“Gánh gánh… gồng gồng…” - Phận người tỏa hương
Một sự kiện đặc biệt vừa xảy ra trong đời sống văn học
Việt Nam năm 2020, là giải thưởng thường niên cả văn và thơ của Hội Nhà văn Việt
Nam đều thuộc về phái đẹp. Sự tôn vinh hoàn toàn xứng đáng.
Trong hai tác phẩm vừa giành được giải thưởng danh giá này là cuốn “Gánh gánh… gồng gồng…” của tác giả Xuân Phượng, do NXB Văn hóa Văn nghệ ấn hành năm 2020. Xưa nay, các hồi ký cá nhân thường gặp “cuốc giật vào lòng”, nghĩa là tô vẽ đèm đẹp, đánh bóng cái tôi, đồng thời thả sức chê bai nhiều thứ, khoe “chiến tích” tình trường, thậm chí bôi nhọ người khác. Không ít cuốn, người ta dập khuôn cùng mô tip na ná như nhau, tràng giang cái sự nhạt và khô cứng, “tra tấn” bạn đọc.
Bởi vậy, “Gánh gánh… gồng gồng…” là một cuốn sách lạ nhất
trong cùng thể loại, được viết bởi tầm văn hóa của một phụ nữ đa tài, uyên bác.
Bà là Nguyễn Thị Xuân Phượng, người con của làng Nham Biều, Hương Trà, xứ Huế,
nhưng tuổi thơ êm đềm lại gắn nhiều với Đà Lạt, Phan Rí… Sinh trưởng trong một
gia đình khá giả, nền nếp, từ nhỏ bà sớm được hấp thụ văn hóa phương Tây, thông
thạo tiếng Pháp. Vậy mà ở tuổi tròn trăng, với tấm lòng yêu nước nhiệt thành,
cô nữ sinh đã dám từ bỏ cuộc sống nhung lụa, tự nguyện theo tổ chức “Học sinh Cứu
quốc Huế”, lên chiến khu tham gia kháng chiến. Lao vào “giông bão” và gần như
ngay lập tức, thiếu nữ “liễu yếu đào tơ” được nếm trải bao nỗi cơ cực, gian
nan, quá sức chịu đựng của con người.
Suốt 9 năm kháng chiến, dấu chân của người con gái Huế in khắp
các nẻo đường Liên khu 4, từ Vinh, cầu Giát (Nghệ An) đến Thanh Hóa, rồi ra chiến
khu Việt Bắc, với những địa danh nổi tiếng: Khe Khao, Bắc Cạn, Chợ Mới, Tuyên
Quang, ATK… Thật không thể tưởng tượng nổi, một người phụ nữ lại trải nhiều nghề
đến vậy. Từ quân y, cứu thương, đến chế tạo thuốc nổ, gắn bó với ngành quân giới
trong điều kiện vô cùng thiếu thốn và kham khổ, cực kỳ nguy hiểm, không hề là
công việc dễ dàng đối với nữ giới. Kháng chiến thành công, bà cùng gia đình về
Hà Nội. Theo học trường Y và tốt nghiệp loại ưu, năm 1961, bác sĩ Xuân Phượng
làm trưởng phòng khám khoa Nhi khu Ba Đình, Hà Nội. Trong cuộc chiến tranh phá
hoại, bà được giới thiệu sang Ủy ban Liên lạc văn hóa với nước ngoài, phụ trách
phòng khám tại đây, chăm sóc sức khỏe cho các vị khách quốc tế đến Việt Nam.
Hồi ký “Gánh gánh… gồng gồng” của Xuân Phượng
Mùa hè năm 1967, bác sĩ Xuân Phượng được gọi lên Phủ Chủ tịch,
nhận nhiệm vụ tháp tùng vợ chồng Đạo diễn lừng danh Joris Ivens, người được Bác
Hồ coi là bạn thân thiết, vào tuyến lửa Vĩnh Linh, làm bộ phim “Vĩ tuyến 17 –
Chiến tranh nhân dân”. Cái vỗ vai và câu nói của Joris Ivens: “Các bạn hiểu
tại sao tôi yêu suốt đời cái nghề làm phim chiến trường không? Giữa cái Chết và
cái Sống, chúng ta có hạnh phúc, có may mắn ghi được sự sống ngay cả trong lòng
đất, ngay cả khi cái chết cận kề”, đã lay động nữ bác sĩ. Được người thầy khuyến
khích mạnh dạn “làm một cuộc cách mạng cho chính đời mình” bà bỏ nghề y, trở
thành phóng viên chiến trường. Với sự nỗ lực không ngừng nghỉ, bà đã có hàng chục
bộ phim giành được giải thưởng quốc tế danh giá. Am tường văn hóa Đông Tây, đam
mê âm nhạc cổ điển, hiểu sâu về điện ảnh, hội họa, văn chương… dẫu ngoại cửu thập,
song bà lịch lãm đến “không có tuổi”. Hơn 20 năm qua, phòng tranh Lotus của bà
được mở tại Thành phố Hồ Chí Minh, giống như một cánh cửa giới thiệu những tinh
hoa hội họa Việt với bạn bè quốc tế. Với những công lao đóng góp cho chiếc cầu
hữu nghị Việt – Pháp trong hơn nửa thế kỷ, tháng 7-2011, Đạo diễn Xuân Phượng
được Chính phủ Pháp tặng thưởng huân chương cao quý nhất – Huân chương Hiệp
sĩ Bắc đẩu bội tinh.
Từng có hồi ký “Áo dài” bằng tiếng Pháp (Nxb PLON, Paris,
2001), được dịch sang tiếng Anh. Nhưng “Gánh gánh… gồng gồng…” của bà không
theo lối chương hồi, cũng chẳng dông dài theo trình tự thời gian. Những lát cắt
trong cuộc đời được tác giả dùng thủ pháp đồng hiện nhuần nhuyễn, với nhiều mảng
màu sáng tối, đậm nhạt khác nhau, tạo nên một cấu trúc tác phẩm không thừa, chẳng
thiếu, vô cùng hấp dẫn. Dẫu không hề có ý “làm văn”, song những trang viết của
bà luôn đậm phong vị cổ điển mà vẫn hiện đại, lối văn trong sáng đến ám ảnh. Từ
cuộc sống cơ cực ở chiến khu, rồi về khu tập thể số 1 Lê Phụng Hiểu (Hà Nội),
tiếng leng keng chuông tàu điện Bờ Hồ; đến khung cảnh xứ Huế và Đà Lạt mù
sương… đều sống động, gần gũi. Xin đọc những dòng này: “Mấy lớp gạch nâu xám
lát trước bậc thềm đây rồi! Tôi bước vội lên, bỗng không sao nhấc nổi bàn chân.
Thoang thoảng vẳng lại hương của hoa thanh trà, hoa bưởi, hoa nhãn, mùi ổi chín
cây, một tiếng chim hót… Tôi run lẩy bẩy. Mình đã về vườn Bà thật rồi sao?”. Thật
gợi. Dưới ngòi bút của tác giả, mọi thứ đều hiển hiện như thể cầm nắm được, rõ
rành, ấm áp tình người và thương mến lạ. Rất nhiều chân dung có hình hài, tính
cách sắc nét, hiện ra sau vài nét phác họa.
Con đường của một nữ trí thức giỏi giang, giàu tình cảm vị
tha, nhưng phải hứng chịu khá nhiều ngang trái, kể cả những cư xử bất công, tàn
nhẫn, là “con đường đau khổ”. Không đầu hàng số phận, ở đâu bà cũng tìm cách vượt
lên, thà chết chứ không thèm đánh đổi nhân phẩm để hưởng an nhàn. Là một người
yêu nước, bà luôn trung trinh với sự lựa chọn của riêng mình, “uy vũ chẳng chuyển
lay, phú quý không quyến rũ”. Chuyện đời được kể lại bằng giọng văn điềm tĩnh,
không oán hận, cũng chẳng hằn học. Những trang sách của bà nâng tầm con người
lên; tình yêu, tình bạn, tình nghĩa vợ chồng, tình mẫu tử… càng khiến bạn đọc
thêm yêu cuộc sống và vững tin vào những điều tốt đẹp, nếu mình thiện lương.
Không chỉ yêu chồng, thương con và quý bạn, tôn trọng mọi người, tấm lòng nhân
hậu của bà luôn cưu mang nhiều mảnh đời khốn khó. Trường hợp cậu bé Thiếu sinh
quân bị sốt nằm lại bên đường (1949) được bà đưa về chăm bẵm, về sau trở thành
một tướng lĩnh. Người khác, ắt họ sẽ công khai danh tính để thiên hạ tường tận,
còn tác giả thì không, bà coi việc mình làm đương nhiên, không thể khác. Bởi thế,
bà có rất nhiều bạn bè thủy chung ở khắp nơi, với nhiều lứa tuổi. Rất nhiều
gương mặt các văn nghệ sĩ tài danh trong nước và cả ở ngoài nước được tác giả
nhắc đến với lòng mến mộ, quý trọng.
“Mình hết lòng yêu thương chăm sóc ai thì bù lại mình sẽ nhận
được rất nhiều. Nên sống tử tế là cách sống khôn ngoan nhất”. Điều chiêm nghiệm
ấy cứ mãi lấp lánh. Một tác phẩm phi hư cấu tuyệt hay! Nó được từ tên sách, đến
bố cục, chuyển tải chủ đề. Không cần đao to búa lớn, cũng chẳng dạy dỗ, triết
lý với ai, mà giản dị tựa… khúc đồng dao, “Gánh gánh… gồng gồng…” đi thẳng vào
lòng bạn đọc bằng quan điểm sống giản dị đó.
2/12/2020
Nguyễn Minh Ngọc
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét