Thứ Tư, 18 tháng 9, 2024
Bên dòng sầu diện 2
Chương 6
- Ừ, mai nghỉ một buổi lạc đi xem cho nó khỏi tù đời. Mấy giờ?
Cả một tuần sau đó vẫn không thấy cái Lý đến nhà Minh Việt.
Thằng Tịnh cũng chỉ đảo qua đảo lại, không ngồi lỳ như mọi hôm. Minh Việt không
để ý đến chuyện ấy, tối nào cũng đóng xong hai chục viên ba banh là mượn xe bố
đạp xuống Xóm Đáy. Nhà bà Quản bây giờ chỉ còn mỗi mình cậu Chột ở. Minh Việt hỏi:
“Cái Cói đâu?”. Câu Chột bảo: “Nó về ở nhà nó, ở cuối bãi ấy”. Minh Việt tìm
sang nhà cái Cói. Nhà Cói ở tuềnh toàng, chẳng có thứ gì ra hồn. Ánh mắt Cói
nhìn Minh Việt cứ ngài ngại. Nhà Cói sát cửa sông, vào những ngày hè nóng nực
gió lùa lên mát lạnh. Thị trấn dạo này mất điện luôn, Minh Việt thường chơi ở
Xóm Đáy đến muộn mới về. Mợ hỏi thì Minh Việt bảo con lên cầu treo ngồi hóng
mát, nằm sớm nực lắm, không ngủ được. Với cậu Chột và Cói thì ánh đèn điện là
thứ xa xỉ, còn lâu họ mới được hưởng. Họ chỉ được hưởng ánh sáng hắt ra từ Xí
nghiệp cơ khí đóng tàu Hai Bảy tháng Bảy phía bên kia bãi sông thôi.
Đó là khu vực dư thừa ánh điện nhất thị trấn. Điện cho sản xuất công nghiệp
luôn được ưu tiên. Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy trước đây là nhà kho của
quân Pháp. Sau này, cùng với việc xây dựng cây cầu treo, trên đã cho An Lạc xây
dựng một xí nghiệp đóng tàu thủy. Hôm khởi công xây dựng là ngày hai bảy
tháng bảy, cả thị trấn ra quân rầm rộ, Minh Việt cũng nằm trong đội hình học
sinh gõ trống cổ động cho lễ động thổ. Bây giờ xí nghiệp trở thành điểm sáng về
lao động sản xuất của thị trấn. Trong các hội nghị, mỗi khi đọc báo cáo về công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở An Lạc bao giờ bác Mộc cũng dừng lại nói thêm
về Xí nghiệp cơ khí Hai Bảy tháng Bảy. Đó là biểu tượng của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân An Lạc, mở
ra một sự phát triển về chất đối với công cuộc xây dựng thị trấn. Cùng với Hợp
tác xã vận chuyển thô sơ, với hàng loạt cửa hàng mậu dịch, cửa hàng ăn uống quốc
doanh của ngành thương nghiệp, Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy đã và đang góp phần
xóa sổ lao động nông nghiệp, sau kế hoạch năm năm lần thứ ba, nhất định An Lạc
sẽ đạt được mục tiêu thành thị hóa, không còn ai chân lấm tay bùn nữa, tất cả sẽ
là công nhân, sẽ đi đầu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các tỉnh miền
duyên hải. Quả thật xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy luôn là niềm tự
hào của người dân An Lạc. Chỉ vài năm sau ngày xây dựng nó đã bành trướng hết một
vệt bờ sông dài rộng phía đông thị trấn. Nhà xưởng của xí nghiệp dọc ngang, tít
tắp như một khu phố mới. Ban ngày đi qua thấy những người thợ hàn một tay cầm mặt
nạ che mặt, một tay châm que hàn vào những khối sắt lớn, ánh điện lóe lên, vụn
