Nhà văn Kim Lân và Sự im lặng của nỗi buồn
Đã quá lâu rồi ông không cầm bút viết văn nữa. Đôi khi ông có viết về một người bạn văn chương nào đó đã khuất. Với ông đó chỉ là những dòng của người còn sống trên dương gian nhớ người đã vắng bóng. Viết như một cuộc trò chuyện với hư vô. Cả những cuộc trò chuyện với hư vô ấy cũng không làm ông cạn hết nỗi buồn. Làm sao mà cạn hết nỗi buồn nhân thế khi người ta còn sống.
Giờ đây, trong ngôi nhà nhỏ ở ngõ Hạ Hồi, một căn phòng với
nhiều đồ cổ, gương mặt ông, tuổi tác ông, giọng nói ông và con người ông thật hợp
với những cổ vật này. Một khoảng thời gian quá dài đã đi qua những cổ vật kia
và thời gian của gần một thế kỷ đi qua ông. Tôi thấy ông như một cổ vật còn sống
và đang cất giọng nói về thời gian đã làm nên ông.
Ông không viết văn lâu rồi, nhưng những gì ông viết của mấy
chục năm về trước vẫn được không ít bạn đọc tìm đọc với những lý do khác nhau,
vẫn được giảng dạy và vẫn được học sinh làm bài thi. Sao ông lại không viết văn
nữa? Sao ông lại im lặng từ mấy chục năm trước và sẽ im lặng hết cuộc đời. Ông
nói với tôi lý do sự im lặng ấy. Và bởi sự im lặng ấy mà giờ đây tôi cũng im lặng
không viết ra. Nhưng cái mốc ông ngừng viết văn là từ khi ông công bố cái chuyện Con
chó xấu xí. Ông thở dài và nói rằng khi người ta đã nhận mình là con chó xấu xí
rồi thì biết làm gì nữa đây.
Ông bắt đầu xuất hiện trên văn đàn khi mới ngoài hai mươi tuổi.
Ông bảo lúc đó ông viết cứ bắt chước người này lại đến người khác. Viết như thế
thì viết cả đời cũng không tả đúng cái mặt của mình. Nếu anh không là chính anh
thì anh chẳng bao giờ là ai cả. Thế rồi, tờ báo Trung Bắc Chủ nhật làm
một số chuyên đề về vợ lẽ. Thế là ông viết Vợ lẽ và ngay lập tức truyện
của ông thành công. Ông bảo vì ông là con của một người vợ lẽ. Cụ thân sinh ra
ông lấy những ba vợ. Ngày ấy nhiều người đàn ông có vợ lẽ lắm. Xã hội lúc đó nó
thế. Bây giờ đàn bà tự do quá và ghê gớm quá. Thời gian đã cho họ quá nhiều mặc
dù chế độ một vợ một chồng là nhẽ đương nhiên trong xã hội văn minh.
Cũng từ ngày đó, ông chỉ viết những gì ông hiểu, những gì ông
khổ đau và thương nhớ. Thế là gương mặt văn chương của Kim Lân hiện ra sống động
và đầy ấn tượng mà ai đã nhìn thấy sẽ chẳng dễ quên. Rồi đến một ngày, ông thấy
ông không thể cứ lấy gương mặt riêng biệt của mình mà đi đâu cũng được, làm gì
cũng được. Bởi trong cuộc đời này, nhiều lúc miệng mình đấy mà cái cười lại của
người khác. Mắt mình đấy mà lệ rơi vào lại từ đẩu từ đâu. Tay mình đấy lại cầm
cái mình không muốn cầm. Chân mình đấy mà lại đi vào cái ngõ mình không định bước.
Đúng là sống mới thực là khó. Trong khi đó nhiều người lại ngỡ chết khó hơn. Thế
là ông chán viết. Rồi ông bỏ bút hẳn. Bỏ lâu thành thói quen.
Có lúc trong đầu muốn viết một cái gì đó lại ngại. Ngại cái cụ
thể và ngại cả những mơ hồ. Tôi hỏi ông cụ thân sinh khi còn sống thường dạy
ông điều gì về cuộc đời. Ông bảo cụ cứ sống như cụ nghĩ và yêu thương ông nhưng
chẳng dạy ông điều gì cả. Tất cả những gì ông học được là do làng ông dạy ông.
Câu nói này sẽ không ít người nghe thấy sẽ chê ông sao lại nói về cha mình
không dạy con. Cha mình sinh ra mình mà chẳng dạy mình điều gì sao (?). Nhưng
ông nói vậy thì quả là uyên thâm. Làng chính là văn hoá. Văn hoá luôn luôn đúng
và sẽ dạy con người phải làm gì. Lầm lỗi thì văn hoá dạy để mà đứng lên. Tuyệt
vọng thì văn hoá dạy để mà hy vọng. Thô tục thì văn hoá dạy cho cái đẹp. Tăm tối
thì văn hoá dạy cho mơ ước.
Chiều mùa đông chóng tối. Tôi thích nhìn ông trong căn phòng
tranh tối tranh sáng như thế. Khi ông đứng dậy lấy phích nước cho thêm vào bình
trà tôi thấy những cổ vật trong nhà ông cũng chuyển động như ông. Tất cả mọi
chuyển động của ông, của những cổ vật là sự chuyển động của thời gian. Tôi hỏi
ông đã viết hồi ký chưa. Ông im lặng một lát rồi nói ông không viết hồi ký bởi
viết hồi ký thì nhiều chuyện quá. Hồi ký là sự thật. Mà sự thật lại thường đau
đớn. Những gì ông đã quyết im lặng mấy chục năm rồi thì nay cứ để cho mãi mãi nằm
trong im lặng. Là một nhà văn, không sáng tác trong mấy chục năm giờ lại không
viết cả hồi ký nữa thì ông sống thế nào? Cái gì sẽ làm cho ông vui, cho ông
khuây khoả tuổi già? Ông bảo ông cứ chơi nhung nhăng để cho vui, cho đỡ buồn.
Nhiều năm trước ông có đóng phim. Mấy năm trước người ta thấy
ông trên tivi bàn về văn hoá trà. Tất cả cũng là chơi thôi mà. Với ông, chơi là
cách tốt nhất để ông chạy trốn. Mà chạy trốn ai? Ai đuổi ông? Ai truy lùng ông?
Chẳng ai cả. Tôi chạy trốn chính tôi. Chạy trốn chính mình là cuộc chạy trốn
khó khăn nhất, lâu dài nhất và cuộc chạy trốn ấy chỉ kết thúc khi người ta bước
vào giữa lâu đài của cái chết.
Tôi nói với ông có hai loại người : loại thứ nhất càng sống
nhiều càng buồn. Loại thứ hai càng sống nhiều càng thanh thản. Cả hai loại người
này đều là những người hiểu được lẽ đời. Loại thứ nhất buồn vì thấy đời sống
này sao nhiều đau khổ và vô nghĩa thế mà mình thì bất lực. Loại thứ hai thấy cần
thanh thản để quên đi những đau khổ và vô nghĩa kia. Ông bảo ông là loại người
thứ nhất. Cái truyện ngắn cuối cùng trong đời ông đã chuẩn bị đầy đủ nhưng rồi
ông không viết. Tôi nghe ông kể truỵện ngắn ấy mà thấy tiếc. Truyện ngắn ấy dài
lắm nhưng tôi nhớ đại khái kể về một người đàn ông câm.
Người đàn ông câm này nuôi một con chó. Tất cả những người sống
quanh anh ta nhưng chẳng ai hiểu anh ta nói gì, nghĩ gì kể cả người mẹ đẻ ra
anh ta. Duy chỉ có con chó là hiểu được anh. Cả hai đều không nói được cái tiếng
mà những người quanh họ vẫn nói. Nhưng họ lại vô cùng hiểu nhau bởi cả hai có
chung một ngôn ngữ khác. Khi người ta mở chiến dịch giết chó. Con chó của người
đàn ông câm kia bị người ta đuổi bắt. Nó chạy tới mép rừng. Chỉ dăm bước chân nữa
là nó thoát chết. Đúng lúc đó người đàn ông câm cất tiếng kêu như một tiếng
tru. Con chó dừng lại. Nó chạy quay về và bị giết chết. Nó thừa biết những người
đang hò hét tiếng người kia sẽ giết nó. Nhưng nó không thể bỏ đi trước tiếng
kêu đau khổ của người bạn, người duy nhất đã thấu hiểu nó.
Tôi hỏi ông sao ông lại không viết cái truyện ấy? Ông bảo ông
đã nói nhiều lý do vì sao không viết nhưng lý do thật ông lại chẳng muốn nói
ra. Đã không nói rồi thì đến chết cũng không nói nữa. Nhưng không nói ấy cũng
là nói rồi.
Tôi nghe câu chuyện người đàn ông câm và con chó mà lòng buồn
vô hạn. Ông bảo con người đáng trọng là con người không thay đổi tình bạn kể cả
khi anh ta rơi vào hoàn cảnh bi đát. Thế mà có những người là bạn ông khi có tí
quyền chức thì trở nên lạnh nhạt và hống hách với cả bạn bè. Từ đó, ông không
bao giờ đến thăm và trò chuyện như xưa với người ấy nữa. Nhưng khi người ấy nghỉ
hưu không mấy ai đến nữa thì ông lại đến. Ông đến và gọi tên người ấy như thủa
hàn vi, như chưa bao giờ nghĩ khác về người ấy. Bởi người ấy cũng chỉ là một
nhân vật bé nhỏ trong một cảnh ngắn của vở kịch bi hài vô tận của cuộc đời này.
Người ấy đã hiểu ra thói đời và nghĩa đời dẫu rằng đã muộn. Người ấy nhìn ông
mà nước mắt giàn dụa. Nhưng người ấy lại nói : Mắt mình hồi này cứ hay chảy nước
mắt vô cớ. Thực ra là người ấy khóc vì xúc động và khóc cả vì đắng cay. Nhưng để
nói thật ra là mình đang khóc và khóc vì sao đâu phải lúc nào và đối với ai
cũng dễ.
Năm nay ông đã tám mươi tư tuổi. Ông bảo bao nhiêu thứ ông
quên và cố tình quên giờ ông muốn tìm lại. Nhiều truyện ngắn ông viết bởi cái
nhất thời, bởi sự ấu trĩ ông đã quyết quên đi từ lâu lắm rồi. Nhưng giờ đây ông
lại muốn tìm lại những cái cũ ấy. Bởi theo ông, dù thế nào đi chăng nữa thì những
cái đó cũng là của ông. Đã là cái mình viết ra dù không hay, dù viết chỉ để mà
viết hoặc viết cho một ai đấy chứ chẳng phải cho mình thì vẫn cứ là của mình.
Cái đúng là của mình và cái sai cũng là của mình. Đã có lúc ông chẳng hề nghĩ
ông sẽ làm tuyển tập, mà có nghĩ đến ông cũng không muốn làm. Giờ thì ông muốn
làm tuyển tập. Làm chẳng phải là để cho hậu thế đọc đâu. Làm để cho chính ông
có dịp đọc lại toàn bộ những gì mình viết. Để từ đó mà suy ngẫm về mình hơn nữa.
Đọc để một Kim Lân tám mươi tư tuổi được đối thoại với một Kim Lân năm mươi tuổi,
một Kim Lân bốn mươi tuổi… Đọc để vò đầu mà than: Kim Lân, người quả có một thời
không phải chính người. Đọc để vỗ đùi kêu lên: Kim Lân, ông thực không hổ danh.
Làm được như vậy trong một cuộc đời hỏi còn gì phải ân hận nữa.
Bây giờ tôi thực sự tin rằng: ông là kẻ biết rong chơi trên
trần thế này. Cái danh đối với người nước Nam ta thật ghê gớm. Cái danh nhà văn
đối với nhiều người còn ghê gớm hơn. Bảo mình là chủ tịch huyện, chủ tịch tỉnh
có khi chẳng oai bằng bảo mình là nhà văn. Ông là nhà văn đích thực nhưng dám
đùa bỡn với cái danh ấy. Ông trọng đời hơn trọng văn. Ông là người sống kỹ hơn
là viết. Bởi như ông nói có trang viết của ông không phải là ông. Nhưng ai cũng
nói ông luôn luôn sống đúng ông. Trong khi nhiều nhà văn viết thì ra vẻ là kỹ
nhưng sống lại ẩu. Sống kỹ thì mới viết kỹ được chứ. Sống kỹ theo tôi là dám sống
đúng mình nhất. Nếu ai đó nói ông không viết vì lười thì hoàn toàn sai. Bởi cái
động tác cầm bút nhiều hay ít đâu phải là chăm hay lười. Cái công việc của nhà
văn khó khăn nhất vẫn là sự quan sát và suy ngẫm không ngừng cuộc sống này. Ông
là người cho đến lúc này vẫn quan sát cuộc sống một cách sắc sảo và suy ngẫm hết
sức sâu xa. Những suy ngẫm ấy đã không ngừng dày vò ông và bắt ông phải trả lời
những câu hỏi về cuộc sống. Càng suy ngẫm nhiều thì dày vò càng lớn. Nhưng phẩm
cách của một nhà nho có quá nhiều trong con người ông. Phẩm cách ấy có lúc làm
ông trở nên yếm thế. Ông là kẻ ở ẩn mấy chục năm nay ở ngay nơi mà người ta
không tin con người có thể ở ẩn được. Bởi nơi ấy quá ồn ào và nhiều cám dỗ. Ông
không về quê như Nguyên Hồng. Ông cũng không lên rừng như Sao Mai. Ông ở ẩn
ngay trong chính sự im lặng của ông, sự im lặng của nỗi buồn muôn thuở.
10/12/2020
Nguyễn Quang Thiều
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét