sử dụng võ đường Tân Đạo làm nơi thực thi công lý theo tinh thần thi hành chính đạo một cách tự nguyện. Cái tên võ đường đã ngầm bày tỏ lý tưởng ấy của Tân.
Suốt một thời gian dài, Tân cùng các đệ tử của mình ở võ đường Tân Đạo đã tham gia vào nhiều cuộc “trả giá ngang bằng” mà không cần biết đối tượng trả giá là ai, ở băng nhóm nào, thành phần xã hội ra sao. Tất nhiên với những việc làm này, về tình thì Tân có thể đúng, nhưng về lý thì Tân đã lại gây ra những vụ án mới.
Và hệ quả tất yếu của nó là pháp luật đã sờ đến những đệ tử của Tân.
Công an không có lý gì để bắt Tân, vì các đệ tử của Tân khi thay trời hành đạo đều xuất phát từ động cơ “giữa đường thấy sự bất bằng mà tha” chứ không theo một mệnh lệnh của ai cả. Họ hành động theo sự mách bảo của tinh thần thượng võ, có thể vô tình vi phạm pháp luật chứ động cơ hoàn toàn không vì tư thù, tư lợi hay ân oán cá nhân, ông chủ võ đường thường dậy các đệ tử của mình về nguyên lý “trả giá ngang bằng” trong cuộc sống nói chung chứ không trực tiếp sai bảo họ làm việc gì cụ thể nhằm gây tổn hại cho người khác. Vì thế Tân luôn là đối tượng ngoại phạm mỗi khi đệ tử của mình sa lưới pháp luật. Và thứ lý thuyết ma giáo của Tân vẫn cứ đâm chồi nảy lộc trong tâm hồn hoang dại của những lứa võ sinh mới.
Hoàng “lợn” chính là một đại đệ tử của Tân. Anh ta làm khá tốt việc triển khai tinh thần của sư phụ thành hiện thực. Tuy nhiên, càng dấn sâu vào những hành động được gọi là thay trời hành đạo thì Hoàng càng trở nên vô đạo. Hoàng từng đi lính và đóng quân ở một tỉnh cực bắc. Khi ra quân, dưới đáy ba lô của Hoàng có một con dao quắm đút trong vỏ bao nứa của một người bạn đồng ngũ người Nùng tặng. Hoàng rất quý con dao này, đi đâu cũng mang theo. Ngay cả khi trở thành môn đệ của Tân, Hoàng cũng không rời nó. Hoàng thường gài nó trên dóng khung xe đạp. Sau này đi xe máy thì cho vào túi ba lô khoác ra sau lưng. Một lần Hoàng vô tình chứng kiến cảnh một người đàn ông chuyên nghề mổ lợn ở cuối chợ vì không nộp tiền bảo kê mà bị đàn em của Cộc ba tai vật ngửa ra, chặt đứt một ngón tay để cảnh cáo. Hoàng đã chủ trì công đạo, dùng võ quật ngã tên côn đồ kia rồi rút dao quắm ra "lấy lại" một ngón tay của hắn giữa thanh thiên bạch nhật, cả chợ chứng kiến hành động ấy, ai cũng lấy làm hả hê. Người đàn ông mổ lợn đã xin Hoàng được kết nghĩa anh em. Từ đó Hoàng có biệt danh là Hoàng “lợn”.
Hành động đó của Hoàng chả khác gì một lời tuyên chiến với băng của Cộc "ba tai". Biết là Cộc sẽ tìm cách trả thù Hoàng, Lân "sói" đã tìm mọi cách kéo Hoàng về liên thủ với mình. Hoàng nhiều lần trả lời Lân là không muốn tham gia giới giang hồ, mọi việc làm của Hoàng chỉ là chủ trì công đạo, thực thi lẽ công bằng ở đời mà thôi. Lân không hiểu sâu sa thứ lý thuyết mà Hoàng được truyền thụ từ sư phụ, chỉ biết rằng Hoàng muốn chơi trội, thích thể hiện chất người hùng. Đã thế thì Lân sẽ đánh chính vào yếu điểm đó để lôi kéo Hoàng về với mình.
Lân tìm hiểu dưới trướng của Cộc "ba tai" có một tên đệ tử rất hám gái là Hiếu cu. Lân tìm một em đẹp như cỡ Hồng sư sư, tên là Tuyết, biệt danh là Tuyết Tây Thi để nhử Hiếu vào tròng. Đúng lúc Hiếu đang say Tuyết như điếu đổ thì Lân cho người bắt Tuyết về, đưa vào tiếp khách ở một nhà hàng sang trọng bậc nhất thành phố. Sau đó lại sai người bí mật báo cho Hiếu biết. Hiếu nghĩ là Tuyết phản bội mình, hám lợi mà bỏ sang băng nhóm khác để làm ăn, bèn nổi điên, đến bắt Tuyết về, cắt gân chân của Tuyết rồi vứt ra bãi rác gần cổng cảng. Lân bố trí cho người theo sát toàn bộ vụ việc, đến khi Tuyết bị vất ra ngoài đường như một thứ bị rách thì liền dìu Tuyết về đặt trước cửa nhà Hoàng.
Y như rằng Hoàng dính kế của Lân. Sau khi nghe Tuyết kể lại sự tình, Hoàng cầm dao quắm đến gặp Hiếu, bổ liên tiếp vào gót và bắp chân tên này. “Mày cắt gân của người ta thì tao cũng cắt cả búi gân của mày”. Hoàng tuyên bố trước mặt Hiếu như vậy rồi mới bỏ đi. Kết cục là Hoàng phải chịu án 6 năm tù về tội cố ý gây thương tích. Trong tù Hoàng được toàn bộ đàn em của Lân chăm sóc hết sức chu đáo. Tuyết cũng thường xuyên đến thăm nom, tiếp tế và trước sau như một, chỉ muốn được trả ơn cho Hoàng bằng tấm thân “chả còn ra gì này” nếu Hoàng không chê.
Mãn hạn sớm, Hoàng chưa kịp trở về võ đường của Tân thì bị đàn em của Cộc "ba tai" đón đường truy sát. Lân "sói" phải cho người đến giải cứu và đưa về nhà Lân ở. Trước tấm thịnh tình của Lân, Hoàng đã cúi đầu phò chủ mới. Tân nhiều lần lấy tình sư đệ, lấy nghĩa đồng môn, lấy thuyết trả giá công bằng để kéo Hoàng trở về với võ đường nhưng không được. Hoàng nói với Tân rằng: "Tôi đã tôn thờ cái tư tưởng của anh, đã hành động như một thằng anh hùng nghĩa khí, nhưng đổi lại tôi được gì? Hơn bốn năm tù, vợ bỏ, con từ, mất nghề mất nghiệp, thêm thù bớt bạn, lại bị truy sát đến bước đường cùng. Tôi đã bước từ chính đạo sang tà đạo cũng là bởi anh. Bây giờ tôi đã thuộc về giang hồ rồi. Từ nay tôi sống bằng cơm giang hồ và chết dưới đao kiếm giang hồ. Tôi vái anh một vái, từ nay tôi với anh hết tình sư đệ, giải nghĩa đồng môn. Anh đi đường anh. Tôi đi đường tôi".
Sau khi Hoàng về dưới trướng Lân "sói" thì hàng loạt đệ tử khác của Tân cũng về đầu quân cho các băng nhóm, nhất là những đệ tử đã từng có tiền án tiền sự. Võ đường của Tân trở nên sa sút. Bản thân Tân cũng không sống nổi bằng nghề dạy võ, phải xin vào cảng làm bốc vác một thời gian rồi về phụ vợ mở quán bán bánh đa cua. Cái lý thuyết mà Tân tôn thờ không có đất đắc dụng. Nhưng Tân vẫn không thôi hoài nhớ về nó. Và đối tượng mà Tân phải ra tay tự xử lại chính là một đại đệ tử mà Tân từng hết sức yêu chiều...
Cuộc đời Tân đúng là cả một câu chuyện dài. Lúc đầu thị chỉ muốn biết vì sao Tân lại giết Hoàng "lợn". Nhưng thị nghe Tân tâm sự đến cả tuần mà vẫn chưa đi đến được cái kết đang trở thành tâm điểm chú ý của báo chí lúc bấy giờ. Trước đây thị cũng biết có một võ đường khá nổi tiếng và khá nhiều giang hồ cộm cán xuất thân từ đó mà ra. Tính "dao mổ" cũng vốn là đệ tử của võ đường Tân Đạo. Anh trai thị trước khi phạm tội giết người cũng từng là môn sinh ở đây. Trong băng nhóm của Tùng hê rô có tới cả chục tên ong ve từng bái sư ở võ đường này. Không ngờ ông chủ võ đường danh tiếng ấy lại có ngày sa cơ, trở thành người chịu ơn của thị.
Tân được điều trị một cách bí mật ở nhà hàng Sóng Biển của thị đến ngày thứ ba thì về nhà làm ma cho vợ. Đám tang của vợ Tân được ong ve của thị bảo vệ vòng trong vòng ngoài. Cũng có rất nhiều đệ tử của Tân đến viếng nhưng lúc này Tân không còn biết tin ai nữa nên không ra tiếp khách. Với danh nghĩa là thay mặt anh trai giúp sư phụ trong lúc tang gia bối rối, một tay thị lo liệu hết mọi việc. Sau đám tang thì hung thủ giết vợ Tân bị bắt. Tên này khai rằng, buổi tối Hoàng “lợn” bị giết, hắn và Lân “sói” đến quán cà phê Ánh Hồng và được nghe nói lại là trước đó Tân có đến tìm Hoàng. Lân cho rằng chính Tân giết Hoàng nên bảo: “Phải xử lý thằng Tân thôi”. Tên này lập tức đến nhà tìm Tân. Vợ Tân ra mở cửa, lập tức bị bắn một phát vào đầu, chết ngay tại chỗ. hắn bước qua người nạn nhân vào nhà tìm Tân nhưng không thấy Tân đâu. Con gái Tân sợ quá chui xuống gầm giường trốn. Hắn tìm quanh nhà, đập phá một hồi rồi bỏ đi.
Cả Tân và Lân đều có lệnh bắt và tạm giam ngay sau đó không lâu. Nhưng chỉ sau hai tháng thì Tân được thả. Không có bằng chứng nào cho thấy Tân đã ra tay giết Hoàng. Còn Lân thì khai rằng, khi đến quán cà phê Ánh Hồng, thấy quán vẫn hoạt động bình thường. Vì là người quen nên Lân đi lên gác hai, tự đẩy cửa vào phòng Hoàng. Khi cửa mở ra thì Lân thấy Hoàng đã chết rồi. Con dao quắm vứt bên cạnh xác Hoàng. Lân lật người Hoàng lên thấy có một vết bổ vào đầu và một vết cắt ở cổ. Máu lênh láng khắp phòng. Lân hô ầm lên, đám nhân viên mới hay, vội vàng chạy lên và đứa nào đứa ấy mặt mũi tái xanh tái xám. Lân hỏi chúng nó ai giết Hoàng? Tất cả đều ớ ra không biết trả lời thế nào. Lân hỏi: “Ai vừa mới vào đây gặp thằng Hoàng?”.
Đứa nhân viên gác cửa bảo:
- Có một người đội mũ sụp xuống mặt, nói là người quen, đã hẹn trước, muốn vào gặp anh Hoàng. Em bảo anh Hoàng trên nhà. Thế là người ấy bước vào.
Con bé nhân viên chạy bàn bảo:
- Có một chú nói là lên gặp anh Hoàng. Cháu thấy có vẻ như là người quen nên không hỏi gì thêm nữa. Chú ấy đi thẳng lên gác hai và xuống lúc nào cháu cũng không biết.
Thằng quản lý của Hoàng bảo:
- Em đang ngồi bia ở góc quán với mấy thằng bạn quen. Thấy có người đi vào, nói gì đấy với con bé chạy bàn này rồi đi thẳng lên gác hai. Em nghĩ là người quen của anh Hoàng nên cũng không để ý.
Đám nhân viên còn lại đều bảo: “Quán đông khách, đang mải phục vụ nên không để ý”.
Lân lại hỏi:
- Trong ba đứa chúng mày, đứa nào nhìn thấy người lạ rõ nhất?
Đứa nhân viên gác cửa bảo:
- Buổi tối em nhìn không rõ mặt. Chỉ thấy vóc người đầm đậm, giọng nói Ồm Ồm, có vẻ không còn trẻ, đi tay không. À, có điều này thì em nhớ. Người này răng vổ.
Con bé nhân viên chạy bàn bảo:
- Cháu không nhìn thấy rõ mặt vì trong nhà chỉ có ánh đèn màu, lại nhạc nhẽo ầm ĩ nên không nhớ được gì cả. Cháu chỉ thấy là ông ấy thâm thấp, đầm đậm nhưng đi rất nhanh. Đúng rồi, cháu cũng mang máng là hình như ông ấy răng vổ.
Thằng quản lý bảo:
- Em ngồi xa, nhìn không rõ, chỉ thấy đội cái mũ lưỡi trai sụp xuống mặt. Bạn anh Hoàng thường đội mũ che mặt như thế nên em cũng không để ý.
Lân bảo:
- Thâm thấp, đầm đậm, dáng đi nhanh nhẹn, đi tay không mà dám lên gặp thằng Hoàng thì chỉ có thằng Tân thôi.
Tên đồ đệ vừa chở Lân đến, hỏi:
- Anh định thế nào?
Lân bảo:
- Phải xử lý thằng Tân thôi.
Rồi Lân quay ra bảo thằng quản lý:
- Để nguyên thế này, báo cho công an đến. Họ hỏi gì thì cứ nói y như những gì chúng mày biết. Tao rút đây.
Lân về nhà. Còn tên đồ đệ chạy xe đến nhà Tân ra tay. Sát thủ bị bắt sau đó đúng một tuần.
Trong biên bản hỏi cung bị can, công an hỏi đi hỏi lại Lân và tên sát thủ rằng, hai người còn nói những gì với nhau nữa, khi chia tay ở cửa quán cà phê Ánh Hồng?
Lân khai:
- Tôi nói là, thôi anh về nhà đã, chú làm gì thì cẩn thận.
Tên sát thủ khai:
- Tôi hỏi anh Lân: Bây giờ anh đi đâu? Anh Lân bảo: Anh về đã, chú làm gì thì cẩn thận. Tôi bảo: Mình em đi cũng được. Anh Lân bảo: ừ, lấy xe của anh mà đi. Lưu ý trong cốp có đồ nóng đấy. Anh Lân gọi một nhân viên của quán Ánh Hồng chở về. Tôi đi xe đến nhà Lân. Trước khi gõ cửa, tôi mở cốp lấy súng giắt vào người.
Vậy là Lân đã không thể thoát tội. Chiếc xe mà tên sát thủ dùng để đi giết người là của Lân. Khẩu súng mà tên sát thủ dùng để bắn vợ Tân để ở trong cốp chiếc xe ấy. Cho dù Lân nhất định không nhận đã nói câu "ừ, lấy xe của anh mà đi. Lưu ý trong cốp có đô nóng đấy" thì cơ quan điều tra vẫn kết luận Lân đồng phạm giết người. Chưa kể tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng đã rành rành ra đấy, Lân không thể chối cãi.
