Thứ Tư, 18 tháng 9, 2024
Hồ sơ một tử tù
Chương 1
Trở lại bãi vàng hắn mừng rỡ như chết đuối vớ được cọc khi thấy
mọi sự dường như không thay đổi. Người đón hắn đầu tiên vẫn lại là thằng Xế.
Sau gần ba tháng giải toả, đám người đào vàng như những cánh bèo tấm, dạt đi rồi
tụ lại, lúc đầu lẻ tẻ, sau rộ lên, đông đúc dần. Chính quyền cắm một cái chốt
trị an, để một tổ công an trực ở đó, sẵn sàng giải quyết những xích mích từ đám
người đang dốc kiệt sức mình ra cho việc đào đãi kia. Được sáu tháng thì cái chốt
chẳng còn ma nào ở nữa, nó bị bỏ không, mặc cho nắng mưa phủ lên màu quên lãng.
Không ai hơi đâu bỏ công sức, tiền của ra để trông coi cái đám bát nháo này làm
gì. Quả thực, bãi vàng Lũng Sơn trong thời gian này cũng có tạo được một vẻ mặt
yên bình. Các hội nhóm vẫn ngấm ngầm hình thành nhưng việc "Bốc của giời"
có vẻ như hoàn toàn khách quan, không có thế lực nào áp chế cả. Lực lượng ở chốt
trị an rút đi rồi, các thành phần bất hảo như hắn mới bắt đầu tìm đến. Đám
Thành dê, Tùng chột khiếp hồn khi thấy hắn lù lù dẫn xác về. Tất cả đều nghĩ hắn
và Lân đã bỏ mạng hoặc bị lưu đầy mất xác từ lâu rồi. Trận đọ súng trong đêm
Nhung bị rắn cắn đã bị những kẻ thích buôn chuyện giang hồ chế tác thành những
huyền tích giật gân lưu truyền ngầm ngấm trong đám dân đen bấy lâu nay. Trong
cái mớ chuyện truyền kì rẻ tiền ấy, ở phần kết hắn cùng Lân và Nhung đã được
miêu tả là chạy vào hang sâu và mất tích trong đó. Rồi xảy ra mấy cái kết như
thế này: Có người bảo cả ba đã tìm ra được một cửa hầm dẫn vào lòng núi và
chúng phát hiện ra nơi đó chứa rất nhiều vàng. Bọn hắn đã vơ vét cho bằng đủ rồi
tìm đường vượt biên. Con tàu chở hắn đã bị hải tặc cướp, cả ba bị bắn chết và bị
quẳng xuống biển. Người khác lại bảo bọn chúng đã cho nổ mìn tự sát khi bị truy
đuổi, núi sập xuống và cả một đại đội công an cũng chết theo. Cũng có người lại
bảo nửa đêm dậy đi đái, chính mắt nhìn thấy ba đứa ngồi uống rượu bên triền
núi, nhìn trăng cười ha hả. Bọn hắn đã thành ma rồi. Những con ma ấy cứ quanh
quẩn quanh bãi này để giữ vàng, thấy ai đào trúng vỉa là bóp cổ cho chết rồi lấp
hầm luôn. Những mẩu chuyện kiểu ấy cứ thế lan truyền. Nhiều người lập bát
hương, kêu cầu khấn vái cho ba đứa hắn trước khi động thổ đào hầm. Chính thằng
Xế cũng nửa tin nửa ngờ về điều này. Vì vậy khi hắn xuất hiện cả bãi vàng nháo
nhác cả lên. Hắn bỗng được khoác lên người tấm áo choàng huyền bí. Tấm áo
choàng ấy biến hắn thành một tên cướp đặc biệt, một tên cướp thần thánh và đầy
huyền tích.
Tất nhiên đó là một bữa ăn đáng nhớ trong đời hắn. Nhưng rồi
đám xương gà đã báo hại hắn. Những người lùng bắt hắn tưởng đã đứt mối lại phát
hiện ra vùng ẩn náu của hắn từ đám xương gà nát vụn rơi vãi bên chân ruộng. Hắn
thực sự thấy cùng đường. Khẩu súng trong tay hắn lúc này chỉ còn là một cục sắt
vô hồn mà thôi. Nếu hắn chạm mặt những người đang lùng bắt bắt hắn lần này nữa
là coi như chấm hết khoảng trời tự do mà hắn đã phải đánh đổi bằng một cái giá
quá đắt. Nhưng hắn đói. Đói khủng khiếp. Hắn đã nhiều lần mò về nhà nhưng chỉ
bén mảng đến ngõ nhà ông Thảnh là đã lại phải quay lưng vì phía trước có rất
nhiều những kẻ khả nghi. Hắn cũng đã tạt sang xóm bên, định vào nhà cô giáo Hường,
gặp Dịu nhưng lại thôi vì loáng thoáng cảm thấy bất ổn. Không còn chỗ nào cho hắn
tá túc cả. Thiên la địa võng đã bủa vây xung quanh hắn. Có lúc hắn đã mừng đến
thót tim khi nhìn thấy một con đò chầm chậm trôi trên dòng sông lưu dấu cả tuổi
ấu thơ của hắn. Nhưng hắn đã thở dài ngao ngán vì đó không phải là đò của ông
Thảnh. Ông Thảnh đi đâu về đâu rồi hắn cũng không biết nữa. Nếu còn sống ông
cũng đã già lắm. Có lẽ đã ngoài tám mươi rồi. Cuộc đời ông Thảnh dài lắm, đoạn
trường lắm. Còn cuộc đời hắn sao mà ngắn ngủi, tù túng, đơn điệu và ảm đạm thế.
Cuộc đời ông Thảnh ghềnh thác nổi chìm nhưng ông luôn sống hết mình, lại biết lựa
theo dòng trôi, nên ông là lịch sử, lịch sử là ông, trọn vẹn một kiếp người.
Còn hắn, muốn sống trọn vẹn một kiếp người sao mà khó thế? Hắn là thứ đá cuội bị
hất văng ra bên đường và bánh xe lịch sử nghiến lên, nghiền nát. Hư vô quá thể.
Tủi phận quá thể. Hắn lại đưa nòng súng lên dí vào thái dương và nghiến răng
bóp cò. Nhưng viên đạn cuối cùng đã được dùng cho việc hoá kiếp con gà mái tơ.
Hắn chua chát lẳng mạnh khẩu súng xuống sông. Tiếng "bùm" từ nước
sông vọt lên làm hắn chợt nghĩ đến một sự giải thoát mới. Thôi thì cũng
"ùm" một tiếng như thế, rồi để cho thân xác chìm nghỉm xuống lòng
sông kia, thế là xong, mọi sự sẽ thành hư vô hết. Nhưng hắn không sao đủ can đảm
để nhảy xuống dòng nước chất chứa trong mình vô vàn những huyền thoại ấy. Với
những đứa trẻ làng Áng Sơn, dòng sông này là cả một kho cổ tích. Ông Thảnh đã
gieo vào đầu những đứa trẻ như hắn khát vọng một lần được tìm xuống đáy sông, đến
với thế giới của ba ba, thuồng luồng, của thuỷ cung với Long vương và Hà Bá để
thoả mãn trí tưởng tượng non nớt về một thế giới cổ tích huyền nhiệm. Hắn cười
gằn trong cổ họng. Sao ngày xưa những truyện ông Thảnh kể lại có sức hấp dẫn đến
thế, lại làm hắn tin đến thế. Tới mức hắn đã thần thánh hoá ông, coi ông như một
thứ người giời, một ông tiên có bàn tay phù thuỷ. Chắp nhặt tất cả những mẩu
chuyện của ông lại, hắn đã từng lơ mơ nghĩ rằng ở dưới lòng sông kia là cả một
thế giới riêng với những điều kỳ diệu không thể giải thích được. Và hắn đã từng
ước có ngày được đặt chân xuống đáy sông. Khi ấy hắn sẽ sục sạo vào những toà
lâu đài, sờ lên những báu vật, nhìn ngắm thoả thích những nàng tiên cá thân
hình uốn lượn, lấp lánh vẩy vàng vẩy bạc. Có thể hắn sẽ cứu được những người chết
đuối, những cô gái bị lẳng xuống sông một cách oan uổng, những em bé chẳng may
đang bơi bị chuột rút... Ước vọng thơ trẻ mới buồn cười làm sao. Ước vọng ấy đã
có cơ thực hiện được khi hạn hán kéo về rút kiệt dòng chảy xanh trong này. Chỉ
hiềm nỗi khi mép nước đã tụt xuống đến mức kỷ lục, hắn bỗng nhận thấy một cảm
giác đau xót đang vỡ ra trong mình. Thế giới long cung đang hiện nguyên hình ra
kia. Những bờ bãi lở loét, những hang hốc khô kiệt, những vạt bùn nứt nẻ, thao
láo nhìn trời. Bao câu chuyện vẫn giữ kín trong lòng sông, giờ đây sông đãi hết,
chỉ còn lại một lạch nước nhỏ đang thở hổn hển giãy chết cùng những vết nứt vô
hồn, vô nghĩa. Thuỷ thần ở đâu? Hà Bá ở đâu? Bao xác người vô tội ở đâu? Những
nàng tiên cá xoè đuôi giỡn nguyệt trong những đêm trăng sáng đâu? Ôi ông Thảnh
ơi, sao thế giới cổ tích của ông tàn tạ, hoang hoá, vô hình, vô ảnh thế! Hắn ôm
mặt khóc hu hu, khóc tức tưởi. Ông Thảnh bảo: " Cậu bé đa sầu đa cảm của
tôi ơi. Tôi không lừa dối cậu đâu, tại cậu cứ thích khám phá tận cùng sự thật đấy
thôi. Sự thật chỉ dành cho người lớn, còn cổ tích dành cho trẻ con. Cậu đã là
người lớn đâu mà cứ thích xé bỏ đi lớp cổ tích cuộc đời?"
- Cái đài sen kia nó cứ quay tít trong đầu tôi. Hiến bỏ nó ra
treo ở chỗ khác được không? Tôi thấy kinh lắm.
- Còn ba phép nữa. Tu Thinh văn, tu Duyên giác và tu Bồ tát
thừa. Những phép tu này cao siêu và huyền nhiệm lắm. Ở Thinh văn thì nhờ Phật
mà xuất ly khổ, còn Duyên giác thì tự giác mà được giải thoát. Còn Bồ tát thừa
là phép tu của các đấng chí tôn, không chỉ tự giác ngộ mà còn nguyện đem chỗ
giác ngộ của mình mà dạy chúng sinh cùng giác ngộ theo.
Hắn nghe Bằng nói chợt nhớ ra là ngày xưa Bằng nổi tiếng ở khoa về khả năng hùng biện. Hắn chẳng bao giờ quên được bài hùng biện đói nghèo và nghèo đói của Bằng trong buổi Xê-mi-na bàn về xã hội đẳng cấp của Ấn Độ cổ đại. Bây giờ Bằng đang nói say sưa về con người và số phận, tội lỗi và sám hối, nhưng không phải với dáng vẻ của một nghệ sĩ tài hoa đang diễn trên sân khấu, mà bằng tất cả những chiêm nghiệm của đời mình. Hắn bỗng thấy thương Bằng. Đây là điều khá buồn cười bởi trời sinh ra Bằng dường như là để nhắc nhở những người khác nhớ về khiếm khuyết của mình. Bằng xuất hiện ở đâu là buông những lời móc máy, xỏ xiên ở đấy. Bằng đại diện cho những gì đủ đầy, tròn trịa, hoàn chỉnh giữa một đám bạn hầu hết đều chưa bước qua khỏi lằn ranh tự ti đói nghèo. Những lúc như vậy, và sau này dù có xa Bằng thì hắn vẫn cho rằng Bằng là một anh chàng đáng ghét, hay nói đúng hơn, đáng ghen tị bởi cuộc sống luôn ưu ái đối với Bằng. Thế mà lúc này hắn lại thấy Bằng đáng thương dù bản thân hắn đang bị coi là thú tính, hiếu sát, côn đồ, đáng bị loại trừ khỏi xã hội. Rất có thể bước ra khỏi cái phòng giam này Bằng sẽ mang khuôn mặt khác, dáng dấp khác, tác phong khác, lối hùng biện khác, người ta sẽ lại chỉ còn thấy Bằng là một luật sư giàu có, hào hoa, đủ đầy, thành đạt. Đúng rồi, trước những đôi mắt bon chen, ganh đua, trong chốn hỗn độn háo danh, thèm lợi ai cũng thích trương ra những cái hơn người của mình. Chỉ đến khi trước một người không còn dám mơ tưởng gì tới cõi đời này nữa thì người ta mới chịu hạ vây, thu cánh, xếp hết những góc cạnh, nanh vuốt lại để an ủi, xẻ chia và thổ lộ những mất mát, đau buồn của chính mình. Hoá ra cuộc đời muôn mặt không dễ gì lý giải và bi kịch chẳng dành cho riêng ai, để cho riêng ai, giáng lên đầu riêng ai mà có ở bất cứ đâu, trong mỗi con người, nằm bên cạnh hai chữ Hạnh Phúc. Nó là cặp bài trùng, là mặt đối lập, là phần âm nếu hạnh phúc là dương, là mùa đông nếu hạnh phúc là mùa xuân, là bóng đêm nếu hạnh phúc là ánh ngày, là tiếng khóc nếu hạnh phúc là tiếng cười, chẳng ai không có, chẳng ai không đeo mang.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
May mắn chúng ta còn có Nguyễn Huy Thiệp Đối với tôi, nói đến Nguyễn Huy Thiệp đầu tiên phải khẳng định ông là người của Việt Nam nói ch...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét