Thứ Tư, 18 tháng 9, 2024

Bên dòng sầu diện 2

Bên dòng sầu diện 2

Chương 6
Trại Pháo Thủ cũ trong thời kỳ tạm chiếm là nhà kho của quân đội Pháp. Sau ngày An Lạc giải phóng nó được chia cho những người dân thất tán khắp nơi trở về. Bố cái Lý trước làm nghề chăn nuôi ngựa cho quan công sứ, sau ngày quân Pháp quay lại An Lạc lần thứ hai bố nó làm nghề đóng xe bò và các loại yên cương cho ngựa. Về với chế độ mới, trong mớ tài sản của bố nó vẫn còn hai con ngựa, một con màu nâu, một con màu trắng. Hai con ngựa này đã giúp bố cái Lý trở thành phó chủ nhiệm Hợp tác xã vận tải thô sơ của thị trấn An Lạc. Trong số các thành viên của Hợp tác xã có cả ông Mật rỗ. Ông Mật rỗ góp vào Hợp tác xã chiếc xe bò của mình và suốt mười năm liền ông được nhận danh hiệu “kiện tướng vận tải”.
Cái Lý thường ra khu đầm cạn cắt cỏ cho ngựa. Trò chơi nào của đám trẻ phố Tứ Phủ cái Lý cũng tham gia một cách nhiệt tình, nhưng nó không bao giờ bỏ lơ công việc của mình. Khi các trò chơi kết thúc cũng là lúc nó đã cắt xong đầy hai bao cỏ, ung dung gánh về. Trong các trò chơi ở khu đầm cạn, Minh Việt hãi nhất là trò lộn đỉa. Trò này thằng Tịnh trọc rất thạo. Thằng Tịnh là con bác Mộc bí thư thị trấn. Đầu nó nhiều chấy nên nó cắt trụi tóc đi cho chấy khỏi còn chỗ làm tổ. Khu đầm cạn có nhiều vũng nước nhỏ. Thằng Tịnh chỉ cần cho chân xuống khua khua vài cái là cả đàn đỉa nhao nhao nổi lên. Nó thò tay xuống. Đỉa lập tức bám luôn vào. Nó thích bắt những con đỉa trâu to như ngón tay, da xanh thẫm, lườn bụng hơi vàng vàng. Những con đỉa này miệng to, dễ lộn. Mỗi khi nhìn thấy con đỉa bám vào tay thằng Tịnh, oằn mình giãy giụa, giãn ra, chun vào, cố dính chặt lấy da người để hút máu, Minh Việt thấy ghê ghê, gai ốc nổi khắp toàn thân. Nhưng thằng Tịnh lại rất thản nhiên với điều đó. Nó bẻ một cây cỏ cứng rồi lấy thân cỏ đó chọc vào phần đít của con đỉa. Xong nó vuốt nhẹ một cái, thế là toàn thân con đỉa bị lộn ngược, mặt da phía trong ra ngoài còn mặt da phía ngoài thì vào trong. Cơ thể con đỉa cấu tạo đơn giản, giống như cái ống chun vậy, khi bị lộn ngược nó chẳng có chút gan, ruột, phèo, phổi gì cả, may ra thì có tí máu vừa hút được của ai đó. Nếu không biết cách lộn thì sẽ phải loay hoay khá lâu vì con đỉa rất trơn, cầm vào nó cứ tuột đi. Chỉ có thằng Tịnh làm việc này là nhanh hơn cả. Nó làm cứ nhoay nhoáy. Rồi nó cắm la liệt xuống mặt đất những cọng cỏ có xác đỉa lột. Và nó hỏi một cách khoái cảm:
- Chúng mày trông có giống cảnh treo cổ trong phim Ba Lan không?
Những xác đỉa này gặp nắng nhanh chóng khô quắt đi. Nhưng khi mưa xuống, mỗi xác đỉa lại sinh ra hàng trăm con đỉa khác. Chúng lại tìm về các vũng nước để một chiều nào đó thằng Tịnh sẽ lại ra tay hạ sát chúng. Minh Việt cũng tìm thấy niềm khoái cảm khi ngồi xem những ngón tay của thằng Tịnh thao tác trên xác đỉa. Minh Việt sợ đỉa nhưng cố tìm cách che giấu điều đó, không biểu lộ cho ai biết. Một lần thằng Tịnh vung tay quá mạnh và con đỉa trâu to như ngón tay cái bắn vào cổ áo của Minh Việt. Minh Việt hốt hoảng, không dám thò tay vào móc con đỉa ở trong ngực ra, cứ quay mặt đi hướng khác gào thét, van xin thằng Tịnh bắt ra hộ. Nhưng thằng Tịnh bảo:
- Hóa ra thằng Việt thiu này sợ đỉa. Đã thế tao cứ để cho nó hút máu mày một lúc đã, rồi tao sẽ bắt nó ra lộn sau.
Thằng Tịnh nói thế và làm thế thật. Nó lại chạy ra chỗ vũng nước tìm bắt con đỉa khác. Minh Việt sợ quá, xung quanh thằng thì đang lúi húi lộn đỉa, thằng thì ngoác mồm ra cười, thằng thì vỗ tay đôm đốp khoái chí chế nhạo sự nhát gan của Việt thiu. Mặt Minh Việt tái mét đi. Cảm giác lành lạnh, buồn buồn trên làn da ngực càng làm Minh Việt kinh khiếp. Giữa lúc sự hoảng loạn đang lên đến cực độ thì cái Lý chạy đến. Nó dứt cúc áo ngực của Minh Việt ra và hình như chỉ lướt tay nhoằng một cái thôi. Thế là xong. Nó bảo:
- Xong rồi, con trai gì mà nhát thế?
Lúc này Minh Việt mới dám nhìn xuống chỗ vùng da ngực. Vết đỉa cắn vẫn còn, máu rỉ ra to bằng hạt đỗ. Từ hôm ấy Minh Việt không dám tiến gần đến chỗ bọn thằng Tịnh mỗi khi chúng nó chơi trò lộn đỉa. Minh Việt rất thích cưỡi ngựa. Đôi ba lần Minh Việt được cái Lý cho ngồi lên lưng con ngựa màu nâu của nhà nó. Minh Việt vẫn còn nhớ cái cảm giác lần đầu tiên được cưỡi ngựa. Minh Việt cứ ôm chặt cứng lấy người cái Lý. Lúc đầu thì thích nhưng sau thì những đốt sống lưng của con ngựa gồ lên, chọc vào hai bên mông, đau điếng. Cái Lý có thể điều khiển con ngựa chạy nhanh, chạy chậm tùy theo ý muốn. Có một lần khi Minh Việt đã tạm quen với việc cưỡi ngựa, cái Lý cho con nâu lồng lên. Được hai vòng đầm thì Minh Việt không giữ được thế ngồi, ngã tụt xuống. May rơi đúng xuống đám cỏ dày nên không đau lắm. Cái Lý hốt hoảng, vội cho dừng ngựa, nhảy xuống, chạy lại chỗ Minh Việt ngã. Minh Việt vờ nằm im không nhúc nhích. Đến khi cái Lý nâng người Minh Việt lên, lần đầu tiên cậu thấy rùng mình khi chạm phải hai vật tròn mềm ẩn sau làn áo ngực của cô bạn gái. Cái Lý đã thành người lớn rồi! Cái Lý càng ngày càng phổng phao ra, dáng dấp thon mềm, gợi cảm. Nhất dáng, nhì da cái Lý có được cả hai thứ đó nhưng bước sang tuổi dậy thì tự nhiên một bên má của cái Lý nổi vết rám. Lúc đầu vết rám còn nhỏ và mờ. Rất nhanh sau đó vết rám loang rộng và thẫm màu hơn, y như mẩu bánh mì cháy. Cái Lý không còn tham gia mọi trò đùa nghịch của lũ con trai phố Tứ Phủ nữa. Bước sang năm sau bọn thằng Tịnh cũng không còn chơi trò lộn đỉa. Tất cả bỗng thấy mình khác trước. Minh Việt là đứa vỡ giọng đầu tiên trong đám con trai. Sau đó ít lâu là thằng Tịnh, thằng Hoàn, thằng Huy. Riêng cậu Chột nhà bà Quản thì vỡ giọng trước đó vài năm. Bọn thanh niên mới lớn phố Tứ Phủ bắt đầu bàn tán về con gái. Cái Lý thường được đưa ra bàn về bộ ngực, về cái eo lưng, về lớp vải quần khít chặt phía trên đùi. Nhưng ý kiến thống nhất cuối cùng vẫn là cái Lý có họ hàng xa với Thị Nở. Trong những lần bình luận như thế, Minh Việt không hăng hái đồng tình nhưng cũng không phản đối. Chỉ có một người luôn nổi xung lên mỗi khi nghe mọi người chê cái Lý xấu, đó là thằng Tịnh. Thằng Tịnh không thấy Lý có cái gì xấu cả. Lý là đứa con gái dịu dàng, vị tha, nhân ái nhất phố Tứ Phủ. Lý cũng là đứa con gái có dáng người đẹp nhất, làn da trắng nhất, cái miệng xinh nhất, mái tóc dài nhất, khuôn mặt thanh tú nhất, chỉ có mỗi một bên má là không đẹp nhưng cũng không đáng chê, không làm hỏng đi tất cả những gì mà Lý có. Cái Lý của riêng thằng Tịnh là như thế. Minh Việt vô tâm không mấy khi nghĩ quá sâu xa về cái Lý. Tuy nhiên ký ức tuổi thơ vẫn lưu giữ mối thiện cảm giữa Minh Việt với Lý, nên Minh Việt thường không tham gia bàn luận về Lý để tránh cho mình khỏi phải nói ra những điều không muốn nói. Cái Lý dường như cũng biết lũ con trai bình luận gì về mình nên nó sống ngày một thu hẹp lại. Tối tối nó thường sang nhà Minh Việt ngồi bóc lạc cùng bà nội và mợ. Những năm ấy cuộc sống của những gia đình công nhân viên chức như bố mợ Minh Việt rất kham khổ. Mợ đẻ đứa em thứ tư, thằng Đức, nên bị chuyển xuống đội chăn nuôi, không còn nhặt nhạnh được nhiều thức ăn, thức uống như trước đây nữa. Mỗi lần đẻ thêm em bé là một lần nhà sa sút đi. Có lần mợ bảo:
- Cứ yên yên một tí là lại nghỉ đẻ. Nghỉ xong đi làm, nó lại tống bố nó sang chỗ khác. Thôi bây giờ tắt vòi lại không đẻ nữa, để ít hôm rồi bảo với bác Mộc xin cho về tổ kem.
Mợ có họ hàng xa với bác Mộc nên ít nhiều cũng được lãnh đạo ngành quan tâm, ưu ái. Nhưng vì nghỉ đẻ luôn nên không thể ngồi mãi một vị trí được. Sau khi sinh con Vân mợ phải xuống làm việc ở tổ bánh. Bây giờ đẻ thằng Đức, không còn chỗ nào xếp cho mợ nữa nên họ đành phải đưa mợ xuống tổ chăn nuôi. Từ ngày xuống tổ chăn nuôi, nhà rất túng thiếu. Bố Minh Việt vẫn làm thủy lợi ở mãi dưới huyện biển. Đã mấy lần tỉnh định rút bố về trên Ty nhưng lần nào cũng trục trặc vấn đề: Chưa xác minh rõ quan hệ giữa đồng chí Nguyên Bình và cô Mến trong thời gian diễn ra trận tập kích chiến lược thị trấn An Lạc năm năm ba.
Khó thì phải tính. Nhà đông miệng ăn, lương thực nhà nước bao cấp không đủ, mợ phải nhận thêm lạc sống về bóc thuê. Đã có thời kỳ cả phố Tứ Phủ là một “xưởng bóc lạc tay”. Bắt đầu từ nhà Minh Việt, sau lan ra các nhà khác. Ai cũng muốn có thêm đồng “kiếm bơ gạo” hoặc “cải thiện rau mắm” nên nhờ mợ nhận lạc về bóc suốt đêm. Hết mùa lạc lại đến mùa dán hộp. Hộp đựng bánh, hộp chứa thuốc Phi-la-tốp, hộp vỏ bao thuốc lá... Qua mùa dán hộp lại đến kỳ rọc giấy. Giấy báo, giấy sách, giấy vở học sinh. Máy móc không chia nhỏ được thì đưa về cho dân Tứ Phủ rọc tay. Mợ là người giỏi tìm việc trong thời bấy giờ. Nhưng việc đều hơn cả vẫn là bóc lạc. Lúc đầu mọi người đều bóc bằng tay. Sau cải tiến bóc bằng thanh tre, rồi dùng búa ghè nhẹ. Thanh niên nam nữ đến nhà nhau chơi, vừa chuyện trò vừa thò tay bóc lạc, vui lên lại hát đồng thanh nữa. Lý là người tích cực đến nhà Minh Việt nhất. Bố cái Lý là người của Hợp tác xã vận tải. Mấy năm ấy Hợp tác làm ăn được nên kinh tế nhà cái Lý nghe ra có phần ổn hơn nhà Minh Việt. Lý rất quý mợ Minh Việt. Bà nội lại là người hay chuyện. Vì thế Lý qua lại như người nhà. Lý cũng tìm thấy sự thanh thản trong công việc bóc lạc. Ở đấy Lý không phải nghe tiếng ì xèo, chê bôi của đám trai mới lớn. Mợ lại là người thẳng tính. Thằng nào có lời bất nhã với Lý là mợ đốp vào mặt ngay. Thế là tối tối đám trai gái rủ nhau đi sinh hoạt Đoàn, Đội, đi xem phim, xem kịch, đi tập tự vệ thì riêng Lý ngồi bóc lạc ở một góc nhà với bà nội và mợ. Có một người cũng hay đến ngồi bóc lạc cùng với Lý là thằng Tịnh. Thằng Tịnh rất ít nói. Nó cứ ngồi lỳ hết buổi tối, đến khi nào Lý đứng dậy ra về thì nó cũng ra về. Có một hôm Lý rủ mợ Minh Việt:
- Tối mai cháu với cô đi xem kịch nhé? Họ diễn ở chỗ hợp tác xã bố cháu. Bố cháu cho cháu giấy mời.
Mợ bảo:

- Ừ, mai nghỉ một buổi lạc đi xem cho nó khỏi tù đời. Mấy giờ?
Lý bảo:
- Bảy giờ. Cháu thấy bố cháu bảo thế.
Nhưng hôm sau thằng Đức bỗng sốt cao. Bà nội cứ giục mợ đi xem để bà ở nhà trông thằng Đức cho nhưng mợ không đi nữa. Khi cái Lý đến, mợ gọi Minh Việt vào và bảo:
- Con đi xem với em Lý nhé! Nó chẳng bao giờ dám đến chỗ đông người một mình đâu. Con đi với em cho em nó vui, tối nào nó cũng đến ngồi đây thui tủi bóc lạc với mợ, tội lắm.
Minh Việt bảo:
- Mợ phải cho cả cái Vân đi cùng với con cơ. Chỉ hai đứa đi, con ngại lắm, chúng nó nhìn thấy lại trêu.
Mợ bảo:
- Ừ, mợ cho cả em Vân đi cùng hai đứa. Mợ cho cả mấy hào lẻ nữa đây, em nó đòi cái gì thì mua.
Cái Vân là đứa em thứ ba của Minh Việt. Chính Minh Việt đã nhìn thấy nó chui ra từ cửa mình của mợ ở nhà hộ sinh hơn chục năm về trước. Tối hôm ấy nó vừa xem kịch vừa khóc thút thít. Vở kịch nói về đơn vị tự vệ của một nhà máy đã bắn cháy một chiếc máy bay của Mỹ, nhưng người nữ chỉ huy trưởng lại hy sinh. Tất nhiên còn có cả chuyện tình yêu, chuyện sản xuất, chuyện hiểu lầm nữa nhưng nội dung chủ đạo của vở kịch là tinh thần chiến đấu hy sinh dũng cảm của những người công nhân vừa giỏi tay búa vừa chắc tay súng. Tan vở, mọi người kéo nhau ra về, riêng cái Lý vẫn ngồi yên không nhúc nhích. Minh Việt giục:
- Về thôi, Lý!
Lý quay ra bảo:
- Chờ em tí.
Chờ mãi vẫn không thấy Lý đòi về, Minh Việt đành dẫn cái Vân ra ngoài cổng mua cho nó mấy quả mận còn sót lại trên mẹt hàng của người bán rong. Khi quay vào Minh Việt không thấy Lý đâu cả. Nhìn lên sân khấu thấy mấy người đang thu dọn đạo cụ, Minh Việt chạy lên ngó nghiêng tìm cái Lý. Một người đàn ông hỏi:
- Cháu tìm ai?
Minh Việt vẫn đang ngơ ngác chưa biết nói thế nào thì người đàn ông lại chỉ vào cánh gà, bảo:
- Cô ấy vào trong kia kìa. Chắc muốn gặp mặt diễn viên?
Minh Việt chạy vào trong cánh gà, thấy có hành lang dẫn vào một căn phòng còn đang sáng ánh đèn. Minh Việt bước về phía ấy nhưng chưa tới cửa phòng thì gặp Lý đang đi ra. Ánh mắt Lý ngập tràn niềm vui. Thấy Minh Việt, Lý cất giọng rất tự nhiên:
- Cái Vân đâu hả anh Việt? Mấy anh em mình về đi!
Minh Việt hỏi:
- Vào trong ấy làm gì?
Lý không trả lời mà hỏi lại:
- Anh thấy vở kịch hôm nay hay không? Cô đóng vai chỉ huy trưởng tự vệ giỏi nhỉ? Cô ấy khóc thật đấy. Em nhìn rõ nước mắt của cô ấy rơi ra hẳn hoi nhé!
Minh Việt hơi khó chịu về thái độ của cái Lý nhưng đêm đã muộn nên vội dắt tay cái Vân ra về. Tới đầu phố, cả ba gặp thằng Tịnh đang đứng chờ ở chỗ cống Đá. Không biết từ bao giờ người ta đặt hai phiến đá rất to ở mép đường nơi bên dưới có con mương chảy qua. Dãy phố Tứ Phủ được ghi mốc từ cống Đá này cho đến ngôi đền Tứ Phủ nằm ở cuối phố. Trước đây người già gọi phố này là phố Cống Đá. Sau khi có ngôi đền người ta chuyển dần sang gọi là phố Tứ Phủ. Chỗ cống Đá nằm ở ngã tư đường, là nơi tối tăm, đi qua đó thường có cảm giác sờ sợ, bình thường chẳng ai dám ra đứng đó một mình. Vậy mà thằng Tịnh lại đứng đó, như có ý chờ đám Minh Việt đi xem về quả cũng táo gan thật. Nhìn thấy ba người, thằng Tịnh hỏi ngay:
- Sao chúng mày không bảo tao trước để tao xin vé đi xem cùng?
Minh Việt vội thanh minh:
- Lý có giấy mời, đáng lẽ đi xem với mợ tao nhưng vì thằng Đức ốm nên tao với cái Vân được đi ké. Có biết trước đâu?
Lý chẳng nói gì, chỉ lặng im, tay vẫn giữ chặt vạt áo. Hình như Lý có giấu cái gì ở trong đó nhưng Minh Việt không để ý. Thằng Tịnh bảo: “Nực lắm, ngồi đây cho mát đã về làm gì vội, không ngủ được đâu”. Cái Lý bảo: “Thôi, em về đây, muộn rồi, bố em lại mắng”. Thằng Tịnh hào hứng đi theo. Minh Việt đưa cái Vân về trước rồi cùng thằng Tịnh đưa cái Lý về nhà ở khu Trại Pháo thủ cũ.
Hình như trong con mắt của cái Lý, đám Minh Việt vẫn còn rất trẻ con, không thể hiểu được những điều sâu kín của một thiếu nữ đã trưởng thành. Lý không bao giờ tâm sự, chuyện trò gì với Minh Việt cả. Có một người tương đối hiểu Lý, đó là mợ nhưng mợ không có nhiều thời gian để gần gũi, sẻ chia với Lý những chuyện đàn bà, con gái. Nhà Lý chỉ có một bố một con, Lý lại tự ti về nhan sắc của mình nên hầu như không có bạn. Lý lẩn tránh đám con trai phố Tứ Phủ mới ngày nào còn chung những trò chơi con trẻ với Lý. Lý rất sợ những lời xì xào, chê bôi của đám thanh niên mới lớn này. Mỗi lời đàm tiếu của một thằng con trai nào đó vô tình buông ra đối với Lý không khác gì một con đỉa trâu ném vào người Minh Việt. Lý càng sợ, càng tránh thì lại càng gặp phải, đi đâu cũng gặp, tới đâu cũng thấy, chỉ có đến nhà Minh Việt là đỡ tủi phận hơn cả. Ở đó Lý thường xuyên gặp thằng Tịnh, mà thằng Tịnh thì không bao giờ nói gì với Lý. Có thể thằng Tịnh trân trọng Lý, nhìn thấy nhiều cái đẹp của Lý. Nhưng Lý lại nghĩ rằng cái sự im lặng ấy chẳng qua chỉ là chưa đến lúc. Ai cũng biết thằng Tịnh nghịch ngợm, lém lỉnh. Với cái tư duy của một thằng con trai nghịch như quỷ sứ ấy, thử hỏi khi cất lên lời nói luận bàn về nhan sắc của Lý sẽ khủng khiếp đến đâu? Vì thế với Tịnh, Lý còn thêm một chút e dè, cảnh giác nữa. Tất cả những điều này nằm ngoài sự lưu tâm của Minh Việt. Minh Việt đã trở thành lao động chính của gia đình, toàn làm việc nặng, việc bóc lạc buổi tối chỉ dành cho đám đàn bà con gái và trẻ nhỏ. Những ngày này Minh Việt đang cố gắng hoàn thành chỉ tiêu “một ngàn viên gạch ba banh” bố giao cho. Minh Việt cùng thằng Đình, con Ánh dùng xe cải tiến chở xỉ ở chỗ mợ về, rồi tôi vôi, rồi cho xỉ trộn vào khung, và cứ thế vung chày sắt mà nện. Bố bảo phải xây thêm một gian nữa chứ nhà bây giờ nhiều người, chỗ chui ra chui vào chật lắm. Minh Việt lại lớn rồi, cái Ánh cũng lớn rồi, lại thằng Đình, cái Vân, cu Đức, không thể dồn tất vào một gian cùng với bà nội được. Hễ có ngày nghỉ là bố lại cởi trần trùng trục cùng làm với Minh Việt. Bố cầm xẻng xúc xỉ vào khung cho Minh Việt hai tay hai chày giã xuống. Không có bố thì thằng Đình, cái Ánh thay nhau xúc cho Minh Việt. Ngày nào cũng nện chày gang nên cơ bắp Minh Việt nở nang ra trông thấy. Minh Việt vốn là một đứa trẻ có thể chất tốt nên khi bước sang tuổi thanh niên, dáng vóc khá vạm vỡ, to khỏe. Dường như Minh Việt đã quên cái tuổi thơ buồn thảm ở Xóm Đáy rồi. Hình ảnh mẹ Mến ngày một trở nên xa mờ trong Minh Việt. Bà Quản và cậu Chột thỉnh thoảng vẫn gặp Minh Việt nhưng cái tình máu mủ ruột rà vốn không có, nay ít ở gần nhau nên cũng ngày một phai lạt. Chỉ có một lần Minh Việt bỗng nhớ bà Quản. Nhớ quay, nhớ quắt, nhớ đến mức bỗng dưng muốn được gặp mặt bà ngay lập tức. Thế là Minh Việt dừng việc đóng gạch lại, rửa qua người, khoác cái áo vào rồi thủng thẳng đi về phía Xóm Đáy.
Tới cống Đá, Minh Việt bỗng sững người lại vì gặp một đám ma đi ngược lại phía mình. Thường thì đám ma bao giờ cũng đi xuôi về phía Xóm Đáy, bãi tha ma của thị trấn nằm ở phía ấy. Nhưng đám này lại đi ngược về phía phố Tứ Phủ. Và đây là lần đầu tiên Minh Việt tận mắt chứng kiến một đám ma lạ lùng như thế. Đi đầu là một đoàn người mang cờ đen viền chỉ trắng, tiếp theo là một đoàn người mang áo trắng trùm miễu. Chiếc xe tang đi sau đoàn người mặc đồ trắng, trên nóc xe có một cây thánh giá buộc một dải khăn tang mỏng. Trong xe có đặt một cỗ quan tài được phủ vải đen, thêu hình thập giá màu trắng. Các góc quan tài có thắp nến. Sau xe tang là đủ mọi thành phần đi đưa đám, hầu hết là đi bộ, có vài ba người dắt xe đạp theo bên cạnh. Minh Việt vô cùng bất ngờ khi thấy bố dắt xe đạp đi trong tốp cuối, khuôn mặt trầm mặc, lặng lẽ. Minh Việt cũng đã nhận ra cậu Chột đi ngay phía sau chiếc xe đòn. Bên cạnh cậu Chột là ông Mật rỗ. Đến lúc này thì Minh Việt đã lờ mờ cảm nhận được người đang nằm trong quan tài kia là ai? Thảo nào đang ngồi đóng gạch mà bụng Minh Việt nóng như có lửa đốt, mọi ý nghĩ đều tập trung về Xóm Đáy với hình ảnh thân thương là bà Quản. Minh Việt lẳng lặng nhập vào đoàn người đi bộ đang rì rầm đọc kinh đưa xác đồng đạo. Đám tang đi qua phố Tứ Phủ thì rẽ về phía chân núi Cô Hồn. Thì ra bãi tha ma của những người theo đạo chính là khu mả Tàu. Ngày mẹ Mến chết người ta không đưa ra khu nghĩa địa này. Đây vốn là khu đất của một giáo dân người Tàu cúng tiến cho Nhà thờ từ thời cha bề trên còn sống nên người ta vẫn thường gọi là khu mả Tàu. Khu này chỉ dành riêng cho những giáo chức hoặc người có công với xứ đạo. Bà Quản được coi là một trong những người có chức tước, dù chỉ là một cái chức cỏn con, còn sót lại của xứ đạo. Vì thế cả xứ đạo đã quyên góp tiền bạc để làm một cái lễ đưa xác tương đối đàng hoàng cho bà. Ông Mật rỗ cùng năm bà vợ của mình cũng xúm vào lo làm đám cho bà Quản. Tuy nhiên tang phục chủ yếu là đồ cũ, được nhặt nhạnh từ những xó xỉnh nào đó, còn tang chế thì giản đơn, hoán cải đi nhiều. Không có linh mục làm phép huyệt, không có chín tiếng ba hồi chuông sinh thì [1], không có lễ chồng mồ [2], cũng chẳng có đội bát âm và hội hát. Đã từ lâu nhà thờ bỏ hoang, tháp chuông rỗng không, đám tang bà Quản là một sự kiện hiếm có của thị trấn An Lạc kể từ sau ngày giải phóng. Minh Việt theo đoàn người đưa xác bà Quản tới khu mả Tàu, chờ người ta đắp cho bà mồ yên mả đẹp xong xuôi đâu đấy mới dám tiến tới trước mộ bà. Minh Việt khẽ lẩm nhẩm:
- Bà Quản ơi, cháu không hiểu lắm về bà cùng cái đạo của bà, cháu cũng chẳng biết nói gì với bà lúc này, cháu chỉ ân hận là đã không qua lại với bà sau khi cháu chuyển về ở với bố. Bây giờ bà xuống dưới đó bà đừng trách cháu, cháu hứa với bà là cháu sẽ thường xuyên qua chơi với cậu Chột để cậu ấy khỏi buồn...
Bỗng Minh Việt cảm thấy như có ai đó đang nhìn mình. Quay lại Minh Việt bắt gặp ánh mắt của một cô gái trạc tuổi cái Lý thấp thoáng phía bên kia cây thánh giá nơi vòm mộ cổ. Minh Việt ngỡ ngàng trước khuôn mặt của cô gái lạ. Nó gợi nhắc một hình ảnh đã xa lắc. Đúng rồi! Khuôn mặt của mẹ Mến. Cô gái có khuôn mặt rất giống mẹ Mến. Nhưng đôi mắt của cô ta to hơn, trong trẻo hơn, thành kính hơn. Và cô ta có một mái tóc xoăn ngả màu vàng, hung hung. Cô gái có vẻ e ngại, cứ lấp ló bên vòm mộ cổ không dám đi ra. Minh Việt đang mải nghĩ về sự có mặt của cô gái có đôi mắt to tròn ấy thì bỗng có một bàn tay đập lên sau bả vai.
- Cậu Chột! - Minh Việt mừng rỡ khi nhận ra người đến sau lưng mình - Cháu không biết bà mất, sao cậu không cho cháu biết để cháu về chịu tang bà?
Cậu Chột như không nghe thấy Minh Việt nói gì, đưa tay về phía vòm mộ cổ, vẫy vẫy. Đến lúc này cô gái có đôi mắt to tròn mới từ sau vòm mộ khép nép bước ra. Cậu Chột quay lại bảo với Minh Việt:
- Quên mất cái cuốc, bảo nó quay lại lấy mà chờ mãi ngoài xe không thấy nó ra, hóa ra gặp Việt ở đây nên nó ngại.
Minh Việt hỏi:
- Con bé ấy nó là con nhà ai thế hả cậu?
Cậu Chột cúi xuống nhặt cái cuốc đưa cho cô gái, phẩy tay ra hiệu cho cô ta bước đi trước rồi quay ra bảo với Minh Việt:
- Nó là con lai đấy. Mẹ nó là người Xóm Đáy, bị bọn Pháp hiếp trước khi rút xuống tàu vào Nam. Cả thị trấn An Lạc này có hai đứa con lai, một lai trắng là con Cói này, còn một lai đen là thằng Tân ở xóm chân cầu. Thôi, về đi. Việt bây giờ cao lớn nhỉ?
Minh Việt hỏi:
- Cậu ơi, thế sao ngày xưa cháu không biết cái Cói nhỉ?
Cậu Chột bảo:
- Mẹ nó sang sống ở bên Phòng, mãi sau này mới về Xóm Đáy. Mẹ nó chết cũng lâu rồi. Mợ lấy nó về nuôi. Mợ quý nó lắm. Trước khi chết mợ bảo: “Thương nhất con Cói!”
Minh Việt không hỏi thêm gì nữa. Tối hôm ấy, trong khi cả nhà ngồi bóc lạc, bố ra sau nhà xúc xỉ cho Minh Việt đóng gạch. Bố bảo:
- Bà Quản chết vì lao lực đấy. Khổ thân bà ấy, việc của cả thiên hạ mà cứ vơ vào mình.
Minh Việt bảo:
- Sao bố biết mà bố không cho con về thăm bà ấy?
Bố bảo:
- Bố cũng chủ quan, không nghĩ bà ấy lại chết nhanh thế. Sáng nay đi làm, giữa đường gặp bác Mộc, biết tin, bố quay lại đưa bà ấy một đoạn đường. Có nhiều chuyện bố không nói với con được. Bố cũng khổ tâm lắm.
Minh Việt bỗng thấy người nhão hết cả ra. Bố bảo:
- Thôi con vào nghỉ đi, để bố đóng nốt cho.
Minh Việt đứng lên đi vào trong nhà. Hôm nay không thấy cái Lý đến. Thằng Tịnh vẫn ngồi thu lu bên bà nội. Minh Việt hỏi mợ:
- Cái Lý hôm nay không đến hả mợ?
Mợ bảo:
- Hôm trước tao vừa đưa nó đi may áo, bố nó được Hợp tác thưởng cho một mảnh vải màu lá chuối, chắc hôm nay được áo nên đi lấy rồi.

Cả một tuần sau đó vẫn không thấy cái Lý đến nhà Minh Việt. Thằng Tịnh cũng chỉ đảo qua đảo lại, không ngồi lỳ như mọi hôm. Minh Việt không để ý đến chuyện ấy, tối nào cũng đóng xong hai chục viên ba banh là mượn xe bố đạp xuống Xóm Đáy. Nhà bà Quản bây giờ chỉ còn mỗi mình cậu Chột ở. Minh Việt hỏi: “Cái Cói đâu?”. Câu Chột bảo: “Nó về ở nhà nó, ở cuối bãi ấy”. Minh Việt tìm sang nhà cái Cói. Nhà Cói ở tuềnh toàng, chẳng có thứ gì ra hồn. Ánh mắt Cói nhìn Minh Việt cứ ngài ngại. Nhà Cói sát cửa sông, vào những ngày hè nóng nực gió lùa lên mát lạnh. Thị trấn dạo này mất điện luôn, Minh Việt thường chơi ở Xóm Đáy đến muộn mới về. Mợ hỏi thì Minh Việt bảo con lên cầu treo ngồi hóng mát, nằm sớm nực lắm, không ngủ được. Với cậu Chột và Cói thì ánh đèn điện là thứ xa xỉ, còn lâu họ mới được hưởng. Họ chỉ được hưởng ánh sáng hắt ra từ Xí nghiệp cơ khí đóng tàu Hai Bảy tháng Bảy phía bên kia bãi sông thôi. Đó là khu vực dư thừa ánh điện nhất thị trấn. Điện cho sản xuất công nghiệp luôn được ưu tiên. Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy trước đây là nhà kho của quân Pháp. Sau này, cùng với việc xây dựng cây cầu treo, trên đã cho An Lạc xây dựng một xí nghiệp đóng tàu thủy. Hôm khởi công xây dựng là ngày hai bảy tháng bảy, cả thị trấn ra quân rầm rộ, Minh Việt cũng nằm trong đội hình học sinh gõ trống cổ động cho lễ động thổ. Bây giờ xí nghiệp trở thành điểm sáng về lao động sản xuất của thị trấn. Trong các hội nghị, mỗi khi đọc báo cáo về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở An Lạc bao giờ bác Mộc cũng dừng lại nói thêm về Xí nghiệp cơ khí Hai Bảy tháng Bảy. Đó là biểu tượng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân An Lạc, mở ra một sự phát triển về chất đối với công cuộc xây dựng thị trấn. Cùng với Hợp tác xã vận chuyển thô sơ, với hàng loạt cửa hàng mậu dịch, cửa hàng ăn uống quốc doanh của ngành thương nghiệp, Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy đã và đang góp phần xóa sổ lao động nông nghiệp, sau kế hoạch năm năm lần thứ ba, nhất định An Lạc sẽ đạt được mục tiêu thành thị hóa, không còn ai chân lấm tay bùn nữa, tất cả sẽ là công nhân, sẽ đi đầu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các tỉnh miền duyên hải. Quả thật xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy luôn là niềm tự hào của người dân An Lạc. Chỉ vài năm sau ngày xây dựng nó đã bành trướng hết một vệt bờ sông dài rộng phía đông thị trấn. Nhà xưởng của xí nghiệp dọc ngang, tít tắp như một khu phố mới. Ban ngày đi qua thấy những người thợ hàn một tay cầm mặt nạ che mặt, một tay châm que hàn vào những khối sắt lớn, ánh điện lóe lên, vụn sắt cháy đỏ rơi lả tả. Ban đêm, trên nóc phân xưởng hàn, hai ngọn đèn pha to như hai cái mâm đồng soi sáng cả khúc sông. Xóm Đáy ở khúc bồi phía bên này bờ sông, nhờ hai ngọn đèn pha ấy mà đỡ cảm thấy tối tăm, đỡ cảm thấy mục tiêu phố hóa quá xa lạ đối với mình. Ngoài xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy ra, cả thị trấn An Lạc chỉ còn có khu Tứ Phủ và khu Ngã Năm là có điện nhưng phập phù, điện rất yếu, dây tóc bóng điện cứ đỏ đòng đọc như mấy sợi len rối. Mà tình hình thì chưa biết đến lúc nào mới cải thiện được. Bác Mộc thỉnh thoảng đến nhà Minh Việt chơi, qua câu chuyện giữa bố và bác, chỉ thấy nói về việc hậu phương dốc lòng ủng hộ cho tiền tuyến. Mà đã dốc lòng ủng hộ cho tiền tuyến thì còn cái gì để xây dựng thị trấn nữa? Việc đánh nhau để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là chuyện không thể đừng được. Nhất định phải đánh cho không còn thằng Mỹ nào ở miền Nam nữa mới thôi. Thanh niên An Lạc đã thay nhau hết lứa này đến lứa khác lên đường nhập ngũ rồi. Cậu Chột cũng đã mấy lần lên thị đội xin đi bộ đội mà không được vì bị hỏng một bên mắt, không đủ tiêu chuẩn về sức khỏe. Nhiều đêm từ Xóm Đáy về, Minh Việt gặp hàng đoàn bộ đội lặng lẽ hành quân về phía chân cầu Lãng Tiên. Bố bảo đó là khu vực tập kết bộ đội lên tàu đi Bê. Việc di chuyển diễn ra rất bí mật. Chân cầu Lãng Tiên vào ban ngày hầu như không thấy có tàu bè gì, thế mà đêm đến hết đoàn bộ đội này đến đoàn bộ đội khác cứ hun hút đi về phía bờ sông để sáng hôm sau mất tăm, không còn thấy một bóng quân phục nào. Xung quanh núi Cô Hồn có rất nhiều đơn vị bộ đội đóng quân, thuộc đủ các quân binh chủng khác nhau. Ngoài bộ binh ra, đêm đêm hàng đoàn ô-tô chở các loại súng pháo khí tài cũng nhằm hướng bến sông Sầu Diện để trút hàng xuống tàu. Rồi tàu đưa người và vũ khí đạn dược đi đâu thì không ai biết. Bác Mộc mỗi khi gặp bố đều nói câu cửa miệng: “Tình hình miền Nam căng lắm”. Căng như thế nào? Chẳng ai hình dung ra. Minh Việt đã tới tuổi nhập ngũ nhưng bác Mộc bảo: “Cứ ở nhà đóng nốt cho bố mày nghìn viên gạch ba banh đi đã, rồi đi bộ đội sau”. Để đảm bảo cho việc vận chuyển vũ khí và hành quân an toàn, bí mật, thị trấn ấn định giờ giới nghiêm. Sau hai mươi hai giờ người dân thị trấn không ai thò mặt ra ngoài đường nữa. Mọi sinh hoạt cộng đồng đều kết thúc trước giờ đó. Minh Việt thường về quá giờ giới nghiêm nên cảm nhận được sự hối hả của cả nước đang “dốc lòng cho tiền tuyến”. Các con đường của thị trấn rùng rùng chuyển động trong im lặng. Cũng có đôi ba nhà mở hé cửa ra xem các đơn vị bộ đội chuyển quân. Trong số những người ra đi kia biết đâu lại có con cái họ? Và họ muốn được nhìn thấy con em mình lần cuối trước khi chúng đi vào chiến trường.
Không ít lần Minh Việt đi chơi về quá giờ giới nghiêm. Những lần như thế Minh Việt phải nấp vào một chỗ nào đó chờ cho đoàn quân đi qua mới dám ló mặt ra. Một lần Minh Việt bắt gặp sự lạ. Hôm ấy có một đoàn bộ đội đi qua cống Đá, theo con đường cắt vuông góc với phố Tứ Phủ. Con đường đó dẫn họ ra chân cầu Lãng Tiên. Cả đoàn đang đi bỗng ồ lên ngạc nhiên khi phát hiện ra có một cô gái mặc chiếc áo xanh đứng bên phiến đá chăm chú nhìn theo hàng quân. Vừa khi ấy hàng quân có lệnh dừng lại để nhường đường cho một đoàn xe vận tải vượt lên trước. Ánh đèn pin dẫn đường cho đoàn xe quân sự không biết vô tình hay hữu ý đã quét qua mặt cô gái. Lập tức đám bộ đội nhao nhao lên.
- Chà, đẹp quá!
- Ôi, nàng tiên nữ áo xanh!
- Em ơi, chờ anh về nhé!
- Cho anh gửi lại tí tình trong người hậu phương nhá!
- Anh ra chiến trường để bảo vệ nhan sắc cho em đây, em gái ơi!...
Ngay cả Minh Việt khi nhìn thấy ánh đèn lướt qua mặt cô gái cũng sững sờ vì vẻ đẹp của cô ta. Nhưng Minh Việt còn kinh ngạc hơn khi nhận ra người đứng đó không phải ai khác mà chính là cái Lý! Khi đoàn xe quân sự cùng đơn vị bộ đội đi qua, ngã tư Cống Đá trở lại yên lặng, Minh Việt chui ra khỏi chỗ nấp cũng là lúc không nhìn thấy cái Lý đâu nữa. Lạ thật! Đám trai tráng như Minh Việt khi đi qua Cống Đá còn nổi gai người, phải nín thở đi cho nhanh vậy mà cái Lý lại dám ra đó đứng vào lúc đêm hôm thế này thì thật không hiểu nổi. Mà sao cái Lý lại xinh đẹp như văn công thế nhỉ? Không phải khuôn mặt của cái Lý mà đám trai Tứ Phủ vẫn chế nhạo mà là một khuôn mặt khác, như đã được hóa trang, đẹp như cô diễn viên chính trong vở kịch bữa trước Minh Việt mới được xem. Lại cả chiếc áo xanh nữa. Có thể đó là chiếc áo mà mợ đã dẫn cái Lý đi may. Và đó là một chiếc áo rất ấn tượng khi được một đứa con gái như cái Lý mặc vào. Ngày thường chẳng bao giờ cái Lý dám ăn diện. Trong khi mọi người đang phấn đấu khoác lên mình chiếc áo thợ lam lũ thì ăn diện là tội lỗi. Người đẹp như mợ không ăn diện đã đành, người xấu như cái Lý mà ăn diện thì lại càng trở nên lố bịch. Nhưng hôm nay Minh Việt thấy cái Lý rất đẹp. Và rõ ràng là nó đã làm sửng sốt cả một hàng quân. Đến chính Minh Việt cũng bàng hoàng cả người. Tai sao mọi ngày Minh Việt lại không nhận ra điều ấy ở cái Lý nhỉ? Minh Việt loay hoay với ý nghĩ đó cho đến hết đoạn đường còn lại. Nhưng sau một đêm ngủ dậy, sáng hôm sau Minh Việt không còn vương vấn gì về chuyện của đêm trước nữa. Chưa bao giờ cái Lý là mối bận tâm của Minh Việt, xưa nay vốn dĩ vẫn thế, huống hồ lúc này hình ảnh của cô bé Cói còn đang chiếm lĩnh đầu óc Minh Việt.
Quả thật là Minh Việt rất hay nghĩ về Cói.
Ở Cói cái gì cũng như hơi quá một tí. Đôi mắt hơi to quá, bộ ngực hơi đầy quá, đôi môi hơi dày quá, thân hình hơi cao quá, cặp mông hơi đẫy đà quá... Và lạ một điều là trên khuôn mặt Cói cũng có một nốt ruồi nằm bên cánh mũi giống y như của mẹ Mến. Tất cả cứ xổ hết ra, nần nẫn, quyến rũ, đam mê, bắt nhiệt ghê gớm. Mà Cói không có ý giữ gìn gì hết. Cói hoang dại. Cói tự nhiên. Cói hơ hớ. Cói minh bạch. Cói thích hay không thích, Cói ghét hay yêu, chỉ một ánh nhìn, một câu nói là rõ ngay. Dòng máu Pháp trong Cói quy định điều ấy chăng? Dòng máu của người cha trong Cói đang phải chảy một cách bức bối trong một cơ thể bị trói buộc bởi quá nhiều tập tục, lề thói của quê mẹ chăng?
Chỉ biết rằng Minh Việt đã bị hút vào dòng máu ấy và cậu trai mười tám tuổi không thể dứt ra nổi. Minh Việt như muốn trở về làm dân Xóm Đáy. Bố, mợ đều nghĩ Minh Việt về xóm cũ chơi cho cậu Chột đỡ buồn, cũng coi như là sự trả lỗi với bà Quản. Có lần cậu Chột bảo:
- Giá còn mợ Quản, Việt về chơi thường xuyên thế này thì mợ vui lắm.
Minh Việt gật đầu:
- Vâng, cháu đã rất có lỗi với bà Quản.
Cậu Chột lại bảo:
- Nhưng Việt đừng thân với cái Cói quá, nó không phải người để Việt đưa về nhà được đâu.
Minh Việt hỏi:
- Tại sao?
Cậu Chột bảo:
- Cũng sẽ giống như chị Mến với bố Việt.
Minh Việt hiểu ý cậu Chột nhưng không muốn tin vào điều đó. Chẳng lẽ bố và mẹ là hai nửa quá khác biệt, đến nỗi, không thể ghép lại để thành một hình thù nào đấy, dù khó nhìn?
Bẵng đi mấy tháng, bỗng một tối, thằng Tịnh đến nhà Minh Việt. Nó không ngồi lỳ như mọi khi mà ra đằng sau, ghé vào tai Minh Việt nói nhỏ:
- Lên nhà cái Lý đi?
Minh Việt gật đầu, bỏ dở việc đóng gạch, cùng thằng Tịnh đi lên khu Trại Pháo thủ cũ. Thằng Tịnh bảo:
- Lạ lắm. Bố nó không cho ai gặp cả, cứ bảo nó đi vắng, nhưng tao biết chắc là nó có ở trong nhà.
Minh Việt không nghĩ là đã có chuyện gì xảy ra với cái Lý, chẳng qua thằng Tịnh quá quan tâm mà sinh lo lắng đấy thôi. Nhưng quả đúng như thằng Tịnh nói, khi hai đứa vừa bước vào nhà, bố cái Lý bảo ngay:
- Em nó sang Phòng chơi với cô rồi, nhà còn mỗi mình chú thôi, chúng mày có uống rượu với chú không?
Minh Việt nhìn vào mắt bố cái Lý thấy hơi ghê ghê. Trong đó là cả một chảo lửa đang bị nén lại. Hai đứa ngồi nhìn nhau, e ngại rồi bấm áo chào ra về. Ra khỏi nhà thằng Tịnh bảo:
- Tao với mày vòng ra phía sau khu đầm cạn, thử nhìn vào buồng của cái Lý xem nó có nhà không?
Minh Việt gật đầu đồng tình. Sau khi đi qua gờ đất chạy men theo khu đầm cạn, hai đứa tới được phía sau nhà ông phó chủ nhiệm Hợp tác xã. Buồng của cái Lý được dựng bằng những mảnh sắt cũ có chen giấy dầu. Thằng Tịnh bóc một mảng giấy dầu ra, đủ cho hai đứa ghé mắt nhìn vào. Minh Việt nín thở khi thấy cái Lý đang đứng ở trên giường cởi áo. Ngọn đèn hoa kỳ nhỏ như hạt đỗ tỏa ánh vàng mờ mờ khắp gian buồng. Dáng cái Lý chập chờn, chập chờn. Sau lớp áo được cởi ra, cả một vùng bụng cái Lý đập mạnh vào thị giác Minh Việt. Đó là một vùng bụng được buộc chặt bởi mấy lớp vải, quấn trong cùng hình như là một chiếc khăn len. Khuôn mặt cái Lý mệt mỏi. Ánh mắt nó trống rỗng. Tháo cởi hết phần trên của cơ thể ra, nó nằm ngửa trên giường, cứ để cho cái bụng lùm lùm ấy nghếch lên, vẻ buông xuôi, bất cần. Bỗng có tiếng gõ cửa buồng. Cái Lý vội bật dậy khoác tấm áo lên người rồi chạy ra mở cửa. Bố nó bước vào. Hai cái chảo lửa trong mắt ông bây giờ không kìm nén được nữa, bùng phát ra những tia bỏng rẫy.
- Nhục chưa? Có bó được mãi không? Sao mày không lao xuống chân cầu kia mà chết đi cho tao khỏi hổ mặt với đời?
Cái Lý cúi gằm mặt xuống, đáp lí nhí:
- Mai con sang Phòng với cô...
Nhưng nó chưa nói hết câu thì đã bị bố vung tay tát cho một cái ngã ngồi xuống giường.
- Cô hả? Cô phải hứng tiếng nhục cho mày à? Rồi còn mang tiếng suốt đời cơ con ạ. Ai bảo mày đi rước cái khốn nạn này vào nhà tao làm gì. Mày có biết bố mày khổ thế nào không? Mấy tháng nay rồi tao không dám ngẩng mặt lên nhìn ai. Vừa rồi lại có hai thằng bạn mày tìm đến đấy. Rồi mày còn mặt mũi nào mà nhìn chúng nó nữa không?
Minh Việt không chịu nổi nữa, khẽ kéo tay thằng Tịnh rút êm ra khỏi khu đầm cạn. Thằng Tịnh lặng lẽ đi sau Minh Việt, không nói một câu nào. Cảm xúc trong nó đã chết lịm. Đến ngã tư Cống Đá, nó bảo: “Mày ngồi đây chờ tao, tao chạy về nhà một tí rồi ra ngay”. Lát sau nó mang ra một chai rượu Lúa mới. Nó cứ tu một hớp lại đưa cho Minh Việt. Hai đứa chuyền tay nhau tu một lúc thì hết chai rượu. Thằng Tịnh vẫn tỉnh như không. Nó bảo:
- Thôi về!
Minh Việt bảo:
- Đã mấy lần tao nhìn thấy nó đứng ở đây, giơ tay vẫy bộ đội...
Thằng Tịnh phẩy tay:
- Thôi, tao biết rồi. Tao còn biết cả lần nó đi xem kịch với mày, nó xin phấn son thừa của mấy cô văn công nữa cơ.
Minh Việt ngạc nhiên:
- Thế à? Thảo nào đêm ấy tao thấy nó đẹp một cách ma quái, đẹp đến mức...
- Thôi, mày nói làm gì nữa - Thằng Tịnh cắt lời - Ở cái phố này có thằng nào nhìn nó là người đâu, chúng mày chỉ nhắc tới nó khi nói về sự xấu xí thôi. Tao nói thật nhá, chúng mày là một lũ ngu, mắt chúng mày là mắt lợn luộc hết. Thôi, đi về!
Về đến nhà thì Minh Việt say. Nửa đêm Minh Việt nôn thốc nôn tháo ra giường. Mợ phải dậy lấy vôi bôi vào gan bàn chân cho Minh Việt. Bố bực bội cáu gắt um lên. Tiếng bà nội, tiếng bố, tiếng mợ, tiếng cu Đức khóc nhòa lẫn trong khối óc giờ đây đã mềm nhũn của Minh Việt. Minh Việt thiếp đi, chìm vào giấc li bì, mãi đến khi có người lay dậy thì Minh Việt mới choàng tỉnh. Nhưng cái người đánh thức Minh Việt dậy ấy lại thông báo một tin vô cùng kinh ngạc: Cái Lý chết rồi!
Minh Việt bật dậy như một chiếc dây chun đứt. “Chết ở đâu?”. “Ở cống Đá”. “Sao lại chết ở cống Đá?”. “Chết đuối!”. “Chết đuối làm sao được? Chỗ ấy chỉ là một con mương nhỏ”. “Vậy mà chết đuối đấy, chết trong tư thế ngồi”.
Cả ngày hôm ấy mợ lo khâm liệm cho cái Lý. Mợ mang tất cả phấn son của mợ đến trang điểm cho người chết. Minh Việt bảo:
- Mợ ơi, hôm qua con say là vì thấy cái Lý khổ quá.
Mợ bảo:
- Khốn nạn cho lũ con trai chúng mày. Mà cũng khốn nạn cho nó. Nó muốn đẹp mà không ai cho, không ai nhận, đến khi được cho, được nhận thì lại phải chết.
Đám tang cái Lý buồn khủng khiếp. Lần đầu tiên Minh Việt bị ám ảnh bởi ranh giới nhỏ nhoi giữa cái sống và cái chết. Minh Việt đã thực sự là một chàng trai trưởng thành. Và Minh Việt hiểu ra rằng ám ảnh về cái chết là nỗi ám ảnh dai dẳng, có sức đeo bám con người ta ghê gớm nhất. Với Minh Việt, đây không phải là nỗi ám ảnh đầu tiên và, tất nhiên, cũng chưa phải là cuối cùng.
Chú thích:
[1] Hay còn gọi là Chuông sầu, Chuông tử báo có người chết trong xứ đạo.
[2] Lễ tang tổ chức trong nhà thờ.
Chương 7
Khi thằng Đức được vài tuổi thì mợ lại chuyển về bộ phận nấu ăn của Cửa hàng ăn uống dịch vụ Ngã Năm. Cứ vài ba ngày mợ lại mang về đầy một cặp lồng mỡ. Có hôm mang theo cả một bịch tóp mỡ to. Tóp mỡ là thức ăn rất được ưa chuộng thời ấy. Từ tóp mỡ có thể chế biến ra nhiều loại thức ăn khác. Nào băm nhỏ cho vào sốt với mắm tôm, với cà chua, với các loại canh, nào trộn với trứng để tráng, nào cho lẫn vào dưa chua kho với cá, nào dùng để rang cơm nguội, hoặc đơn giản, đảo lại trên chảo một lần nữa rồi cứ thế chấm mắm ăn với cơm. Tóp mỡ nhà Minh Việt thường ăn không hết, thỉnh thoảng mợ lại dúi cho nhà hàng xóm. Đó là những nhà không có người trong biên chế, không có tiêu chuẩn tem phiếu. Với họ, mỡ lợn là thứ thèm kinh niên. Vì thế nhận dúm tóp mỡ mợ đưa cho, những nhà ấy nhìn mợ cảm động rớt nước mắt. Mợ chỉ có thể xẻ chia được với họ vài ba miếng tóp mỡ thế thôi, còn mỡ nước thì phải gom lại để bán. Mợ thường bán mỡ cho một người ở trong xóm Khơ-me. Sau này mợ giao việc đó cho Minh Việt. Lần đầu tiên đặt chân vào xóm Khơ-me Minh Việt rất ngạc nhiên. Gọi là xóm Khơ-me nhưng cả xóm chỉ có một người Khơ-me duy nhất, đó là cái người vẫn thường mua mỡ nước của mợ. Nghe bố kể lại, vào những năm cách đây đã lâu có một trăm thiếu niên người Khơ-me được đưa về đây sinh sống. Bố mẹ họ là những nạn nhân của chiến tranh, họ được chính phủ ta nhận đưa về đây nuôi nấng. Đất nước họ ở đâu, quê quán, làng mạc của họ ở đâu, không ai biết cả, chỉ biết là họ cũng như những con em đồng bào miền Nam, là những người bị kẻ thù xua đuổi và bắn giết, họ cần được giúp đỡ. Trong số một trăm thiếu niên đó có một thiếu nữ. Sau hơn chục năm sinh sống ở An Lạc, vào một đêm nọ, tất cả những người Khơ-me đó lặng lẽ rút đi. Người ta kháo nhau rằng, những người đàn ông Khơ-me đó đã bí mật về nước để cầm súng chiến đấu trả thù cho bố mẹ họ. Không hiểu sao trong lần ra đi ấy họ lại để lại người phụ nữ duy nhất đã theo họ sang đây. Có người bảo chiến tranh không phải là công việc của đàn bà con gái. Có người lại bảo đúng hôm đoàn người rút đi thì cô gái bị ốm nên họ phải để cô ta ở lại. Có người khác nữa lại bảo họ hẹn ngày về đón cô gái nhưng khi về tới nước cả đoàn đã bị phục kích giết chết nên không còn ai nhớ tới việc quay trở lại nữa. Lại có người bảo trong số chín mươi chín người đàn ông Khơ-me đó có một người là chồng của cô gái. Người này là thủ lĩnh của đoàn nghĩa sĩ Khơ-me phục quốc, sau khi về nước, trở thành người rất có thế lực. Nhưng rồi trong một trận chiến người này đã bị bắn chết. Người phó của vị thủ lĩnh lên thay. Người phó này từng rất yêu cô gái Khơ-me đang sống ở đất An Lạc, nhiều lần cho người sang đón cô ta về nhưng cô ta không về. Người kể câu chuyện này còn khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng chính người phó đã dùng súng ngắn của mình hạ sát chồng cô gái Khơ-me kia vì họ từng là tình địch của nhau. Tóm lại chuyện về xóm Khơ-me chẳng biết đâu mà tin. Theo lời chỉ dẫn của mợ, Minh Việt hỏi tìm đến nhà bà Khơ-me để đưa mỡ nước và lấy tiền chịu từ mấy lần trước. Cả xóm này đều gọi người đàn bà đó là bà Khơ-me, vì thế Minh Việt tìm nhà bà ta không khó khăn gì. Minh Việt cứ nghĩ đó là một người đàn bà đã già, ít ra cũng phải bằng tuổi mợ. Nhưng khi giáp mặt Minh Việt không biết phải gọi cái người đang đứng trước mình là cô, là bác, là bà hay là chị? Người phụ nữ này chỉ trạc hai sáu, hai bảy tuổi thôi. Chị ta mặc một chiếc váy đen có thêu những hình tháp bí ẩn bằng chỉ màu. Áo chị ta mặc màu trắng ngà. Cả áo và váy đều cũ kỹ, sờn mòn nhưng sạch sẽ. Khuôn mặt của chị xương xương, cằm hơi nhọn, đôi môi mỏng và tươi. Bên cánh mũi của chị cũng có một nốt ruồi nhưng không to như của mẹ Mến. Chị ta dường như không để ý đến thái độ ngạc nhiên và xét nét của Minh Việt, cứ nói cười luôn miệng, cởi mở và thân tình như đã quen biết từ lâu. Trong bếp nhà chị tỏa ra một thứ mùi rất thơm, mùi của bánh quế. Thì ra những cặp lồng mỡ nước được đưa đến đây là để làm thứ bánh rất quyến rũ trẻ con này. “Vào đây đã, em là con lớn của bác Nguyên Bình à? Ôi, con trai mà giống mẹ thế, xinh trai quá!” - Bà Khơ-me khen Minh Việt thế. Trong khi Minh Việt có ý sốt ruột chờ lấy tiền mang về cho mợ thì bà Khơ-me lại chả nói năng gì đến chuyện ấy, cứ quay ra hỏi những chuyện về bố, mợ và các em. Rồi ép Minh Việt ngồi xuống ghế “chờ chị một tí, một tí thôi”. Sau một tí ấy là xấp bánh quế còn nóng được mang từ bếp ra, đặt trên một chiếc đĩa có hình dáng rất lạ. “Ăn đi, Việt ăn đi, chị vừa làm bánh bằng mỡ của Việt mang đến đấy”. Minh Việt gãi gãi đầu bối rối. Thứ bánh quế này cái Vân rất thích. Thường thì Minh Việt chẳng bao giờ được ăn vì đó là thứ bánh dành cho trẻ con. Minh Việt là anh lớn trong nhà, ai lại ăn tranh với cái Vân thứ bánh ấy. Nhưng bây giờ thì Minh Việt được ăn cả một đĩa, do người ta mời hẳn hoi, rất đàng hoàng. Mùi bánh quế quệt mỡ bốc lên thơm ngậy. Nhưng mà Minh Việt còn chưa biết bà Khơ-me tên là gì? Chắc chắn chị ta phải có một thứ tên gọi nào đấy, thậm chí đó là một cái tên gợi nhắc sự trẻ trung và duyên dáng. Minh Việt liền chủ động hỏi:
- Cô ơi, tên cô là gì?
Bà Khơ-me tủm tỉm cười:
- Không muốn gọi là Bà Khơ-me nữa à?
Minh Việt bảo:
- Cháu nghĩ là cô phải có một cái tên khác, tên thật của cô ấy mà.
Người đàn bà đang ngồi trước mặt Minh Việt bỗng tắt ngay nụ cười trên môi. Chị ta cúi nhìn những hình tháp thêu trên váy, nói như thầm thì với chính mình:
- Ừ, chị có tên chứ. Tên chị là Vi Lay. Những ngày đầu mới sang đây mọi người thường gọi chị là Vi. Có một người bây giờ vẫn còn gọi chị là Vi, ấy là mẹ Việt. Thôi, Việt cầm tiền về cho mẹ đi. Bánh ăn không hết thì mang về cho em.
Bà Khơ-me gói chỗ bánh quế mà Minh Việt chưa kịp ăn vào giấy rồi ấn vào tay anh. Minh Việt không đưa chỗ bánh quế ấy về cho cái Vân mà mang lên Xóm Đáy cho Cói. Cói báo cho Minh Việt tin cô đã chính thức trở thành tự vệ trực chiến phòng không của xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy. Vậy là không khí chiến tranh đã tràn tới mọi ngóc ngách của thị trấn An Lạc. Minh Việt cũng đã gia nhập tự vệ khối đường phố. Thị đội hướng dẫn cho các lực lượng tự vệ lập nhiều ụ pháo phòng không, có một ụ ở cổng Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy và một ụ ở phía sau Nhà thờ. Minh Việt sẽ trực chiến ở ụ pháo Nhà thờ. Minh Việt bảo với Cói:
- Pháo anh sẽ chi viện cho pháo em.
Cói kể:
- Hôm qua tập vác đạn thử, em vác được nặng nhất, chạy cứ băng băng. Các chú ở Xí nghiệp bảo em có sức khỏe tốt, mai này sẽ xét cho vào làm công nhân hàn. Nhưng mà đội mũ sắt buồn cười lắm. Cứ sụp xuống đầu, nặng ơi là nặng! Mai bọn em sẽ tiếp tục tập phất cờ, tập nạp đạn, tập lấy phần tử...
Minh Việt bảo:
- Ở chỗ anh có chuyện ghê lắm, hôm đào công sự lôi lên toàn xương người.
Cói trợn tròn mắt:
- Thế á? Eo ơi, kinh nhỉ?

Đúng là khi đào công sự cho ụ pháo Nhà thờ, tự vệ đường phố đã liên tục đào phải xương người. Có những bộ xương thiếu chân, thiếu tay, đào tìm mãi vẫn không thấy. Có bộ xương lại chẳng thấy đầu đâu. Mọi người hoang mang không dám nhập tiểu. Sau bác Mộc bảo: “Thôi, đào tìm làm gì nữa, đây toàn là những chiến sĩ của ta bị địch bắt, chúng nó cắt chân, cắt tay rồi mới đánh cho chết, làm sao tìm đủ được xương cốt. Cứ nhập tiểu đi, để tôi khấn xin anh em thông cảm cho”. Lần đầu tiên nhìn thấy xương người, Minh Việt cứ thấy gai gai, ơn ớn. Dân đổ đến xem chật cứng. Ông Mật rỗ bảo: “Tí nữa thì tôi cũng nằm trong đống xương này rồi”. Sang đến hôm sau có người đến nhận cốt người thân. Cũng là nhận vu vơ thôi chứ toàn xương với cốt thế kia biết đâu là người nhà mình? Minh Việt tìm thấy cả những đoạn dây trói bằng nhựa lồng trong ống xương tay. Nhiều người khóc lóc, kêu gào thảm thiết rồi ngước nhìn đôi mắt quắc ánh căm hờn về phía tòa thánh đường bỏ không. Bác Mộc quyết định cho khai quật tiếp phần hầm mộ dưới nền đất nhà thờ. Người ta tìm thấy rất nhiều thứ nhưng xương người thì không có một mẩu nào cả. Thị ủy đứng ra tổ chức lễ truy điệu cho những người chết rồi đưa họ về an táng ở nghĩa trang liệt sĩ. Hai mươi tám tấm bia mộ được dựng lên nhưng tất cả đều ghi là Liệt sĩ vô danh.
Sau lễ truy điệu, Minh Việt cứ tha thẩn đi lại trong khu thánh đường bỏ không. Anh trèo cả lên tháp chuông, chui xuống hầm mộ, vòng ra phía nhà nguyện, ngó cả vào nhà xứ. Minh Việt bỗng bần thần nghĩ tới việc chính tại nơi đây mình đã ra đời. Hai bên hông nhà thờ vẫn còn vài ba gốc liễu buông những hàng lá thưa mỏng. Nghe bảo trước đây dương liễu được trồng hai hàng thẳng tắp, lá xanh mướt bốn mùa, cha Phăng vẫn bẻ lá để rẩy nước làm phép thánh cho những đứa trẻ sơ sinh. Bây giờ hai hàng liễu chỉ còn vài nhánh thô kệch, cong queo, gập mình bên những bức tường xám mốc của Nhà thờ. Cây liễu nào cha Phăng đã bẻ để làm lễ rửa tội và đặt tên thánh cho Minh Việt? Không, Minh Việt không thể tin nổi cuộc đời mình đã từng có những tháng ngày sống trong môi trường đậm đặc màu sắc tâm linh như thế này. Trên những mảng tường nhà thờ vẫn còn những nét vẽ diễn tả những hình người ngộ nghĩnh, xa lạ, bí ẩn mà ám ảnh. Tất cả đều bị mạng nhện giăng kín. Không có hình vẽ nào giống khuôn mặt mẹ Mến cả. Không có hình vẽ nào mang dáng dấp bà Quản. Không có hình vẽ nào gợi nhắc cái quá khứ xa xưa chưa kịp đi vào tiềm thức của Minh Việt. Và tất nhiên, cũng không có hình vẽ nào làm Minh Việt liên tưởng đến những bộ xương người mà anh vừa mới trực tiếp đào lên từ bãi đất sau vườn Nhà thờ. Thế mà Minh Việt cứ thấy trong người có một cảm giác rất lạ. Dù ít dù nhiều qua những câu chuyện bà Quản kể thủa ấu thơ, Minh Việt vẫn lưu giữ đâu đó trong sâu thẳm máu thịt mình một sự liên quan đến khu thánh đường này. Nhưng cái sự liên quan ấy nó như thế nào, cụ thể là cái gì thì Minh Việt chịu, không thể nào gọi tên ra được.
Toàn bộ khu nhà nguyện, nhà kho, nhà xứ đều bỏ không hoặc đổ sụp. Đám dân mới chẳng mấy khi mò vào nhà thờ, chỉ có bọn trẻ con tìm vào đây chơi trò đánh trận giả. Ngày còn nhỏ Minh Việt cũng đôi ba lần vào đây để mót cam và đào củ chuối. Nhưng bây giờ thì khu vườn chẳng còn thứ gì ăn được, toàn cây tạp mọc xen kẽ với những đống rác to lù lù, chuột chạy suốt ngày đêm. Trận địa pháo phòng không được đặt ngay khu đất sát liền với mảnh vườn hoang của nhà thờ. Từ những ụ pháo này có thể nhìn qua khu đầm rộng thấy nóc đền Bà Sùng lấp ló phía sau rặng tre bao bọc thôn Khúc Trì. Ngày xưa bố Minh Việt đã đánh nhau với bọn lính Com-măng-đô đóng trong ngôi đền đó và trong số những vết sẹo ở chân ông bây giờ vẫn còn găm một mảnh đạn chưa lấy ra được. Bố còn bảo: “Cái Nhà thờ ấy ác thật, nếu không có đám dân binh bất ngờ vượt đầm lao sang thì nhổ được cái bốt Bà Sùng rồi”.
Sau cái hôm đào xương người được độ nửa tháng thì các trận địa phòng không gặp báo động. Đó cũng là ngày trận địa pháo của Minh Việt có dịp khai hỏa.
Bắt đầu là một hồi còi rú trên đỉnh núi. Rồi kẻng báo động vang lên. Tiếng kẻng chạy suốt từ đầu núi Cô Hồn, kéo một vệt dài xuống ngã Năm, vòng qua phố Tứ Phủ, dốc ngược lên khu Xóm Đáy. Rồi không phân biệt nổi kẻng ở khu nào gõ nữa. Cả thị trấn đều ran lên bởi tiếng kẻng, tiếng còi báo động, tiếng loa tay. Bom bỏ bên Phòng rồi. Người ta thì thầm vào tai nhau những thông tin khủng khiếp. Những tiếng ầm ì từ xa vọng về khiến người dân thị trấn lo lắng. Không biết đến khi nào thì bom nó bỏ xuống chỗ mình? Không biết pháo của mình có bắn trúng được máy bay của nó không? Nghe bảo trong núi Cô Hồn còn có cả tên lửa, nếu pháo bắn không trúng thì tên lửa sẽ phụt ra, chắc chắn máy bay nó sẽ rụng ngay tắp lự. Nhưng mà trúng thì nó sẽ như thế nào nhỉ? Nó vỡ toác ra hay là nó cháy thành tro bụi? Họa lỡ nó rơi vào nhà mình thì sao? Thế cho nên tốt hơn hết là khi nghe thấy tiếng kẻng cứ chui ngay xuống hầm. Cả nhà Minh Việt cũng chui xuống hầm. Bà nội bế cu Đức, thằng Đình dắt cái Vân, đứa nào vào góc của đứa ấy, như chỉ định từ trước của bố. Hầm nhà Minh Việt là hai cái cống bi nối liền nhau thông vào với một khoảnh hầm chữ A lợp mái sắt. Hai cái cống bi là do bố xin được ở dưới công trường, còn sắt lợp mái hầm là do Minh Việt mò vớt ở dưới sông, phía sau Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy. Bố và Minh Việt đã chuẩn bị sẵn chỗ trú ẩn cho cả nhà, lại dặn dò cẩn thận từng người, hễ có kẻng báo động cứ chạy ra hầm, chờ kẻng báo yên mới được lên. Ban ngày bố, mợ, Minh Việt đều không có nhà, mọi sự giao phó tất cho bà nội. Thằng Đình cũng đã lớn, có trách nhiệm trông cái Vân và giúp bà đậy, mở nắp hầm. Minh Việt liên tục trực ở ụ pháo. Cứ tưởng tập luyện thế thôi chứ chắc gì đã đánh nhau. Thằng Mỹ nó ở mãi trong miền Nam, bay ra được đến đây cũng còn lâu. Thế nên hôm ấy khi nhìn thấy chiếc máy bay nó bay qua đầu Minh Việt cũng hơi hoảng. Nhưng rồi khẩu đội trưởng ra lệnh cho mọi người vào vị trí và hạ lệnh bắn thì Minh Việt cũng quên biến mất cả sợ hãi. Nó chỉ có mỗi cái máy bay, lại ở tít trên cao kia, còn toàn bộ dưới mặt đất này là của mình, sợ đếch gì, cứ nhằm cho kỹ, bắn cho nó tan xác ra chứ việc gì mà phải còi, kẻng ầm ĩ cả lên để nó ngồi trên đấy nó nhìn thấy mình chạy tán loạn nó cười cho. Mà nghe tiếng đạn nổ mới sung sướng làm sao. Rú... đoành!, rú... đoành! Đầu đạn kéo theo một vệt khói dài, vẽ vào khoảng không rồi tan biến đi, tỏa mùi diêm sinh nồng nặc. Khẩu pháo mà Minh Việt tiếp đạn vẫn khai hỏa chậm hơn pháo của Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy. Đạn ở phía ấy bắn lên trời rồi các pháo thủ ở chỗ Minh Việt mới lấy được phần tử. Các anh trên Thị đội bảo điều ấy là đương nhiên vì trận địa phòng không bố trí theo kiểu đánh chặn địch bay từ hướng biển vào. Ụ phòng không Hai Bảy tháng Bảy đặt ở cửa sông nên sẽ phát hiện ra máy bay địch trước. Mà không chỉ có hai trận địa pháo phòng không của tự vệ Xí nghiệp và tự vệ Đường phố bắn mà còn có cả pháo ở chân cầu Lãng Tiên, pháo ở trên núi Cô Hồn, pháo ở đằng sau nhà Ủy ban, pháo ở khu Thị đội. Pháo to, pháo nhỏ, mười hai ly bảy, RBD, các loại cối, các loại súng bộ binh... đồng loạt nhả đạn. Nhưng chỉ được vài loạt đã không còn mục tiêu nữa để mà bắn. Chiếc máy bay lượn một vòng ngắn ngủi rồi vút ra phía cầu Lãng Tiên và loáng cái đã biến mất làm mọi người chưng hửng, không ngờ trận đánh diễn ra chỉ có tí tẹo thế. Kẻng báo yên lại rộ lên. Mọi người đổ ra đường chuyện trò bàn tán sôi nổi, có phần rôm rả nữa. Thực ra người dân thị trấn đâu có xa lạ gì với những cuộc chiến “đất đối không” như thế này. Giai đoạn sáu tư, sáu tám thị trấn An Lạc cũng đã từng là một cái chảo lửa đấy thôi. Chẳng qua dăm năm trở lại đây người ta quen với sự yên bình rồi. Người lớn thì đã muốn quên còn trẻ em thì chưa kịp nhớ những gì xảy ra hồi ấy. Bây giờ thoáng chốc tất cả lại hiện về như ngày nào. Người lớn lập tức nhớ lại những cảnh hãi hùng và nghĩ ngay đến chuyện phải làm gì để thích ứng với việc chiến tranh đã lại nổ ra ngay trên đầu mình. Trẻ con thì mở căng đôi mắt âu lo và tự giải thích theo kiểu của chúng. Chỉ có lứa Minh Việt là sẵn sàng chờ đợi và sẵn sàng ngẩng mặt lên nhìn trời, mặc dù cũng có đôi chút e dè ban đầu. Bây giờ thì không còn gì để mà phải e dè nữa. Với một biển lửa giăng sẵn như thế này, cái tàu bay sắt lơ lửng trên trời kia chẳng có gì đáng phải lo sợ cả. Minh Việt đã tự lẩm bẩm nói một mình như thế và mắt trước mắt sau, bỏ công việc lại cho đồng đội, chạy một mạch lên chỗ Cói. Cói đang tắm ở chỗ cửa sông. Minh Việt nhảy ùm xuống, ngay bên cạnh Cói, khỏa nước tung tóe, quẫy sóng ầm ầm với một niềm sung sướng tràn trề. Minh Việt đang có cái cảm giác của người chiến thắng. Minh Việt thấy như chính mình là người duy nhất đã đuổi được chiếc máy bay kia ra khỏi vùng trời An Lạc. Cói cũng đang mang tâm trạng như của Minh Việt. Và hai người thả sức trút niềm phấn khích xuống vùng nước trước cửa sông. Họ nô giỡn như hai con cá, hả hê và bung phá, ào ạt và mê mải, thích thú và say sưa, cho đến khi Minh Việt chợt nhận ra sự quá đà, vội rẽ nước lượn vào bờ. Hành động của Minh Việt quá bất ngờ và cương quyết, như thể chỉ chậm một chút nữa thôi anh sẽ bị con Hà Bá dưới dòng nước kia cuốn vào cõi chết, không sao gỡ ra được. Nhưng Cói không cho Minh Việt thoát dễ dàng thế. Minh Việt vừa xoãi mình lao đi thì Cói túm ngay lấy cẳng chân của anh lôi lại. Cói ôm chặt lấy đầu Minh Việt, ghì mặt anh vào bộ ngực dập dềnh êm ái của mình. Minh Việt cảm nhận được sự mềm mại của bầu vú Cói sau lớp vải sũng nước. Cói có một bộ ngực to quá khổ, các thiếu nữ An Lạc không ai có bộ ngực đầy tràn như thế. Bộ ngực mà Minh Việt đang úp mặt vào đấy như hai hòn đá lửa bắt cháy các đầu dây thần kinh của anh. Trong người Minh Việt bỗng có một sức nóng ghê gớm trào lên các thớ thịt, tỏa ra trên mặt da. Nhưng cũng ngay lập tức hình ảnh cái Lý như một dòng nước lạnh chạy dọc người Minh Việt. Cái bụng buộc chặt bởi một bó những khăn khố của nó như còn đang hiển hiện trước mắt anh. Cả cái tư thế chết ngồi của nó nữa. Không được! Khủng khiếp lắm! Sự thả lỏng thân xác vào lúc này sẽ là nguyên nhân dẫn đến kết cục bi thảm như cái Lý. Còn bố nữa. Bố cũng đang phải ngậm hờn, ngậm tủi với những công việc nặng nhọc ở dưới huyện miền biển kia. Cái giá phải trả cho những phút giây chấp chới như thế này là vô cùng lớn, Minh Việt không đủ sự nhẫn nại để trả đâu. Minh Việt cố sức vùng vẫy ra. Nhưng Cói cứ ôm cứng lấy anh. Hai đứa vào đến bờ thì mệt lả. Minh Việt nằm vật trên lớp cói bám đầy phù sa. Cói nằm vắt lên người anh. Cói thở hổn hển nhưng ánh mắt ngời lên những tia mê dại. Rồi Cói lại quắn lấy người Minh Việt, phả lên mặt anh những cái hôn cuồng nhiệt. Bỗng Cói bật hàng cúc áo ngực ra. Cói nâng mặt Minh Việt lên, ấp vào bấu vú trinh nguyên ấy. Bụng dưới Minh Việt đau tức. Các thớ thịt như đông đặc lại. Cả chút lý trí cuối cùng cũng không còn chỗ để giãn nỡ nữa. Minh Việt chồm lên người Cói. Lời Cói dồn dập bên tai Minh Việt:
- Đừng sợ! Sẽ không sao đâu.
Minh Việt vục đầu vào giữa hai khe vú của Cói. Rồi anh ngậm chặt lấy đầu ti hồng hồng như cánh sen non đang nhấp nhô trên ngực Cói. Cói ghì chặt lấy bờ vai Minh Việt. Hai bàn tay Cói vuốt xuôi xuống dưới lưng rồi bấu chặt lấy eo hông anh. Tay Minh Việt thả sức lần mò, khám phá cơ thể Cói. Đúng lúc Minh Việt đang thở dốc, thân nhiệt đã bốc cao đến độ tan chảy cả cái hình thể rừng rực giới tính thì tiếng còi hú trên đỉnh núi Cô Hồn bỗng vọng tới, réo khắp triền sông. Rồi kẻng phòng không từ xa lan tới, rõ dần, thôi thúc, dồn dập. Mớ âm thanh hỗn loạn này lập tức đẩy lui mọi cảm xúc đang dâng tràn ngập trong người Minh Việt. Cói cũng lỏng người ra, rồi rất nhanh, lách khỏi vòng tay Minh Việt. Cói vừa đóng lại cúc áo vừa hớt hải chạy về phía Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy. Vừa chạy Cói vừa như muốn nói điều gì đó nhưng không nói được, chỉ đưa tay chỉ chỉ lên trời, rồi lại chỉ về phía Xí nghiệp. Minh Việt hiểu là ai phải trở về với vị trí chiến đấu của người ấy, chuyện đang dang dở sẽ được tiếp tục vào lúc khác. Minh Việt gật gật đầu và mặt bỗng dưng đỏ dừ.
Minh Việt không vội vàng như Cói. Anh ra mép sông gột rửa qua đầu tóc rồi mới chạy về phía Nhà thờ. Những tiếng nổ bắt đầu rộ lên ở khoảng này khoảng kia của thị trấn. Và những cột khói bốc lên, đậm đặc ở phía cầu Lãng Tiên. Chạy về gần tới Nhà thờ thì Minh Việt cảm nhận được một cái gì đó thực sự là chiến tranh đang bủa vây xung quanh mình. Tiếng nổ lúc này trở nên dai dẳng và khó chịu. Trên trời không phải chỉ một mà từng tốp máy bay đang tuần tự lao vào bắn phá thị trấn. Chúng không vội vàng, hốt hoảng, hay cúp đuôi chạy một mạch như cách diễn đạt của bảng tin đường phố mà hùng dũng tiến vào, thản nhiên nghiêng mình trút bom, thản nhiên phụt đạn xuống các trận địa phòng không. Chúng thực hiện công việc của mình một cách cần mẫn và kiên trì.
“Cháy rồi! Cháy rồi!”.
Bỗng có tiếng hô của ai đó bật ra từ dưới hố trú ẩn cá nhân. Tiếng hô ấy ngay lập tức kéo thành một chuỗi hò reo vui mừng. Nhưng những tiếng reo hoan hỉ ấy không kéo dài được lâu. Trên trời vẫn sầm sập những bất trắc và chỗ này chỗ kia của thị trấn vẫn bùng lên những cột khói hình nấm trước khi xòe ra như một đám mây đen. Minh Việt lao vào dòng người tiếp đạn đang hối hả dưới chân hào quanh ụ pháo. “Bê năm hai! Kìa bê năm hai!”. Những tiếng kêu ngạc nhiên, cả một chút lo âu ập vào tai Minh Việt. Minh Việt đang nấp ở dưới hào cũng cố ngẩng lên nhìn xem cái “Pháo đài bay” của thằng Mỹ nó thế nào. Trong các buổi huấn luyện các chú ở thị đội vẫn thường hay nói nhiều về cái thứ máy bay này. Bây giờ thì cái thứ ghê gớm ấy nó đang ở trên đầu kia. Và nó bay về phía cầu Lãng Tiên. Ối trời ơi, cái bụng nó nhả ra sao mà nhiều bom thế kia? Chỉ cần một quả thôi là cây cầu sẽ bay ngay khỏi hai mép sông, đổ xuống nhiều thế kia thì đến cả con sông cũng biến mất chứ nói gì đến mấy sợi cáp treo mỏng mảnh vắt qua đôi bờ?
Hướng...
Tốc độ...
Cự ly...
Điểm xạ dài...
Bắn!
Điểm xạ ngắn...
Bắn!
Bắn!... Bắn!... Bắn!
Tiếng hô của người chỉ huy bắn trên mặt hào vẫn tiếp tục không ngơi. Thời gian trôi đi rất nhanh. Khi tất cả mọi tiếng nổ đều ngưng thì mọi người vẫn trong tư thế sẵn sàng nổ súng và chưa nghĩ là trận chiến đã kết thúc. Sự im ắng như lớp màn vô hình đè nặng lên tâm trí mọi người một lúc khá lâu. Cho đến khi tiếng còi trên đỉnh núi Cô Hồn réo những hồi báo yên thì mọi người mới dám ồn lên, phá vỡ khoảng không ngột ngạt bao phủ quanh mình.
- Sập cầu Lãng Tiên rồi!
- Cả trại lợn bị trúng bom, gần hai trăm con chết!
- Ụ pháo Hai Bảy tháng Bảy bị tên lửa dập, chết cả trung đội tự vệ rồi!
Những thông tin đầu tiên đưa đến làm Minh Việt bàng hoàng. Mọi người đang hối hả với việc dập tắt các đám cháy, đào dỡ những mảng tường sập, cấp cứu người bị thương, tìm kiếm những người mất tích. Minh Việt băng mình bơi qua khu đầm nước phía sau nhà thờ, men theo lối tắt cắm cúi chạy tới chỗ ụ pháo phòng không Hai Bảy tháng Bảy. Cả một vòng người đang bao quanh lấy khu đất biến dạng toang hoác. Không thể nào hình dung ra nổi vài giờ trước đây chỗ này là một trận địa với những đường hào ngang dọc, những ụ đất cao thấp, những nòng súng to nhỏ, những hòm đạn chất chồng, nhấp nhô. Một hình địa khác đã được thay thế. Thảm khốc và bi thương. Khẩu pháo đã bị ném ra ngoài công sự, nòng pháo cong gập lại, lá chắn pháo cong queo. Máu thịt trộn lẫn với đất cát, đá sỏi. Người ta đang lùa xẻng, bổ cuốc, bới tay để tìm từng xác người trong đống đất lở loét, tơi tả. Năm xác, sáu xác, tám xác, chín xác... Từng khuôn mặt được nhận diện. Có những khuôn mặt không bao giờ còn nhận diện được. Có những thân hình đàn ông, đàn bà. Nhưng cũng có những thân hình không sao biết được là đàn ông hay đàn bà. Không tìm thấy Cói mặc dù chính Minh Việt đã lăn xả vào đào bới. Minh Việt không tin rằng xác Cói đã tan ra, đã không còn nguyên vẹn hình hài, đã lẫn vào với đất cát, thậm chí đã bay xuống sông và trôi ra biển. Nhất định Cói phải còn đâu đó, có thể là đang nằm úp mặt vào lòng đất, có thể là đang ôm chặt lấy một hòm đạn, có thể bị mảnh đạn cứa ngang bụng, có thể mất một bên đùi hoặc một cánh tay, nhưng bộ ngực phải còn, eo lưng phải còn, khuôn mặt phải còn. Vòng tay của Minh Việt còn chưa kịp ôm hết tấm thân của Cói kia mà. Làm sao Cói có thể tan ra từng mảnh được?
Nhưng việc đào bới phải dừng lại vì tiếng còi trên núi Cô Hồn đã lại cất lên rồi. Người ta vội vàng đưa những xác người đi, vội vàng cấp cứu những người còn đang dở sống dở chết và vội vàng nhảy xuống hào, xuống hố cá nhân để tiếp chiến trận mới.
Trời tối sập xuống. Toàn thị trấn mất điện. Đây đó ánh đèn bão và đèn Hoa Kỳ ẩn hiện trong đêm như những đốm lửa ma trơi. Tiếng nổ lại vang lên nhưng nó không thành dàn, thành chuỗi như buổi chiều mà đơn lẻ, rời rạc. Cũng may là trận chiến không kéo dài. Sau khi còi báo yên cất lên, lập tức có lệnh cho trung đội tự vệ đường phố nghỉ ngơi, thay ca. Minh Việt mệt bã người nhưng không muốn rời khỏi hào. Nhìn sang các đồng đội cũng đều giống anh cả. Hình như họ đang cố chờ để đánh tiếp. Đến khi trung đội trưởng quát lên họ mới lục tục đứng dậy. Trong bóng tối nhập nhòa, Minh Việt nhìn thấy thằng Tịnh cùng trung đội dự bị của nó đang lầm lũi đi vào thay thế vị trí trực chiến. Trông thằng Tịnh cũng rất mệt mỏi. Cả ngày qua nó phải có mặt ở những chỗ vừa bị bom để đào bới, khuân vác, cứu hỏa, cứu thương. Dân thị trấn không ai còn có thể ngồi yên được.
Cả thị trấn nhớn nhác.
Toàn dân thị trấn băng mình lao đến những đám cháy khét lẹt ngay sau khi dứt tiếng súng phòng không.
Bây giờ thì đêm đã ập xuống, một đêm không thể ngủ được, một đêm đầy lo sợ, khắc khoải chờ đợi ánh ngày.
Đêm của căm thù và nước mắt.
Trời chưa sáng bố đã đạp xe về, hối hả giục bà và các em thu dọn đồ đạc để sơ tán về quê. Bố bảo:
- Chết thật, bố chủ quan quá, không đưa bà và các em đi trước. Tình hình còn căng lắm. Nhà ta chỉ được ở lại bố, mợ và Minh Việt thôi.
Mợ vừa đùm rúm các thứ cho bà mang đi vừa dấm dứt khóc. Trước đó mợ đã kịp tranh thủ nấu cho Minh Việt bát cháo. Mợ bảo:
- Chả biết thế nào đâu con ạ. Thôi thì chỉ còn biết trông chờ vào ông bà mình linh thiêng phù hộ cho cả nhà qua cái đận này.
Minh Việt húp được nửa bát cháo thì cu Đức đòi ăn cùng. Mợ mắng cu Đức, bắt nó ra xe cải tiến cho anh Đình, chị Ánh kéo đi về quê. Minh Việt đưa tay ra giữ nó lại, nhường cho cu Đức ăn hết bát cháo rồi mới bế nó ra xe. Cái Ánh và thằng Đình mỗi đứa một càng, bà nội đẩy đằng sau. Trên xe là cái Vân, thằng Đức và một đống những bao bố, chăn chiếu. Ngoài đường cũng có nhiều nhà đẩy xe đi như thế. Có lẽ sau trận bom hôm qua, không nhà nào còn dám ở lại nữa. Dòng người sơ tán mỗi lúc một đông. Bố nhìn hút theo chiếc xe của bà rồi mới lên yên xe đạp đi. Bố lại phải xuống huyện để tham gia đánh trả chiến hạm Mỹ từ ngoài biển bắn vào. Mợ cũng hớt hải đến cơ quan để vào “chiến dịch sản xuất”. Minh Việt khóa chặt cửa nhà rồi chạy lên chỗ trận địa pháo Hai Bảy tháng Bảy. Người ta đã phát hiện ra thêm hai xác chết nữa ở bãi cói ven sông. Đều là những xác bị cháy nham nhở. Họ là những người bị bỏng cho đến chết. Trong hai người ấy không có Cói.

Như có một linh cảm đặc biệt, Minh Việt liền chạy đến khúc sông chiều hôm qua anh vừa tắm cùng Cói. Chỉ vài bước chân sau bờ đê là thấy vết máu. Minh Việt lần theo dấu máu chạy xuống bãi. Và anh nín thở khi nhìn thấy một đám vải dập dềnh bên mép nước. Minh Việt vội nhảy những bước dài trên đám bùn nhão nhoét, hướng tới chỗ đám vải đang bập bềnh, bập bềnh lên xuống theo mực nước. Từng đám máu lắng lại chưa kịp đông gặp phải những bước chân của Minh Việt, loang ra những vệt đỏ nhờn nhợt. Khi đám vải được lật lên thì Minh Việt kinh hoảng, bật ngửa người ra đằng sau, ngã ngồi xuống bùn.
Cói!
Cói biến dạng đến mức Minh Việt phải oẹ ra cả nửa bát cháo vừa kịp húp lúc sáng. Người Cói trương lên, căng chật trong lớp vải áo thô dày. Cả một khoảng ngực đẫm máu. Một bên ngực vẫn còn nhô cao sau lớp vải cháy. Bên ngực còn lại là một vết lõm ghê rợn, lổn nhổn những thớ thịt bầm đỏ. Và đôi mắt. Đôi mắt mở to hết cỡ, như lộn cả tròng ra ngoài, đờ dại, lạnh ngắt. Mái tóc hung vàng như một búi râu ngô bết lấy khuôn mặt lấm bùn vô cảm, không thần sắc. Tanh! Tanh khủng khiếp. Tanh lợm giọng. Minh Việt đạp chân trên bùn để lùi lại. Rồi Minh Việt lật người bò lết về phía chân đê. Có mấy bóng người đang chạy trên mặt đê. Minh Việt ú ớ kêu gào. Rồi Minh Việt lại nôn. Nôn thốc nôn tháo ra một thứ dịch vàng vàng trắng trắng, tanh chưa từng thấy. Hết dịch thì nôn khan. Nôn đến rát cả cổ họng. Và trong khi mọi người đổ xô xuống chỗ xác Cói thì Minh Việt lại ôm mặt khóc rưng rức. Khóc như trẻ con bị đánh đòn. Khóc như một lần sau cuối để không bao giờ còn được khóc nữa.
Xác Cói vẫn chưa phải là xác cuối cùng.
Những ngày sau đó người ta vẫn còn tiếp tục tìm kiếm. Tìm được người nào an táng người đấy. Vừa an táng vừa nổ súng chiến đấu. Không có ngày nào yên tiếng súng. Không có đêm nào không bắn lên trời những đường đạn đỏ rực. Không có sáng nào Minh Việt không đọc những dòng chữ viết trên bảng tin đầu phố Tứ Phủ. Những dòng tin giống nhau đến mức người ta chỉ cần thay đổi con số là trở nên nóng hổi.
Ngày, tháng, năm...
Địch đã đánh An Lạc 16 điểm với 220 quả bom phá, 206 đạn tên lửa, 49 quả bom bi mẹ và bắn 90 đạn pháo lớn, giết hại 78 người, làm bị thương 120 người, tàn phá, tiêu hủy nhiều nhà cửa, trường học, bệnh xá...
Minh Việt đã đọc những dòng tin đó với một thái độ rất khó giải thích. Vừa như thờ ơ lại vừa như khao khát. Vừa như bỏ mặc lại vừa như không thể không quan tâm. Và những dòng tin ấy cứ từng ngày từng ngày đi qua não bộ Minh Việt. Cho đến ngày thứ Một trăm chín mươi tám thì đột nhiên bảng tin không thay đổi con số nữa. Những dòng chữ ấy được giữ nguyên đúng hai mươi bảy ngày mới được xóa đi, thay vào đó là những tin tức về việc ký kết Hiệp định Pa ri.
Chiến tranh đã kết thúc trên bầu trời An Lạc. Với những thành tích xuất sắc trong thời kỳ tham gia tự vệ trực chiến phòng không, Minh Việt và thằng Tịnh được tuyển thẳng vào làm công nhân ở Xí nghiệp gạch ngói An Lạc. Đây là một xí nghiệp đã có từ lâu nhưng bước vào thời kỳ khôi phục lại thị trấn nó được mở rộng qui mô sản xuất nên phải tuyển thêm người. Cả bố và bác Mộc đều bảo Minh Việt vào đấy là rất hợp vì anh đã từng hoàn thành chỉ tiêu Một ngàn viên gạch ba banh trong vòng hai tháng. Minh Việt cũng không mong gì hơn. Sau sáu tháng đi làm Minh Việt súng sính trong bộ quần áo mới, cùng Ban giám đốc và toàn thể cán bộ công nhân viên Xí nghiệp long trọng tổ chức lễ đón danh hiệu “Đơn vị thi đua xuất sắc”. Tại buổi lễ bác Mộc đã đọc một bản báo cáo rất dài, nội dung chẳng liên quan gì đến gạch ngói cả. Đã vậy, bác còn dừng lại nói kỹ về đoạn sau đây:
Năm 1972 là năm địch đánh phá ác liệt An Lạc. Nhưng năm 1972 cũng là năm toàn huyện có bước tiến bộ đáng phấn khởi, mọi mặt sản xuất phát triển, đời sống nhân dân địa phương và nhân dân sơ tán tạm thời ổn định. Các ngành thương nghiệp, lương thực, thực phẩm, từ một vài cửa hàng đã chia lẻ thành mười một cửa hàng và còn tổ chức thêm các đội bán hàng lưu động về các thôn xóm, ra tận trận địa trực chiến để bán hàng phục vụ đồng bào và chiến sĩ. Các mặt công tác văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao vẫn được duy trì tích cực.
Sau buổi lễ, bác Mộc rỉ tai thằng Tịnh nói gì đó. Nó không gật mà cũng chẳng lắc, nét mặt rất khó hiểu. Khi Minh Việt hỏi thì nó bảo:
- Hôm qua tao để nhầm bài phát biểu cho ngành thương nghiệp vào cặp của bố tao. Nhưng cũng chẳng sao. Mọi người vẫn vỗ tay ầm ầm đấy thôi.
Cuối năm đó thằng Tịnh được huyện cử đi học ở nước ngoài. Trước hôm đi mặt nó buồn thiu. Nó bảo: “Cứ tưởng đi Liên Xô, hóa ra lại đi Bun-ga-ri, chắc chẳng ăn thua gì!”
Thằng Tịnh đi rồi, Minh Việt bỗng mắc bệnh trầm uất. Cả ngày đi làm, tối về Minh Việt lại ra bờ sông ngồi một mình. Đôi ba lần cậu Chột phải ra lôi anh về ngủ cùng. Minh Việt hay mơ thấy Cói. Rồi ú ớ lảm nhảm. Ngay cả trong lúc nhồi đất vào khuôn ngói Minh Việt cũng thường xuyên nhìn thấy Cói đang dập dềnh trên mép nước ven sông. Người thợ làm cùng với Minh Việt đã cắt phải tay anh trong lúc như thế. Sợi thép sắc như dao đã cứa đứt một đốt ngón tay út của Minh Việt. Nhìn máu chảy ròng ròng từ tay mình mà Minh Việt cứ ngỡ máu của Cói. Trong khi mọi người rối rít đưa anh đi băng bó, sát trùng, anh cứ bình thản như không, ánh mắt dõi vào một điểm nhìn vô định. Giám đốc xí nghiệp phải gặp riêng bố Minh Việt. Bố Minh Việt lại trao đổi với mợ và bác Mộc. Sau đó cả nhà quyết định đưa Minh Việt vào bệnh viện điều trị. Anh không chịu dùng một loại thuốc nào cả. Anh bảo anh không bị bệnh. Rồi anh cứ lảm nhảm nói chuyện một mình. Anh thường chạy đuổi theo một bóng hình tưởng tượng nào đấy và bảo đó là Cói. Có một lần bóng hình ấy không mất hút như mọi khi mà ra ngồi xuống chiếc ghế đá ở dưới sân bệnh viện. Minh Việt mừng quá, tiến sát đến đằng sau lưng, không nói một câu, cứ lẳng lặng chờ người ấy quay lại. Minh Việt đứng chờ mãi, chờ mãi, cuối cùng người ấy cũng quay lại. Đúng là Cói. Cói gầy quá. Mặt Cói xương xương chứ không tròn đầy. Mắt Cói cũng không to đen mà hơi dài. Chỉ có nốt ruồi của Cói là không thay đổi. Cói nhìn Minh Việt hơi ngỡ ngàng một chút rồi reo lên:
- Kìa, Việt, Minh Việt phải không?
Minh Việt tủm tỉm cười nhưng nét mặt tỏ ra thất vọng ngay vì giọng nói này không phải của Cói. Anh quay lưng, lê những bước chán chường về phòng bệnh. Nhưng người ngồi trên ghế đá vội đứng dậy chạy đuổi theo túm lấy tay áo của Minh Việt, lắc lắc:
- Việt, Việt không nhận ra mình à?
Minh Việt vẫn không có một cử chỉ nào tỏ ra có quen biết với người ấy. Người ấy lại lắc lắc tay Minh Việt, nói một hơi dài:
- Chết thật, mới có mấy năm mà đã quên chị rồi. Chị là Vi Lay đây. Bà Khơ-me đây mà. Sao Việt lại ở đây? Việt bị bệnh gì? Trông Việt gầy và xanh quá! Việt ở phòng nào? Người nhà Việt có ai ở đây không? Chị đi thăm một người bạn bị ốm nhưng người ấy lại ra viện rồi. Chị định ngồi nghỉ một lúc rồi về. Việt sao thế? Sao Việt chẳng nói năng gì cả? Mà nhìn mắt của Việt kìa! Sao mắt Việt lạ thế? Chẳng có chút thần sắc nào cả. Việt không nhận ra chị thật sao?
Người đàn bà ấy sẽ còn quấy rầy Minh Việt nữa nếu không có mợ đến kịp. Mợ lôi người đàn bà ấy ra chỗ chiếc ghế đá mà bà ta vừa ngồi. Minh Việt bỏ về phòng. Mợ và người đàn bà lạ lùng ấy ở lại ngồi nói chuyện với nhau khá lâu. Sau hôm ấy, ngày nào người đàn bà đó cũng vào thăm Minh Việt.
Cho đến một ngày Minh Việt nhận ra người đàn bà ấy là Vi Lay!
Chương 8
Cho đến một ngày Minh Việt nhận ra người đàn bà ấy là Vi Lay!
Kể từ ngày Minh Việt mất trí nhớ đến khi anh nhận ra được bà Khơ-me, tức Vi Lay, tức chị Vi tất cả mất bảy tháng hai mươi bốn ngày.
Giám đốc xí nghiệp gạch ngói lại vui vẻ nhận Minh Việt quay trở lại làm việc. Bố và mợ rất mừng. Mợ làm cỗ cúng tạ tổ tiên, mời cả chị Vi đến ăn cùng gia đình. Trong khi cả nhà không giấu được vui mừng thì tâm trạng của Minh Việt những ngày đầu mới ra viện lại khá phức tạp. Anh không hiểu nổi là tại sao lại có lúc anh không biết mình là ai, không nhớ gì về các mối quan hệ ruột rà thân thích, không nhận ra được những gì đang xảy ra xung quanh. Bây giờ anh đã hoàn toàn tỉnh táo, anh thấy mình đã thực sự trở về với trạng thái bình thường, thì mọi người lại nhìn anh bằng ánh mắt rất không bình thường. Dường như mọi người còn nghi ngại ở anh điều gì đó. Có lần thằng cu Đức hỏi anh:
- Anh Việt ơi, khi bị điên anh có đau không?
Mợ nghe thấy thế, mắng hất đi:
- Ai bảo mày anh Việt bị điên? Anh Việt bị ốm, phải đi bệnh viện, bây giờ khỏi anh ấy về nhà và lại đi làm bình thường. Mày biết gì mà cứ liên thiên!
Thằng Đức cãi:
- Anh ấy bị làm sao mà ốm?
Mợ bảo:
- Anh ấy làm ở Xí nghiệp bị máy cắt gạch nó cán vào, đứt tay. Mày không thấy ngón út anh ấy bị mất một ngón kia à? Mày cứ nói linh tinh nữa, mẹ đánh đấy, nghe chưa?
Thằng Đức vẫn không chịu, cố cãi lại:
- Ai cũng bảo anh ấy thế còn gì? Bà nội còn bảo hay là đằng nhà con mẹ nó đời trước có người tâm thần? Mẹ cũng có lần bảo với bác Mộc: Cháu nó mà điên nặng lên thì bác bảo em phải tính làm sao? Thế mà bây giờ mẹ còn mắng con!
Bà nội từ trong nhà chạy ra bịt mồm thằng Đức, lôi nó vào. Mợ quay sang bảo Minh Việt:
- Con đừng nghe nó nói linh tinh. Nó còn nhỏ chưa biết gì đâu.
Minh Việt hỏi:
- Những ngày bị bệnh con có làm gì hại đến ai không hả mợ?
Mợ đáp:
- Không, con bệnh nhưng lành lắm. Chỉ thơ thẩn một mình thôi.
Minh Việt không thỏa mãn với những gì mợ nói. Cả bà và bố cũng tìm cách tránh né những câu hỏi của anh. Chỉ có chị Vi là có cách diễn đạt làm Minh Việt thấy hài lòng hơn cả. Chị Vi bảo: “Ngày trước, khi nghe tin người yêu chị hy sinh, chị cũng phải vào bệnh viện một tháng đấy. Một tháng ấy chị chỉ nhớ đến người yêu chị thôi. Mà khi nhớ đến người yêu thì chị không còn nhớ đến ai khác nữa. Cũng không thiết ăn uống hay làm việc gì cả. Bệnh viện phải giúp chị vào những lúc như thế, nếu không chị chết mất. Rồi nỗi nhớ sẽ qua đi, chị lại trở lại bình thường. Việt có một cô bạn tên là Cói phải không? Cô ấy cũng hy sinh trong khi chiến đấu với máy bay Mỹ và Việt nhớ cô ấy lắm, đúng không? Thế nên bố mẹ phải đưa Việt vào bệnh viện, không thì Việt cũng sẽ giống chị, cũng sẽ chết mất. Bây giờ Việt trở lại bình thường rồi. Việt đừng mải nghĩ về những ngày nằm viện làm gì, Việt hãy nghĩ đến những việc khác, ví dụ như giúp bố mẹ sửa lại nhà chẳng hạn. Đấy! Đơn giản thế thôi”.
Minh Việt còn cố hỏi lại một câu ngu ngơ:
- Chứ em không bị điên hả chị?
Chị Vi bật cười:
- Ừ, điên làm sao được. Điên thì phải xấu xí chứ Việt vẫn đẹp trai thế kia cơ mà?
Chị Vi không chỉ đưa trí nhớ trở lại với Minh Việt mà còn dần dần đem lại sự thăng bằng về tâm lý cho anh. Minh Việt hay đến chơi nhà chị và rất thích được trò chuyện với chị. Ở phòng khách nhà chị Vi có treo một bức tranh bồi dập màu vàng nhạt, cũ kỹ, khắc hình một đoàn quân kéo dài hết chiều ngang bức tranh. Nổi bật lên là hình ảnh một vị dũng tướng đứng hiên ngang trên đài voi với chín cây tàn rực rỡ. Thấy Minh Việt cứ mải ngắm bức tranh, chị Vi bảo: “Tranh này dập theo phù điêu trên tường thành đền Ăng Co Vát đấy. Cái ông đứng trên đài voi là vua Xu-ra-ya-vác-man hai, người có công lớn với đất nước chị ở thế kỷ mười hai”. Hóa ra chị Vi là một người rất am hiểu lịch sử. Và chị còn biết hát nữa. Có lần chị hát cho Minh Việt nghe một bài hát của nước chị bằng hai thứ tiếng. Minh Việt được chị dạy cho thuộc bài hát đó. Lời của bài hát nghe có vẻ tình tứ mà hơi ngồ ngộ:
... Chiều nay ngồi trên lưng trâu đi qua ruộng nhà
Với hiệu bàn tay anh báo ngầm em
Sau buổi cỏ chiều
Em ra bờ sông
Nơi mà hai ta bao lần gặp nhau
Bánh trái, trầu cau, thuốc điếu em giấu đưa anh
Ta cùng nhau tắm
Tay nắm bàn tay say sưa chuyện trò
Rồi hẹn hò nhau ta cùng đi múa răm vông
Anh sẽ mang theo
Thốt nốt đầy ve
Vừa một ống tre để em giải mệt
Ôi, cô gái đẹp sao, yêu em bao nhiêu
Hát mừng năm mới tay em bán hoa...
Chị Vi thường hoài niệm về những lễ hội ở một vùng quê nào đó xa lơ xa lắc trên đất nước chị. Những gì chị còn nhớ đều đã lên màu cổ tích. Nhưng chị lại rất thích kể về nó. Còn chuyện vì sao chị lại sang đây thì chẳng bao giờ chị kể? Mỗi khi Minh Việt hỏi về người yêu của chị, chị chỉ bảo: “Hy sinh rồi”. Có một lần chị buột miệng bảo:
- Anh ấy có đôi mắt buồn như của Việt!
Minh Việt còn nhận ra một điều thú vị nữa ở chị Vi là chị nấu ăn rất ngon. Có đôi ba lần Minh Việt ăn cơm ở nhà chị. Đó là những lần Minh Việt đi làm về sớm, anh không muốn về nhà mà rẽ vào xóm Khơ-me chơi. Thức ăn ở nhà chị Vi về mặt chất liệu không có gì đặc biệt, nhưng khi được bày ra mâm trông rất ngon miệng. Nhà Minh Việt quá đông người, bữa ăn thường kết thúc chóng vánh với phần thức ăn gần như được chia sẵn. Minh Việt là anh cả, luôn cùng bố và mợ nhận về mình sự thiếu hụt để nhường các em. Ở nhà chị Vi thì ngược lại, bao giờ Minh Việt cũng được ăn thỏa thích, thậm chí được phục vụ như một người đàn ông chủ gia đình. Một quả trứng ở nhà Minh Việt thường phải chia năm xẻ bảy, nhưng ở nhà chị Vi một mình Minh Việt được hưởng những hai quả trứng ốp lếp. Lại thêm một chén rượu nữa. Lại thêm vài hạt lạc rang muối. Lại thêm một bát sú giò ninh khoai sọ có rau dút. Chị Vi là người rất giỏi quan hệ với các cửa hàng lương thực, thực phẩm. Đồ ăn trong nhà chị đều tươi sống và dồi dào đến mức khó tin. Mà lạ một điều là người ta cứ tự mang các thứ đến nhà chị. Thì cũng như trước đây Minh Việt mang mỡ nước đến bán cho chị vậy. Chị nhận của họ rồi chị lại biết cách trả cho họ những thứ họ cần. Đối với hầu hết những người quen biết chị Vi thì chị là một người có nhiều điều bí ẩn. Còn với riêng Minh Việt, chị Vi càng bí ẩn bao nhiêu càng cô độc bấy nhiêu. Không ai biết rõ về chị, chính điều này làm chị dễ sống hơn bởi chị có thể buôn bán mọi thứ trên trời dưới đất trong lòng một xã hội không có thị trường. Không ai biết rõ về chị, ngược lại, cũng làm chị không biết dốc bầu tâm sự với ai. Mà một thiếu nữ xa xứ đủ đầy như chị thì có biết bao nhiêu nỗi niềm cần tâm sự, bao nhiêu bức xúc cần giải tỏa, bao nhiêu buồn vui cần chia sẻ. Minh Việt có một vị trí như thế nào trong cái cõi hồn sâu thẳm của chị, chính anh cũng không rõ, chỉ biết là chị có vẻ rất vui khi được chăm bẵm cho anh. Một lần Minh Việt đến nhà chị Vi đúng lúc chị đang tắm. Minh Việt ngồi chờ và lại tha thẩn nhìn ngắm bức tranh bồi dập in hình đoàn quân của vua Xu-ra-ya-vác-man II. Bỗng Minh Việt nghe thấy một tiếng kêu thét kinh hoàng từ phía sau nhà tắm. Minh Việt vội chạy bổ ra sau nhà. Cánh cửa nhà tắm mở tung. Chị Vi đứng nép mình vào góc tường nhà tắm, tấm khăn choàng màu nâu ôm cứng trước ngực. Thấy Minh Việt, chị vội đưa tay ra chỉ vào một con rắn đang bò trên nền nhà tắm. Đó là một con cạp nong khá to, vằn màu vàng đen, không biết nó đã cắn chị chưa nhưng nó đã bò quá nửa người ra khỏi cửa nhà tắm. Minh Việt vớ vội lấy cái xẻng ở gần đó, phang tới tấp vào con rắn. Khi con rắn đã cuộn tròn mình lại, đầu dập nát, toàn thân bất động, chị Vi vẫn đứng nguyên tại chỗ, người run lên bần bật. Minh Việt lấy xẻng xúc con rắn hất ra phía ngoài bờ rào đằng sau nhà chị, rồi quay lại bảo:
- Chị ra đi, chị có sao không?
Chị Vi vẫn không cất lời lên được. Mặt chị tái mét.
Minh Việt lo sợ, chạy vào, ôm lấy bả vai chị, lắc lắc:
- Chị đã bị nó cắn chưa? Để em xem nào?
Chị Vi bỗng đổ ập cả người vào Minh Việt như một thân chuối bị phạt ngang. Minh Việt bế bổng chị Vi lên, đưa lên nhà trên, đặt vào giường. Chị Vi vội chui vào trong chăn, cuộn tròn lại. Minh Việt lăng lẽ ngồi bên cạnh. Một lúc sau, chị Vi thò đầu ra khỏi chăn, bảo: “Việt đừng về nhé, mình sợ lắm!”
Minh Việt bảo:
- Nếu không bị cắn thì không sao đâu. Chị cứ nằm một lúc là hết sợ thôi.
Chị Vi lại thò một chân ra khỏi chăn, bảo:
- Mình cũng chẳng biết là đã bị cắn chưa, Việt thử xem chân mình có vết máu không?
Minh Việt thoáng lo ngại, vội nhấc bắp chân của chị Vi lên. Bàn tay Minh Việt vuốt theo khoeo chân chị. Chị Vi hơi nghiêng người kéo chăn lên trùm kín mặt, còn phần dưới để hở quá ra cho Minh Việt “kiểm tra”. Khi cả nửa dưới người của chị Vi lộ ra khỏi chăn thì tự dưng Minh Việt chùn tay, không dám tiếp tục lần mò trên da thịt chị nữa. Thấy Minh Việt dừng lại, chị Vị liền nằm úp xấp người xuống, bảo:
- Việt thử xem hộ phần lưng mình xem có sao không?
Chưa bao giờ Minh Việt được xăm xoi một thân thể phụ nữ, hôm nay toàn bộ cái thân thể ấy đang phô bày ra trước mắt anh. Đường dây nịt vú hằn một vệt trắng nõn sau lưng chị Vi đập vào cái nhìn của Minh Việt làm anh thấy lòng mình bấn loạn. Minh Việt biết là con rắn chưa hề chạm đến chị Vi. Hành động này của chị rõ ràng đầy ẩn ý. Rõ ràng là khơi gợi. Rõ ràng có ý buông xuôi cho Minh Việt muốn làm gì thì làm. Minh Việt nghĩ ngay đến việc cần phải thoát ra khỏi tình cảnh này, không thể để bị lôi cuốn vào cái cuộn chăn đang hừng hực sức nhiệt kia. Thoáng lưỡng lự ấy vừa đến với Minh Việt thì chị Vi đã trở mình, vòng tay kéo đầu Minh Việt xuống.
Mặt Minh Việt vừa ập vào khuôn ngực dập dềnh, mềm ấm của chị Vi, lập tức anh thấy gan ruột trong mình quặn lên. Một mùi tanh lợm giọng ở đâu đó xộc tới, ập vào mũi anh. Minh Việt vội rút đầu ra khỏi ngực chị Vi, nôn thốc nôn tháo xuống gầm giường. Cái mùi tanh khủng khiếp ấy cứ dâng ngập lên hai lỗ mũi của Minh Việt khiến những cơn nôn trong anh không sao kìm lại được. Chị Vi sau một giây ngạc nhiên đã bật dậy như chưa hề gặp rắn. Thoắt cái chị đã chỉnh tề trong chiếc váy đen có thêu những hình tháp bí ẩn, và chị lấy khăn lạnh lau mặt mũi cho Minh Việt. Minh Việt ra phòng khách ngồi, hổn hển thở. Cái mùi tanh khi nãy mỏng dần rồi biến mất, không còn lẩn khuất quanh anh nữa.
Những lần sau đó, chị Vi tìm mọi cách để Minh Việt tiếp cận bầu vú của chị, nhưng lần nào Minh Việt cũng nôn. Mùi tanh của máu và thịt người rữa nát không chịu buông tha cho Minh Việt, cứ hễ những hình ảnh đặc trưng nữ tính đập vào mắt anh là mùi tanh ấy xuất hiện. Chị Vi bảo: “Nếu Việt không khẳng định được sức mạnh đàn ông của mình, nghĩa là Việt vẫn còn bệnh đấy. Bệnh mà trầm trọng lên, chẳng biết sẽ thế nào?”
Nhiều lúc Minh Việt nêu quyết tâm không đến nhà chị Vi nữa. Minh Việt có cảm giác như mình đang phải lén lút làm một điều gì đó không minh bạch. Nhưng rồi, chỉ sau một cái tặc lưỡi, Minh Việt lại đến. Rõ ràng là Minh Việt đang có bệnh. Mà bệnh này muốn chữa được phải có một người dám chấp nhận hy sinh cho anh như chị Vi. Nhận cái phần hy sinh ấy của chị Vi, Minh Việt vừa thèm khát lại vừa dằn vặt, vừa muốn hưởng lại vừa thấy mình tội lỗi, vừa sung sướng lại vừa hèn hạ, vừa khoái cảm lại vừa phản cảm. Mỗi khi đến nhà chị Vi là Minh Việt lại mang theo trong mình từng ấy những trạng thái tâm lý phức tạp. Nhưng rồi bao giờ anh cũng tìm thấy sự bao biện cho mình khi đưa tay cởi bỏ bộ váy áo trên người chị Vi. Chỉ có điều anh không bao giờ đạt được cái điều mà mọi người đàn ông phải đạt được khi cho và nhận với một người đàn bà. Cứ khi cơn hứng tình trong anh trào dâng lên thì cái mùi tanh khủng khiếp kia nó lại đến và anh lập tức phải rời bỏ ngay cơ thể người phụ nữ đang tràn ngập những xúc cảm dâng hiến để chạy ra ngoài phòng khách ngồi thở.
Cho đến một ngày, Minh Việt không còn ngửi thấy cái mùi tanh ấy nữa. Đó là ngày lễ Chơn Chnam Thmây, lễ đón mừng năm mới của những người cùng dân tộc với chị Vi.
Hôm ấy chị Vi làm những chiếc bánh rất lạ. Nó được gói bằng lá chuối, bên trong có bột, đỗ xanh, cùi dừa và hạt sen. Chi Vi cứ hỏi đi hỏi lại Minh Việt có nhận ra cái vị gì khác biệt trong đó không? Minh Việt bảo: “Chỉ thấy ngon thôi, và lạ mắt nữa, chẳng thấy có vị gì đặc biệt”. Chị Vi cười: “Trong đó có đường thốt nốt đấy. Mình phải kiếm mãi mới được. Việt chưa ăn bao giờ nên không biết cũng phải”. Hôm ấy Minh Việt còn được thưởng thức cả rượu thốt nốt. Anh hỏi: “Chị kiếm ở đâu ra những thứ này?”. Chị Vi bảo: “Mình sang mua của người Hoa ở bên Phòng. Bên ấy chẳng thiếu thứ gì, chỉ đắt thôi. Mình phải để dành, chỉ dám dùng vào những ngày như thế này”. Minh Việt biết là chị Vi vẫn có những mối liên hệ nào đó với những người đồng bào của mình, nhưng anh không quan tâm đến chuyện ấy. Buổi tối mừng năm mới hôm đó chỉ có hai người. Minh Việt ăn no, uống say và lại nghĩ đến chuyện lần tìm những điều chưa tìm thấy sau làn váy áo của chị Vi. Và lần này Minh Việt thực sự vui mừng khi vục đầu vào ngực chị Vi chỉ thấy có mùi da thịt con gái chứ không hề thấy có cái mùi khủng khiếp kia ùa về trêu ngươi thính giác. Anh cũng thầm sung sướng khi nhận ra cái bản thể đàn ông trong mình dường như đã thực sự hồi phục. Mọi thứ diễn ra thật hoàn hảo. Máu huyết lưu thông. Cơ thể căng cứng, giãn nở dưới tác động của khoái cảm chân chính. Sinh lực căng tràn trên từng đường da, thớ thịt. Những chớp giật đê mê, những lắng dịu bồi hồi, những vô thức cuồng loạn, những nồng nã ân tình đã thực sự trở về với Minh Việt.
Nhưng sự trở về ấy ngay lập tức bị dội một gáo nước lạnh.
Cánh cửa chốt hờ nhà chị Vi bỗng bị đẩy bật tung. Tốp dân phòng của tiểu khu Bắc An Lạc ập vào bắt quả tang Minh Việt cùng Vi Lay đang làm những việc hủ hóa, cụ thể là thực hiện hành vi thông dâm. Trong biên bản họ đã ghi rõ như thế.
Các đồng chí dân phòng cho phép Vi Lay được ngồi tại nhà viết bản tường trình, còn Minh Việt bị trói giật cánh khuỷu, giải về trụ sở tiểu khu.
Suốt đêm hôm ấy Minh Việt phải khai báo về những việc làm vô cùng xấu xa của mình. Ngồi trước người tổ trưởng dân phòng già nua, khắc khổ đang chất vấn mình bỗng nhiên Minh Việt lại ngửi thấy cái mùi tanh khủng khiếp vẫn thường ám ảnh anh và anh nôn thốc nôn tháo ra sàn nhà. “Say hả? Say mà vẫn còn hủ hóa được cơ à?”, người tổ trưởng dân phòng bực mình, quát vào mặt Minh Việt thế. Không biết người ta sẽ còn làm gì Minh Việt nếu không có sự can thiệp kịp thời của bác Mộc. Sau khi có ý kiến của “đồng chí bí thư”, họ tạm thời cho Minh Việt về nhà nhưng như thế không có nghĩa là đã xong, vụ việc sẽ còn tiếp tục được đưa lên cấp trên giải quyết.
Không ngờ sự việc nghe ra có phần quan trọng vì Minh Việt đã hủ hóa với “một đồng chí phụ nữ quốc tế”. Bên công an cử người sang làm việc với Ban giám đốc Xí nghiệp gạch ngói và Minh Việt bị tạm đình chỉ công việc để “giải quyết cho xong vấn đề hủ hóa”. “Vấn đề hủ hóa” của Minh Việt như một đốm lửa nhỏ và đang có nguy cơ trở thành một đám cháy. Đám cháy này khi bùng lên chắc chắn sẽ thiêu đốt sinh mệnh chính trị của Minh Việt ra tro. Chính vì thế suốt một tuần sau đó bố và bác Mộc phải đôn đáo ngược xuôi lo “dập lửa”. Một số tổ chức, cá nhân cũng đứng ra xin bảo lĩnh cho anh. Đoàn thanh niên khu phố, Công đoàn, Tổ sản xuất số 3, Tập thể công nhân Xí nghiệp gạch ngói, Trung đội tự vệ, Thị đội... lần lượt đều có đơn xin miễn tố cho Minh Việt. Bác Mộc có hai buổi làm việc trực tiếp với các đồng chí bên Thị đội, sau đó độ mươi hôm thì Minh Việt có giấy báo nhập ngũ. Trước ngày lên đường, Minh Việt cùng các tân binh của thị trấn An Lạc được xem một vở kịch của Đoàn văn công Quân khu Hữu ngạn. Minh Việt ngồi trên cùng, xem rất chăm chú, mắt không rời sân khấu. Vở kịch nói về một thanh niên lên đường nhập ngũ đúng vào ngày mẹ ốm. Anh đã được các tổ chức, cơ quan, đoàn thể đến tận nhà động viên, nhắn nhủ, khích lệ. Cả người yêu anh cũng mong anh mau chóng lên đường giết giặc lập công và hứa sẽ đợi anh trở về. Cả mẹ anh đang nằm trên giường bệnh cũng cố gượng dậy dặn dò anh phải thực hiện tốt trách nhiệm và bổn phận của một người trai mất nước. Vở diễn thật cảm động. Cả bãi người ngồi xem lặng phắc. Tan vở, thằng Đình đến báo cho Minh Việt biết mợ vừa vào nhà hộ sinh đẻ em bé, mợ rất cần gặp anh. Minh Việt vội xin phép các anh chỉ huy chạy ù lên thăm mợ. Mợ đẻ đứa em thứ năm, lại là con trai. Mợ không vui mừng mà chỉ khóc. Minh Việt bảo:
- Mợ sinh em trai, đẹp đẽ khỏe mạnh thế kia sao mợ lại khóc?
Mợ lắc đầu:
- Không phải mợ khóc vì em bé mà mợ khóc vì thương con, Việt ạ!
Rồi mợ hỏi:
- Khi nào thì con đi?
Minh Việt bảo:
- Nghe bác Mộc nói, sáng sớm mai đoàn sẽ lên đường.
Mợ chỉ xuống phía cuối giường bảo:
- Con lấy cho mợ cái túi vải ở trong chiếc bọc kia lại đây!
Minh Việt thọc tay xuống cuối chiếc bọc mới lôi được cái túi vải con lên. Mợ bảo:
- Của con còn nguyên vẹn cả đấy, con hãy cầm đi!
Minh Việt mở cái túi vải ra. Trong đó có một chiếc dây chuyền vàng và một đôi lắc bạc nạm đá. Minh Việt bảo:
- Con vào chiến trường, ai cho mang những thứ này mà cầm đi? Mợ giữ lấy mà chi tiêu cho gia đình.
Mợ cố nhoài tay ra giữ lấy vai Minh Việt, bảo:
- Vào trong ấy sống chết chẳng biết thế nào. Những thứ này của con, nó phải theo con, mợ không giữ đâu. Nếu con không cầm, con cho ai tùy con, mợ đã trả cho con, mợ không lấy lại nữa.
Minh Việt thấy khó xử nhưng rồi cũng nghĩ ra cách thoái thác. Anh bảo:

- Con để cả lại cho em bé. Sau này lớn lên nó sẽ đeo.
Không ngờ mợ có vẻ cáu. Mợ gắt:
- Khổ quá! Mợ đã nói thế mà con chẳng hiểu gì cả. Vàng bạc là thứ phải gắn chặt với đời con người ta, không thể dùng thay được. Con phải cầm đi, phải mang theo bên mình, con đã hiểu ý mợ nói chưa?
Quả thực lúc ấy Minh Việt chẳng hiểu ý mợ nói gì. Nhưng vì thấy mợ nổi giận nên anh chỉ lặng im và không dám nói thêm câu nào nữa. Đút cái túi vải vào người, Minh Việt chào mợ rồi đi. Mợ gật đầu nhìn theo, nước mắt chảy ràn ra hai bên má. Thằng Đình len lén đi theo đằng sau. Ra tới cổng nhà hộ sinh, Minh Việt quay lại thấy thằng Đình đang đứng nép mình sau hành lang, lặng lẽ nhìn theo anh. Minh Việt đưa tay vẫy nó lại. Thằng Đình vội chạy tới chỗ Minh Việt. Minh Việt móc trong người ra đôi lắc bạc, bảo: “Cầm cho em bé hộ anh nhé? Những thứ này không mang theo vào chiến trường được đâu. Anh mang theo sợi dây chuyền này là được rồi. Nó gọn, dễ cất giấu”. Thằng Đình đưa tay ra cầm những thứ Minh Việt đưa. Minh Việt định bước đi nhưng chợt nhớ ra một việc, vội quay đầu lại hỏi với thằng Đình:
- Này, mợ đặt tên em bé là gì?
Thằng Đình đáp to:
- Đạo! Nhớ chưa? Đình, Đức, Đạo...
Minh Việt gật gật đầu rồi đi như chạy về chỗ tập trung.
Bốn giờ sáng hôm sau, Minh Việt cùng đơn vị hành quân rời khỏi An Lạc. Sáu tháng sau Minh Việt có mặt tại miền Đông Nam Bộ. Qua vài trận đánh nho nhỏ thì vào trận lớn. Tại trận đánh lớn, Minh Việt bị lạc mất đồng đội ngay sau loạt đạn đầu tiên.
Khi ấy trời tối đen. Cái tiểu đội của Minh Việt thuộc thê đội đánh thọc sâu, chờ cho cửa mở mới tiến lên. Nhưng trong khi cửa chưa mở được thì thê đội của Minh Việt đã bị mấy quả M79 của địch xé nát đội hình. Minh Việt bị hất xuống một cái hố khá rộng, và anh có ngất đi một lúc, không biết là bao lâu. Tỉnh dậy chỉ thấy đạn chiu chíu khắp nơi, những tiếng nổ của cối và B40, B41 vẫn nã ở phía bên trái. Như thế nghĩa là Minh Việt đã lệch mất mục tiêu tới bốn mươi nhăm độ rồi. Anh trườn về phía bên phải. Cần phải gặp đồng đội và có sự chỉ huy thì mới biết mình phải làm gì lúc này. Càng trườn về phía phải Minh Việt càng thấy im ắng. Lạ thật! Cái điểm cao 203 bây giờ nó ở hướng nào nhỉ? Mà đội hình đại đội của Minh Việt ém ở đâu mới được chứ? Họ đã phát triển qua cửa mở và tràn lên chiếm lĩnh điểm cao rồi chăng? Thế thì phải còn các thê đội dự bị, rồi các đại đội vào làm nhiệm vụ giữ điểm cao nữa chứ? Trước khi vào trận Minh Việt đã được phổ biến như thế cơ mà. Tại sao anh lại không gặp được ai thế này? Bỗng đạn tiểu liên rồi đại liên ở đâu đó cứ nhằm trước mặt Minh Việt mà xối xả tuôn xuống. Minh Việt vội lăn theo sườn dốc, lợi dụng địa hình địa vật tránh đạn, đến khi thấy đạn không bắn về phía mình nữa thì nằm im, nghe ngóng. Và lúc này Minh Việt mới nhận ra một bên chân của mình mỗi khi cử động lại nhói nhói đau. Anh sờ xuống đùi trái và hoảng hốt khi biết là mình đã bị thương. Máu rỉ ra ướt đầm bàn tay. Phải tìm đồng đội ngay không sẽ rất nguy. Minh Việt lùi lại phía sau, cứ thế lựa theo độ dốc mà trườn xuống thấp dần. Nhưng anh lại thấy tiếng tiểu liên của địch nổ ba bề tứ phía. Nghĩa là xung quanh Minh Việt đâu cũng có địch cả. Có vẻ như Minh Việt đã lọt vào giữa trận địa phòng ngự của địch, còn quân ta thì chưa đánh lên tới đây. Thế này thì gay to rồi. Cái đùi phải của Minh Việt bắt đầu tê đi. Một bên chân của Minh Việt đang mất dần cảm giác. Anh không còn đứng lên mà đi hay chạy một cách bình thường được nữa. Minh Việt trườn cật lực. Cái hướng Minh Việt trườn tới có vẻ như không có địch. Thế là anh lom khom bò rồi nhổm dậy tấp tểnh chạy. Tiếng súng có vẻ đã ở lại đằng sau khá xa. Minh Việt lần cuốn băng cá nhân trong bao đạn, dùng răng xé tung ra, rồi cứ thế quấn vòng quanh đùi. Mọi thứ xung quanh tối đen. Cảm thấy là vết thương đã được cầm máu, Minh Việt lại tấp tểnh chúi đầu lao về phía trước. Minh Việt nhận thấy trước mặt có một dải gì đó mờ mờ, đen đen. Lúc đầu anh nghĩ đó là một dải núi, nhưng đến gần Minh Việt lại nhận ra đó là một rừng cây. Minh Việt thoáng mừng rỡ vì trước khi vào trận đánh đơn vị của anh cũng tập kết trong một rừng cây. Chắc chắn anh sẽ gặp lại đồng đội trong rừng cây kia. Như có thêm niềm phấn khích, Minh Việt cố sức lao về phía trước. Nhưng vào đến rừng cây rồi Minh Việt mới thấy đây không phải là khu rừng mà đơn vị anh đã trú ẩn trước giờ nổ súng. Cây ở đây cao hơn, lại được trồng theo hàng lối thẳng tắp, đánh lô đánh luống đàng hoàng. Càng đi sâu vào Minh Việt càng không tìm thấy lối ra vì trăm cây như một, hàng nào cũng giống hàng nào, chẳng biết rẽ lối nào sẽ ra được khỏi rừng cây nhanh nhất. Minh Việt đã lạc vào rừng cao su rồi. Thứ cây này Minh Việt cũng đã đôi lần được nhìn thấy trên đường hành quân từ Bắc vào đây. Kinh nghiệm cho biết lạc vào rừng cây này sẽ rất nguy hiểm vì nó thường thuộc quyền sở hữu của các quan chức hoặc tướng lĩnh ngụy, nếu không cũng của các tên tư bản nước ngoài. Một người lính Bắc như Minh Việt sẽ bị nhận diện và bị bắt giữ ngay tức khắc. Suy nghĩ ấy càng khiến Minh Việt bồn chồn, lo lắng chỉ muốn thoát ra khỏi rừng cây ngay, nhưng khu rừng như một mê cung, càng đi càng lạc, không sao lần tìm được lối ra. Sự hoảng loạn ập đến rất nhanh ngay sau đó. Nỗi sợ hãi đã lên đến cực độ. Và khát. Cơn khát tha hồ tàn phá cơ thể Minh Việt, có cảm giác như các đường gân thớ thịt đang bị một thứ nhiệt vô hình nào đó thiêu đốt. Minh Việt đã lao đến một cái bát ai đó buộc bên gốc cây, hy vọng kiếm được chút nước đọng trong đó. Nhưng cái bát chỉ có một lớp váng nhựa trăng trắng mùi rất khó chịu. Minh Việt tĩnh trí, nhận ra cây nào cũng có một cái bát như thế cả. Ôi trời! Đó là những cái bát để hứng mủ cao su! Sao mà Minh Việt lại lú lẫn đến thế nhỉ? Nhận ra được điều này cũng có nghĩa là Minh Việt đã tuyệt vọng. Lạc một mình trong rừng rậm với một bên chân đã không còn nhấc lên được nữa là một điều khủng khiếp ngay cả đối với một lính chiến đích thực. Minh Việt bỗng thấy hoa mắt và anh đổ gục xuống một gốc cây cao su, kéo theo cả chiếc bát hứng mủ rơi xuống bên thân mình.
*
Minh Việt tỉnh dậy và suy nghĩ đầu tiên lóe lên trong anh là mình đã bị bắt. Đúng là Minh Việt đã bị bắt rồi dù anh đang nằm trên giường đệm có trải ga, vết thương ở chân đã được băng bó và trên người anh đang mặc một bộ quần áo khác, mềm mại và sạch sẽ.
Trước mặt Minh Việt có hai người đàn ông. Một người trạc ba nhăm, ba tám tuổi dáng vẻ cần mẫn và lam lũ, còn một người trẻ hơn dáng như một thầy giáo hay công chức gì đó. Thấy Minh Việt tỉnh lại, họ kêu lên mừng rỡ và chạy đến chỗ chiếc bàn kê ở góc phòng. Lúc này Minh Việt mới nhận ra còn một người nữa đang ngồi bên chiếc bàn ở bên phải giường nằm, quay lưng lại. Người này có dáng vẻ ông chủ. Khi ông ta đứng lên, bước tới bên chỗ Minh Việt, hai người đàn ông kia khúm núm đứng nép sang bên. Minh Việt đoán chừng ông ta độ năm mươi hoặc hơn một chút. Ông ta mặc bộ quần áo màu rêu đá. Chiếc áo được may theo kiểu Tôn Trung Sơn, cổ đóng cao, hai bên vạt có túi vuông. Ông ta vẫy tay một cái và người đàn ông dáng vẻ lam lũ bê đến một cốc sữa nóng đựng trong một chiếc đĩa sứ, không biết đã được pha từ bao giờ. Ngửi mùi sữa, Minh Việt bỗng thấy thèm kinh khủng. Dù có bị bắt thì cũng phải ăn cho đỡ đói, nghĩ thế, Minh Việt gượng ngẩng đầu dậy, đón cốc sữa tu một hơi. Người đàn ông có dáng dấp như một thầy giáo tiến đến bên Minh Việt hỏi:
- Ông có muốn ăn thêm một lát bánh không?
Minh Việt lắc đầu. Quả thực Minh Việt thấy trong người vẫn còn rất mệt, chỉ có thể uống sữa chứ không thiết ăn gì cả. Người đàn ông có dáng ông chủ lại khoát tay một cái, hai người còn lại gật đầu rồi đi ra khỏi phòng. Nào, chúng mày bắt đầu hỏi cung đi, Minh Việt thở nhẹ, cố giữ thăng bằng tâm lý. Người đàn ông quay lại chỗ chiếc bàn, khẽ nhấc lên chiếc ghế và đưa nó lại gần giường. Ông ta ngồi xuống đó. Mọi cử chỉ hành động của ông ta rất nhẹ nhàng, có chút gì đó lịch thiệp nữa. Và ông ta bắt đầu cất tiếng hỏi:
- Anh thấy trong người thế nào?
- Bình thường!
- Tức là có thể trò chuyện được chứ?
Im lặng.
- Tôi phải nói ngay thế này cho anh hiểu nhé. Anh là lính Bắc Việt. Trong khi đánh nhau anh chạy lạc vào rừng cao su của tôi. Những trường hợp như thế này vẫn thường xảy ra. Và những người công nhân của tôi chỉ có mỗi việc là cáng các anh ra đặt ở chỗ bìa rừng để đồng đội của các anh đến lấy đi. Tôi sống ở Sài Gòn. Tôi không quan tâm đến những chuyện đó. Nhưng hôm nay tôi có việc lên đây và được thông báo là lại có một người lính Miền Bắc lạc vào rừng su. Tôi đã định bỏ về Sài Gòn ngay sau khi xong việc, để mặc cho những người công nhân của tôi xử lý anh như vẫn thường xử lý các đồng đội của anh trước đây. Nhưng trong lúc thay quần áo của anh ra, người của tôi đã phát hiện thấy trong quần đùi của anh có một sợi dây chuyền vàng. Tôi cam đoan với anh là chúng tôi sẽ thả anh về với người bên anh. Nhưng tôi muốn biết nguồn gốc của chiếc dây chuyền vàng mà anh mang theo bên người. Anh thấy thế nào?
Im lặng.
- Anh đừng cố chấp thế. Anh hãy nói đi. Chiếc dây chuyền này có phải của anh không?
- Của tôi.
- Ai cho anh?
- Tôi mua.
- Mua của ai?
- Mua ở hiệu.
- Ở ngoài Bắc anh ở tỉnh nào?
Không được rồi. Đây chắc là chiêu bài hỏi cung của bọn nó đây. Minh Việt phải thật tỉnh táo nếu không sẽ sa bẫy. Tốt hơn hết là không nói gì nữa. Im lặng.
- Sao? Chẳng lẽ anh không thể nói được anh ở tỉnh nào à? Tôi có hỏi về phiên hiệu đơn vị, quân số, vũ khí, nơi đóng quân đâu mà anh sợ. Nào, hãy nói đi chàng trai trẻ, quê anh ở đâu?
Im lặng.
- Thôi được rồi, tôi cũng không muốn mất thời gian vào những việc vô bổ như thế này. Tôi sẽ đưa ra một vài thông tin, anh hãy xác nhận hộ tôi nhé, được không?
Im lặng.
- Có phải anh quê ở An Lạc không? Có phải mẹ anh sống ở khu Nhà thờ và làm nghề bán cháo không? Có phải bố anh đã từng là phó chủ tịch đầu tiên của thị trấn đó không? Nào, anh hãy nói đi. Bởi vì tôi có thể khẳng định với anh rằng, chiếc dây chuyền này là của tôi. Nó là vật gia bảo. Tôi đã tặng nó cho một đứa trẻ trước khi vô trong đây. Không hiểu sao tôi cứ nghĩ rằng anh chính là đứa bé đó, đứa bé mà tôi đã tặng chiếc dây chuyền này? Thế nào? Anh không xác nhận được cho tôi một thông tin nào à?
Im lặng.
- Nếu không đúng như vậy thì thôi. Đêm nay người của tôi sẽ đưa anh ra bìa rừng trả anh về với người ở phía bên kia. Ngay sau đây tôi cũng sẽ về Sài Gòn. Tôi còn nhiều công chuyện cần phải giải quyết ở trên đó. Anh đồng ý với cách làm đó chứ?
- Nếu tôi xác nhận những thông tin mà ông vừa nêu thì sao?
Người đàn ông có vẻ hơi ngỡ ngàng, nhưng mắt ông ta ánh lên niềm vui mừng.
- Thì tôi sẽ có thêm nhiều thông tin mới cho anh, ví như bà ngoại anh hiện giờ ra sao chẳng hạn? Nhưng trước mắt, việc quan trọng hơn là tôi sẽ chữa cho anh khỏi cái chân kia đã. Anh có thể an tâm được rồi chứ?
Cái dây chuyền vàng mợ bắt Minh Việt mang theo không ngờ lại giúp ích cho anh trong lúc này. Vàng bạc xưa nay vốn gắn với người, bện hơi người, là mồ hôi nước mắt của con người. Mợ nghĩ rằng số vàng bạc đó là của mẹ Mến. Mẹ Mến chết rồi, nó thuộc về Minh Việt. Minh Việt vào chiến trường rất có thể cũng sẽ chết. Như vậy ai dám dùng số vàng đó mà chi tiêu? Mợ đã bắt Minh Việt phải mang nó theo. Bây giờ vào đây Minh Việt mới lại lơ mơ nhận ra chiếc dây chuyền vàng này không phải do mẹ Mến làm ra mà của người đàn ông mặc áo túi vuông tặng cho một đứa trẻ nào đó, đã lâu lắm rồi. Đứa trẻ đó có phải là Minh Việt không? Chịu! Không ai trả lời được câu hỏi này vì mẹ Mến và bà Quản đã chết. Bố lại càng không biết vì Minh Việt về với ông thì cái dây chuyền đã có sẵn trong bọc quần áo. Vậy chỉ còn chính ông ta, cái người mặc áo túi vuông ấy sẽ cho biết chính xác chiếc dây chuyền ấy từ đâu mà ra, và vì sao lại thuộc về Minh Việt?
Nhưng phải rất lâu sau Minh Việt mới gặp lại được người đàn ông ấy. Khi đó ông ta đang là tù nhân của chế độ mới. Nhờ ông ta Minh Việt biết vì sao mà anh có chiếc dây chuyền vàng. Cũng theo lời chỉ dẫn của ông mà Minh Việt tìm được đến mộ bà ngoại. Bà Cả Ngật vào Nam được hơn chục năm thì chết. Người lo tang ma cho bà chính là người lính thất trận trên chuyến tàu quân sự rời cảng Hải Phòng năm nào. Người lính thất trận ấy có tên là Tuấn Thành. Khi Minh Việt gặp ông ở rừng su ông đang là dân biểu và có chân trong Ủy ban thương mại của Quốc hội Việt Nam cộng hòa. Cái quốc hội của ông đang trong quá trình hấp hối nên ngay hôm sau ông phải có mặt ở Sài Gòn. Và ông không còn có dịp quay trở lại khu rừng cao su ở miền Đông Nam Bộ ấy nữa. Chân của Minh Việt chưa lành hẳn thì những công nhân ở đây đã liên hệ để trả anh về với đồng đội của anh.
Chỉ mấy tháng sau cả khu rừng cao su trở thành bãi chiến địa.
Và từ bãi chiến địa ấy, đơn vị của Minh Việt đã tiến về giải phóng Sài Gòn.
Phần 3- Hiện hữu - Chương 9
Minh Việt quyết định quay trở về An Lạc sau hai mươi ba năm xa cách.
Thực ra trong hai mươi ba năm đó Minh Việt cũng đã đôi ba lần về An Lạc nhưng chỉ là về chơi, thăm bà, bố, mợ và các em. Còn lần này, Minh Việt về hẳn. Về cùng với một đứa con gái lên mười.
Đón Minh Việt ở Ga Hà Nội là thằng Đình và một cậu thanh niên ngoài hai mươi tuổi.
Đình tự lái xe ô-tô đưa mọi người về An Lạc.
Đình trước theo nghề công an, nhưng rồi chuyển ngành sang làm giám đốc một công ty thương mại của thành phố. Điều này Minh Việt đã biết.
Thời sinh viên, Đình luôn khát khao có được một chỗ ngồi trên chiếc xe buýt chạy đường dài. Chưa bao giờ Đình có đủ tiền để mua một chiếc vé về quê vào những dịp nghỉ hè hay nghỉ tết. Mà thời ấy chuyến xe nào cũng là chuyến xe bão táp, chuyến tàu nào cũng là chuyến tàu giông gió. Thân kiếp của một thằng sinh viên nghèo thường phải nhảy tàu nhảy xe như Đình ngày ấy thật khốn nạn. Sau này Đình vẫn thường tổng kết rằng: trên đời sợ nhất là đi xe thời bao cấp! Điều này Minh Việt cũng biết.
Bây giờ một mình một xe, tự lái lấy, đường trải nhựa êm ru, chắc Đình đã thỏa nguyện khát vọng thời trai trẻ?
- Nhà em không chịu được xe lạnh. Cứ ngồi lên năm phút là say bác Việt ạ. Con nhỏ nhà bác có chịu được xe không? - Xe ra khỏi thành phố rồi, Đình mới quay sang trò chuyện với Minh Việt.
- Đây cũng là lần đầu tiên cháu đi xa. Mấy ngày đi tàu không thấy cháu bị sao cả. Chắc chịu được. Bố, mợ vẫn khỏe chứ chú?
- Khỏe! Sau khi nhận được thư bác, bà cứ giục bọn em phải thúc anh về. Bà bảo về ngoài này mấy anh em quấn túm lấy nhau chứ bác ở trong ấy có một mình, lại ốm đau bệnh tật thế, ở làm gì? Thế bác giải quyết xong hết chưa? Nhà bán rồi chứ?
- Bán rồi. Đúng là chẳng còn gì lưu luyến với cái đất ấy, chỉ thương con Ly không chịu được khí hậu ngoài Bắc thôi.
- Ôi dào! Rồi quen tất.
- Vợ chồng cái Ánh thế nào?
- Bình thường. Anh ấy còn công tác. Chị ấy nghỉ hưu rồi.
- Còn cái Vân?
- Chuyện cái Vân và thằng Đức thì buồn lắm. Thư thả rồi bác tìm hiểu.
- Thế bây giờ ai ở với bố, mợ?
- Thằng út đây.
Thì ra cậu thanh niên nãy giờ vẫn ngồi yên lặng bên Minh Việt là cậu út Đạo. Nó ra đời vào đúng ngày Minh Việt lên đường vào chiến trường. Mấy lần Minh Việt ra Bắc sau này nó còn rất nhỏ. Bây giờ thì nó đã là một chàng trai rồi. Lúc ở ga tàu Minh Việt thấy nó mặc áo ký giả, tóc nhuộm màu râu ngô, tai cắm ống phôn, miệng nhai kẹo cao su lại tưởng là nhân viên lái xe của Đình. Ai ngờ cái thằng nhỏ gầy nhách ngày nào bây giờ lại trổ mã thời thượng thế này!
- Anh còn nhớ lá thư em gửi cho anh cách đây mười ba năm không? - Thằng Đạo gỡ phôn ở tai nghe ra, quay sang hỏi Minh Việt.
- Còn. Thư xin cá khô.
- Ngày ấy anh có khen là em viết thư hay, câu chữ gãy gọn dù mới chỉ học lớp bốn. Thế mà bây giờ câu chữ là cái nghiệp của em rồi đấy.
- Vậy hả? Tức chú là nhà báo? Sao bữa trước nghe nói chú học ngoại ngữ cơ mà?
- Em viết mấy cái truyện ngắn, được giải của báo Trẻ, ra trường họ xin em luôn. Bây giờ em là trưởng đại diện của báo Trẻ ở các tỉnh miền duyên hải.
- Nghề nghiệp của chú ấy như thế là cũng được, bác Việt ạ - Đình tiếp tục tham gia vào chuyện của hai người - Chỉ có điều thằng này nó không hợp với ông nhà mình. Em về lần nào cũng thấy ông phàn nàn về nó.
Sau này Minh Việt có dịp hiểu kỹ hơn về Đạo. Tạm thời hai bố con Minh Việt ở cùng phòng với Đạo. Vẫn là ngôi nhà cũ ở đường Tứ Phủ nhưng bố mợ xây lên hai tầng. Tầng một bà và bố, mợ ở. Tầng hai dành một phòng để thờ, một phòng cho cu Đạo. Ngoài ra còn có một cái ban công rộng để bộ ghế mây, thỉnh thoảng bố hoặc cu Đạo tiếp khách ở đó. Minh Việt bảo:
- Nhà mình bây giờ hóa ra lại rộng nhỉ?
Mợ cười, gật gật đầu:
- Anh chẳng về trước đây một tháng mà xem! Nhà này cứ như cái trại tị nạn. Mẹ con con Vân này, thằng Đức này, cụ thì lẫn này, thằng Đạo thì như cái giống dở người, ối giời ơi, lắm hôm đến là đau đầu, tưởng phát điên lên được.
Cách nói của mợ vẫn không thay đổi. Lúc nào cũng nghiệt ngã nhưng thiện tâm. Cả bố và mợ đều nghỉ hưu rồi. Họ đều đã bước qua tuổi lục thập. Coi như đời người đã ngả chiều.
Chóng vánh làm vậy.
Mà cũng phù du làm vậy!
Minh Việt bây giờ là một gã đàn ông ngoại tứ tuần, còi cọc, ốm yếu, da xanh mái, tóc rụng thưa, chỉ có đôi mắt là vẫn giữ nguyên nét đẹp u uẩn, buồn như hai thác nước đổ dưới màn sương.

Chàng trai Minh Việt khỏe đẹp của phố Tứ Phủ ngày nào giờ đã đổi thay quá nhiều. Chính Minh Việt cũng không nén được sự buồn tủi khi nhìn dáng hình mình trong gương. Trước đây Minh Việt đâu có thế này? Sau giải phóng Minh Việt cũng đâu có thế này? Cả chục năm lênh đênh trên biển Minh Việt cũng đâu có thế này? Khi nhận được thư của cậu em út gửi từ ngoài Bắc vào, Minh Việt khi ấy còn đang là một thủy thủ lực lưỡng, vâm váp sóng giật cấp chín, cấp mười vẫn đi lại trên boong tàu như không. Vậy mà chỉ ngay sau đó thôi. Ngay sau khi ra bưu điện gửi thùng cá khô nặng một yến rưỡi về cho bố mợ, trở lại tàu Minh Việt thấy người hâm hấp nóng và cứ thế thân nhiệt không lúc nào giảm xuống dưới ba chín độ. Minh Việt phải rời tàu lên nằm ở trạm xá của Xí nghiệp. Rồi từ trạm xá lại chuyển sang bệnh viện. Bạn bè thủy thủ tới thăm. Cả ban lãnh đạo Xí nghiệp cũng tới động viên, an ủi. Ai cũng nắm tay Minh Việt thật chặt và bảo: “Cố gắng nằm viện ít hôm, khỏe rồi lại về với Xí nghiệp, về với anh em”. Nhưng bệnh viện có phát hiện ra được bệnh gì đâu! Người bệnh cứ sốt kéo dài, ăn gì nôn ấy, cơ thể lúc nào cũng thấy ớn lạnh. Đến khi dừng sốt, thân nhiệt quay trở lại ba mươi bảy độ thì Minh Việt phải mang trên mình một hình hài khác. Tóc Minh Việt đã bạc hết. Tất cả các bắp thịt trên người anh bay biến đi đâu cả. Người anh sọm xuống, lúc nào cũng mệt mỏi và không còn làm được việc nặng nữa. Xí nghiệp cho Minh Việt về nghỉ mất sức. Vậy là sau gần chục năm làm việc, tính cả những năm tháng quân ngũ trước khi chuyển ngành, vốn liếng mà Minh Việt tích cóp được không nhiều nhặn gì ngoài căn hộ tập thể nằm trên tầng hai trong một con hẻm ở quận Một. Một chàng trai Bắc Kỳ không còn trẻ nhưng chưa già, chưa vợ con, xa gia đình, không người thân, lại ốm yếu bệnh tật biết tồn tại thế nào đây giữa lòng thành phố phương Nam xa xôi ấy?
- Sao anh không ra Bắc ngay sau đó?
Sau này chính từ miệng cu Đạo đã hỏi anh câu đó. Ừ, tại sao anh không quay ra Bắc ngay sau đó, khi sức khỏe đã trở nên tồi tệ như thế? Không, anh không thể trở lại An Lạc trong một tư thế buồn nản như vậy được. Anh là anh cả của gia đình, sự thoát ly của anh đồng nghĩa với niềm hy vọng tươi sáng cho cả nhà. Anh chưa giúp được gì cho bố, mợ, chưa giúp được gì cho các em. Những năm tháng khốn khổ nhất của thời bao cấp chút cá khô mà anh gửi về còn là niềm vui khôn xiết của cả gia đình kia mà! Làm sao anh dám trở về trong dáng hình tàn tạ với hai bàn tay trắng và một tương lai mờ tối như thế dù biết rằng đã là đòn giáng của số phận thì không ai có thể tránh được. Anh đã cố bám víu ở lại đất Sài Thành bằng một cái nghề, nói ra thì hơi buồn lòng, nghề bán trà Bắc. Người Bắc ở trong đó thèm chén trà Thái ở ngoài này và họ phải đi tìm hương vị của nó ở những quán cóc vỉa hè như của anh. Một cái ấm to lúc nào cũng ủ nóng. Một cái phích nước đầy. Một chiếc điếu cày. Một cái xô nhựa nhỏ. Chục chiếc chén da tru. Dăm ba cái ghế con. Và một góc ngồi phố xá. Thế là anh có công việc mới. Có thu nhập mới. Cũng giống như cắt tóc hay bơm vá xe đạp vậy. Nó phù hợp với sức khỏe của anh. Và anh quen dần với nó.
Đêm đầu tiên và rất nhiều đêm sau Minh Việt kể cho cu Đạo nghe chuyện đời mình khi con bé đã ngủ. Con bé nhỏ nhắn, xinh đẹp, lễ phép, lại nói thứ giọng miền Nam vô cùng dễ thương nên chú Đạo yêu lắm. Đạo bảo với Minh Việt: “Vậy mà anh vẫn gửi tiền về đều đều. Chỉ có thư là ít viết. Sau này chị Ánh, anh Đình đi làm rồi, anh vẫn còn gửi tiền về. Mẹ bảo bố rằng nói với nó đừng gửi tiền về nữa. Lo mà cưới vợ đi. Và anh đã cưới vợ nhưng ngoài này không ai biết gì cả. Bố mẹ trách anh lắm. Nhưng sau này, qua bác Tuấn Thành, cả nhà đã biết chuyện của anh. Riêng em, em không hiểu. Tại sao lại như thế?” Em không hiểu được đâu tại vì em còn trẻ lắm. Em chưa thấy hết được sự kinh khủng của một người đàn ông sống trong nỗi cô đơn cùng bệnh tật đeo bám. Cái góc quán của anh ngồi nhìn sang một khách sạn. Đêm đêm có nhiều cô gái tìm đến ký sinh nhờ ánh đèn sáng trắng hắt ra từ tòa nhà đó. Có một người đàn bà hương đã tàn, sắc đã phai cũng tìm đến cái khách sạn đó để bán những thứ có thể bán được trên cơ thể mình. Nhưng những thứ cô ấy rao bán bị người đời hờ hững. Không bán được thì cô ấy không có cái ăn. Cô ấy đã uống nước trà của anh để sống cho qua ngày. Nhiều lần như thế. Có một lần cô ấy nhịn đói suốt mấy hôm liền. Ba ngày bụng cô ta chỉ chứa toàn nước trà và cô ấy đã ngất xỉu ngay khi cầm chén nước thứ mười ba mà anh vừa đưa cho. Cũng là cái kiếp người mà sao lại khổ thế? Trước đây cô ta cũng có chồng có con. Nhưng chồng con cô ta kịp di tản trước giải phóng còn cô ta vì mải một chuyến buôn bán ngoài Đà Nẵng nên bị kẹt lại không đi được. Anh đã đưa cô ấy về căn hộ tập thể của mình. Từ hôm ấy anh là người có vợ. Cũng từ hôm ấy sự sống của bé Ly được hình thành.
Ừ, có lẽ chỉ nên biết đến thế thôi chú út ạ. Mà sao chú ghi chép gì mà nhiều thế? Thì vẫn biết chú là nhà báo. Vẫn biết chú viết văn. Nhưng chẳng lẽ chú lại định viết chuyện về cuộc đời anh? Có gì đâu để mà viết nhỉ? Mà nhà mình có ai theo nghiệp văn chương đâu, sao chú lại có cái gien đó nhỉ? À đúng. Đúng rồi, thời thanh niên bố đã từng làm thơ. Chẳng lẽ đó là sự khởi đầu cho cái gọi là di truyền đời văn của chú? Mà chú viết những cái gì? Bằng tuổi chú anh chưa viết nổi một câu văn gãy gọn đâu. Văn chương của chú lại còn được giải nữa kia! Thế thì giỏi lắm, tài lắm và rất ngạc nhiên với anh đấy. Chú cho anh đọc những cái chú viết có được không? Anh sẽ đọc ngay. Chú khiến anh tò mò rồi đấy, chú Đạo ạ.
Cu Đạo đưa cho Minh Việt một tập sách mới xuất bản, trong đó in mười cái truyện ngắn. Đạo chỉ vào hai cái truyện và bảo: “Đây, em được giải bởi hai cái này, toàn chuyện gia đình mình cả thôi”.
Hôm sau Minh Việt đóng cửa phòng nằm đọc hết hai cái truyện được giải. Chuyện thứ nhất có đầu đề là “Bố và anh trai”. Câu chuyện được viết như sau:
Gia đình tôi sống ở thị trấn An Lạc. Bố tôi tên là Bình. Ông cao một mét sáu mươi nhăm, người tầm thước, tính tình hiền lành, ít nói. Bố tôi có tất cả sáu người con. Tôi là con út. Anh trai cả tôi đi bộ đội đánh Mỹ, sau giải phóng chuyển ngành về làm ở một xí nghiệp đánh cá quốc doanh trong miền Nam. Tôi hầu như không biết mặt người anh cả này. Khi tôi còn nhỏ anh có về nhà đôi ba lần nhưng trí óc non nớt của tôi không ghi nhớ được điều gì về anh. Tuy nhiên tôi vẫn thường tự hào với bạn bè là tôi có một người anh trai làm thủy thủ. Tôi đã có lần viết thư cho anh. Sau khi tôi viết thư đi được một tháng cả nhà tôi vui như tết vì được anh gửi cho tới hơn một yến cá khô. Ngày ấy cả nước đang sống trong thời bao cấp. Gia đình tôi không thiếu lương thực nhưng rất thiếu thực phẩm. Với tôi những bữa cơm không có thức ăn luôn là điều ám ảnh sợ hãi. Tôi không thể nào quên được món tôm kho của mẹ. Ba lạng tôm có lẽ phải đi kèm với sáu lạng muối. Có nghĩa là cứ mỗi con tôm phải cõng trên mình nó một lượng muối nặng gấp đôi. Mỗi một con tôm như thế có nhiệm vụ áp tải một bát cơm đầy đi từ ngoài miệng vào trong dạ dày của tôi. Tôi kinh hãi những con tôm được bao bọc quanh mình đầy một thứ tinh thể trắng nhờ, mặn chát đó. Và một lần nhân dịp mẹ tôi sang nhà hàng xóm chơi, tôi đã đổ cả bát tôm vừa kho xong vào chậu nước nóng. Tôi dùng đũa ngoáy đều cho những hạt muối trên mình tôm hòa tan trong nước, sau đó tôi vớt tôm ra rá, vẩy cho khô nước rồi lại để vào bát nguyên vẹn như cũ. Bữa cơm chiều hôm ấy, cả nhà ăn hết vèo bát tôm đáng lẽ phải để dành cho cả ngày hôm sau nữa. Mẹ không nói gì, chỉ lẳng lặng ngồi nhìn tôi nhai rau ráu những con tôm đã được rửa hết muối bám xung quanh. Tối hôm ấy, mẹ bảo tôi: “Cả ngày mai nhà mình sẽ phải ăn cơm với nước mắm, con đã muốn thế thì mẹ sẽ chiều”. Tôi bảo: “Nhưng mẹ ơi, tôm mẹ kho mặn lắm, con không ăn được”. Mẹ cười buồn: “Mẹ sợ rồi không còn cái mằn mặn, đằm đằm ấy để mà đưa cơm nữa cơ con ạ”. Tôi hỏi: “Sao lâu lắm rồi không thấy anh Việt gửi cá khô về mẹ nhỉ”. Mẹ bảo: “Con thử viết thư hỏi anh ấy xem”. Và tôi đã viết thư. Và anh Việt, tức anh cả tôi, người anh làm thủ thủy vô cùng mến yêu của tôi đã gửi cả yến cá khô về. Trong suy nghĩ thầm kín của tôi, tôi luôn cho rằng công lao của tôi rất lớn. Cá khô rất ngon. Lạc thịt mà lại không mặn. Chắc anh Việt tôi đã lựa chọn cho tôi thứ cá ngon nhất để gửi về? Người anh yêu quý ấy của tôi ngày ngày vẫn đang đi trên biển lớn bằng con tàu to mà tôi vẫn được nhìn thấy ở trên phim ảnh. Tôi tha hồ tưởng tượng về anh với vô vàn những điều hay ho, và tôi kể những điều hay ho đó cho mấy thằng bạn cùng xóm phố với mình. Thật không ngờ, có một thằng bạn ở gần nhà tôi bảo rằng: “Đó không phải là anh mày. Mẹ mày không đẻ ra anh ấy. Anh ấy không bao giờ thèm về ở nhà mày đâu!”. Tôi tức điên lên. Tôi hỏi mẹ. Mẹ bảo: “Ừ, mẹ xin anh ấy về nuôi từ khi còn rất nhỏ. Con và anh ấy vẫn là anh em. Không sao cả. Đừng nghe người ngoài nói lung tung. Anh Việt nghe thấy anh ấy sẽ buồn”
Nhưng “người ngoài” không chịu dừng những lời nói “lung tung” lại. Họ bảo: “Mẹ mày là dì ghẻ, đối xử với nó chẳng ra gì nên nó không bao giờ dám quay trở về nhà nữa”. Tôi đành hỏi bố. Bố bảo: “Con còn nhỏ, đừng hỏi chuyện đó làm gì. Lớn lên rồi con sẽ hiểu”
Bố tôi làm chủ tịch thị trấn được đúng một năm thì nghỉ hưu. Tính ra thị trấn tôi ở từ ngày hòa bình lập lại đến nay tất cả đã bốn lần tách, nhập. Khi thì nhập vào với huyện Lãng Tiên, lúc lại nhập với Hải Phòng, rồi lại tách ra, lại chia nhỏ thêm nữa... Bác Mộc bạn bố tôi lúc thì làm chủ tịch, lúc thì làm bí thư, cho đến lúc nghỉ hưu lại vẫn là bí thư. Người dân thị trấn đùa rằng bố tôi và bác Mộc là hai ông quan chậm tiến nhất của đất An Lạc. Vì rằng bác Mộc khởi đầu quan nghiệp cho đến lúc về hưu, ba mươi nhăm năm cả thảy, không lên được một cấp. Bố tôi thì sau ba mươi sáu năm mới tiến được từ chức phó chủ tịch đến chức chủ tịch, mà cũng chỉ là chức quá độ để cho một lớp lãnh đạo khác lên thay thế. Lúc này tôi đã lớn. Đất nước đã thoát ra khỏi thời kỳ bao cấp u ám và ảm đạm. Các anh chị tôi đều đã trưởng thành. Tôi có thêm một chị làm ở ngành lương thực - chị Ánh. Lại có thêm một anh làm công an - anh Đình. Gia đình tôi thuộc mẫu gia đình gia giáo và chuẩn mực của thị trấn. Tôi sẽ chưa quan tâm và tìm hiểu nhiều về bố tôi nếu như không có một hôm anh trai làm công an của tôi đi làm về, hớt hải tìm gặp bố. Tôi thấy hai người thì thầm điều gì đó, vẻ quan trọng lắm. Rồi bố tôi đi đi lại lại, nét mặt bần thần, nhăn trán nhíu mày, trông rất căng thẳng. Hôm sau tôi thấy mẹ đi chợ về sớm, lại sột soạt đóng gói cho anh Đình mang theo một bọc to. Anh Đình thường mang những cái bọc ấy đến một khu trại ở đằng sau núi Cô Hồn. Tôi vẫn nghe mọi người nói rằng khu trại ấy dùng để tập trung cải tạo những thành phần đặc biệt nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân. Tôi chợt giật mình: Hay anh cả tôi gây ra việc gì nên bị người ta bắt vào đấy rồi? Tôi hỏi bố, bố bảo: Ở đấy có một người trước kia là bạn bố, sau này người ấy làm đến chức đại loại như bộ trưởng của chế độ ngụy. Tình xưa nghĩa cũ, bố gửi quà thăm nom thôi.
Mấy năm sau thì khu trại ấy giải tán. Tối hôm đó bố giao tôi đứng trước cửa nhà để trông chừng không cho ai vào. Anh Đình đưa người đàn ông vừa được ra trại đi lối cổng sau vào nhà. Chẳng biết bố tôi và người bạn vừa được cải tạo kia nói với nhau những gì, khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau thì anh Đình đích thân dùng xe đạp chở người bạn bố sang bến xe bên Phòng để ông ấy đi vào miền Nam. Vài năm sau nữa bố tôi nhận được thư của “bác Thành”. Bác ấy đã sang Mỹ. Tôi vào đại học được hai năm, trong một lần về nhà chơi được bố cho biết cả nhà đang chuẩn bị đón bác Thành. Cuối cùng thì bác Thành cũng xuất hiện. Người đàn ông bí ẩn trong ký ức niên thiếu của tôi hóa ra lại rất đẹp. Ông có dáng dấp hao hao giống bố tôi nhưng hồng hào, phương phi hơn. Bố tôi bảo: “Bây giờ chúng ta có thể tiếp nhau đàng hoàng mà không còn sợ gì nữa. Những nợ nần với lịch sử chúng ta đã trả xong. Cả tôi và ông đầu đều đã bạc. Nếu còn “cô đầu ngõ Cấm” tôi với ông phải thuê một chuyến xích lô sang đó chơi mới được. Rõ ràng thời cuộc buộc chúng ta phải không nhận nhau mặc dù chúng ta là bạn và không ai muốn đánh mất tình bạn. Lịch sử nó thế, phải thế. Sinh ra trong đời chẳng ai tránh được bão táp cuộc đời. Ông Thành nhỉ?”
Bác Thành bảo: Lúc nào tôi cũng ơn ông. Không có ông dòng họ tôi tuyệt tự. Chính vì thế tôi không hận chế độ này. Tôi luôn cho rằng tôi là nạn nhân của lịch sử. Mà lịch sử thì chẳng nên trách móc làm gì. Người có “phận”, nước có “vận”. Tránh sao khỏi được “vận” ông nhỉ?
Bố bảo: Thằng con tôi cũng nhờ tay ông mà sống sót. Ông là người biết lịch sử của nó hơn chính nó đấy?
Bác Thành ngạc nhiên:
- Thế nghĩa là sao?
- Là vì mẹ nó chết khi nó được độ năm, sáu tuổi gì đó. Sau này tôi mới nhận nó về nuôi. Thời thơ ấu của nó tôi không rõ lắm.
- Tại sao ông lại không nhận mẹ con chị ấy sau ngày hòa bình lập lại?
- Chỉ có thể giải thích rằng tôi là con người nên cũng có những lúc tôi hành động thấp hèn. Tôi không yêu cô ấy nhưng tôi đã thực sự thiếu trách nhiệm, dám làm nhưng không dám chịu. Sau này tôi ân hận nhiều về chuyện ấy. Cũng phải mất cả một đời người mới hiểu ra những việc làm của mình là đúng - sai! May mà vợ tôi cũng tốt bụng. Nhưng dù thế nào thì tâm hồn thằng bé cũng chịu nhiều thương tổn. Phải chăng vì thế mà không thấy nó lấy vợ? Cũng đã lâu rồi nó không về đây. Không biết nó có hận tôi không?
Bác Thành hơi nhăn mặt một chút rồi sau đó hạ giọng, khẽ khàng:
- Nó lấy vợ rồi. Và có một đứa con gái. Có lẽ nó bị hậu quả chất độc chiến tranh nên sức khỏe sa sút ghê lắm. Tôi đã không giữ lời hứa với nó khi nói cho ông nghe chuyện này. Nó không muốn mọi người coi là một gánh nặng cho gia đình. Nó không hận ông. Nó có quan niệm giống tôi. Người có phận, nước có vận, không trách lịch sử vì không ai chọn được cho mình lịch sử để nương phận.
Bố tôi nghe đến đây bỗng ngã ngửa ra sau ghế, hôn mê bất tỉnh. Bố tôi đã sốc khi biết tin anh cả của tôi không phải là thủy thủ đang lênh trên đại dương cùng cánh buồm đỏ thắm mà chỉ là một anh bán nước trà rong bên vỉa hè Sài Thành. Lại còn bệnh tật. Lại còn nhiễm chất độc hóa học từ thời chiến tranh. Sao bao nhiêu bất hạnh đều chọn một anh tôi mà đổ vào thế? Sao bao nhiêu bất hạnh đều chọn người con riêng của bố tôi mà đổ vào thế?
Tất nhiên bây giờ thì tôi đã hiểu quan hệ giữa tôi và anh cả là như thế nào? Tôi với anh cùng cha khác mẹ. Tôi cũng đã hiểu thêm về bố tôi. Hãy tạm bỏ đi cái chức vụ chủ tịch một thị trấn nhỏ như An Lạc này, bỏ đi cái lý lịch oai hùng trận mạc một thủa của ông, bỏ đi bao nhiêu danh hiệu cao quý mà ông treo trên tường kia nữa, sẽ thấy ông hiện lên là một con người đầy rẫy những mâu thuẫn và cũng đáng thương như bao số phận khác mà thôi. Ông đã cứu bác Thành trên đường đưa đi xử tử. Ông đã dan díu với mẹ của anh cả tôi trong khi bị thương sau một trận đánh lớn. Sau này bác Thành lại cứu anh Việt tôi cũng sau một trận đánh. Quá khứ của ông phức tạp hơn tôi tưởng. Bảy mươi năm của một đời người chất chứa biết bao chuyện buồn vui. Bảy mươi triệu dân trên đất nước này sẽ là bảy mươi triệu pho tiểu thuyết vô cùng sống động. Có lẽ tôi phải cầm bút và phải làm nhà văn thôi.
Nhưng tôi sẽ cố gắng khác ông, người bố yêu quý của tôi. Ít ra là tôi sẽ dám nhận về mình những điều tôi thích hoặc không thích, yêu hoặc không yêu, làm hoặc không làm.
Tôi sẽ khác bố tôi.
Nhưng dù thế nào thì tôi cũng chỉ là sự thoát thai từ ông mà thôi.
Đọc xong mẩu chuyện, Minh Việt thấy lòng mình chùng xuống. Thì ra viết văn là như thế này đây. Lớp người hậu sinh sẽ không thôi tìm hiểu về quá khứ của người thân họ. Mừng thay họ nhìn nhận lịch sử bằng đôi mắt khá công tâm. Chú út đã thực sự làm Minh Việt ngạc nhiên. Anh hào hứng đọc tiếp chuyện thứ hai. Chuyện này có tên là “Chị Vân”. Câu chuyện được viết như sau:
Tôi có hai người chị gái và ba người anh trai. Xếp theo thứ tự chị hai tên là Ánh, chị tư tên là Vân. Chị Ánh hiền lành, ít nói, tính tình nhu mì, cẩn thận. Sau khi anh cả tôi đi bộ đội được vài năm thì bố tôi xin cho chị vào làm ở ngành lương thực. Bố tôi tính toán rất chi ly, cặn kẽ. Nhà đã có người làm công an, bộ đội rồi, phải có người làm lương thực, làm tài chính, làm thủy thủ tàu viễn dương và làm ngoại giao. Anh cả tôi là bộ đội, anh ba tôi là công an, chị Vân được hướng cho vào học trường tài chính kế toán, anh năm sẽ học trường hàng hải và tôi sẽ học trường ngoại ngữ.
Bố tôi đã tính đúng và cơ bản mọi sự cũng diễn ra đúng như cách tính toán của ông. Chị Vân tôi rất xinh đẹp. Cả phố Tứ Phủ không ai đẹp bằng chị. Mười ba tuổi chị được giải nhất về múa khối học sinh cấp hai. Mười sáu tuổi chị đoạt giải nhất ngâm thơ khối học sinh cấp ba. Chị thích ca hát, thích được làm văn công. Mười bảy tuổi chị theo bạn bè đi thi và trúng tuyển vào Đoàn văn công Quân khu Tả ngạn. Khi chị cầm giấy báo về bị bố tôi cho một bạt tai vì “ai bảo mày làm cái nghề con hát mà mày lại cứ thích nhố nhăng?”. Chị Vân đành bỏ mộng văn công, tiếp tục học cho hết cấp ba rồi thi vào trường Trung cấp tài chính kế toán đúng như định hướng của gia đình. Tôi là em út trong nhà nên được xếp ngủ chung với chị Vân. Tôi rất tự hào về người chị xinh đẹp của mình. Rất nhiều người đến tán tỉnh chị và tôi được họ chiều chuộng hết mực. Họ thường đứng đón tôi ở đầu phố sau buổi học để hỏi thăm về chị Vân. Có người nhờ tôi chuyển thư, chuyển quà hoặc chuyển một lời nhắn nhủ gì đó cho chị. Trả công cho những việc làm đơn giản đó tôi thường nhận từ họ nào lạc rang, kẹo kéo, bánh bích quy, quả khế, múi bòng hoặc vài ba quả bàng chín. Nhưng tất cả những người theo đuổi chị Vân đều không phải là đối tượng mà chị quan tâm. Chỉ tôi biết được người yêu lý tưởng của chị là ai. Chị rất thích đọc truyện hình sự và mẫu người chị thích là những tên tướng cướp hào hoa, phong trần, bị hoàn cảnh xô đẩy và cuối cùng hướng thiện. Chị bảo chỉ có những tên cướp mới có tình yêu và sẵn sàng chết vì tình yêu. Một lần có một chiếc xe tù dừng lại trên phố Tứ Phủ để người áp tải và lái xe vào quán nghỉ ăn trưa. Bọn trẻ chúng tôi đứng dưới lòng đường nhìn lên, qua tấm lưới mắt cáo bịt sau xe, thấy lố nhố vài ba khuôn mặt xanh xao, vàng vọt. Họ là những phạm nhân bị dẫn giải từ trại này sang trại khác. Đa số họ đều rất trẻ. Tuy tóc cắt trọc, áo một màu xanh nhợt có đánh số tù, tay còng chung khóa số tám nhưng vẫn có vài ba khuôn mặt khá ưa nhìn. Chị Vân tôi cũng ra đứng xem. Và chị có tranh thủ bắt chuyện được với một anh chàng phạm nhân ngồi ngoài cùng, ngay sát tấm lưới mắt cáo. Tôi không để ý chị nói chuyện gì với anh ta, chỉ thấy anh ta dùng tay còn lại không bị còng lục trong chiếc túi vải lấy ra một quyển sổ mỏng nhét xuống dưới khe hở bên thành xe. Chị Vân đỡ lấy cuốn sổ đó. Và ngày hôm sau, qua miệng chị, tôi biết là hôm qua trong xe tù có một tên cướp thư sinh có học vấn, có chí khí, có con tim ứa lệ yêu thương. Chị đưa cho tôi xem quyển sổ mỏng của người phạm nhân mà chị đã trò chuyện. Tôi thấy chữ viết trong sổ rất đẹp, các trang đều viết thơ hoặc trích dẫn nhưng câu phương ngôn có thay đổi đi ít nhiều, kiểu như “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” hoặc “Anh hùng ắt mang thân tù tội” hay “Giang hồ gẫy cánh không rơi lệ/ Gông cùm chẳng thối chí nam nhi”... Nhìn chung cuốn sổ trình bày đẹp, nét viết tài hoa, bay bướm. Câu chữ đọc lên khá xúc động, có thể gây được chút cảm hoài nào đó với những người có tâm hồn đa sầu đa cảm. Đọc những dòng chữ ấy chị Vân tôi hình dung ra ngồi trong xe tù không phải là những tên trộm cướp tầm thường mà là những anh hùng sa cơ, những hảo hán thất vận, những đại ca mắc bẫy, những kẻ giang hồ gặp bước truân chuyên. Cuốn sổ ấy làm chị Vân rưng rưng mất mấy ngày. Tôi hiểu chị, thương chị nhưng chẳng thể nào can thiệp được vào cái sự nghĩ suy rất trúc trắc và khác người ấy của chị.
Vào đến năm cuối của trường trung cấp, đùng một cái chị theo bạn bỏ nhà đi vượt biên. Chị sang đến Hồng Kông sau mốc (thời hạn Liên Hiệp Quốc không tiếp nhận người tị nạn nữa) chỉ có chín ngày. Chín ngày ấy đã biến thành chín năm chôn vùi tuổi xuân của chị trong trại tị nạn. Thư chị viết về kể khá chi tiết quãng đường vượt biển của mình. Nào là đoàn tàu phải tạt vào chân giàn khoan dầu khí đổi vàng lấy nước ngọt, nào dạt vào đảo tránh bão và phải mò ốc biển nấu cháo với rau rừng ăn qua ngày, nào chia nhau từng sợi mì tôm nát bét cùng những vụn bánh mì ngấm nước biển, nào chân vịt bị gãy phải vét đến đồng tiền cuối cùng của tất cả mọi người trên tàu để mua chân vịt từ một tàu nước ngoài khác, nào đói khát, nào say sóng, nào nhớ nhà, thương bố mẹ và các em...

Những lá thư sau là tình hình các thuyền nhân tìm mọi cách để được Liên Hợp Quốc thừa nhận là tị nạn chính trị. Phải là tị nạn chính trị thì mới được đi nước thứ ba, mới tới được thiên đường. Còn nếu không chứng minh được điều ấy sẽ bị coi là tị nạn kinh tế. Mà tị nạn kinh tế thì sẽ bị trả về nước và Liên Hợp Quốc sẽ giúp cho vay vốn để làm ăn sinh sống ngay trên chính quê hương mình. Đã sang tới Hồng Kông rồi chẳng ai muốn quay trở về cả. Thế là ai cũng chuẩn bị cho mình một lý lịch lâm ly, bi khốc, ai cũng cố chứng minh rằng mình là tị nạn chính trị. Nghĩa là phải tự nhận gia đình mình có thâm thù với chế độ cộng sản, hoặc chứng minh bản thân là nạn nhân của các cuộc đàn áp tôn giáo, dân tộc, đa nguyên tư tưởng, phản kháng chế độ... Thanh lọc lần một. Thanh lọc lần hai. Rất ít người được thừa nhận như lý lịch tự khai. Hóa ra không phải cứ nhận phản động là người ta tin, cứ chửi đất mẹ là người ta nhận. Các thuyền nhân lại nghĩ ra cách biểu tình, tuyệt thực, rải truyền đơn, trích máu ký đơn kêu lên các tổ chức quốc tế để chống ép buộc về nước. Nhưng chẳng quốc gia nào muốn nhận những người bỏ nước ra đi kia nữa. Nếu nhận thì sẽ lại tạo nên những cuộc di dân mới và sẽ chẳng biết đến khi nào dòng người tị nạn mới hết chảy vào nước họ. Các thuyền nhân muốn đến được với thiên đường của mình chỉ còn có một cách duy nhất, ấy là theo con đường hôn thê. Các cô gái đua nhau nộp ảnh cho các tổ chức môi giới để họ giới thiệu cho những người đàn ông đang muốn tìm vợ. Các cô gái trẻ đẹp thường được chọn trước. Chị Vân tôi vốn xinh đẹp. Có nhiều mối muốn làm hôn thê với chị. Nhưng không hiểu sao chị nhất quyết không ra khỏi trại bằng con đường đó. Cho đến khi trại tị nạn cuối cùng ở Hồng Kông được dỡ bỏ, chị Vân về nước cùng với một đứa con trai tám tháng tuổi và một người chồng bị bắt ngay tại sân bay nước nhà thì mọi sự mới rõ ra. Chồng chị là một tên cướp nguy hiểm, trong khi thi hành án đã trốn trại vượt biên. Và bây giờ không còn nơi nào cho anh ta trốn chạy nữa, về nước, anh ta phải tiếp tục thi hành phần hình phạt còn lại của mình. Hình như còn ba năm bốn tháng nữa thì phải? Đấy là chưa kể phải cộng thêm cái án trốn trại sau này!
Sau này tôi mới biết chị Vân tôi đã gặp và si mê anh chàng tướng cướp kia ngay khi đặt chân tới đất Hồng Kông và ở cùng nhau trong một trại tị nạn. Mẫu người dễ gây xúc động nhất trong chị đã xuất hiện, chả trách chị chẳng thể còn làm hôn thê được với ai!
Chị Vân đã liên tiếp gây khó xử cho bố tôi. Cho anh trai làm công an của tôi. Và ngay cả cho việc được xét đi học cảm tình Đảng hồi còn là sinh viên của tôi nữa. Cũng may càng ngày cái nhìn của xã hội đối với những người vượt biên bỏ đất nước ra đi càng nhẹ nhàng hơn. Bố tôi vẫn công tác đến khi đủ tuổi thì về hưu. Nhưng ông đau lòng bởi việc ra đi của chị Vân đã làm hỏng hết mọi dự tính của ông. Đã vậy chị Vân lại trở về trong tư thế của người thất bại, của một đứa con “bôi tro trát trấu” vào mặt bố mẹ. Giá chị cứ thế mà đi hẳn sang nước thứ ba thì có lẽ bố tôi đỡ buồn, mẹ tôi đỡ tủi hơn. Đời thủa nhà ai ái nữ của một chủ tịch thị trấn, xinh đẹp, khôn ngoan, có ăn có học lại bỏ nhà vượt biên “phản bội tổ quốc”, rồi lại dan díu với phường trộm cướp, bây giờ về nhà ôm con chờ đến ngày đến tháng vào trại giam tiếp tế cho chồng thì có nhục không, có đau đớn không, có tủi phận cho bậc làm cha làm mẹ không? Ấy thế nhưng chị Vân tôi lại chẳng lấy đó làm điều. Chị vẫn hồn nhiên ca hát, vẫn la cà hết nhà này sang nhà khác kể về những tháng ngày ở trại, những tính cách có một không hai của chồng. Rồi chị còn bảo: “Khi nào anh ấy ra trại, anh ấy sẽ làm hẳn một đám cưới to đón mẹ con cháu về bên Phòng”. Bố tôi đe, mẹ tôi mắng, rằng như thế là cái giống con nhà không có gia quy gia pháp, rằng lấy thằng chồng tù mà còn đi khoe với hết cả thiên hạ thì xưa nay có mày là một, rằng hay hớm gì cái chuyện vượt biên không thành mà cứ hơn hớn kể chuyện ở trại tị nạn cho hết thảy mọi người nghe, rằng đầu óc chẳng có ý thức chính trị gì cả, bố đảng viên, anh đảng viên, em đảng viên, lại đang là cán bộ nhà nước, thế mà cứ tô tô ra miệng những chuyện đi ở, chẳng biết giữ gìn cho gia đình, cho người thân, ấy là chưa kể cái lý lịch mày khai ở bên Hồng Kông nhem nhuốc những thứ gì nữa? Chị nghe chửi nhưng vẫn đâu đóng đấy. Tính khí chị vậy, làm sao mà thay đổi được?
Thế rồi ba năm bốn tháng cũng trôi cái vèo. Anh chàng tướng cướp của chị Vân tôi được miễn tố tội trốn trại nên chỉ phải bóc lịch có từng ấy thôi. Anh ra trại hôm trước thì hôm sau dẫn đầu một đoàn bảy thanh niên trẻ trung, khỏe mạnh, bê bảy mâm quả phủ vải đỏ sang nhà tôi xin hỏi cưới chị Vân.
Bố tôi cấm cửa không cho mang quả vào nhà. Ông bảo: “Tao cho không mày, cứ đón hai mẹ con nó về, bày trò làm gì cho thiên hạ người ta cười cho”. Anh chàng tướng cướp của chị Vân tôi bảo: “Nhưng Vân chưa bao giờ được bước lên xe hoa, con muốn thực hiện mơ ước ấy của em Vân bằng cách đón Vân về nhà chồng bằng mười ba chiếc xích lô có lọng che”. Bố tôi bảo: “Anh mà lảm nhảm nữa, tôi sẽ đuổi anh ra khỏi nhà”. Chồng chị Vân bảo: “Con làm tất cả vì tình yêu, con mang hoa đến nhà mình chứ có mang dao găm súng lục đến đâu mà bác đuổi con?”. Bố tôi bảo: “Thôi, tôi không cãi lý cãi tình với anh. Coi như tôi cho không anh đứa con gái và không đòi hỏi gì cả”. Chồng chị Vân vẫn cố nài: “Vậy trong số sính lễ con mang tới, bác nhận cho con mâm trầu!”
Thế là chị Vân về nhà chồng với đứa con trai đã gần năm tuổi. Chẳng có mười ba chiếc xe xích lô có lọng che đón rước như mơ ước thời con gái của chị. Hai vợ chồng chị mở một cửa hàng giày dép rất to. Cứ vài tháng anh rể tôi lại giục tôi đổi giày một lần. Tôi hỏi anh: “Ngày xưa anh cướp của người ta cái gì?”. Anh cười rất hiền: “Một đôi giày da ngoại. Nhưng bị chống cự. Thế là cho một nhát. Đi luôn quả thận”
Chị Vân tôi là thế. Có thể coi đó là một số phận có thăng trầm, có mảng miếng cho văn học. Trong chị không có một nét tính cách nào của bố hay của mẹ. Mẹ tôi nghiệt miệng nhưng thực tế, nhân hậu. Bố tôi cầu toàn, dĩ hòa vi quý, luôn tìm cách che chắn những giông gió cuộc đời. Thế mà chị Vân tôi lại lãng mạn dở hơi và không ngừng dội bom vào sự cầu toàn của bố. Biết làm sao được. Bố mẹ sinh con trời sinh tính. Sau này bố tôi đã phải thốt lên: “Ở đời, càng cầu toàn càng chẳng toàn! Càng co ro tránh rét càng rét!”
Rất lâu sau này tôi mới hiểu được điều ấy.
Đọc xong hai cái chuyện của cu Đạo, Minh Việt bỗng thấy thương bố quá. Thảo nào Đình bảo: “Chuyện của cái Vân và thằng Đức buồn lắm, có lẽ bố tổn thọ vì hai đứa này”.
Vậy là còn chuyện của thằng Đức nữa. Thằng bé đã làm nên nông nỗi gì rồi? Từ hôm Minh Việt trở lại An Lạc đến giờ không thấy nó đâu cả. Hỏi mợ, mợ bảo: “Em nó đi làm ăn xa, vài ba tháng nữa mới về”. Có thật Đức đi làm ăn xa không hay mợ lại giấu Minh Việt điều gì đây?
Chương 10
Người bạn đầu tiên tìm đến chơi với Minh Việt là họa sĩ Tịnh.
Tịnh để tóc dài, đầu lúc nào cũng sùm sụp cái mũ lưỡi trai bằng vải dày. Trong chiếc túi may theo kiểu ba lô mà Tịnh mang bên người có thể tìm thấy cả tỉ thứ, từ dao cạo râu đến mẩu thuốc lá, từ nắm xôi ăn dở đến mấy bức ký họa trên trang vở học trò xé vội, từ máy ảnh đến cần câu cá, từ chiếc quần bò rách nham nhở đến tuýp màu thừa, từ chiếc đài con đến lọ dầu gió, từ chiếc tăm tre đến chai rượu Napôlêông X.O. Tóm lại đó là chiếc túi của một người thường xuyên “sảy nhà ra thất nghiệp”, thường xuyên đi bụi, thường xuyên dấn thân vào những đam mê nghệ thuật đầy ngẫu hứng và thất thường.
Tịnh đưa Minh Việt đến Cô Hồn quán. Quán nằm ngay dưới chân núi, bày xếp rất trang nhã. Đặc biệt, xung quanh quán có treo rất nhiều tranh. Cô Hồn quán chuyên về đặc sản rừng. Đây là một trong những quán ăn tư nhân đầu tiên ở thị trấn An Lạc, chính nó đã góp phần cáo chung ngành thương nghiệp kiểu cũ, cáo chung những “Cửa hàng ăn uống mậu dịch” nơi mợ Minh Việt từng công tác suốt mấy chục năm qua. Tịnh hất tay ra hiệu cho cô tiếp viên nhà hàng tới gần và gọi món rắn. Trong khi cô tiếp viên chuẩn bị rượu và gọi người làm rắn, Tịnh quay sang nói với Minh Việt:
- Tao không ngờ mày lại tàn tạ đến thế này. Có được hưởng chế độ ưu đãi gì không?
- Có tiền trợ cấp. Đủ cho con bé ăn sáng thôi.
- Vậy bây giờ mày tính làm gì để sống?
- Tao cũng chưa biết tính cách gì. Thằng Đình bảo nó sẽ lo việc cho tao. Có thể kiếm được một chân bảo vệ.
- Thôi, đến xưởng của tao mà làm. Cả cái thị trấn này chỉ có mình tao độc quyền Kẻ vẽ - trang trí. Ngày xưa mày làm gạch gói cũng khéo tay, tao sẽ bổ túc thêm cho. Đủ nuôi một thân mày với con bé.
- Sao mày lại học nghề họa sĩ?
- Ai mà biết được. Sang Bun người ta ấn tao vào trường Mỹ thuật. Tao giãy nảy lên. Tao muốn vào làm công nhân ở một nhà máy nào đó để nhanh chóng có vài thứ đồ dân chủ gửi về cho ông bà già chứ học hành làm gì, tao đâu có thiết. Nhưng người ta bảo, Mỹ thuật cũng góp phần đánh Mỹ. Phải học Mỹ thuật để sau này về nước vẽ tranh cổ động cho toàn dân ra trận. Tổ chức đã phân công thì chấp hành. Thế là tao bắt đầu làm quen với hội họa hoành tráng, hội họa giá vẽ. Rồi các thể loại của tranh giá vẽ như Chân dung, Phong cảnh, Tĩnh vật, Bố cục. Tiếp theo là mày mò với các chất liệu sơn dầu, lụa, sơn mài và tìm hiểu các khuynh hướng hội họa như Ấn tượng, Dã thú, Lập thể, Siêu thực, Trừu tượng... Không ngờ tao lại có khiếu hội họa mày ạ. Về nước tao vào làm ở Sở văn hóa. Bây giờ thì về Phòng văn hóa. Lại có tham gia tí chút bên Hội văn học nghệ thuật. Tao không giàu có nhưng đủ tiền làm cái mà mình thích. Tao vẫn hỏi thăm mày. Tưởng mày ngon lành trong ấy rồi chứ đâu ngờ mày lại khố bện thế này.
- Chuyện đời tao...
- Thôi, tao rõ rồi. Cái số mày là số cứt chó. Chấp nhận vậy. Nhưng cái này thì tao phải hỏi mày. Mẹ con bé đâu?
- Sang Mỹ theo diện đoàn tụ rồi.
- Tao tưởng...?
- Mẹ con Ly là thứ gái không ra gì phải không? Đúng, khi tao gặp nàng thì nàng không ra gì. Nhưng trên người nàng có một thứ mùi thơm của loại nước hoa rẻ tiền. Chính mùi nước hoa ấy đã hồi phục lại nam tính trong tao.
- Tao không hiểu. Lúc hết chiến tranh mày vẫn còn rất ngon lành. Sao mày không lấy vợ vào lúc đó?
- Mày không hiểu là đúng thôi. Mày không biết tao đã từng phải vào bệnh viện điều trị về tâm thần, đúng không?
- Tao có nghe lại chuyện ấy. Mày bị sốc vì cái chết của Cói?
- Phải, hệ quả của nó là tao mất khả năng đàn ông. Và tao đã gặp chị Vi Lay. Bà Khơ-me ấy mà...
- Tao cũng có nghe chuyện ấy. Và tao đã nghĩ rằng mày thật bẩn thỉu.
- Chính người đàn bà ấy đã trả lại chức năng đàn ông cho tao. Nhưng cũng đúng lúc ấy thì tao phải ra trận vì quan hệ của tao không được thời ấy công nhận. Lại một lần nữa tao mất khả năng giới tính. Cứ ngửi thấy mùi đàn bà là tao nôn mửa.
- Chuyện của mày khiếp quá. Tất cả những thằng đàn ông sinh ra ở phố Tứ Phủ đều bị ức chế sinh lý vì một thời người ta thủ tiêu cái đó. Tao cũng giống mày. Sau cái chết của Lý tao không thể yêu được ai nữa. Nhưng tao vẫn lên giường với đàn bà và làm cái chuyện ấy như thường. Còn mày lại dính một thứ “tâm sinh lý” kỳ quái có một không hai. Tại sao thế?
- Tao cũng không giải thích được. Sau này thật vô tình tao lại tìm thấy chính mình bên cạnh mẹ con Ly. Và tao nhận ra một điều. Trên người chị Vi Lay và trên người mẹ con Ly, cả hai đều có một thứ rất chung, ấy là mùi nước hoa rẻ tiền.
- Kinh khủng quá! Nhưng cũng thật đáng thương cho mày. Chỉ có điều...
Thằng Tịnh bỗng dừng lời khi một thiếu phụ xuất hiện. Cô ta đi thẳng đến bàn của hai người. Minh Việt bàng hoàng trước sắc đẹp của người đàn bà này. Một khuôn mặt quý phái. Một sống mũi thanh tú. Một bờ môi gợi tình nhưng không trắc nết. Một đôi mắt buồn và ướt. Một nụ cười mừng rỡ và thân mật. Và, tất nhiên, một giọng nói ngọt ngào cất lên ngay sau đó:
- Các anh đến lâu chưa?
Tịnh đưa tay kéo cô ta ngồi xuống sát ngay bên mình rồi quay sang Minh Việt giới thiệu:
- Đây là em Hoài, chủ quán đặc sản này. Còn đây là...
- Anh Minh Việt, người mà anh đã kể cho em nghe nhiều lần. Cuối cùng thì em cũng đã được gặp anh. Chúng ta cùng là người An Lạc cả. Hôm nay em sẽ tiếp rượu cho các anh - Hoài tiếp lời Tịnh như thể cô ta từng chờ đợi giây phút này đã lâu.

Buổi chiều hôm đó Minh Việt đã uống rất nhiều. Quá khứ trỗi dậy và không thể không uống cho những đắng cay của đời người trôi sâu xuống tận đáy ruột. Hoài trổ tài làm rắn làm cho Minh Việt xem và anh thực sự kinh ngạc. Trái tim rắn vẫn còn hồng tươi được Hoài thả vào ly rượu phập phồng, phập phồng cho đến khi tắt lịm, chín tái. Hoài là người cầm ly rượu đưa lên môi uống đầu tiên rồi sau đó đến lượt Minh Việt và Tịnh. Các món nướng, chiên, sả lần lượt được mang ra. Uống đến độ thì Tịnh nói về hội họa. Về ái dục. Về thời thế. Về lứa thanh niên Tứ Phủ cũ và mới. Về một miền xa thẳm nào đó của Cái Đẹp. Hoài lắng nghe những điều thằng Tịnh nói như một tín đồ ngồi nghe giáo sĩ thuyết giảng. Minh Việt ngồi nghe thằng Tịnh nói ngỡ như trong cõi lòng sâu xa của mình có một cục băng đang tan chảy. Và rượu được đưa lên môi hết lần này đến lần khác. Cho đến khi Minh Việt gục xuống bàn vẫn còn thấy cái dáng thằng Tịnh đang ngồi uy nghi trước mặt nói say sưa, đau đáu về miền xa thẳm của Cái Đẹp. Còn Hoài thì khóc, những giọt nước mắt rơi ra từ đôi mắt buồn và ướt, lóng lánh, tan nát...
Minh Việt cũng không biết ai đưa mình về nhà. Anh tỉnh dậy trong căn phòng rộn rã tiếng nhạc cùng tiếng hát xé lòng của Khánh Ly:
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ để lại cho con, gia tài của mẹ là nước Việt buồn.
Ánh mắt của Minh Việt dừng lại ở góc phòng và anh nhìn thấy một mái đầu có những sợi tóc nhuộm màu râu ngô đang đung đưa theo điệu nhạc. Thì ra chú Đạo đang nghe nhạc Trịnh và lẩm nhẩm hát theo. Bỗng bố thò đầu vào phòng, quắc mắt lên nhìn cu Đạo:
- Mày có tắt ngay cái thứ nhạc bố láo ấy đi không? Mày có ăn có học mà nghe được thứ nhạc ấy hả? Ông thì ông lại đập nát đài ra bây giờ chứ lại!
Cu Đạo sợ bố, vội đưa tay tắt xẹt thứ giọng xé ruột đang đến độ cao trào. Khi bố bỏ đi rồi, Minh Việt mới hỏi:
- Chú thích thứ giọng này à?
- Vâng, đây là đĩa Ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn. Không hiểu sao bố lại rất ghét. Anh có hay nghe nhạc Trịnh không?
- Ở trong Nam họ cũng rất thích nghe nhạc này. Anh không có điều kiện để thưởng thức âm nhạc, nhưng cũng có biết giọng ca Khánh Ly. Nghe buồn lắm. Chú còn trẻ thế sao lại thích nghe nhạc buồn?
Cu Đạo không trả lời mà đưa tay vặn nhỏ chiếc đài đĩa. Giọng Khánh Ly lại cất lên tưng bừng: Mẹ mong con mau bước về nhà, mẹ trông con lũ con đường xa, ôi lũ con cùng cha, quên hận thù.
Rồi Đạo quay sang hỏi Minh Việt:
- Hôm qua anh uống ở đâu mà nhiều thế?
- Anh Tịnh đưa đến Cô Hồn quán.
- Quán đặc sản rắn của con mẹ Hoài chứ gì? Sao anh Tịnh lại chết mê chết mệt con mụ chủ quán ấy nhỉ?
- Sao? Cô ấy rất đẹp và cư xử được đấy chứ?
- Xì, mụ ấy là vợ của thằng Tân Tây đen trước ở xóm chân cầu. Thằng Tân là đại ca của bọn đầu gấu ở đất An Lạc này. Nhưng mấy năm trước Tân Tây đen đánh nhau, phải vào tù và chết trong đó. Mụ Hoài cũng ghê gớm chẳng khác gì chồng. Anh Tịnh là dân nghệ sĩ, vậy mà chẳng hiểu sao lại chơi với hội đó và bây giờ thì cặp với mụ Hoài? Nói chung anh Tịnh khó hiểu lắm.
Minh Việt không nói gì nữa, bật dậy vươn vai rồi ra ngoài hành lang tập thể dục. Làm sao chú Đạo có thể hiểu được những người như Tịnh và anh. Mặc dù chú là nhà báo, là người viết văn nhưng thế hệ của chú chưa đủ thời gian để bám rễ sâu vào lịch sử của thị trấn từng được mang tên Nét Mặt Buồn này. Ngay cả đến Tân Tây đen chú cũng đâu có hiểu rõ con người đó. Cả thị trấn An Lạc có hai đứa con lai cùng thế hệ với Minh Việt. Cả hai con người ấy đều là kết quả của những lần cưỡng hiếp giữa những tên lính viễn chinh và những người đàn bà bất hạnh. Đứa con lai trắng là Cói, còn đứa con lai đen là Tân. Cói đã chết thảm bên ụ súng phòng không vào những năm bom đạn rải đầy mặt đất. Còn Tân, với màu da luôn gợi nhắc đến sự trả thù thì sẽ phải sống làm sao giữa những người không biết có được gọi là đồng bào của mình hay không? Minh Việt không có ý định lý giải những gì xảy ra với cuộc đời của Tân Tây đen nhưng anh tin rằng mọi sự đưa đẩy anh ta đến chỗ chết, dù là nơi tù ngục, thì cũng đều có lý do của nó. Và dù lý do ấy có thế nào đi nữa thì đó vẫn là một số phận đáng thương. Chẳng phải nó cũng rất giống số phận của anh đấy ư? Chẳng phải đó là những kiếp người sinh ra đã gặp phải sự trớ trêu rồi đấy ư? Vậy thì mỉa mai sự trớ trêu làm gì?
Sau khi tham khảo ý kiến bố và mợ, Minh Việt quyết định đến làm ở cửa hàng Kẻ vẽ - trang trí của Tịnh. Công việc không có gì khó lắm. Chất liệu trang trí bây giờ rất phong phú. Các loại nhựa, giấy màu và các vật liệu trang trí khác rất sẵn. Các kiểu chữ, kích cỡ chữ đều được làm bằng máy vi tính. Những việc đó Tịnh giao cho đám nhân viên làm. Minh Việt làm cùng với họ. Còn Tịnh chỉ làm những tranh áp phích cổ động hoặc những tấm panô quảng cáo lớn. Ngoài ra Tịnh còn dành thời gian để vẽ tranh nghệ thuật. Tịnh đang có ý định mở triển lãm lần thứ hai. Tịnh không lấy vợ. Đôi ba lần Tịnh mời Minh Việt vào phòng riêng xem những bức tranh của mình nhưng Minh Việt không hiểu lắm về hội họa, cũng chỉ gật đầu lấy lệ.
- Tao còn hai bức cực kỳ tâm đắc, nhưng không treo ở đây. Khi Tân Tây đen còn sống, hắn đã từng trả tao hai mươi triệu một bức.
- Thế bây giờ nó đâu rồi? - Minh Việt tò mò.
- Tao cho Hoài mượn treo tạm ở phòng ngủ của nàng.
- Tao muốn xem nó có được không?
- Được, khi nào có dịp. Mày sẽ rúng động tâm can. Tao tin chắc thế.
Chiều chiều, từ chỗ cửa hàng của Tịnh về, Minh Việt thường qua trường đón con. Nhiều lần Minh Việt phải ra chỗ bãi cỏ sau trường để tìm con bé. Không hiểu sao con bé rất ít nói, nó thích đọc sách và có vẻ rất mê nghề ký giả của chú Đạo. Nó là một đứa bé sống nội tâm, và thân phận của nó sẽ là cả một bí ẩn tế nhị đối với trí óc non nớt của chính nó. Minh Việt rất sợ nó buồn. Mà nhất định là nó sẽ buồn khi hiểu ra vì sao nó lại có mặt trên cuộc đời này và bố nó, mẹ nó là ai? Nếu bố nó là một giọt buồn rớt xuống cuộc đời này thì nó chẳng qua cũng chỉ là một giọt buồn phiên bản mà thôi. Đằng sau trường học của con bé có một đám cỏ hiếm hoi sót lại giữa thời buổi đâu cũng thấy xây dựng. Đám đất ấy theo quy hoạch của thị trấn sẽ là một khu công viên. Nhưng thị trấn chưa có tiền xây dựng nên nó vẫn là một đám đất bỏ hoang, cỏ mọc lút lối đi. Con Ly thường ra bãi cỏ đó ngồi ngước nhìn trời mây, xung quanh nó là đám hoa cỏ vương vãi và những con thuyền giấy do chính tay nó gấp trong lúc đợi bố. Đôi lần Minh Việt bắt gặp nó ngồi nhìn chăm chú, say sưa những con chó chạy nhảy trong khu đất hoang. Và anh đã thật ngạc nhiên khi phát hiện ra con gái mình bắt đầu viết truyện. Nó viết vào cuốn sổ nhỏ, xinh xinh mà chú Đạo tặng hôm nó mới ra. Cả anh và Đạo đều bất ngờ khi đọc câu chuyện viết dở của con bé. Truyện có tên là Kịch chiến Đầm Gâu. Câu chuyện được chia làm nhiều phần, có đánh số thứ tự. Những phần đầu được con bé viết thế này:
Một.
Đó là một khu đầm cạn. Hoa dã thảo mọc chen chúc bên những nụ tầm xuân mảnh mai, tinh khiết. Ban ngày, khi ánh mặt trời chiếu xuống khu đầm, những giọt sương long lanh vội chui xuống chân cỏ lẩn trốn. Hương tầm xuân man mác lan tỏa, hoa cỏ ngả mình trước gió rì rào hát đồng ca. Đây đó trong khu đầm có những vũng nước trong vắt, hàng ngày ông mặt trời cùng đám mây ngũ sắc đi ngang qua soi bóng mình xuống đó. Ban đêm trăng xuất hiện trên trời rồi biến mất vào những tầng mây trắng đục. Muôn vì sao nhấp nháy, thao thức cùng khu đầm, chứng kiến cuộc sống thanh bình êm ả của những cư dân nơi đây. Bác Vàng đáng kính, chú Ki cường tráng với tiếng sủa chung chiêng bóng trăng, chị Vện lặc lè chiếc bụng đã đến ngày sinh nở, anh em nhà Cún giống nhau như hai giọt nước. Rồi gia đình nhà Mạc, chị Quýt, anh Mích, chú Cộc, cậu Ngộ... tất cả đều là những cư dân lương thiện, trung thành và tận tụy. Họ làm việc cho những ông bà chủ ở một xóm lao động gần đấy. Họ rất yêu khu đầm này, hàng ngày họ tập trung tại đây vui chơi, trò chuyện, nghe bác Vàng kể chuyện về truyền thống trung thành, dũng cảm và những kỳ tích vô cùng vẻ vang của tổ tiên. Mỗi khi có một cư dân mới ra đời bác Vàng lại dùng cái lưỡi màu hồng của mình liếm láp lên đầu, lên mắt để làm phúc. Vào những đêm trăng sáng các gia đình thường tụ tập ở bụi tầm xuân giữa đầm tổ chức thi “Tiếng sủa âm vang nhất”. Các cư dân ở đây rất tự hào với tiếng sủa của mình bởi đó là tiếng sủa đặc trưng nhất muôn loài. Tiếng sủa nào to nhất, khỏe khoắn nhất, âm vang nhất là biểu hiện của sự trung thành nhất, khôn ngoan nhất. Chính vì vậy mà khu đầm này có tên là Đầm Gâu. Thỉnh thoảng cư dân Đầm Gâu còn tổ chức các cuộc thi săn bắt chuột, rắn, chim, cá... Đàn ông, thanh niên như Ki, Mực, Mích, Cộc, Cún, Ngộ thường luyện tập cho mình có cái bụng thon, bộ ức nở, hàm răng khỏe và cặp tai thật thính. Cánh chị em như Vện, Lu, Quýt... lại chăm chút đến bộ lông sao cho thật mượt mà, đôi mắt lúc nào cũng lúng liếng và dáng đi thì khoan thai, gợi cảm.
Vào những ngày nắng đẹp, sau những cuộc đi săn hào hứng, các cư dân Đầm Gâu thường nằm dài trên thảm cỏ phơi nắng, bắt rận cho nhau. Quanh họ, cả khu đầm bừng lên muôn ngàn sắc hoa. Những nụ tầm xuân đung đưa trước gió. Hoa xuyến chi nở trắng từng vạt dài. Bên vũng nước trong những bông súng xinh xinh lấp ló xen kẽ những bông hoa dừa lốm đốm như ngàn cánh bướm đậu. Xa xa cỏ may tím ngát, trinh nữ e ấp trong những bụi gai, chua me và sam nở những bông phơn phớt trắng, nhỏ li ti... Trên trời mây tạo muôn hình thù kỳ thú. Những tia nắng rọi chiếu xuống thảm cỏ mượt như nhung, phủ ánh bạc lên những bộ lông đa sắc: vàng, đen, xám, trắng, nâu, đốm... Cuộc sống của các cư dân Đầm Gâu đã diễn ra thanh bình như thế từ rất lâu rồi. Bây giờ nhìn đôi mắt lim dim, thanh thản của họ không ai lại nghĩ rằng chỉ ít ngày nữa thôi, sóng gió sẽ ập đến với khu đầm này, khuấy động cuộc sống yên bình của những cư dân lương thiện nơi đây.
Hai.
Một ngày kia Đầm Gâu xuất hiện ba chàng ngoại quốc lực lưỡng có tên là Tô, Giôn và Mi Lô. Phía ngoài của khu đầm, sát với đường cái sừng sững mọc lên ba ngôi nhà cao tầng. Tô, Giôn và Mi Lô phục vụ cho các ông chủ ở trong những ngôi nhà đó. Ba anh chàng này thuộc giống Đức thuần chủng nên cách sinh hoạt và lối sống khác hẳn với những cư dân Đầm Gâu vốn hiền lành, tốt bụng. Buổi đầu tiên xuất hiện họ đã nghễu nghện dạo quanh khu đầm, mắt gườm gườm nhìn chú Ki, anh Mích, chú Cộc. Khi thấy chị Vện, chị Lu họ lập tức sán lại trêu đùa, chòng ghẹo. Rồi mấy anh chàng đó “ị” ngay ra bụi tầm xuân vẫn được dùng làm nơi tập trung vui chơi của cư dân trong vùng. Hôm sau họ lại “tè” vào mấy vũng nước quanh đó, làm vấy bẩn nguồn nước uống của những người bạn Đầm Gâu. Sự thể không dừng lại ở đó. Buổi chiều, Cún “em” đi ngang qua thấy họ thản nhiên làm bậy trên thảm cỏ đẹp nhất khu đầm liền lên tiếng cảnh báo. Tên Tô hung hãn đã lao thẳng vào cắn Cún “em”, một chiếc răng của nó đã ngập vào phần bụng của Cún làm Cún ngất đi. Mãi rất lâu sau Cún “em” mới tỉnh dậy và cố lết về đến nhà. Cún “anh” vô cùng ngạc nhiên khi thấy em máu mê bê bết, một đoạn ruột lòi cả ra ngoài, vội lấy lưỡi liếm xung quanh vết thương sát trùng cho em rồi nhai lá thuốc đắp vào. Cả đêm hôm đó Cún “em” lên cơn sốt, toàn thân nóng hầm hập. Cún “anh” rất lo lắng ngồi phủ phục bên em mãi rồi lại đứng dậy đi vào đi ra. Năm trước mẹ Cún sinh được hai anh em, cả hai được mẹ chăm sóc rất cẩn thận nên lớn nhanh như thổi. Hai anh em Cún có tiếng là thương yêu nhau, rất biết nhường nhịn nhau, cư dân trong vùng và đặc biệt là bác Vàng rất quý hai anh em Cún. Bây giờ ngồi nhìn em mê man bất tỉnh chưa biết sống chết thế nào, Cún “anh” thương em lắm. Đêm ấy thật là dài đối với Cún “anh”. Sáng hôm sau khi ông mặt trời vừa mới lấp ló ở rặng cây xa xa, Cún “anh” lập tức tìm đến nhà chú Ki. Đã mấy năm nay chú Ki luôn đạt danh hiệu “Cư dân có tiếng sủa âm vang nhất”. Trong các cuộc săn bắt, chú Ki cũng luôn đứng đầu về thành tích bắt được nhiều chuột, rắn... Cánh thanh niên trong vùng luôn mơ ước một ngày nào đó sẽ được như chú Ki. Bây giờ Cún “anh” muốn đến gặp và xin ý kiến chú về những việc làm ngạo mạn và hỗn xược của tên Tô. Nhìn đôi mắt vằn đỏ của Cún “anh”, chú Ki hiểu trong người Cún lúc này niềm căm hận đang sục sôi và trong đầu Cún chỉ còn nghĩ đến hai tiếng “Trả thù”. Sau một hồi suy nghĩ chú Ki quyết định cùng Cún “anh” đến gặp anh Mực, anh Mích, chú Cộc.
Nghe Cún “anh” tường thuật lại sự việc, tất cả đều tỏ thái độ tức giận. Anh Mích bảo: “Bây giờ chúng ta không còn chỗ tập trung vui chơi, không còn nơi để nằm phơi nắng, cũng không còn cả nguồn nước sạch để uống”. Chú Cộc gầm gừ: “Điều tệ hại hơn cả là chúng ta không còn quyền được sống như từ trước đến nay, chúng coi thường chúng ta, chúng làm hại Cún “em” rồi chúng sẽ tiếp tục làm hại những cư dân khác. Chúng muốn chà đạp lên cuộc sống thanh bình của chúng ta”. Chú Ki kết luận: “Vậy thì bây giờ anh em ta phải đi hỏi tội tên Tô!”
Ba.
Chú Ki dẫn đoàn đi đến giữa Đầm Gâu thì gặp Tô và Giôn đang nhởn nhơ ở đó. Chú Ki lên tiếng:
- Anh Tô! Cư dân Đầm Gâu chúng tôi từ xưa đến nay vẫn sống thanh bình ở đây, anh từ đâu đến, sao lại hành hung người của chúng tôi?
Tên Tô vểnh chiếc mõm ngoại cỡ lên, sủa một tiếng ngạo mạn rồi khinh khỉnh đáp:
- Chúng tao đại diện cho giống nòi văn minh đến sinh sống ở đây, lũ mọi rợ chúng bay muốn gì?
Cún “anh” nãy giờ kiên nhẫn đứng đợi, thấy tên Tô trả lời láo xược như thế, căm giận bùng lên trong người, Cún dùng toàn thân lao thẳng vào Tô như một mũi tên bắn. Trước cú húc bất ngờ của Cún, tên Tô oằn người lại kêu “ẳng” lên một tiếng đau đớn. Húc vào sườn tên Tô xong, Cún “anh” lập tức quay lại nhảy bổ lên cắn vào cổ hắn. Theo phản xạ tên Tô hất mạnh đầu khiến Cún “anh” bị văng ra xa. Hắn liền quay người đuổi theo gặm một nhát vào đùi trái phía sau của Cún. Cún nghiến răng chịu đau ngoắt lại táp vào tai tên Tô. Hắn vội buông Cún ra, lùi lại thủ thế. Lúc này chú Ki và anh Mích cũng đã lao vào để hỗ trợ cho Cún. Nhưng tên Giôn đã chặn đường chú Ki, hắn dùng hàm răng khỏe như thép của mình cắn vào gáy chú. Chú Cộc lập tức lướt tới táp mạnh vào đùi sau của Giôn. Hắn kêu ăng ẳng, rồi quay người lại chống trả. Chú Ki gầm lên nhằm thẳng yết hầu hắn chồm tới. Tên Giôn vội tránh miếng đánh hóc hiểm của chú Ki, nhảy lùi lại gườm gườm thủ thế. Tên Tô sau khi hất đổ anh Mích vội lao đến đớp vào cổ chú Ki để cứu trợ cho đồng bọn.
Cún “anh” muốn lao vào góp sức cùng chú Ki, chú Cộc nhưng Cún chợt nhận ra mình đã bị liệt mất một bên chân. Máu thấm ra ướt toàn bộ chỗ lông ở phần đùi. Cảm giác đau đớn mỗi lúc một dâng lên. Những chiếc răng vừa dài vừa sắc của tên Tô đã xiên qua da thịt Cún, ngập vào đến xương tủy. Nhưng không thể nằm bẹp một chỗ trong khi cuộc chiến đang diễn ra rất ác liệt. Cún “anh” nghĩ vậy và chạy tập tễnh bằng ba chân đến ứng cứu cho đồng đội. Đúng lúc tên Tô đang định dùng hàm răng to như hàm trâu gặm vào cổ chú Ki thì Cún “anh” dùng toàn bộ sức lực của mình lao tới cắn mạnh vào má của hắn. Hai bên lao vào nhau quá mạnh tạo ra lực phản hồi làm Cún, yếu hơn, văng tít ra xa. Chiếc chân dập nát gây cho Cún đau đến tê dại, không sao gượng dậy nổi. Tên Tô cũng choáng váng trước cú đánh của Cún nhưng hắn thấy đối thủ của mình đang ở thế yếu liền lao đến chỗ Cún. Chú Ki chồm lên cản bước chân của hắn nhưng tên Giôn lại đang nhằm thẳng vào chú để tấn công. Chú Ki phải quay lại chống trả với tên Giôn, Tô thừa dịp phi đến cắn mạnh vào cổ Cún. Anh Mích đuổi theo đớp vào đùi Tô cản phá nhưng hắn cố chịu đau vừa gặm chặt cổ Cún vừa day mạnh cho đến khi cả hàm răng của hắn ngập sâu vào cổ, bóp vỡ yết hầu của Cún mới chịu buông ra.
Lúc này tên Giôn chống đỡ với chú Ki và chú Cộc đã thấm mệt, thấy Tô bị Mích đả thương hắn liền bỏ chạy. Tô liếc thấy đồng bọn chạy cũng tập tễnh bỏ chạy theo. Chú Ki, chú Cộc và anh Mích ít nhiều đều bị thương nên không còn đủ sức để đuổi theo nữa. Trận chiến kết thúc khi mặt trời đứng bóng. Máu loang trên vạt cỏ, bắn vào những nụ tầm xuân, rớt cả xuống mấy vũng nước quanh đó. Chiến tranh đã thực sự bắt đầu và anh em nhà Cún là một trong những nạn nhân đầu tiên...

Câu chuyện viết đến đây thì tạm dừng. Đạo bảo: “Con bé có óc quan sát rất khá anh Việt ạ. Mới lớp năm mà viết được như thế này thì sau này nó sẽ vượt cả em đấy”. Cả Minh Việt và Đạo đều hồi hộp chờ được đọc những dòng tiếp theo của con bé nhưng một lần từ trường trở về nhà con Ly bỗng kêu nhức mỏi cánh tay phải. Rồi bữa tối hôm đó con bé đang ăn cơm bỗng đánh rơi đũa và không sao cầm lại được nữa. Minh Việt đưa con gái vào bệnh viện nằm hàng tháng trời, cuối cùng đành phải chấp nhận kết luận của bác sĩ là con bé bị ảnh hưởng chất độc hóa học từ bố nên một số bộ phận cơ trên người đang bắt đầu teo đi. Rất buồn về chuyện này nhưng Minh Việt không muốn để con gái biết bệnh tình của nó, anh vẫn thường tỏ ra lạc quan để cố xoá đi mặc cảm trong con bé. Nhưng dường như Ly cũng biết điều đó nên em không buồn chán, thất vọng mà tỏ ra rất có nghị lực. Ly chuyển sang tập viết tay trái và không lâu sau đó em đã tiếp tục cắp sách đến trường. Ly học giỏi, sau một thời gian nghỉ học em vẫn theo kịp chúng bạn và lại tiếp tục viết truyện. Đạo rất quan tâm đến câu chuyện viết dở của Ly. Đạo bảo: “Để nó viết xong em sẽ giới thiệu lên báo. Em tin đây là một tài năng!”. Chẳng mấy lâu sau thì Minh Việt và Đạo lại được đọc tiếp những dòng văn của con bé. Và đây là những phần tiếp theo của câu chuyện do bé Ly viết:
Bốn.
Nấm mộ được đắp rất cao. Tất cả các cư dân trong đầm đều có mặt. Họ đứng xung quanh nấm mộ, đầu cúi xuống, miệng ngậm một nhánh tầm xuân, riêng bác Vàng ngậm một bông hoa súng. Bác Vàng cầu siêu cho Cún “anh” xong đề nghị tất cả đi quanh mộ một vòng rồi lần lượt đặt hoa xuống vĩnh biệt Cún. Bác Vàng là người cuối cùng. Đặt bông hoa súng lên đỉnh mộ Cún xong, bác quay ra dẫn cả đoàn trở về tập trung nơi bụi tầm xuân quen thuộc. Khi cư dân Đầm Gâu đã tề tựu đông đủ, bác Vàng lên tiếng:
- Toàn thể cư dân Đầm Gâu thân mến! Vậy là cuộc sống thanh bình của chúng ta cho đến ngày hôm nay đã không còn nữa. Ai đã làm nên điều ấy? Chính là lũ Tô, Giôn và Mi Lô. Chúng đến từ những xứ sở xa xôi. Chúng muốn biến khu đầm xinh đẹp của chúng ta thành nơi phóng uế, biến chúng ta thành trò tiêu khiển, thậm chí đã giết hại những người anh em của chúng ta. Tất cả chúng ta đều căm phẫn trước việc làm của chúng, dưới kia Cún “anh” cũng đang kêu gọi chúng ta phải trả thù. Tôi xin hỏi tất cả các vị ngồi đây: Chúng ta có chịu khuất phục ba tên ngoại quốc hỗn xược ấy không hay chúng ta sẽ chiến đấu với chúng?
- Chiến đấu!... Chiến đấu!...
Tất cả các cư dân Đầm Gâu đều nhất loạt hô lên như thế, riêng chú Ki còn sủa một tràng dài để bày tỏ thái độ căm phẫn. Chờ cho tiếng sủa của các cư dân lắng xuống, bác Vàng nói tiếp:
- Nhưng chiến đấu như thế nào? Hôm qua chúng ta đã chiến đấu và đã thất bại. Vậy trong số các vị ngồi đây ai có kế sách hay xin cứ đưa ra để chúng ta cùng bàn luận?
Tất cả im lặng. Mãi sau chú Ki mới lên tiếng:
- Thưa toàn thể cư dân Đầm Gâu! Trong số chúng ta ở đây chỉ có bác Vàng đáng kính là nhiều tuổi hơn cả, lại hiểu nhiều biết rộng, ắt chỉ có bác mới có được kế sách hay. Vậy tôi xin đề nghị từ nay bác lãnh đạo cư dân Đầm Gâu chiến đấu chống lại kẻ thù.
- Chú Ki nói phải đấy! Hoan hô bác Vàng!
- Hoan hô bác Vàng!
Tiếng hoan hô của cư dân Đầm Gâu vang động cả khu đầm làm những cánh tầm xuân giật mình rụng lả tả. Bác Vàng vội ra hiệu cho tất cả im lặng rồi nói:
- Tôi xin cám ơn các vị! Muốn đánh thắng kẻ thù chúng ta phải học tập cách đánh của tổ tiên. Ta nhỏ, chúng to, vậy ta phải chia chúng ra, cô lập chúng rồi mới đánh. Chúng to khỏe nhưng đã bị cô lập thì một không thể chống lại mười. Vậy từ nay tôi phân công thế này: Cậu Ngộ vốn nhanh nhẹn sẽ phụ trách một tổ chuyên theo dõi quy luật ăn, ở, đi lại của ba tên Tô, Giôn và Mi Lô. Khi nào thời cơ cho phép thì chúng ta sẽ tấn công tiêu diệt từng tên một...
Thấy bác Vàng dừng lời, Cún “em” vội lên tiếng:
- Thưa bác! Còn cháu sẽ làm gì ạ? Cháu muốn trả thù cho anh cháu?
Bác vàng khẽ gật đầu rồi quay sang nói với chú Ki:
- Còn lại tất cả chúng ta già, trẻ, lớn, bé từ nay tập trung vào luyện tập. Chú Ki sẽ huấn luyện các thế nhảy, vồ, táp, cắn, đớp, sủa cho anh em. Ngoài ra phải lăn lộn nhiều cho da săn chắc, tập nhai xương cho răng sắc bén, tập nghe ngóng cho đôi tai thật thính và khi xung trận phải thật dũng cảm. Khi chiến đấu cái cốt yếu là phải vô hiệu hóa chiếc mõm có hàm răng sắc nhọn của kẻ địch, làm tê liệt bốn chân của chúng, cào xước da thịt và cuối cùng là phải cắn vỡ yết hầu đối phương. Khi đã gặm được vào người chúng thì sẵn sàng chịu đau kiên quyết không rời để đồng đội tiêu diệt. Tất cả có đồng ý thế không?
Các cư dân Đầm Gâu sủa vang đồng ý rồi tản đi rất nhanh, bắt đầu vào từng phần việc đã phân công. Dưới bụi tầm xuân chỉ còn lại bác Vàng và chú Ki thì thầm nhỏ to bàn kế hoạch báo thù.
Năm.
Bữa ấy tên Tô dậy sớm như thường lệ. Hắn mò ra khu đầm định phóng uế bừa bãi lên bãi cỏ non còn đẫm sương thì bỗng nhìn thấy chị Lu đang uống nước ở gần đó. Tên Tô liền sán lại định chòng ghẹo. Chị Lu sủa vào mặt hắn mấy tiếng rồi bất thình lình đớp một cái vào đuôi hắn. Tên Tô tức giận định cắn chị Lu nhưng chị đã cong đuôi bỏ chạy. Hắn vội đuổi theo. Lúc này khu đầm còn vắng lắm. Xa xa từ xóm lao động nghèo sương khói quyện lấy nhau bay là là trên mặt đất. Thấy chị Lu chui tọt vào một bụi cây rậm rạp để trốn, tên Tô sục đầu vào tìm kiếm. Hắn thấy chị Lu quắp đuôi nằm sợ sệt ở trong đó. Người Tô quá to nên hắn không sao chui vào được. Đúng lúc cái đầu của hắn đang ngúc ngắc ở cái lỗ mà chị Lu vừa chui vào thì hắn thấy có cái gì đó siết mạnh ở cổ. Cùng lúc chị Lu lao bổ ra đớp một miếng dữ dằn vào mõm hắn. Một tiếng sủa kinh hồn vang lên kéo theo sau cả ngàn tiếng sủa lớn nhỏ. Tô nhận ra xung quanh hắn có rất nhiều những cư dân Đầm Gâu mà mọi ngày hắn vẫn coi thường. Hai bên hắn hai chú chó lực lưỡng đang siết chặt chiếc dây bắt vòng vào cổ hắn. Tô cố gắng giãy giụa, giằng co để thoát ra khỏi sợi dây quái ác nhưng càng giãy sợi dây càng siết chặt. Bỗng hắn kêu thét lên đau đớn, một mảng da đùi của hắn đã bị rứt tung ra khỏi cơ thể. Tiếp ngay đó một hàm răng sắc nhọn bập chặt vào bụng hắn. Tên Tô hiểu rằng hắn đã bị mắc lừa. Những cư dân Đầm Gâu đã bố trí sẵn cái lỗ ở bụi cây này, chỉ chờ hắn chui đầu vào là cái dây thắt vòng sẽ được kéo căng ra thít cổ hắn lại. Tô gầm lên, mắt vằn những tia man rợ. Chị Lu hiền lành, sợ hãi là thế, bây giờ dũng cảm lao đớp vào mõm hắn liên tục.. Trước tình thế nguy ngập đó, Tô liền dùng hai chân trước chống xuống đất, hai chân sau chuỗi ra lấy đà, giật mạnh. Sợi dây có chùng lại một chút nhưng ngay sau đó nó lại được kéo căng ra. Các cư dân Đầm Gâu lăn xả vào dùng răng day nghiến bốn chiếc chân của tên Tô. Chú Ki dùng tiếng sủa của mình đôn đốc anh Mích, cậu Ngộ, chú Cộc không ngừng tấn công những chỗ hiểm trên người Tô. Chị Vện, chị Lu và Cún “em” cũng hăng hái nhảy tới cắn xé khắp nơi trên người hắn. Bác Vàng đứng ngoài quan sát thấy tên Tô hộc lên, đôi mắt dại đi, lưỡi thè ra từ chiếc mõm há hốc biết là hắn đã đuối sức, liền chỉ đạo cho hai bên siết chặt sợi dây, đồng thời lệnh cho chú Ki tấn công vào điểm xung yếu nhất của kẻ địch. Chú Ki chồm tới dùng chiếc mõm của mình đớp mạnh vào cổ họng Tô. Tiếp theo anh Ngộ, chú Cộc cũng lao tới gặm vào cổ tên Tô, day mạnh. Tên Tô tru lên một tiếng rồi cả tấm thân đồ sộ của hắn đổ nghiêng sang bên, đè cả lên chân chị Vện. Cổ họng hắn rách toác, chú Ki đã cắn vỡ yết hầu hắn làm máu tuôn ra xối xả. Tấm thân hắn dướn dướn trên mặt đất mấy cái rồi xẹp xuống, bất động. Hắn nằm vắt đầu trên sợi dây, chiếc mõm ngông cuồng ngày nào bây giờ rách nát, đôi mắt mở trừng chuyển dần sang màu xám đục. Hắn đã chết một cách đau đớn, toàn thân tơi tả. Máu thấm đỏ xung quanh chỗ hắn nằm. Nhận được hiệu lệnh của bác Vàng, chú Ki liền sủa một tràng dài thu quân. Bác Vàng giao nhiệm vụ cho anh Mích, chú Cộc, cậu Ngộ kéo xác tên Tô tới đặt trước cửa nhà hai tên Giôn và Mi Lô. Sau đó tất cả tập trung dưới bụi tầm xuân nghe bác Vàng huấn thị.
Chiến thắng ban đầu đem lại niềm hân hoan cho toàn thể cư dân Đầm Gâu.
Chương 11
Buổi sáng hôm ấy, Tịnh bảo với Minh Việt:
- Hôm nay tao với mày phải đến với em Hoài.
Minh Việt ngạc nhiên:
- Sao, lại nhậu à?
- Không, hôm nay là ngày giỗ của Tân Tây đen.
Minh Việt gật đầu, lẳng lặng thu xếp đống giấy màu rồi theo Tịnh đến Cô Hồn quán. Minh Việt không lạ gì Tân. Nếu bố Cói là một người lính Pháp da trắng, thì bố Tân chắc chắn là một tên lính Angiêri hay Marốc gì đó. Tân đen như cột nhà cháy, bẩn thỉu, rách rưới và đói khát. Nếu đám trẻ phố Tứ Phủ ngày nào tạm được coi là có ăn có học nhất thị trấn An Lạc thì Tân và cậu Chột là một trong những đứa trẻ nghèo khổ và phải chịu nhiều thiệt thòi thời đó. Tân còn tội nghiệp hơn vì nó là con lai, hầu như không có ai chơi với nó. Cũng may nó là một đứa trẻ khỏe mạnh. Thiếu ăn nhưng nó vẫn lớn và chẳng bao lâu sau khi vào tuổi thanh niên, nó to cao lênh khênh. Mẹ Tân chết sớm, không có ai đỡ đầu, Tân tìm kiếm cuộc sống cho mình ở các cửa hàng mậu dịch và bến tàu, bến xe. Có vẻ như cuộc đời nó đã được ấn định là phải ở những chỗ đó. Nó là một thứ cây dại, người trồng rừng không để mắt đến, không nỡ chặt trụi nhưng cũng không tạo điều kiện cho phát triển xanh tươi như những thứ cây khác. Và cái cây dại ấy muốn tồn tại phải tự vươn ngọn đến chỗ có ánh mặt trời mà hít thở. Thiết chế xã hội nào cũng có những điều chưa hoàn thiện, pháp luật thời nào cũng có những kẽ hở. Dưới thời bao cấp, mọi thứ nhu cầu ngoài phân phối đều không được đáp ứng. Mà loài người thì vốn dĩ chẳng chịu bó hẹp trong những nhu cầu phân phối. Thế là có chỗ cho các con phe xuất hiện. Sau này các nhà từ điển học có lẽ sẽ còn phải tìm hiểu và giải nghĩa từ này. Phe là gì? Nó có gốc từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Bồ Đào Nha hay nó là rút gọn của cụm từ phe phẩy? Tại sao lại gọi là con phe chứ không gọi là anh phe, chú phe, bác phe, chị phe hay cô phe? Tại sao phe lại chỉ tồn tại dưới thời bao cấp còn chuyển sang thời kinh tế thị trường thì thuật ngữ ấy không được nhắc đến nữa? Tóm lại phe là từ dùng để chỉ những người có thể cung cấp hoặc đáp ứng cho bạn một nhu cầu nào đó ngoài con đường phân phối chính thức của nhà nước. Như vậy thời nào cũng có phe. Thời nay phe vẫn tồn tại ở khắp nơi và nó được nhìn nhận dưới dạng dịch vụ. Chỉ có điều phe thời nay được xã hội thừa nhận, còn ngày trước nó là thứ vi trùng ghẻ lở có thể gây nguy hại cho nền kinh tế kế hoạch tập trung. Chị Vi Lay chính là một con phe cỡ bự của thị trấn An Lạc những năm trước đây. Còn Tân Tây đen chỉ là người giúp việc, người làm thuê cho những con phe mà thôi. Phe vé, phe vải, phe thuốc lá, phe diêm, phe xà phòng, phe gạo, phe thịt... mặt hàng nào cũng có phe. Tân theo đám phe ấy lâu ngày cũng thành tinh thành cáo. Nhưng Tân là đàn ông con trai, Tân không tỉ mẩn nhặt nhạnh từng đồng như đám đàn bà con gái được. Vì thế bước sang tuổi thanh niên, Tân ngày một trượt dần xuống đám lưu manh, trộm cắp, du thủ du thực. Tân trở thành đại ca ở bến xe An Lạc. Dưới tay Tân có hàng chục đứa chuyên móc túi, trộm vặt, ép giá khách đường dài. Cái nghề ấy không thể không va chạm, xô xát, đánh chém nhau, không thể không vào ra nhà tạm giam tạm giữ của công an, quá lên thì lĩnh án đi cải tạo, mặc áo số, ăn cơm tù. Trước khi gặp Hoài, Tân có đến ba tiền án, hai tiền sự. Tiền án cuối cùng gần như đã biến Tân thành con người khác. Tân gầy gò, rách dưới, đói khát, bệnh tật, vô gia cư, không nghề nghiệp, không đệ tử, không địa bàn hoạt động. Chính những ngày mới ra tù tưởng có thể phải chết gục bên một vũng nước nào đó hoặc co quắp dưới chân cầu Lãng Tiên chờ cho nước cuốn đi, thì Tân gặp Hoài.
- Họ nương tựa vào nhau để đi nốt phần đời này - Tịnh cảm hoài - Chỉ tiếc, Tân nó bỏ Hoài đi sớm quá.
- Sao nó lại phải lĩnh án nữa là thế nào? - Minh Việt hỏi.
- Chúng nó đã từng sống với nhau rất vất vả, sau này mới khá lên được một tí thì lại bị lôi kéo vào những chuyện không đâu của giới giang hồ. Mà giang hồ kiểu mới nó kinh khủng lắm mày ơi. Không phải vài thứ trộm cắp vặt như ngày xưa đâu. Bọn trẻ bây giờ chúng nó tiêu đời vô cùng phí phạm. Nghiện hút, mại dâm, cờ bạc, đua xe, bảo kê, đâm chém... là những nét chấm phá của bộ mặt giang hồ hôm nay. Thằng Tân không muốn nhưng đôi lúc vẫn phải đứng ra “chủ trì công đạo”. Và việc gì đến ắt phải đến. Trong một lần ra tay dàn xếp các hội nhóm, thằng Tân đã phạt đứt cánh tay một thằng oắt con từ bên Phòng sang. Thế là lại dính án. Tù mãi tận Thanh Hóa cơ. Sức khỏe thằng Tân cũng đang sa sút. Được mấy năm thì đi. Tao cùng Hoài vào tận nơi lo cho nó đâu vào đấy cả rồi. Tội nghiệp Hoài. Thằng Tân là đứa rất yêu vợ!
- Tại sao tao lại không biết Hoài nhỉ? Lần đầu tiên nhìn thấy nó, tao thực sự sững sờ đấy. Đất An Lạc này làm gì có người đẹp đến thế?
- Rồi mày sẽ còn bất ngờ về Hoài.
Tịnh không chỉ nói cho qua chuyện. Ngay sau bữa giỗ Tân Tây đen, Tịnh đưa Minh Việt vào phòng riêng của Hoài. Tịnh bật điện lên và tiến đến chỗ đầu giường của Hoài kéo tấm rèm che tường. Một bức tranh hiện ra ngay trước mắt Minh Việt. Đó là một bức màu nước, vẽ hình một thiếu nữ nằm nghiêng trên cỏ. Thoạt nhìn Minh Việt tưởng đó là một bức khỏa thân. Nhưng có vẻ như không phải thế. Một xác chết đang nằm trên cỏ thì đúng hơn. Một xác chết với da thịt trắng ngần trên nền đỏ nhức mắt của mây trời và cỏ. Bức tranh bỗng đánh động một điều gì đó trong thẳm sâu ký ức Minh Việt. Định thần nhìn kỹ, Minh Việt kinh ngạc nhận ra một bầu vú của thiếu nữ trong tranh bị khuyết, thay vào đó là một đầu đạn và một vệt máu rỉ ra từ bầu ngực trinh nữ. Chưa hết bàng hoàng, Tịnh lại tiến đến bức tường cuối giường, kéo tấm rèm che ra, chỉ cho Minh Việt xem tiếp bức tranh thứ hai. Lại một thiếu nữ nữa nằm úp xấp xuống một dòng nước xanh thẫm. Vẫn là tấm thân ngà ngọc trắng ngần nhưng trên một nền xanh u ám, xám dần theo chiều sâu của bức tranh. Một bên mông của thiếu nữ bị khuyết, thay vào đó là một nụ hồng bị sợi nơ xám buộc cánh lại không cho nở. Từ nụ hồng đó, một vệt máu bầm đỏ đang ứa ra. Hai thiếu nữ với hai khuôn mặt khác nhau nhưng Minh Việt thấy quen quen như đã từng gặp ở đâu đó. “Hai cái chết ám ảnh nhất đời tao là cái chết của Cói và của Lý - Thằng Tịnh nói - Một cái chết bởi khát khao cái đẹp còn một cái chết bởi chiến tranh không đùa với sắc đẹp. Tao biết, mày đang rất xúc động. Nhưng thôi, ra ngoài kia uống tiếp đi”
- Tại sao mày lại treo hai bức này trong phòng ngủ của Hoài?
- Chuyện hơi dài dòng đấy. Trong lần triển lãm đầu tiên, Hoài vô tình ghé qua xem. Sau đó chồng cô ấy, thằng Tân Tây đen ấy, cứ nằng nặc đến đòi tao bán. Tao nhất định không bán. Nhưng tao bắt đầu chơi với vợ chồng nó từ bữa đó. Tao thực sự thương Hoài.
- Nghĩa là sao? Tao vẫn không hiểu.
- Tao cũng đã từng không hiểu như mày. Lúc đầu tao còn nghĩ, bọn thằng Tân thì họa cảm đến đâu mà dám đòi treo tranh của tao? Ngay cả khi nó trả tao hai mươi triệu một bức tao vẫn không tin là chúng nó có đủ khả năng cảm nhận được cái đẹp của tranh tao. Nhưng rồi trong một lần vào thăm thằng Tân ở trại, nó đã nói sự thực với tao. Và tao đã quyết định cho Hoài mượn hai bức tranh này để treo trong phòng riêng của mình.
- Sự thực gì hả mày?
- Hoài là người mất mát cả hai thứ tao vẽ trong tranh. Cô ấy cũng tham gia trận địa pháo cao xạ ở Xí nghiệp cơ khí Hai Bảy tháng Bảy sau khi trung đội của Cói bị trúng đạn. Những mảnh bom đã lấy đi của Hoài sự mất cân đối cơ thể. Một bộ ngực khuyết một bên ngực, một bộ mông khuyết một bên mông. Một người đàn bà mà như thế thì có phải là sự báng bổ tạo hóa không? Đau thương mà tao vẽ trong tranh là một đau thương quá vãng, ai ngờ nó lại hiện hữu ngay giữa cuộc đời này, thử hỏi còn lý do gì để tao từ chối không treo hai bức tranh đó trong phòng ngủ của Hoài?
Tịnh vừa nói vừa nốc rượu liên tục. Những điều Tịnh vừa tiết lộ quả thực đã khiến Minh Việt ngạc nhiên dù anh đã được khuyến cáo về vấn đề này. Hoài đã chỉnh trang cơ thể rất khéo, không ai có thể nhận ra đó là một người đàn bà có cơ thể khiếm khuyết. Hoài lại có một khuôn mặt rất đẹp. Cả thị trấn An Lạc này ai cũng nghĩ Hoài là một con mẹ “giang hồ có thẻ” chứ đâu biết Hoài có một quá khứ nhạy cảm đến thế? Hóa ra chú Đạo vẫn còn nông cạn lắm khi nhìn nhận cuộc đời này. Một khuôn mặt buồn thì nét nào chả ẩn chứa những điều u uẩn?
Cuộc rượu ở nhà Hoài chưa tan thì Đạo bỗng phóng xe đến tìm Minh Việt. “Anh lên đây em đèo về, con Ly bị làm sao đó, cô giáo nó vừa phải đưa đi viện rồi”. Minh Việt hốt hoảng leo lên xe cho cu Đạo chở đến bệnh viện. “Vẫn là những biểu hiện của di chứng chất độc chiến tranh thôi anh ạ”, bác sĩ trưởng khoa nói với Minh Việt bằng một thứ giọng buồn buồn.
- Liệu... liệu cháu có bị sao không ạ?
- Chúng tôi cũng không thể lường hết được diễn tiến của bệnh. Rất có thể ngày xưa anh đã nhiễm phải chất điôxin tổng hợp. Anh cứ bình tĩnh. Thường thì những ca như thế này phải chữa trị rất lâu dài. Dùng thuốc đẩy lùi bệnh là một chuyện, cái khó là hồi phục chức năng cho cơ hoạt động trở lại. Nếu phức tạp quá chúng tôi sẽ chuyển cháu lên tuyến trên.
Minh Việt nghe bác sĩ trưởng khoa nói đến đâu mồ hôi vã ra đến đấy. Như thế có nghĩa là mọi thứ đã trở nên tuyệt vọng đối với con bé rồi. Theo cô giáo của con bé kể lại thì đang ngồi học bỗng con bé đánh rơi bút rồi không sao cầm lên được nữa. Cả lớp hốt hoảng khi con bé như một khúc gỗ cứ ngọ nguậy đôi vai liên tục, nước mắt thì ứa ra mà không sao nhặt được chiếc bút lên để viết. Cuối cùng cô giáo phải cho lớp nghỉ học, báo ban giám hiệu xin đưa con Ly đi bệnh viện.
- Ba ơi con muốn viết. Con muốn viết nốt câu chuyện Đầm Gâu!
Suốt mấy ngày sau đó con bé không ngừng đòi viết. Minh Việt dỗ thế nào nó cũng không chịu. Nó đòi đọc cho chú Đạo viết thay. Chú Đạo thương con bé, bảo: “Được rồi, cháu đọc đi chú chép!”. Minh Việt lặng lẽ ngồi nhìn con gái đọc tiếp câu chuyện dở dang, còn cu Đạo thì kê tập vở lên đầu gối hí hoáy viết. Câu chuyện được tiếp tục như sau:
Sáu.
Sau cái chết của Tô, hai tên Giôn và Mi Lô không rời nhau nửa bước. Chúng biết rằng nếu đi lẻ một mình sẽ rất dễ gặp nguy hiểm. Mi Lô là tên đáng gờm nhất, hắn cao to như một con bê. Một cú đớp của hắn có thể làm lòi ruột hoặc vỡ hầu bất cứ cư dân Đầm Gâu nào. Hắn chạy rất nhanh. Một bước nhảy của hắn bằng ba bước nhảy của chú Ki. Để trả thù cho tên Tô, Mi Lô cùng Giôn sục sạo khắp mọi nơi trong đầm, hễ thấy bóng dáng cư dân Đầm Gâu nào là chúng nhảy bổ đến tiêu diệt cho bằng được. Đã có một vài nạn nhân đáng thương không may sa vào mõm chúng. Không khí ngột ngạt bao phủ khắp khu đầm. Những đêm trăng trở nên vắng lặng, mấy bụi tầm xuân xơ xác, hoa dã thảo ủ rũ chẳng buồn đón gió nô đùa. Khu đầm rộng mênh mông bây giờ chỉ còn hai kẻ ngoại bang nghễu nghện thả bóng bên những thảm cỏ non. Không lẽ cư dân Đầm Gâu đã bỏ đi hết? Không phải vậy! Đêm đêm, khi vạn vật đã ngủ yên, trên trời chỉ còn vài vì sao lác đác, lúc ấy các cư dân Đầm Gâu mới âm thầm tập luyện và bày trận để chuẩn bị nghênh chiến với kẻ thù.

Buổi sáng hôm ấy, khi những giọt sương còn đang ngủ yên trên nhánh cỏ đã thấy hai tên Giôn và Mi Lô xuất hiện. Chúng bỗng nhìn thấy một vài cư dân Đầm Gâu đang lấp ló ở khu nhà hoang tít sâu trong góc bãi. Lập tức chúng lao vun vút tới hy vọng sẽ nhai xương những kẻ đã dám giết bạn chúng. Mấy cư dân tội nghiệp đang thong thả dạo chơi bỗng co rúm người lại khi thấy hai tên sừng sừng lao đến. Song với bản tính dũng cảm, họ liền lùi lại một bước, chống hai chân trước xuống thủ thế, nhe răng ra sẵn sàng chiến đấu. Mi Lô hung hãn lao tới nhưng chiếc mõm có đầy răng của hắn chưa chạm được vào đối phương thì bỗng hẫng một cái, xung quanh chao đảo, đất dưới chân nứt ra, tụt xuống, kéo theo cả tấm thân lực lưỡng của hắn. Một tiếng “ùm” vang lên, nước xộc vào mũi hắn, que gậy chọc vào người hắn, đau nhói. Hắn chìm nghỉm xuống dưới nước một lúc rồi mới chòi lên được, mõm hắn há ra, hớp hớp không khí. Trên đầu hắn là một khoảng không con con, sáng mờ, xa hút, chẳng còn đâu bầu trời xanh trong và những đám mây lững lờ trôi. Hắn gầm lên thảm thiết vì biết mình đã trúng kế độc. Các cư dân Đầm Gâu đã tận dụng cái giếng bỏ không của một ngôi nhà hoang để lừa hắn. Hắn cố lao lên nhưng nước dưới chân hắn rất sâu, không có vật để tạo đà cho hắn nhảy. Chiếc giếng lại rất hẹp, thành giếng trơn tuột, miệng giếng cao, mọi cố gắng của hắn đều vô hiệu. Quẫy đạp một lúc nước bắt đầu ngấm qua lông thấm vào da làm hắn thấy lạnh. Ở trên kia hắn nghe thấy văng vẳng tiếng kêu của Giôn và rất nhiều tiếng sủa nhỏ to khác. Hình như Giôn đang phải chiến đấu ở trên đó. Nếu Giôn quật chết hết lũ mọi rợ ở Đầm Gâu này, nhất định Giôn sẽ nghĩ cách cứu hắn. Đang nghĩ vậy bỗng vật gì đó bay vèo vào mặt hắn. Mi Lô hộc lên vì đau, một hòn gạch đã rơi trúng mõm làm xước một mảnh da của hắn. Xung quanh hắn lúc này gạch đá rơi “tõm”, “tõm”. Hắn kinh hoàng nhận ra kẻ thù của mình đang thả gạch, đá từ trên miệng giếng xuống. Hắn cố đạp hai chân sau vào thành giếng lấy đà nhảy lên nhưng ngay sau đó lại rơi tõm xuống. Phía trên, cứ hai cư dân Đầm Gâu ngậm một tảng đá to thả xuống đầu hắn. Có hòn rơi trúng trán ấn cả đầu hắn xuống nước. Bong bóng sùi ra hai bên mép hắn. Mi Lô sủa nhưng âm không thoát được ra ngoài cứ “ằng ặc” ở trong cổ họng hắn. Rác rưởi và một số que, cọc liên tiếp đâm vào da thịt hắn. Gạch, đá làm từng mảng da đầu hắn tướp ra, có cú đập mạnh làm hắn choáng, ngất đi, bốn chân thõng xuống không còn bơi được nữa. Bụng hắn đã căng nước, toàn thân hắn tím tái vì lạnh, đầu óc hắn quay cuồng, choáng váng vì những cú đập mạnh. Đôi mắt hắn xám xanh kinh khiếp. Đúng lúc ấy khoảng sáng cuối cùng trong đời hắn bỗng tối sầm lại. Một tảng đá to đã rơi trúng đầu hắn, phá vỡ thành sọ, đẩy hắn ngập sâu xuống nước.
Thế là tên Mi Lô đã phải trả giá cho những tội lỗi của hắn bằng cái chết thê thảm ở dưới đáy giếng. Hắn không biết rằng, ở trên kia, ngay sát thành giếng, Giôn cũng đang phải chống chọi một cách vô cùng khó khăn trước những cư dân Đầm Gâu dũng cảm. Trận chiến cuối cùng đang diễn ra khốc liệt...
Đạo chép tới đây thì bỗng có một thiếu phụ đột ngột xuất hiện trong phòng bệnh. Chị ta ôm chầm lấy bé Ly, khóc lóc thảm thiết rồi tự đấm ngực trách móc, xỉ vả mình thậm tệ. Chị ta gọi bé Ly bằng “con” và xưng “má”. Lúc đầu Đạo nghĩ có thể đây là một bênh nhân tâm thần bị “lạc” vào khu điều trị này. Nhưng sau nghe giọng nói của chị ta, Đạo ngờ ngợ ra một điều gì đó nhưng chưa dám khẳng định. Đến khi Minh Việt đi mua cháo cho bé Ly về thì danh tính của người đàn bà ấy mới được xác định.
- Ủa, anh!... - Thiếu phụ thốt lên khi nhìn thấy Minh Việt.
Minh Việt còn kinh ngạc hơn, anh sững người ra một lúc rồi mới buông một từ ngắn ngủi:
- Phượng!
Phải, người thiếu phụ đó là Phượng, người vợ không chính thức của Minh Việt, mẹ của bé Ly.
Minh Việt là người tình của chị, là chồng của chị hay là ân nhân của chị, gọi bằng cách nào cũng đều được cả. Sau những năm tháng khốn khó nhất, khi điều kiện cho phép, chị đã rời khỏi bố con Minh Việt, rời khỏi Việt Nam để đoàn tụ với chồng con chính thức của chị ở bên kia bờ đại dương. Sự ra đi của chị có làm cho Minh Việt hẫng hụt nhưng có vẻ như cái sự ấy đã được dự báo trước, Minh Việt cũng tiên cảm thấy điều đó và anh chấp nhận như chấp nhận sự ra đời đầy trớ trêu của anh trên cõi đời này. Và bây giờ thì chị đã trở về. Phượng đã trở về. Cô gái bán hoa của vỉa hè đô thành Sài Gòn đã trở về dưới một cái lốt quý phái và trưởng giả. Người đàn bà gá ghép với anh trong những tháng ngày buồn thảm sau giải phóng đã trở về không chỉ với mùi nước hoa đắt tiền mà còn là vô vàn những hứa hẹn giàu sang. Người mẹ của đứa trẻ đang mắc bệnh hiểm nghèo đã trở về giữa lúc tình mẫu tử lúc này là vô cùng cần thiết đối với người bệnh. Việc làm đầu tiên của sự trở về ẩn chứa nhiều danh tính ấy là quyết định chuyển bé Ly lên bệnh viện tuyến trên. Phượng đã bỏ ra rất nhiều tiền để mong mỏi có thể cứu được mạng sống của bé Ly. Nhưng ông trời dường như thích chơi trò éo le, tỉ lệ nghịch với công sức của Phượng, sức khỏe của con bé, lạ thay, ngày một yếu đi. Nó không gọi “má Phượng” mà chỉ gọi “ba Việt” thôi. Sau khi teo cơ tay trái, các cơ còn lại của con bé tiếp tục teo nhanh. Con bé bị liệt tứ chi, khi chuyển lên viện tuyến trên thì liệt nửa người, rồi liệt cả người. Chỉ còn cái cổ ngúc ngắc và cái đầu là còn khá minh mẫn. Tuy nhiên, cứ nhìn vào ánh mắt của các bác sĩ, thì Phượng có thể hiểu sự ngúc ngắc và minh mẫn ấy cũng sẽ không kéo dài được bao lâu. Con bé liên tục đòi viết nốt câu chuyện dở dang. Phượng mua máy ghi âm hỗ trợ thêm cho Đạo. Phượng mong con bé gọi một tiếng “má” nhưng dường như trong mắt nó không có Phượng, hay nói đúng hơn, má nó không phải là Phượng, má nó đang hiện hữu ở một cõi nào đó xa xăm, đẹp đẽ lắm và không bao giờ còn trở về được nữa. Phượng khóc bên những dòng chữ chép vội của chú Đạo. Nước mắt Phượng rơi thánh thót cùng với giọng kể đang dần méo tiếng của con bé. Chỉ có Minh Việt là ngồi im lặng. Anh đang lắng nghe những tiếng nói cuối cùng của đứa con gái đáng lẽ không nên xuất hiện trên đời này làm gì. Kìa! Tiếng nói của nó mỗi lúc một khó nghe hơn rồi...
Bảy.
Chính vào lúc Mi Lô tụt xuống giếng, các cư dân Đầm Gâu đổ ra vây chặt lấy Giôn. Biết bạn mình trúng kế, Giôn vội lao đến để cứu nhưng hắn bị các cư dân Đầm Gâu lăn xả vào cắn xé. Hắn phải chống đỡ vô cùng khó khăn và không sao tiến được tới gần mép giếng. Hắn nghe thấy những tiếng hộc đau đớn của Mi Lô từ dưới đó vọng lên. Nhưng xung quanh hắn lúc này rất nhiều kẻ thù đang nhe răng lao vào hắn. Giôn đã cắn vỡ đầu, lòi ruột một số đối phương nhưng quả thật hắn đã gặp phải những đối thủ vô cùng dũng cảm. Bốn chân hắn bị cắn xé rách từng mảng da. Mõm và cổ hắn cũng bị tấn công liên tiếp. Đúng lúc ấy tiếng kêu thét tuyệt vọng của Mi Lô vẳng lên làm hắn hoang mang run sợ. Giôn bỗng nghĩ đến bài chuồn. Hắn quẫy mạnh người, hất tung những đối thủ đang bám xung quanh ra để bỏ chạy. Nhưng bác Vàng đã nghĩ đến điều ấy. Từ ngôi nhà hoang chạy về đến nhà Giôn phải qua một khu đầm rộng mênh mông. Toàn bộ cư dân Đầm Gâu được dàn ra, chặn hết đường rút của hắn. Giôn cứ chạy được vài bước đã lại bị họ lao tới cản đường và cắn xé dữ dội. Máu trên người hắn chảy ròng ròng. Một bên mắt của hắn bị móc rách. Mỗi lúc hắn một cảm thấy yếu đi, đầu óc quay cuồng, choáng váng. Hắn không còn quẫy mạnh được nữa, hai chân sau của hắn đã bị liệt vì đau. Hắn cố lết về phía khu nhà cao tầng nhưng đúng lúc hắn đuối sức nhất lại là lúc cư dân Đầm Gâu xuất hiện nhiều nhất, chiến đấu gan lỳ dũng cảm nhất. Anh Mích lao tới đớp mạnh vào ức hắn rồi gặm chặt không chịu nhả ra. Cậu Ngộ, chú Cộc cũng lao bổ tới cắn tới tấp vào yết hầu của hắn. Giôn lê lết trên mặt đất chống trả. Hắn lăn lộn để tránh những hàm răng sắc nhọn của đối phương. Song đúng lúc hắn đang nằm ngửa để tránh đòn thì chú Ki lao đến như tên bắn cắn mạnh vào mõm hắn, đồng thời dùng chân trước cào rách bên mắt còn lại của hắn. Giôn gào lên đau đớn lăn lộn, hai chân trước cào bới lung tung. Hắn đã hoàn toàn mất phương hướng. Anh Mích chớp thời cơ chồm tới đớp mạnh vào cổ họng hắn. Máu từ đó tuôn ra xối xả làm hắn giãy lên đành đạch rồi gục xuống chết giữa hàng chục chiếc mõm vây xung quanh. Chú Ki, chú Cộc, anh Mích, cậu Ngộ và những cư dân khác cũng bị thương tích đầy mình. Họ kéo xác tên Giôn thả xuống giếng rồi quay ra cứu thương cho đồng đội. Trận kịch chiến đã kết thúc. Niềm vui lấp lánh trong mắt những cư dân Đầm Gâu khiến họ quên cả đau đớn dù trên thân thể vết thương vẫn còn đang rỉ máu...
Đến đây bỗng con Ly dừng lại và kêu “Má! Má!”. Phượng ôm chặt lấy con bé, luôn miệng: “Má đây, má đây, má lúc nào cũng ở bên con, con cần gì, con muốn gì?”. Con Ly bỗng bảo: “Má chép cho con đi, má đi đâu sao lâu về thế, còn đoạn cuối này nữa má chép cho con!”.
Phượng khóc nấc lên rồi cắn chặt lấy môi, cầm bút chép những lời cuối cùng của con gái. Nước mắt Phượng nhỏ ướt trang bản thảo:
Đoạn kết.
Đó là đêm trăng đầu tiên kể từ ngày hòa bình trở về với Đầm Gâu. Bác Vàng phủ phục bên mép nước, ngoe nguẩy chiếc đuôi mập mạp. Chị Vện thong thả dắt đàn con dạo chơi dưới bóng trăng. Chú Ki, chú Cộc nô đùa với nhau bằng những thế võ hiểm. Cún “em” tung tăng chạy nhảy, mơ ước một ngày kia sẽ trở thành cư dân có tiếng sủa âm vang nhất Đầm Gâu. Gió lại về nô giỡn trên những thảm cỏ non và dù đêm rất khuya, hoa dã thảo vẫn thao thức đưa hương thơm ngát. Đầm Gâu thanh bình, Đầm Gâu với những cư dân hiền lành lương thiện lại hồi sinh như chưa hề có một trận kịch chiến đẫm máu nào.
Đám tang bé Ly diễn ra vô cùng cảm động. Ngoài người lớn đưa tiễn còn có cô giáo và các bạn học sinh cùng lớp của Ly. Kịp về dự cuộc đưa tiễn đau xót này còn có cả chú Đức. Sau mười tám tháng cai nghiện tập trung, Đức trở về béo tốt, hồng hào, tràn trề sinh lực. Đức là người mau nước mắt. Ngày xưa mợ vẫn bảo: “Nhà này, mau nước mắt nhất là thằng Đức”. Hay mủi lòng, đa sầu đa cảm là thế nên cái phần ý chí trong Đức có lẽ không được như Đình và Đạo. Phải thế chăng mà Đức cai nghiện tam lần tứ lượt vẫn chưa dứt được? Mợ bảo: “Gớm, vào tuổi thanh niên nó đẹp lắm. Da cứ đỏ hây hây, con gái nhiều đứa mê đến mụ cả người. Thế mà vào học hàng hải được một năm, dính vào hút xách, trở nên thân tàn ma dại như thế đấy. Cai tại nhà mấy lần không được, mợ bực quá làm đơn xin các anh ở phường cho đi trại. Đành phải vậy thôi chứ biết sao bây giờ? Còn bố còn mẹ thì thế này, chứ sau này bố mẹ chết mà cứ mang cái thân nghiện như thế thì sống được bao lâu?”. Đấy là số phận của đứa em trai áp út. Đấy cũng là lý do Đức vắng mặt trong những ngày Minh Việt mới ở Miền Nam ra. Sau này Minh Việt có cùng với Đạo lên Vĩnh Phúc thăm Đức vài lần. Lần nào Đức cũng khóc. Đức bảo: “Em sợ lắm rồi anh Việt ạ. Nhưng cái ấy nó như ma ám, không sao bỏ được, nhiều lúc em muốn chết cho bố mẹ đỡ khổ nhưng lại không đủ can đảm mà chết”. Lần này về đưa ma cháu Ly, Đức cũng khóc. Minh Việt bảo: “Thôi, phận cháu có thế, chú khóc làm gì, chỉ đau lòng thêm”. Đức cố ghìm lại không khóc nữa nhưng mắt vẫn đỏ hoe:
- Em chưa một lần gặp mặt nó, nghe bà và chú Đạo khen con bé thông minh, giỏi giang lắm, em lại càng thương. Mà sao đời anh khổ thế hả anh Việt?
Sao đời anh lại khổ thế? Ừ, điều này thì anh cũng đã tự hỏi và không thể trả lời được. Sau ngày con Ly mất được một tháng, Minh Việt bảo Phượng:
- Thôi, em về bên ấy đi. Cái chết của con nhỏ không do lỗi của ai cả. Em đừng giày vò mình làm gì. Em còn cuộc sống của em ở bên kia. Còn anh, anh tự lo được.
Phượng ra đi mang theo cuốn băng ghi âm ghi lại những lời cuối cùng của con Ly và đôi thứ đồ kỷ niệm con bé để lại. Phượng đi rồi, Minh Việt thực sự thấy cô đơn. Cậu Chột thỉnh thoảng đến thăm Minh Việt, gieo rắc vào đầu anh một thứ tín ngưỡng dân gian đã từng bị bóp chết nay đang dần hồi sinh. Đó là đạo Tứ Phủ. Ngôi đền Tứ Phủ bây giờ đã được chỉnh trang, tu sửa lại, cậu Chột trở thành cô đồng cả của đất An Lạc, đóng “đại bản doanh” tại ngôi đền đó. Minh Việt đã quay trở lại Xóm Đáy ngay sau khi về sống ở An Lạc. Anh không thể tưởng tượng nổi khu xóm tồi tàn năm xưa lại có thể đổi thay nhanh đến thế. Phố Tứ Phủ vẫn là khu phố chính của thị trấn An Lạc nhưng đám dân giàu có nhất thị trấn Nét Mặt Buồn bây giờ lại là Xóm Đáy. Chẳng phải dân Xóm Đáy giỏi giang hay có nghề chính, nghề phụ gì, sự giàu có ấy là do chín mươi phần trăm số hộ ở đây có người nhà định cư ở nước ngoài gửi tiền về. Những năm đầu của thập kỷ tám mươi (1980), chính quyền An Lạc đau đầu vì số người “vượt biên” hàng năm luôn đứng hàng nhất nhì trong tỉnh. Mà thời ấy vượt biên có nghĩa là phản bội tổ quốc, là bỏ đất mẹ ra đi làm tay sai cho địch, là tiếp tay cho các thế lực thù địch chống phá cách mạng trong nước. Dân Xóm Đáy chủ yếu sống bằng nghề sông nước. Sông Sầu Diện lại đổ ra biển Đông. Ra tới biển Đông, nếu thuận buồm xuôi gió thì chỉ hai ba ngày sau là cập cảng Hồng Kông. Tới Hồng Kông là được thừa nhận “tị nạn chính trị”, chỉ việc chờ đợi một nước thứ ba nào đó tiếp nhận. Đang là dân Xóm Đáy nghèo nàn, đói khát, lạc hậu bỗng chốc trở thành kiều dân của Úc, Pháp, Canada, Mỹ, Anh thì ai chả thích, chả muốn. Một vài người đi được thì dần dần rủ nhau cả trăm người đi, cả ngàn người đi, cả vạn người đi. Dòng người ra đi này không sao ngăn chặn được, một thời trở thành “cơn sốt di dân”. Chính cô em gái của Minh Việt, nhân vật chính trong truyện ngắn Chị tôi của Đạo cũng bị cuốn vào dòng người ra đi bất hợp pháp này. Chỉ có điều, Vân ra đi vào thời điểm các nước thứ ba không còn khả năng tiếp nhận những thuyền nhân luôn nhận mình là tị nạn chính trị nhưng thực chất lại chẳng có chút hiểu biết gì về chính trị. Thế nên những người ra đi sau này đều phải trở về hết, thiên đường không dành cho những kẻ lười nhác, sau gần chục năm sống trong hàng rào thép gai của trại tị nạn, hàng vạn người đã bị trả về, trong đó có Vân. Nhưng dân Xóm Đáy thì hầu hết lại ra đi trước Mốc (Thời điểm Liên Hiệp Quốc không nhận người tị nạn). Vì thế họ sang được nước thứ ba khá nhiều và những đồng ngoại tệ họ gửi về đã nhanh chóng thay đổi bộ mặt xóm dân nghèo thủa nào. Minh Việt đã ngơ ngẩn hàng tiếng đồng hồ mà không sao nhận ra được đâu là nhà của bà Quản. Tất cả đã đổi thay, từ con đường dẫn vào xóm cho đến mỗi mái nhà đang chìa ra màu mè, kiểu cách, từ hàng lan can xanh đỏ cho đến những khối kiến trúc trưởng giả, sao chép, học đòi. Minh Việt hỏi thăm một thanh niên đang đi ngược lại phía anh nhà cậu Chột ở đâu? Cậu ta trả lời:
- Chột đồng bóng chứ gì? Cái nhà hai tầng ở cuối xóm ấy. Mà sao các ông lắm tiền quá không biết tiêu gì hay sao cứ đưa cho cái thằng Chột ấy nó tiêu hộ thế? Đúng là cái bọn đồng cô bóng cậu! Thừa hơi rước thánh về nhà mà thờ!
Minh Việt cảm ơn cậu ta mà không hiểu là cậu ấy vừa xổ ra một tràng những đồng cô bóng cậu gì gì thế không biết? Mãi đến khi vào nhà cậu Chột rồi Minh Việt mới hiểu rằng thì ra cậu Chột bây giờ hành nghề đồng bóng. Điện lớn điện bé, bát hương to bát hương nhỏ, tượng ngang tượng dọc, kệ trên kệ dưới, voi giấy ngựa mã, lọng vàng tán đỏ... cứ là hoa cả mắt. Đã thế cậu Chột lại cho ngay bài “Tứ Phủ nhập môn” làm Minh Việt ù đặc cả hai tai:
- Đạo này là đạo Mẫu, thờ chúa Liễu Hạnh. Ba bức tượng trên cùng kia là đệ nhất thượng thiên, đệ nhị thượng ngàn, đệ tam thoải phủ. Đạo này thờ trời, đất, nước và núi. Chúa Liễu Hạnh là một trong bốn tứ bất tử của Việt Nam. Thờ đạo Mẫu là có tinh thần dân tộc đấy Việt nhá. Đạo Phật ra đời ở Nê Pan, Ấn Độ, đạo Ki-tô ra đời ở I-ran, I-rắc, đạo Hồi ra đời ở Ả Rập, có đạo nào là của người mình đâu, chỉ có đạo Mẫu là của ông bà ta sáng tạo ra thôi, tại sao ta không thờ lại cứ đi thờ các ông thần bà thánh ở mãi đâu? Còn lên đồng chẳng qua chỉ là nghi lễ tôn giáo thôi. Tôn giáo nào chẳng có những nghi lễ mang tính dị đoan. Lên đồng của ta lại có hát văn phụ họa, hay ơi là hay, hát thánh ca ở nhà thờ hay lầm rầm đọc kinh lần tràng hạt làm sao hay bằng hát văn? Lên đồng có ba mươi sáu giá, mỗi giá là một vũ điệu thể hiện mọi hỉ nộ ái ố của cuộc đời, lại linh ứng, lại thiêng liêng, lại...
- Thôi, thôi, cậu để cháu nghe từ từ, cậu nói thế thì cháu hiểu làm sao được? - Minh Việt chọn đúng lúc cậu Chột đang suy nghĩ chọn từ để diễn đạt liền tìm cách ngắt bài “nhập môn” dài lê thê - Cậu cho cháu biết cuộc sống của cậu dạo này thế nào? Vợ con cậu ra sao? Kinh tế cậu có ổn không?
- Thì đấy! - Cậu Chột chỉ vào đứa nhỏ khoảng mười ba tuổi đang làm vàng mã ngoài sân - Đấy là đứa thứ hai. Còn thằng lớn đang ở bên Canada.
- Nó đi lâu chưa?
- Trước Mốc vài tháng. Có vợ rồi. Nhà này là nó gửi tiền về xây đấy. À này, mười chín tháng này Việt đến đây với mình nhá. Hôm ấy mình làm lễ vào hạ. Vui lắm! Con nhang đệ tử kéo về cứ là ngập cái nhà này, cả Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương cũng về, cả trí thức, văn nghệ sĩ, Tây, ta có hết. Hôm ấy Việt đến mà nghe hát văn. Mình mời ban văn ở mãi tận Phủ Giầy đấy. Và hôm ấy mình cũng hầu. Việt có xin Thánh điều gì không? Này, thiêng lắm đấy! Việt cứ thành tâm thì...
“Cháu sẽ thu xếp để đến xem cậu hầu đồng”. Minh Việt nói vậy rồi xin phép rút lui. Nếu ngồi thêm nữa chắc anh “tẩu hỏa nhập ma” mất. Thế nhưng mấy lần cậu Chột tổ chức hầu Mẫu, Minh Việt đều đến cả. Một phần vì tò mò, một phần vì muốn tìm hiểu chân xác con người cậu Chột là thế nào, và phần nữa, Minh Việt cũng muốn tin vào một điều gì đó, thần bí, để lý giải những nỗi buồn mà số phận anh phải đeo mang.
Đám tang con Ly, cậu Chột là người nhiệt tình lo phần tang chế, chọn ngày, giờ hạ huyệt, chọn hướng đất, thế nằm, rồi cúng bái rất cẩn thận. Mợ có vẻ yên tâm và tin tưởng lắm. Minh Việt cũng thấy nhẹ mình, thanh thản. Nhưng anh ngày một trở nên trầm lặng. Và không hiểu sao, những giấc mơ của anh gần đây, hay xuất hiện hình ảnh Cói. Tịnh bảo: “Mày hãy đến với Hoài đi, cô ấy sẽ giúp mày thăng bằng trở lại. Hoài là một người đàn bà đích thực đấy. Cô ấy rất thích rắn và yêu tất cả những người đàn ông trên thế gian này”.
Minh Việt cười buồn bã. Những số phận quanh anh cũng nào có hơn gì anh đâu? Họ đều là những tiểu vũ trụ tả tơi, rách nát sau những sóng gió của cuộc đời đấy thôi!
Vĩ thanh
Bỗng nhiên dạo này Tịnh lại đi vẽ nhiều hơn. Lần nào đi Tịnh cũng lôi Minh Việt đi theo. Địa điểm Tịnh thường chọn ngồi vẽ là một vạt cỏ bên lưng núi Cô Hồn. Trong lúc Tịnh ngồi vẽ thì Minh Việt pha trà, ngồi hút thuốc và dõi mắt nhìn vào xa xăm. Từ chỗ ngồi của họ, toàn cảnh thị trấn hiện lên trong tầm nhìn. Toàn bộ khu Trại pháo thủ cũ đã biến thành trường Đại học cộng đồng dành cho học sinh của các tỉnh miền duyên hải. Từ Xóm Đáy các nóc nhà chọc lên trời cao, lô nhô, đủ mọi kiểu dáng. Phố Tứ Phủ vẫn kéo một vệt dài sầm uất, chạy dọc thị trấn với ngôi đền Tứ Phủ quanh năm khói hương tỏa lan, lãng đãng. Từ ngôi đền đó đi vài bước chân là tới nhà Minh Việt. Bố đã già lắm rồi, tóc bạc phơ, lưng hơi gù, chiều chiều vẫn dạo bước trên mấy con phố, tiện thì ghé qua nhà bác Mộc chuyện trò đôi câu rồi lại về nhà bật đài lên nghe. Mợ vẫn trẻ và đẹp, duy có đôi mắt thì đã kém đi rất nhiều.
Vuông góc với phố Tứ Phủ là con đường dẫn lên Nhà thờ. Thánh đường uy nghi một thủa nay đang lấy lại cho mình dáng vẻ của nửa thế kỷ trước. Sau mấy chục năm bỏ không, mấy năm trở lại đây đã lại có cha đạo về quản lý giáo xứ. Chiều chiều tiếng chuông lại rung lên, ngân vang kêu gọi sự hồi sinh của những xóm đạo cũ. Nô-en vừa rồi Nhà thờ đông nghẹt, dòng người tắc nghẽn từ phố Tứ Phủ, Minh Việt được Tịnh kéo xềnh xệch, cuối cùng cũng vào được đến khuôn viên nhà thờ, và tại đây, Minh Việt đã tận mắt nhìn thấy Đức giám mục Phơrăngxoa đơ Bêhiêng nói chuyện với giáo dân nhân chuyến ông cùng đoàn giáo giới quốc tế qua thăm Việt Nam. Ông nói rất ngắn và sau đó thì lên xe về Nhà thờ lớn bên Phòng ngay. Khi ông đi qua chỗ Minh Việt, anh ngửi thấy mùi nước hoa. Thứ hương này bỗng làm anh bủn rủn, cơ thể tan nhão ra như vô vàn những hạt nguyên tử đang nổ trong ký ức khiến từng tế bào anh biến dạng. Nhưng rồi lại như có một nguồn sinh lực mới chảy trong huyết quản anh, ào ạt, tràn trề, bừng lên mạnh mẽ và đầy khí thế. Lạ thật, mùi nước hoa luôn là một thứ chất kích thích đối với Minh Việt. Khi cha Bêhiêng đi rồi, Minh Việt cũng rời nhà thờ, tìm đến Cô Hồn quán. Đã lâu lắm rồi anh mới thấy thèm khát một bộ ngực đàn bà. Đêm ấy, Chúa giáng sinh ở khắp mọi nơi, còn trong phòng ngủ của Hoài, Minh Việt chới với, khao khát, chung chiêng, nghiêng ngả với cái đẹp khiếm khuyết nhưng không hề mất đi phần gợi cảm sắc dục. Hôm sau, Minh Việt xin Tịnh giấy và chì. Anh cũng bắt đầu vẽ những nét đầu tiên bằng một cảm thức tự nhiên, đắm say, bay bổng thuần túy bản năng.
Còn Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy kia giờ đã thành công ty giày của Hàn Quốc, chứa tới cả ngàn công nhân. Vừa mới hôm rồi ở đó có vụ ngược đãi người lao động. Chú Đạo xông xáo viết bài phản ánh, cũng có ích ít nhiều, hình như tên chủ người nước ngoài đã bị xử lý hành chính. Không biết như thế là nhẹ hay nặng?
Xóm Khơ-me vẫn ngang dọc những dãy nhà cấp bốn, chỉ có điều bây giờ ở đó không còn người Khơ-me nào cả. Chị Vi Lay đã rời khỏi đó từ lâu lắm rồi. Sau ngày giải phóng, khi Minh Việt trở về An Lạc lần thứ nhất đã nghe mợ nói chị đi rồi, đi rất lặng lẽ, có người bảo chị về nước, có người bảo chị lên làm việc ở đại sứ quán, lại có người bảo chị đã lấy chồng và sống ở đâu đó bên Phòng.
Núi Cô Hồn mấy năm trở lại đây do được chính quyền tăng cường quản lý nên cây cối mọc xanh tốt, không còn nạn chặt phá cây và khai thác đá tràn lan, dải núi trở thành lá phổi của cả tỉnh, là một trong những cảnh quan quý giá của người dân thị trấn. Theo quy hoạch thì núi Cô Hồn sẽ là một trong những điểm dừng chân du lịch của khách tham quan. Cách chỗ Tịnh và Minh Việt ngồi không xa mới mọc lên một ngôi chùa rất đẹp. Ngôi chùa này được dựng lên từ nền móng cũ, nghe bảo có từ cách đây mấy trăm năm. Trụ trì ở đấy là một vị sư rất khó đoán tuổi. Một lần Tịnh dẫn Minh Việt vào đó nghỉ. Tịnh bấm vào tay Minh Việt, chỉ cho anh nhìn xuống bàn chân của sư trụ trì. Vị sư nọ đi dép da, có quai hậu, và Minh Việt nhận thấy bàn chân bên phải của ông ta chỉ còn bốn ngón. Ngay lúc ấy Minh Việt không hiểu gì cả. Sau Tịnh dẫn Minh Việt ra khuôn viên sau chùa. Ở đó có một ngôi mộ được xây bằng đá, trong vòm mộ có bia khắc ảnh một thiếu niên với những nét rất khôi ngô. Nhìn kỹ Minh Việt chợt nhận ra đó là Sinh hạt mít. Bức ảnh này Minh Việt không thể nào quên được vì nó từng là nỗi ám ảnh anh trong suốt nhiều năm. Minh Việt bỗng thốt lên:
- Thức cụt! Vị sư vừa rồi...?
- Phải, chính là Thức cụt đấy - Tịnh tiếp lời - Nhưng người ấy không muốn nhận chúng ta đâu. Thôi, người ta đã muốn quên thì cũng đừng bắt họ phải nhớ lại làm gì. Hãy cứ là khách bộ hành ghé thăm cửa chùa thôi. Đất An Lạc này là thế đấy. Đã là khuôn mặt buồn thì nét nào chả u uẩn?
Đã là khuôn mặt buồn thì nét nào chả u uẩn? Đứng từ núi Cô Hồn nhìn qua những con phố, những khu dân cư, thấy dòng Sầu Diện vẫn lững lờ buông mình vắt qua thị trấn đổ ra biển, lại nghe tiếng chuông nhà thờ đổ hồi mỗi chiều, liếc sang bức toan nhem nhuốc sắc màu của Tịnh, Minh Việt bỗng thấy lòng mình lao xao tiếng vọng về của ký ức xa xăm.
Trên khuôn mặt buồn của anh, bỗng ánh lên một nét cười phơ phất.
10/3/2006
Nguyễn Đình Tú
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Ở trung ương cũng có những tay văn nghệ rất “địa phương” và ngược lại Để giúp các nhà văn và bạn đọc có cái nhìn sâu rộng hơn bức tranh ...