Tin này khiến thị không giấu được vui mừng vì nó bỗng chốc thay đổi thế đứng chân trên giang hồ của thị. Cái thế liên thủ của Lân “sói” và Cộc “ba tai” tự dưng không đánh mà vỡ. Chỉ vài ngày trước đây thôi băng nhóm của Lân đang trên đà truy sát Tân, có thể đánh bừa sang lãnh địa của thị bất cứ lúc nào, thế mà bây giờ thoái đà, ong ve trở kiếm làm loạn, đàn em của thị muốn lấy số thằng nào là được thằng ấy. Nhưng cái chết của Hoàng "lợn" và những việc liên quan đến tên sát thủ số má đầy mình này vẫn là cái mớ bòng bong rối tung rối mù mà thị chưa cắt nghĩa được, cả Tân nữa. Tân quá khó hiểu đối với thị. Tân có một cuộc đời từng trải. Tân sống lâu, sống nhiều, đi Tây đi Tàu, hết làm nhà nước lại mở võ đường tư, giao thiệp đủ mọi giới, lại có học, có chủ thuyết, có võ nghệ, nửa giang hồ, nửa chính trị, người như Tân nếu làm ông trùm thì phải là ông trùm lớn. Vậy mà lại có lúc khốn cùng, giết bừa giết ẩu để đến nỗi gia đình tan nát, không bảo vệ được vợ, thân cũng không giữ nổi phải chạy dạt vào giang hồ nhờ đất sống. Ngay cả việc Tân được tha bổng cũng là điều khó hiểu đối với thị. Chả lẽ công an chịu bó tay trước việc Tân ra tay giết Hoàng “lợn”? Chả lẽ Tân chứng minh được mình ngoại phạm khi vụ án xảy ra? Chả lẽ Tân che giấu được tất cả những gì vào cái đêm vợ Tân bị giết?
- Chả có gì khó hiểu đâu Diệu ạ - Một lần Tân tâm sự với thị - Tôi có tìm hiểu luật và biết rằng nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra. Họ không chứng minh được thì mình vô tội.
Thị hỏi lại:
- Nhưng có tới ba người ở quán Ánh Hồng nhìn thấy anh vào đấy cơ mà?
Tân lại nói bằng cái giọng lạnh tanh:
- Nếu cứ nhìn bề ngoài của tôi hôm ấy thì khi đối chất, không ai có thể nhận ra tôi. Tôi đã từng ra tay hành sự bao nhiêu lần. Ngay đến cả cảnh sát Liên Xô cũ còn không lần ra được tôi, dại gì tôi mang cái mặt này đến quán Ánh Hồng giết thằng Hoàng?
- Vậy anh mang cái mặt nào đến?
- Rất đơn giản thôi, tôi chỉ lắp thêm cái răng giả vào, thế là thành một khuôn mặt khác. Trời lại tối như thế. Quán cà phê lại đèn mờ như thế. Thằng Hoàng lại nổi tiếng giỏi võ trong giới giang hồ như thế. Dân tình đi ngang qua quán Ánh Hồng còn sợ vãi đái, ai dám chui vào phòng nó mà giết?
- Vậy sao anh lại giết nó?
- À. Đó là cả một câu chuyện dài...
CHƯƠNG 10
Anh còn nhớ cái lần đầu tiên gặp em kể từ ngày em vượt biên bất thành phải quay trở về không?
Hôm đó em nhìn thấy anh trước tiên. Anh đi với Đinh. Hai người vào chợ Ga làm gì đấy, chẳng hiểu sao lại lạc xuống hàng hương của em. Em đã rất muốn tránh. Nhưng cái bàn thì quá thấp, không thể chui xuống mà lấp được. Cũng lại quá cao, chẳng thể nhảy qua mà lánh về phía cuối chợ được. Đúng lúc đó thì Đinh nhìn thấy em. Đinh kéo tay anh, chỉ về nơi em đứng. Em nhận ra anh sững người lại. Lúc đầu anh hơi ngơ ngác. Rồi anh cười. Đó là nụ cười của một chàng trai đúng nghĩa chứ không còn là cái nhếch mép gượng gạo của một cậu thiếu niên nữa. Anh đi như chạy đến bên em. “Diệu! Diệu làm gì ở đây?”. Anh hỏi rồi anh lúng túng trước câu hỏi của mình. Anh nhìn cái bàn bày đầy các loại hương to nhỏ cùng vàng mã của em như có vẻ gì đó áy náy lắm. Rồi anh lại đặt một câu hỏi khác. Hình như anh hỏi em ra đây bán hàng lâu chưa thì phải. May mà Đinh nhảy qua cái bàn, đứng cạnh em, cầm mấy bó hương lên hỏi tía lia: “Dạo này em ra đứng chợ à? Có bán được không? Mẹ anh cũng bán hương ở cuối chợ kia kìa. Anh tưởng em chỉ ở nhà bán giao?”.
Vâng, cứ nói chuyện như anh Đinh thế có phải dễ cho em hơn không! Trước Đinh em trở về đúng là em hơn. Chứ trước anh, em thấy hồn mình cứ như đang lạc đi đâu ấy. Em bảo nhà em bây giờ chỉ còn mỗi mình bà nội làm hương thôi. Em không học nữa nên ra đây bán hương cho bà. Đinh bảo, anh nghe chuyện buồn của nhà em rồi. Thôi, cố gắng quên đi mà sống em ạ. Bọn anh ra trường rồi. Em còn học thì năm nay là cuối cấp. Lớp 10 là cái năm cuối cùng của phổ thông. Vui lắm. Mà thôi. Ra chợ buôn bán cũng được. Đi học thì mơ mộng thế thôi, rồi ai cũng phải ra đời mà kiếm sống hết em ạ.
Trong lúc Đinh nói chuyện với em, anh chỉ đứng nhìn em với một bộ mặt không biết là vui hay buồn, cảm thông hay xót xa, bồi hồi hay chán nản, thương hại hay coi thường. Em không dám nhìn thẳng vào anh. Em chỉ dám nói chuyện với Đinh và cố tỏ ra bình thường trước anh. Trông anh chững chạc ra nhiều. Đã hơn một năm rồi em mới lại gặp anh. Anh mặc bộ đồng phục màu cỏ úa, vừa vặn chứ không lụng thụng như hồi học phổ thông, nên trông anh to lớn lên rất nhiều. Nét học trò vẫn còn phảng phất trên gương mặt anh. Em hỏi các anh ra trường rồi, giờ làm gì? Anh Đinh bảo bọn anh đang học bên huyện Nguyên Dương. Em hỏi học cái gì? Đinh bảo học ngành công an. Em ngỡ là Đinh đùa em. Một kẻ đã từng vượt biên như em nghe thấy hai từ “công an” là khiếp lắm. Nhưng hóa ra anh học công an thật. Đinh lại nhảy qua bàn, trở lại bên anh, bảo: “Tao qua chỗ bà già xin ít tiền. Mày đứng đây chờ tao nhé”.
Đinh đi rồi, em mới dám nhìn trực diện vào anh. Anh bảo bên công an thành phố vào trường tuyển những học sinh cuối cấp, anh và Đinh trúng tuyển, được vào học ở trường nghiệp vụ của sở đóng bên huyện Nguyên Dương. Em chưa một lần sang huyện đó. “Nó cách xa thành phố hơn ba mươi cây số nhưng phải ở tập trung, không được về nhà đâu”, anh bảo vậy. Anh và Đinh sẽ học ở đó mười hai tháng. Các anh vào được ba tháng rồi, hôm nay vừa thi xong môn bắn súng, được nghỉ ba ngày, tranh thủ về nhà xin tiền và đồ ăn lên trường. Nói đến chuyện đó anh có vẻ ngại, đưa tay lên gãi đầu. Anh bảo đói lắm. Mà tập vất vả lắm. Lúc nào cũng thấy thiếu ngủ. Ăn bao nhiêu cũng không thấy no. Rồi anh hỏi em sao không học tiếp. Em lắc đầu: “Em không còn tâm trí đâu mà học nữa. Với lại em còn phải giúp bà bán hương kiếm sống”. Thì một buổi đi chợ, một buổi đi học cũng được mà. Em bảo: “Em có học giỏi như anh đâu mà bỏ thì tiếc”.
- Sao Diệu lại nghĩ thế. Có học có hơn. Còn một năm nữa thôi, không lấy được cái bằng cấp ba thì phí lắm.
Anh vẫn không thôi thuyết phục em. Nhìn mặt anh lúc ấy chân thành lắm. Em bảo cái cặp sách của buổi học cuối cùng mà anh đưa em về vẫn còn. Bà em để trên gác bếp ấy. Mạng nhện giăng và bụi phủ dày. Anh bảo thế thì về tìm lại sách vở đi. Còn thiếu sách gì anh sẽ kiếm cho. Sách của anh giữ tốt lắm, vẫn còn nguyên từ năm lớp 8 đến giờ.
- Nhưng chắc gì nhà trường đã cho em học lại.
- Thày hiệu trưởng quý anh lắm. Để anh đến gặp thày xin cho em học lại. Học bạ chắc nhà trường vẫn giữ...
- Nhưng mà...?
- Còn "nhưng" gì nữa?
- Sao anh lại tốt với em vậy?
“Sao anh lại tốt với em vậy?”. Chả hiểu sao em lại buột miệng nói với anh câu đó. Anh đỏ mặt. Em cũng thấy hai má mình nóng ran lên. Lẽ nào anh có cảm tình với em? Hay là anh thương hại em? Anh đã biết gì về hoàn cảnh gia đình em chưa? Anh có biết em trở về đây nhưng với một tâm hồn méo mó và một cơ thể thiếu nữ bị tàn phá nặng nề? Còn em thì từ lâu đã tự giết chết cảm xúc của mình rồi. Em không cho phép mình được nghĩ đến anh. Đã tưởng em chẳng còn biết lúng túng trước anh nữa, vì anh thuộc về một thế giới khác, em không bao giờ với tới. Sao hôm nay gặp lại, vẫn có gì đó chao nghiêng trong sâu thẳm lòng em thế này?
Không biết mặt anh sẽ còn đỏ bao lâu nữa nếu Đinh không quay lại. Đinh hồ hởi khoe: “Được ba chục mày ạ. Đủ sống rồi. Phải ra chợ mới xin được, về nhà có người này người kia, phức tạp lắm”. Em biết nhà anh Đinh không khá giả gì. Mẹ và bố dượng anh ấy vốn “rổ rá cạp lại” nên họ có cả con anh, con em, con chúng ta. Anh Đinh là con riêng của mẹ nên thường được mẹ dúi cho tiền tiêu vặt. Lần này Đinh rủ anh ra chợ cũng chỉ với mục đích ấy thôi. Nhưng lại tạo nên một cuộc gặp gỡ khó xử như thế này. Một cuộc gặp mà em không hề nghĩ đến. Và anh, chắc cũng không nghĩ đến.
“Về đi!”. Đinh hất hàm nói với anh vậy. Anh gật đầu. Đinh giơ tay về phía em: “Anh về Diệu nhé!”. Rồi Đinh quay lưng bỏ đi về phía cổng chợ. Anh tiến sát lại bàn, nói nhỏ với em: “Tối mai anh qua nhà Diệu chơi nhé. Anh được về ba ngày. Có gì sáng mai anh qua nhà thầy hiệu trưởng thăm thầy. Anh sẽ xin cho em học lại. Mọi chuyện khác hãy quên đi Diệu ạ. Anh biết tất cả những gì xảy ra với em rồi. Coi nó như một cái nạn nhỏ. Anh đi đây. Thế nhé!”
Thế nhé. Cái lời hẹn ấy đủ làm run rẩy bất cứ một con tim thiếu nữ nào. Em cũng không là ngoại lệ. Và em chờ đợi.
Nhưng nỗi đợi chờ ấy chưa qua khỏi một ngày đã tuột khỏi em. Ngay buổi chiều hôm sau thôi, khi em còn đang cố thả lỏng người mỗi khi nghĩ đến hai từ “Thế nhé!” ngọt ngào, thảng hoặc của anh thì bà em hớt hơ hớt hải chạy ra chợ gọi em về. “Con ơi, con về ngay. Có người ở trại mang tin của anh con về”. Em vội vã dọn hàng để về cùng với bà. Bà cứ vừa đi vừa lấy tay áo chấm mắt. Sao bà lại khóc, có tin của anh con thì phải mừng chứ? Mừng cái tổ cha mày. Con ơi là con. Nó chết xanh cỏ trong trại rồi. Hu, hu... Bà ngồi sụp xuống ôm mặt khóc. Em chạy lại đỡ bà dậy. Bà đang khóc thảm thiết là thế, bỗng bà đứng thẳng dậy, đi phăm phăm về phía trước. Em chạy theo sau bà, nghe thấy bà lẩm bấm: “Bà không khóc, bà không khóc nữa, con khổ nhiều quá rồi. Bà phải cứng rắn để con khỏi buồn...”. Sau này em mới hiểu bà thương em mà phải nhịn khóc. Bà là chỗ dựa cho em sống, nếu bà không gượng đứng lên như thế thì em còn biết tựa vào ai mà đi bên lề cuộc đời này?
Anh em chết vì ốm ở trong trại. Tin đã báo về rồi nhưng chả hiểu sao không đến được gia đình. Người bạn ở cùng phòng giam với anh trai em ra trại sau khi anh ấy chết được hai tháng. “Nó biết anh sắp ra nên dặn anh là mang cái vòng này về cho em. Chắc nó biết là không sống được lâu nữa. Bệnh đường ruột mà ở trong trại là dễ đi lắm. Sức nó lại yếu...”.
Em nghe mà không biết là mình sẽ phải bày tỏ cảm xúc như thế nào? Anh trai em có chết thì cũng khác gì sự vắng mặt của anh ấy suốt mấy năm qua? Tính cách anh ấy không để lại ấn tượng gì đặc biệt trong em kể từ hồi anh ấy còn ở nhà. Bây giờ anh ấy không tồn tại trên cõi đời này nữa, thì em vẫn nghĩ rằng anh ấy đang thực hiện một chuyến đi xa thôi. Còn cái vòng. Vòng gì vậy? “Vòng i nốc. Nó tự làm đấy. ở trại chả có gì ngoài mấy bộ quần áo cũ, có mỗi cái vòng này là quý giá nhất. Cũng là quý ở cái tình cảm thôi. Đeo nó, em nhớ là mình từng có một người anh trai...”. Bạn tù của anh trai em vẫn cứ nói về cái tình cảm xa vời nào đó từng hiện hữu trong gia đình em. Em cầm lấy cái vòng, xỏ vào tay, muốn khóc mà không khóc được, bỗng thấy thương bà quá. Em phải là chỗ dựa cho bà chứ? Em phải cứng rắn lên chứ. Em phải quên đi mình là con gái chứ. Em phải hội tụ trong mình đầy đủ tính cách của bố, của mẹ, của anh trai em để có thể lo được cho bà lúc tuổi già chứ. Em quay ra bảo với người vừa đưa cho em chiếc vòng: “Cảm ơn anh, chuyện anh trai em sẽ kể sau, bây giờ mời anh dùng cơm với hai bà cháu em”.
Bà đã tranh thủ từ lúc nào, lục tìm tấm ảnh chứng minh thư của anh trai em lồng vào góc khung bày lên bàn thờ, rồi làm bát cơm quả trứng đặt lên đó. Khói hương ngan ngát từ đó bay ra. Trong lúc em ngồi nói chuyện, bà lúi húi làm cơm. Em biết bà cũng đang mải lắng nghe chuyện về đứa cháu đích tôn của bà nhưng không dám lại gần. Bà muốn giấu đi đôi mắt đỏ hoe. Anh bạn tù của anh trai em tên là Hưng, biệt hiệu là Hưng mã. Nhìn Hưng mà em cứ mường tượng ra đó là anh trai em. Đầu cắt bốc, nham nhở, khuôn mặt gày gò, xanh xao, ánh mắt cụp xuống nhiều hơn là ngước lên, đôi môi thâm, hàm răng trắng, dáng người dong dỏng, giọng nói hơi khàn. Có một điều chắc chắn là anh Hưng này nói nhiều hơn anh trai em. Còn tại sao lại là Hưng mã thì anh ấy giải thích ngay rằng toàn thân anh ấy được xăm trổ rất kỳ công, đẹp như hàng mã.
Trước khi vào trại Hưng cũng lê la bến xe bến tàu như anh trai em. Hưng đi trại lần này là tăng hai, án trộm cắp. Hưng bảo anh trai em vẫn thường khoe với anh em trong phòng về cô em gái xinh đẹp, bản thân Hưng cũng háo hức muốn gặp mặt, và khi gặp rồi thì còn thấy đẹp hơn trong tưởng tượng. Đúng là tuổi trăng rằm, cái mặt lúc nào cũng tươi, nụ cười lúc nào cũng hé, giọng nói lúc nào cũng thanh, dáng đi thì mềm, làn da thì trắng, mái tóc thì dày, cái eo thì nhỏ... Lúc đầu em cũng hơi ngạc nhiên về khả năng ăn nói của Hưng. Sau này em mới nhận ra rằng Hưng nói rất hay. Hay như một thứ nước đường mà bất kỳ ai cũng có thể uống. Hưng chỉ học hành vài lớp thôi. Nhưng lại nói năng rất văn hoa. Chính em cũng đã có lúc mê mẩn thứ văn hoa sáo rỗng ấy. Nhưng đó là chuyện sau này. Còn bây giờ, đài đã đọc xong chương trình Câu chuyện cảnh giác, em mới chợt nhớ ra là chưa hỏi xem nhà anh Hưng ở đâu?
- Anh không có nhà. Anh ở với ông chú từ khi còn bé. Sau lần đi trại đầu tiên về, ông ấy đã không nhận anh nữa. Cát bụi lại trở về với cát bụi thôi. Đời sinh ra anh thì đời sẽ nuôi anh. Hôm nay ngủ nhờ nhà em một đêm. Mai anh sẽ tìm lại đám bạn cũ. Chúng nó cũng đang mong anh về lắm...
Bà em nghe thấy thế vội đi sắp chỗ ngủ cho Hưng. Chắc bà đang tìm lại cảm giác được chăm sóc đứa cháu nội ngày nào. Ngồi trong nhà mãi, nóng nực quá, em và Hưng mang ghế ra ngoài cửa ngồi, vừa hóng gió vừa nói chuyện. Em không biết rằng nỗi đợi chờ của em đã vì thế mà tan biến nơi đầu ngõ. Em cũng giật mình chợt nhớ ra là anh hẹn đến nhà em vào tối nay. Thế mà gần mười giờ đêm rồi chả thấy anh đâu. Em ngồi ngoài cửa nói chuyện với Hưng mà cứ có ý ngóng anh. Hưng không hiểu điều đó, thỉnh thoảng thấy em không tập trung vào câu chuyện, anh ta lại hỏi: “Em buồn ngủ rồi à?”. Em cũng muốn đi ngủ lắm rồi. Nhưng em cố nán lại để chờ xem anh có đến không. Anh bảo anh được về có ba ngày thôi. Chiều mai anh lên trường rồi. Tối nay mà anh không đến thì chắc là anh sẽ không gặp em nữa. Hay là anh đến gặp thầy hiệu trưởng mà không xin được cho em nên anh ngại? Hay là anh chỉ nói cho vui vậy chứ em chả đáng để anh phải quan tâm? Hay là anh bận bịu công việc gì đấy ở nhà mà không thể đến được? Hay là anh ốm? Hay là anh ngại dây dưa với một con bé thuộc thành phần “có vấn đề” như nhà em?...
Hóa ra mọi suy đoán của em đều sai. Chính anh chàng Hưng “mã” chết tiệt kia đã cản bước chân anh bước vào nhà em. Anh đã cùng Đinh mang tin vui tới cho em, nhưng thấy có một thanh niên lạ trong nhà lại tưởng đối tượng nào đó đến tán tỉnh em. Anh bảo với Đinh: “Thôi đi ra đầu ngõ uống nước, tí nữa vào, Diệu đang tiếp khách”. Nhưng uống nước chán chê rồi, đến khi quay lại vẫn thấy em cùng thanh niên trẻ kia ngồi ngoài cửa như những đôi lứa đang tán tỉnh nhau. Anh Đinh cứ giục vào còn anh thì ngại ngần không muốn gặp em trước mặt người con trai kia. Sau này Đinh nói với em rằng, Đinh phát cáu với anh. Đinh bảo nếu không vào thì về. Anh lẳng lặng chở Đinh về. Sau đó anh đạp xe một mình quay trở lại ngõ nhà em. Đã muộn lắm rồi. Thế mà anh vẫn thấy em ngồi với người con trai lạ trước cửa nhà. Anh nghĩ rằng em đã chả coi cái tin vui mà anh mang đến ra gì cả. Em không chờ đợi sự có mặt của anh. Em đã thuộc về thế giới của chợ búa, của yêu đương lăng nhăng, của sự vào đời quá sớm chứ không còn thuộc về thế giới của sách vở, của học đường, của những khát vọng tuổi trẻ như anh. Anh cứ chần chừ ở đầu ngõ như thế rất lâu.
Rồi anh bỏ về.
Một tuần sau thì bà em nhận được giấy báo của trại giam. Họ thông báo cho gia đình biết anh trai em bị ốm chết, mời người nhà vào thăm phần mộ, nhận lại một số tư trang của “phạm nhân xấu số”. Đường xá xa xôi, lại nghe Hưng bảo tư trang của một thằng tù thì có gì đâu ngoài vài ba bộ quần áo cũ, thế là bà cháu em không ai vào. Bà bảo, nhà mình bây giờ đang túng quá, có bao nhiêu dồn cả cho bố mẹ mày đi rồi, thôi để nó nằm đấy vài năm, bà tích cóp được ít tiền rồi sẽ vào đưa cốt nó về quê cho nó nằm với các cụ nhà mình.
Em không có ý kiến gì. Nếu nghĩ đến cái gọi là nắm xương tàn của người thân thì em nghĩ nhiều đến hai nắm xương của bố mẹ em giữa biển cả bao la kia hơn. Mà em cũng không còn đầu óc đâu để nghĩ về bổn phận của người sống với người chết nữa anh ạ. Cuộc đời đã lại bắt em phải đối mặt với rất nhiều những điều phức tạp khác. Em dùng từ “phức tạp” là hơi kiểu cách. Phải nói là “khốn nạn” mới đúng. Và chẳng hiểu sao, cứ trước một sự cố của đời em, thì anh xuất hiện. Anh luôn là hiện thân của sự cứu vớt muộn mằn. Vì số phận em trớ trêu? Vì ông trời trêu ngươi? Hay vì kiếp này em không có duyên với anh? Em không biết. Em không lý giải được. Chỉ biết rằng một cái tát của số phận nữa đã lại giáng xuống người em.
Sau cái đêm chờ đợi anh một cách vô vọng ấy, em ra chợ bán hương, nhưng đó là buổi đi chợ lương thiện cuối cùng của em, để rồi sau đó em có tên là Hương "Ga".
Và anh chính là người đã âm thầm chứng kiến cái sự thay tên đổi hiệu, mở đầu cho một phần đời khác ấy của em.
Anh còn nhớ không?
CHƯƠNG 11
Cái lưỡi cũng như lửa, ấy là nơi đô hội của tội ác ở giữa các quan thể chúng ta, làm ô uế cả mình, đốt cháy cả đời người, chính mình nó đã bị lửa địa ngục đốt cháy (Gia cơ 3:6)
Cái gì? Ngươi vừa làm nhảm cái gì vậy?
Ta là nữ hoàng.
Ta đã dựng lên một đế chế.
Sao ngươi dám mang những lời lẽ ám chỉ ám tả đó ra nói trước mặt ta. Thế nào là lưỡi cũng như lửa? Thế nào là tội ác? Thế nào là địa ngục? Mà sao ta thấy những lời đó quen lắm. Ta đọc ở đâu đó rồi. Hãy nói đi, ta đọc ở đâu? Ta nhìn thấy ở đâu?
- Kinh Thánh. Đó là một câu trong kinh thánh. Mi nhớ ra chưa?
Ôi cha, cuốn luận văn của thằng Chín thángl Cuốn giấy khổ A4 đặc chữ là chữ có bìa vàng ép giấy bóng kính. Ta nhớ ra rồi. Những câu Kinh Thánh được viết bằng mực bút bi đỏ trên mỗi chương đoạn, như những phút ngừng nghỉ, chiêm nghiệm trong quá trình tìm kiếm chân lý học thuật dài dằng dặc của thằng bé. Mà sao ngươi lại nói đến lửa địa ngục? Chẳng lẽ ta chết rồi sao? Mà cái gì thế kia? Ngươi cho ta nhìn cái gì mà gớm ghiếc thế. Đoàn người nào vậy? Sao hình thù họ lạ lùng thế? Ánh mắt họ buồn thế? Đám đông ấy đi đâu mà thành một hàng dài thế u ám thế?
- Đám tang đấy. Mi hãy xem đi! Mi có nhận ra đó là đám tang của ai không?
Cha mẹ ơi! Đúng là đám ma. Một đám ma đang đi qua trước mặt ta. Đi đầu là một người đàn bà mặt mũi nhăn nheo, đầu tóc bạc phơ, bước những bước chậm chạp. Sao giống bà nội ta thế? Dáng đi mệt mỏi nhưng không thiểu não, khuôn mặt đăm chiêu, buồn bã nhưng không oán giận, cái lưng hơi gập xuống nhưng không khuất phục sức nặng thời gian. Bà mặc một bồ đồ màu nâu, tay bà lần tràng hạt. Rõ là bà đi người không nhưng cứ có cảm giác như bà đang vác một vật gì đó vô hình rất nặng trên lưng. Đi sau bà là một đoàn thanh niên mặc comlê đen, đi giày da đen, đội mũ phớt đen, đeo kính đen, mỗi đứa vác một cây phướn hai màu đen trắng. Tiếp theo đó là một cái xe tang bốn mái cong, đỉnh mái gắn lưỡng long chầu nguyệt, mép mái lượn những hoa văn rồng phượng. Chiếc xe chạy trên bốn bánh cao su đặc, không người kéo, lăn chầm chậm về phía trước. Trong xe có một chiếc quan tài màu đỏ, tứ mặt vẽ những cánh sen hồng cách điệu, nắp thiên gắn một miếng kính bằng hai bàn tay. Ta nhìn qua tẩm kính ấy và thấy một khuôn mặt rất quen. Đó là một phụ nữ ngoài bốn mươi tuổi, tóc cắt ngắn, mắt nhám như ngủ, mặt thoa một lớp phấn hồng. Bỗng ta rùng mình. Cái khuôn mặt này từng theo ta suốt bao nhiêu năm qua. Những đường nét kia đâu có lạ lẫm gì với ta. Tạo hóa từng vẽ lên khuôn mặt này đủ các dáng hình, đường nét ái, ố, hỉ, nộ. Cái miệng kia nói những gì, gào thét ra sao, khóc lóc, van xin, chửi rủa hay ra lệnh, thậm chí khoái ăn món nào, nôn oẹ bao nhiêu lần, ta đều biết cả. Đôi mắt kia nhìn vào những đâu, bao nhiêu lần nước mắt đầy rồi lại vơi, bao nhiêu lần hai bờ mi kia khép vào rồi lại mở ra, khi vui vẻ hay hờn giận, khi tức tối hay buồn bã, từ đó hắt ra những tia nhìn như thế nào, ta đâu có lạ. Mái tóc dày thường phủ lòa xòa trên vầng trán kia nữa. Nó được bao nhiêu bàn tay sờ lên, ve vuốt, dày vò, đánh đập, day nghiến, ta nhớ mồn một. Rồi cái mũi không cao không thấp đang nằm im lìm trên khuôn mặt bất động kia nữa. Nó từng hưởng bao nhiều thứ mùi trên thế gian, từ thơm tho, dục tính đến xú uế, sát khí, ta quen lắm lắm. Vậy đó là khuôn mặt của ai? của ta ư? Không thể nào như thế được. Ta là nữ hoàng. Không ai có thể giết được ta. Ta không nghĩ mình bất tử nhưng ít ra thì ta cũng phải được chuẩn bị cho cái gọi là sự chết. Ta chưa chuẩn bị cho cái chết của ta. Ta chưa hề nghĩ đến một đám tang dành cho ta. Vậy thì hỡi người nằm trong quan tài kia, người là ai mà sao mang một khuôn mặt thân quen đến vạy?
Phía sau chiếc xe tang là hàng trăm ô tô, xe máy nối đuôi nhau chạy chầm chậm trên đường phố. Vô vàn những hình người câm lặng, những khuôn mặt lầm lỳ, những ánh mắt vô hồn, gói trong những bộ đồ đen đến nhức mắt đang trôi đi. Trôi đi đâu? Sao không có âm thanh mà chỉ là những hình ảnh lướt qua ta thế này? Người đông thế mà sao ta chỉ nhận ra mỗi bà nội? Hay đây là một giấc chiêm bao báo mộng cho ta biết là bà đã đi về thế giới bên kia? Có lẽ thế chăng? Nhưng ta mới gọi điện về cho bà. Bà còn khoẻ. Tiếng cười của bà còn vang trong máy cơ mà?
Đoàn người vẫn tiếp tục trôi đi trong câm lặng. A, ta lại nhận ra một người quen nữa. Đinh. Đúng là Đinh rồi. Đinh cũng mặc một bộ đồ màu đen, đen từ chân lên tới đầu, ngồi trên chiếc xe ô tô đen, bám ngay sau chiếc xe tang. Đinh kéo một bên cửa kính xuống, thỉnh thoảng rít một hơi thuốc và thở khói qua cánh cửa ấy. Đoàn xe và người còn kéo dài tới cạn tàm nhìn của ta. Nhưng sao im lặng thế. Đất trời cũng nặng một màu chì thế? Mà bà đang dẫn đoàn xe tang đi đâu? Tay bà lần tràng hạt, chân bà ì ạch bước, trông bà như một vị thánh tuẫn nạn, đang vác trên người cây thánh giá nặng ngàn tấn đi về phía nước trời vậy.
Nào, ngươi nói đi, bóng trăng kia?
Ta là ai? Sao ngươi bảo giúp ta nhận diện ra bản thân mà ngươi cứ im lặng? cả cái đám tang câm chết tiệt kia nữa. Sao nó lại diễu qua mắt ta thế? Ngươi muốn nói điều gì với ta? Ngươi muốn ta nhận diện ra điều gì hệ trọng qua đám tang này? Nói đi, bóng trăng kia, ta xin ngươi đấy. Ta là ai?
- Mi không thể nhận ra được ngay một lúc mi là ai đâu. Mi phải có quá trình thanh lọc tâm hồn thì mới nhận ra được bản thân mình.
- Quá trình ấy sẽ diễn ra như thế nào?
- Hãy lần lượt trả lời những câu hỏi của ta. Đó là cách duy nhất để mi nhận diện lại được mình. Mi hiểu không?
- Được rồi, ngươi hỏi đi. Ta thề với ngươi là ta chưa bao giờ bị bắt bí như thế này. Nếu ta vùng được dậy, ta sẽ giết ngươi đấy bóng trăng ạ.
- Nào, mi hãy nói thật nhé. Mi giết bao nhiêu người rồi?
ô hô, làm sao ta nhớ được. Có quá nhiều người ta biết, ta quen, ta chơi, ta kết bạn, ta thờ phụng, ta thu nạp, ta thù oán, ta ơn nghĩa... đã từng chết. Có cái chết liên quan đến ta. Có những cái chết không liên quan đến ta. Có những cái chết ta cũng không hiểu vì sao mà chết. Có những lúc tay ta vấy máu mà ta cũng không hiểu vì sao vấy máu. Ngươi dồn ta vào chỗ bí này làm gì? Sao ngươi lại quan tâm đến những cái chết?
- Mi không muốn trả lời à? Sao mi có vẻ khổ sở thế? Có phải các linh hồn bị mi giết đang trở về quanh mi để đòi nợ máu không? Nào, mi nhớ ra chưa? Người đầu tiên mi ra tay giết hại là ai?
- Ta không nhớ.
- Có cần nhắc lại cho mi nhớ không? Hồng sư sư. Người có nghe thấy cái tên này bao giờ không?
- Ta không giết Hồng sư sư.
- Mi sợ à? Tưởng mi không biết sợ là gì chứ? Mi vốn bản lĩnh lắm kia mà. Giang hồ có câu: Không muốn người ta biết thì không làm. Giết thì nhận giết, sao lại chối?
- Người đừng ép ta nhận điều ta không làm. Ta biết là nhiều người nghĩ ta giết Hồng sư sư. Ta không thanh minh, ta im lặng, chẳng qua là «ngậm miệng ăn tíên» thôi. Tiếng đồn đó chỉ làm ta lên số trong mắt những đối thủ của ta. Ngươi không hiểu điều ấy sao mà cứ ép ta phải nói ra?
-Vậy sự thật là thế nào?
- Hồng sư sư rời khỏi Ngã ba sông, lang bạt lên Hà Nội kiếm sống. Vài năm sau thì tàn tạ, dạt vào mấy bãi Sầm Sơn, cửa Lò đứng đường kiếm khách, cuối cùng mắc sida mà chết trong bệnh viện. Còn cái xác ta đem trả cho Lân sói chỉ là một xác vô thừa nhận bị chết đuối dưới sông. Sự thật là như thế. Ta không giết Hồng sư sư.
Sao? Sao ngươi lại im lặng thế hả bóng trăng? Ngươi ngạc nhiên vì đã bóc tách được một sự thật vốn vùi dưới quá nhiều lớp tin đồn không xác thực? Hay ngươi thương xót cho cái xác trôi sông kia không có tên gọi khi chôn vùi dưới lòng đất? Ngươi yên tâm đi. Linh hồn của người đó đã siêu thoát rồi, không đến nỗi phải bơ vơ, không tìm ra nơi trú ngụ đâu. Bằng chứng là đã rất nhiều năm ta không một lần nhớ đến người đó. Ta không bị linh hồn của người đó tìm về quẩy nhiễu. Nào, ngươi đã thoả mãn chưa? Ta đã nói rồi, ta không giết người. Ta không giết Hồng sư sư.
Ngươi chạy đi đâu rồi? Sao ngươi cứ thoát ẩn thoát hiện thế. Ngươi phải ở đây để trả lời cho ta biết ta là ai chứ? Mà sao cái đám tang kia lại diễu qua trước mặt ta thế nhỉ? Ta tưởng nó đã đi xa lắm rồi. Ta thấy buồn quá bóng trăng ơi. Nhất là khi nhìn vào khuôn mặt đang nằm trong chiếc quan tài màu đỏ tươi kia. Quen lắm! Cứ như nhìn vào bóng đêm vậy. Bóng đêm bí ấn, mờ nhòa, kín bưng, thăm thẳm... Ta không muốn nhìn vào cái quan tài đó. Ta cũng không muốn nhìn thấy bà nội. Bà cứ bước mãi những bước mệt mỏi, lê lết ấy làm gì? Bà cứ vác một nỗi nhọc nhằn vô hình nào đó trên lưng mà đi về phía trước làm gì? Bà hãy dừng lại đi, hãy gục xuống đi, hãy nằm lên chuỗi tràng hạt kia mà ngủ một giấc thiên thu đi. Bà già lắm rồi. Con bà, cháu bà đều đã chết cả rồi. Sao bà cứ sống dai dẳng thế? Bà nuối tiếc gì cái cõi đời này? Bà lưu luyến gì cái kiếp cô đơn, bạc bẽo này?
Còn Đinh? Sao Đinh lại đi sau chiếc xe tang khó hiểu kia? Người nằm trong quan tài là thế nào với Đinh? Mà ta có nhìn nhầm không? cả con Mỹ nữa kìa. Đúng là con Mỹ "chột" rồi. Nó đang ngồi trên một chiếc xích lô, bên cạnh nó là cái làn nhựa. Nó cứ liên tay bốc vàng trong chiếc làn đó thả xuống đường. Mày đi đưa ma ai thế hả Mỹ? Mày có biết ta đang khốn khổ thế nào khi bị giam cầm trong cái cõi hư ảo này không? Mà sao nhân tình thế thái cứ đi qua ta mãi thế này. Hãy kết thúc đi! Cái đám tang đen sì, dài dặc, ảo não và câm lặng kia cũng kết thúc đi. Hãy để ta vùng đứng dậy một lần cho ta biết ta là ai chứ đừng hành hạ ta bằng những hình ảnh khủng khiếp này. Bóng trăng! Bóng trăng đâu? Sao ngươi dối lừa, phản trắc thế? Ngươi hứa sẽ nói cho ta biết ta là ai kia mà?
- Nhưng mi đã thanh lọc xong tâm hồn của mi đâu? Cõi lòng mi hắc ám thế, không tẩy rửa đi thì không thể nhận ra nổi mình đâu?
A, ngươi trở về rồi à? Ngươi bảo ta phải làm gì để nhận ra ta? Ngươi ở đây với ta nhé. Ngươi ở đây để ta có người trò chuyện. Ngươi ở đây thì đám tang kia mới chịu biến mất. Ta sợ đám tang đó. Ta sợ mỗi khi phải nhìn vào khuôn mặt đang nằm trong quan tài kia. Ta sợ...
- Mi sợ rồi à? Vậy khi giết người mi có sợ không?
- Ta đã nói rồi. Ta không giết Hồng sư sư.
- Được rồi. Cứ cho là ta tin mi đi. Nhưng còn Lẩm "sáu ngón" thì sao? Tại sao mi lại ra tay tàn độc như vậy?
Ngươi đáng sợ thật đấy bóng trăng ạ. Có vẻ như ngươi biết quá nhiều chuyện của ta. Nhưng ta cũng nói cho ngươi biết rằng ta không giết Lẩm. Vì giới giang hồ đồn thổi về ta quá lời xung quanh vụ trả xác Hồng sư sư cho Lân sói. Cho nên ông Trùm mới nghĩ ta là kẻ chuyên dùng axít để xử người. Và ông Trùm đã nhờ ta ra tay với Lẩm «sáu ngón». Nhưng ta chỉ cùng Châu điên đến gặp Lẩm để dàn xếp thôi. Lẩm không chịu chiều theo ý của Ông Trùm, lại rút súng ra định bắn Châu nên Châu mới tạt axít. Hai hôm sau thì ta được tin Lẩm chết trong viện. Đấy, Đơn giản vậy thôi. Ta không giết Lẩm.
- Mi nói dối. Châu điên làm sao đủ bản lĩnh ấy. Với lại Châu điên đã chết ngay sau đó. Mi muốn chối tội nên đổ cho Châu phải không? Đến giờ phút này mi còn không chịu nói thật ư? Vậy thì đến bao giờ mi mới thanh tẩy được tâm hồn để biết mình là ai?
- Đúng là Châu điên chết ngay sau đó.
- Chết ở đâu?
- Không phải chết ở thành phố Lớn mà chết ở bên đất Campuchia.
- Rồi sao nữa?
- Thì còn sao nữa, Châu chết rồi, chỉ còn ta gánh chịu vụ giết Lẩm. Tất cả đều bảo ta dùng axit tạt chết Lam.
- Tất cả. Chẳng lẽ tất cả đã nói sai ư?
- Có mặt lúc ấy chỉ có ba người, hai người đã chết, còn lại một người là ta, giang hồ muốn nói thế nào chả được, đổ lên đầu ta điều gì chả xong. Ta cũng không thanh minh. Ta im lặng. Ta ngậm miệng để lấy le với ông Trùm, lấy tiếng nch đất mới, lấy uy danh với thế giới ngầm thành phố Lớn, nơi ta muốn chiếm làm lãnh địa riêng của mình. Vậy thôi. Ai sai ai đúng, ta không biết. Chỉ biết là ta không giết Lam.
Bóng trăng, sao ngươi lại im lặng? Ngươi có tin điều ta nói không? Ngươi hồ nghi ư? Hay ngươi lại bóc tách ra được một sự thật nào nữa từ ta? Cái lưỡi cũng như lửa, ấy là nơi đô hội của tội ác ở giữa các quan thể chúng ta, làm ô uế cả mình, đốt cháy cả đời người, chính mình nó đã bị lửa địa ngục đốt cháy (Gia cơ 3:6). Sao ngươi cứ nhác lại mãi câu Kinh Thánh ấy. Ta không hiểu. Có lần ta đã hỏi thằng Chín tháng về những câu ấy nhưng nó cũng không giải thích được. Nó bảo ta muốn hiểu phải đến nhà thờ nghe Cha giảng. Mà nghe Cha giảng rồi cũng vẫn chưa chắc đã hiểu. Vậy thì ghi lại làm gì? Nó bảo thấy hay hay, chỉ là hay hay thôi, nên ghi lại để ngẫm. Mà ngẫm thì chưa biết đến khi nào mới ngộ ra được. Bây giờ ngươi nhắc lại những lời ấy làm gì?
Hay ngươi cũng đang ngẫm?
CHƯƠNG 12
Vì sao Tân giết Hoàng?
Đúng là cả một câu chuyện dài thật. Thị biết là ân oán giang hồ đôi khi như một mớ bòng bong nhưng không ngờ còn có những khúc ngoắt khó lường đến thế. Tân bảo với thị rằng, vì một thằng bé mà Tân phải ra tay với Hoàng. Thằng bé đó là đồng môn với Hoàng, tuy nhiên khi nó vào nhập môn thì Hoàng đã xuất môn rồi. Nói theo phim chưởng của Tàu thì Tân đã vì tiểu đệ tử mà ra tay lấy mạng đại đệ tử của mình.
- Nhưng Hoàng đã làm gì thằng bé để đến mức anh phải ra tay? - Thị thắc mắc.
vẫn theo thói quen thông thường, mắt nhìn vô định vào bức tường trước mặt, Tân vừa ngồi rít thuốc vừa kể cho thị nghe bằng thứ giọng lạnh tanh muôn thủa.
...Thằng bé ấy tên là Đạo. Nhà chỉ có một mẹ một con. Bố nó chết ở bên Camphuchia. Mẹ nó làm công nhân ở cảng. Khi nó đến võ đường xin học thì Tân Đạo đã đi vào giai đoạn kiệt quệ cả về danh tiếng lẫn thực lực. Nhưng Tân vẫn miễn một nửa học phí cho nó vì nó là con liệt sĩ. Thằng bé mười lăm tuổi, dáng dấp gày gò, thể tạng yếu ớt. Được cái mắt sáng, có tinh thần thượng võ, lại hiếu học và có ý chí hơn người. Lúc đầu nó học cũng chệch choạc. Kiểm tra kyu 10 và kyu 9 nó rất mờ nhạt. Tân biết nó vất vả hơn chúng bạn vì ngoài đi học ra còn phải giúp mẹ bán ốc luộc và ngô nướng ngoài cổng cảng vào buổi tối. Thiếu ngủ, thiếu ăn, thiếu sự chăm sóc của gia đình, nó dặt dẹo như một dẻ khoai. Đôi lúc Tân nghĩ chưa chắc nó đã theo học được đến tháng thứ sáu. Nhưng kiểm tra từ kyu 8 đến kyu 5 Tân nhận thấy nó ngày càng tiến bộ. Cùng với việc lấy đai xanh và đai nâu cơ thể nó cũng trưởng thành hơn, bộc lộ rõ tố chất võ thuật hơn. Nó thuộc lứa võ sinh cuối cùng của võ đường Tân Đạo. Tân giúp nó lấy được cái nhất đẳng huyền đai và đoạt giải nhất karate U 18 của thành phố xong thì chính thức đóng cửa võ đường. Tân giới thiệu nó sang học tiếp bên Cung văn hóa thể thao của Thành phố. Thày trò đành phải chia tay nhau. Tân ra vỉa hè bán hàng ăn cùng vợ thì nó vào đại học. Thỉnh thoảng thằng bé vẫn đến thăm Tân. Nó thường nhắc đến một mơ ước ấp ủ từ lâu, đó là một ngày kia sẽ giúp Tân mở lại võ đường. Tân yêu thằng bé như con trai mình. Nó là niềm tự hào của Tân, là biểu tượng thượng võ của một võ đường đã suy tàn.
Với việc các đệ tử của mình liên tục dính đến tiền án, tiền sự thì Tân cũng không tránh khỏi phiền phức. Hết chính quyền đe dọa rút phép lại đến các băng nhóm tìm cách gây sự. Có cả đơn kiện lên Phân đường trưởng và Hiệp hội karate toàn quốc. Tân lại là người không giỏi làm kinh tế. Những tháng cuối cùng trước khi võ đường vỡ, Tân không còn đồng nào để trả tiền thuê mặt bằng. Võ thuật chân chính cũng giống như nghệ thuật vậy. Nó không tự sống được nếu không gắn lấy thương mại hoặc tài trợ, dù là dưới hình thức nào. Tân đành phải ngậm ngùi chia tay với cái nghiệp võ dang dở của mình. Thằng Đạo là niềm an ủi cuối cùng cho cái nghề dạy võ của Tân. ít ra thì bạn bè trong giới cũng không đánh giá thấp chất lượng chuyên môn của võ đường Tân Đạo. ít ra thì đệ tử của Tân, ngoài những đứa lưu manh côn đồ, không nhập băng này thì cũng nhóm kia, không vào tù ra tội thì cũng tung hoành đâm chém..., còn có những đứa giỏi giang, lương thiện và đạt được thành tựu võ thuật như Đạo. Thằng bé còm nhom yếu ớt ngày nào giờ đã trở thành sinh viên thể thao năm thứ ba. Cơ thể nó phổng phao hẳn lên, bầu máu nóng trai trẻ chảy căng tràn trong huyết quản nó. Có cảm giác như nghe được trong tâm hồn nó lúc nào cũng rào rạt những thanh âm yêu đời, yêu người. Một tương lai sáng sủa đang chờ đợi nó. Cánh cửa cuộc đời đang rộng mở trước những bước đi thanh tân của nó. Một chàng trai đáng yêu như thế, một tài năng võ thuật trẻ như thế, một thằng bé trong sáng và thánh thiện như thế, có lý nào lại bị đời xử oan nghiệt thế?
Đợt nghỉ hè vừa rồi, Đạo hào hứng mang đến khoe với Tân một tiểu luận về Karate cho lần thi lên ngũ đẳng huyền đai sắp tới. Tân giữ nó ở lại ăn cơm tối nhưng nó bảo phải đi gặp một người bạn có chút việc riêng. Người bạn này có một cô bạn gái đang phục vụ trong quán cà phê Ánh Hồng. Theo như người bạn nó nói thì cô gái chỉ muốn đi làm thêm để kiếm tiền phụ giúp gia đình thôi. Nhưng sa chân lỡ bước vào đó rồi, không ra được nữa. Ánh Hồng là một quán mại dâm trá hình, cô gái bị ép tiếp khách và không sao thoát khỏi đám bảo kê lúc nào cũng túc trực quanh đó. Thế là dòng máu anh hùng trượng nghĩa của thằng bé nổi lên. Người học võ đâu đang tâm nhìn cảnh chèn ép bất công như thế. Hơn nữa đây lại là một cô gái bị bắt vào chốn lầu xanh. Giải nhất karate trẻ thành phố để làm gì? Tứ đẳng huyền đai với ngũ đẳng huyền đai cũng để làm gì, nếu không ra tay cứu giúp người thân cô thế cô đang rên xiết trong nhà thổ kia? Có cái gì đó chảy rần rật trong cơ thể Đạo. Không nghĩ ngợi nhiều nữa, Đạo bảo người bạn đưa đến quán Ánh Hồng. Và...
- Và vụ cướp gái xảy ra. Sau đó là cuộc loạn đả nổi tiếng cả giới giang hồ thành phố. Quán Ánh Hồng phải đóng cửa mất mấy tháng vì vụ cướp gái này. Tôi cứ nghĩ đó là trò quấy của Cộc "ba tai" muốn nhằm vào Lân "sói". Hóa ra...
Nghe thị nói vậy, Tân gật đầu xác nhận:
- Ai cũng nghĩ đó là một vụ cướp gái của dân giang hồ. Cuộc ấu đả đó khiến công an "sờ" đến quán Ánh Hồng làm thằng Hoàng mất ăn mất ngủ. Nó phải chạy chọt, xin xỏ mãi mới yên. Yên rồi thì nó tìm thằng Đạo để ra tay. Nhưng không ngờ nó lại ra tay tàn ác thế...
Thị nhớ rồi. Vụ này báo chí cũng từng rộ lên một hồi. Tùng "hê rô" còn bảo: "Thằng này chết phí quá". Đám tang của nó khiến cả thành phố rơi nước mắt. Mẹ nó một tay ôm ảnh chồng liệt sĩ, một tay ôm ảnh con đi trước quan tài. Trước sự chứng kiến của bao nhiêu phóng viên báo chí, người phụ nữ ấy cứ ngất lên ngất xuống. Dân tình được một phen xôn xao, ai cũng cho rằng cái chết của Đạo là do đám xã hội đen trả thù. Các báo liên tục giật tít: "Cái ác hoành hành đến bao giờ?", "Giang hồ Ngã ba sông lộng hành", "Chính quyền lép vế hay lòng tốt bị phỉ báng?", "Cái chết của một chàng trai trẻ hay sự lên ngôi của cái ác?"... Đám tang ấy gây áp lực lớn cho chính quyền. Thị nghĩ rằng nhất định công an sẽ dốc toàn lực làm cho ra vụ này. Trước sau gì họ cũng sẽ bắt được hung thủ. Vấn đề chỉ là thời gian thôi. Bây giờ qua Tân, thị mới hiểu cặn kẽ mọi điều.
Tân quả đáng sợ thật. Anh ta không phải là một nhân vật tầm thường. Anh ta như con ma xó của giới giang hồ thành phố này. Cũng may là Tân không có thù oán gì với băng nhóm của thị. Nếu phải đương đầu với một đối thủ như Tân, chả phải thị mà đến Tùng "hê rô" cũng ngán...
- Đó là buổi tối cuối cùng trước khi thằng bé trở lại trường sau kỳ nghỉ hè. Nó đạp xe ra cổng cảng để chở mẹ nó về. Thằng Hoàng đã chuẩn bị rất kỹ cho lần ra tay ấy. Nó biết rằng dùng một hạ một với người có võ tới tứ đẳng huyền đai như thằng Đạo thì không dễ chút nào. Còn lấy đông mà quây thì có giết được người cũng sẽ lộ tung tích, công an họ lần ra hết. Thế cho nên thằng Hoàng chọn cách mà thằng Đạo không ngờ nhất, để giết.
- Hồi ấy báo chí nói rằng có một người đàn ông ngồi ăn ngô nướng ở quán của mẹ thằng Đạo. Và chính người này đã giết thằng bé?
- Đúng vậy. Khi mẹ nó dọn hàng thì người đàn ông này ra ngồi lên chiếc xe máy ở rìa đường để ăn tiếp. Dọn hàng xong, mẹ nó ôm cái thúng đựng đầy những thứ linh tinh ra ngồi lên xe đạp để con trai đèo về. Khi xe đạp đi ngang qua chỗ người đàn ông kia thì người ấy gọi giật mẹ nó lại, bảo là chưa trả tiền thừa. Thằng Đạo vội loạng choạng dừng xe. Đúng lúc ấy người đàn ông rút thanh kiếm gài sẵn bên yên xe ra, bổ thẳng xuống đầu thằng Đạo. Thằng bé ngã xuống đất. Sát thủ còn bổ tiếp vài nhát nữa vào người nó rồi mới bỏ đi. Mẹ thằng Đạo cũng ngã theo chiều đổ của chiếc xe đạp. Đến khi bà ta lồm cồm bò được dậy thì tên sát thủ đã lên xe máy rú ga lao đi rồi. Mọi việc xảy ra quá nhanh, mẹ nó cũng không kịp nhận biết điều gì đã xảy ra. Đến khi ôm cái xác đầy máu me trên tay thì bà ta mới biết là thằng con trai mình bị lấy số rồi.
- Đấy là lý do anh đến quán Ánh Hồng để đòi thằng Hoàng phải "giết người đền mạng"?
- Đúng.
- Nhưng sao anh biết sát thủ là Hoàng "lợn"?
- Thì tôi đi điều tra. Nếu xét quan hệ trước đó của thằng Đạo thì nó chỉ có mâu thuẫn với quán Ánh Hồng. Nếu xét tính chất ra đòn thì hung khí là một loại dao dài hoặc kiếm. Vết thương ở đầu và vết rạch ở cổ làm tôi nghĩ ngay đến con dao quắm của thằng Hoàng. Nhân chứng duy nhất chứng kiến sự việc là mẹ thằng Đạo. Nhưng cái chết của thằng con đã làm bà ấy bị chấn động mạnh, gần như ngơ ngẩn, không còn nhớ được điều gì nữa.
- Thế thì ai dám chắc là thằng Hoàng đã ra tay?
- Công an.
- ô, tôi tưởng là anh chứ?
- Không, tôi chỉ ra tay nhanh hơn họ thôi.
- Anh được đọc hồ sơ điều tra của công an à?
- Không. Tôi biết là cán bộ điều tra sẽ bám lấy nhân chứng cuối cùng. Đó là chìa khóa của vụ án. Tôi cũng bám lấy. Và sau vài tháng thì mẹ thằng Đạo hồi phục dần. Chính tại nhà bà ta, tôi đã gặp Nhân.
- Cái gì? Anh nói sao? Gặp Nhân? Có phải Nhân hình sự của thành phố?
- Phải. Anh ta đã chờ nhân chứng thoát khỏi cơn sốc mất con để đưa ra hai tấm ảnh, một là ảnh chiếc xe máy win 100 màu đỏ, hai là ảnh thằng Hoàng. Người đàn bà bất hạnh kia đã gật đầu xác nhận cả hai.
ừ, thế thì Tân cáo già thật. Với tư cách là thầy dạy võ của Đạo, Tân đã luôn ở bên nhân chứng duy nhất của vụ án để nghe ngóng mọi động tĩnh từ phía cơ quan điều tra. Nhân đã không để ý đến con người bí hiểm này lúc đến gặp nhân chứng. Khi Nhân xong việc với mẹ Đạo và rút đi thì Tân hiểu rằng cơ quan điều tra sẽ chỉ còn xác minh thời điểm xảy ra vụ án Hoàng đi đâu và làm gì nữa thôi. Họ đã đủ niềm tin nội tâm để khẳng định Hoàng là hung thủ rồi. Chiếc xe win 100 kia chắc chắn cũng đã được xác minh là có mối liên hệ nào đó với Hoàng. Và chỉ cần một cái lệnh bắt mang đến quán cà phê Ánh Hồng vào sáng mai, trưa mai hoặc chiều mai nữa, thế là xong. Pháp luật đã bủa lưới xuống đầu Hoàng.
Nhưng Tân nhanh tay hơn pháp luật.
Tấm thân nhẹ như mèo của Tân vừa mới lọt vào phòng Hoàng, chưa kịp nói với nhau một câu thì lưỡi dao quắm đã bổ xuống người Tân rồi. Bằng một thế võ quen thuộc, Tân tránh được lưỡi dao nhưng rơi vào thế giằng co với Hoàng. "Tôi biết là anh sẽ đến, nhưng anh không hại được tôi đâu. Anh đến giết tôi thì tôi phải giết anh", Hoàng nói câu đó sau khi chuyển thế dùng lưỡi quắm móc được một vạch dài trên bụng Tân. Tân nén đau, lựa thế cướp được con dao quắm trên tay Hoàng, và cú bổ thượng định mệnh tiếp theo đã hạ gục Hoàng đổ gập xuống sàn nhà. Trả giá ngang bằng mà chỉ một lưỡi quắm ngập đỉnh đầu thì vẫn chưa đủ. Tân kê lưỡi dao vào cổ Hoàng, ngay chỗ yết hầu, giật mạnh. Không cần kiểm tra xem Hoàng đã chết chưa, Tân vứt con dao xuống người Hoàng, vội vã chạy vào giường tháo vỏ gối lấy ruột bông ép chặt vào bụng. Rồi Tân xé mành cửa quấn quanh người. Xong đâu đấy Tân đi ra góc cầu thang, giật cầu dao điện. Quán Ánh Hồng chìm trong bóng tối. Trong khi đám nhân viên nháo nhào đi tìm nến, mấy thằng quản lý chạy ra cửa nhìn ngang nhìn dọc xem có phải mất điện chung cả dãy phố không, thì Tân nhẹ nhàng lẻn ra ngoài, êm ru như kết thúc một bài quyền.
Tân bắt xe ôm ra bờ sông, ở đó Tân giấu một cái túi vải. Tân lấy quần áo và đôi giày để sẵn trong đó ra. Tân thay đồ. vết thương đau xé phần bụng dưới. Ruột bắt đầu xổ ra. Bộ quần áo cũ dính máu, đôi găng tay, đôi giày cũ, hàm răng giả, chiếc mũ vải chùm đầu, tất cả được Tân nhét vào túi vải cùng với một tảng đá to. Chiếc túi được quẳng xuống sông, toàn bộ dấu tích của một sát thủ đã được phi tang. Thực ra Tân còn giữ lại một con dao găm dát ở bắp chân. Đấy là đồ phòng thân của Tân. Cần thiết Tân sẽ dùng nó để hạ thủ Hoàng. Nhưng Tân đã không phải dùng đến nó.
Tân ngồi nghỉ một lúc lâu rồi mới đứng dậy. Gió sông thổi lên người Tân mát rượi, vết thương nơi ổ bụng như dịu đi. Tân men theo con đê, ngược lên cầu, rồi chầm chậm bước về nhà. Tới đầu phố nhà mình Tân còn tạt vào quán trà, gọi liền hai cốc trà đá. Chắc máu ra nhiều nên khát nước. Hơi nhạt miệng. Tân cầm chiếc điếu cày lên, nhồi một mồi thuốc vào rồi châm lửa rít. Chưa kịp phà hết khói thì nghe có tiếng xì xầm từ phía cuối phố. Rồi có tiếng bán tán về sự chết chóc ghê rợn nào đó. Như có linh cảm chẳng lành, Tân vội đi như chạy về nhà mình, cảnh tượng hãi hùng đập vào mắt Tân. Bà con hàng xóm đứng chật trong nhà. Đứa con gái lao ra ôm chặt lấy Tân, không khóc nổi thành tiếng, mặt tái mét, người ngợm run bắn. Thân thể vợ Tân nằm vắt ngay cửa ra vào, đầy máu, sờ vẫn còn ấm. Đúng lúc đó thì công an đến. Có ở lại bên vợ lúc này thì cũng không cứu sống được cái xác đang lạnh dần kia. Với lại, bọn sát thủ chắc vẫn đang quanh quẩn đâu đây đòi lấy số Tân. Tân bị dồn đuổi đến bước đường cùng rồi. Phải cứu lấy đứa con gái. Mặc công an tiến hành làm các thủ tục khám nghiệm cho vợ, Tân thu dọn một ít đồ cho vào cái túi da rồi dắt đứa con gái đến nhà hàng Sóng Biển tìm thị.
Tôi vẫn không hiểu là tại sao công an ranh ma thế mà không buộc tội được anh nhỉ? Thị xổ thẳng ý nghĩ của mình ra với Tân. Tân bảo, có gì khó hiểu đâu, họ cho tôi đối chất với mấy nhân viên của quán Ánh Hồng. Không đứa nào dám khẳng định tôi chính là người đàn ông đến tìm Hoàng vào buổi tối xảy ra án mạng. Vậy là tôi vô can. Còn thời điểm vợ tôi bị giết thì tôi đang ngồi quán nước đầu phố. Khi công an tiến hành khám nghiệm tử thi, tôi không chịu được cảnh ấy, ra đầu phố đứng, và tại đây tôi bị một sát thủ bịt mặt phi xe máy ngang qua dùng dao chém ngang người. Tôi tránh được nên chỉ bị một vết rạch vào bụng. Tôi hiểu là có người đang cố tình muốn giết cả nhà tôi. Tôi không còn biết tin vào ai nữa. Có báo chính quyền thì cũng chả ai hơi đâu mà bảo vệ tôi cả. Tôi phải tự tìm chỗ mà ẩn náu thôi. Tôi dắt con gái đến gặp Hương "Ga", em gái một đệ tử cũ của tôi để xin trú ngụ. Tại đây tôi được cô ấy giúp đỡ, gọi người cho khâu lại vết thương, mấy ngày sau, vết thương tạm ổn thì tôi về làm tang vợ. Đấy, Diệu thấy tôi khai có hở chỗ nào không? Họ cứ việc đến quán nước trà đầu phố và nhà hàng Sóng Biển mà xác minh? Sự thực đúng là như thế mà.
Sự thực đúng là như thế. Vào những ngày Tân bị tạm giam, công an đến hỏi thị và thị đã khai đúng như vậy, dù không hề bàn bạc trước.
Bây giờ anh định sống như thế nào? Thị hỏi Tân.
Tân hỏi lại: "Diệu có muốn thuê tôi không?"
Thị bảo, anh ở lại đây bảo vệ nhà hàng này cho tôi. Tôi trả lương gấp ba lần vợ anh trả lương phục vụ bán bánh đa cua hàng sáng. Con gái anh tôi nuôi. Đứa nào động vào nó là động vào tôi. Anh nhận lời không?
Tân gật đầu.
Thế là từ đó Tân thuộc về thị. Nhà hàng Sóng Biển chính thức có một võ sư phụ trách việc bảo vệ. Ong ve khắp nơi lại có ý quay về dưới trướng thị.
CHƯƠNG 13
Khi anh ra gặp em ở ngoài chợ, anh chỉ nghĩ đến sự tiếc nuối tuổi học trò phải bỏ dở chừng chứ anh không hình dung hết được những phức tạp chợ búa mà em đang nếm trải. 
Góc chợ em ngồi, chỉ có chục con người với mươi quầy hàng xén thôi mà cũng nhiều chuyện lắm anh ạ. Cạnh quày hàng của em là cái bàn của con Mỹ. Nhà nó cũng ở một ngõ ven đường tàu. Bố mẹ nó cũng làm hương như nhà em. Mỹ bị mắc bệnh động kinh bẩm sinh. Hồi bé, một lần nó lên cơn, lăn vào đống củi ở sau nhà và bị một nhánh củi đâm vào mắt phải. Từ ấy nó bị chột một bên mắt. Nó kém em một tuổi, chả học hành gì, ra chợ sớm hơn em nhiều, nhưng không có quày, chỉ đứng nhờ một góc quán của người ta mà bán mấy thẻ hương. Đến khi em ra chợ, thấy nó đứng khổ sở quá, lại bị người ta chửi rủa suốt, liền cho nó kê nhờ một cái bàn con bên cạnh.
Rắc rồi bắt đầu xảy ra. Không phải giữa em và nó, mà với người có quầy hàng kế sát bên.
Chủ quày ấy là một mụ đàn bà ngang ngược. Béo tròn béo trục. Mụ ấy vốn chả ưa gì em, suốt ngày lườm nguýt và nói xấu sau lưng em với mọi người. Khi em cho con Mỹ ngồi nhờ mụ quay sang bắt le, bắt nẹt con Mỹ. Lúc thì mụ đấy bàn của Mỹ về phía quày nhà em, lúc mụ chửi khách đến mua hương của Mỹ, lúc mụ lại yêu cầu ban quản lý chợ "đuổi hết mẹ cái lũ không có quày cứ lấn chiếm lung tung đi". Mụ có thằng cháu họ từng đi tù về, xin được chân bảo vệ chợ, thỉnh thoảng vẫn xin đểu các chủ quầy để sống qua ngày. Mụ béo muốn gây khó dễ với con Mỹ chẳng qua là muốn nhằm vào em thôi. Mụ nghĩ em thân cô thế cô, bố mẹ chết cả, anh trai cũng bỏ xác trong tù, chỉ còn mỗi người bà già yếu, nên tìm đủ mọi cách hạ nhục em.
Buổi sáng hôm ấy, em vừa mở quày thì đã thấy mụ béo cầm một cái ghế ra đặt ở chỗ giáp ranh giữa hai quày. Anh từng ra chợ Ga và biết các quày hàng ở khu của em được phân chia thế nào rồi đấy. Mỗi quầy khoảng hai mét vuông, có vách ngăn bằng cót ép. Đáng lẽ em và mụ béo cũng chỉ cách nhau một mảnh cót ép như bao quày khác thôi. Nhưng giữa quày của em và quày của mụ lại vướng một cái cột bê tông đỡ mái chợ nên có chừa ra một khoảng cách khoảng 50 phân. Chính cái khoảng chừa này mà em cho con Mỹ đặt cái bàn vào đấy. Mỹ hưởng cái khoảng ấy để kiếm sống, nhưng nó quá hẹp nên cũng phải nhờ thêm khoảng hiên phía trước của hai quày ở hai bên nữa. Với phía bên em thì không sao, còn bên mụ béo thì Mỹ bị xua đuổi như một con cùi hủi. Vì miếng cơm manh áo mà Mỹ phải cắn răng chịu đựng. Thế mà đến cái miếng ăn ấy mụ béo cũng giật nốt. Mụ đặt cái ghế đẩu và ngồi xuống đó, tay phe phẩy cái quạt nan, bảo: "Trong quày nóng không chịu được, may có cái khoảng trống này, ra đây ngồi cho mát, tiện thể trông hàng luôn". Đúng lúc ấy con Mỹ xách cái làn hương đến. Nó bảo với mụ béo: "Cô cho cháu kê nhờ cái bàn". Mụ béo hất hàm: "Bàn nào? Tao bỏ tiền ra thuê quầy không phải để cho mày ngồi nhờ. Muốn ngồi thì chia tiền thuê chỗ ra đây". Em bảo: "Cái chỗ này bỏ không suốt, có ai làm gì đâu, cho nó đứng nhờ cũng được, làm gì mà cô quá đáng thế?". Mụ béo quay mặt đi, bảo:
- Quá đáng hay không mặc mẹ tao. Tao xấu hay tốt thì đã có trời chứng giám. Đéo chết tàu chết xe, chết đường chết chợ, chết sông chết biển là được.
Em nén hận không nói lại. Hễ có cơ hội là mụ lại chửi cạnh khóe em thế. Em đau lắm, nhưng em cứ phải lờ đi. Em bảo với con Mỹ:
- Mày đặt bàn trước cửa quày tao cũng được. Hẹp hòi thế thì ông trời cũng chả thương đâu.
Mụ béo vẫn quay mặt đi, chửi đổng:
- Bà hẹp hòi thì bà cũng tự làm mà nuôi sống được mình, bà chẳng phải đi ăn trộm ăn cướp của ai để mà thân tàn ma dại, chết mất xác trong tù. Tiên sư nó chứ, may mà mang được cái thân tan thân nát về, chả chó nào nó thèm ngửi, lại còn lên mặt dạy đời. Bà thì bà cứ vả vào mồm cho ấy chứ.
Con Mỹ mở làn lấy hàng ra bày bán trước cửa quày của em. Nó cũng ái ngại, cứ muốn nói điều gì đó với em mà không mở lời được. Còn em thì uất con mụ béo đến mức chân tay cứ thừa ra, ngực căng tức, đầu óc mụ mị, nhìn đâu cũng thấy như có gai châm. Mụ nói bố mẹ em chết sông chết biển. Mụ lại nói anh trai em chết mất xác trong tù. Rồi mụ rủa em "chả chó nào thèm ngửi". Sao mụ lại nói ác thế hả anh? Sao mụ lại thích xát muối vào vết thương của người khác như thế? Để được gì? Chả lẽ đời mụ chưa gặp một bất hạnh nào? Lòng mụ chưa có vết thương nào để người đời xát muối một lần cho biết? Không chịu nổi nữa. Em đóng cửa quầy bỏ về. Em bảo Mỹ cứ ở đấy mà bán, em về có việc. Mà em có việc thật. Em qua hàng cá mua con cá chuối về nấu bát canh chua cho anh Hưng ăn. Sáng nay bà em dặn vậy. Mới ra tù, bao nhiêu cái xương sườn nổi lên hết, lại không nhà không cửa, không bố, không mẹ, nghĩ cũng tội. Cũng là con người cả, thấy nó là thấy cái thân phận của thằng anh trai mày. Bù chì cho nó vài hôm rồi nó đi đâu thì đi.
Vậy mà con mụ béo không buông tha em. Mụ nói với theo: "Giỏi thì nhường cả cái quầy hàng cho nó đi, bà xem nào? Cái đồ vượt biên, hay ho đéo gì mà còn ra vẻ thương người. Thân mình đéo lo nổi, còn lắm chuyện"
Em có lắm chuyện không hả anh? Em cũng có ra vẻ thương người không hả anh? Thực ra em không nghĩ nhiều đến thế khi giúp con Mỹ đâu. Chỉ là một chút ngẫu hứng bốc đồng thôi. Em cũng không cố ý chọc tức mụ béo kia. Em có nhiều thứ phải nghĩ lúc này, hơi đâu mà cứ gây sự với người ta làm gì. Ngay lúc ấy cũng vậy. Em đang nghĩ đến anh với lời hẹn không thành tối hôm qua. Nghĩ đến bà với hai con mắt đỏ hoe xì xụp đắp bát cơm quả trứng cho thằng cháu trai chết mà không nhìn được mặt. Nghĩ đến anh Hưng "mặt nạ" với những câu chuyện tù tội ám ảnh. Nghĩ đến cả cái quày hàng ế ấm và nghề làm hương chết đói của hai bà cháu. Từng ấy ý nghĩ là quá sức chứa đối với cái đầu của em rồi. Em không muốn những lời nói của mụ béo kia tiếp tục nhồi vào hai tai làm bộ não em nổ tung ra mất. Em đi như chạy về nhà. Em vứt con cá quả xuống đất rồi leo lên giường nằm. Em không khóc. Đã từ lâu rồi em không còn nước mắt nữa. Em cứ nằm ngửa mà nhìn trừng trừng lên trần nhà. Lòng em như có nước chảy. Bà thấy em vậy, lại gần em, nắm tay em, nhìn em như hút nước. Bà khẽ bảo: "Thằng Hưng nó đi tìm bạn bè rồi. Nó bảo tối mới về. Con cá kia để đến chiều cũng được. Con không mệt thì cứ ra chợ mà bán hàng".
Bà nghĩ em bị ai nói gì đó nên buồn. Bà bảo em ra chợ để công việc bán buôn làm em quên đi tất cả. Nhưng bà có biết đâu chính chợ búa là nơi em bị người ta hắt hủi, cạnh khóe, chế giễu, chửi rủa. Bà ơi, sao nhà mình lại chán thế hả bà? Tổ cha mày, chán gì mà chán, đất này nhà nào chả thế? Sao đất này lại thế? Thì nó là đất nghịch mà. Sao nó lại là đất nghịch? Thì từ ngày xưa bà đã nghe các cụ kể thế. Kể làm sao hả bà?
Kể rằng: Đất này xưa là vùng bãi bồi ven biển, xa đất kinh kỳ, cách biệt các châu huyện. Các bãi bồi rộng lớn, cói mọc um tùm, lại nhiều sông, gần biển. Trước tiên là những vạn chài bám lấy các cửa sông. Rồi đến đám trộm cắp chọn xứ này làm nơi trú ẩn. Nữa đến những đoàn dân binh chống lại quan châu, quan huyện, vùng lên một lần cho bõ sự dày xéo rồi cũng tìm về đây mà trốn lẩn. Rồi những đám cướp dọc ngang vùng biên ải trên kia, bị tầm nã gắt gao quá cũng xuôi bè mảng ra biển tìm đường sống, đến đây thì dừng lại, dạt vào các bãi bồi mà tá túc. Lâu dần thì thành bày đàn, thành phe thành nhóm, thành lực lượng, thành đội quân. Đội quân này cũng có thủ lĩnh, mà thủ lĩnh lại là một nữ nhi hẳn hơi. Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa thì đội quân lau lách này cũng dong buồm ngược về Mê Linh tụ nghĩa. Hết việc ở dưới trướng của Hai Bà rồi, đội quân lau lách lại trở về đất này mà thành phên dậu che chắn phía biển Đông. Trải qua bao dâu bể, biển mỗi lúc một lùi ra ngoài xa, các bãi bồi lấn sông mà liền lại, hình thành nên thế đất hiểm. Bình thường thì cói sậy che kín, có động thì theo đường sông mà lánh sang các bãi bồi khác, bị truy rát nữa thì dong buồn ra một vài hòn đảo ngoài biển kia. Hết nguy hiểm rồi thì lại mò về. Thế nên đất này còn là nơi trốn tránh của rất nhiều kẻ thất thế quan trường hay thay đổi triều chính mà thành dư thừa, phản nghịch. Vài bậc hào kiệt có chút nghĩa khí hoặc bất đắc chí, hoặc không được thời thế dùng đến, hoặc không chịu sự đồng hóa của giặc Tàu, cũng bỏ đất, bỏ làng ôm mộng hải hồ rồi trụ lại đất này, hít thở khí trời tự do, thỏa được cái chí tang bồng. Tóm lại đây là đất của những kẻ chống đối. Mà kẻ chống đối ở đây rất đa dạng, rất nhiều thành phần, từ bậc thức giả đến lũ lưu manh, từ đám lưu vong bên Tàu, bên Xiêm La, bên Chiên Thành đến những phần tử dị bang ngoài biển dạt vào. Đến thời Pháp thuộc thì Ngã ba sông là một trong những thành phố đầu tiên ở nước mình được xây dựng, được hưởng cái văn minh mới lạ của người Tây Dương. Cùng với nhà ga, bến cảng, đường cái, những khu phố mọc lên là những ổ nhóm lưu manh khét tiếng tụ về. Có cả một nhà văn gì đó, nổi tiếng lắm, viết về dân giang hồ đất này, ai đọc cũng thích, cũng thương cảm, cũng phục. Vì sao, vì ông ấy viết đúng, lại viết đến cả chuyện phụ nữ đi làm cướp. Nhưng chưa ăn thua gì. Thời Tây còn như thế, đến thời ta cũng chả kém, còn khủng khiếp hơn. Ăn trộm, ăn cướp, đĩ điếm, đâm chém, giết người... năm nào cũng có, thời đoạn nào cũng có, đời ông nào làm lãnh đạo cũng có, mà nữ còn ghê gớm hơn nam, nữ dí súng vào đầu người khác, bắn chết tươi đành đạch là chuyện không hiếm ở đất này...
Em ngủ thiếp đi. Đến khi tỉnh lại thì đã quá trưa sang chiều. Bà để phần cơm em trong lồng bàn. Chỉ có rau muống luộc và khúc cá kho. Em thấy đói bụng nên ăn rất ngon lành. Lại húp cạn cả bát nước rau nữa. Rồi em ra chợ. Thôi thì em sẽ bảo con Mỹ cho nó chung vốn với em. Hai đứa cùng trả tiền quầy, cùng bán mấy loại hương gia công và vàng mã vớ vấn kiếm sống qua ngày. Rồi sẽ kiếm cách sống khác. Sống mãi thế này chán đéo chịu được. Em đã chửi bậy trong miệng như thế. Anh đừng cười nhé. Dạo này em bắt đầu chửi bậy. Mà lạ, cứ mỗi khi một câu chửi bậy dâng lên đầu lưỡi, em lại thấy dễ chịu, lại cảm thấy nhẹ nhõm đi rất nhiều. Thế là sao nhỉ? Là em bắt đầu hư hỏng rồi phải không anh?
Em đi vào cổng chợ. về chiều nên chợ cạn người. Phải đến xâm xẩm tối chợ mới lại đông. Em đi xuống dãy chợ dưới. Vừa bước vào dãy hàng khô và hàng mã thì nghe có tiếng la hét. Em chạy về quày hàng của mình. Trời ơi, anh biết không? Mụ béo đang dí đầu con Mỹ xuống bàn, cạnh đó một thằng thanh niên cởi trần, hai cánh tay xăm trổ những hình thù quái dị đang đá liên tục vào bụng, vào ngực con Mỹ. Nhiều người đứng xem. Đôi ba người can bằng miệng nhưng không ai dám vào lôi mụ béo ra. Em chạy tới, dùng cả sức lực của mình cố gỡ tay mụ béo để Mỹ cất được cái đầu lên khỏi bàn. Tóc tai Mỹ rồi bù. Nước mắt nước mũi ràn rụa. Nó ôm lấy em như chết đuối vớ được cọc. Mồ hôi thấm đẫm áo nó, chua lòm. Mụ béo chỉ tay vào mặt em la lên: "Còn con này nữa. Nó muốn gây sự với tao đây. Nào, địt mẹ mày, có muốn bà cho biết thế nào là lễ độ không?». Thằng thanh niên cởi trần gạt mụ béo ra, chỉ vào hai đứa em bảo:
- Bà nói ít thôi. Đứa nào lẩn chiếm quầy của bà thì xử lý đứa ấy. Con nào? Con này hay con này?
Mụ béo chỉ vào Mỹ:
- Con khốn nạn này. Đánh chết cha nó đi. Đây, cái bàn của nó đây, mày nhìn xem, có phải nó để hẳn sang quày của tao không?
Thằng thanh niên kia không nói không rằng, nhảy đến túm tóc con Mỹ, lôi nó ra khỏi em rồi giơ chân lên đạp mạnh một cái vào bụng. Mỹ hét lên đau đớn, quay một vòng, loạng choạng ngã vật lên trên chiếc bàn bày hương của nó. Mụ béo được thể, nhảy chồm lên người Mỹ, một tay ẩn đầu nó xuống không cho ngóc lên, một tay vả liên tục vào mặt nó. Thằng thanh niên giật lấy cây gậy mụ béo dùng để chống liếp cửa, định vụt lên người con Mỹ. Nhiều tiếng hét gào can ngăn nhưng không có ai ra tay cả. Mắt em hoa lên. Hai chân em bủn rủn, muốn khuỵu xuống. Con Mỹ bé nhỏ nhường kia, mắt mũi lại kèm nhèm thế, cứ để mụ béo và thằng cởi trần đánh mãi thì chết mất. Em hét lên lao vào giằng cái gậy của thằng thanh niên ra. Nó đạp em một cái vào ngực. Trời ạ. Lồng ngực em như vỡ ra. Lúc này người em như có luồng điện chạy vào. Em không còn nghĩ gì nữa. Em bỏ con Mỹ đấy, chạy lên dãy hàng ăn đằng cổng chợ. ở một quán bún riêu có chiếc bếp than đang hừng hực cháy. Cạnh đấy có cái chổi rơm. Em nhúng cái chổi rơm vào bếp. Chổi rơm bắt lửa bùng bùng cháy. Em cầm cái chổi lúc này đang bốc lên như một ngọn đuốc, chạy về trước quầy của mình, phang thẳng vào mặt thằng thanh niên cởi trần. Mọi người đều bất ngờ trước hành động của em. Ai cũng nghĩ là em bị một cái đạp đau như thế chắc bỏ chạy đi đâu rồi, không dám thò mặt ra nữa. Cái chổi lửa hất tàn đỏ vào mặt làm thằng thanh niên rú lên. Mụ béo thấy vậy, vội buông con Mỹ ra, lạch bạch bỏ chạy về phía cuối chợ. Em vứt cái chổi vẫn còn cháy vào quày của mụ. Con Mỹ hoảng hốt chạy ra phía sau em nấp. Em gào lên: “Mày hèn thế, bóp dái chết mẹ nó đi chứ để nó đánh thế à?”. Con Mỹ như sực tỉnh, vớ lấy cái làn nhựa lao vào đập túi bụi lên đầu thằng thanh niên cởi trần. Thằng này bị tàn lửa từ nhát đập của em bán vào mắt nên không còn nhìn rõ gì nữa. Nó vung tay vung chân loạn xạ. Em nhảy vào quày của mình, gỡ một thanh gỗ kẹp hếp, lao ra cửa thủ thế. Con Mỹ lui về đứng sát vào em. Thằng thanh niên lùi dần về phía cuối chợ. Miệng nó gào lên: “Tao sẽ giết, tao sẽ giết hai con đĩ này, chúng mày nhớ tay tao...”. Cơn nóng trong người em bốc lên ngùn ngụt. Đúng lúc đó quầy mụ béo phát lửa, khói cuộn lên dày đặc. Một ý nghĩ bất cần đời lóe lên trong óc em. Em chạy sang quày mụ béo nhặt lấy khúc cán chổi đang cháy dở mang về vứt vào quày của mình. Này thì cháy. Này thì đốt. Đốt hết. Cho tan hết đi. Cho thành tro bụi đi. Cái đời này nó khốn nạn quá thể. Cháy luôn cả mình đi cũng được. Chết luôn cùng với đám lửa kia cũng được. Đời còn cái chó gì nữa đâu mà tiếc. Người em đang như có lửa đốt đây. Đốt luôn cái thân chả ra thân, người chả ra người này đi. Em chả thiết gì nữa. Có chết thì cũng không khổ hơn sống đâu. Cháy đi. Cháy nữa đi. Cháy cả cái chợ này đi. Cháy hết cả cõi nhân gian chó má này đi.
Thế mà ở một góc nhỏ của cõi nhân gian kia anh đang đứng nhìn em. cả chợ dồn về dãy hàng này để nhìn em. Bảo vệ chợ và công an cũng có mặt. Rồi như một sự bừng thức, mọi người đổ xô vào hai quầy hàng của em và mụ béo để dập lửa. Không ít người bảo em chạy đi, không thằng thanh niên nó quay lại trả thù thì chết. Nhưng em không đi đâu cả. Em ưỡn ngực ngang tàng ngăn mọi người lại, không cho mang nước vào quầy hàng em cứu hỏa. “Cứ để nó cháy. Cháy hết đi. Từ nay dí lồn vào cái chợ này. Thằng nào muốn thì cứ đến gặp con này. Đ. mẹ nó. Chết là cùng chứ gì. Con này đéo sợ chết đâu. Cũng là người cả thôi. Thích thì cứ đến đây...”.
Có người lôi tay em đi. Em cố vằng ra mà không được. Con Mỹ đẩy phía sau em. Em không biết là mình đi đâu nữa. Em như đang ở trong cơn mộng du vậy. Người ta co kéo, đùn đẩy em. Em trôi đi trong dòng người đông đúc đang đổ vào chợ. Đến khi giật mình tỉnh ra thì em đã đứng ngoài đường rồi.
Người lôi tay em là Hưng “mã”. Sau lưng em vẫn là con Mỹ “chột”.
Em thoáng thấy hình bóng anh. Nhưng em không tin là anh. Mãi sau này Đinh bảo, ra bến xe rồi nhưng anh vẫn không yên tâm lên xe về trường. Anh bảo: “Dù sao cũng nên nói cho Diệu biết là thầy hiệu trưởng đã nhận Diệu quay lại học. Mày chờ tao tí nhé”. Rồi anh chạy một mạch ra chợ Ga tìm em. Nhưng anh không nói được gì với em cả, chỉ đứng chết trân nhìn em đang gào thét, chửi bới và đốt chợ. Anh không thể hình dung nổi em lại có phút giây hiện hình ra trước ánh lửa ma quái ấy một cách đốn mạt như thế. Một hình ảnh chợ búa gớm ghiếc. Một hình ảnh nặc nô, giun dế, cặn bã. Hình ảnh ấy đã giết chết em trong anh. Đinh bảo, anh quay về với một bộ mặt lầm lì, hỏi gì cũng không nói. Chuyến xe rời bến khi trời đã xâm xẩm tối, mang theo sự im lặng đến khó hiểu của anh.
CHƯƠNG 14
Ngày tòa tuyên Lân “sói” lĩnh án hai mươi năm cho tội giết người cùng hàng loạt tội trạng khác được mang ra lượng hình cũng là ngày Cộc “ba tai” chính thức tuyên chiến với thị. Ngay tại sân tòa án, lũ ong của Cộc đã có ý khiêu khích đám đệ của thị rồi.
Cộc “ba tai” là ai, thị chả lạ gì. Cũng cái nơi mà thị xuống tàu vượt biên năm nào, Cộc đã bị bộ đội biên phòng bắn trúng tai khi cố chạy khỏi đám người «phản bội tổ quốc» đang nháo nhào vì bị bao vây, bắt giữ. Cộc ôm cái tai rách ấy chạy về được tới thành phố, nhờ y sĩ phường chữa cho lành, nhưng trông chả khác gì một cái mộc nhĩ bị xé thành ba mảnh.
Cộc vẫn không bỏ mộng vượt biên dù Liên Hiệp quốc đã liên tục khuyến cáo là các đoàn thuyền nhân khi sang đến Hồng Kông sẽ phải ở trại cấm vĩnh viễn và không có cơ hội sang nước thứ ba nữa nếu không chứng minh được là tị nạn chính trị. Cộc vẫn đi. Và đi thoát. Nhưng sau hai năm thì bị trả về. Liên hiệp quốc đã đóng cửa các trại tị nạn và các đoàn thuyền nhân như Cộc lần lượt phải quay lại nơi mình đã ra đi.
Cộc không dệt được mộng sang nước thứ ba nhưng Cộc lên số rất nhanh sau khi trở về từ trại cấm. Nếu so với Tùng «hê rô» hay Lân «sói» thì Cộc nổi lên sau, thanh thế cũng chưa lẩy gì làm ghê gớm. Cộc không tăng số đột biến như các đại ca khác mà cứ lên dần dần. Với hàng chục tiền án, chủ yếu là tội cướp và cố ý gây thương tích, Cộc giữ kỷ lục về số lượng vào tù ra khám trong giới giang hồ thành phố. Cộc còn đạt nhiều kỷ lục khác nữa, như nhiều vợ nhất, giàu có nhất và nghiện ngập nhất, ở Hồng Kông về, Cộc phất lên bằng hệ thống cầm đồ, buôn hàng bãi của Nhật và thu gom sắt vụn xuất đi nước ngoài. Có thời kỳ Cộc được mệnh danh là "Vua sắt vụn». Cộc là đại ca có xe hơi đầu tiên ở thành phố Ngã ba sông. Ngoài ngôi nhà ba tầng to như một cái trụ sở uỷ ban quận, Cộc còn mua đứt luôn năm căn hộ ở mặt đường ngay sát cạnh để phá bỏ làm xưởng sửa chữa ôtô và nơi tập kết sắt vụn.
Thời gian đầu Cộc mải lo làm giàu nên không để ý đến việc thu nạp các sát thủ quanh mình. Nhưng rồi thời thế thay đổi, nhà nước xiết chặt việc xuất khẩu phế liệu, chặn đánh mạnh các hoạt động buôn lậu hàng bãi, Cộc liên tục dính mấy vụ xì đểu, bao nhiêu vốn liếng cạn sạch. Không còn kinh doanh hàng bãi theo kiểu «thổ phỉ» được nữa, Cộc quay về với hệ thống cầm đồ mà thực chất là chiếm đoạt tài sản tài sản, tiêu thụ của gian và cho vay lãi để tìm nguồn thu mới. Đến lúc này Cộc mới ngộ ra rằng, nếu không có những tay đao, tay búa thì không thể tồn tại được ở đất nghịch này. Cộc muốn thò tay sang lĩnh vực cờ bạc hoặc chăn dắt gái thì đều chạm phải phe nhóm của Lân hoặc Tùng. Muốn giữ được thế chia ba thì Cộc phải có đủ dao găm súng lục để sẵn sàng chiến khi càn thiết. Cộc không ngại gì va chạm nhưng mỗi ngày Cộc một có tuổi, không thể cứ đem thân già ra mà đâm chém với lũ con nít. Chưa kể Cộc cũng đã quá ngán cảnh ăn cơm tù, ngủ trại cải tạo, lao động không công rồi. Cộc bắt đầu chiêu nạp lũ ong ve mới nứt mắt, thích nổi máu yêng hùng. Đệ tử ruột đầu tiên thuộc hàng có số má của Cộc là Hiếu "cu». Hiếu về dưới trướng Cộc, việc đầu tiên là mở động chăn gái. "Buôn gì cho lãi bằng buôn người», Hiếu thường nói câu ấy, và tỏ ra rất có nghề trong việc bóp nặn thân xác đàn bà. Nhưng cái lĩnh vực này xưa nay Lân «sói» vẫn thao túng. Hiếu muốn tranh đoạt tức là muốn sờ dái ngựa. Lân khó chịu lắm nhưng với số má của Hiếu thì đệ tử của Lân không thằng nào đủ bản lĩnh dám đứng ra mà lấy. Chính vì thế Lân đã rải chiếu hoa mời Hoàng «lợn» về dưới trướng mình. Lân đã nghĩ ra trò gài Tuyết tây thi vào động của Hiếu rồi lại bắt Tuyết về động của mình để chọc tức Hiếu. Cuối cùng cái giá mà Hiếu phải trả chính là hai chân dưới bị Hoàng chém đứt hết gân, chữa chạy mãi cũng chỉ còn ngồi được xe lăn mà nhìn sự đời trêu ngươi trước mặt.
Mất sức chiến đấu của một sát thủ như Hiếu là mất cánh tay phải đối với Cộc. Lúc này mà Tùng «hê rô» hay Lân «sói» cho người đánh tràn sang là Cộc bị lấy số như chơi. Đang lúc cơ đồ có phen nghiêng ngả như thế thì một người bạn từng ở cùng trại cấm với Cộc dắt một đứa con trai mười bốn tuổi đến nhờ nuôi hộ. Nguyên văn lời người bạn ấy nói với Cộc như sau: "Vợ chồng tôi bỏ nhau, nó ở với tôi nhưng nghịch quá, tôi dạy không nổi, tôi đưa nó xuống chú, có gì chú nuôi dạy nó giúp tôi».
Thằng bé tên là Vĩnh, mọi người gọi nó là Vĩnh «con». Nó ở với Cộc vài tháng thì Cộc phát hiện ra nó nghiện. Cộc định đuổi nó về với bố nhưng nó cãi lại rằng: «Chú cũng nghiện mà?». Cộc bảo:
- Tao nghiện nhưng tao chém giết người khác để lấy tiền mua thuốc. Mày nghiện thì lấy tiền đâu ra mà hút hít?
Không ngờ Vĩnh con trả lời:
- Cháu cũng chém giết.
Cộc ớ người ra một lát rồi bảo:
- Mày thấy gương thằng Hiếu cu chưa?
Vĩnh con trả lời tỉnh bơ:
- Ngu thì phải chịu. Cháu một là sống, hai là chết chứ không bao giờ để mình thân tàn ma dại như vậy.
Cộc nói với nó:
- Ngày mai, cái đứa chém thằng Hiếu ra trại đấy. Nó sẽ đến đây chém chú. Mày có bảo vệ được chú không?
Vĩnh con đứng thẳng dậy:
- Mai cháu sẽ đến chờ nó ở cổng trại, thấy nó ra là cháu chém nó trước, không phải đợi nó đến đây ra tay với chú đâu.
Cộc nén kinh ngạc trước khẩu khí của thằng bé, nhưng có ý vui trong lòng. Đúng như những gì nó nói, khi Hoàng «lợn» vừa ra khỏi trại thì nó đã chờ sẵn, lăn xả vào chém. Hoàng thất kinh phải bỏ chạy. Vĩnh con không chịu buông tha, nó cùng một thằng đệ tử nữa của Cộc phi xe máy đuổi theo, tìm mọi cách ra tay với Hoàng. Đến khi thấy người của Lân « sói »liều chết bảo vệ Hoàng, Vĩnh mới thôi.
Hành động chém Hoàng đã đưa Vĩnh con nổi lên như một tiểu tử giang hồ đằng đằng sát khí, ít nhiều mang lại thanh thế cho phe nhóm của Cộc «ba tai». Khi Hoàng về dưới trướng của Lân «sói» thì thế chia ba của giang hồ Ngã ba sông đã sẵn hình thành chuyển sang giai đoạn tạm thời ổn định. Nhóm nào cũng có đại ca lớn và sát thủ lừng danh. Tùng hê rô có Tính dao mổ, Lân sói có Hoàng lợn, Cộc ba tai có Vĩnh con. Thế chân vạc ấy chỉ bắt đầu chao đảo khi xảy ra loạn ở sòng 21, dẫn đến cái chết của Tính «dao mổ» và chủ soái của thị phải vào tù, lĩnh án dựa cột.
Thế giới ngầm những tưởng xoá được thế chia ba, nhưng sao lặn thì sao lại mọc, thị đã tay dao tay súng đi lại trên giang hồ, sẵn sàng chém giết, chẳng ngán đối thủ nào nên vẫn giữ được cơ đồ Tùng để lại. Thế rồi đùng một cái xảy ra vụ Hoàng «lợn» bị giết. Hạn đổ lên đầu phe Lân sói. Mồ Hoàng chưa xanh cỏ thì Lân bị bắt vì liên quan đến cái chết của vợ Tân, sau đó là cái án dài đằng đẵng, khiến một trong ba ông trùm cứ yên tâm nằm trong trại giam mà bóc lịch, chưa biết ngày nào ra. Thế chân vạc chính thức bị xóa từ đây. Giang hồ chỉ còn hai con hổ là thị và Cộc ba tai mà thôi. Nhưng thị biết là lực mình còn yếu, sau cái hạn dựa cột của Tùng, oai khí của phe thị đã giảm đi nhiều. May mà có Tân về dưới trướng, nhưng Tân không phải loại ong ve tầm thường, thích lên là cầm mã tẩu đi lấy số người khác. Tân giữ yên được cho thị ở phía sau lưng là quá tốt rồi, còn lao ra phía trước đối đầu với Cộc phải là đám đệ tử ngang lứa với Vĩnh con. Ngỡ rằng giang hồ chia hai như thế cũng là ý trời, chịu nhau thì sóng yên biển lặng, không chịu nhau thì chưa biết ai nhìn thấy quan tài trước, hiểu cho nhau được như thế thì đại cục này chắc cũng kéo được dài dài. Thị nghĩ vậy, và Tân cũng nghĩ vậy. Yên ổn được ngày nào tốt ngày đấy. Số má hay không thì cũng chỉ mong một chữ sống. Muốn cùng sống thì nhìn nhau mà lựa, đừng để giang hồ lại phải một phen dậy sóng.
Nhưng mọi điều dường như không dừng lại ở đấy.
Điều mà thị đau đầu nhất chính là Cộc càng ngày càng không biết coi ai ra gì. Hoàng lợn chết rồi, Vĩnh con dương dương tự đắc, cho rằng giang hồ đất này không còn ai là đối thủ. Hệ thống cầm đồ của Cộc phình to khắp các quận huyện. Vĩnh con được Cộc nuôi bằng chế độ đặc biệt. Vĩnh được sử dụng ma tuý theo nhu cầu. Bao nhiêu cũng được, ở thời điểm giá vàng chỉ có bốn trăm năm mươi ngàn một chỉ, mà có ngày Vĩnh đốt hết năm trăm ngàn tiền heroin. Cộc cho Vĩnh dùng thuốc thoải mái. Đổi lại, có lệnh là Vĩnh sẵn sàng lên đường, sẵn sàng xuống tay với bất kỳ ai, dù người đó số má thế nào. Khu phố Cộc ở trở thành một địa ngục trần gian. Trong nhà Cộc lúc nào cũng có dăm bảy tên đàn em túc trực, vừa bảo vệ đại ca vừa chờ nhận lệnh khi có việc. Cộc còn ngang nhiên cho đóng cổng mở cổng theo giờ, dân trong khu vực không về theo giờ đó thì không vào được nhà. Thỉnh thoảng thấy mất an toàn, Cộc lại ra lệnh giới nghiêm, đóng cổng 24/24. Chủ nào thì tớ vậy. Bản tính Cộc du côn, ngang tàng, liều lĩnh nên đám thuộc hạ cũng toàn dân đao búa, coi trời bằng vung. Cộc lại dùng thuốc mà điều khiển nên đám tiểu yêu nhà Cộc thành ma quỷ hết, chúng không còn biết sợ người. Cứ mỗi khi chuẩn bị ra tay với một đối thủ nào đó, Cộc thường bắt Vĩnh con nhịn thuốc vài ngày, rồi Cộc vứt thuốc ra bảo Vĩnh đi lấy số xong về sẽ hút thoải mái. Chỉ trong một thời gian ngắn, Vĩnh liên tục gây sự với đám ong của thị. Vĩnh còn đánh người vô tội vạ trên đường phố, trong quán cà phê, nơi chợ búa, trên sàn nhảy, tại quán ăn sáng... Cứ ngứa mắt là đánh. Xích mích nhỏ ở đâu đó với người nhà của Cộc là đánh. Chậm ngày cầm đồ là đánh. Va chạm xe cộ là đánh. Lượn lờ qua cửa nhà Cộc nhiều cũng đánh. Mở nhạc ầm ĩ "không cho chú Cộc ngủ" cũng đánh. Sự điên rồ của băng Cộc "ba tai» lên đến cực điểm khi Cộc dám xua cả mấy chục tên đệ tử tràn cả vào Công an phường để cướp người của phe mình ra.
Hôm ấy có người dám tự tiện đi qua cửa nhà Cộc và dừng lại nhìn ngó. Một đệ tử của Cộc thấy ngứa mắt liền ra đánh người này. Người này bỏ chạy, tên đệ tử kia hăng lên, đuổi theo ra tới ngã tư. Tại đây cả hai bị công an giữ lại, đưa về phường. Có tin đàn em của mình bị công an phường giữ, Cộc liền gọi Vĩnh con "cùng chú ra phường xem sao». Vĩnh khật khừ đói thuốc, gọi thêm gần hai chục thằng nữa đi "cứu người của chú Cộc». Cộc yêu cầu cả đàn bà con gái, những người nhà của tên đàn em kia, cũng giả đến kiện chính quyền để đòi người, cả bọn hùng hùng hổ tràn vào công an phường. Trực chỉ huy hôm ấy là một ông Phó trưởng công an phường. Trong khi vị này đang đứng ra giải thích thì Vĩnh lẻn xuống phía sau nhà, đạp khóa cửa, lôi tên bị bắt ra. Trước sức người áp đảo của bọn Cộc, mấy vị công an phường hôm ấy phải chịu để chúng đưa đồng bọn đi. Riêng Cộc còn dọa sẽ tạt axít vào mặt Phó phường nếu «không biết nể mặt thằng này». Cộc tuyên bố: "Công an thành phố cũng chả là cái gì chứ đừng nói đến bọn phường, quận tép riu». Sau việc này uy thế của Cộc đã lên đến đỉnh. Dân tình đều nghĩ là Cộc có ô to nào che chắn nên mới dám tác yêu tác quái đến thế. Ong ve khắp nơi nghe đến tên Cộc đều ngán. Nhiều con mắt đang dõi về phía thị. Cao nhân át có cao nhân trị. ừ thì vẫn biết thế nhưng ở thành phố này còn có cao nhân nào nữa không? Liệu thị có dám đối đầu với phe nhóm của Cộc «ba tai»? Thị mà chịu lép nữa thì giang hồ đất này để sa vào thế độc tôn hay sao?
Thị gọi Tân lên phòng riêng để bàn bạc. Thị hỏi Tân: "Một ngày kia nó vào cướp sòng của mình thì sao?». Tân bảo: «Khi đó hẵng hay». Thị lại hỏi: «Thằng Vĩnh nó nổi điên lên, chạy vào đây quậy phá nhà hàng Sóng Biển này thì sao?». Tân đáp: «Tôi còn ở đây thì một thằng Vĩnh chứ ba thằng Vĩnh cũng không chống lại được tôi». Thị sốt ruột: «Chả lẽ cứ để mặc nó quậy lung tung? Có nên lấy số của nó không?». Tân bảo: «Lẩy số thì dễ nhưng giữ mình mới khó. Lấy số rồi mà phải dựa cột hay trốn chui trốn lủi, mất đất làm ăn thì cũng vô ích». Thị ngán ngẩm: "Vậy là cứ ngồi một chỗ chờ nó quậy đến mình?». Tân phân tích:
- Giang hồ có nhiều loại. Thứ nhất là loại đao búa, côn đồ, gặp người là đánh, thấy của là cướp, đó là loại hạ đẳng. Thứ hai là loại thách thức chính quyền, coi thường công an, chống lại người thi hành công vụ, đó là loại tự sát. Thứ ba là loại dùng thuốc để có bản lĩnh chém giết, đó là loại ma xui quỷ khiến. Nhóm thằng Cộc chỉ là một lũ giang hồ hạ đẳng, ma quỷ và đi vào chỗ chết. Thằng Cộc đang dẫn cả đàn cả lũ chúng nó đi vào chỗ chết thì có gì phải sợ. Diệu cứ ngồi đấy mà chờ xem. Cái ngày chúng nó bị loại khỏi cõi người sẽ không lâu nữa đâu.
Thị hỏi lại:
- Thế còn những loại giang hồ nào nữa?
Tân đáp:
- Chia nhỏ ra thì còn nhiều loại lắm. Có loại chỉ kiếm tiền chứ không chém giết. Có loại chỉ thích oai chứ không có số má gì. Có loại ngọt nhạt bám lấy chính quyền mà tồn tại. Có loại trộm cắp vặt, thích tụ tập bầy đàn, động đến là tan. Nó loại bần cùng sinh đạo tặc. Có loại phẫn chí mà đi làm cướp. Có loại bị vùi dập quá mà lấy số người làm số mình.
Có loại tâm thần, có loại trả thù đời, có loại trả thù tình, có loại bị thuốc lú... Nhưng loại nào cũng vậy thôi, đều không tồn tại được lâu.
Thị hỏi:
- Anh thuộc loại nào?
Tân đáp:
- Tôi là người đứng ngoài quan sát, ăn nhờ ở đợ chốn giang hồ nên tự biết mình không thuộc loại nào.
Thị gật gù, cất giọng mai mỉa:
- Anh bảo loại nào rồi cũng không tồn tại được. Thế thì còn chốn giang hồ cho anh ăn nhờ ở đợ không?
Tân bảo:
- Chưa hết, vẫn còn loại giang hồ nữa. Loại này có thể sống trọn đời. Thậm chí cuối đời quay đầu lại mà thành Phật.
Thị nhếch mép hỏi:
- Loại nào?
Tân đáp:
- Đó là loại siêu giang hồ. Loại này hội tụ ba đặc điểm sau: Biết lợi dụng mặt trái của công quyền, biết ra lệnh chứ không thực hiện, biết làm giàu và biết làm phúc.
Thị nhíu mày: «Thế ở thành phố này ai là loại siêu giang hồ?». Tân lắc đầu: «Theo tôi thì ở ta không có siêu giang hồ. Một trong những đặc tính cố hữu của giang hồ Ngã ba sông là thách thức chính quyền, vì thế không thể xuất hiện loại siêu giang hồ. ở nước ta chỉ có giang hồ thành phố Lớn là có loại siêu giang hồ mà thôi. Tôi biết vài tên trong đó, đặc biệt là Ông Trùm, cả nước ta may ra có được vài tên siêu giang hồ cỡ ông Trùm». Thị đến trước mặt Tân, nhìn thẳng vào mắt hắn, hỏi: «Này, hỏi thật nhé, anh nói ra điều này là có ý gì?».
Tân đáp lạnh tanh:
- Tôi muốn Diệu trở thành một siêu giang hồ.
Mỹ Đình, 7/2009
Nguyễn Đình Tú
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bùi Giáng - Thi sĩ của mùa xuân vĩnh cửu

Bùi Giáng - Thi sĩ của mùa xuân vĩnh cửu Bùi Giáng có một mùa xuân vĩnh cửu, bởi đơn giản chính ông tự xưng mình là “trung niên thi sĩ”. T...