sắt cháy đỏ rơi lả tả. Ban đêm, trên nóc phân xưởng hàn, hai ngọn đèn pha to
như hai cái mâm đồng soi sáng cả khúc sông. Xóm Đáy ở khúc bồi phía bên này bờ
sông, nhờ hai ngọn đèn pha ấy mà đỡ cảm thấy tối tăm, đỡ cảm thấy mục tiêu phố
hóa quá xa lạ đối với mình. Ngoài xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy ra, cả
thị trấn An Lạc chỉ còn có khu Tứ Phủ và khu Ngã Năm là có điện nhưng phập phù,
điện rất yếu, dây tóc bóng điện cứ đỏ đòng đọc như mấy sợi len rối. Mà tình
hình thì chưa biết đến lúc nào mới cải thiện được. Bác Mộc thỉnh thoảng đến nhà
Minh Việt chơi, qua câu chuyện giữa bố và bác, chỉ thấy nói về việc hậu phương
dốc lòng ủng hộ cho tiền tuyến. Mà đã dốc lòng ủng hộ cho tiền tuyến thì còn
cái gì để xây dựng thị trấn nữa? Việc đánh nhau để giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước là chuyện không thể đừng được. Nhất định phải đánh cho không còn
thằng Mỹ nào ở miền Nam nữa mới thôi. Thanh niên An Lạc đã thay nhau hết lứa
này đến lứa khác lên đường nhập ngũ rồi. Cậu Chột cũng đã mấy lần lên thị đội
xin đi bộ đội mà không được vì bị hỏng một bên mắt, không đủ tiêu chuẩn về sức
khỏe. Nhiều đêm từ Xóm Đáy về, Minh Việt gặp hàng đoàn bộ đội lặng lẽ hành quân
về phía chân cầu Lãng Tiên. Bố bảo đó là khu vực tập kết bộ đội lên tàu
đi Bê. Việc di chuyển diễn ra rất bí mật. Chân cầu Lãng Tiên vào ban ngày
hầu như không thấy có tàu bè gì, thế mà đêm đến hết đoàn bộ đội này đến đoàn bộ
đội khác cứ hun hút đi về phía bờ sông để sáng hôm sau mất tăm, không còn thấy
một bóng quân phục nào. Xung quanh núi Cô Hồn có rất nhiều đơn vị bộ đội đóng
quân, thuộc đủ các quân binh chủng khác nhau. Ngoài bộ binh ra, đêm đêm hàng
đoàn ô-tô chở các loại súng pháo khí tài cũng nhằm hướng bến sông Sầu Diện để
trút hàng xuống tàu. Rồi tàu đưa người và vũ khí đạn dược đi đâu thì không ai
biết. Bác Mộc mỗi khi gặp bố đều nói câu cửa miệng: “Tình hình miền Nam căng lắm”.
Căng như thế nào? Chẳng ai hình dung ra. Minh Việt đã tới tuổi nhập ngũ nhưng
bác Mộc bảo: “Cứ ở nhà đóng nốt cho bố mày nghìn viên gạch ba banh đi đã, rồi
đi bộ đội sau”. Để đảm bảo cho việc vận chuyển vũ khí và hành quân an toàn, bí
mật, thị trấn ấn định giờ giới nghiêm. Sau hai mươi hai giờ người dân thị trấn
không ai thò mặt ra ngoài đường nữa. Mọi sinh hoạt cộng đồng đều kết thúc trước
giờ đó. Minh Việt thường về quá giờ giới nghiêm nên cảm nhận được sự hối hả của
cả nước đang “dốc lòng cho tiền tuyến”. Các con đường của thị trấn rùng rùng
chuyển động trong im lặng. Cũng có đôi ba nhà mở hé cửa ra xem các đơn vị bộ đội
chuyển quân. Trong số những người ra đi kia biết đâu lại có con cái họ? Và họ
muốn được nhìn thấy con em mình lần cuối trước khi chúng đi vào chiến trường.
Đúng là khi đào công sự cho ụ pháo Nhà thờ, tự vệ đường phố
đã liên tục đào phải xương người. Có những bộ xương thiếu chân, thiếu tay, đào
tìm mãi vẫn không thấy. Có bộ xương lại chẳng thấy đầu đâu. Mọi người hoang
mang không dám nhập tiểu. Sau bác Mộc bảo: “Thôi, đào tìm làm gì nữa, đây toàn
là những chiến sĩ của ta bị địch bắt, chúng nó cắt chân, cắt tay rồi mới đánh
cho chết, làm sao tìm đủ được xương cốt. Cứ nhập tiểu đi, để tôi khấn xin anh
em thông cảm cho”. Lần đầu tiên nhìn thấy xương người, Minh Việt cứ thấy gai
gai, ơn ớn. Dân đổ đến xem chật cứng. Ông Mật rỗ bảo: “Tí nữa thì tôi
cũng nằm trong đống xương này rồi”. Sang đến hôm sau có người đến nhận cốt người
thân. Cũng là nhận vu vơ thôi chứ toàn xương với cốt thế kia biết đâu là người
nhà mình? Minh Việt tìm thấy cả những đoạn dây trói bằng nhựa lồng trong ống
xương tay. Nhiều người khóc lóc, kêu gào thảm thiết rồi ngước nhìn đôi mắt quắc
ánh căm hờn về phía tòa thánh đường bỏ không. Bác Mộc quyết định cho khai quật
tiếp phần hầm mộ dưới nền đất nhà thờ. Người ta tìm thấy rất nhiều thứ nhưng
xương người thì không có một mẩu nào cả. Thị ủy đứng ra tổ chức lễ truy điệu
cho những người chết rồi đưa họ về an táng ở nghĩa trang liệt sĩ. Hai mươi tám
tấm bia mộ được dựng lên nhưng tất cả đều ghi là Liệt sĩ vô danh.
Như có một linh cảm đặc biệt, Minh Việt liền chạy đến khúc
sông chiều hôm qua anh vừa tắm cùng Cói. Chỉ vài bước chân sau bờ đê là thấy vết
máu. Minh Việt lần theo dấu máu chạy xuống bãi. Và anh nín thở khi nhìn thấy một
đám vải dập dềnh bên mép nước. Minh Việt vội nhảy những bước dài trên đám bùn
nhão nhoét, hướng tới chỗ đám vải đang bập bềnh, bập bềnh lên xuống theo mực nước.
Từng đám máu lắng lại chưa kịp đông gặp phải những bước chân của Minh Việt,
loang ra những vệt đỏ nhờn nhợt. Khi đám vải được lật lên thì Minh Việt kinh hoảng,
bật ngửa người ra đằng sau, ngã ngồi xuống bùn.
- Con để cả lại cho em bé. Sau này lớn lên nó sẽ đeo.
Chàng trai Minh Việt khỏe đẹp của phố Tứ Phủ ngày nào giờ đã
đổi thay quá nhiều. Chính Minh Việt cũng không nén được sự buồn tủi khi nhìn
dáng hình mình trong gương. Trước đây Minh Việt đâu có thế này? Sau giải phóng
Minh Việt cũng đâu có thế này? Cả chục năm lênh đênh trên biển Minh Việt cũng
đâu có thế này? Khi nhận được thư của cậu em út gửi từ ngoài Bắc vào, Minh Việt
khi ấy còn đang là một thủy thủ lực lưỡng, vâm váp sóng giật cấp chín, cấp mười
vẫn đi lại trên boong tàu như không. Vậy mà chỉ ngay sau đó thôi. Ngay sau khi
ra bưu điện gửi thùng cá khô nặng một yến rưỡi về cho bố mợ, trở lại tàu Minh
Việt thấy người hâm hấp nóng và cứ thế thân nhiệt không lúc nào giảm xuống dưới ba
chín độ. Minh Việt phải rời tàu lên nằm ở trạm xá của Xí nghiệp. Rồi từ trạm
xá lại chuyển sang bệnh viện. Bạn bè thủy thủ tới thăm. Cả ban lãnh đạo Xí nghiệp
cũng tới động viên, an ủi. Ai cũng nắm tay Minh Việt thật chặt và bảo: “Cố gắng
nằm viện ít hôm, khỏe rồi lại về với Xí nghiệp, về với anh em”. Nhưng bệnh viện
có phát hiện ra được bệnh gì đâu! Người bệnh cứ sốt kéo dài, ăn gì nôn ấy, cơ
thể lúc nào cũng thấy ớn lạnh. Đến khi dừng sốt, thân nhiệt quay trở lại ba
mươi bảy độ thì Minh Việt phải mang trên mình một hình hài khác. Tóc Minh
Việt đã bạc hết. Tất cả các bắp thịt trên người anh bay biến đi đâu cả. Người
anh sọm xuống, lúc nào cũng mệt mỏi và không còn làm được việc nặng nữa. Xí
nghiệp cho Minh Việt về nghỉ mất sức. Vậy là sau gần chục năm làm việc, tính cả
những năm tháng quân ngũ trước khi chuyển ngành, vốn liếng mà Minh Việt tích
cóp được không nhiều nhặn gì ngoài căn hộ tập thể nằm trên tầng hai trong một
con hẻm ở quận Một. Một chàng trai Bắc Kỳ không còn trẻ nhưng chưa già, chưa vợ
con, xa gia đình, không người thân, lại ốm yếu bệnh tật biết tồn tại thế nào
đây giữa lòng thành phố phương Nam xa xôi ấy?
Những lá thư sau là tình hình các thuyền nhân tìm mọi cách để
được Liên Hợp Quốc thừa nhận là tị nạn chính trị. Phải là tị nạn chính trị thì
mới được đi nước thứ ba, mới tới được thiên đường. Còn nếu không chứng minh được
điều ấy sẽ bị coi là tị nạn kinh tế. Mà tị nạn kinh tế thì sẽ bị trả về nước và
Liên Hợp Quốc sẽ giúp cho vay vốn để làm ăn sinh sống ngay trên chính quê hương
mình. Đã sang tới Hồng Kông rồi chẳng ai muốn quay trở về cả. Thế là ai cũng
chuẩn bị cho mình một lý lịch lâm ly, bi khốc, ai cũng cố chứng minh rằng mình
là tị nạn chính trị. Nghĩa là phải tự nhận gia đình mình có thâm thù với chế độ
cộng sản, hoặc chứng minh bản thân là nạn nhân của các cuộc đàn áp tôn giáo,
dân tộc, đa nguyên tư tưởng, phản kháng chế độ... Thanh lọc lần một. Thanh lọc
lần hai. Rất ít người được thừa nhận như lý lịch tự khai. Hóa ra không phải cứ
nhận phản động là người ta tin, cứ chửi đất mẹ là người ta nhận. Các thuyền
nhân lại nghĩ ra cách biểu tình, tuyệt thực, rải truyền đơn, trích máu ký đơn
kêu lên các tổ chức quốc tế để chống ép buộc về nước. Nhưng chẳng quốc gia nào
muốn nhận những người bỏ nước ra đi kia nữa. Nếu nhận thì sẽ lại tạo nên những
cuộc di dân mới và sẽ chẳng biết đến khi nào dòng người tị nạn mới hết chảy vào
nước họ. Các thuyền nhân muốn đến được với thiên đường của mình chỉ còn có một
cách duy nhất, ấy là theo con đường hôn thê. Các cô gái đua nhau nộp ảnh cho
các tổ chức môi giới để họ giới thiệu cho những người đàn ông đang muốn tìm vợ.
Các cô gái trẻ đẹp thường được chọn trước. Chị Vân tôi vốn xinh đẹp. Có nhiều mối
muốn làm hôn thê với chị. Nhưng không hiểu sao chị nhất quyết không ra khỏi trại
bằng con đường đó. Cho đến khi trại tị nạn cuối cùng ở Hồng Kông được dỡ bỏ, chị
Vân về nước cùng với một đứa con trai tám tháng tuổi và một người chồng bị bắt
ngay tại sân bay nước nhà thì mọi sự mới rõ ra. Chồng chị là một tên cướp nguy
hiểm, trong khi thi hành án đã trốn trại vượt biên. Và bây giờ không còn nơi
nào cho anh ta trốn chạy nữa, về nước, anh ta phải tiếp tục thi hành phần hình
phạt còn lại của mình. Hình như còn ba năm bốn tháng nữa thì phải? Đấy là chưa
kể phải cộng thêm cái án trốn trại sau này!
Buổi chiều hôm đó Minh Việt đã uống rất nhiều. Quá khứ trỗi dậy
và không thể không uống cho những đắng cay của đời người trôi sâu xuống tận đáy
ruột. Hoài trổ tài làm rắn làm cho Minh Việt xem và anh thực sự kinh ngạc. Trái
tim rắn vẫn còn hồng tươi được Hoài thả vào ly rượu phập phồng, phập phồng cho
đến khi tắt lịm, chín tái. Hoài là người cầm ly rượu đưa lên môi uống đầu tiên
rồi sau đó đến lượt Minh Việt và Tịnh. Các món nướng, chiên, sả lần lượt được
mang ra. Uống đến độ thì Tịnh nói về hội họa. Về ái dục. Về thời thế. Về lứa
thanh niên Tứ Phủ cũ và mới. Về một miền xa thẳm nào đó của Cái Đẹp. Hoài lắng
nghe những điều thằng Tịnh nói như một tín đồ ngồi nghe giáo sĩ thuyết giảng.
Minh Việt ngồi nghe thằng Tịnh nói ngỡ như trong cõi lòng sâu xa của mình có một
cục băng đang tan chảy. Và rượu được đưa lên môi hết lần này đến lần khác. Cho
đến khi Minh Việt gục xuống bàn vẫn còn thấy cái dáng thằng Tịnh đang ngồi uy
nghi trước mặt nói say sưa, đau đáu về miền xa thẳm của Cái Đẹp. Còn Hoài thì
khóc, những giọt nước mắt rơi ra từ đôi mắt buồn và ướt, lóng lánh, tan nát...
Câu chuyện viết đến đây thì tạm dừng. Đạo bảo: “Con bé có óc
quan sát rất khá anh Việt ạ. Mới lớp năm mà viết được như thế này thì sau này
nó sẽ vượt cả em đấy”. Cả Minh Việt và Đạo đều hồi hộp chờ được đọc những dòng
tiếp theo của con bé nhưng một lần từ trường trở về nhà con Ly bỗng kêu nhức mỏi
cánh tay phải. Rồi bữa tối hôm đó con bé đang ăn cơm bỗng đánh rơi đũa và không
sao cầm lại được nữa. Minh Việt đưa con gái vào bệnh viện nằm hàng tháng trời,
cuối cùng đành phải chấp nhận kết luận của bác sĩ là con bé bị ảnh hưởng chất độc
hóa học từ bố nên một số bộ phận cơ trên người đang bắt đầu teo đi. Rất buồn về
chuyện này nhưng Minh Việt không muốn để con gái biết bệnh tình của nó, anh vẫn
thường tỏ ra lạc quan để cố xoá đi mặc cảm trong con bé. Nhưng dường như Ly
cũng biết điều đó nên em không buồn chán, thất vọng mà tỏ ra rất có nghị lực.
Ly chuyển sang tập viết tay trái và không lâu sau đó em đã tiếp tục cắp sách đến
trường. Ly học giỏi, sau một thời gian nghỉ học em vẫn theo kịp chúng bạn và lại
tiếp tục viết truyện. Đạo rất quan tâm đến câu chuyện viết dở của Ly. Đạo bảo:
“Để nó viết xong em sẽ giới thiệu lên báo. Em tin đây là một tài năng!”. Chẳng
mấy lâu sau thì Minh Việt và Đạo lại được đọc tiếp những dòng văn của con bé.
Và đây là những phần tiếp theo của câu chuyện do bé Ly viết:
Buổi sáng hôm ấy, khi những giọt sương còn đang ngủ yên trên nhánh cỏ đã thấy hai tên Giôn và Mi Lô xuất hiện. Chúng bỗng nhìn thấy một vài cư dân Đầm Gâu đang lấp ló ở khu nhà hoang tít sâu trong góc bãi. Lập tức chúng lao vun vút tới hy vọng sẽ nhai xương những kẻ đã dám giết bạn chúng. Mấy cư dân tội nghiệp đang thong thả dạo chơi bỗng co rúm người lại khi thấy hai tên sừng sừng lao đến. Song với bản tính dũng cảm, họ liền lùi lại một bước, chống hai chân trước xuống thủ thế, nhe răng ra sẵn sàng chiến đấu. Mi Lô hung hãn lao tới nhưng chiếc mõm có đầy răng của hắn chưa chạm được vào đối phương thì bỗng hẫng một cái, xung quanh chao đảo, đất dưới chân nứt ra, tụt xuống, kéo theo cả tấm thân lực lưỡng của hắn. Một tiếng “ùm” vang lên, nước xộc vào mũi hắn, que gậy chọc vào người hắn, đau nhói. Hắn chìm nghỉm xuống dưới nước một lúc rồi mới chòi lên được, mõm hắn há ra, hớp hớp không khí. Trên đầu hắn là một khoảng không con con, sáng mờ, xa hút, chẳng còn đâu bầu trời xanh trong và những đám mây lững lờ trôi. Hắn gầm lên thảm thiết vì biết mình đã trúng kế độc. Các cư dân Đầm Gâu đã tận dụng cái giếng bỏ không của một ngôi nhà hoang để lừa hắn. Hắn cố lao lên nhưng nước dưới chân hắn rất sâu, không có vật để tạo đà cho hắn nhảy. Chiếc giếng lại rất hẹp, thành giếng trơn tuột, miệng giếng cao, mọi cố gắng của hắn đều vô hiệu. Quẫy đạp một lúc nước bắt đầu ngấm qua lông thấm vào da làm hắn thấy lạnh. Ở trên kia hắn nghe thấy văng vẳng tiếng kêu của Giôn và rất nhiều tiếng sủa nhỏ to khác. Hình như Giôn đang phải chiến đấu ở trên đó. Nếu Giôn quật chết hết lũ mọi rợ ở Đầm Gâu này, nhất định Giôn sẽ nghĩ cách cứu hắn. Đang nghĩ vậy bỗng vật gì đó bay vèo vào mặt hắn. Mi Lô hộc lên vì đau, một hòn gạch đã rơi trúng mõm làm xước một mảnh da của hắn. Xung quanh hắn lúc này gạch đá rơi “tõm”, “tõm”. Hắn kinh hoàng nhận ra kẻ thù của mình đang thả gạch, đá từ trên miệng giếng xuống. Hắn cố đạp hai chân sau vào thành giếng lấy đà nhảy lên nhưng ngay sau đó lại rơi tõm xuống. Phía trên, cứ hai cư dân Đầm Gâu ngậm một tảng đá to thả xuống đầu hắn. Có hòn rơi trúng trán ấn cả đầu hắn xuống nước. Bong bóng sùi ra hai bên mép hắn. Mi Lô sủa nhưng âm không thoát được ra ngoài cứ “ằng ặc” ở trong cổ họng hắn. Rác rưởi và một số que, cọc liên tiếp đâm vào da thịt hắn. Gạch, đá làm từng mảng da đầu hắn tướp ra, có cú đập mạnh làm hắn choáng, ngất đi, bốn chân thõng xuống không còn bơi được nữa. Bụng hắn đã căng nước, toàn thân hắn tím tái vì lạnh, đầu óc hắn quay cuồng, choáng váng vì những cú đập mạnh. Đôi mắt hắn xám xanh kinh khiếp. Đúng lúc ấy khoảng sáng cuối cùng trong đời hắn bỗng tối sầm lại. Một tảng đá to đã rơi trúng đầu hắn, phá vỡ thành sọ, đẩy hắn ngập sâu xuống nước.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Ở trung ương cũng có những tay văn nghệ rất “địa phương” và ngược lại Để giúp các nhà văn và bạn đọc có cái nhìn sâu rộng hơn bức tranh ...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét