Những thiên đường mù 2
Chương 12
Tàu vào ga. Người đàn ông răng bạc mở túi đi đường lấy ra mấy
quả đào. Ông ta chìa cho tôi một quả.
- Cảm ơn ông.
Tôi cầm quả đào. Đào Bungari. Trái lớn bằng nắm tay đứa trẻ
lên 10. Vỏ chím hồng, thịt ngọt và đặc biệt nhiều nước. Cầm trái đào trên tay
đã cơm thèm. Hoa quả của Bun nhập sang Liên Xô rất nhiều. Nhất là đào và táo.
Thứ nào cũng ngon. Khắp các quầy bán thực phẩm và hoa quả, nếu có hàng nhập của
Bun, người ta xếp hàng dài dằng dặc.
Ông khách đã ăn gần hết trái đào. Ông ta hất hàm bảo tôi:
- Ăn đi chứ, cô bé, ngon lắm.
Tôi gật đầu:
- Vâng, rất ngon.
Tôi cắn một miếng. Nước ngọt tứa đầy miệng. Thật đúng như câu
nói: Ngon tỉnh cả người. Qua ô cửa kính, thấy đám hành khách đang hối hả lên
tàu. Trên đường kè xi măng bóng nhẵn, một cặp trai gái đang hôn nhau. Nụ hôn ly
biệt. Mắt người con gái ướt đẫm. Biệt ly, nổi buồn thiên cổ, nỗi buồn vĩnh hằng
của nhân loại. Chẳng cuộc biệt ly nào nham nhở như những cuộc biệt ly đã diễn
ra trên sân bay Nội Bài, xứ sở của tôi. Cái ngày tôi lên tàu bay rời xứ, chỉ có
một người khóc, chắc chắn người ấy sẽ khóc, nhưng khóc ở một làng quê xa ngắt,
bên kia sông. Tôi nhớ người đàn bà ấy, lòng nhói đau.
Người con trai đứng trên bờ kè xi măng xốc chiếc túi đi đường
đeo lưng, rồi lau vệt nước mắt trên má người yêu. Cô ta nhào tới, ôm chặt anh
ta thêm lần nữa. Tóc họ cùng có màu vàng rơm. Dưới ánh đèn, chúng giống như tơ
tằm. Một nụ hôn nữa. Rồi họ rời nhau. Người con gái đứng lại, bóng đổ xuống sàn
xi măng.
Tiếng người con trai từ đầu toa nào đó vang lên.
- Viết thư cho anh nhé.
Người con gái giơ tay vẫy. Rồi cô ta quay đi. Chiếc váy kẻ ô
cắt chéo vải đập vào hai bắp chân tròn trĩnh. Đi được vài chục bước, cô ta quay
đầu lại. Gương mặt ướt đẫm. Vừa lúc, con tàu rời ga.
- Masa... Masa...
Tiếng người con trai ném lại, tan hòa trong gió. Tôi nhìn
theo cô gái, cho tới khi nhà ga mất hút. Con tàu nhanh chóng vượt qua khu ngoại
ô để đi tới một vùng đồi thoai thoải. Trong bóng tối, vẫn có thể nhận ra các vệt
thẫm của vườn cây.
- Biệt ly.
Con tàu rú còi. Âm thanh của những cuộc chia ly. Nó khiến tôi
nhớ lại sân bay Nội Bài. Cái sân bay chật chội và nóng nực. Những đoàn người đứng
chen chúc trong bầu không khí oi nóng và ngột ngạt. Nhưng oi nóng và ngột ngạt
hơn nữa là tâm trạng âu lo, khắc khoải của họ trong lúc chờ đợi làm thủ tục hải
quan. Những gương mặt đờ dại, những đám tóc bết mồ hôi, những cặp mắt bồn chồn,
nôn nóng, luôn mở to và căng thẳng nhìn bốn phía như để chờ đợi và chống chọi lại
các biến cố, các rủi ro. Bên ngoài dòng người đông đúc ấy, lại có dòng người
đông đúc khác, cũng chen chúc nhau tới nhễ nhại mồ hôi, bên kia dãy hàng rào bằng
sắt đan, cũng hướng những gương mặt vừa lo âu, vừa khoắc khoải, vừa hồi hộp vào
phòng chờ. Đó là đám người đưa tiễn, thân nhân của những kẻ ra đi. Một khi mọi
thủ tục xong xuôi, và dòng người chuyển động như một hải lưu hỗn tạp và nóng bức
qua các khuôn cửa rà soát vũ khí cuối cùng để ra sân bay, thì trên gương mặt của
những người đưa tiễn, người ta có thể đọc được nỗi vui sướng, tiếng thở dài nhẹ
nhõm, niềm hứng khởi của thành công, nỗi hoan lạc trước một lời hứa hẹn tốt đẹp
và sáng sủa của ngày mai. Những nụ cười viên mãn. Các cung bậc phấn khích tinh
thần. Chưa ở nơi đâu, cuộc chia ly sung sướng một cách thảm thê như thế. Những
cuộc chia ly nham nhở. Phép sai số trong những quay luật vĩnh hằng của con người.
Ngày ấy, tôi đứng giữa đám người chờ làm thủ tục hải quan, vừa lau mồ hôi chảy
ròng ròng hai bên thái dương, vừa nhìn đám người tiễn đưa bên ngoài hàng rào sắt.
Mẹ tôi ốm, nằm viện. Cô Tâm giận, không tới. Biết thế, nhưng tôi vẫn mong chờ
nhìn thấy cô. Mong chờ một cách vô vọng, vì tôi biết rõ ràng, chính lúc ấy cô
đang ngồi khóc trong căn nhà rộng thênhh thang. Căn nhà hiu quạnh ở bên kia
sông.
Chương 13
Ngày tôi thi đại học, cô gửi nhà cho bà Đũa cả tuần. Tuần lễ ấy,
cô ở nhà nấu nướng, chăm sóc tôi. Mẹ tôi vẫn đi chợ ngày ngày.
- Người buôn bán, tham buổi chợ, chẳng mấy khi dám nghỉ.
Cô bảo mẹ tôi như thế. Tôi thi xong, cô về quê. Nhưng tuần một
lần, cô lại gửi thư lên thăm kết quả. Mặc dù, đã ba lần tôi nói với cô, phải
vài tháng sau mới có thông báo chính thức. Sự quan tâm, lòng thiết tha của cô
khiến tôi lo ngay ngáy. May sao, tôi đã trúng tuyển. Vừa được tin, ngay hôm sau
cô đã có mặt. Lại bà Đũa gánh hoa quả, bánh trái, gà vịt theo sau. Cô bảo:
- Cho cái Hằng mở tiệc khao bạn bè.
Nói xong, cô mở túi, rút cho tôi một cuộn giấy bạc:
- Còn đây là tiền cho cháu đi chơi. Chơi cho thoải mái đầu
óc. Trước khi vào trường một tuần lễ cô nhắn người đón cháu về quê. Lúc ấy, cô
khao họ hàng, làng xóm.
Tôi giãy nảy lên:
- Thôi, cháu chịu thôi. Đỗ đại học đã nên công trạng gì mà
làm thế.
Cô nói:
- Cô bảo, phải nghe.
Tôi lắc đầu quầy quậy:
- Không, cháu chịu thôi, cháu chẳng làm thế.
Cô cau mày lại. Gương mặt cô như đen hơn bình thường. Cô
nghiên giọng nói:
- Ngày trước, bố mày mới đỗ đíplôm thôi. Cháu là người đầu
tiên đậu bằng tú tài trong dòng họ nhà ta. Có phải chuyện đùa đâu. Hãy nghe cô.
Biết không thể cãi được, tôi đành im lặng. Hôm ấy cô tôi về
ngay. Bà Đũa, thu xếp đồ lề xong, quảy chiếc gánh không đi theo. Tôi nhìn tấm
lưng mỏng của cô dưới lớp áo nâu, cái dáng khô cứng bất thường của người đàn bà
không qua kỳ sinh nở, ứa nước mắt.
Sau khi cùng bàn bè đi chơi, tôi theo chị em cô bạn đi du lịch.
Họ là con của một gia đình cán bộ cao cấp ngành ngoại giao. So với cán bộ cỡ cục
vụ trưởng khác, tài chính phong phú hơn nhiều. Năm ấy, cô bạn tôi cũng đỗ đại học.
Cô chị đã đi làm, nhưng chưa chồng nên xin phép nghỉ hè đi chơi với em. Ba
chúng tôi đủ tiền tiêu xài. Chuyến đó, chúng tôi đã đi khắp vùng biển miền
Trung: Nha Trang, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Sau rồi vòng lại Sầm sơn, ra Bãi Cháy. Vẫn
chưa hết tiền cô Tân cho, khi đã vào học rồi, nghỉ Tết Nguyên Đán xong, chúng
tôi còn rủ nhau lên Tây Bắc. Và chuyến đi cuối cùng lại là chuyến đi kỳ thú nhất
trong dịp ấy.
Nhưng thôi, hãy trở lại với cô Tâm. Trước ngày tôi vào học
mươi hôm, một người đàn ông ngoại tứ tuần phóng Honda 67 vào tận cửa nhà tôi:
- Đây có phải nhà cô Quế, con tên Hằng không?
Tôi đang ngồi thêu chiếc túi trong nhà. Nghe tiếng hỏi trống
không, tôi cắm đầu thêu, chẳng thèm ngẩng đầu lên.
- Tôi hỏi.
Người đàn ông dóng tiếng to hơn. Ông ta vẫn ngồi trên xe, và
chiếc xe Honda đen trùi trũi, vẫn nổ máy phun ra làn khói hôi xì:
- Tôi hỏi, đây có phải nhà cháu Hằng không?
Bất đắc dĩ, tôi phải ló mặt ra:
- Phải. Ông cần gì?
Người đàn ông nhìn tôi qua cặp kính che nắng màu xanh chai:
- Tôi là người bà Tâm phái lên đây. Xin cô nương chuẩn bị quần
áo, tôi đưa về nhà.
Nói xong, ông ta tắt máy, gạt chân chống xuống để dựng xe vào
một góc sân. Rồi không đợi mời, ông vào nhà, ngồi phì phèo hút thuốc. Dáng điềm
nhiên của ông, khiến tôi không còn cách nào khác là thu xếp vài bộ quần áo vào
chiếc túi du lịch nhỏ rồi theo ông ta ra đi. Tôi nói với người đàn ông trước
khi lên xe.
- Chú cho cháu qua chợ.
Ông ta đáp gọn ghẽ.
- Sẵn sàng.
Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống sàn, ông cho xe nổ máy. Chiếc
xe Honda 67, trong xấu xí như một con ong ruồi, nhưng đi khá êm. Người đàn ông
đưa tôi tới cửa chợ, rồi vào một quán giải khát gọi cà phê:
- Tôi ở đây. Cô nương cứ chuyện trò thoải mái với bà cụ. Bà
Tâm dặn tôi nói với cô rằng cô phải ở dưới quê ít nhất một tuần.
- Vâng. Chừng 15 phút cháu sẽ quay ra.
Tôi vào chợ, đưa chìa khóa cho mẹ. Lúc ấy, mẹ tôi đang vắng
khách. Dãy hàng đồ khô của mẹ cũng vắng khách. Hai bà ngồi xõa tóc cho con gái
nhổ tóc sâu. Bà thứ ba ngủ gật. Tôi nói với mẹ:
- Con đi nhé.
Mẹ tôi gật đầu:
- Ờ, con đi.
Nói xong, mẹ lại cúi xuống, nhặt những hạt lạc lép trong
thúng lạc. Từ ngày tôi được cô Tâm bảo trợ, và mẹ tôi tìm được những người cần
sự bảo trợ của mẹ, mối quan hệ giữa chúng tôi trở nên nhạt nhẽo. Tôi không ngờ
sự thể như vậy. Dù sao, mẹ cũng vẫn là mẹ của tôi. Tôi im lặng chờ đợi một vài
phút rồi hỏi:
- Mẹ không dặn dò gì hay sao?
Mẹ tôi ngẩng đầu lên, mắt thoáng qua ánh ngạc nhiên và có phần
mỉa mai:
- Có cô Tâm rồi mà.
Tôi tức nghẹn họng. Nhưng tôi vẫn nói bình thản:
- Con không muốn xa mẹ. Nhưng dù sao, việc cũng phải đi.
Mẹ tôi đáp:
- Con đi đi. Ở dưới ấy chắc người ta mở tiệc nừng to lắm. Mẹ
thì chẳng đủ tiền để lo.
Tôi nhìn mẹ:
- Mẹ đừng nói thế. Xưa nay, mẹ con ta vẫn sống với nhau tùng
tiệm, có cần tiền bạc gì đâu.
Mẹ không ngẩng lên nhìn tôi, đáp nhạt nhẽo:
- Ờ... mẹ biết thế. Nhưng xưa khác, nay khác.
Những hạt lạc lép lọt qua kẽ tay mẹ rơi xuống chiếc rổ nhựa
con. Mắt mẹ tôi chăm chăm nhìn xuống thúng lạc, vẻ như không còn muốn tiếp tục
chuyện trò nữa. Vẻ mặt mẹ điềm tĩnh, có phần lạnh lùng. Vẻ mặt của người đàn bà
tự chủ. Khác hẳn với mẹ trong những lần cùng tôi đến nhà cậu Chính. Vậy là, tôi
cầu xin tình yêu của mẹ, còn mẹ lại cầu xin sự đoái hoài của những người họ Đỗ.
Trò đuổi bắt quái gở và vô lý. Tôi nuốt cơn nghẹn ngào:
- Con đi đây. Mẹ nhớ giữ gìn sức khỏe.
- Ờ, con đi.
Người đàn ông ngồi trong quán cà phê đang tán tỉnh một thiếu
phụ đẫy đà, mặt tròn tóc xoăn tít. Trông chị ta mũm mĩm như con búp bê. Thấy
tôi vào, ông ta ngẩng lên:
- Ô, nhanh thế à? Tôi chưa uống hết cốc cà phê.
Tôi nói:
- Xong rồi.
Ông ta bảo:
- Cô uống cái gì nhé?
Tôi đáp:
- Cám ơn. Cháu không khát.
Nhanh nhẹn, người đàn ông dốc tuốt ly cà phê vào họng rồi đứng
lên:
- Bao nhiêu đây bà chủ?
Ông ta móc từ túi quần sau ra một chiếc ví da đen cũ bẩn,
nhưng bù lại, nó có rất nhiều ngăn và rất nhiều tiền. Toàn những xếp bạc lớn.
Người thiếu phụ mũm mĩm liếc mắt nhìn:
- Ái chà, ông anh sộp ghê.
Người đàn ông nhoành mồm cười:
- Cũng kha khá, bà chị ạ. Hẹn lần sau lên chơi. Giờ tôi phải
làm nhiệm vụ.
Nói đoạn, ông ta quay lại tôi:
- Mời cô nương lên xe.
Tôi vừa thấy ông ta vui tính vừa khó chịu vì vẻ nhăng nháo
nhà quê đó. Chờ ông ta quay xe, nổ máy, tôi mới ngồi lên. Người đàn ông sửa lại
cặp kính màu xanh chai rồi đưa tay chào thiếu phụ. Chiếc xe lao vụt về phía trước.
Tôi ngồi sau tấm lưng lực lưỡng của ông ta, chịu đựng một thứ mùi hôi nhờm gớm
cùa mồ hôi dầu, mùi hôi nách thượng thặng, trộn lẫn mùi nước hoa nội địa hăng
xè. Cái thứ mùi hỗn hợp ấy không thể nào gọi tên được. Suốt chặng đường dài,
tôi không mở miệng vì phải chống đỡ cái mùi khó ngửi đó một cách quyết liệt.
Người đàn ông, thoạt đầu còn hăng hái trò chuyện. Sau thấy tôi toàn đáp lại bằng
những tiếng ưm, hừm... đành thôi. Chắc ông ta ghét tôi vì ông ta thuộc loại người
vui tính, thích chuyện trò.
Dầu sao tôi cũng đã cố gắng để không xảy ra một cuộc va chạm
nào đáng tiếc. Khi người đàn ông đưa tôi tới trước cổng nhà cô Tâm, ông ta gọi
tướng lên, giọng oang oang:
- Này, bà chủ ơi. Bà chủ ơi, ra mở cửa. Sứ giả về rồi đây.
Không phải bà Đũa mà đích thân cô tôi ra mở cửa. Có tiếng cô
cười hỉ hả phía sau cánh cửa gỗ:
- Nhanh quá nhỉ. Tôi cứ nghĩ tối sẫm hai chú cháu mới về.
Tiếng then lách cách, rồi hai cánh cửa mở toang. Cô tôi ôm lấy
tôi:
- Ối dào ơi.
Cô cất tiếng kêu vô nghĩa. Tôi bất giác bật cười:
- Cô khỏe không cô?
- Khỏe lắm. Mong con suốt ngày.
Đoạn, quay sang người đàn ông đeo kính xanh, cô bảo:
- Cạu vào chơi.
Ông ta lắc đầu:
- Thôi, xin kiếu bà chị. Em phải về nhà trình diện không con
hổ cái lồng lên. Thế là bà chị hài lòng nhé.
Cô tôi gật đầu:
- Vâng, cám ơn cậu.
Người đàn ông nhe răng cười, chìa tay cho tôi:
- Chào cô nương.
Bắt tay tôi xong, ông ta co chân đạp khởi động máy một cách
hùng dũng rồi phóng xe đi. Tôi ngạc nhiên nhìn theo, hỏi cô:
- Sao cô không mời chú ấy vào uống nước?
Cô tôi đáp:
- Thôi, vào nhà đi con.
Đóng cổng rồi cô mới nói tiếp:
- Cậu ta có vợ lẽ ở cách đây non 20 cây số. Cô vợ cả ghen lồng
ghen lộn, có bữa dội cả thùng dầu hỏa vào người dọa tự thiêu. Để cho nó về.
Cô xách túi cho tôi. Rồi hai cô cháu vào nhà. Đồng hồ treo tường
thong thả điểm hai tiếng. Trên phản, có mâm cơm đậy lồng bàn. Tôi hỏi:
- Cô vẫn đợi cơm con hay sao?
Cô tôi gật đầu:
- Ờ, không thấy đói. Sáng dậy cô ăn khoai sọ luộc chấm vừng.
Rồi uống hai ấm chè ướp ngâu, bụng dạ lưng lửng chẳng ra đói chẳng ra no. Giờ
con về thì cô thấy đói. Đi rửa mặt mũi rồi hai cô cháu ăn cơm.
Cô lại theo tôi ra tận giếng, cầm chiếc khăn mặt bông mới. Thứ
khăn nhập ngoại. Trên nền bông trắng, in một chùm hoa lyla tím. Tôi thả chiếc
khăn vào thau đồng, trong lớp nước tinh khiết của giếng khơi, lòng êm dịu. Nước
mát, rửa sạch bụi bám. Thật hạnh phúc khi biết ở cuối chặng đường dài, có người
chờ đợi ta, với tấm khăn trắng, và chậu nước tinh khiết. Trời oi, thỉnh thoảng,
tiếng chim vườn lại thả vào không trung. Bóng râm đã bò tới hàng gạch thứ ba ở
dưới hiên.
Cô Tân bảo:
- Nào, ta ăn cơm.
Cô thong thả mở lồng bàn. Tôi reo lên, trên mâm có món canh
tôi thích nhất. Hoa thiên lý nấu, không phải với giò sống mà là cua đồng lẫn trứng
cáy nghiền. Những tầng gạch vàng rộm nổi trên mặt nước, với những đám hoa lý bị
luộc hín, ngả sang trong suốt. Cô còn rán món chả xương sông với vài bìa đậu sống
chần nước sôi chấm tương. Tôi ăn ngon lành. Cô sung sướng, chốc chốc lại chống
đũa nhìn tôi. Tôi ăn gần xong bữa mà cô vẫn chưa qua bát thứ 2. Cô ăn rất ít.
Dường như cô thưởng thức tôi ăn hơn là thưởng thức các món ăn. Xong bữa, chúng
tôi tráng miệng bằng hai bát chè sen, cô tôi nấu lấy, với sen trần hầm nhừ và bột
sắm dây. Không có vani nhưng nhiều sen nên nước rất thơm. Cô bỏ mâm xuống bếp,
lau phản cho tôi nằm. Tôi hỏi cô:
- Bà Đũa đâu ạ?
Cô bảo:
- Bà ấy đi mời người làm tối nay.
Nói đoạn, cô đưa cho tôi chiếc gối nhỏ bọc vải trắng thêu,
còn cô gối gối mây:
- Nào, cô cháu ta tềnh tang.
Tôi nằm xuống tấm phản gụ bóng nhẵn, mát như thạch, ngủ liền.
Lúc thức giấc, chiều chạng vạng. Có tiếng kêu eng éc chói tai của một con lợn bị
chọc tiết. Hai cánh cửa chính đóng kín, khiến căn nhà tối om. Ngoài sân, có ánh
đèn. Tôi ngồi trên phản, nghe tiếng lợn kêu hộc lên, rồi những tiếng kêu rời rạc
tắt dần, người ta đã chọc tiết xong con vật xấu số.
- Thôi, tao đã bảo thôi, hứng sang chậu sành.
Tiếng một người đàn ông, nghe thô lỗ. Ngừng một lát, lại vẫn
tiếng ông ta:
- Đã nhớ chưa? Lần sau cứ thế mà làm. Tham một tí là tiết
canh chẳng ra gì.
Một thiếu niên đáp lời:
- Con nhớ rồi.
Hóa ra một ông đồ tể luyện nghề cho con trai.
- Múc nước sôi ra sân mau lên.
- Có ngay đâu. Liệu bao nhiêu thì pha xong?
- Hai mươi phút là cùng. Cánh bên ấy cứ lau cối rửa chày di.
Tay tôi pha thịt chỉ một nhoáng.
- Được rồi. Để tôi bảo đám đàn bà băm hành răm đã. Xong việc,
ta làm cỗ lòng rõ ngon.
- Rõ ngon. Lại như hôm giỗ cụ Toái ấy chứ? Nguyên cả mùi
phân.
- Ông này thù dai thật. Hôm ấy tôi say, tôi để cho anh em thằng
Cựu làm giúp. Mà nhà chúng nó ăn mắm mút ròi quen, ai lạ gì?
Tiếng nói qua lại vang dãy sân. Tôi khẽ hé cánh cửa, nhìn ra.
Chính giữa sân, trên chiếc đòn sứ men xanh, cây đèn măng sông cháy rừng rực.
Ánh sáng chói chang của nó rọi tới tân hàng cau, vướt qua bức tường hoa, soi từng
vòm lá cam um tùm. Trên sân, phía bên trái, gần cửa bếp, một người đàn ông đang
đưa dao cạo lông lợn xoèn xoẹt. Một thiếu niên trạc 17, 18 để ria mép con kiến,
rất đẹp trai đang cầm gáo dội nước sôi. Nước dội tới đâu, lưỡi dao của người
đàn ông đưa tới đó, và lượt lông lợn đen tuột đi, phơi làn da trắng. Gần nơi bố
con người đồ tể làm lông lợn, đã kê sẵn một tấm ván gỗ nhẵn nhụi, chờ pha thịt.
Hai người đàn bà đang ngồi băm một mớ hành và rau thơm, chắc để làm món dồi.
Sau lưng họ, bà Đũa ngồi xát mẻ lạc rang. Bên phải sân, hai người đàn ông khác
đang lau chày cối. Thứ chày cối vĩ đại, lần đầu tôi nhìn thấy. Chày cao quá đầu
tôi và chiếc cối đá cũng ước chừng non tám tấc. Rõ ràng, họ đã phải mượn các đồ
dùng này ờ nhà những gia đình chuyên làm giò chả hoặc những đại gia đình thường
xuyên phải lo những bữa cúng giỗ hàng trăm khách. Quang cảnh thật tấp nập,
nhưng rất trật tự. Và dường như đám người đang hoạt động náo nhiệt kia chịu sự
chi phối chung của một người chỉ huy tối cao, đầy uy lực. Mãi rồi tôi mới nhìn
thấy người ấy. Bà cô tôi ngồi ngay sát cửa, trên một bậc tam cấp, khuất lấp
trong bóng tối chậu cây đinh lăng. Cô ngồi vót tăm. Đầu cúi xuống, tay đưa con
dao bổ cau đều đặn, cô không ngẩng đầu lên, không để mắt tới bất cứ công việc
gì. Nhưng rõ ràng, cái guồng máy đang cử động kia chịu sự điều hành nhẹ nhàng,
và đầy uy thế của cô.
- Uỵch...
Ông đồ tể ném con lợn đã mổ xuống tấm phản gỗ. Xong, đứng
ngay ngắn phía cuối tấm ván, ông gọi:
- Dao, mày.
Chàng thiếu niên đẹp trai ngoan ngoãn mang tới các loại dao cần
thiết cho ông bố. Người đàn ông lấy mu bàn tay đẩy hai ống tay áo lên, cuộc pha
thịt bắt đầu. Trước hết, ông ta cắm cây xiên vào chính giữa cái bụng mổ banh của
con vật. Rồi, giơ con dao pha lưỡi vuông lên: “Phập.” Nhát dao thật ngọt, chính
xác, chẻ giữa sống lưng con lợn. Nhát thứ 2, thứ 3... Không nhát nào chệch,
trong nháy mắt con lợn bị phanh làm hai mảnh, đều đặn hơn tất cả mọi cán cân
công lý. Rồi ông ta ngẩng lên:
- Nong. Rải tao mảnh nilông.
Tức khắc, hai người đàn ông có nhiệm vụ giã giò chả lăn tới
chiếc nong, ngả cạnh tấm phản pha thịt. Chàng thiếu niên đẹp trai có hàng ria
con kiến rút tấm nilông trong chiếc bị cói đem theo, rũ đánh “roạt” rồi rải
lên. Ông đồ thể ném một nửa con lợn vào nong, xoay ngang nửa còn lại, bắt đầu
dùng tới con dao khác. Một trong hai người đàn ông đứng bên cạnh trầm trồ:
- Nhanh thật. Thịt còn bốc khói.
Người đàn ông đáp gọn lỏn:
- Thịt nóng hôi hổi mới giã được giò ngon. Thịt nguội mà giã
giò, chỉ có đem cho cửa hàng mậu dịch.
Nói xong câu đó, ông ta đã lọc được một tảng thịt to tướng.
- Vào cối đi.
Lại buông ta một mệnh lệnh, dõng dạc không kém mệnh lệnh của
các nguyên soái. Hai người đàn ông đón tảng thịt cũng nhanh nhẹn như những thủ
môn siêu việt của sân bóng đá thế giới, bắt bóng, chạy sang sân bên kia.
- Nhớ nước mắm tiêu chưa?
Ông đồ tể vừa tiếp tục pha thịt, vừa ném sang lời nhắc nhở rất
nghiêmngặt, một trong hai người giã giò đáp:
- Đủ hết rồi.
Sau đó là tiếng chày thì thụp.
Trước cửa bếp, đám đàn bà đã băm xong hành và rau thơm, bắt đầu
trộn tiết để nhồi. Họ đụng chậu, đụng nồi, vui vẻ lắm. Và những câu chuyện rì rầm
của họ, về đồng áng, về ông chủ tịch xã với bà trưởng cửa hàng, về cô con dâu nọ
đánh nhau với mẹ chồng bị đuổi khỏi nhà, cắp nón với hai bộ quần áo ra đi... giống
như tiếng nước chảy qua miệng cống.
Trời tối hẳn. Xung quanh, mọi nhà đã ăn xong bữa cơm chiều,
im hơi lặng tiếng, Chỉ thỉnh thoảng có con chó ăng ẳng sủa người đi đường. Tối
hôm đó, lần đầu tiên tôi cảm nhận được bầu không khí u tịch nơi thôn dã. Nó thật
vô định, nhưng bền vững khủng khiếp. Như làn nước thâm u của quá vãng, nó trôi
chảy, lãnh đạm ù lì, trơn tuột qua những kẽ tay nắm bắt của con người. Giống
như nước, nó mềm mại, uốn lượn, nhưng sẽ làm chết ngạt một cách dễ dàng những kẻ
không biết bơi. Và ánh mặt trời chói chang nhất, cũng chỉ hâm nóng được làn nước
mỏng bên trên, và cơn dông tố mãnh liệt nhất cũng chỉ cày xới lớp sóng bên
trên. Cô tôi vẫn ngồi vót tăm trong bóng cây đinh lăng, không nhúc nhích rời chỗ.
Mái đầu nhỏ nhắn, đôi vai nhọn nhô lên. Tôi nhìn cô, chợt hiểu: người đàn bà
đó, người ruột thịt của tôi cũng như bầu không khí u tịch kia đã hòa nhập thành
một toàn thể. Cái toàn thể ấy ngự trị trong tôi, nơi cỗi rễ, nơi máu huyết, vừa
gần gũi nhưng vừa cách xa, vừa đem lại nỗi êm dịu vừa trói buộc tôi trong nghiệt
ngã và đau đớn. Tuy nhiên, đó hoàn toàn là những tiên cảm rất mơ hồ.
Dường như linh cảm được, cô vội quay lại:
- Hằng dậy rồi phải không?
Vẫn đứng sau cánh cửa, tôi đáp:
- Vâng ạ.
Cô bảo:
- Ra đây chơi, chờ lòng và cháo chín.
Tôi đáp:
- Con không đói.
- Ờ, chắc con cũng chẳng thích gì món cháo lòng. Thế thì lại
ngủ nữa đi. Mai cô gọi dậy sớm.
Sớm hôm sau 4 giờ rưỡi, tôi tỉnh giấc. Như thế cũng đã ngủ bù
cho cả tuần lễ trước mải xem phim và đánh tú lơ khơ với lũ bạn cùng phố. Chiếc
gối may của cô tôi vẫn đặt sát tường, không suy suyển. Suốt đêm, cô không ngủ.
Tôi bước ra sân. Trời vừa sáng. Cây đèn măngsông vẫn còn đặt trên chiếc đôn sứ
men xanh. Nhưng đám người làm đêm qua không còn ai. Chiếc chày gỗ đã rửa sạch sẽ
chống bên tường hoa. Chiếc cối đá lăn ngiêng cạnh đó. Tấm phản gỗ vừa cọ rửa,
còn ướt nước kê sát tường bếp. Tấm nong cũng đã lăn đi. Sát giếng, ba chiếc rổ
xề lớn đựng các loại thịt đã pha. Hai thúng cỡ đại đựng giò vừa vớt. Một làn
hơi mỏng bay lên: chắc chắn giò hãy còn nóng. Bên kia bức tường hoa, gần gốc
cau đầu tiên, còn bếp tro kê bằng viên đá lớn. Than chưa tàn hết, chốc lát lóe
lửa. Cô tôi đang cọ rửa vết tiết đọng trên sân. Thấy tôi, cô ngẩng lên:
- Sao con dậy sớm thế?
Cô hoàn toàn tỉnh táo, nhanh nhẹn, không có vẻ gì biểu hiện
là đã thức đêm qua. Tôi hỏi:
- Sao cô không ngủ đi một lát?
Cô cười, răng không còn trắng bóng nhưng vẫn đều tăm tắp:
- Ăn thua gì! Ngày mùa, cô có thể thức liền năm bảy đêm. Con
rửa mặt rồi vào nhà ăn sáng.
Thấy tôi còn chần chừ đi vòng quanh sân, cô bảo:
- Mau lên con, lát nữa thợ nấu cỗ đến đây, chẳng còn rảnh
rang đâu.
Nghe lời cô, tôi đi đánh răng. Lúc vào bếp lấy muối, tôi thấy
bà Đũa ngủ lăn trên chiếc chõng tre kê sát tường, không còn đủ kiên nhẫn để đi
đến chiếc giường riêng của bà, vẫn kê ở nhà phụ. Thấy tôi nhìn bà ta, cô Tâm cười:
- Thế đấy, người ta đến chết cũng không đổi thay được tính nết.
Hễ khát, là nước ruộng cũng vục nón xuống múc uống. Hễ đói, cơm thiu cũng và lấy
và để, hết cả bát mới ngửng mặt lên. Đụng cơn buồn ngủ là gốc cây, vệ đường
cũng lăn đùng ra ngủ. Hồi cô còn nhỏ, bà ấy đã có cả một đứa con trai. Ông chồng
người Thổ Cao Bằng, lưu lạc về xuôi. Ông ta làm thợ mộc, đóng tủ thuê cho vợ chồng
cụ Nhiễu. Thấy cô con gái xinh xắn, béo tốt đem lòng yêu. Vợ chồng cụ Nhiễu gả
tắp. Còn đứng lên lo cưới. Ông chồng ở rể luôn. Bà ấy tốt nái, ngay năm đầu đã
đẻ được đứa con trai. Núc ních như hòn bột. Ông chồng Thổ yêu lắm đi làm thì chớ,
về tới nhà lại bế ẵm nựng nịu con. Thế mà rồi vài năm sau, ông ta cũng không chịu
được. Trần đời mới có một người đàn bà đoảng như thế. Đụng tới bát mắm, bát mắm
đổ, Đụng vào vại dưa, vại dưa khú. Người ta trồng lau ra mía. Bà ta trồng củ
tía ra củ nâu. Năm đứa con 7 tuổi, ông chồng dắt đi mất tích. Bố mẹ già chết,
không dựa được vào ai, bà ta bán sạch nhà đi mà ăn. Đang từ chỗ có cơ nghiệp
thành trắng tay đi ở đợ.
- Bà ấy họ hàng thế nào với nhà ta ạ?
- Ông bà Nhiễu gọi bà nội con là chị họ. Chị em con dì, con
già cách ba đời. Hồi cải cách, cũng được bầu vào nông hội đấy. Sau làng nước thấy
không được việc gì nên lại cho ra. Mấy năm làm hợp tác, không đủ bảo đảm ngày
công, sông lơ lắt, manh quần tấm áo cũng đi xin. Có mảnh vườn đất phần trăm trồng
toàn rau môn thục. Cuối năm kìa, thấy bà ta túng thiếu, dẹo dọ quá, cô nghĩ gần
nghĩ xa, dù giọt máu pha trăm bát nước cũng còn hơn nước ao nước hồ, cô gọi về
đây.
Bà Đũa vẫn ngủ say như chết, thỉnh thoảng lại ngáy khò khè.
Tiếng ngáy của bà hệt như tiếng ngáy của đàn ông. Cô tôi bảo:
- Thôi, ra đánh răng, kệ cho bà ấy ngủ. Hễ ngủ không đẫy giấc
đang ngồi đun bếp bà ấy cũng ngã dụi vào đống than.
Ngoài sân, trời sáng trắng. Hương cau thoang thoảng, mát lạnh.
Như mùi thơm có hơi ẩm của sương đêm. Chích choè hót lảnh lót ngoài bụi tre đầu
ngõ. Cô tôi đã chuẩn bị cho tôi ăn sáng: Xôi trắng với chả ống. Chả ống gần giống
như thứ chả nạc, nhưng người ta pha nhiều tiêu, quế và quấn quanh các ống vầu lớn
mà nướng trên than. Gắp miếng chả lên rất nhẹ, thơm. Miếng chả uống cong rồi lại
bật ra, dai như cao su vì thịt rất tươi, quết kỹ trong cói, lại pha thêm chút
ít hàn the. Ở Hà Nội, cả những thanh chả quế nổi tiếng cũng không tìm được thứ
chả ngon thế. Như mọi bận, cô tôi ăn rấy ít, rồi chống đũa ngắm tôi ăn.
Chúng tôi vừa ăn cơm xong, chưa kịp uống nước đã nghe tiếng gọi
ơi ới ngoài cổng:
- Bà Tâm ơi... Ới bà Tâm.
Cô bảo:
- Họ đến đấy. Cháu dọn bát đũa lại cho cô.
Rồi cô ra mở cổng. Ba người đàm bà cũng trạc ngoại tứ tuần bước
vào. Họ ăn mặc gần như cô tôi: Quần lụa đen, áo cánh. Tóc búi hoặc kẹp thả sau
lưng. Lớp phụ nữ nông thôn sau này không vấn khăn nữa. Các bà đon đả hỏi:
- Chúng tôi có đến sớm quá không bà?
Cô Tâm cười:
- Không đâu. Vừa rạng đông. Mời các chị lên nhà.
Cả ba người đàn bà cùng bước qua bậc tam cấp, vào gian bên
trái. Tôi đã kịp dọn xong bát đũa. Các bà xếp thúng mủng vào chân tường. Mỗi bà
đem theo một thúng nhỏ, kiểu thúng đựng đồ lễ. Rồi họ ngồi lên sập. Cô tôi tự
tay bưng lên một mâm đầy xôi, chả. Một chồng bát sứ trắng với đũa mun. Một đĩa
chuối tiêu chín:
- Xin mời các chị ăn sáng rồi giúp cho.
Các bà xoa tay:
- Úi dào, bà chủ cho ăn sáng sang quá. Nào, các chị. Thiên hạ
thì tiền chủ hậu khách. Còn bà Tâm thì tiền khách hậu chủ, các chị lên đũa lên
bát cho vui.
Họ mời mọc nhau xong, quay lại hỏi cô tôi:
- Cỗ trưa hay cỗ chiều đây bà chủ?
Cô tôi đáp:
- Cả trưa, cả chiều, phải ăn hai đợt mới hết khách.
- Mấy đĩa, mấy bát?
- Năm đĩa, năm bát.
- Làm gì mà gớm thế?
- Các chị dấn lên cho. Lần đâu tiên dòng họ Trần nhà tôi có
con cháu Hằng đỗ tú tài.
- Bà cô như bà, nước Nam này có một thôi đấy. Nào kể đi.
- Vâng, xin phép các chị. Mỗi mâm xin cho 5 đĩa: một giò lụa,
một giò pha, một chả ống, một chạo nem, một thịt luộc. Còn năm bát là: một bát
măng, một bát càri. Thịt, giò, xương đã đủ. Riêng bát hầm và bát càri, tôi đã
nhốt sẵn lồng gà. Thức ăn tráng niệng bữa trưa thì xin cho nồi chè đỗ xanh. Còn
buổi chiều, các chị lo cho vài đõ xôi gấc.
Một bà bảo:
- To gấp ba lần cỗ cưới nhà người ta đấy. Thảo nào, mới bảnh
mắt đã nghe con vợ thằng cha Đường hỏi chồng: Tôi nay anh đi ăn cỗ nhà bà Tâm
phải không?
Nghe tới đó, người đàn bà thấp bé, có vết bớt trên má quay
sang, giật giọng hỏi cô Tâm:
- Chị mời lão Đường đấy à?
Cô tôi đáp:
-Vâng, cả đám chức sắc trong làng, tôi mời hết. Chị sợ tốn
kém hay sao?
Người đàn bà có vết bớt trên má đáp:
- Không. Nhưng lão Đường đang định cướp mảnh vườn xóm Trại của
chị cả tôi. Bà ấy thân cô thế cô, chồng chết bệnh, con liệt sĩ chống Mỹ, giờ
còn vườn hồng nuôi thân, lão định cuỗm nốt.
Bà bên cạnh nói:
- Thằng cha ấy vừa gả chồng cho đứa con gái lớn. Nó muốn cướp
mảnh vườn xóm Trại để làm nhà cho con ở riêng.
Người đàn bà có vết bớt trên má nói tiếp:
- Chị tôi đang đâm đơn kiện trên huyện. Chẳng hiểu có ăn thua
gì hay lại kiện củ khoai. Nhưng tôi không thể bưng mâm rót nước cho cái thằng
cướp ngày ấy.
Nói xong bà ta cúi đầu xuống. Cô Tâm tôi thong thả đáp:
- Tôi biết rõ mọi chuyện. Chị cứ yên tâm. Không phải áy náy
gì.
Nói đoạn, cô tôi bước ra ngoài hiên, cất tiếng gọi:
- Bà Đũa ơ... đã dậy được chưa?
Người đàn bà có vết bớt trên má ngẩng lên, gương mặt đã trở lại
bình thản. Họ tiếp tục ăn sáng. Tôi nhìn theo cô Tâm, không hiểu trong đôi vai
lép kẹp kia ẩn chứa sức mạnh nào mà khiến cho những người khác tin cậy và tuân
thủ một cách lạ lùng như thế?
Chương 14
Từ lúc ấy, tôi ngong ngóng chờ buổi tối. Chờ sự xuất hiện của
cái nhân vật có tên là: thằng cha Đường phó chủ tịch. Buổi trưa, họ mạc tới kìn
kìn. Hết mâm này tới mâm khác. Tôi đóng vai trò của một con rối, mặc dù là con
rối danh giá. Bất cứ ông chú, bà bác, rồi các thím, các cô, các dì, các già,
các chị, các anh... xa gần nào được cô Tâm giới thiệu tôi đều phải tươi tỉnh
chào. Trên môi, luôn thường trực một nụ cười giao đãi. Thế mới biết, nghề chiêu
đãi viên cực nhọc. Cười cho đủ số lượng cần thiết trong một giờ cũng khổ không
kém phải rặn ra những tiếng khóc hờ cho một đám ma có nhiệm vụ khóc. Tôi không
ăn được miếng gì, mệt phờ. Ba giờ chiều, tôi húp nửa bát chè đỗ xanh rồi trốn
sang nhà hàng xóm ngủ nhờ. Sẩm tối, cô Tâm cho bà Đũa sang gọi.
Tôi về nhà. Cây đèn măngsông đã được thắp sáng. Lần này, nó
không đặt trên chiếc đôn sứ men xanh mà treo trên xà dọc. Ánh sáng trắng lóa khắp
mấy gian nhà, khắp sân, vướt qua tường hoa tới dãy cau. Cả trong nhà lẫn ngoài
sân đều la liệt các bàn cỗ. May thay họ đã ăn gần xong. Tôi theo cô Tâm ra mắt
khi các mâm chè đã được bưng lên, thay thế cho cỗ mặn. Và các đĩa xôi gấc đỏ
rói đang được chiếu cố rất mặn nồng:
- Xôi gấc thế này là hết ý đấy.
- Vâng, chẳng đám nhà ai nấu được thứ xôi gấc như hôm nay.
- Khó gì đâu, cứ nhiều đỗ xanh, nhiều đường, nhiều mỡ là khắc
ngon.
- Đừng nói láo. Có một tạ đỗ với đường vào tay nhà bà cũng
thành cháo khê. Có nhớ hồi đi công trường bà cho chúng tôi ăn xôi bánh đúc hay
không? Dạo ấy bà còn đang xuân mà tôi cũng là trai tơ hơ hớ.
- Rõ đồ khỉ gió nhà ông.
- Ông ấy nói đúng đấy, xôi ngon tốn công lắm. Gạo nếp vo xong
để cho ráo nước. Không khô phải lấy khăn mặt bông mà xoa. Gạo trăm hạt rời cả
trăm mới trộn gấc. Mà gấc cũng phải chọn thứ gấc nếp, gai thưa, ruột dầy, màu
thắm như son. Nạo ruột xong, bóp lẫn ruợu ngon mùi thơm mới dậy. Hết phần gạo,
lo tới phần đỗ. Đỗ xanh đãi sạch vỏ, vẩy kiệt nước mới trộn muối. Rồi chõ đồ chỉ
dùng được loại rộng miệng, kín vung. Nồi nước đáy không được đầy, hơi phì lên,
ướt gạo là xôi nhạt. Ối dào trăm thứ công mới ra được miếng ăn ngon.
Cô tôi dẫn tôi len lách qua các dãy người. Người nào người nấy
mặt đỏ gay, cười nói tưng từng vui vẻ. Từ sân vào nhà, tôi phải trả lời không
biết bao nhiêu lần những câu hỏi giống nhau. Đại loại như:
- Cháu mười mất tuổi rồi? Mười tám cơ à?
- Học đại học gì? À... đại học tổng hợp văn? Thế học ra rồi
làm nghề gì? Có được ngang chức trưởng phòng huyện hay không?
Tới trước đám người ngồi trên chiếc sập gụ, cô tôi nói:
- Cháu Hằng nhà tôi đây.
Cả đám người ồ ề nói gì tôi không nghe rõ. Tôi cúi chào lia lịa,
miệng mấp máy cho phải phép. Rồi cô tôi rẽ rọt giới thiệu:
- Đây là ông Đường, phó chủ tịch xã. Cháu chào ông đi.
Tôi cúi đầu:
- Chào ông ạ.
Hình như ông chỉ hơn cô tôi có vài ba tuổi. Ông ta gật gù:
- Ờ ờ...
Cái miệng hơi méo nhếch sang một bên. Tôi chỉ chờ có vậy, liền
ngầng mặt lên, bắt chuyện:
- Ông làm ở xã lâu chưa ạ?
- Cũng khá... ờ ờ...
Tới đó, tôi không tìm được câu nào để hỏi thêm. Tuy nhiên, chỉ
trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, tôi cũng đã kịp quan sát. Đó là một người
đàn ông thấp, to ngang. Mặt không ra tròn cũng không ra vuông, đỏ như mắc chứng
xung huyết. Cặp mắt lẩn dưới hai mí dày mỡ. Mũi ông ta ngắn, có vết sẹo chém
ngang cánh mũi phải. Một cái miệng dẩu ra như thổi lửa, môi đỏ một cách bất thường,
trông không đẹp mà rờn rợn. Ông ta nhìn cô Tâm, tươi cười:
- Bây giờ mới thấy bà chủ. Bà chủ ngồi xuống ăn với anh em
chúng tôi một hòn xôi, uống với anh em chúng tôi một hớp ruợu chứ. Thời đại
chúng ta là thời đại duy vật mà.
Nói xong, ông ta tự thưởng công bằng cách rinh rích cười. Cô
tôi đáp:
- Cảm ơn ông. Tôi ăn mỗi mâm mỗi miếng cũng no. Mời các ông tự
nhiên cho.
Ông phó chủ tịch ngả người, nắm cánh tay cô Tâm:
- Không ăn bà chủ cũng cứ ngồi đây. Lát nữa tôi có việc phải
nhờ cậy bà chủ đấy nhé.
Cô Tâm đáp nhẹ nhàng:
- Vâng. Ông phó chủ tịch sai gì mà chúng tôi chẳng phải làm?
Người đàn ông dãy lên đây đẩy:
- Ấy chết, bà nói thế có kẻ nghe thấy là khổ tôi. Họ không biết
chuyện đùa mà tưởng là chuyện thật.
Cô Tâm vẫn cười:
- Gớm, sao ông phó chủ tịch lo xa như vậy?
Ông ta lắc đầu:
- Không lo xa sao được hả bà? Thời này, người ta hại nhau như
bỡn.
Cô Tâm vẫn cười cười:
- Thế à? Tôi chẳng mấy khi tới nới hội họp, tôi không biết.
Ai dám hại ông phó chủ tịch thế?
Ông ta cũng cười, gượng gạo:
- Có, có chứ. Nhưng bà biết mà làm gì, cho nó nặng đầu óc ra.
Rồi nheo mắt, ông ta nhìn cô Tâm có vẻ thân mến:
- Cứ như bà bây giờ là sướng nhất làng. Cửa cao nhà rộng,
thóc đầy bịch, tiền đầy túi. Tháng ngày thanh thản, lời nặng tiếng nhẹ chẳng đến
tai.
Cô Tâm vẫn cười:
- Ra tôi sướng thế ư? Thế mà tôi chẳng biết. Kìa, các ông uống
rượu nữa đi chứ! Hãy còn quá nửa chai.
Ba bốn người cùng giơ tay:
- Thôi thôi, cơm no ruợu say rồi bà chủ ạ.
Cô Tâm gọi:
- Dưới nhà có ai rảnh giúp tôi cái mâm.
Có tiếng:
- Dạ.
Rồi một người đàn bà to béo nhưng nhanh nhẹn lên, dọn mâm bát
đi. Chắc bà ta mới tới buồi chiều, vì tôi không biết mặt. Cô tôi thong thả mang
phích nước, ấm chén lại:
- Chè tôi ướp ngâu lấy, các ông uống thử xem.
Phó chủ tịch cười bả lả:
- Bà làm cái gì mà mà chả nhất làng này!
Cô Tâm lại cười:
- Chết nỗi, ông phó chủ tịch cho tôi đi tàu bay giấy.
Rồi cô chăm chú rót nước. Lúc ấy, tôi mới để mắt tới cái góc
chéo, đối diện với gian nhà tôi đang ngồi. Góc ấy, khuất lấp sau cánh cửa, có một
người ngồi bó gối. Ấy là người đàn bà có vết bớp trên má. Bà ta, xong nhiệm vụ
đầu bếp, đã tới đó, ngồi lặng lẽ trong bóng tối, giương đôi mắt âm thầm lên. Cô
tôi vẫn tươi cười chuyên trà mời khách. Phó chủ tịch Đường gật gù:
- Ngon quá là ngon. Bà dạy tôi ướp chè nhá. Tôi bảo nhà tôi
trồng lấy vài bụi ngâu.
- Chết nỗi, ông quá lời. Sao mà tôi dám dạy ông?
Ông ta hăng hái:
- Không khách khí gì đâu. Tôi nói thật, thật trăm phần trăm
bà Tâm ạ.
- Cái thời này con người đểu cáng lắm, tử tế thì ít mà ba que
xỏ lá thì nhiều.
Cô Tâm cười:
- Chết nỗi ông lại quá lời. Tôi thấy người làng ta nhũn như
chi chi ấy chứ? Chả thế ông sai quân bắt trói nhà Sâm không giấy má gì mà nó vẫn
chịu.
Phó chủ tịch gật đầu:
- Đúng. Nó chống lại nghị quyết của chi bộ, tôi không gông cổ
nó vào nhà ngục là may.
Cô Tâm vẫn cười cười:
- Theo luật pháp, bắt người phải có lệnh. Nhà Sâm không trộm
cắp, không buôn thuốc phiện lậu, không chứa chấp kẻ gian. Nó chỉ mắc tội chửi
bí thư chi bộ xã và chửi ông. Không có giấy lệnh nó cũng chìa cho các ông trói,
thế nghĩa là dân làng này đệ nhất hiền lành, ông chẳng nên trách họ ba que xỏ
lá.
Ông ta cau mày, nói gay gắt:
- Bà bảo những trường hợp cứng đầu cứng cổ như thế, tôi không
xử trí nhanh thì còn gì là kỷ cương nữa? Hôm nay nó chửi bí thư chi bộ huyện, rồi
ngày kia là... là...
Tới đó, ông ta ngừng lại, giơ bàn tay chém một nhát vào không
khí rồi dằn giọng:
- Chính quyền phải chuyên chính. Không chuyên chính là không
được. Từ xưa tới nay, nhà nước nào cũng phải có phép tắc, kỷ cương.
Cô Tâm vẫn cười:
- Rước các ông xơi chè. Thuốc đây ạ. Tôi nhờ người quen mua
được thứ Du Lịch còn mới.
Đoạn, quay lại phó chủ tịch Đường, cô nhẹ nhàng nói tiếp:
- Tôi không được học chính trị, tôi không hiểu phép tắc, kỷ
cương của nhà nước ra sao. Nhưng hồi nhỏ, thầy tôi còn sống, thầy tôi có kể cho
tôi nghe chuyện này. Nếu các ông cho phép, tôi xin kể hầu các ông.
Mấy người đàn ông nhao nhao đáp:
- Kể đi, bà kể đi.
- Khoan đã, cho tôi vô phép rít điếu thuốc lào. Lâu lắm mới
có dịp rảnh rỗi thế này.
Một ông khách nạp thuốc, châm lửa, rít ro ro. Rồi ngửa mặt
lên, nhả khói. Trong khoảng thời gian ấy, cô Tâm đợi chờ, vẻ mặt bình thản. Mấy
đám người chơi tú lơ khơ và tổ tôm ngoài sân đã bỏ cuộc vào hiên, hóng chuyện.
Trong góc tối bên kia, không chỉ là người đàn bà nhỏ thó có vết bớt trên mặt mà
cả một đám đàn bà con gái túm tụm ngồi.
Sau khi đã nhả khói một cách mãn nguyện, ông khách già ngồi
bên cô Tâm nói:
- Nào, bà kể đi.
Cô Tâm đặt chén trà xuống, cất tiếng:
- Thầy tôi kể rằng: Dưới triều vua Tự Đức có một ông quan Thượng
Thư liêm chính lắm. Ông quê ở Thái Bình, dân thường gọi là cụ Thượng Chính. Vua
Tự Đức đã phải có câu đối đề tặng:
Nam phi Bình bất chính.
Bắc phi Chính bất bình.
Hồi tham triều, cụ Thượng đứng ra làm một công trình thủy lợi
lớn. Công trình này đem nước tưới cho đồng ruộng khắp vùng. Con kênh đào đi qua
ba huyện. Trong ba huyện đó, có huyện quê cụ. Các ông biết rồi, đất đào thủy lợi
xưa chạy vào ruộng nhà nào, nhà ấy phải chịu. Không nghiêm, những địa chủ giàu
sẽ dẫn hối vàng bạc để con kênh đi xéo qua ruộng nhà khác. Những nhà nghèo, thấp
cổ bé họng chẳng biết cầu cứu vào đâu. Cụ Thượng Đính suy ngẫm tìm ra cách thức
công bằng nhất khi thực hành việc đào kênh. Đêm tối, cụ cho lính đốt đuốc, rọi
theo ánh lửa mà kẻ đường thẳng trên mặt ruộng. Hai hàng lính cầm đuốc đứng hai
bên. Người chỉ huy điều chỉnh các cột lửa sao cho chúng thành hai đường song
song từ đầu tới cuối. Cứ theo vệt lửa làm mốc mà đào. Tàn lửa đuốc này thắp lửa
khác. Không chủ ruộng nào dám kêu ca. Con kênh thẳng thư kẻ mực Tàu, cứ thế dài
ra mãi. Tới phần huyện quê nhà, quan chức sở tại bảo rằng theo đường kẻ của
dòng kênh, đám đất sắp bị đào chính là mảnh ruộng có phần mộ tổ tiên cụ. Họ xin
cụ Thượng hủy lệ, cho con kênh vòng sang hướng khác. Cụ Thượng Chính bảo:
- Ta biết xót phần mộ tổ tiên ta, vậy những kẻ khác không biết
xót hài cốt cha ông họ hay sao? Lệ đã định, cứ thế mà làm.
Đám quan chức dưới quyền chỉ biết cúi đầu tuân thủ. Khi đào tới
phần mộ của cụ tổ ba đời cụ Thượng, nước phun ra đỏ như máu. Những toán lính
đang đào, hoảng sợ nhảy lên, chạy về dinh phi báo. Lại một lần nữa, cụ Thượng
ra lệnh:
- Không được làm rối kỷ cương đất nước.
Quan quân rập đầu lạy tạ, tiếp tục đào kênh. Con kênh ấy hoàn
thành, chảy suốt qua ba huyện. Khắp vùng no ấm. Người ta đã đặt cả đồng dao, cả
tích chèo về nó. Hồi ông tôi và thầy tôi còn sống, chẳng mấy người là không biết
chuyện này.
Cô tôi ngừng lại một vài giây, rồi cười:
- Đấy, các ông tính xem, những ông thượng thư thời nay, đếm
được bao nhiêu người như cụ Thượng Chính?
Đám người ngồi trong nhà ồn lên, Họ xuýt xoa, bình phẩm. Người
lên tiếng trước tiên, là ông phó chủ tịch:
- Ghê thật, các cụ nhà ta ghê thật.
Nhưng tiếng ông ta chìm đi giữa những tiếng xôn xao:
- Quan như thế mới là quan chứ!
- Chuyện nghe như Đông Chu Liệt Quốc ấy. Dân ta thiếu gì người
quân tử đâu?
- Bà Tâm nhớ dai thật. Tôi cũng đã nghe chuyện này mấy lần mà
quên biến đi mất. Hồi ông cụ nhà tôi với cụ bên ấy đánh cờ, tôi chuyên đứng chầu
rìa, xem chơi. Năm ấy, hình như tôi chín, mười tuổi. Bà Tâmn tuổi gì nhỉ? À, tuổi
Hợi, vậy thì tôi hơn bà hai tuổi.
Cô Tâm rót nước uống, rồi nói tiếp:
- Thầy u đẻ ra tôi, chẳng được tích sự gì, ngoài cái nét nhớ
dai. Dạo ấy, thầy tôi còn kể nhiều chuyện nữa. Trong đó, tôi nhớ nhất chuyện
quan huyện Trần Bình.
- Hay quá, hay quá, kể đi dì Tâm.
- Hôm nay thế mà thú vị. Vừa được chén, vừa được nghe chuyện.
- Trời phật ban lộc cho ta.
Ông khách già ngồi bên cô tôi lại cười khà khà:
- Ấy, gượm đã, cho tôi làm mồi thuốc.
Bọn đàn bà ngồi trong góc tối nhao nhao phản đối:
- Thôi thôi, bác Tâm kể đi. Kệ ông ấy.
- Rõ cái nhà ông này, về nhà mà bắt bà ấy chờ.
Lại có giọng đàn ông hòa giải:
- Thôi mà, sao các bà nóng tính thế! Chờ ông ấy một tẹo đã
sao?
Nói thế thôi, nhưng người ta vẫn an lòng chờ cho ông khách
nghiện rít hết điếu thuốc, và nhả khói một cách thư thả. Tới đó, cô Tâm lại cất
giọng kể:
- Thời cụ Thượng Chính về hưu, an nghỉ tại quê nội là phủ
Tiên Hưng. Phủ Tiên Hưng giáp huyện Duyên Hà. Dạo ấy tên quan huyện Duyên Hà là
Trần Bình đi đón bố về làng, cả đám lính hầu đi theo, trống rong, cờ mở, tán lọng
nghêng ngang. Bên đường có hai tên lính lệ khiêng một người nào đó trong chiếc
võng xoàng xĩnh, trên đòn nghiêng vắt chiếc chiếu che nắng. Chiếu đã cũ ải. Tên
lính dẹp đường của Trần Bình thấy vậy ngứa mắt chạy lên:
- Dẹp, dẹp mau.
Hai người lính khiêng cáng vẫn bước từ tốn. Tên lính huyện thấy
vậy lấy roi quất vào chiếc chiếu tre.
- Nghe lệnh chưa? Dẹp cho quan lớn đi, dẹp...
Những cọng cói rụng xuống. Bên trong, một cụ già nằm yên, chiếc
quạt lụa phủ lên mặt che nắng. Tên lý trưởng sở tại nghi hoặc giật mình ghé vào
tai Trần Bình nói nhỏ:
- Bẩm quan lớn, hình như cụ Thượng nằm trên võng.
Trần Bình tái mặt, vội quát bọn lính dẹp hết cờ quạt, võng lọng,
còn chính hắn nhảy xuống đường, quỳ lạy. Nhưng chiếc võng gai cũ kỹ vẫn lướt
qua.
Nghe đâu, sau đó tên quan huyện hống hách đã tới nhà cụ Thượng
lễ tạ tội “Nghi thức lộng hành.” Cụ Thượng ra lệnh cho lính rút vồ nọc nện hắn
hai vồ. Tới vồ thứ 3, người con cả của cụ chạy ra quỳ lạy cha, xin tha tội cho
hắn. Người con cả của cụ Thượng Chính là ông cử Ái, một người hiếu đễ, tốt bụng,
học khá. Ông đã đỗ cử nhân, được nhà vua vời ra làm quan, nhưng cụ Thượng Chính
đã bác bỏ việc tiến cử con trai mình. Cụ bảo vợ:
- Thằng này tốt bụng nhưng gàn, để cho nó làm quan là hại
dân...
Cụ bà nghe ra, không dám than thở nửa lời. Ông Cử Ái tuân lời
cha, ở nhà dạy học, tham gia việc nông tang, không màng danh lợi.
Lại nói về tên quan huyện Trần Bình. Thầy tôi kể không biết
bao nhiêu chuyện về hắn. Đại để, chuyện hắn xui dân lành kiện tụng để có dịp
moi tiền, khiến cả hai bên khuynh gia bại sản. Nào là chuyện hắn ám hại kẻ
khác. Nhưng lâu quá tôi không nhớ rõ. Riêng chuyện quan huyện vời hát xẩm, là
tôi nhớ như in.
Cô tôi dừng lại, rót nước uống. Cả đám cử tọa im phăng phắc,
chờ đợi. Mắt họ dán như dính vào gương mặt hao gầy, có vẻ đẹp úa tàn. Cô tôi,
không nhìn ai, rẽ ràng kể tiếp:
- Trần Bình có một ông bố mù và đứa con trai duy nhất cũng
mù. Hắn dán yết thị trước cửa công đường: “Ai chữa cho ông thân sinh và công tử
của quan huyện khỏi bệnh, sẽ có thưởng lớn.” Yết thị dán được nửa năm, mới có một
thầy lang dưới thành Nam lên xin chữa bệnh cho nhà quan huyện. Ông lang này
chưa phải danh y, nhưng là người tài cao học rộng biết đủ nho, y, lý, số. Ông
cho bố và con trai Trần Bình uống non hai chục thang thuốc, bệnh đã đỡ hẳn. Từ
chỗ mù hoàn toàn, cả hai người đã nhìn thấy mọi vật. Ông bố tên quan huyện bảo
hắn:
- Tao trông thấy hai thằng Bình.
Còn đứa con trai độc nhất của hắn, cũng thế. Người ta bảo nó
ngồi trong buồng tối, không cho ánh sánh bên ngoài lọt vào, cũng không thắp
đèn, để thằng bé không thể nhận biết vật gì. Rồi, chính Trần Bình cầm cây nến,
mở cửa vào phòng. Thằng bé reo lên:
- Con nhìn thấy hai bố Bình, hai cây nến...
Tên quan huyện tủm tỉm cười, không nói gì thêm. Sáng hôm sau
hắn đưa cho thầy lang một đồng bạc, để thầy tiếp tục đi lấy thuốc ở thành Nam.
Ông thầy thành thực, không nghi hoặc. Tới cửa hàng thuốc, mới vỡ lẽ là đồng bạc
giả. Thầy lang trở về, thưa với gia chủ:
- Bẩm quan lớn, con không lấy được thuốc cho cụ với công tử.
Dưới thành Nam, người ta chê đồng bạc ngày hôm qua là bạc giả.
Trần Bình cười nhạt:
- Thầy nói thế nào? Tôi là quan, người lo việc nước là lại chứa
bạc giả trong nhà hay sao?
Nói xong, hắn chắp tay sau lưng, lững thững vào buồng. Ông thầy
lang ngớ người, quay về nghĩ ngợi. Càng nghĩ càng toát mồ hôi. Ông biết Trần
Bình bày kế quỵt tiền công. Quyền lực trong tay, hắn khép tội chứa bạc giả ông
có chạy lên rừng cũng không thoát hình ngục. Ba giờ sáng hôm sau, ông thày thu
xếp áo quần, khăn gói. Chờ bọn gia nhân mở cổng sau cho tá điền đi làm ông thày
cũng lẻn đi luôn. Trước khi rời huyện, ông ta chạy ra chợ. Ở chợ, có một gia
đình xẩm sống dưới mái lều chúa. Người ta gọi như vậy vì mái lều được cất lên
làm phúc, cho những kẻ nhỡ độ đường trú thân. Một ông xẩm già, hai vợ chồng xẩm
với đứa con trai lên bảy. Tất cả đều mù. Tất cả đều có giọng hát đủ kiếm miếng
cơm độ nhật. Mới mờ sương, nhà xẩm đang lục đục trở dậy luộc khoai ăn sáng. Ông
thầy lang tới gọi:
- Này, quan huyện sai tôi tới gọi cả nhà cụ tới công đường.
Hôm nay, có ngày lễ lớn. Quan muốn nghe hát xẩm.
Ông xẩm già mừng quá, run lập cập:
- Thật phúc đức quá, có thật không thầy?
Ông lang bảo:
- Tôi là gia nhân của quan huyện. Quan sai tới gọi nhà cụ sớm
để lo sắp đặt ăn uống, rồi ôn luyện bài vở cho chu đáo. Hôm nay, có các quan
khách tỉnh bên sang chơi.
Cả ông xẩm già, cả vợ chồng nhà xẩm cúi rạp đậu cảm tạ:
- Nhà con xin đội ơn thầy. Cuối giờ mão, chúng con sẽ có mặt
tại cổng công đường, không dám sai.
Thày lang chào cả gia đình nhà xẩm rồi ra bến xe, chuồn thẳng.
Lại nói tới nhà xẩm. Nào ông nội, nào cháu đích tôn, nào vợ
chồng xẩm ra công mà ôn luyện bài vở. Nấu khoai ăn xong, tất ta tất tưởi, dắt
nhau tới công đường. Đám lính gác cản lại, gia đình xẩm kêu la ầm ĩ.
Trong dinh, Trần Bình thức giấc, nghe ồn ào, sai người ra hỏi.
Người nhà bẩm có đám hát xẩm chờ trước cửa công đường, bảo là gia nhân của quan
huyện ra chợ gọi họ từ sớm. Hôm nay quan huyện có lễ, rước khách các tỉnh sang
chơi, muốn nghe hát xẩm. Trần Bình hỏi thầy lang, ông ta đã không cánh mà bay.
Hắn biết ông lang chơi xỏ, sai lính phóng khắp nơi tìm. Nhưng thầy lang có phép
tàng hình đã biến mất. Chỉ khổ cho ông cháu, cha con nhà xẩm, bị Bình sai tụi
lính giã cho một trận đòn, rồi tống ra cửa.
Ông thày lang thành Nam đi mất, nhưng lời nguyền của ông ta với
Trần Bình đã thành sự thực. Bạ cắt thuốc, chẳng bao lâu bố hắn, con trai hắn mù
trở lại. Bảy năm sau, hắn cũng mù nốt. Đi đâu cũng phải có người dắt. Riêng
đánh tổ tôm, chả cần ai nhắc, hắn vẫn đọc vanh vách tên các quân bài. Nhưng cảnh
ông mù, cha mù, con mù... tam đại mù đã trở thành câu chuyện truyền khẩu cho
nhân gian. Thầy tôi bảo Trần Bình không có ham thú nào hơn thú kiếm tiền. Các đời
quan trị nhậm địa phương, có người tốt, có người xấu, nhưng ngay cả những người
xấu nhất cũng không ai đạt tới mức độ tàn bạo và vô liêm sỉ như hắn. Sau, người
ta đem hắn đối với một ông quan thanh liêm đời trước, tên là Phạm Thụ. Câu đối
như thế này...
Phạm Thụ hữu tồn, dân hữu khố
Trần Bình bất khứ, hộ vô mao...
Đám cử tọa nhếnh mắt lên, vừa nghe vừa nhìn miệng cô tôi. Khi
cô đọc xong vế đối, đám đàn ông ồ lên. Người cười, người vỗ đùi bồm bộp. Đám
dàn bà, có người cười rúc rích, có người ngơ ngác nhìn quanh. Rồi một thiếu phụ
vẻ bạo dạn, cất tiếng:
- Mọi người cười gì thế?
Người ta vẫn ồn ào tán chuyện không ai trả lời chị. Chị nhắc
lại lần thứ 2, cao giọng hơn:
- Câu đối ấy nghĩa thế nào? Các ông phải giảng giải cho bọn
đàn bà chúng tôi chứ?
Ông khách nghiện thuốc lào đang ngửa mặt lên trời há miệng
phô hai hàm rắng đen xì khói thuốc mà cười. Thấy thế, ông đáp lời:
- Này nhé, nghe cho rõ: Phạm Thụ hữu tồn, dân hữu khố. Nghĩa
là quan Phạm Thụ còn trị nhậm, dân còn khố mà mặc. Trần Bình bất khứ, hộ vô
mao. Nghĩa là: quan Trần Bình chưa đi, thì... đến cái con ba ba nhà các chị
cũng chẳng còn râu...
- Úi giời ơi.
Đám đàn bà con gái rú lên, người nọ đấm người kia thùm thụp.
Họ cười, cười ngặt nghẽo, cười giàn giụa nước mắt, cười ré từng hồi, nức từng
cơn:
- Ối cha mẹ ơi, phải gió cái nhà ông này.
- Có nhà bà phải gió ấy. Không biết, người ta giảng cho. Đã
chẳng cảm ơn lại còn nói láo.
Đám đàn ông gật gù, liếc nhìn nhau:
- Giỏi thật, giỏi thật... Thật là tuyệt.
- Mấy ông đồ nho thâm thúy. Chịu các ông.
Trong khóe mắt, trong nụ cười của họ, dù ồn ào hay thầm kín,
đều hàm chứa những ẩn ý. Tôi lại đưa mắt về phía bóng tối đồi diện với mình.
Người đàn bà có vết bớt trên má vẫn ngồi lọ thỏm trong đám phụ nữ. Nhưng đôi mắt
sâu của bà ánh lên như hai hòm than. Nóng và dữ dằn. Tôi không quên được đôi mắt
ấy. Giữa đám người ồn ào cười nói, tôi thấy ông phó chủ tịch Đường cũng cười.
Chiếc miệng thổi lửa hơi lệch của ông ta nhếch lên, phô những chiếc răng nhỏ.
Hai gò má ông ta sạm đi, không còn giữ được màu đỏ ban đầu.
Rồi như không chịu được không khí ấy, ông giơ đồng hồ đeo tay
lên xem, cao giọng:
- Nào bà chủ còn gì cho ăn uống nữa không?
Cô Tâm vẫn cười tươi:
- Ông phó chủ tịch muốn ăn uống gì, tôi vẫn còn đủ sức phục vụ
ạ.
Ông Đường cười:
- Đùa thôi. Có cỗ yến bây giờ cũng lèn vào đâu được. Thôi,
tôi về bà chủ nhé.
Cô Tâm nói:
- Lúc nãy ông có bảo rằng...
Ông ta gật đầu:
- Tôi nhớ... tôi nhớ rồi.
Rồi đưa mắt liếc quanh, ông hạ giọng:
- Thôi để khi khác.
Cô tôi cười, giọng gạn gùng:
- Có gì khúc mắc đâu mà phải để khi khác. Ông cứ nói luôn cho
xong.
Ông phó chủ tịch hơi cúi đầu, vẻ như ngại ngần, rồi ông ta
nói:
- Tôi vừa cho cháu lớn ra ở riêng. Nghe bà chủ có nghề, lại vẫn
giữ được bộ máy ép miến, muốn phiền bà cho cháu học.
Cô Tâm vẫn cười:
- Không khó gì chuyện ấy. Chẳng cứ con ông phó chủ tịch, con
ai tôi cũng giúp được. Chỉ ngại nỗi là việc làm miến trông tưởng nhàn nhưng còn
mất sức hơm làm ruộng. Cô bên nhà xưa nay có lấm chân lấm tay đâu. Hồi còn ăn
công điểm, cô ấy làm trong đội tuyên truyền văn nghệ. Sau lên tỉnh học. Từ thời
khoán việc đến nay, ông bà vẫn phải nuôi không.
Hai gò má ông phó chủ tịch lại đỏ rực lên. Ông ta gật đầu:
- Phải, phải, nhưng kỳ này tôi nhất quyết tống cổ nó ra ở
riêng. Tay làm hàm nhai, đói no kệ xác.
Những tiếng cuối cùng, ông ta vội vã đến nuốt cả lời. Rồi giơ
đồng hồ lên xem lần thứ 2, ông bảo:
- Gay quá, thế mà đã gần 10 giờ rồi. Tôi còn phải họp một
lát. Thôi chào cả nhà nhé.
Lác đác, có tiếng chào lại:
- Vâng, chào ông.
- Chào ông.
Tấm thân đậm, thấp của ông ta lách rất nhanh qua đám người.
Ánh đèn pin quét lóe ngoài sân, rồi tiến ra ngõ. Cô Tâm tôi nói với ra:
- Ngoài ấy có ai mở cổng cho ông phó chủ tịch không?
- Tôi đây.
Giọng bà Đũa đáp lại. Ngoài cổng, có tiếng chó sủa. Rồi mỗi
lúc, tiếng chó sủa mỗi xa hơn. Trong nhà, tiếng cười đùa ồn ĩ:
- Hôm nay có đứa bị trát gio vào mặt nhé. Thật ác giả ác báo.
- Này, nói thế mà nghe được. Làng này mới chỉ có ác giả, đã
làm gì có ác báo?
- Rõ ông thật hàm hồ. Còn thế nào nữa hở ông?
- Bà mới thật hàm hồ, bà tưởng nghe vài câu chuyện thế là mọi
việc sẽ đâu vào đâu vào đấy sao? Loại người đã xoay thừ bữa chén xoay đi thì
làm gì còn liêm sỉ. Lại quyền hành, dấu má nắm trong tay. Rồi mà xem, nhà chị
Hài đố có thoát!...
- Chị ấy đang kiện trên huyện. Chẳng nhẽ giữa thời buổi này,
lại thanh thiên bạch nhật.
- Tôi với bà cược nhé!
- Ờ thì cược. Cái gì nào?
- Ít thôi. Một cổ lòng ngon với ba lít rượu. Đích thứ rượu gạo
nhà ông cả Từu đấy nhé.
- Thôi. Cám ơn bà chủ, được bữa no ruột no cả lòng. Các ông
các bà, về đi thôi. Cho khổ chủ còn dọn dẹp.
Mọi người lần lượt ra về. Cô Tâm tôi bê chồng thúng không của
các bà đầu bếp lên phản, chuẩn bị cho mỗi người một phần cỗ. Một đĩa xôi gấc, một
khoánh giò nạc, một mảnh chả ống, chừng ba lạng thịt luộc, dăm quả chuối tiêu.
Mỗi phần được bọc gói cẩn thận bằng lá chuối tươi hơ lửa, đặt vào thúng. Các bà
bưng thúng quà, trông như đi lễ chùa về. Người đàn bà có bết bớt trên mặt nói:
- Đội ơn chị Tâm. Đáng lẽ tôi còn phải đem lễ tạ chị.
Cô tôi bảo:
- Có gì đâu. Lòng vả cũng như lòng sung. Chị Hài bị bức hại,
ít nhất cũng nửa dân làng đau ruột. Thôi, chị đem phần cỗ về cho các cháu.
Cô tôi tiễn các bà đầu bếp ra ngõ. Đám người giúp việc đã dọn
dẹp gọn gàng. Người nào nhận phần xôi thịt của người nấy, lũ lượt kéo về luôn.
Cô Tâm chào người này, trò chuyện hỏi han người kia, dịu dàng và kiên nhẫn.
Dáng người bé nhỏ, lưng mỏng, vai mỏng, lại mặc quần áo thẫm màu, trông xa cô
như đứa bé gái. Lúc cô tiễn khách cuối cùng, đóng cổng rồi quay vào, đã quá nửa
đêm. Trời mát lạnh. Sương xuống, thấm ướt hàng hiên. Cô thở dài khoan khoái,
kéo tôi ngồi xuống bậc tam cấp:
- Thế nào, có mệt không con?
Tôi nói:
- Cô mệt hơn nhiều. Cháu có đụng tay vào việc gì đâu?
Cô cười:
- Con chẳng phải mó tay vào việc gì hết. Còn cô, cô đã quen.
Nói xong, cô bóp chặt tay tôi. Tôi không muốn nói gì thêm, để
nguyên bàn tay mình trong bàn tay nhỏ bé xơ xác của cô. Từ lớp da thịt ấm nóng
và thô nháp ấy, truyền sang tôi niềm yêu thương dịu nhẹ. Chúng tôi ngồi như thế,
giờ lâu. Trăng hạ tuần nhô khỏi vườn cam, đính một mảnh ngọc xanh xao, trên
bóng tối dày đặc của vòm lá.
Chương 15
àu đỗ lại đột ngột khiến người đàn ông răng bạc và tôi cũng bật
ngửa về phía sau. Nó chạy thêm vài chục thước nữa, rồi dừng hẳn lại. Ga mới đứng
sừng sững dưới ánh đèn. Ga này vắng khách. Trên đường kè xi măng, chỉ có dăm
người đủng đỉnh lên tàu. Những chiếc vali nhỏ nơi tay họ giống như hộp đựng đồ
hóa trang của diễn viên. Ga không lớn, nhưng kiểu kiến trúc nặng nề. Chúng giống
những tảng đá xếp xô lệch, chồng chất lên nhau. Và những cây cột đèn đứng thành
hàng đều đặn trên khoảng sân rộng, trông trơ trọi, chẳng ăn nhập vào đâu. Tuyến
đường này, tôi đã đi vài lần. Tên các nhà ga, tôi không nhớ hết. Những cái tên
Nga, dài lòng thòng, trúc trắc đối nghịch tâm hồn giản dị của họ. Nhưng bù vào
đó, địa thế và kiến trúc các nhà ga, tôi nhớ như in. Ga này xấu xí. Không hiểu
vì sao, cứ nhìn thấy nó tôi đã có cảm giác nặng nề, u uất. Dường như những dáng
thô lậu, thiếu hài hòa ấy hăm dọa con người, đem cho họ những dự cảm không may
mắn.
Tàu dừng ở ga khá lâu, có lẽ do bảng điều phối chung của
ngành đường sắt. Trong khoảng thời gian chờ đợi, tôi móc trong túi được một nắm
kẹo. “Chìa khóa vàng.” Tôi mời khách đồng hành. Ông ta cười váng lên:
- Răng tôi sắp hỏng hết rồi. Kẹo là kẻ thù số một đấy.
Tôi nhí nhách bóc kẹo, mong cho con tàu nhanh nhanh rời ga.
Rồi cũng tới lúc tàu rời ga thật. Những khối đen nặng nề từ từ
trôi về phía sau. Cả các cột đèn trơ trọi, với những bình thủy tinh chụp hình
trái anh đào lộn ngược. Cả cái bồn hoa hẹp và dài, chạy dọc theo kè xi măng,
rùm ròa loài cây gai đầy hoa nở.
Người đàn ông mở sổ ra xem, và nói:
- Còn ba ga nữa thôi. Khoảng một giờ bốn mươi phút nữa ta sẽ
tới Mátxcơva.
Tôi đáp,
- Vâng.
Ông ta hỏi,
- Có người chờ cô ở đấy chứ?
Tôi lúng búng đáp,
- Không biết. Có thể có.
Ông khách liếc nhìn tôi, rồi nhún vai:
- Một con chuột nhắt như thế này mà không có ai ra đón ư?
Tôi mỉm cười, thay cho câu trả lời. Còn ông ta rung đùi nhìn
tôi, mắt nheo lại đầy hoài nghi. Lúc ấy, có tiếng mở cửa. Hai gã trai trẻ bước
vào. Một gã cao to, lưng gấu, tóc vàng. Gã kia tóc đen, lông mày đen, ria mép
đen, kiểu như người xứ Grudia. Toa tàu tràn ngập mùi rượu. Người đàn ông ngồi
bên tôi ngả người ra phía sau, duỗi dài đôi cẳng chân. Rồi ông ta đưa mắt nhìn
hai gã trai trẻ. Ngược lại, hai gã không nhìn ông ta mà nhìn tôi:
- A...
Gã tóc đen cất tiếng reo rồi xô tới:
- Mày có quần bò mốc không? Tao mua.
Tôi lắc đầu,
- Không có.
Dường như gã không nghe tôi trả lời, gã cao giọng nhắc lại lần
thứ hai.
- Quần bò mốc, quần bò hoa. Tao mua cho.
Tôi đáp lại, to tiếng hơn.
- Không có.
Gã tóc vàng, lưng gấu cúi đầu xuống:
- Tao trả 130 rúp, bán đi. Ở Mátxcơva chúng nó mua rẻ hơn. Chỉ
115 rúp thôi.
Tôi đáp,
- Tôi đã bảo là tôi không có.
Gã tóc đen cau mày, hàng ria mép đen đụng đậy,
- Mày không muốn bán cho chúng tao, phải không?
Gã móc túi, chìa ra một nắm bạc,
- Chúng tao không ăn cắp, chúng tao trả tiền. Nhìn đây.
Hơi rượu phả vào tận mũi tôi. Tôi thấy óc não bắt đầu quay cuồng,
hai thái dương nóng rừng rực.
- Tôi đã bảo là tôi không có. Mấy người điên hay sao?
Mắt gã trai tóc đen long lên, tức giận. Gã nhét tiền vào túi,
tiến lên một bước, đứng chặn ngay trước mặt người đàn ông răng bạc. Rồi gã xỉa
ngón tay vào trán tôi:
- Mày không chịu bán, phải không? Tụi Việt Nam chúng mày
không bán, còn ai bán. Lần trước, một con bé giống mày bán cho tao chiếc áo
phông tồi. Đem về nhà, em gái tao mặc. Một lần, đã rách hết đường chỉ. Ở đường
phố Áccbát ấy, biết không, chỉ có chúng mày và tụi digan bán hàng rong.
Nước mắt và muối cùng lúc tràn lên che kín mắt tôi. Người đàn
ông răng bạc đứng lên, làm gì đó, hình như túm cổ gã trai. Tôi nghe tiếng ông
ta hét:
- Cút ngay, cút ngay, không ta cho chúng mày xuống đường tàu.
Tiếng ông ta bập bùng như gõ trống bên tai. Hình ảnh ông cũng
lờ mờ, bị lủi chìm trong màn nước mắt. Tôi trùm tấm khăn len lên đầu, khóc nức
nở, khóc như bị đòn oan, không còn kiềm chế được. Người khách đồng hành vỗ vai
tôi nhẹ nhẹ, ra chiều an ủi. Rồi sau đó, ông ta khoanh tay, ngồi im lặng với vẻ
mặt của một người từng trải, kiên nhẫn chờ đợi.
Bây giờ, tôi không hiểu vì sao tôi đã khóc như thế. Nhưng lúc
ấy, nước mắt như dòng lũ không ngăn được. Lần đầu tiên, trong đời, tôi khóc trước
một người khách lạ. Ông ta lại rút thuốc ra châm. Còn tôi, khi đã khan hết giọng,
tôi rũ xuống như tàu lá héo, ngã vật vào góc toa tàu. Bên ngoài, những thị trấn,
những phố lẻ lác đác ánh đèn trôi qua. Giống như những đốm lửa lạnh lẽo, xa
cách, chúng nhắc nhở sân ga Mátxcơva năm trước.
Năm ngoái, cũng bà Vêra trao cho tôi bức điện:
“Hằng đến ngay Mátxcơva. Khách sạn Ratxia. Phòng 607.”
Tôi biết cậu Chính đã sang Nga, vì từ ba tháng trước, mẹ tôi
viết thư báo. Tôi cũng ngồi trên con tàu này, vượt qua hàng ngàn cây số để tới
Matxcơva vào một sớm lạnh lẽo. Tuyết chưa rơi, nhưng những đám lá vàng cuồi
cùng của mùa thu đã ngả sang nâu sạm. Trên hè, những mảnh lá úa tàn bị gió lùa
theo gót khách vãng lai. Trên không, thỉnh thoảng lại có vài chiếc lá vàng hiếm
hoi bay lượn, như mảnh ước mơ của mùa thu bay lượn trước cửa ngõ mùa đông. Áo mỏng
quá, tôi rét. Tôi phải giở bản đồ thành phố, nhanh chóng tìm bến xe điện ngầm gần
nhất để xuống. Dưới các đường hầm ấm hơn trên mặt đất nhiều. Tìm được bến, tôi
cắm đầu cắm cổ chạy. Lúc ấy, dân Mátxcơva chưa đi làm. Đường phố vắng, chỉ có
những cảnh sát giao thông đứng trực trên các ngã tư, và trên quảng trường. Vừa
chạy, tôi vừa ước ao một chén chè nóng pha đường. Nhưng lúc ấy, có tài thánh
cũng không kiếm nổi một chén chè. Chưa tới giờ các quán ăn công cộng cũng như
các bútphét mở cửa. Xuống ga, tôi ném đồng năm xu vào cửa tự động rồi bước qua
hàng rào, vào trong. Tuyến đường tôi đi ngay gần đó. Hai phút sau, tôi đã ngồi
trong toa, tở dồn dập vì mệt và lạnh. Da dẻ tôi dần dãn ra trong bầu kkhông khí
ấm. Ngả người ra phía sau, tựa vào lưng ghế, tôi nhắm mắt lại, lắng nghe tiếng
bánh xe nghiến lúc tới các bến đỗ, tiếng của các hành khách mới lên. Khách vắng,
cả toa chỉ dăm người. Tuy thế, tôi không thấy côi cút, tôi mong mỏi giờ gặp gỡ.
Tôi sẽ biết tin mẹ tôi, và mọi chuyện bên nước nhà.
Mỗi ga, người phát thanh viên lại xướng lên trong loa phóng
thanh. Nhờ đó tôi có thể mở mắt đứng dậy vào đúng ga cần tới.
Tàu dừng hẳng, tôi bước lên bờ kè. Ở đó, phải nhảy một lúc
cho ấm người, tôi mới đủ dũng khí ra đi. Từ ga tàu điện ngầm tới khách sạn rất
gần, chỉ qua vài khúc phố với một vườn cây nhỏ, ngả nghiêng những thân liễu mềm,
thân bạch dương trắng óng. Cỏ đã trụi, đất phơi ra màu đen xỉn như xỉ than nghiền
vụn. Những con chim câu già lông cánh xác xơ kiếm ăn sớm, kéo lê bộ đuôi bẩn thỉu
dọc hè phố. Dưới bờ sông đào, con sông đang ngủ, làn nước màu chì phẳng lặng,
không gợn sóng xao. Có một người đàn ông cao lớn, thọc hai tay vào túi, đi dọc
theo bờ kênh. Vừa đi, ông ta vừa huýt sáo khe khẽ. Đó là giai điệu một ca khúc
đang được ưa chuộng “Tình Yêu Màu Xanh.” Tôi đi sau người đàn ông, lắng nghe tiếng
huýt sáo vọng trong không gian yên tĩnh như mơ ngủ. Tiếng sáo làm tôi bớt lạnh.
Giờ này, có tới, người gác khách sạn cũng không cho vào. Vì lẽ đó, tôi đã mê mải
đi theo thứ âm nhạc dân dã kia. Tôi đuổi theo nó mãi, tới khi người đàn ông dừng
lại trước một tòa nhà cao tầng, ngẩng lên tìm kiếm một địa chỉ nào đó, và ông
ta thôi không còn huýt sáo nữa. Sang đường, tới khách sạn, tôi phải đợi hơn nửa
giờ sau mới được vào. Cậu tôi đã chờ tôi ở phòng khách tầng dưới, cùng với một
chàng trai. Anh ta là phiên dịch của đoàn. Nhờ anh ta năn nỉ với người gác
phòng, tôi được đưa lên tầng gác thứ sáu, nơi cậu tôi ở. Hành lang trải dạ thẫm
màu, vắng tanh. Khách còn đang ngủ. Cậu Chính nói oang oang:
- May quá, nhờ cậu chú cháu tôi khỏi phải đứng dưới nhà. Thôi
nhé, lúc nào cần tôi sẽ gọi.
Tôi nói.
- Cậu khe khẽ thôi. Có phải ở nhà mình đâu?
Cậu há miệng.
- Ờ ờ...
Rồi đưa tay chào người phiên dịch. Tôi thấy anh liếc tôi, mủm
mỉm cười trước khi mở cửa phòng mình. Chúng tôi còn phải đi xa nữa, người phiên
dịch ở phía đông, cậu Chính ở phía tây. Qua gian sảnh chung, tôi thấy hai phụ nữ
trẻ đang ngồi đan áo. Cậu bảo:
- Giá cháu giỏi tiếng Nga, bán được mấy chiếc áo len cánh dơi
cho các cô này thì tốt.
Tôi nhìn cậu, không nói gì. Tới trước cửa phòng, cậu rút chìa
khóa, mở cửa.
- Vào đi cháu.
Tôi vào trước, cậu vào sau. Cậu khóa cửa cẩn thận rồi mới đưa
tôi vào phòng. Tôi hỏi:
- Cậu ở một mình?
- Ờ, tiêu chuẩn của cậu.
Ngẫm nghĩ tí chút, cậu nói thêm:
- Ở một mình là tiện nhất.
Nói xong, cậu đưa mắt liếc ra ngoài cửa sổ. Nơi đó, những mái
nhà thành phố hiện lên trong làn ánh sáng trắng như sữa của bình minh. Cậu ngó
nghiêng lần nữa, vẻ yên tâm. Lúc đó, cậu nói:
- Cháu đem giải quyết mớ hàng này.
Rồi quì xuống, cậu lôi chiếc túi du lịch nhét trong ngăn dưới
cùng của chiếc tủ gỗ ra.
- Hàng mợ chuẩn bị đầu đủ lắm cơ.
Kéo phécmơtuya roạt một tiếng, cậu sắp sửa lôi các thứ hàng xếp
bên trong ra. Tôi vội nói:
- Từ từ đã cậu.
Cậu bảo.
- Nhưng lát nữa cậu còn phải họp đoàn, còn làm việc với bạn.
Tôi bảo.
- Chẳng đi đâu mà vội, ở đây, người ta không thức dậy sớm như
bên mình.
Cậu băn khoăn.
- Nhưng lỡ tay phiên dịch nó sang.
Tôi nói.
- Chẳng sang người ta cũng thừa biết.
- Hằng..
Cậu quát lên, mặt tái mẹt.
- Mày nói gì thế!
Tôi đáp:
- Cháu nói thật.
Cậu gằn giọng.
- Cháu mấy chắt, đồ mất dạy.
Tôi lặng im. Cậu hùng hổ đi tới trước cửa sổ, vén tấm rèm
lên, chẳng hiểu cậu tìm thấy gì trong khung cảnh của thành phố sớm mai yên
tĩnh? Hai tay chống nạnh, đôi vai nhô lên, chắc cậu đang trút những hơi thở
dài, bực bội. Lát sau, cậu quay vào, giọng hiền từ hơn.
- Thôi... Nhưng lẽ ra, cháu cũng không nên nói thế.
Tôi lặng im, không đáp. Cậu khẽ nói.
- Hằng này, cậu không muốn nhờ người khác, hoặc họ dìm giá,
hoặc họ thóc mách, đồn thổi. Cháu giúp cậu.
Tôi bỗng thấy mỏi mệt đến nỗi muốn lăn ra giường ngay. Các đầu
khớp xương nhức buốt. Da nổi gai ốc đầy lưng, và những cơn ớn lạh liên tục chạy
dọc theo xương sống. Cảm giác giá lạnh cộng với cơn đói dày vò, khiến các cơ bắp
như chảy lan ra, không có cơ hồ giữ lại. Tủi cực chăng? Khóc chăng? Nước mắt đã
cạn. Tôi nhìn cậu, nói khe khẽ:
- Đáng lẽ, cậu nên thông báo cho cháu tình hình gia đình, sức
khỏe mẹ cháu ra sao? Đáng lẽ, cậu nên cho cháu một chén nước chè. Cháu từ hàng
nghìn cây số tới đây.
Cậu đứng ngẩn người ra, rồi ờ ờ... những tiếng vô nghĩa, tay
cậu trở nên thừa thãi. Lát sau, cậu đi đến tủ lạnh, mở cánh cửa. Bên trong, lổng
chổng một đống bánh mì tròn, thứ bánh mì bán trong các bútphét, hai xu một chiếc.
Tôi nói:
- Cám ơn cậu.
Nói đoạn, tôi đứng lên.
- Cậu làm ơn mở khóa cửa cho cháu.
Cậu mở cửa. Tôi đi dọc hành lanh, tới gian sảnh. Hai người phụ
nữ trẻ vẫn đang đan. Tôi hỏi họ bútphét ở đâu? Họ chỉ đường cho tôi. Đi tới cuối
mút hành lang, xuống tầng thứ 3. Bútphét đã mở. Khách ăn còn vắng. Chỉ vài ba
người đàn ông to béo ngồi ăn dămbông với phomát. Bàn trong cùng, một cặp trai
gái cao gầy, tóc bạch kim, có lẽ người Bắc Âu đang uống bia. Tôi mua một phần
tư con gà, một đĩa trứng ốplếp với một chiếc bánh ngọt phết mứt dâu. Chừng ấy,
đủ cho tôi chống cơn rét mệt. Ăn sáng xong, tôi trở về phòng, mang theo túi hoa
quả. Trong phòng, chừng non một chục người ngồi. Đó là đoàn công tác của cậu
tôi sang họp. Anh chàng phiền dịch ngồi sát cửa, ghé mắt nhìn xuống phố xá. Những
người khác, vừa nghe vừa nặn trứng cá hoặc gãi mụn ruồi. Người nào cũng có vẻ bồn
chồn. Chắc chắn họ đang tính cách nào bán hàng hóa nhanh nhất và nhờ ai mua được
nhiều hàng hóa nhất. Cậu Chính đang cao giọng nói:
- Tôi yêu cầu các đồng chí nêu cao tinh thần gương mẫu trên đất
nước bạn. Tất cả phải có ý thức tổ chức.
Tôi lặng lẽ quay ra. Tới gian sảnh tôi ngồi vào một góc ghế
bành, chờ đợi. Nhưng trong góc chiếc ghế bành êm ái bọc nhung đỏ, tôi thấy côi
cút. Tôi thấy cực nhục. Cơn đói và rét qua rồi, chỉ còn lại cơn xâm kích của
các làn sóng tê tái. Chúng giống như các làn sóng biển thực sự, cứ ào tới rồi lại
rút ra xa, lặp đi lặp lại triệu triệu lần. Nhưng không phải nước mặn, mà một thứ
muối xót xa, một nỗi đau quằn quại, một mỗi buồn thê thảm, không thể cắt nghĩa.
- Mẹ ơi i i...
Gương mặt mẹ hiện lên, trong khoảnh khắc ấy. Một gương mặt hiền
dịu, tươi cười. Vừa thân yêu, vừa xa cách.
Chương 16
Dẫu sao, mẹ cũng vẫn là mẹ của tôi. Tôi yêu người. Từ biệt cô
Tâm, với làng quê, với bao nhiêu ưu ấp, tôi trở về thành phố. Mẹ đang ngồi chải
đầu. Hình như mẹ vừa gội đầu xong, tóc chưa kịp khô. Tôi chạy ào tới mẹ:
- Mẹ... Mẹ nhớ con không?
Mẹ ngẩng lên, đôi mắt chớp chớp xúc động. Nhưng qua giây phút
ấy, mẹ lại dằn dỗi, nói:
- Nhớ! Chỉ có con nhiều thú vui, con mới chẳng nhớ ai.
Tôi ôm mẹ cười:
- Chẳng nhớ ai thật. Nhưng chỉ nhớ riêng mẹ thôi.
Rồi tôi nói thêm, khẽ khàng:
- Mẹ buồn cười lắm. Chẳng ai thay thế được mẹ.
Mẹ cúi đầu im lặng. Có lẽ, đó là nỗi im lặng sung sướng. Tối
hôm ấy, mẹ nấu chè sen cho tôi ăn. Suốt đêm, tôi ôm mẹ ngủ. Chỉ còn ba ngày nữa
là tựu trường. Đã bước vào năm học, tôi sẽ chẳng còn thời giờ nhõng nhẽo. Vừa từ
giã đám bạn học cũ, tôi đã có những bạn gái mới, những nữ sinh viên đại học
tương lai. Suốt ba ngày liền, họ kéo đến, sắm sanh quần áo, sách vở, tính toán
trước những khoản tiền phải nộp cho nhà trường. Giá một đôi guốc bây giờ cũng đủ
cho các bà mẹ có con gái lớn lo thắt tim. Có một cô, trong đám nữ sinh ấy, phải
rửa bát thuê cho hàng phở, gánh nước suốt một vụ hè mới sắm nổi một bộ quần áo
thường và một đôi guốc. So với các bạn, tôi phong lưu hơn. Cô Tâm sắm cho tôi một
sấp vải các loại, từ thứ hàng kaki, hàng len ngoại may quần với các thứ phin
nõn pha nilông, pôpơlin màu, vải sợi bông thô, lụa tằm pha sợi tổng hợp. Cứ sấp
vải ấy, tôi có thể may quần áo đủ mặc suốt bốn năm. Nhưng mẹ tôi lại kỳ cục tìm
mua cho tôi một mảnh phin nõn Nhật màu hoa cà, điểm những chấm trắng lấp lánh
như chấm tuyết. Rồi mẹ lặn lội xuống tận Hàng Bông may cho tôi một chiếc sơmi
kiểu mới, tại một hiệu may đang có tiếng là thời trang.
- Cô Loan bảo bây giờ đang có mốt áo Đan Mạch. Mẹ may cho con
kiểu ấy.
Tôi ôm cổ mẹ.
- Mẹ trở thành một tay chơi chính hiệu rồi đấy. Hơn con nửa
cây số cộng mười lăm phân.
Mẹ cười sung sướng. Chiếc áo trông rất kỳ khôi, với các mảnh
vải đan chéo, bổ ngang, các thứ quai và khóa sáng loáng. Mặc lên, tôi hóa thành
một nữ ca sĩ trong băng nhạc da đen, da đỏ nào đó ở châu Mỹ Latinh. Nhưng tôi
đã mặc nó trong ngày tựu trường. Mẹ tôi nắc nỏm khen.
- Đẹp lắm, con ạ. Hiện đại lắm.
Chắc những danh từ ấy mẹ nghe lỏm của thiên hạ, đám người
ngày ngày vẫn tới hàng của mẹ mua măng khô, miến, đỗ, lạc, đường... Mấy anh
chàng sinh viên khóa trên nhìn tôi cười nhăn nhở.
- Ai vẽ cho em cái áo mốt thế?
Tôi im lặng. Và bọn họ cười ré lên. Nhưng tôi vẫn mặc cái áo
tím kỳ khôi ấy, để thấy mẹ tôi cười. Người lớn, đôi khi cũng không khác con nít
là bao. Những cơn mưa thu lại rơi, rổn rảng trên mái tôn. Nhưng gia đình tôi đã
trở lại vui vẻ. Tối tối, mẹ ngồi đan áo. Chiếc áo len màu hoàng yến sẽ cho tôi
diện dịp Tết Nguyên Đán này. Còn tôi, tôi cắm cúi trên các trang sách, thấy nhịp
điệu đời sống xiết bao êm ái, thanh bình. Trong ngõ nhỏ, tiếng hát của anh què
lại rống lên:
Rồi thu sang lá vàng rời đầy...
Nhưng tôi không còn thấy tim tái tê vì nỗi buồn thống thiết,
vì một thất vọng che chắn cuối chân trời. Tôi chỉ cảm nhận trong những âm thanh
ấy, một nỗi xót xa mơ hồ khiến ta phải não lòng, một niềm thương cảm trìu mến,
ý muốn được che chở cho ai đó, được ủ ấp một mái đầu nào đó, được đưa bàn tay
cho một bàn tay chới với giữa dòng nước xiết.
Tôi vào trường được hơn hai tháng, một chủ nhật, mẹ rủ tôi tới
nhà cậu Chính. Không muốn làm mất lòng mẹ, tôi nhận lời. Thế là, sau mấy năm trời,
tôi trở lại khu tập thể K. Khu nhà ấy đã cũ nhiều. Con đường chạy qua các trục
chính đã tróc lở nhiều khúc. Các khoảng sân, các bậc thềm cũng như vậy. Người
ta tự tu tạo bằng nhiều thứ vật liệu khác nhau, trông như nhiều mụn và khác màu
trên một mảnh áo. Các bức tường vôi nhạt màu, hoen mưa gió, in những hình vẽ loằng
ngoằng thô tục của bọn trẻ hư. Không khí oi nóng, quẩn tụ một thứ khói lạ, rất
khó gọi tên. Có lẽ, nó là tổng hợp của khói thuốc lào, thuốc lá, khói các bếp dầu
vừa tắt, khói ngún từ các bếp lò đun mùn cưa, và khói từ các đống rác nhỏ rải
rác khắp các ngóc ngách khu nhà. Rất nhiều nhà mở đĩa hát và máy nghe băng nhạc.
Nhạc Rock, nhạc trữ tình, nhạc tiền chiến xen lẫn điệu hát chèo và cải lương.
Thanh niên tụ thành từng nhóm trước hè, miệng phì phèo thuốc giương những cặp mắt
thô lỗ nhìn người qua đường, buông lời chòng ghẹo. Tất cả đã thay đổi. Trạm gác
gỗ ngoài cửa cũng không còn. Những mảnh ván đã được dọn trơ trụi, chỉ còn cây
tre làm gạt chắn vẫn ngơ ngất chọc lên trời.
Cậu mợ Chính đang ngồi vặt lông vịt trong nhà. Thấy mẹ con
tôi, mợ Thành rửa tay chạy vào, niềm nở chào hỏi. Hai đứa con trai họ Đỗ đã lớn
lên nhiều, so với hồi tôi gặp. Nhờ thực phẩm của bà bác trợ cấp, chúng hồng hào
béo tốt hẳn lên.
- Cháu chào bác. Em chào chị Hằng.
Lần này, không cần mệnh lệnh của ông bố, chúng cũng cất tiếng
đồng thanh. Mẹ chúng liếc nhìn tôi, cười hớn hở.
- Cháu Hằng lớn lên, xinh quá nhể.
Mợ ta béo ra nhiều, mặc bộ quần áo lụa xanh hoa dây hồng, lại
đính thêm một hàng đăngten lòe xòe dưới gấu áo. Mợ xăng xái đi lại, pha trà,
rót nước, cả hai lườn, cả đôi mông lặc lè mỡ. Mặc dù đon đả mời nước, đôi mắt hẹp
của mợ vẫn liếc về chiếc làn thực phẩm của mẹ tôi đặt dưới sàn nhà, gần góc tủ.
Tuy vậy, lúc ấy trong mợ vẫn dễ chịu hơn lúc ngồi trước bàn, vừa ngậm tăm vừa đọc
tuyển tập của Lênin. Sau lần đến nhà mợ đầu tiên, tình cờ tôi được nghe một đứa
bạn kể. Bố mẹ nó là giảng viên trường đại học, được trưng tập về giảng dạy ở
trường Đoàn. Họ phải làm việc dưới quyền mợ Thành vì mợ là Đảng viên lâu năm. Cả
hai khốn khổ 8 năm ròng vì bị trù úm. Vốn là những người có kiến thức, giàu
lòng tự trọng, họ không thể chịu được một người ngu dốt, lại chỏng lỏn. Mợi ta
vừa tự ti, vừa cường hào một cách phi lý. Có lẽ, bởi vì mợ mới học hết cấp hai
trong trường bổ túc công nông, mà lại có trọng trách duyệt toàn bộ chương trình
triết học.
- Kìa, cháu uống nước đi. Em mời chị.
Mợ ta vỗ vai tôi, rồi chỉ chén trà nóng, tươi cười. Khi cười,
những nốt rỗ có bớt phần nguy hiểm. Tôi hỏi mợ:
- Hồi trước, cháu thấy mợ có bộ tuyển của Lênin mới tinh. Đâu
rồi?
- Trong tủ, mợ cất trong tủ.
Người đàn bà trả lời hăng hái, tay chỉ chiếc tủ gỗ mới, nước
sơn vécni còn mùi thơm.
- Cháu có cần, mợ cho mượn. Mợ đã nghiên cứu xong chủ nghĩa
Mác-Lênin rồi. Giờ, mợ đang phải nghiên cứu các văn kiện.
Nói tới đó, chợt mợ đổi giọng kêu:
- Ấy, chị để em... để em.
Vừa nói, mợ vừa lao tới, đỡ gói đường trên tay mẹ. Miệng túi
nilông bị sút sợi thun buộc, chỉ chút nữa đường đổ tung tóe. Mợ Thành cười hỉ hả.
- May thật là may.
Tới đó mợ quên bẵng câu chuyện về chủ nghĩa Mác-Lênin với các
văn kiện, mợ quay sang cái làn thực phẩm. Cùng với mẹ tôi, mợ lần lượt dỡ từng
túi đường, đổ vào những chiếc thẫu thủy tinh cao cổ miệng loe, những chiếc thẫu
dùng ngâm rượu rắn cho đàn ông, ngâm mơ, ngâm táo cho đàn bà con trẻ. Xong
xuôi, mợ lấy thịt và giò, thứ đem cất, thứ đem thái rim, thứ đem bày ra đĩa.
Hai gò má mợ hồng hào, nhoáng mỡ.
- Gớm, bác cho hai cháu nhiều đường thế! Uống tới mùa thu
sang năm cũng chưa hết. Anh Chính ơi! Xong chưa? Nhớ hãm tiết canh đúng kỹ thuật
đấy nhé. Chị Quế chỉ thích mỗi món tiết canh vịt thôi.
Nói xong, mợ cười, hai mắt tít lại. Mẹ tôi cũng cười, hồn
nhiên, thành thật. Giờ đây, mẹ đã có vị trí xứng đáng trong gia đình người em
trai. Mẹ hoàn toàn mãn nguyện. Cái khoảng thời gian me bị khinh khi, ghẻ lạnh
đã qua rồi. Giờ đây, mẹ trở thành người bảo trợ. Mẹ gom góp từng xu để bù trì
cho đứa em trai.
Và mái nhà cũ kỹ của chúng tôi sẽ không thể nào thay đổi. Mái
nhà như hai mảnh vá khác màu. Trưa hè bỏng rãy, mùi nhựa đường khét lẹt bốc
lên. Và mưa thu, gõ, gõ, gõ, gõ trên mảnh tôn đã lốm đốm thủng. Quá vãng đã được
chôn vùi trong tro trấu. Món cháo lú của tinh thần hào hiệp và đức hy sinh. Đầu
óc những người đàn bà nói chung là ngắn ngủi. Họ chỉ sống với khoảng khắc đang
sống...
Đột nhiên, cậu Chính cao giọng gọi tên tôi.
- Cháu Hằng,
- Dạ.
- Vào bưng cho cậu đĩa tiết canh.
Tôi chạy vào buồng, bưng đĩa tiết canh theo chỉ thị của cậu.
Tới mâm, tôi đặt xuống, ngắm nghía. Tiết canh đông cứng như khối thạch, chân
đĩa không có ngấn nước long. Bên trên, gan vịt thái mỏng, lạc rang vừa lửa vàng
rươm rắc đều cộng với tỏi nhánh đập vụn. Cậu lại gọi:
- Còn đĩa rau thơm ăn kèm, bưng lên nốt.
Một đĩa rau húng chó, húng láng, răm, ngổ, hành sống, mùi ta,
mùi tàu. Không thiếu thứ gì. Cậu giải thích.
- Gia vị mỗi người mỗi sở thích. Ai thích gì, lấy thứ nấy.
Rồi cậu xoa tay.
- Hồi trên chiến khu Việt Bắc, chỉ nhờ tài đánh tiết canh vịt
mà đại đội trưởng yêu cậu đấy.
Mợ Thành hể hể, đế thêm.
- Bây giờ cũng thế. Thủ trưởng của cậu Chính, có giỗ có Tết
có tiệc tùng đều gọi cậu tới làm món tủ: tiết canh với hầm ba ba.
Cậu Chính hỏi vợ.
- Chai rượu mùi đâu Thành nhỉ?
Mợ Thành đáp.
- Trong tủ, ở góc trái ấy nhé.
Cậu mở tủ, lấy chai rượu cam ra. Mâm cơm đã dọn trên giường,
sau khi khép hai cánh cửa và kéo tấm màn che một cách kỹ lưỡng. Vịt luộc, vịt
rang gừng, tiết canh, chả quế và giò mẹ tôi vừa đem tới. Cậu Chính rót rượu.
- Nào, cả nhà ta vui vẻ.
Mọi người nâng cốc. Tôi cũng nâng cốc, chạm cốc với họ.
- Nào, hãy vui vẻ.
Chương 17
Sự vui vẻ ấy kéo dài thêm một năm. Qua năm sau, cậu Chính bị
bệnh đái đường. Căn bệnh oái oăm, nhất là thời buổi gạo châu củi quế. Cậu phải
ăn toàn thịt, mà lại toàn thịt nạc, không được lẫn một tí ti mỡ nào. Cậu là
chuyên viên hai, lương gốc 115 đồng, nhà nước bao cấp không thể chiêu đãi cậu
cho tới nơi tới chốn. Khi tôi đến viện, cậu ngồi bó gối trên giường, hai hốc mắt
sâu hoắm, da xanh nhớt như da nhái.
- Mẹ đâu?
Cậu hỏi tôi, mắt hướng về phía cửa phòng, có ý trông ngóng.
Tôi đáp.
- Mẹ cháu còn mua thêm cân cam.
Cậu rên rỉ.
- Cam với quít. Có ăn được đâu mà mua.
Tôi nói.
- Mẹ cháu vẫn tưởng cậu được phép ăn hoa quả.
Cậu nói cấm cảu.
- Kiêng. Kiêng tất. Bác sĩ bảo thế.
Nói xong, cậu ngồi thừ ra, trong ánh mắt hằn lên nỗi âu lo.
Đúng lúc ấy mẹ tôi bước vào phòng. Mẹ cúi chào mọi người rồi rón rén ghé ngồi
bên giường bệnh.
- Cậu xanh quá.
Mẹ rền rĩ, nước mắt ứa vòng quanh. Cậu Chính cau mày nhìn mẹ
quát.
- Đã chết đâu mà khóc? Chị gỡ bỏ mẹ đi.
Lần đầu tiên, tôi thấy cậu văng tục, nói năng không còn
nghiêm túc và thanh lịch như mọi bận. Trong đôi mắt hoảng loạn của cậu, lóe lên
những tia sáng hãi hùng. Cậu sợ chết. Những ngón tay cậu run run. Cả những sợi
râu thưa thớt lởm chởm đâm dưới cằm cũng run run. Mẹ tôi cắn môi, nhìn cậu.
- Bác sĩ bảo sao?
Quay mặt vào tường, cậu đáp trống không.
- Kiêng tuyệt đối, hoa quả cũng không được ăn. Và phải dùng
thêm thuốc ngoại, thuốc của Mỹ.
Mẹ tôi cúi mặt, nhìn những ngón chân đen đủi xỏ trong đôi dép
kiểu Thái Lan đã cũ, đế bẹt hẳn ra. Hồi lâu, mẹ thở dài và nói.
- Cậu cứ yên tâm chữa bệnh. Trước sau, chị cũng sẽ có...
Nói xong, mẹ xắp đặt những thứ thuốc bổ, những thứ thực phẩm
cần thiết cùng hoa quả lên bàn. Mẹ nhờ cậy gửi gắm cậu cho những người bệnh
xung quanh, rồi cúi chào họ trước khi dắt tôi ra về. Dọc đường, hai mẹ con cùng
im lặng. Khi đã vào nhà, cất túi, mẹ bảo tôi.
- Sông có khúc, người có lúc. Đời người, ai cũng có đận gian
truân. Vả chăng, cậu chỉ còn mẹ là người thân duy nhất. Con hiểu không?
- Vâng, con hiểu.
Tôi đáp. Và sau một lát đắn đo, tôi nói thêm.
- Mẹ yên tâm.
Từ dạo ấy, bữa ăn của chúng tôi rút xuống. Thoạt đầu, từ mức
có vài lạng thịt quay hoặc vài khúc cá rán giảm xuống món đậu om cà chua hành
trường kỳ hoặc nhộng rang. Sau đó món đậu om cà chua biến thành cá thầu dầu hoặc
cá riếc răm kho khô. Còn món nhộng rang xuống cấp thành tép biển rang muối. Cả
những thứ rau độn bình thường cũng chạy theo sơ đồ của sự xuống dốc: từ súplơ,
đậu hà lan, su hào, đậu đũa, dưa chuột chúng tôi trượt qua các loại cải xanh,
lá bắp cải già muối dưa răm, cải soong và cả rau chuối thái ghém....
- Mát lắm con ạ, ăn cho nó giải nhiệt.
- Thứ rau này lành lắm, ăn nhiều da dẻ đỡ mụn nhọt.
Mẹ lý giải như thế, mỗi bận mẹ vác về một thứ rau mà chỉ nhìn
đã đủ chán ngắt. Đang mùa đông, bệnh của cậu tăng lên, đòi hỏi lượng thuốc mua
ngoài tăng gấp đôi. Thực phẩm bồi dưỡng cho cậu cũng nhân lên theo cấp độ đó. Mặt
mẹ tôi quắt queo. Không hỏi, nhưng tôi biết mẹ đã phải nhịn bữa quà trưa ở chợ,
lúc tôi học trong trường. Hai gò má mẹ nhô lên, những nếp nhăn kéo dầy dưới hai
đuôi mắt. Những nốt tàn nhang hai bên cánh mũi và trên gò má lan rộng, kết liền
thành từng mảng nâu sạm trên gương mặt mẹ, khiến nó u ám và xấu xí.
Bữa ăn của mẹ con tôi chỉ còn dưa cải muối trường kỳ với với
su hào kho mỡ. Món su hào thái hình khẩu mía, kho mặn với tương rồi rưới mỡ nước
lên giả làm thịt kho hoặc cá kho tôi nhớ mãi. Tôi đã ăn nó suốt một mùa đông.
Tôi sẽ nhớ nó cho tới lúc xuống mồ. Tôi sẽ nhớ cả cảm giác tái tê của những buổi
tối, khi đạp xe từ trường về, hai lỗ mũi đặc kịt bụi, bụng đói đến teo tóp lại
trong lưng quần, tôi đã thèm một miếng thịt ra sao khi đi qua nhà bà Miều hoặc
nhà chị Lan, hoặc nhà anh Hợp, mùi thịt kho tàu thơm lừng bay ra, khiến tay
chân tôi run lên, mắt mũi tối tăm lại. Tôi sẽ nhớ mãi những buổi đêm như thế,
đi học thêm ngoại ngữ về, tôi đã đạp đi đạp lại ba vòng quanh một hàng phở, điệu
như rong chơi, nhưng thực chất để hít thở mùi vị ngon lành của nó lan tỏa trong
không gian. Tôi sẽ nhớ cảm giác hổ thẹn của mình, lúc quay đi để nuốt nước bọt
trước một người đàn bà mập mạp ngồi tuốt xâu chả nướng bỏ vào bát bún...
Một tối, không chịu nổi, tôi nói với mẹ.
- Con không đủ sức ngồi nghe giảng nữa. Mẹ bán một chiếc nhẫn
đi lấy tiền mua thức ăn.
Mẹ tôi cau có.
- Nhẫn của cô Tâm, không bán được.
Tôi cố gắng ôn tồn.
- Nhưng cô đã cho con. Con phải sống, phải học được trước khi
cần đeo nhẫn.
Mẹ tôi đáp.
- Không.
Tôi muốn khóc. Nhưng tôi cố ghìm giữ cho nước mắt khỏi trào
ra.
- Con đói.
Mặt mẹ tôi tím lạnh, hai mắt tối sầm, dữ dằn. Mẹ đột ngột đứng
đật, hét như người động kinh.
- Không. Tao đã bảo không là không.
Chưa bao giờ tôi thấy mẹ khủng khiếp như thế. Chưa bao giờ
tôi thấy mẹ xưng hô với tôi thô lỗ thế. Tôi im bặt, lủi ra ngoài sân. Cơn đói
tan biến. Các nỗi thèm khát cũng tan biến. Chờ mẹ nguôi ngoai, tôi lên giường
trùm chăn ngủ sớm. Tôi đã ngủ một giấc rất dài, rồi thức dậy khoảng hơn hai giờ
sáng. Một cảm giác lạnh lẽo khiến căn nhà trống trải thêm. Tôi nhìn sang giường
mẹ tôi, không thấy mẹ nằm ở đó. Chiếc chăn bông vẫn cuộn tròn, xếp gọn ghẽ cuối
chân giường. Lúc ấy, có tiếng nức nở rất khẽ vẳng tới. Tiếng khóc của mẹ tôi.
Không bật đèn, chờ cho mắt quen với bóng tối, tôi hé cửa ra sân. Mẹ tôi ngồi
trong bếp, gục đầu lên hai cánh tay. Cánh cửa bếp nửa khép nửa mở, tôi nhìn thấy
bóng đôi vai mẹ run rẩy từng cơn. Tiếng khóc bị nén trong họng, chỉ bật ra những
cơn nức nghẹn, ngắt quãng, nghe tủi cực và ấm ức. Tôi đứng giờ lâu, phân vân giữa
ý muốn vào an ủi mẹ và nỗi sợ hãi. Trong cơn giận dữ bùng nổ buổi tối, có
nguyên cớ nào đó rất lạnh lùng, không thể cắt nghĩa. Nó khiến tôi ghê rợn. Thời
khắc trôi qua, sương xuống ướt đầm mái tóc. Tôi run lên vì rét. Tôi sực nhớ
mình chưa kịp mặc áo ấm. Tôi trở vào nhà nằm thao thức chờ mẹ lên. Nhưng chờ
mãi vẫn nghe những tiếng nấc, như một ảo thanh vẳng bên tai. Lâu dần, tôi ngủ
quên...
Sáng hôm sau, tiếng xe máy ồn ĩ bên ngoài đánh thức tôi. Cửa
đã mỡ. Ngay giữa sân, người đàn ông đi chiếc Honda 67 đen trùi trũi đang ngồi
chễm chệ. Ông ta vẫn đeo cặp kính mắt xanh chai như bữa trước. Và nụ cười nham
nhở như bữa trước đọng trên môi.
- A... a... Cô nương dậy muộn quá. Ở nông thôn chúng tôi mà
lười thế là không lấy được chồng.
Ông ta nhìn thấy tôi, liền nói chõ vào nhà. Sau lưng ông ta,
một người đàn bà vừa nhảy xuống: cô Tâm. Tôi choàng áo bông, chạy ào ra đón cô.
Toàn thân cô, hai tay cô, cả hai gò má và cằm cô lạnh buốt. Cô mỉm cười.
- Cháu của cô.
Nhưng rồi, chưa kịp ôm tôi vào lòng, cô đã lại đẩy bật tôi ra
nhìn chằm chằm.
- Hằng làm sao thế?
Tôi cười.
- Có sao đâu cô?
Nhanh như sóc, cô luồn hai bàn tay vào trong áo len, vuốt dọc
theo sườn và lưng tôi.
- Làm sao mà cháu trơ xương sườn, xương sống ra thế này?
Cô hỏi, giọng khẽ khàng, nhưng âm diệu khác lạ, nghe như thất
thanh. Tôi chưa kịp trả lời, mẹ tôi đã từ trong bếp đi ra. Hai mắt mẹ tôi sưng
mọng, gương mặt héo hon nhuốm vẻ hoảng hốt, sợ hãi.
- Chị vừa lên. Chị vào nhà chơi.
Mẹ quay sang người đàn ông.
- Mời bác vào nhà chơi.
Tay mẹ tôi cầm siêu nước. Chắc mẹ đã nấu cơm xong và đun được
siêu nước đầu tiên. Từ chiếc vòi nhôm, làn khói bay ra. Người đàn ông đeo kính,
đáp lại lời chào mời của mẹ tôi bằng một cái gật đầu rất hiên ngang, đoạn quay
sang cô Tâm.
- Mấy giờ em dón chị?
Cô tôi bảo.
- Nửa tiếng nữa nhé. Giờ chú đi đi. Nhà chúng tôi có câu chuyện
hàn huyên.
Người đàn ông đeo kính giơ một ngón tay sần sùi nâng gọng
kính lênm cúi chào mẹ con tôi.
- Cảm ơn cô nhé. Lúc khác tôi vào chơi.
Nói xong, ông ta cho xe nổ máy lượn ra đường. Chiếc mũ lông
Mông Cổ to xù như chiếc rế đại trên đầu. Tiếng máy Honda dội giữa các bức tường
trong ngõ hẹp làm rạn vỡ bầu không gian yên tĩnh. Vào giờ này, những hàng xôi
lúa, xôi đậu đen, bánh dày, bánh rán, bún gánh, phở gánh... đã ra đi hết. Chỉ
còn lại tiếng nước chảy ồ ồ vào một chiếc thùng tôn ai đó đang hứng ở vòi công
cộng. Cô Tâm bảo.
- Ta vào nhà.
Rồi cô dắt tôi vào, tay bên kia xách chiếc làn tre nặng trĩu.
Mẹ tôi cầm siêu nước đi theo. Hai mí mắt mẹ tôi thâm quầng, tròng trắng vằn những
tia máu. Mẹ đổ nước sôi vào phích rồi sai tôi.
- Lấy cho mẹ gói trà.
Tôi hỏi.
- Ở đâu ạ?
Mẹ nói.
- Bốc trong thúng hàng vậy. Hôm nay bận quá.
Tôi mở thúng hàng, lấy thứ bình dân mẹ vẫn bán, pha nước. Trước
đây, mẹ tôi không bao giờ dùng tới nó. Đôi mắt sắc như dao cau của cô Tâm nhìn
theo, lặng lẽ. Chờ cho tôi pha nước, và mẹ tôi đã yên vị lên chiếc ghế đối diện
với cô, cô Tâm nới cất giọng rẽ ràng.
- Con Hằng nó đói ăn, sao không nói cho tôi biết một lời?
Mặt mẹ tôi đỏ ửng, mẹ lắp bắp.
- Em bận quá, tối ngày em ở ngoài chợ.
Cô quay sang tôi.
- Sao cháu không viết thư cho cô?
Tôi đáp.
- Tối qua cháu xin mẹ cháu bán một chiếc nhẫn đi mua thức ăn,
nhưng mẹ cháu không cho.
Cô Tâm hỏi day lạ.
- Mẹ cháu không cho?
- Vâng. Mẹ cháu bảo của cô, không được tùy tiện dùng. Dạo
này, hàng họ ở chợ khó khăn.
Cô Tâm cười, bảo mẹ tôi.
- Chẳng lẽ tôi quý của hơn người. Cô thừa biết con Hằng sẽ thừa
hưởng toàn bộ gia sản nhà này? Để nó thành mớ xương khô rồi đeo vàng vào cổ hay
sao?
Mẹ tôi đáp.
- Tuy là của chị cho cháu nhưng... em nghĩ là quyền ở chị. Chị
chưa cho phép.
- Thôi được, giờ tôi cho phép. Có cả mẹ cả con cô ngồi đây,
cô lấy đôi nhẫn với cặp hoa tai cho tôi.
- Vâng.
Nhưng mặt mẹ tôi tái ngắt. Ngập ngừng một lát, mẹ tôi đứng dậy,
vào buồng trong. Mẹ lục rất lâu. Trong khoảng thời gian ấy, cô tôi thong thả bước
tới bàn thờ. Cô lấy tấm ảnh của bố tôi xuống, rút mùi xoa trong túi, lau sạch,
rồi đặt lên. Cô đứng trầm ngâm nhìn. Lúc đó, tôi chợt hiểu. Chàng thanh niên
trong tấm ảnh mờ nhạt ấy, với đường ngôi thẳng tắp trong trắng, với nụ cười thẹn
thùng, đường cong của vành tai và vẻ tươi tắn ngời lên trong ánh mắt... sao giống
người đàn bà nhỏ thó da nâu sậm, đôi vai mỏng và gầy, những nếp nhăn khắc khổ hằn
hai bên khóe mép. Hai chị em giống nhau lạ lùng. Một người dưới cõi âm và một
người trên dương thế. Một thiếu niên và một người đàn bà khô héo, sắp bước lên
bục lão làng. Có lẽ, đó là sức mạnh bí ẩn của huyết thống.
- Chị...
Mẹ tôi từ trong buồng bước ra, một tay nắm chặt, mặt bỗng
dưng nhợt nhạt như người phải cảm. Cô Tâm quay lại. Bước những bước khoan thai,
cô đi lại bàn nước, ngồi xuống ghế. Cầm chén chè đã bắt đầu nguội, cô đưa lên
môi nhấp và hỏi mẹ tôi.
- Có chuyện gì thế, cô?
Mẹ tôi vẫn đứng lom khom, không dám ngồi xuống ghế. Một tay nắm
chặt, tay kia vịn vào mép bàn.
- Em định nói với chị... là...
Cô Tâm im lặng, nhìn thẳng vào mắt mẹ tôi. Từ đôi mắt cô bắn
ra những tia sáng lạnh, nhọn sắc, dường như chúng có màu tím. Tôi có cảm giác mẹ
tôi sắp ngã quỵ trước những tia nhìn giá buốt ấy. Tôi định chạy tới đỡ mẹ.
Nhưng một sức mạnh không cắt nghĩa được đã kiềm chế lại. Mẹ tôi vẫn đứng, môi
trắng như giấy ngâm nước, cô gắng nói cho hết câu.
- Cặp nhẫn của chị, em cho người bạn mượn làm vốn buôn đường
xa. Vì... họ hứa... chia lãi...
Tôi biết mẹ nói dối. Cô Tâm mỉm cười:
- Một tháng họ chia cho cô bao nhiêu?
Mẹ đáp, lần này trơn tru hơn.
- Năm phân.
Cô tôi vẫn cười, nói từ tốn.
- Nếu thế, một tháng, riêng tiền lãi đã đủ hơn 10 cân thịt,
làm sao con bé lại gầy trơ xương thế này?
Mẹ tôi đáp, lần này rất nhanh.
- Nhưng em mới cho họ vay ba tháng nay. Ba tháng, họ chưa nhờ
cậy được ai quen thuộc và tín cẩn để gửi tiền ra. Em có nhắn cho họ biết, cứ chồng
tiền lại, tính lời, nửa năm em lấy một lần, cho ra tấm ra món...
- Họ ở đâu vậy?
- Minh Hải. Hai vợ chồng đem nhau vào tận trong đất mũi làm
ăn. Đó là nơi tụ tập dân tứ xứ.
Tôi không ngờ mẹ tôi ứng biến mau lẹ thế. Những người dối
trá, chỉ khó khăn nhất khi vượt qua ranh giới đầu tiên. Khi đã qua ranh giới ấy,
không còn cái chốt nào hãm họ lại. Cô tôi đứng dậy đi xuống bếp. Vẫn dáng đi
thong thả như thế. Rồi cô trở lại với mâm cơm đậy lồng bàn. Cô đặt mâm cơm lên,
và lật chiếc lồng bàn ra: một đĩa dưa cải củ muối xổi, với một đĩa xu hòa kho
tương. Thực đơn quen thuộc từ ba tháng nay. Cô nhếch môi cười. Mẹ tôi rùng
mình, rồi cúi gằm mặt xuống. Mặt mẹ, hai bàn tay mẹ, cổ mẹ tất cả đều tím như
người bị tụ huyết sau trận đòn. Cô Tâm nói.
- Cô ngồi xuống ghế.
Lúc này, mẹ tôi giống như kẻ mất hồn, đờ đẫn làm theo lời sai
khiến của cô. Mẹ tôi ngồi, đối diện với cô nhưng không ngẩng đầu lên. Cô lại bảo.
- Đưa đôi bông tai đây.
Mẹ tôi đặt bàn tay vẫn nắm chặt lên bàn khẽ xòe ra, để rơi một
gói lụa nhỏ màu xanh. Cô Tâm nhặt gói lụa đó lên, không thèm mở ra xem, mà gạt
nó về phía ấm trà, như người ta gạt một bao thuốc lá hay một chiếc bật lửa. Cô
nói.
- Cô Quế này, trước kia tôi vẫn thương cô. Dù những ngày oan
khổ, cũng chưa phút nào tôi oán trách.
Giọng cô Tâm đều đều, như người đọc kinh, hàm chứa sự bình thản
tột vời. Nghe cô nói, mẹ tôi rùng mình như bị lạnh, rồi mẹ cúi đầu thấp hơn,
nhô vai lên cao như để tránh cơn gió buốt.
- Cô có nhớ ngày cô giả bộ móc cua để gặp tôi không?
Cô Tâm nói, và dường như mỗi lời nói là một lằn roi quất lên
đầu mẹ tôi.
- Ngày ấy, lúc cô đi theo bờ ruộng, tôi cắp rổ quần áo ướt về
làng, nước mắt hai hàng lai láng. Tôi thương thân, thương chú Tốn, thương cô.
Làm sao còn nỡ dày vò nhau, những con người oan khổ. Tất cả nông nỗi ấy là số
kiếp...
Mẹ tôi không gượng được, gục đầu xuống mép bàn. Giọng cô tôi
rót đều đều.
- Bao nhiêu đêm ròng tôi thức trắng. Những đêm ấy, tôi thấy
oan hồn mẹ tôi, tôi thấy hình bóng lang thang vật vờ của chú Tốn, tôi thấy
gương mặt cô, cái buổi trưa trời nắng tóe lửa, mà cô khóc ngôi khóc nghê như
mưa dầm. Tôi biết vợ chồng cô thương yêu nhau. Lạy trời cho vong linh em tôi
mát mẻ...
Cô ngừng lại, mắt nhìn xa xăm. Rồi cồ nói tiếp.
- Tôi nhớ vụ mùa năm ấy. Ba giờ sáng tôi thức dậy, luộc một nồi
khoai sọ, nửa ăn, nửa đùm vào giỏ đem theo. Thắt lưng buộc cho chặt, đi cấy
thuê cho thiên hạ. Non trưa, cơn đói đã réo như sôi trong dạ, phải bấm bụng cấy
một mạch tới đúng trưa mới dám giở giỏ khoai ăn. Mùa đông rét cắt ruột, người
ta cấy xong lui về nhà làm vườn, chăn con lợn con gà chờ lúa chín. Đèn lửa, cơm
tối ấm bụng, vợ chồng con cái họ kéo nhau lên giường. Tôi vác nón lội qua hai
cánh đồng làm miến thuê. Mười một giờ đêm còn ngồi ôm cối quay bột. Gà gáy nửa
đêm mới đội nón về nhà. Qua đồng, lửa ma trơi chập chờn như bóng đèn bay đuổi.
Có bữa ở điếm canh thôn Đông, một thằng đàn ông xô ra. Nó đè sấn tôi ngay vệ cỏ...
Giá như bây giờ cứ mặc, lại có đứa con nuôi. Nhưng lúc ấy, thì sống chết vật lộn,
cào cấu. Đồng không mông quạnh, kêu cũng chẳng ai nghe. Mà có nghe, người trong
xã tìm đến nơi, nhận ra mình là con địa chủ, họ cũng chẳng thèm cứu. Không biết
chừng họ còn vu cho tội gian dâm. Cứ nghĩ vậy, mà liều mạng giằng giật. Hồi ấy
đang xuân, tôi còn hăng lắm. Tôi cắn cổ thằng khốn nạn máu nó phọt ra mặn mà ấm
như tiết gà. Nó kêu rống lên thả tay ra. Còn mình cũng vớ chiếc nón đâm đầu mà
chạy. Vừa chạy vừa nhổ phì phì. Vị máu đọng trên đầu lưỡi, vừa tanh vừa mặn, đến
nhà, gà gáy canh một, phải nhảy ùm xuống ao tắm, giặt áo, tẩy uế mùi hôi. Lóp
ngóp lên bờ, gà đã gáy canh hai. May sao đêm hôm đó tôi không cảm hàn mà chết.
Cô lại ngừng. Hai bàn tay cô đặt lên bàn, như hai mảnh rễ cây
chồng lên nhau, bất động. Những chiếc móng tay nhỏ nhưng xù xì, sừng dày và nổi
những rạch thẳng như đường ray. Trên lớp da nhăn nheo hiện lên những chấm tròn
nâu sậm. Đó là những vệt đồi mồi. Chúng đã được tạo thành quá sớm, so với những
người đàn bà khác, ở lứa tuổi cô. Sau một hồi lơ đãng nhìn vào hư không, cô nói
tiếp.
- Cô Quế, cô còn nhớ hồi sửa sai không nhỉ? Cái buổi tối những
người oan ức trong làng đã tụ tập lại, đến trước cổng đập phá, đòi rạch miệng...
- Thôi, thôi...
Mẹ tôi bật kêu to:
- Thôi, thôi... Em xin chị, em lạy chị...
Rồi mẹ tôi khóc rưng rức, đầu gục xuống mặt bàn toàn thân run
bần bật từng cơn. Tôi đến bên mẹ tôi, van vỉ.
- Mẹ, đừng khóc, đừng khóc...
Nhưng tôi biết việc tôi làm thật vô nghĩa. Mẹ tôi buông những
lời nói đứt đoạn trong cơn nức nở.
- Em lạy chị, em lạy...
Cô Tâm ngồi im lặng. Đôi mắt tròn của cô cũng bất động, không
thoáng qua chút ánh sáng nào. Dường như lúc ấy, trong đôi mắt đen của cô, bóng
tối và ánh sáng đã hòa trộn để tạo nên một trạng thái âm u, mờ đục của khoảng
khắc sau chót buổi hoàng hôn. Cô chờ cho mẹ tôi ngớt cơn nức nở, lại nói tiếp,
vẫn giọng đều đều không âm sắc.
- Trên đời, chẳng ai gian dối được với ai. Cái kim trong bọc
cũng có ngày lòi ra huống hồ chuyện nhân gian, sờ sờ trước mắt thiên hạ. Ở quê
tôi cũng biết được một số việc cô làm, mọi đồng tiền cô tiêu. Tôi chẳng trách
cô, ai ai cũng máu mủ ruột rà. Tôi thương em tôi thế nào, người đời cũng biết
thương em họ như thế. Nhưng trong chuyện này, tôi phải rành mạch cho cô hiểu,
em trai cô là kẻ tử thù của gia đình tôi. Nó đã đẩy em tôi vào cõi chết. Tôi
không cho phép ai dùng đồng tiền của tôi để nuôi dưỡng nó.
Nói xong cô đứng lên.
- Từ nay, cô cũng không được quyền thờ cúng em tôi.
Nói xong, cô bước tới bàn thờ, lấy tấm khung kính lồng ảnh
cha tôi. Tìm một mảnh nilông, cô bọc lại cẩn thận. Sau đó, cô dỡ trong làn những
thứ quà đem theo: nào giò, nào chả, nào đường, sữa, nào bánh trái... Tất cả, chất
ngồn ngộn trên bàn. Cô Tâm bỏ tấm ảnh của cha tôi vào chiếc làn đã rồng không,
bảo:
- Những thứ này của cô mua, đồng tiền của cô, mô hôi nước mắt
của cô. Đem cho cháu chứ không cho quân sát nhân đâu nhé...
Tôi không dám trả lời cô, chỉ im lặng gật đầu. Mẹ tôi đã thôi
khóc, không ngửng đầu lên, nhưng chắc chắn nghe rõ từng lời của câu nói riết
róng ấy. Vừa lúc, tiếng xe Honda nổ ròn trước sân. Cô Tâm nhìn ra.
- Đừng tắt máy. Tôi ra ngay đây.
Cô cầm gói lụa xanh bọc đôi hoa tai trên bàn, bỏ vào túi, rồi
bảo tôi.
- Cô cất cho con. Của con không chỉ có đôi hoa tai này. Còn
trăm nghìn thứ nữa, Nhưng cô không muốn nó lọt vào tay kẻ khác.
Nói xong, cô bước ra cửa, không chào ai. Người đàn ông đeo
kính màu xanh chai giơ tay lên mũ, nheo mắt cười với tôi. Rồi ông ta phóng xe
đi. Cô tôi ngồi phía sau, bé nhỏ, gầy gò. Như con nhái bén bám vào quả dưa ếch.
Tôi quay vào. Mẹ ngẩng đầu lên, nhìn tôi. Mắt mẹ mọng nước,
xa lạ và hằn thù. Tôi gọi.
- Mẹ...
Nhưng mẹ không trả lời. Bỏ cơm, mẹ gánh gánh hàng ra chợ. Từ
hôm ấy, quan hệ giữa chúng tôi trở nên tồi tệ. Tôi không cắt nghĩa nổi vì sao.
Tôi đã hết sức cố gắng, hết sức nhường nhịn, nhưng không cứu vãn được. Thoạt
tiên, là thái độ lạnh nhạt, xen lẫn mỉa mai. Bữa ăn, tôi dọn ra, mẹ cúi đầu xăm
xăm gắp dưa cải. Tôi gắp giò chả bỏ vào bát mẹ, mẹ hất xuống mâm.
- Mời chị. Tôi không dám đụng đũa vào phần người khác.
Tôi van vỉ.
- Mẹ lạ thật. Cô Tâm giận cô nói thế, mẹ để bụng làm gì?
Mẹ cười nhạt.
- Đồng tiền của người ta, mồ hôi nước mắt của người ta, tôi
không dám.
Tôi cười xí xóa.
- Mẹ buồn cười thật. Ai mà chấp nê như trẻ con thế. Mẹ ăn con
mới ăn.
Mặt mẹ lạnh như tiền, giọng kéo dài ra chế riễu.
- Ấy chết, chị phải tẩm bổ cho khỏe mà học cho thành tài. Người
nhà chị nuôi dăm bảy con lợn để chờ ngày chị đỗ trạng nguyên mổ khao làng, khao
nước.
Tôi vẫn cười.
- Con chỉ sợ không phải người ta mà chính là mẹ mong con đỗ
trạng thôi.
- Không dám. Tôi đâu được quyền xếp hạng với người ta?
Nói xong, một lần nữa, mẹ hất miếng giò tôi bỏ vò bát mẹ xuống
mâm. Tôi cố cười.
- Thế mẹ muốn con xếp mẹ vào hạng nào? Con thì con chỉ xếp được
mẹ vào hàng lãnh tụ thôi.
- Đừng cho tôi đi tàu bay giấy. Chị đem người khác đặt lên
bàn thờ thì hơn.
Dầu sao, tôi cũng chỉ là một cô gái 19 tuổi. Tôi không chịu đựng
được thêm. Cơn tức giận bùng nổ. Tôi nói.
- Dù mẹ đẻ ra con, con cũng phải nói sự thật. Chính mẹ sai lầm.
Mẹ đã dối trá. Xưa nay, chỉ một lần con nói dối mẹ. Hồi lên bảy, mẹ sai đi mua
ba lạng thịt quay. Con đã mua hai lạng rưỡi, bớt tiền để đi thuê truyện. Lần ấy,
mẹ đánh con lằn hết hai mông. Con đã đau, con đã nhục, con đã hiểu rằng dối trá
là thói xấu và không bao giờ con lập lại.
Mặt mẹ tôi đỏ bừng lên. Hai mắt mẹ đảo lia lịa. Rồi bỗng dưng
mẹ quăng đũa xuống, hét.
- Mày bước đi, bước khỏi nhà này... theo bà cô của mày.
Tôi đứng dậy, thu xếp quần áo, buộc lên xe. Mẹ tôi lấy cái bị
cói, bỏ tât cả những thứ thực phẩm, quà bánh cô Tâm mua cho tôi vào, treo lên
ghiđông, miệng nói.
- Đi đi... bước cho khuất mắt.
Tôi đạp xe vào trường. Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Mùa đông
chưa qua, nhưng trời đã ấm. Nắng rực rỡ một cách bất thường, như tấm khăn
choàng thiếu nữ. Người ta đi phố tưng bừng, vui vẻ. Không ai biết tình cảnh của
tôi.
Chương 18
Tôi vào trường, xin ở nội trú. Quản trị tạm ghép cho tôi ngủ
cùng với một cô bạn người Tày quê Lạng Sơn. Cô ta to béo, hai má luôn đỏ như
trái đào chín, cười nói suốt ngày. Cô giúp tôi thu xếp đồ đạc, rồi xẩm tối, cô
trang điểm kỹ càng, ra đi.
- Đằng ấy cứ buông màn ngủ trước nhé. Còn khuya tớ mới về.
Nói xong cô nháy nháy mắt nhìn tôi.
- Thông cảm. Người yêu đang chờ ở cửa ký túc xá.
Cô đi. Mùi nước hoa nội địa tạt lại, sực nức. Mấy cô trong
phòng cũng lần lượt đi nốt. Tôi ngồi bó gối, nhìn ngọn đèn điện sụt thế tối lù
mù như một thứ đèn hoa kỳ hạng bét treo lơ lửng giữa phòng. Nó giống con mắt
màu da cam nhìn vào mắt tôi, bệnh hoạn, tăm tối. Bên ngoài, gió rất nhẹ, reo vi
vút. Trời không rét, chỉ lành lạnh. Tôi nhớ căn nhà, ngọn đèn với cái chao bằng
sứ trắng, giá sách cỏn con của tôi. cái lọ sành cắm mấy bông cúc vàng đặt ở góc
cửa sổ... Giờ này, chắc mẹ tôi cũng ngồi bó gối trong căn phòng trống vắng, giá
lạnh như tôi. Nước mắt tôi rơi từng giọt. Khi con người có quá nhiều lòng tự trọng,
mà buộc phải hành động thiếu lương tâm, họ không đủ can đảm nhìn vào tội lỗi.
Liêm sỉ, ở khía cạnh tiêu cực, là một sợi thòng lọng không có cơ hội tháo gỡ.
Tôi biết mình thất bại...
Cuộc sống trong ký túc xá bắt đầu bằng một kỷ niệm vui vẻ. Những
chuỗi ngày tiếp theo cũng không nhiều sóng gió. Có vài ba cuộc va chạm nhẹ,
nhưng bản tính tôi không chấp nể, nên mọi kết thúc cũng tốt đẹp. Cô bạn người
Tày rất đáng yêu. Một người dễ tính, tốt bụng và có đôi phần ngốc nghếch. Cô học
rất kém, tôi luôn luôn phải chép bài cho cô. Bù lại, cô có nhiều anh chàng theo
đuổi, toàn những chàng trai đẹp mã, thân hình như tượng thần Apôlông. Chàng này
tặng thơ, chàng khác làm bài hát tặng cô. Và cô đánh số thời gian thư từ, các
nhạc phẩm và thi phẩm thành bộ. Bộ sưu tập ấy cứ một tháng một lần được đem ra
khoe tôi. Tôi giúp cô làm những bài thơ họa lại, viết những tình ca vớ vẩn tặng
lại, khiến đám nhân tình của cô lăn lóc mê cô như phải bùa. Tóm lại, chúng tôi
quý nhau. Về phần kinh tế, ngay từ tuần lễ thứ hai tôi vào khu nội trú, người
đàn ông đeo kính màu xanh đã đèo cô Tâm tới nơi. Từ đó, cứ hai tuần, cô lên
chơi. Tiền nong, thực phẩm cô cung cấp cho tôi thừa mứa. Phải nói thực thà là,
cả năm cô nữ cùng phòng với tôi và hội nam sinh nội trú bên cạnh được nhờ cậy
ít nhiều vào cái kho thực phẩm của tôi. Người vác bát sang xin mỡ, người bưng
ca nước sang xin đường. Có nhóm tới bữa cơm cầm chiếc camen gõ coong cong trước
cửa lán. Tôi lại phải đem nồi thức ăn mặn của mình ra san sẻ.
- Hằng ơi, viện trợ bát nước mắm.
- Hằng ơi, tớ xin thìa mỡ.
- Hằng ơi, cơm nhạt khó nuốt quá. Nồi cá kho của cậu xem chừng
cần san bớt đi. Chủ nghĩa cộng sản được xây dựng trên tinh thần tương thân
tương ái.
May mắn hơn nhiều bạn sinh viên khác, tôi không phải lo lắng
vì miếng cơm, manh áo. Nhưng tôi bị phân tâm vì mẹ tôi. Bất kể sự ngang trái
nào, bất kể sai lạc nào, tôi cũng là con. Và tôi yêu mẹ. Qua tin tức của những
người quen, tôi biết những nỗ lực của mẹ tôi đã có kết quả. Cậu Chính khỏi bệnh,
trở lại làm việc. Một lần mẹ tôi ốm, cậu mợ ấy đã đèo nhau tới chơi. Lần ấy, mẹ
cũng bày biện trà thuốc, bánh kẹo, mời cô Vị và đám láng giềng sang để giới thiệu
vợ chồng người em trai.
- Cậu ấy là cán bộ tư tưởng của Đảng và mợ ấy là giáo sư trường
Đoàn.
Đứa con gái cô Vị kể lại với tôi, mẹ đã sung sướng biết bao
khi giới thiệu những người ruột thịt của mẹ như thế, trước đám dân lao động
trong ngõ phố. Nghe chuyện, tôi tạm yên tâm. Tôi mừng cho mẹ. Dầu sao, con người
cũng nên có một cái lý để tự hào. Nhưng tôi không thể nén cảm giác tủi cực, có
đôi phần uất ức. Chính họ, chính những người đem cho mẹ niềm vinh hạnh ấy là
duyên cớ sự chia rẽ trong gia đình chúng tôi. Và, chui vào một góc tối trong học
đường, ngồi giữa những hàng ghế thênh thang, bụi bặm, tôi mơ đến mái nhà vá víu
của mình. Tiếng mưa rỉ rách gõ trên mái tôn. Âm điệu xôn xao của buổi lê minh,
khi chân trời chưa rạng, khi tiếng gọi í ới, tiếng mắng chửi con cái, tiếng sai
bảo công việc cùng lúc vang lên, ném qua các bức tường, hòa với mùi thơm của
các món ăn sáng, tạo nên bầu không khí quen thuộc với tôi từ thuở ấu thơ. Tôi
mơ tới giàn hoa đăng tiêu cháy như lửa, ngạo nghễ và chói chang giữa khóm nhà
lô nhô, giữa những bức tường cắm mảnh chai bẩn thỉu và gớm ghiếc, như một bài
ca khát vọng quá mãnh liệt trào lên trên ngọn triều bèo bọt của đời thường. Tôi
mơ đến tiếng hát khàn và sai lạc của anh què, nghe như tiếng đổ vỡ, tiếng kêu,
lời mời gọi. Tôi mơ tới một que kẹo mạch nha...
Học kỳ ấy tôi được xép hạnh sinh viên ưu tú, Cô Tâm may cho
tôi hai chiếc áo bằng hàng mútxơlin ngoại, một chiếc màu lòng tôm, một chiếc
xanh da trời. Ai cũng khen tôi mặc áo mới, trông trẻ và xinh hẳn ra. Cô Tâm im
lặng nghe những lời khen ấy, với vẻ mặt đăm chiêu. Chắc cô đang tính xây cho
tôi một thiên đường ngay ở cõi trần ai này. Cô đổi chiếc xe nữ Thống Nhất cũ rỉ
tôi vẫn đi bằng chiếc xe Mifa mới. Cô định mua xe Pơgiô cho tôi nhưng may sao,
người đàn ông đeo kính màu xanh chai đã kịp gàn.
- Không phải em tiếc cháu. Nhưng con gái đi xe đắt tiền chỉ
làm mồi cho bọn bất lương.
Cô nghe theo, nhưng cô vẫn đánh một sợi dây chuyền vàng tây bắt
tôi đeo.
- Nam vô tửu bất thành nam, nữ bất điểm trang bất thành nữ.
Cô nói thế. Rồi cô xuống một làng ngoại thành đóng cho tôi một
lúc ba đôi giày. Thứ có gót, thứ hở gót, thứ quai tết không khóa cài. Nhưng có
một nguyên tắc, không bao giờ cô đưa quá nhiều tiền cho tôi. Vàng cũng thế. Tôi
ít ra thành phố, thường lúc rỗi tôi chúi mũi vào thư viện đọc sách. Chưa nhận lời
yêu ai, tôi không ham đi xem chiếu bóng, xem xiếc, rong chơi. Tiền đối với tôi
dường như không cần thiết. Và thế, món trợ cấp hàng tháng của cô cứ dồn tích lại.
Tôi định khi nào mẹ nguôi giận tôi sẽ đem món tiền ấy về, thay lại mái nhà cũ.
Nếu không đủ đổ mái bằng, tôi cũng lợp ngói Tây. Nhưng trái với dự tính của
tôi, món tiền ấy đã được dùng vào việc khác.
Ấy là một chiều xuân, tháng hai, mưa phùn rắc đầy trời. Ánh
chiều tím sẫm, lọc qua mưa, bảng lảng như khói. Chúng tôi ngồi trong phòng, vừa
tí tách ăn hạt bí, vừa tán chuyện hôm trước, lớp trưởng của chúng tôi cưới vợ.
Anh ta là bộ đội chuyển ngành, 33 tuổi, xấu mã nhưng rất tốt bụng. Một người
chính trực, công bằng. Trong lớp, kể cả những chàng trai ngang ngược nhất, kể cả
những cô gái chỏng lỏn, hoặc lười học ham chơi, hoặc đôi co mách lẻo, hoặc có
thói ăn cắp vặt... những người bị anh đề nghị kỷ luật cũng không thù ghét được
anh. Sáng qua, mưa phùn dầm dề. Cả lớp đội mưa, bì bõm lội qua một khúc đường sống
trâu để vào dự đám cưới. Làng anh ở Vĩnh Phú, vùng đồi xinh tươi nhưng nghèo
khó. Đám cưới có cả kẹo nuga, kẹo Hải Hà, cả kẹo bột và chè lam nhà tự nấu. Hạt
bí anh phải mua từ Hà Nội đem về. Cô dâu ở làng, một thôn nữ khỏe mạnh, lưng to
chân to. Hai má không cần đánh phấn cũng đỏ rực. Đám cưới vui.
Chừng bảy tám giờ tối, lũ chúng tôi mới mò mẫm ra ga, trở về
Hà Nội. Cô dâu chú rể quần xắn ngang bắp chân theo ra ga đưa tiễn. Hai người
dúi cho chúng tôi một gói hạt bí, một bọc chè lam, lại cả một đùm bánh khoai
bánh nếp. Con tàu chạy suốt đêm. Chúng tôi vừa phải chống đỡ đám hành khách lôi
thôi tràn trên các ga lẻ, vừa rôm rả chuyện trò.
Gần sáng, tàu mới tới thành phố. Kéo nhau về khu học xá, cả bọn
lăn ra ngủ. Nhưng khi cơn buồn ngủ đã được thỏa mãn, chúng tôi lại cảm thấy phấn
khích, lại tụ tập nhau cắn hạt bí, tán chuyện. Đối với tuổi thanh xuân, đám cưới,
hôn nhân, tình yêu là đề tài bất tận. Một cô nàng chợt hô lên.
- Sắp hết hạt bí rồi.
Cả đám nhao nhao nói.
- Đề nghị tiếp tục trợ cấp.
- Tới lượt ai?
- Ninh, tới lượt cái Ninh. Ba lần trước nó đều đánh trống lảng.
Ê, Đào Thị Ninh, xùy tiền ra. Nay đã tới phiên nhà ngươi nộp thuế thân.
- Nhưng mà đến hôm nay mỗ lại hết tiền... Ha ha ha... may thật
là may.
Đào Thị Ninh, một cô gái quê Hải Phòng, to béo, đen mập, sống
mũi gồ to như con trai nhâng nháo nói. Nói xong, cô nàng lại đứng phắt lên,
ngay giữa đám đông lộn hết các túi áo túi quần. Mấy cậu bạn trai nhăn mũi.
- Hắt xì hơi, mất vệ sinh.
- Thôi, ngồi xuống, đàn bà con gái gì mà...
Ninh liền túm tóc cậu con trai vừa nói lên.
- Mà làm sao, nói tiếp?
Cậu bạn cười cười, cố gỡ mái tóc uốn quăn chùm nho khỏi bàn
tay cứng như thép của nữ lực sĩ. Ninh hỏi.
- Nói mau, không ta cho một chưởng.
Cậu bạn chớp mắt, rồi đánh liều.
- Mà mà... thơm như hoa nhài vậy.
Cả bọn rũ ra cười, nước mắt giàn giụa, cười xong, chừng vẫn
nhớ rằng hạt bí sắp hết, mà câu chuyện đang giòn. Tất cả quay lại Đào Thị Ninh.
- Mày đích thị là đồ hủi. Lần nào phải nộp phạt mày cũng hết
tiền.
Ninh cười ha hả.
- Số mỗ luôn luôn may. Thần tài phù trợ cho mỗ.
Đoạn Ninh khoa chân múa tay, hát tuồng.
- “Như ta đây, chẳng phải dân Nghệ An, Hà Tĩnh nhưng thánh
keo cũng gọi bằng cụ tổ. Năm một hội, tháng hai kỳ, dân con miền Trung xì xụp
khói hương, lễ bái ta, ta phù hộ độ trì cho muôn dân xứ... keo...”
Một cô bé quê ở Hải Hưng rú lên trước, rồi cả bọn cứ thế mà
cười theo. Lần này, đứa nào đứa nấy ôm bụng bò lóp ngóp trên giường, lũ con
trai chổng cả vó lên, giãy đành đạch. Từng cơn cười kéo tới, không kiềm chế nổi,
từ người nọ lây lan sang người kia. Phải 10 phút sau, chúng tôi mới hoàn hồn.
Tích, một anh chàng quê Nghệ An, vừa lau nước mắt vừa nói.
- Tổ cha mi, mi vào quê tao xem mi có dám hát thế không?
Ninh đáp lại liền.
- Tổ cha mi, tau mà vào quê mi tau thành triệu phú.
Tích thật thà quay lại hỏi.
- Sao vậy?
- Tau thuê thợ tiện, tiện một ngàn con cá gỗ. Đem sơn vàng,
sơn đỏ, vào quê mi bán giá thắt cổ, tau thành triệu phú liền.
Tích vỡ lẽ, giơ nắm tay đấm Ninh. Ninh chạy. Hai người đuổi
nhau mấy vòng liền. Rồi, sau đó, Ninh giơ tay đầu hàng.
- Kéo cờ trắng.
Cả hai về chỗ ngồi, thở hổn hển. Lúc ấy, Đào Thị Ninh quay
sang bảo tôi.
- Ê, nhà tài phiệt mặc quần thâm, xì tiền đi mày.
Tôi bảo.
- Cũng được. Nhưng mày phải đi mua. Trời mưa, tao ngại lắm.
Ninh liền trợn mắt quát:
- A, ra mày cậy có tiền, mày muốn ngồi nhà phải không?
Tôi đáp:
- Tất nhiên, ông mất của kia, bà chìa của nọ.
Cô gái lực sĩ liền túm lưng áo tôi, nhấc bổng lên.
- Này, đây là luật của bạn bè, nghe không? Mặc áo mưa vào và
đi ngay tắp lự. Mày giở thói bà chủ ra, mày sẽ bị tống cổ khỏi hội ngay.
Tôi nghĩ, Ninh cũng có lý. Vả lại, không ai có thể khuất phục
cái con bé nặc nô ấy. Bụng tức, nhưng tôi vẫn phải trùm áo mưa đi. Ở cổng trường,
có một dãy hàng quán. Tới đó, có thể mua từ hộp sữa ngoại tới vài cái kẹo vừng
hoặc mấy nắm bỏng ngô.
Sân trường lầy lội. Khu nội trú càng lầy lội hơn. Những viên
gạch ném trên lối đi chìm nghỉm trong lớp bùn nhão. Đám cỏ loi phoi nhú ngọn
lên. Tôi bước từ viên gạch lát này sang viên gạch lát kia, cố gắng không trượt
chân dẫm xuống nước. Chú tâm vào việc đó, tôi không biết có một người đang đi
ngược lại phía mình.
- Hằng!
Tiếng gọi giật giọng khiến tôi giật nảy, ngẩng mặt lên. Cách
tôi vài bước chân là cô Vị. Cô trùm tấm nilông xám, dài ngang khoeo chân. Quần
đen xắn tới bẹn. Đôi chân trần lội trong bùn. Một tay cô giữa tấm vải che mưa,
tay kia xách đôi dép.
- Cô tìm cháu suốt từ lúc tan tầm.
Tôi nhìn gương mặt đầm đìa nước của cô.
- Lâu quá cháu chưa về nhà... Có chuyện gì thế cô?
Cô cũng đăm đăm nhìn tôi, rồi thay vì trả lời, cô nói một câu
chẳng ăn nhập gì vào câu chuyện.
- Mày có lớn mà chẳng có khôn, Hằng ạ...
Xung quanh chúng tôi là khoảng sân láng nước, mấp mô các gờ đất,
các lối đi rải sỏi. Không nơi nào trú chân được. Tôi nói với cô.
- Cô quay ra cổng trường với cháu. Ở đó, có quán hàng.
Cô gật đầu.
- Ờ.
Rồi chúng tôi im lặng đi về phía cổng trường. Mười phút sau,
tôi đưa cô vào quán bà Nhu, một bà chủ quán quen thuộc. Nhiều lần cô Tâm lên,
cô cháu tôi thường ra ăn quà ở đó. Bà Nhu đang ngồi ngáp, đon đả cất tiếng
chào. Rồi bà chỉ cho chúng tôi khúc tre thừa đầu quán, để móc mấy tấm vải che
mưa. Những chiếc ghế băng lấm bùn. Tôi mượn bà Nhu mảng giẻ lau. Bà hỏi.
- Cô Hằng ăn gì?
- Cháu xin bà hai chén chè nóng với đĩa bánh đậu xanh.
Bà Nhu rót hai chén chè Thái xanh vào chén vại, rồi đặt một
gói bánh đậu xanh lên chiếc đĩa hoa Hải Dương.
- Bà với cô tự nhiên nhé, cho tôi vô phép...
Sau khi nói một cách lịch sự, bà co hai chân lên ghế tựa lưng
vào vách, ngủ gà ngủ gật. Cô Vị uống một hơi hết cả chén nước, có lẽ cô đang lạnh.
Rồi cô hỏi.
- Sao hôm đi, không rẽ vào cô?
- Mẹ cháu đuổi cháu đi tức khắc. Vả lại, lúc ấy cháu không
nghĩ ra.
- Lúc ấy, cô còn ở nhà. Hàng chưa đủ gánh. Giá cô biết thì
không đến nỗi.
Cô thở dài sườn sượt. Tôi ngồi im. Tốt nhất là im lặng và đợi.
Những năm tháng sống cô đơn dạy tôi điều ấy. Cô Vị lại uống nốt chén chè thứ 2,
và nói.
- Mẹ mày khổ lắm.
- Nhưng cháu cũng có sung sướng gì đâu?
- Đã đành, nhưng mẹ vẫn là mẹ.
- Bao giờ cháu cũng yêu mẹ cháu.
- Trời đầy bà ấy.
- Chính mẹ cháu đã đuổi cháu đi.
- Phải, cô biết... Nhưng mẹ mày không muốn thế.
- Không muốn?
- Phải, không muốn, nhưng vẫn cứ làm. Ở đời, nhiều khi như vậy.
Bao giờ cháu lớn lên, từng trải hơn khắc biết. Chẳng phải đương nhiên, nhân
gian có câu: ma đưa lối, quỷ đưa đường.
Tôi mở chiếc nắp bông ủ trên tích nước chè, rót chén thứ ba
cho cô. Chén chè nóng giãy. Cô đưa hai bàn tay ủ chén nước cho đỡ rét. Tôi nói.
- Cô bán hết hàng chưa?
Cô gật đầu.
- Bán hết hàng vừa tan tầm. Cô gửi quang gánh cho người quen
rồi đi ô tô tới đây.
Uống nốt chém chè thứ ba, cô đứng dậy.
- Đi đi cháu.
Tôi ngạc nhiên hỏi.
- Đi đâu?
- Mẹ mày què chân rồi. Bị ô tô chèn sáng nay, khi gánh hàng
qua đường. Lúc cô biết tin trời đã non trưa, người ta đã đưa bà ấy vào viện.
Bác sĩ phải tháo khớp gối. Đi đi cháu, bà ấy nằm trong bệnh viện Bạch Mai.
Tôi không nhớ mình đã làm gì lúc ấy. Chân tay tôi giá lạnh,
như bị chuột rút, tôi ngã vào bàn bày bát chén, bánh trái của bà chủ quán. Cô Vị
đỡ tôi lên, trả tiền, nói gì đó thì thầm với bà chủ quá. Rồi bà chủ quán đội áo
mưa le te chạy đi. Lát sau, bà quay về với chiếc xích lô. Chúng tôi cùng lên
xe. Người lái xe kéo chiếc nón lá già che kín mắt, cắm cúi đạp. Đường gồ ghề,
xóc nảy, mỗi lần xe xóc, lại vòng hào quang nảy ra trong mắt tôi. Một cơn rét
run từ xương tủy lan tỏa ra da thịt. Cô Vị ôm tôi, khẽ đập vào vai.
- Khóc đi, khóc đi cho nhẹ.
Tôi không khóc được. Dường như tiếng khóc vón thành cục nước
đá nằm trong họng. Dường như máu cũng đông thành một thứ tiết đặc trong các huyết
quản tôi. Mắt tôi tối dần, cùng với bóng tối. Trời vẫn mưa. Mưa xiên lệch cả đất
trới. Cái cổng vào viện trống toang hoác như cửa nhà mồ. Cô Vị đã phải năn nỉ
mãi, người gác mới cho chúng tôi đi qua. Hành lang... Những giường bệnh... Những
gương mặt xa cách và sầu não... Sau cùng là mẹ tôi...
- Mẹ ơi!
Tôi gọi. Và nước mắt trào ra như nước suối, nóng hổi, mặn, chảy
tràn trên hai gò má, lan xuống cằm, rơi thánh thót. Bỗng dưng, khối tiết đông đặc
trong tôi tan chảy thành các dòng máu. Cục đá trên tim tan chảy thành từng giọt
lệ. Người tôi nhẹ bổng đi.
- Mẹ ơi!...
Mẹ tôi quay ra, giơ một bàn tay cho tôi, mỉm cười. Nhưng môi
mẹ méo xệch. Rồi nước mắt cũng tuôn đầm đìa trên gò má những vết nám và những vết
tàn nhang. Chân mẹ quấn đầy băng cụt ngang gối.
Chương 19
Có tiếng ai gọi trong sương mờ. Sao giọng nói xa lạ? Tôi định
mở mắt nhưng không được. Tiếng gọi lặp lại lần thứ hai:
- Dậy đi cô bé, tới nơi rồi.
Bàn tay cứng cáp của một người đàn ông nào đó lắc vai tôi.
Tôi choàng dậy:
- Chào cô bé, hết khóc chưa?
Người đồng hành cười, những chiếc răng bạc lóe lên. Chiếc mũi
khoằm của ông ta giờ đây không còn làm tôi khó chịu. Giơ ngón tay trỏ, ông quệt
nhẹ vào má tôi:
- Hãy còn nước mắt đọng đây nhé. Tôi hy vọng là ra ngoài gió
nó sẽ khô.
Tôi sực nhớ cảnh toa tàu đêm qua, hai gã trai thô bạo, cơn tủi
cực tràn đầy con tim nhỏ bé của tôi. Tôi đã nức nở mãi trong mơ. Người đàn ông
sắp xếp hành lý:
- Chuẩn bị xuống ga đi, cô bé. Chỉ còn một hai phút nữa thôi.
Mátxcơva đã ở bên ngoài. Qua ô cửa, tôi thấy khung cảnh quen
thuộc của nhà ga. Các đường ray, các mái trú tạm, kè xi măng đón khách chạy giữa
các tuyến đường. Các cụm đèn tín hiệu. Các nhân viên nhà ga lặng lẽ đi lại.
Trên một mái nhà lợp đá đen xa xa, lũ bồ câu đứng hiền lành.
Tiếng còi tàu rú lên. Ở nơi nào trên trái đất, tiếng còi tàu
cũng thế. Người đồng hành nắm cánh tay tôi:
- Mặc áo vào cô bé. Và đưa chiếc túi tôi đeo cho.
Không chờ tôi trả lời, ông ta khoác luôn chiếc túi du lịch của
tôi vào vai, trông ông thật giống một con ngựa thồ. Thứ ngựa vùng sa mạc, gân
guốc và thanh mảnh. Chúng tôi cùng đi ra ga, trông như hai cha con người Trung
Á về thủ đô, hòa vào dòng người đông đúc. Thỉnh thoảng, người đàn ông cúi xuống
nhìn tôi, vẻ như ủ ấp và che chở. Cái nhìn của ông ta khiến tôi nao lòng. Trong
ký ức của tôi, biết bao lần ánh mắt che chở như thế đã hiện về, giữa những trưa
hè oi ả, giữa đêm lạnh gió mùa đông bắc ù ù thổi, giữa những cơn mưa thu dầm dề...
khoảng thời gian dài rộng đã được đan nối bằng quá nhiều giấc mơ non yểu viển
vông và quá nhiều nỗi khao khát. Thỉnh thoảng, người đàn ông lại cầm bàn tay
tôi, bóp nhẹ. Tôi nhìn ông ta với lòng biết ơn.
Nhưng phút giây hạnh phúc ngắn ngủi rồi cũng hết. Chúng tôi
chia tay nhau trước sân ga. Người đàn ông cúi xuống, nói dịu dàng:
- Rất tiếc, cô bé nhé. Tôi phải đến nơi hẹn bây giờ. Tôi
không thể đưa cô đi.
- Cảm ơn ông rất nhiều. Tôi biết tất cả các ga xe điện ngần của
thành phố.
Ông ta nghiêng đầu cười:
- Cô bé nói tiếng Nga giỏi hơn tôi. Tôi ở...
Ông ta đọc một tên thành phố nào đó chưa từng biết. Có lẽ, nó
không được ghi trên bản đồ.
- Một lần nữa, chào nhé. Hãy đi, và đừng để ai bắt nạt.
Ông ta ghì lấy tôi, hôn lên tóc rồi quay đi. Ông ta qua đường
hối hả. Tôi cũng bước đi, hối hả. Tôi tới ga xe điện ngầm gần nhất.
Đừng bao giờ quay lại nhìn, dù một thoáng.
Vì phút giây hạnh phúc sẽ vỡ tan.
Vì phía trước, con đường sẽ trở nên lạnh lẽo...
Những câu thơ tự dưng vang dội trong óc tôi. Như có thi sĩ
nào đó, vớii giọng ngâm bốc lửa đang đọc chúng trong một căn phòng vắng.
Tới ga xe điện ngầm, tôi đáp chuyến đi thứ hai trong ngày.
Toa tôi ngồi có chừng trên một chục khách, Họ vừa đọc báo, vừa nhai bánh mì kẹp
thịt. Có lẽ họ từ một nhà máy nào vừa đi ra, Tới ga thứ ba, bọn họ xuống hết.
Còn một mình tôi. Tôi ngắm mình trong tấm kính đối diện, lấy lược ra chải lại
tóc. Rồi rút bánh trứng trong túi du lịch, ăn. Lần này khôn ngoan hơn, tôi phải
chuẩn bị đồ ăn từ nhà. Giá có một chén chè nóng với lát chanh thì tốt. Ăn xong,
tôi mở sổ ra xem địa chỉ. Năm trước, cậu Chính cùng đoàn công tác đi ngắn ngày,
ở khách sạn năm Rátxia. Lần này cậu xin đi tập huấn bốn tháng, ở trường Đảng
Aôn, ngoại thị. Không hiểu sao, người ta cho một ông già ngót nghét 60 tuổi như
cậu đi học? Có lẽ, đó là một trong những chính sách tuyệt diệu nhất. Sực nhớ
gương mặt cậu trong lần gặp gỡ trước, tôi không khỏi mỉm cười.
Chuyển tàu mấy lần, tôi mới tới được nơi cậu ở. Aôn đây là
trường học được biệt ưu ở nước Nga. Không có một trường học nào được dành cho mọi
sự thuận tiện về sinh hoạt, phương tiện học tập và giao tiếp như ở đây. Tôi đã
nghe nói nhiều về nó. Tôi biết ở đây, mỗi học viên được sử dụng một phòng, điều
mà sinh viên các trường khác, kể cả đại học Lômônôxốp không dám mơ ước. Tôi hy
vọng được vào căn phòng riêng của cậu, để uống một chén chè nóng pha đường.
Nhưng người ta báo cho tôi biết cậu không có nhà. Tôi hỏi:
- Cậu tôi, ông Đỗ Quốc Chính nằm bệnh viện?
Người trực ban ngạc nhiên nhìn tôi:
- Viện nào? Đồng chí ấy gửi cho chúng tôi mảnh giấy này.
Một mảnh bìa nhỏ, trên đó ghi vài dòng chữ Việt:
“ Hằng có đến, tìm cậu ở nhà anh Khoa, nghiên cứu sinh ở...”
Giờ, tôi không nhớ rõ địa chỉ ấy. Nó ở gần đại lộ Lômônôxốp
mang tên nhân vật có họ Ulivanốp, có lẽ là em của Lênin. Một tòa nhà cao tầng,
kiến trúc tầm thường, kiểu kiến trúc phổ thông sau thế chiến thứ hai. Cửa chính
tòa nhà giáp một cửa hàng bách hóa cỡ nhỏ. Trong đó, người ta bán một số đồ
dùng lặt vặt như cốc chén, thìa nĩa, xoong nồi, bàn chải răng, các loại xà
phòng thơm và xà phòng giặt... Có cả bơ, cả phómát. Nhưng lớn nhất là quầy bia
rượu. Người bán hàng, một ông già cao lớn, vạm vỡ, mặc áo blu trắng, đội mũ trắng.
Ông đi đi lại lại sau các quầy hàng, lấp lánh đủ thứ chai rượu và các giấy
trang kim, trông như một trái núi tuyết di động. Khách mua hàng rất đông, từ
chai nước quả chục kôpếch đến chai cônhắc nhãn năm sao mấy chục rúp. Ông giao
hàng và nhận hàng cùng với dáng vẻ vô cảm như nhau. Đôi mắt của ông còn rất
trong, xanh lơ, đưới hai tràng mày bạc trắng. Hai bàn tay to, rắn rỏi, với những
vết đồi mồi lớn và các đường tĩnh mạch nổi phồng lên. Tôi đã đứng sau lưng đám
người mua hàng, nhìn ngắm ông rất lâu.
Trong khoảng thời gian đó, tôi bị giằng co giữa ý nghĩ bước
vào khu nhà xa lạ kia và trở lại ga, lên tàu về tỉnh lỵ của chúng tôi. Rõ ràng,
cậu Chính không ốm. Cậu đã bịa ra cớ ấy để gọi tôi lên Mátxcơva. Không lẽ bên
nhà có tin đột xuất? Nếu có, hẳn mẹ tôi đã đánh điện thẳng cho tôi. Từ ngày bị
cụt một chân, không còn đi lại xông xáo được. mẹ đã ngồi ở nhà, mở quán bán chè
chén. Khung cửa sổ của chúng tôi đã được đục to thêm, trát xi măng phẳng phiu.
Để tạo thành một khoảng không gian rộng rãi. Ở ô cửa ấy, mỗi sáng mẹ ngả tấm
ván gỗ có chân chống xuống, biến thành chiếc bàn bán hàng. Gánh hàng khô xưa đã
bán hết. Vốn buôn cụt dần đi, chỉ còn đủ mua vài chiếc lọ thủy tinh lớn nhỏ đựng
lạc, kẹo vừng, thuốc lá cuốn rẻ tiền, bánh đậu xanh và bánh rán không nhân bán
dỗ trẻ con, chừng một chục chiếc chén vại Bát Tràng. Dăm túm bánh chưng và bánh
gai của các hàng bán đem gửi. Một ấm chè Thái ủ trong giỏ lót bông. Thêm chiếc
điếu cày là đủ lệ bộ. Khách đa phần là dân trong ngõ. Họ bán hết gánh bún xong,
trở về ngồi ăn chiếc bánh chưng, hoặc bán chè rồi tới ăn chiếc kẹo vừng cho lạ
miệng. Họ đi nhặt những đồng bạc lẻ, nhàu nát của dân thành phố, rồi đem về ngõ
xóm nuôi nhau. Có khi, uống một chén chè chiếu lệ, họ ngồi chuyện vãn với mẹ
tôi cả buổi. Và mẹ tôi, cũng bòn những đồng bạc lẻ của họ, bỏ vào chiếc bị cói
nhỏ, như người ta làm một nghĩa vụ không hào hứng bao nhiêu. Số tiền lời ấy, mẹ
có thể mua đủ xuất gạo. Dương nhiên, tiền ăn tiêu trông cả vào những hòm hàng gửi
qua tàu biển hoặc bưu kiện của tôi. Cuộc đời sinh viên của tôi đã kết thúc, kể
từ buổi chiều xuân mưa dầm dề, khi người hàng xóm tới báo cái tin độc địa...
Giờ đây, tôi tới thăn cậu Chính làm gì? Người mà tôi bị trói
bởi một mối liên quan không thể tháo gỡ. Ông già bán rượu vẫn đi lại trước mặt
tôi, luôn tay giao hàng. Dáng đi của ông bồn chồn như con gấu đợi mồi. Tia nhìn
chậm rãi, nhưng đôi mắt còn rất trẻ, rất xanh. Những người khách mua hàng xong
đều lặng lẽ ra đi. Ngay trước cửa hàng, là bến xe buýt. Xe tới, xe đi, hầu như
không có tiếng động. Khác hẳn Hà Nội, một thành phố luôn luôn bị lên cơn co giật
thần kinh bởi những tiếng còi xe hỗn độn, man rợ. Thêm vào đó, là tiếng pháo nổ
bất thường, không cần luật lệ và tiếng rú thất thanh của một gã say rượu hứng
chí hoặc của một vụ cãi cọ, đánh đấm nhau. Những người dân Nga im lặng xếp
hàng, mua hàng, im lặng ra bến xe chờ đợi, im lặng lên xe. Những con người hiền
lành, tuân thủ luật tắc. Trong cái trật tự của đời sống ở xứ này, hàm chứa cái
gì đó trì đọng. Một thứ an bình của làn nước hồ không gió bão, không luân chuyển.
Một thứ êm ả của núi cao, của cỏ cây trong thung lũng, làn không khí trong trẻo
nhưng thiếu dưỡng khí cho sức triển nở, sức sáng tạo và sự thăng hoa của con
người. Nhưng dẫu sao, nhìn những người dân với vẻ mặt êm hòa, nhiều chịu đựng ấy,
tôi vẫn thấy họ đã được nhào nặn qua một từ trường của văn hóa, của một xã hội
chí ít cũng tạo nên những thành trì của văn minh vật chất và tinh thần.
Xe buýt đã tới. Đám người đứng chờ trong trạm ghép gỗ nối
nhau lên. Họ không chen lấn, xô đẩy. Lúc này, tôi phải quyết định: nhảy lên xe
buýt ra ga hoặc vào khu nhà kia. Một chàng trai từ trong cửa hàng chạy bổ ra,
va phải tôi. Anh ta ngoái cổ lại:
- Xin lỗi nhé.
Rồi sải những bước chân rất dài, anh ta lên xe. Hai nách kẹp
hai chai rượu. Chai thứ ba thò thò lên từ miệng túi quần. Tôi đang nhìn anh, xe
đã lăn bánh. Tôi thầm nghĩ:
- Trễ rồi.
Vậy là trời đã bắt ta phải gặp cậu Chính thêm lần nữa. Tôi đi
ngược lên chừng 50 thước. Ở đó, cổng ngôi nhà đã khép kín. Tôi đành đi vòng lại
cổng sau, ở phố bên kia. Trước cổng này, có một đám đông thanh niên. Họ đứng
túm tụm lại, nhưng rất ít chuyện trò. Hóa ra họ ăn kem. Quày bán kem ngay gần
đó thụt sâu vào một khu vườn. Có khoảng trên một chục người đang xếp hành trước
khuôn cửa gỗ hình tổ tò vò, chờ mua kem. Đa số là người Việt. Tôi chắc họ là những
nghiên cứu sinh hoặc cán bộ thực tập trong ngôi nhà kế đó. Tôi chọn người đàn
ông tóc muối tiêu, mặc complê màu xám nhẹ, sơmi trắng có đường thêu hoa văn dọc
từ vai xuống gấu để hỏi thăm:
- Thưa chú, trong nhà này có anh Khoa, nghiên cứu sinh năm thứ
hai không?
Người đàn ông tóc muối tiêu ăn mốt miếng kem cuối cùng, rút
mùi xoa lau miệng, lau tay rồi hỏi lại:
- Khoa nào? Trong nhà này toàn các nghiên cứu sinh cả. Người
nhà em làm luận án về môn gì?
Tôi im lặng. Lúc ấy, tôi chưa kịp nghĩ tới địa chỉ cụ thể của
cái ông nghiên cứu sinh tên là Khoa kia. Tôi vẫn nghĩ, đám người làm luận án
phó tiến sĩ chắc không bao nhiêu và họ quen biết nhau cả. Người đàn ông chăm
chú nhìn tôi và hỏi:
- Em ở xa mới về Mátxcơva, đúng không?
- Vâng. Xa lắm.
- Tiếc cho em quá. Ở đây có Khoa Điện-cơ, Khoa Sinh-Hóa, Khoa
Ngữ-văn. Nghĩa là chừng ấy ông Khoa được gắn liền với môn khoa học làm luận án
thành biệt hiệu.
- Cháu có địa chỉ của anh ấy.
Tôi đáp và đưa cho người đàn ông tấm bìa. Ông ta đọc, rồi đưa
mắt nhìn tôi rất nhanh. Tôi không đoán được ý nghĩa của cái nhìn đó. Nhưng tôi
biết chắc chắn nó hàm chứa một hiện thực không bình thường. Người đàn ông nói:
- Khoa Sinh-Hóa. Tôi có thể đưa em đến tận nơi. Em có mang đủ
giấy tùy thân theo không? Ở đây, người ta nguyên tắc máy móc lắm.
Tôi gật đầu:
- Cảm ơn chú. Cháu chuẩn bị rồi.
Người đàn ông giúp tôi xách túi du lịch. Ông ta bước lên bậc
tam cấp, đẩy cánh cửa gỗ luôn khép kín cho tôi vào. Qua một phòng gỗ hẹp ngăn
cách giữa cửa lót bên trong, như kiểu kiến trúc thông dụng các tòa nhà ở đây,
chúng tôi bước vào gian tiền sảnh. Đó là một căn phòng rộng, có những chiếc ghế
gỗ cũ và xoàng xĩnh kê sát tường cho người lên xuống ngồi chờ. Một tấm bình
phong giá ghép bởi các khung gỗ có căng vải sơn vẽ hình trang trí, ngăn cách
gian tiền sảnh chính rộng hơn. Bên trái gian tiền sảnh, một phòng trực ghép gỗ,
khung cửa vuông. Một ông già ngồi trực bên trong. Ông đang đọc sách chăm chú,
mái đầu trắng phơ cúi xuống, những chòm lông bạc đâm tua tủa từ hai lỗ tai lớn
ra hai bên. Người đàn ông tóc muối tiêu bước tới gõ gõ vào khuôn cửa gỗ. Tôi chắc
ông lão nặng tai. Quả nhiên, người đàn ông gõ tới lần thứ ba, ông mới ngẩng
lên:
- A... Có việc gì vậy?
Ông hỏi với giọng nặng và trầm, không giống giọng nói của dân
Mátxcơva. Thay vì trả lời, người đàn ông hỏi lại, với cách phát âm và ngữ điệu
Nga một trăm phần trăm.
- Bố già lại vùi đầu vào sách. Ai vậy?
Ông già lật tấm bìa lên. Đó là cuốn Chàng Ngốc của Đốtxtôiépxki.
Người đàn ông tóc muối tiêu xốc cổ áo nói:
- Con người khổng lồ của nước Nga.
- Đúng, đúng.
Ông già dật đầu tán thưởng với một niềm hân hoan sâu sắc. Ông
chìa bàn tay hồng như bị cước, đầy những vết đồi mồi ra bắt tay người đàn ông
tóc muối tiêu. Họ gật gù nhìn nhau. Sau đó, người dẫn đường của tôi nói:
- Có một cô bé từ tỉnh xa tới, cần gặp anh Khoa Sinh-Hóa. Giấy
tờ của cô ta đây. Bố già vào sổ giúp cho.
Ông ta đưa giấy tùy thân của tôi cho ông già. Rồi quay lại vẫy
tôi lên:
- Cô bé ấy đây.
Ông già đưa mắt nhìn tôi một cách nghiêm khắc. Sau đó ông lấy
cuốn sổ trực to tướng, cẩn thận mở ra, ghi tên họ và số giấy tùy thân của tôi
vào những hàng cột dọc. Ghi chép xong, ông bỏ tất cả vào ngăn kéo và gật đầu
nhìn tôi:
- Đi đi.
Tôi cúi chào ông, bước đi. Ánh mắt của ông vẫn đuổi theo, tôi
linh cảm thấy điều đó. Nhưng tôi không dám quay lại nhìn. Chúng tôi vào buồng
thang máy, lên tầng tư, tới tận cửa sổ nhà của ông nghiên cứu sinh tên là Khoa.
- Đây rồi.
Người đàn ông tóc muối tiêu nói. Chúng tôi cùng đứng lại. Một
lần nữa ông ta đưa mắt nhìn tôi, cái nhìn hàm chứa điều bí ẩn nào đó. Hình như
ông ta định nói, nhưng sau phút giây lưỡng lự, lại thôi.
- Tôi đã làm xong phận sự với em rồi. Thôi, xin chào.
Ông ta chìa tay ra:
- Và chúc mọi sự bình an.
Đó là lời nói sau chót. Người đàn ông quay đi, và biến mất ở
khúc rẽ của hành lang.
Tôi gõ cửa, chuẩn bị tinh thần để gặp một người đàn ông xa lạ.
Nhưng người mở cửa chính là ông cậu tôi.
- Cháu Hằng, vào đây. May quá, cậu mong cháu từ chiều hôm
qua. Ở đàng Aôn, người ta có nhắn gì cậu không?
Tôi bước vào, lẳng lặng treo áo, lẳng lặng ngồi xuống ghế rồi
đáp:
- Cháu không gặp ai cả. Người trực ban đưa cho cháu mảnh giấy
này.
- Thế hả, thế là tốt.
Cậu nói, và thở phào. Lúc ấy, tôi mới nhìn cậu. Một tay cậu cầm
con dao lưỡi to bản, chắc đang thái thịt. Bụng cậu quấn tạpdề làm bếp. Chân cậu
đi dép lê của đàn bà, thứ dép thêu từ Việt Nam xuất khẩu sang, bán có hai đồng
rúp một đôi. Căn phòng vắng, chủ nhân nó đã để lại chiếc giường với đống chăn gối
nhàu nát, chưa thu dọn. Tấm vải trải xiên lệch, bên mép đầy những vét chùi
chân. Đầu giường treo tấm áp phích quảng cáo quần lót phụ nữ của HàLan. Một cô
gái, đứng ưỡng rốn vào mặt khách, ở cái vị trí dễ thấy nhất trong căn phòng. Cô
gái có đôi mắt đen hoang dã, riềm mi dày và mái tóc uốn xù đổ xuống lưng. Góc tấm
áp phích ấy là tấm ảnh cỡ chín-sáu của chủ nhân, dược dán ép vào cùng với dòng
chữ: “ Mùa đông đầu tiên ở Mạc Tư Khoa. Nhớ em Nga của anh.” Cuối giường, một
chiếc bàn cao chân, trên để các chồng đĩa hát ép nghiêng giữa đống sách báo và
tường nhà. Vài bông cẩm chướng khô héo. Vài chiếc dao cạo râu vứt bừa bãi với
chiếc mùixoa bẩn và dụng cụ tránh thai của đàn ông.
Tôi nóng mặt. Tôi chợt hiểu ánh mắt người đàn ông tóc muối
tiêu, Tôi chợt hiểu cái nhìn nghiêm khắc thầm lặng của ông già dưới gian tiền sảnh.
Tiếng nói của cậu Chính vang lên:
- Hằng uống gì nào? Bia hay nước quả?
Tôi chưa kịp trả lời, cậu nói thêm:
- Uống nước kơvát nhé. Ở đây tha hồ xả láng.
- Cho cháu chén nước chè.
Cậu cười:
- Con bé này giản dị nhỉ!
Nói rồi cậu đi pha trà nóng cho tôi. Chưa pha xong chén nước,
đồng hồ treo tường đã thong thả điểm nhịp. Mười một giờ ba mươi. Con chim cúc
cu thò mỏ gỗ ra mổ làm nảy bật một âm thanh trong như tiếng hạc. Cậu Chính kêu:
- Chết thật, đến giờ rồi.
Nói đoạn, cậu hấp tấp bưng chén trà tới đặt trước mặt tôi:
- Cháu uống nước, ngồi chơi nhé. Cậu đang dở tay một tí.
Chúng nó về bây giờ.
- Cậu nói ai cơ?
Thay vì trả lời tôi, cậu lặp lại như cái máy:
- Chúng nó về bây giờ.
Và cậu ngồi xuống, thái tiếp miếng thịt bò đang thái dở. Hai
cái bếp điện đang cháy, thanh cácbon đỏ rực. Một nồi áp suất đang sôi. Bếp kia,
vẫn để không. Cậu Chính thái thịt nhanh như một tay bán phở. Cậu đập tỏi, gia
thêm mì chính, muối tinh ướp thịt. Sau đó, cậu quay sang thái khoai tây. Khoai
tây đã gọt vỏ, cậu xắp hình con chì. Còn súplơ cậu cũng xắt lát dày trên năm
li. Con dao đưa thoăn thoắt dưới bàn tay cậu, chắc chắn còn khéo léo và thành
thục hơn 50 phần trăm số đàn bà Việt Nam thời nay. Còn lại hai củ cà rốt, cậu
lách mũi dao tỉa sơ hình chiếc lá rồi thái sao. Cả cần và tỏi tây cũng được tỉa
chè hình hoa một cách cầu kỳ. Xong các động tác chuẩn bị, cậu đặt chảo mỡ lên
chiếc bếp để không. Chừng hai phút sau, mỡ đã sôi. Cậu thả mớ khoai tây vào.
Tôi hỏi:
- Khoai tây xào thịt bò hả cậu? Sao lại thái hình con chì?
Cậu bảo:
- Ngốc. Khoai tây thái con chì mời dòn dều. Để ăn kèm với rau
sống và thịt bò rán. Còn bát thịt ướp tỏi kia để xào súplơ và cần tỏi tây.
Trong lúc chờ khoai tây chín, cậu vừa đảo đều lên bằng chiếc
bàn sảm, vừa lôi trong gậm bàn một chiếc xoong nhôm mới. Hóa ra xoong đựng đầy
nhân nem, bao gồm thịt băm trộn với miến vụn, rau bắp cải thái, trứng, hành
tiêu cùng ướp. Mở ngăn kéo, cậu rút ra vài tập bánh đa nem, như người làm ảo
thuật. Và trước cặp mắt ngỡ ngàng của tôi, cậu cuốn nem thoăn thoắt. Tôi trầm
trồ:
- Cậu giỏi thật. Ai dạy cậu thế?
Trán cau lại, cậu làu bàu đáp:
- Ai dạy? Không biết làm thì có mà...
Tới đó, cậu ngừng lại. Ngoài hành lang, vang lên những bước
chân ồn ĩ. Có vật gì đó va đập rất nặng nề. Cậu Chính ngừng tay, ngẩng lên nghe
ngóng:
- Chúng nó về đấy.
Cậu nói, lần này là lần thứ ba. Ngay tức khắc sau đó, tiếng
gõ cửa vang lên. Cậu nói to:
- Có đây.
Đoạn bảo tôi:
- Ra mở cửa đi cháu.
Tôi ra chưa tới cứa, đã nghe tiếng một cậu con trai gắt bên
ngoài:
Mau lên chứ! Ông ngủ trong ấy à!
Chương 20
Cánh cửa vừa mở, tôi đứng dẹp sang một bên, cả tốp người đã
ào vào như cơn lốc. Họ lần lượt đặt những gói, những hòm, những túi đựng hàng
hóa xuống góc phòng, rồi mới ngẩng lên. Ai nấy mồ hôi nhễ nhại. Vẻ mặt họ mệt mỏi
và cáu kỉnh.
- Đói quá, xong chưa bố già?
Vẫn cái giọng gắt gỏng ban nãy gào lên. Câu trai lùn nhất
trong bọn, vai ngang, lưng to, và khuôn mặt đỏ rực với quai hàm rất nở, vừa gào
xong, chợt nhìn thấy tôi bên cánh cửa, cậu ta khựng lại. Cậu Chính đáp.
- Sắp xong rồi. Nem vào xào phải ăn nóng.
Đoan, cậu đứng lên:
- Xin giới thiệu: cháu Hằng. Còn đây là chú Khoa, anh Hải,
anh...
Họ chào tôi. Tôi chào lại từng người. Hải, anh chàng thấp lùn
quay lại bảo cậu Chính:
- Bố già chơi khăm. Có phái yếu thì phải giới thiệu trước chứ?
Ông nghiên cứu sinh Khoa, cười.
- Phải cho những cô gái chứng kiến cơn háu đói của anh mới
thú vị. Khi xuất hiện trước các cô, anh nào cũng như siêu nhân.
Đáp lại lời Khoa, cái anh chàng cao dong dỏng, da ngăm đen
khóe miệng đẹp như khóe miệng của vị thần săn đuổi tình ái mỉm cười:
- Đừng chế riễu, ông anh. Chúng em chẳng muốn làm siêu nhân,
cũng chẳng muốn làm ma quỷ. Con người là con người. Những ai thích răn dạy
thiên hạ, luôn luôn khoác áo thày tu và miệng đọc kinh: Nam nữ thụ thụ bất
thân, tới khi tha hóa họ ngủ với con gái không cần đắn đo 15 phút. Những kẻ ấy,
đã trượt là trượt tới đáy bùn.
Nói xong, anh ta kéo ghế mời tôi:
- Mời cô.
Rồi anh ta ngồi xuống chiếc ghế đối diện, dáng điệu như chủ
nhân chính thức của căn phòng. Còn ông nghiên cứu sinh Khoa thì cười cười như để
chống đỡ lực tấn công nào đó, tay lùa vào mái tóc:
- Tôi là con người hành động. Tôi không ưa lý luận đâu.
Anh chàng da ngăm vẫn nhếch môi cười, lộ hai hàm răng trắng
như ngọc.
- Đúng rồi, sau khi đã ban phát cho lũ đàn em chúng tôi mọi
thứ lý luận cao siêu thì các ông anh phải gấp gấp hành động. Không hành động
thì thiệt thòi. Tuổi 50 đuổi sồng sộc sau lưng. Mà cuộc đời còn nhiều thú vui
quá, và các cô con gái cứ mỗi ngày là một lạ lùng hơn.
Nói xong, anh ta lại cười. Làn môi thanh tú nhếch lên. Đôi mắt
nheo nheo nhìn ông nghiên cứu sinh Khoa lúc ấy giả tảng cúi xuống đẩy những hòm
hàng vừa mua được vào gầm giường. Tôi không thể rời mắt khỏi nụ cười ấy. Nó làm
tôi nhớ tới một nhân vật trong bộ phim, 108 anh hùng Lương Sơn Bạc. Nhân vật ấy
là lãng tử Yến Thanh, một tài nhân siêu việt, cầm kỳ thi họa giỏi mà võ nghệ
cũng cao cường. Dáng người thanh tú, gương mặt đẹp, điệu đi uyển chuyển mềm mại,
anh ta xuất hiện giữa đám ca công, kỹ nữ cũng như xuất hiện giữa phường lục lâm
thảo khấu, hoặc đám hảo hớn cùng với một dáng điệu ung dung tự tại và nụ cười
hàm chứa vẻ mỉa mai lẫn sự độ lượng trên môi. Nụ cười đó vừa là nụ cười của con
sói già đã vượt qua bao nhiêu hoang nguyên, đã tử sinh qua bao nhiêu cuộc chiến,
coi hòn đạn mũi tên như cốc rượu quân cờ, lại vừa là nụ cười của một chàng trai
trẻ đang độ thanh xuân, một cánh rừng trinh trắng và quyền rũ. Chưa có người
nào gợi cho tôi sự liên tưởng mãnh liệt như vậy.
- Ối giời ơi...
Anh chàng to béo tên Hải lại quát tướng lên:
- Thôi đừng tranh luận nữa. Tôi đói quá rồi.
Đoạn quay sang tôi, anh ta hạ giọng:
- Vả lại, cũng còn phải chiếu cố tới vị khách này nữa chứ?
Ông Chính đã mời em ăn gì chưa? Chắc là chưa phải không? Ông ấy có thể ngậm một
đồng kôpếch từ sáng đến chiều trong miệng nếu như vì thế mà bớt được hai bữa
cơm. Nào bố già, dọn ra đi.
- Xong tất cả rồi. Chỉ ba phút nữa là có thể chạm cốc.
Miệng nói, tay cậu trải miếng nhựa hoa lên bàn. Rồi cậu lần
lượt đặt đĩa thị bò xào súplơ, cà rốt, cần tỏi. Sau đó tới đĩa khoai tây rán với
bítết. Một đĩa rau sống cùng với dọc tỏi muối, thứ thực phẩm mua ở các chợ nông
trường. Một tô canh lớn sườn ninh. Cuối cùng là nem rán, xếp trong chiếc giỏ nhựa
màu trắng rất xinh, trông như đồ chơi của thiếu nhi. Nước chấm nem được làm
đúng theo kỹ thuật Việt Nam: nước mắm khô, chanh ớt, tỏi giã, mì chính, đường.
Mọi người ngồi vào bàn. Cậu Chính lấy bát đũa, cốc thủy tinh cỡ lớn và một chục
chai bia. Anh chàng Hải xoa bàn tay, nói.
- Được được. Sau một buổi sáng đi chiến đấu, cứu nước cứu nhà
ăn bữa cơm như thế này mới là xứng đáng. Nào, các ông. Kìa bố già chưa mở bia
ra sao? Chậm trễ thế. Ông phải nhớ thời buổi này là thời buổi chuyên môn hóa
cao độ. Không ý thức được điều ấy sẽ bị loại trừ khỏi cuộc sống. Chúng tôi mà cứ
rù rờ như ông có đến Tết cũng không mua nổi 12 chiếc nồi áp suất trong một giờ
đồng hồ. Thôi, tôi phải làm cái nem đã.
Anh ta cúi xuống bốc một chiếc nem ăn vã. Hai người kia ngồi
im. Trong khoảng thời gian đó, cậu Chính cố thao tác mở bia, rót bia vào các cốc
cho tật nhanh. Tay cậu run từng chập. Có lẽ, sức khỏe của cậu cũng không thể phục
hồi hoàn toàn sau thời kỳ mắc bệnh. Rót tới cốc của tôi, cậu làm bia rớt xuống
bàn. Anh chàng to béo háu đói sau khi nuốt hết chiếc nem ngẩng lên.
- Nào, ta chạm cốc.
Tất cả cầm cốc bia. Anh chàng da ngăm quay sang tôi.
- Mời cô.
Tôi cầm cốc lên, cùng chạm với bọn họ.
- Nào chúc sức khỏe.
- Chúc cho đội quân cứu nước cứu nhà.
Giọng cười bỡn cợt. Tiếng cốc chạm lanh canh. Bia lắng dần lớp
bọt trắng phau như tuyết, để lại thứ nước trong suốt màu vàng. Màu của cánh đồng
xứ sở, ngày mùa. Màu của nhớ nhung.
Đám đàn ông đã uống cạn. Họ bắt đầu cúi xuống ăn, bình phẩm
các món ăn.
- Nem hôm nay hơi mặn đấy bố già nhé.
- Tôi sẽ rút kinh nghiệm.
- Xào thì được. Khá hơn lần trước.
- Lần trước thì là tại thị bò già, thớ nhão mà dai quá.
- Ờ, anh Khoa, bảo anh dúi cho con Irina năm rúp trước ngày
mua thực phẩm, sao anh không đưa?
- Tớ quên.
- Đừng có vờ. Anh chỉ quên một thứ: là tên các em dưới tỉnh
lên thôi. Anh liệu đấy, không xấu chơi được đâu.
- Hôm ấy tao hết tiền đi taxi.
- Bỏ kiểu ấy đi, lần sau phải đưa tiền trước cho nó nghiêm chỉnh.
Nó sẽ giành cho mình thịt loại một. Hôm nọ tôi tặng nó cả một chai Lúa Mới 15
rúp hôm nay mới có thịt ngon như thế này.
- Thế à. Rượu cậu lấy của ai?
- Sứ quán.
Tôi uống ngụm bia. Bỗng dưng tôi thấy căn phòng chòng chành
chao đảo. Các chai bia, những cốc thủy tinh màu vàng rơm, những đĩa thức ăn,
làn khói bay trên tô canh nóng. Tất cả hòa trộn, quay đảo cùng với các gương mặt
đang đỏ dần lên vì men bia. Cô gái Hà Lan ném vào tôi cái nhìn khiêu khích, mái
tóc đen bồng bềnh như đám huyền thảo trong thế giới ảo mộng phiêu lãng nào đây.
Chiếc quần tắm màu đỏ có các đường ren kim tuyến óng ánh kẻ một lằn thẳng căng
trên làn da hồng. Cái chụp đèn gục trên chồng sách. Tất cả bắt đầy quay. Trong
tôi, từ từ dâng lên những lượn sóng không màu sắc, không mùi vị nhưng dồn dập hết
cơn sóng này tới cơn sóng khác, nhấn chìm tôi xuống, làm tôi nghẹn thở. Tôi cố
gắng chống ta đứng dậy.
- Có lẽ...
Tiếng chàng trai da ngăm cất lên:
- Cô ấy ốm rồi. Mặt tái xanh thế kia.
Tôi thấy bóng anh nhào tới. Bàn tay anh đặt trên vai tôi, dìu
tôi lại chiếc giường. Lúc gương mặt anh sáp gần, tôi chớt thấy hiện lên một
gương mặt của quá khứ. Nhất định tôi đã gặp anh ta. Nhất định thế... lãng tử Yến
Thanh, tôi đặt cho anh ta cái tên đó, và chìm trong cơn sốt...
Tôi không rõ mình đã nằm mê bao lâu. Lúc tôi tỉnh dậy, ánh
đèn sáng chói rọi vào mắt khiến tôi vội nhắm mắt lại. Ánh đèn chói như kim đâm.
Lúc ốm, mọi cảm giác đều sai lạc và khủng khiếp. Tôi kéo chăn, trùm kín đầu.
Tuy thế, vẫn ngửi thấy mùi khói thuốc, toàn thuốc N.B. hôi khét, khiến đầu tôi
nặng như chì. Nhưng cảm giác chòng chành như say sóng không còn nữa. Tôi thấy
rõ rệt là mình đang nằm trên giường, bằng phẳng và chắc chắn, không bị các con
sóng đu đẩy. Tiếng máy quay đĩa văng vẳng bên tai. Chợt, giọng anh Hải béo oang
oang:
- Tính xong chưa mày?
- Xong.
Đó là chàng lãng tử đáp lại. Lại giọng ông nghiên cứu sinh
Khoa:
- Tớ phải trả cậu bao nhiêu nữa?
- 120 rúp chẵn.
- Gay quá nhỉ. Kỳ này bà xã thúc gửi hàng ráo riết, lương hết
nhẵn như chùi.
- Thôi, anh không cần nhăn nhó, tôi cho anh chịu.
Chàng lãng tử ngừng lại một chút rồi nói tiếp:
- Nhưng tiền ăn phải nạp cho sòng phẳng. Tuần này mỗi người hết
28 rúp.
Ông nghiên cứu sinh kêu thảng thốt:
- Sao lại những 28 rúp?
- Nghe đây, 84 rúp rưỡi, không phải mỗi người 28 rúp thì bao
nhiêu? Cái phần nửa rúp đương nhiên tôi chịu cho.
- Còn ông Chính.
- Anh ngu quá...
Giọng anh chàng lãng tử rành rọt:
- Ông ta đã tới làm thuê cho mình, lại còn bắt nộp tiền ăn.
Anh thấy đời nào có chuyện ấy không?
Anh Hải cười khanh khách:
- Đúng quá. Các ông anh toàn giỏi những lý luận trên trời dưới
biển, luật sống tối thiểu thì không chịu biết. Quên, còn tiền công của bố già
Chính, góp vào thanh toán luôn.
- Lão ấy đòi à?
- Phải, ông ta đòi trả ngay tức khắc.
Chàng lãng tử cười:
- Ông ta thích cầm chắc đồng rúp trong tay. Nào các vị, mỗi
người hai rúp bỏ lên bàn cho tôi. Được rồi, lát nữa ta sẽ chứng kiến nụ cười của
lão Grăngđê tái sinh. Ông ấy đang làm gì? Bát đĩa rửa sạch từ nãy cơ mà?
- Ông ấy đang giặt nốt hai cái áo Pantô của ông và tôi.
- Sao lại giặt? Phải chải xăng chứ?
- Đúng. Nhưng tôi bước vào phòng tắm đã thấy ông ấy đập bồm bộp,
bọt xà phòng bắn tung tóe lên. Đành chịu chứ sao. Khi nào khô phải đem chải và
hấp lại lần nữa.
- Đúng là mua việc.
- Lần trước ông ấy cũng làm cháy cái áo thun của tôi. Hàng Ý
xịn hẳn hoi. Hôm nhờ cắt khẩu hiệu cũng không cắt nổi. Ông anh tôi cùng học
trong trường Aôn bảo ông ấy lên lớp toàn ngủ gật. Nhưng về tới nhà, nhanh như cắt
đi lùng mua hàng căngtin. Thứ nào quý, ông ấy mua được trước tiên. Có lẽ, khả
năng vĩ đại nhất trong con người ông ta là khả năng đầu bếp.
- Phải, nhờ khả năng ấy ông ta chiếm được lòng cấp trên, nhờ
được lòng cấp trên ông ấy nhảy lên cấp lãnh đạo.
Lúc ấy, có tiếng bước chân lẹt xẹt. Chắc của cậu Chính. Cậu
thở hào hển, kêu:
- Khiếp, vắt hai cái áo nặng quá. Mỏi nhừ cả tay.
Chàng lãng tử cười.
- Một chiến công. Xin chúc mừng ông. Đây, sáu rúp tiền công,
mời ngài cầm lấy.
Tôi nghe cậu hẹ hẹ, không rõ ra tiếng cười hay tiếng hắng giọng.
Rồi, cậu bảo:
- Hôm nay các anh tiến bộ thật.
Chàng lãng tử hỏi.
- Tiến bộ gì?
- Không mở nhạc nhảy. Từ ngày tới đây mới có buổi tối yên
tĩnh. Tôi cứ nghe thứ chát sình ma quỷ ấy là điên đầu. Chẳng hiểu hay ho ở chỗ
nào mà các anh nghiện như nghiện thuốc lá?
- Ra thế. Trong con mắt ông, chúng tôi là lũ trai hư hỏng, phải
không?
- Thời chúng tôi, không ai thích những thứ nhạc nhẽo trụy lạc
như vậy.
- Ở cùng số nhà với bố mẹ tôi, có một ông phó giám đốc, cỡ tuổi
gần như ông. Ông ấy mặc quần ống rộng, đũng rộng và dài. Không phải thứ quần bó
chịt, làm nổi mông nổi đùi như lũ chúng tôi. Áo kiểu Tôn Trung Sơn gài khuy tận
cổ, cũng không giống thứ áo xẻ bụng, xẻ nách in hình chim cò sặc sỡ như áo tụi
tôi. Ông ấy được tiếng là nghiêm nghị. Mở miệng là nói lời giáo huấn. Đầu óc
toàn nghĩ tới chuyện cao cả: Nào là tinh thần cách mạng, nào là ý thức tổ chức,
nào là nghĩa vụ quốc tế và nghĩa vụ công dân. Số nhà tôi ở gồm sáu hộ, 27 nhân
khẩu lớn nhỏ, không ai có bộ mặt quyền uy như ông ấy. Ông ấy có hai đứa con gái
và một đứa cháu ngoại. Bà vợ kém ông ta vài tuổi, hai ngày một lượt leo lên xe
con đi chợ, mắt chẳng bao giờ ngó xuống đám láng giềng. Rồi bỗng một hôm, chúng
tôi đi đá bóng buổi trưa về, cả lũ tắm truồng lông nhông ngoài sân. Nghe có tiếng
kêu vang trong nhà tắm công cộng. Một đứa giật cửa, nhưng cửa gài chặt. Mà tiếng
kêu ú ớ bên trong cứ vẳng ra. Lũ chúng tôi bèn công kênh nhau, ghé mắt qua lỗ
thông hơi sát nóc nhà tắm, nhìn vào. Ông phó giám đốc tôn kính đang ở trong đó,
trần như nhộng, trên một con bé 14 tuổi. Con bé ấy vẫn ú ớ kêu, còn ông ta ông
ta vẫn tiếp tục làm việc. Lũ mất dạy chúng tôi, thoạt đầu thích chí cười rinh
rích. Hết thằng nọ tới thằng kia đổi nhau, xem trò vui. Nhưng con bé giãy giụa
mãi, chắc nó đau. Ông ta bịt chặt miệng nó lại không thể kêu to. Đó là một con
bé mắc chứng tâm thần. Nó học hết lớp năm thì phải bỏ về nhà. Nó cũng là một đứa
mồ côi. Cha nó làm nghề lái tàu điện bị chứng hậu bối chết từ khi nó lên ba. Mẹ
nó ở sát số nhà tôi, làm nghề bán dưa chua cà muối. Hồi nhỏ, lúc nó chưa mắc chứng
tâm thần, chúng tôi vẫn chơi trò ú tim, trò nhảy dây, trò đá cầu với nhau. Nó
không đẹp, nhưng mũm mĩm xinh xắn, lại thảo ăn. Có quả nhót, quả ổi nào cũng
chia cho bạn. Lúc ấy tôi chợt thấy mình dã man. Tôi chợt nhớ rằng con bé bị hãm
hiếp kia cũng 14 tuổi như mình, cũng chỉ là một đứa bé con, không có gì che chắn
và bảo vệ, dù một mảnh chai sắc hay nắm đấm của một gã đàn ông thô bạo cũng chẳng
đủ sức chống đỡ. Tôi không tham gia trò đùa nhẫn tâm ấy. Tôi chạy sang nhà bà
hàng xóm, gọi bà Cứ đang thái dưa cải, nghe tin, thét lên như bị chọc tiết. Cứ
thế, vẫn con dao nhọn trong tay, chạy sang...
Chàng trai ngừng lời. Không ai lên tiếng. Gian phòng im phăng
phắc. Tôi chỉ còn nghe tiếng đồng hồ tích tắc kêu. Rồi lát sau chàng lãng tử hắng
giọng nói tiếp.
- Thế đấy ông Chính ạ. Cái lão hiếp dâm ấy không tới sàn nhảy
bao giờ. Chắc chắn cũng răn dạy công nhân xí nghiệp của hắn là nhảy nhót là trụy
lạc, rằng thế hệ của hắn không bao giờ tham dự những trò vui hư hỏng như thế, rằng
cuộc đời hắn chỉ là để phục vụ cách mạng cao cả cho tới hơi thở cuối cùng. Hắn
cũng cùng quan niệm và sở thích như ông. Nói thế, tôi không muốn xúc phạm ông.
Tôi biết ông không phải là kẻ hám gái. Nhưng những người như ông và hắn có gì
đó rất giống nhau.
Cậu Chính hỏi, giật giọng.
- Anh nói cái gì?
Chàng trai đáp, bình thản.
- Ông cứ bình tĩnh. Và nếu ông định dọa nạt tôi ở đây thì ông
sẽ phí công. Cho dù ông có tới tòa đại sứ nịnh hót, tố cáo, vu khống tôi đủ điều.
Cái trò đó, nhiều kẻ đã diễn rồi. Hãy ngồi xuống ghế, uống đi một cốc kơvát, và
tôi sẽ tiếp tục hầu chuyện ông.
Lại một khoảng khắc im lặng. Rồi giọng chàng trai cất lên.
- Chính những người như hắn hoặc như ông ra lệnh săn đuổi
chúng tôi trên đường phố, cắt ống quần loe khi các ông không mặc quần loe, cắp ống
quần tuýp khi các ông không mặc quần tuýp. Phẩm cách con người được các ông định
khuôn bằng chiều rộng của ống quần. Nếu các ông mặc quần ống 23 thì 18 triệu
thanh niên chúng tôi phải mặc ống quần cỡ 23. Chật hay rộng hơn đều là phản Đảng,
phản quốc. Tôi không bao giờ quên được cảnh tượng ấy, khi tôi còn nhỏ, tôi đã
nhìn thấy anh chị tôi và đám bạn của họ bị rượt đuổi, bị chặn đứng ở các ngả tư
đường phố, bị soát xét hạch lạc như những kẻ trốn tù. Vẻ mặt nhớn nhác của họ,
con mắt bạc nhược hay hờn căm của họ, những lời họ van xin hoặc gào thét phản ứng.
Lúc ấy, tôi đứng nép vào chân cột điện, tôi nhìn họ và tay chân tôi run bắn. Dường
như chính tôi cũng sắp bị lấy dao xẻ rách ống quần. Tại sao con người lại bị đọa
đầy vô lý thế? Vết thương ấy không thành sẹo trong tim tôi. Nhát chém nào trong
tuổi thơ cũng không thể lành. Tôi lớn lên. Và dần dần tôi chứng nghiệm rằng những
con người từng có sức khống chế lũ chúng tôi như lão phó giám đốc kia hoàn toàn
không giống hình ảnh kinh sợ và cao cả mà chúng tôi đã hình dung. Họ là những
diễn viên đại tài. Họ định ra bao nhiêu niêm luật khắt khe. Nhưng trong bóng
đêm, họ sống cuộc sống nhầy nhụa không đạo lý và luật tắc. Này ông Chính, ông vẫn
cứ bảo thứ nhảy nhót của chúng tôi là trụy lạc. Đã bao giờ ông chứng kiến những
cuộc nhảy nhót vô hình còn trụy lạc gấp triệu triệu lần thế không?
Cậu Chính đáp, giọng khô khan.
- Anh đừng nói tầm phào. Làm gì có những cuộc nhảy nhót vô
hình?
Chàng lãng kử cười khe khẽ nói.
- Có đấy. Tôi đã chứng kiến vài lần. Những kẻ cao sang, sau một
thời gian bày mưu tính kế hãm hại các đối thủ, chạy chọt, o bế quan trên, đã tới
được cái đích của họ, một chức tước nào đó đủ cả quyền uy và bổng lộc. Đêm hôm
cuối cùng của cuộc hạ sát ấy, họ ngồi hút thuốc lào sòng sọc hoặc đốt thuốc lá
cho tới buổi sáng mà quyết định bổ nhiệm họ được đọc lên. Đêm ấy, chắc chắn tim
óc họ sẽ nhảy nhót. Chúng tôi nhảy thì ôm bạn gái. Còn họ ôm cái bóng của chính
mình, ôm cái ghế mà họ khao khát. Ấy là điệu nhảy vô hình mà tôi muốn nói. Theo
ông, điệu nhảy ấy có trụy lạc hơn điệu nhảy của chúng tôi không?
- Tôi không nói chuyện ấy với anh. Các hiện tượng tiêu cực
trong xã hội, cơ quan chúng tôi không có.
- Cứ tin là cơ quan ông không có. Vậy khi cơ quan ông không
có, ông cũng không thèm để tâm tới các hiện tượng xã hội? Thế các ông làm gì?
Cậu Chính gay gắt.
- Anh lạ thật. Chúng tôi làm công tác tư tưởng.
Lúc ấy, có tiếng gõ cửa. Chàng lãng tử hỏi.
- Ai đấy? Kìa anh Khoa ngồi gần mở cửa xem ai?
- Thôi tớ đang viết dở, Hải ra hộ vậy.
Hải béo đáp.
- Được.
Tiếng bước chân anh ta huỳnh huỵch. Cửa kẹt mở. Giọng rụt rè
của một cô gái.
- Cho em hỏi anh Khoa.
Hải hỏi.
- Cô tên gì?
Giọng đáp lại e dè.
- Em là Chương. Em ở Kiép.
- Chờ nhé.
Đoạn anh ta quay vào.
- Anh Khoa.
Tiếng ông nghiên cứu sinh thì thầm.
- Bảo tớ vắng nhà. Bảo cô ta đi đi.
- Được rồi.
Tiếng chân anh ta ngay đầu giường tôi nằm. Chợt, giọng chàng
lãng tử vang lên.
- Khoan đã.
Hải dừng lại. Nghe tiếng anh ta thở ngay đầu giường tôi nàm.
Rồi anh hỏi, ngạc nhiên.
- Có chuyện gì vậy?
Chàng lãng tử đáp.
- Chờ đã.
Rồi anh ta cười khảy và nói.
- Này anh Khoa. Anh đuổi một đứa con gái giữa lúc đên khuya dễ
dàng như thế sao?
- Không đuổi thì để nó vào làm gì? Có cho nó ngủ nhờ cũng chẳng
còn chỗ. Cậu treo nó lên đầu cậu được không?
- Nếu cần, treo cô ta lên đầu anh. Bất cứ người con gái nào
anh chưa lừa được lên cái giường của anh đều có giá. Và ngược lại... Chí ít anh
cũng phải có một chút lương tri chứ?
Khoa cười nhạt, phì một tiếng, đáp:
- Cậu ít nhời đi. Còn đủ thời gian lý luận.
- Tôi không tranh cãi. Nhưng anh phải để cho cô ta vào. Mười
giờ đêm cô ta biết đi đâu?
Khoa quát.
- Cậu ra lệnh cho tôi phải không? Tôi là chủ căn phòng này.
Chàng trai cười khảy.
- Anh là chủ căn phòng này. Đúng. Nhưng tôi lại là chủ thứ
khác có giá trị hơn. Nói chung, anh thích nghe những lời thô lỗ. Giờ, muốn sao?
Trong phòng im lặng. Chỉ còn nghe tiếng tích tắc của đồng hồ.
Rồi, giọng ông nghiên cứu sinh nặng nề.
- Thôi được. Hải, gọi cô ta vào hộ tôi.
Hải bước ra khỏi cửa. Rồi quay vào oang oang nói.
- Biến rồi.
Chàng lãng tử bảo.
- Cậu đuổi theo cô ta. Chắc cô ta còn ở phòng trực.
Anh chàng to béo mở cửa, đi ra. Tiếng bước chân nặng nề mất
hút dần ngoài hành lang. Căn phòng yên lặng. Không ai nói với ai nữa. Tôi lơ mơ
như muốn ngủ lại. Nhưng chừng 10 phút sau, tiếng chân ồn ĩ của anh chàng to béo
đã khua ngoài cửa. Anh ta vào, nói.
- Biến rồi. Tôi trễ thang máy. Xuống phòng trực, họ bảo cô ta
vừa lấy giấy tờ xong. Chạy ra cửa không thấy bóng dáng ai. Có lẽ cô ta đã vớ được
chuyến xe buýt cuối ngày.
Không ai nói gì. Chừng năm phút sau, anh chàng Hải béo lại
lên tiếng.
- Thôi đi ngủ các vị. Mai tiếp tục cuộc chiến đấu. Được ngày
nào vét ngày ấy không tới kỳ thi lại đâm đầu vào học.
Anh ta ngáp thật to rồi nói.
- Ối giời ơi, thế này mà ở bên nhà mọi người cứ nghĩ mình đi
học nước ngoài là sung sướng lắm đấy. Thật là thân trâu cày ngựa cưỡi... Oàm
oàm...
Anh ta lại ngáp thật to, nghe như tiếng gầm của một con hổ bị
nhốt trong cũi sắt. Sáng hôm sau, khi tôi thức dậy, căn buồng trống vắng. Nhưng
lúc tôi quờ tay, làm rớt vật gì đó xuống sàn, anh chàng da ngăm chợt xuất hiện ở
cửa thông sang khu vực phụ. Anh ta hỏi.
- Tỉnh rồi hả?
- Vâng.
Mặt và đầu anh ta ướt ròng. Chắc vừa ở trong phòng tắm. Hôm
nay anh ta mặc sơ mi carô nâu nhạt và quần jin nhung. Tôi chợt nhớ một hình ảnh
đã gặp. Tôi ngơ ngác. Anh ta nhìn tôi, tủm tỉm cưới.
- Có phải cô đang nghĩ xem đã gặp tôi ở đâu, phải không?
- Sao anh biết?
- Tôi đang học nghề phù thủy hiện đại. Nói đúng hơn, tôi đang
muốn thử nghiệm khả năng ngoại cảm của mình. Cô đã nhớ ra chưa?
Tôi lắc đầu.
- Chịu.
Chàng lãng tử cười.
- Trí nhớ tồi quá. Hôm khai trường, cô mặc chiếc áo đầy những
dây và khóa cài màu tím nhạt, và đi đôi guốc trắng vẽ hoa.
Tôi bất chợt reo lên.
- À! tôi nhớ rồi.
Anh ta ở nhóm sinh viên lớn đã đùa cợt tôi.
- “Ai vẽ cho em kiểu áo đẹp thế?”
Nhưng dạo ấy, anh gầy hơn bây giờ, trông như cây lau.
- Tôi là sinh viên khóa Sử. Lúc cô vào, tôi vừa học xong một
năm ngoại ngữ, chuẩn bị sang đây.
- Anh vẫn học?
- Tất nhiên. Phi vụ này là công việc của tụi tôi. Trách nhiệm
với gia đình. Còn cô tại sao bỏ học?
- Mẹ tôi bị tai nạn giao thông, cụt chân. Tôi đành bỏ trường
để kiếm sống.
- Làm gì?
- Thợ dệt.
Anh ta lắc đầu.
- Còm nhom thế chịu sao được rét. Kiếm được miếng cơm ở xứ
này cũng nhọc nhằn lắm cô bạn ạ.
- Tôi biết. Nhưng không còn cách nào khác.
Anh ta xoa mạnh chiếc khăn mặt lên đầu, đôi mắt thờ thẫn nhìn
đâu đó. Mắt anh ta màu hạt dẻ, mơ màng. Rồi chợt thở một hơi mạnh, hỏi.
- Còn ông Chính là thế nào với cô?
- Cậu ruột.
Chàng trai nhún vai.
- Thế à?
Tôi im lặng. Anh ta lại hỏi.
- Cô lên chơi với ông cậu? Nhưng tôi thấy cô còn đang ốm.
- Tôi vừa ở bệnh viện về được 10 hôm. Cậu ấy điện cho tôi
lên.
- Điện thế nào?
- Điện là: “Cậu ốm. Hằng lên ngay.”
Anh nhếch môi cười. Lúc ấy tôi thấy như chàng lãng tử Yến
Thanh hiện về, với tất cả vẻ kiêu mạn trẻ trung đầy quyến rũ. Anh thong thả vắt
khăn mặt lên ghế, kéo ghế tới gần giường, ngồi đối diện với tôi.
- Cô biết ông cậu của cô gọi cô lên Mátxcơva làm gì không?
Tôi không đáp, nhìn anh chờ đợi. Anh nói tiếp:
- Ông ta chuẩn bị đóng hòm gửi biển. Việc ấy, cần phải giỏi
tiếng Nga và giỏi chi tiêu. Cả hai thứ ông ta đều kém.
Chàng lãng tử ngừng lại, suy ngẫm hồi lâu rồi tiếp.
- Đám người như thế, tôi soi kính lúp vào tận ruột họ. Nhưng
dù sao, tôi cũng không thể hiểu được, với một cô gái mảnh khảnh yếu ớt như cô.
- Boong...
Chuông ngân nga. Đã chín giờ rưỡi. Chàng lãng tử nói.
- Ông ấy đi ra cửa hàng thực phẩm sắp về.
Rồi móc trong túi một xấp bạc, đưa cho tôi.
- Cô cầm lấy.
Tôi kêu lên.
- Không được. Sao anh kỳ cục thế?
Chàng lãng tử nhếch mép cười.
- Không kỳ cục đâu, cô bạn. Nghe tôi nói đã. Cô không thể ở
đây giúp ông cậu gửi hàng vì việc đó tốn sức và tốn tiền. Mặt cô xanh mét, và
tiền chắc cũng không dư dả. Lát nữa, khi ông ta ngỏ lời nhờ cậy, cô hãy đưa nắm
tiền này ra và nói: Cháu phải về làm việc, không thể ở lâu. Cháu giúp cậu tiền
cước.
Tôi lắc đầu.
- Không phải vậy.
Anh chàng quả quyết.
- Không phải, cho cô chặt đầu tôi. Cứ cầm lấy. Ông ấy về ngay
bây giờ.
Dúi nắm tiền vào tay tôi xong, anh ta quay đi luôn. Tôi nhét
số tiền ấy dưới gối. Chàng lãng tử pha một cốc sữa nóng với mấy viên trợ lực
đưa cho tôi.
- Uống đi.
Tôi cầm cốc sữa, không dám nói lời cảm ơn vì thấy rõ sự nhạt
nhẽo của ngôn từ. Uống sữa xong, người tôi nóng dần lên, mồ hôi rịn ra hai bên
thái dương và trên trán. Chừng năm phút sau, lúc tôi nằm trùm chăn, chàng lãng
tử cạo râu trước gương, cậu Chính về. Ném làn thực phẩm xuống sàn, cậu hỏi.
- Anh thấy con cháu tôi nó tỉnh chưa?
- Quái lạ, đã uống thuốc mà cứ sốt li bì. Lẽ ra, nó phải dậy
rồi mới đúng.
- Chỉ có mấy viên cảm làm sao đủ trị sốt. Ông phải cho cô ấy
ăn uống gì nữa chứ? Không ăn, mẻ cũng chết.
- Ờ ờ... Tí nữa tôi sẽ nấu mì cho nó ăn.
Tôi nghe chàng lãng tử thu dọn đồ vật gì đó, rồi chừng năm
phút sau, anh ta bảo cậu Chính:
- Tôi đi. Một giờ tôi về.
Cánh cửa mở rồi đóng, rung sàn. Tôi ngồi lên. Cậu Chính mừng
rỡ bảo.
- Cháu khỏe rồi hả? Có ăn gì không?
- Cháu không muốn ăn gì.
- Ừ, tới bữa ăn cả thể cũng được.
- Bao giờ cậu về trường?
- Ngày mai.
- Cậu gọi cháu lên đây có việc gì?
Cậu gật đầu ờ ờ... Rồi bước tới gần tôi cậu nói:
- Cậu sắp về, chỉ hai tuần nữa thôi. Cháu còn ở lại lâu, cháu
có khả năng làm kinh tế. Cậu muốn nhờ cháu giúp cậu...
Tôi lặng im, cậu tiếp.
- Khi đi, mẹ mày dặn: khó khăn gì đã có con Hằng. Cháu giỏi
ngữ. Cậu chẳng biết tiếng tăm.
Tôi vẫn ngồi im, cậu hắng giọng, lại tiếp.
- Hàng họ cậu đã chuẩn bị hòm. Nhưng gay go nhất là khoản cước.
Tôi lại muốn nằm, tôi muốn kết thúc nhanh chóng. Tôi rút nắm
tiền dưới gối.
- Đây, cậu cầm lấy.
Cậu nhìn, ngần ngừ hỏi:
- Bao nhiêu? Sao nhiều thế?
- Cậu cứ cầm lấy, cháu chưa đếm.
Cậu cầm nắm bạc, bắt đầu đếm. 134 rúp. Cậu xếp nắm tuyền thứ
tự: tờ 50 rúp ngoài, tới tờ 25 rúp bên trong, tới tờ 10 rúp, năm rúp, một rúp.
Một công việc cẩn trọng và say mê. Khuôn mặt cậu hiện ra lồ lộ trước mắt tôi:
đường lượn của quai hàm, tràng mày, đường cong đuôi mắt, sống mũi. Những dáng
nét quen thuộc từ phút giây gặp gỡ đầu tiên. Phút giây ấy, tôi đã yêu cậu với một
tình yêu sung sướng.
- A à à...
Cậu bỗng buông tiếng thở dài khoan khoái, đoạn bỏ số tiền đã
xếp gọn ghẽ vào túi áo. Tôi trùm kín chăn để khỏi nhìn thấy cậu. Trong bóng tối,
hình ảnh một ngày quá vãng trở về.
Sớm hôm ấy, tôi thức dậy sớm. Tôi pha sữa cho mẹ uống, giặt
giũ mớ áo quần bẩn, mua hoa quả, bánh trái và đặt sẵn những dụng cụ cần thiết
trên bàn. Xong xuôi tôi gửi mẹ cho mấy người nuôi bệnh nhân cùng phòng để đi
báo tin cho cậu Chính. Mẹ tôi đã yêu cầu khẩn thiết từ buổi tối đầu tiên tôi
vào ngủ trong bệnh viện. Nhưng tôi khất lần cho tới hôm nay. Mẹ bảo.
- Chủ Nhật, thế nào cô cậu ấy cũng ở nhà.
- Vâng, mẹ cứ yên tâm. Nhưng mới có sáu giờ sáng, chưa thể đi
ngay được. Ở những khu tập thể, họ thường ngủ muộn.
Mẹ lặng im, nhưng nét mặt bồn chồn. Sáu giờ 15, tôi xách làn
đi. Trước hết, ra cổng viện, tôi kiếm hàng xôi lúa làm một đĩa đầy rồi mới thủng
thẳng dắt xe đi. Tới Quốc Tử Giám, gặp gánh xiếc miền Nam có biểu diễn trò xe
leo vòng, tôi lại ghé vào xem một lúc. Tôi tới nhà cậu Chính lúc non 9 giờ. Cậu
đang buộc lại cánh cửa chuồng nuôi thỏ. Thấy tôi, cậu cười.
- A, cái Hằng. Mẹ cháu đâu?
- Mẹ cháu bị xe chẹt.
- Có làm sao không?
- Cụt một chân.
- Thế còn là may. Hôm qua ở đường Triệu Việt Vương có thằng
bé 15 tuổi bị xe chẹt cưa cụt cả hai chân. Không chịu chấp hành nghiêm chỉnh luật
lệ giao thông. Sống mà vô tổ chức vô kỷ luật thì thế nào cũng chết, chẳng sớm
thì muộn. Thôi, vào nhà đi. Cậu rửa cái tay đã.
Tôi vào nhà. Cậu Chính thu dọn kìm búa, mấy đoạn giây thép,
vài cái đinh rồi đi rửa tay. Mợ Chính đang bận gì đó trong buồng. Thấy tôi, mợ
ló đầu ra, đôi mắt sáng rỡ.
- A, Hằng đến chơi hả cháu? Mẹ đâu?
Tôi chưa kịp trả lời, cậu Chính đã nói vọng vào.
- Mẹ nó bị xe chẹt, cụt chân rồi.
Mặt người đàn bà đần ra, đôi mắt tắt ngấm. Mợ ta lắp bắp.
- Thế hả?... Thế hả?
Sau đó, mợ bảo.
- Ngồi chơi với cậu nhé, mợ đang tìm cho em Tú chiếc áo len
cũ.
Rồi mợ thụt đầu vào trong buồng. Cậu Chính lau khô tay, tới
ngồi trước mặt tôi.
- Mẹ mày nằm viện nào?
- Mẹ cháu nằm trong viện Bạch Mai. Mẹ cháu có ý nhắn cậu từ
thứ tư tuần trước, nhưng cháu bận.
Tới đó cậu lặng ngắt. Tôi cũng lặng ngắt. Để ý nhìn, gian
phòng của cậu đã khang trang hơn xưa. Nơi đặt chiến trạn gỗ đã thay bằng chiếc
tủ lạnh hiệu Xatatốp mới tinh. Trên nóc tủ đứng, đặt một chiếc máy truyền hình
Nhật 19 inh. Máy phủ tấm lụa in hoa sặc sỡ. Sau một lát im lặng, Cậu Chính cất
tiếng gọi.
- Thành ơi.
Từ trong buồng có tiếng đáp.
- Có chuyện gì, anh Chính?
- Ra đây tôi bàn tí việc.
Trong buồng có tiếng đáp.
- Thì cứ nói, đang dở tay tìm cái áo cũ cho thằng bé.
- Cần một ít tiền gửi vào cho chị Quế. Nhà mình có không?
Mợ Thành đáp vọng ra:
- Có hay không anh còn phải hỏi hay sao? Lương kỳ một trả hết
tiền căngtin rồi, vừa xà phòng, mì chính vừa xăm lốp xe đạp và hai cái xoong
nhôm.
- Rút tiết kiệm.
- Anh thật quan liêu. Sổ tiết kiệm nhà mình là loại có định kỳ,
năm năm nữa mới rút ra được. Còn hàng tháng lấy lãi phải tới mồng 7 tháng sau.
- Có vay tạm ai được không
- Đoạn ấy thì chịu. Xưa nay mình chẳng vay ai một xu.
Cậu Chính thở dài. Đoạn, cậu làu bàu.
- Có cái gì đem bán đi nhỉ?
Cậu nói nhỏ, như hụt hơi. Nhưng mợ Thành nghe thấy. Mợ lao từ
trong buồng ra, tay cầm một chiếc áo len trẻ con màu đỏ, có lẽ là hàng viện trợ
chiến tranh. Mợ thảng thốt nhìn chồng.
- Bán cái gì?
Cậu Chính lằm bằm.
- Ấy là tôi nói thế.
- Chiếc Xalatốp kia là tiền của tôi, tôi mua, trong đợt tham
quan Liên Xô đấy nhé. Nhà này, anh chỉ mua được cái TV thôi. Anh có bán thì
bán. Nhưng bán thì con anh mất xem.
Tôi lẳng lặng bỏ ra về. Cả hai vợ chồng đang cúi gằm mặt suy
tính. Có lẽ, họ không nhìn thấy tôi. Hoặc nhìn thấy nhưng họ cố tình giả tảng?
Tôi trở lại phòng bệnh của mẹ tôi lúc gần ngọ. Mẹ đang nằm, mặt
quay ra cửa. Thấy tôi, mẹ cười tươi.
- Hằng về hả con?
Nụ cười tươi tắn trên vành môi nhợt và gương mặt trắng như giấy
ngâm. Hai mắt mẹ hau háu nhìn tôi, có ý chời đợi, phấp phỏng. Ánh mắt ấy là ánh
mắt của con chó trung thành chờ âm huệ ban thưởng. Tôi nhói lòng. Tôi quay đi.
Mẹ có ý nhắc.
- Thế nào còn?
- Cậu Chính đi công tác mẹ ạ.
Mẹ hỏi, mụ cười vẫn ngời sáng trên môi.
- Cậu đi công tác xa hay gần hở con?
- Xa.
- Thảo nào, hôm qua mẹ nghe đài nói có đoàn đại biểu Liên Xô
vừa sang trao đổi với Đảng mình về công tác tư tưởng. Chắc cậu con đưa đoàn ấy
đi tham quan các tỉnh miền Nam.
- Vâng.
Có một bàn tay đập rất mạnh vào vai tôi.
- Dậy, dậy đi Hằng. Cậu nấu trước bát mì, ăn đi cho mau khỏe.
Tôi co mép chăn, để cậu khỏi giật ra được, và tôi đáp.
- Không, cháu không muốn ăn, cậu để cho cháu nằm.
Trong bóng tối ấm áp của tấm chăn, tôi được tĩnh lặng Tôi
quên mọi gương mặt, tôi xóa mọi âm thanh. Trí nhớ như căn phòng hoang vắng. Và
tôi chìm vào giấc ngủ.
Hôm sau, chàng lãng tử ngỏ ý đưa tôi ra ga thay cậu Chính.
Không một phút đắn đo, tôi gật đầu ưng thuận, dù trong thâm tâm tôi biết rắng
người con gái cư xử như thế thật chẳng hay ho gì. Tôi không muốn trước khi bước
lên tàu, chịu đựng một cuộc hành trình buồn tẻ lại phải nhìn thấy ông cậu ruột.
Chàng lãng tử đã mua sắm đồ ăn đường và mua vé cho tôi. Anh cũng mua cho anh tấm
vé vào ga để đưa tôi ra tận kè đá chờ tàu. Tôi thấy anh ta nói tiếng Nga giỏi
chẳng kém gì người đàn ông tóc muối tiêu đã đưa tôi tới căn buồng của ông
nghiên cứu sinh Sinh Hóa. Với ngữ điệu đặc sệt Nga, nước da rám đen và gương mặt
thanh tú anh chàng khiến cho nhiều cô gái Nga chú ý. Họ ném theo những ánh mắt
hoặc vội vã thầm lén, hoặc công nhiên và dai dẳng. Chàng lãng tử giữ vẻ mặt phớt
tỉnh Ănglê. Tôi thầm cười anh ta vì dẫu sao, anh cũng chỉ hơn tôi vài tuổi.
Chúng tôi đứng bên nhau chờ tàu, nói đủ thứ chuyện, trừ chuyện về bản thân. Giờ
từ biệt, cuối cùng cũng tới. Tôi xiết chặt tay anh.
- Cảm ơn anh. Cảm ơn anh rất nhiều.
Chàng lãng tử cười.
- Đừng, cảm ít thôi còn để dành cho lần sau.
Mắt anh lóe lên tia lửa tinh nghịch, ranh mãnh. Tôi bật cười
theo. Anh hỏi.
- Có gửi gắm gì cho cậu không?
- Không.
Rồi sau chút đắn đo, tôi hỏi.
- Cậu ấy làm thuê cho các anh từ bao giờ?
- Mấy tháng nay. Trước, chúng tôi thuê một ông khác. Ông ấy về
nước và giới thiệu ông Chính. Hai người này có quen biết nhau. Ở đây chúng tôi
coi là việc hợp lý hóa lao động.
Tôi lắc đầu.
- Dù sau, tôi cũng không thể hiểu. Ngày hôm qua, sự việc diễn
ra đúng như anh dự đoán.
Chàng lãng tử đưa tay kéo món tóc xòa xuống mắt tôi lên, rồi
nói.
- Người ta nên hiểu biết hết mọi sự trên đời cô bé ạ, dù cho
là sự thực đau buồn. Ông cậu của cô giống như một loạt người tôi từng gặp. Họ
là những kẻ đã phung phí gần hết đời sống của mình vào việc vẽ nên một thiên đường
dưới trần ai, nhưng trí khôn ngắn ngủi của họ lại không đủ để hiểu thiên đường ấy
ra sao và con đường nào đưa tới nó. Vì thế khi biết công việc ấy hão huyền thì
họ hối hả tìm kiếm những miếng ăn thực, nhặt nhạnh những hạt ngũ cốc thực trên
mảnh đất bùn lầy, Họ làm việc ấy, bất kể bằng cách nào. Họ là tấn thảm kịch cho
chính họ, tấn thảm kịch cho thế hệ chúng ta.
Tàu đến, anh xiết chặt tay tôi lần nữa, rồi xách túi đưa tôi
lên toa. Khi tôi ngồi vào chỗ, anh trở lại bờ kè. Ở đó, anh đứng chờ cho con
tàu tư từ lướt qua và hình bóng anh nhòa dần sau ô cửa kính.
Chương 21
Đường về, sao dài quá. Con tàu cứ đi, và nhịp điệu buồn tẻ của
nó gieo vào tâm trí tôi. Thành phố đã lùi về phía sau, rừng bạch dương loán lên
màu sa tanh trắng. Những vòm lá mềm rũ, đung đưa uể oải, lười nhác khiến cảnh vật
như được dệt bởi vô số giấc mơ thư nhàn. Trên ngọn cây, lá còn xanh ướt. Nhưng ở
tầng dưới, lốm đốm đã có những chiếc lá vàng. Chẳng bao lâu nữa, các đám lá
vàng sẽ lan ra. Rừng cây được tắm trong một cơn mưa rực rỡ và xao động. Lúc ây,
cả bầu trời, cả mặt đất mênh mông đều trở thành những tấm gương, phản quan thứ
nhan sắc kỳ bí mãnh liệt của cây cối mùa thu. Những rừng cây Nga, rừng bạch
dương, rừng tùng, rừng hoàn diệp liễu... với các màu đậm nhạt uyển chuyển pha
trộn giữa vàng và đồng thau, tạo nên vẻ đẹp không gì thay thế được ờ nơi đây...
Vẻ đẹp xứ người... sau cái mùa lộng lẫy ấy là tuyết trắng. Tuyết bạt ngàn. Cái
giá buốt khủng khiếp của mùa đông bám quanh vành tai, chui trong găng tay, vây
bọc chúng tôi bằng một tấm lưới chắc chắn. Con đường từ khu cư xá tới nhà máy rất
dài. Và tuyết ùn ùn ở những chỗ đỗ xe. Sau những giờ đứng máy căng thẳng, mệt
bã người vì tiếng ồn của cỗ máy chuyển động, vì quãng đường di động, vì làn
không khí vẩn bụi bông... chúng tôi trở về căn phòng của mình. Bữa cơm tối được
chờ đón như một niềm hạnh phúc cỏn con, sự bù trả cho một ngày lao động. Trong
bữa cơm ấy, phải tính thật chính xác số tiền bỏ ra mua bơ, mua phô mai, mua thịt...
sao cho đủ sức làm việc, sao cho khỏi ngã quỵ trên những ngả đường băng giá.
Ngoại trừ phần ấy, là phần dành dụm để gửi về nuôi người ở nhà...
- Xình xình xình....
Nhịp điệu buồn tẻ của con tàu tốc hành rót bên tai. Sự xô lắc
êm nhẹ của nó ru tôi vào giấc ngủ. Tôi lấy tấm khăn len của bà Vêra, choàng qua
vai. Rồi tựa đầu vào thành ghế. Bên tôi, người đồng hành cũng đã trùm chiếc áo
khoác nhẹ bằng vải simili trắng nhạt lê, nhắm mắt. Đó là một người đàn bà trạc
ngoại tứ tuần, gương mặt đẹp tàn phai với những nếp nhăn hằn dưới đuôi mắt và
hai khóe mép. Bà ta rất diện. Vẻ đơn côi. Tôi tin chắc bà ta sống độc thân. Có
lẽ, giờ đây trên một phần ba trái đất, ngập tràn những người đàn bà độc thân.
Tuy thế, sự ít lời của bà ta đem lại cho tôi không ít điều thú vị. Tôi cũng
đang cần yên tĩnh... Chúng tôi im lặng ngồi bên nhau, im lặng ngắm cảnh vật bên
đường, và bây giờ im lặng chìm vào giấc ngủ...
Khi tôi thức dậy, đã quá nửa đêm. Người đàn bà đồng hành thức
trước tôi, thay bộ váy áo khác. Lúc lên tàu, bà ta mặc một chiếc sơ mi kẻ ô xám
có cầu vai và túi lớn trước ngực, váy trắng hàng tít xuy. Giờ, bà tay mặc một
chiếc váy áo liền thân cắt bằng sa tanh dày màu tím đỏ. Nhiều đường đăng ten
màu hồng chạy nhẹ quanh cổ áo xếp thành hình lượn sóng trên bộ ngực nở nang, đã
sệ xuống vì thời gian. Tóc bà cũng đã được chải cẩn thận, quấn giải băng nhung
tím, điệp với màu áo. Trên gối người đàn bà trải tấm khăn ăn dùng lúc đi đường,
bằng vải trắng thêu, khá rộng. Bà ta đang ăn bánh bì nhỏ với phô mai Hà Lan và
dồi.
- Xin mời.
Thấy tôi ngồi dậy, bà ta cất tiếng mời.
- Cảm ơn. Tôi cũng đã chuẩn bị đồ ăn theo.
Tôi đáp, cuốn tấm khăn của bà Vêra, bỏ vào túi du lịch. Rồi
tôi vào phòng vệ sinh. Bồn rửa mặt nhem nhếch, vòi nước còn ri rỉ chảy. Có lẽ
hành khách nào cẩu thả vừa từ đây đi ra. Tôi rửa mặt, thay quần áo. Một bộ đồ
màu xám nhạt có pha từng mảng trắng tang nhã nhưng đã lỗi mốt từ lâu. Tuy
nhiên, mặc một bộ áo quần lỗi mốt nhưng sạch sẽ còn hơn mặc bộ đồ hợp thời
trang mà nhàu nát bẩn thỉu. Đi đường, dù tàu có hiện đại, tiện nghi đến đâu,
cũng không tránh được bụi bặm. Tôi ngắm mình trong gương. Sau giấc ngủ ngon, thần
sắc đã khá hơn. Rửa chân tay cẩn thận, tôi trở về chỗ ngồi, giở túi thức ăn đường
ra. Chàng lãng tử đã mua cho tôi. Có lẽ, vì cái khoảnh khắc gặp gỡ tại sân trường
đại học năm xưa mà anh ta chú ý tới một cách nhiệt thành như thế. Trong túi có
một gói sandwich, một hộp các tông đựng bánh ngọt. Trên bìa, vẽ mấy cây nấm nâu
được đắp bằng sô cô la. Bên trong là bánh kem nhỏ, hình tròn, trên mỗi chiếc
bánh dấp nổi một cây nấm bằng sô cô la hệt như hình vẽ. Một thứ bánh ngọt xa xỉ,
quá xa xỉ so với cuộc đời công nhân xuất khẩu chúng tôi. Một gói bánh trứng lớn,
bên ngoài bọc giấy bóng mờ. Năm thanh sô cô la hiệu Sport. Tôi mở túi, lần lượt
đặt từng thỏi lên bàn. Rồi, tôi ăn miếng sandwich. Đoạn, tôi mời người đàn bà
bánh trứng với bánh kem nhỏ. Bà ta gật đầu:
- Cảm ơn...
Rồi đưa những ngón tay trắng mũm mĩm lấy bánh ngọt ăn. Bà có
vẻ khoái những đồ ăn ấy. Nhưng trong ánh mắt nhìn tôi ẩn giấu nỗi kinh ngạc: -
Cô mà dám mua những thứ này sao?...
Ánh mắt bà ta nói lên điều đó. Tôi lẳng lặng ăn, gạt những vụn
bánh vào mảnh giấy để ném vào thùng rác. Rồi tôi bóc một thanh sô cô la:
- Xin mời.
Lần nữa, người đàn bà đáp:
- Cảm ơn.
Lần này, kèm theo một nụ cười. Xong bữa, tôi thấy khát. Chàng
lãng tử đã quên mua cho tôi một chai nước có ga hoặc nước khoáng đem theo. May
sao, một người đàn bà mặc áo tím có cả một túi hoa quả và một bình sữa ướp lạnh
trong chiếc giỏ đan bằng sợi ni lông giả cành hoàn diệp liễu. Chúng tôi uống thỏa
thuê, ăn trái cây rồi người đàn bà rút một quyển truyện trinh thám trong túi ra
đọc. Tôi ngồi dán mũi vào cửa kính, nhìn bên ngoài... Cứ thế, cho đến lúc xuống
ga. Chúng tôi chào nhau, chúc sức khỏe rồi mỗi người đi mỗi ngả. Lúc ấy, khoảng
hai giờ ba mươi chiều, các cửa hàng mở cửa, người ra vào tấp nập. Tôi sực nhớ cần
mua món gì đó khả dĩ làm quà cho cho bà Vêra, với hai cô bạn cùng phòng, túi thức
ăn của chàng lãng tử còn lại là đủ. Nhưng với bà gác dan tốt bụng...
Tôi lượn đi lượn lại mãi trước các quầy hàng, sau cùng quyết
định mua một chai cô nhắc Nga mười rúp. Túi tiền của tôi chịu được món quà ấy.
Vả chăng, tôi biết những người đàn bà cô đơn, lúc trở về già thường thích uống
rượu một mình...
Mua xong, tôi thả bộ dọc theo cửa hàng, tới công viên. Qua
công viên này tới trạm xe buýt đi về khu cư xá nhà máy dệt. Gọi là công viên,
kì thực đó chỉ là một khuôn viên nhỏ so với các khuôn viên đầy rẫy trong những
thành phố nước Nga. Nhưng bù lại, nó có vẻ hoang dại lạ lùng. Dường như những
người làm vườn ở đây quanh năm bị thần Lưu Linh rủ rê vào quán rượu. Họ đã bỏ
cuốc xới cỏ, dao kéo cắt xén cây trong xó xỉnh một quán rượu nào đó và không
tìm thấy. Khắp khuôn viên, cỏ cây, hoa lá, dây leo, bụi rậm mặc sức chen chúc,
mặc sức thả phóng nguồn sinh lực tràn trề. Bên những cây lững thững tán lá xanh
là những dây leo lòng thòng thả xuống những chùm hoa tím, những vòi dây mềm mại
phủ đầy lông. Giữa những bồn hoa, cỏ kim và cỏ tầm ma ngất nghểu vẫy gió. Trên
các luốn đi rải sỏi, thi thoảng lại có một đám cỏ mọc xuyên qua lớp sỏi dày,
vươn lên đâm mầm nhọn và cứng của chúng. Dương xỉ và rêu cùng bám từng đám
quanh các bồn đá trắng hoặc đá hồng, trước đây người ta dùng trồng loài cây
không hoa, nhưng lá xoăn màu đỏ...
Tôi đi tắt qua công viên, vừa để rút bớt một đoạn đường, vừa
ngắm cảnh. Khuôn viên này là nơi chúng tôi thường rủ nhau tới chơi. Những chiếc
ghế gỗ cũ ải, chìm lút trong đám cỏ rậm kia lũ chúng tôi thường ngồi suốt buổi
chiều chủ nhật, sau khi uống nước kơ-vát và chung tiền mua hai xâu thịt cừu nướng.
Người đi trong công viên không nhiều, không vội vã, họ cùng bước những bước trễ
nải như tôi. Chợt, bọn họ ngoái cả về chiếc kiot bán văn hóa phẩm và vật lưu niệm
ngay giữa ngã tư đường, dưới một vòm cây lớn. Trong ánh mắt họ, tôi đọc thấy nỗi
tò mò lẫn sự kính nể. Các cặp trai gái thôi không trò chuyện, im lặng đưa mắt
nhìn. Những người lỗ mãng hơn thì đứng hẳn lại, giương mắt ngắm nghía. Bất
giác, tối cũng lây nỗi tò mò ấy. Tôi quay về phía kiot. Ở đấy, khoảng sân lát
đá trắng, một nhóm thanh niên Nhật đang đứng trò chuyện. Họ còn trẻ, cũng trạc
tuổi như tôi. Ba chàng trai, hai cô gái. Chàng trai cao nhất vừa từ kiot bước
ra, khẽ nhún vai nói gì đó với cả bọn. Cử chỉ đó như báo rằng anh ta không tìm
được vật đáng quan tâm trong cái kiot nhỏ bé, sơ sài. Anh ta cao tới một thước
bảy lăm, không khác biệt bao nhiêu chiều cao trung bình của người phương Tây. Sống
mũi anh ta cũng thẳng. Nhưng mắt vẫn là thứ mắt của châu Á. Hai anh chàng kia
thấp hơn. Họ hơi giống nhau cả về chiều cao lẫn khuôn mặt. Nhìn họ, thấp thoáng
hình ảnh của các võ sĩ karate trên các áp phích quảng cáo của thập kỷ năm mươi.
Tuy thế, họ cũng đẹp. Cả ba người mặc đồng phục trắng, cà vạt xám. Hai cô gái xấu
hơn. Cả hai cô đều mặc váy ngắn, áo vét thả vạt bên ngoài. Tóc cắt bằng. Mỗi cô
đeo một chiếc vòng nạm kim cương. Mỗi cô cầm một chiếc ví màu kem nhẹ. Nhìn mặt
những người trai trẻ ấy, thấy họ tự tin lắm. Họ không để tâm tới sự chú ý của
đám đông xung quanh. Có lẽ với họ: Sự chú ý hay ngưỡng mộ của đám đông là đương
nhiên. Họ nói với nhau khe khẽ, cười cũng khẽ như thế, cái nhìn giữa hai mi mắt
hẹp thật bình tĩnh và an nhiên. Làn da họ hồng hào, trơn bóng. Làn da của những
người no đủ... Người Nhật, dường như chỉ cái tên gọi quốc gia họ đã là tấm giấy
bảo lãnh cho quyền tự hào... Dường như chỉ cái tên ngắn ngủi ấy, là tấm thẻ tùy
thân cho họ bước tới bất cứ xó xỉnh nào trên trái đất một cách ung dung thanh
thoát. Có gì khác biệt giữa họ và chúng tôi?... Và cũng ngay lúc ấy, trong trí
nhớ của tôi hiện lên hàng trăm những khuôn mặt bạn bè, những trai tráng thế hệ
chúng tôi. Những gương mặt bị nỗi lo âu làm cho cằn cỗi tiều tụy, cau có, bụi bặm...
Những gương mặt nhớn nhác vì sợ hãi. Biết bao nhiêu nỗi sợ hãi có thể xảy ra...
Nỗi sợ không mua được hàng hóa về, nỗi sợ một ông bố già hay một bà mẹ già có
thể lao lực hoặc ốm nặng trong thời gian chờ đợi món tiền viện trợ còm cõi của
đứa con, nỗi sợ một vị quan chức nào đó trong nhà đại sứ... Những gương mặt tàn
úa, ủ dột vì suy tính. Suy tính món tiền đủ duy trì sự sống và món tiền nuôi dưỡng
người thân. Suy tính thù lao công của một ngày hái táo hay một ngày quét dọn
trên các toa tầu. Suy tính phương tiện mưu sinh cho cuộc sống tương lai, tương
lai bấp bênh như sa mù trên mặt biển... Trên đường phố, gương mặt ấy không thể
nào hòa trộn với những gương mặt khác, những gương mặt của một nhân loại an hưởng,
hòa bình, hạnh phúc và tự do... Vầng trán hai mươi hằn lên những nếp nhăn, mái
tóc đen đổ xuống quầng mắt xanh tím. Cái nhìn đăm đắm sâu thẳm. Vẻ quyết liệt
thô bạo, man dại khi tranh giành trước các quầy hàng.. Nỗi mặc cảm tủi hổ trước
ánh mắt người xứ lạ. Cuộc vồ xé tâm can không lúc nào ngơi...
Tôi đưa mắt lần nữa liếc nhìn đám người Nhật. Bòn họ có gì
khác với chúng tôi?... Nếu như có kiếp luân hồi, chắc chắn kiếp trước không có
gì đảm bảo họ có phẩm chất trội bật. Cả về trí thông minh, cả lòng kiên nhẫn, cả
sự chịu đựng mà đám dân châu Á dư thừa. Nhưng số phận đã ưu đãi họ. Họ đã được
đầu thai dưới một mái nhà bằng an, ít bão gió...
Đã tới khúc đường rẽ. Ở đây các bụi gai trổ đầy hoa. Hoa lấm
tấm xanh màu ngọc lưu li. Tôi vượt qua bụi hoa, bước xuống các bậc thang gỗ. Những
bậc thang này đã được làm lâu lắm. Phần giữa mỗi phiến gỗ, vết chân người qua lại
mài mòn trũng như trái cây bị chim khoét. Hàng lan can hai bên có trổ hoa văn.
Nhưng đường hoa văn đã mòn. Ngay ở bậc thang cuối, một con đường trải nhựa dẫn
tới trạm xe buýt. Đã thấy đám khách chờ...
Kể cả thời gian đứng chờ, lẫn thời gian xe chạy, hai mươi bảy
phút sau tôi đã về tới khu cư xá. Trong gian sảnh, bà Vera ngồi lừng lững như
trái núi. Đôi que đan ngoáy nhoay nhoáy trong tay. Bà lại đan. Lần này là một
chiếc áo khoác. Tôi vui vẻ chào bà và rút chai cô-nhắc ra:
- Cảm ơn bà Vera, không có chiếc khăn của bà, chắc cháu chết
rét trên tàu... Đây là quà của người đi xa...
Tôi đặt chai cô-nhắc trước mặt bà, hy vọng nhìn thấy nụ cười
vốn hiếm hoi trên gương mặt bà. Nhưng ngược với dự kiến của tôi, bà lại lắc đầu
buồn bã:
- Chuột nhắt, mày là một con bé quá ít may mắn...
Nói đoạn, bà cúi xuống mở ngăn kéo:
- Lại có một bức điện chờ mày đây.
Bà đưa tờ giấy gập làm tư cho tôi. Tôi mở:
“Hằng về ngay. Cô Tâm sắp chết.”
Không có tên người gửi. Con dấu bưu điện Hà Nội, Matxcơva, rồi
tới lên tỉnh lị của chúng tôi. Tôi bỗng muốn ngã, ngã xuống ngay lúc ấy, ngủ một
giấc ngủ vĩnh viễn, không bao giờ còn phải ngồi dậy. Tôi liếc tấm sàn lát gỗ cũ
kỹ của gian sảnh, đầy những vết xước và vết ố bẩn, nơi hàng vạn dấu giày đi
qua... Tôi sẽ nằm xuống đó. Người ta phủ một mảnh vải lên... Thế là xong... Người
đàn bà Nga vẫn nhìn tôi sau mắt kính, một cái nhìn già lão, hiền từ. Tôi chợt
hình dung lại những gương mặt hồng hào thanh thản, của đám người Nhật trong
khuôn viên, giữa vòm lá xanh hoang vu, con đường rải sỏi, những bụi gai trổ đầy
hoa, lũ bồ cô đậu khắp các bồn hoa đá hồng và đá trắng...
Một mũi kim nhọn chích vào tim. Tôi bước tới gần người gác
dan, mỉm cười:
- Cảm ơn bà Vera, cháu về phòng...
Tôi đưa tấm khăn trả bà rồi bước lên cầu thang, về phòng.
Phòng khóa, hai cô bạn tôi đi làm. Cô ta, con người hèn mọn có cái mũi tẹt cũng
đi làm. Tôi mở khóa, thay quần áo. Đáng lẽ, chui vào chăn ngủ vùi, tôi ra bồn
nước rửa mặt rồi quay vào bàn, ngồi suy tính. Tấm khăn phủ giường sạch sẽ, phẳng
phiu như mời chào. Tôi phải chống lại ham muốn đó, nêu như tôi đã không ngã gục
trước mặt bà Vera trong gian sảnh nghĩa là là tôi không được quyền ngã. Những
biến động và giày vò của đời sống xô ngã con người chính vào khoảnh khắc họ
nghĩ rằng mình có thể quy hàng. Đã vượt qua giây phút đó, không có quyền thoái
lui.
Chương 22
Trời im gió. Những ngọn cây cao im phăng phắc. Tôi mở hết các
cửa kính. Làn không khí mát ùa vào phòng. Một chút nắng chiều và hơi thở man
mác – dấu hiệu sơ khởi của mùa thu. Giã biệt mùa thu vàng của nước Nga. Mùa thu
chưa hội ngộ đã xa cách. Có lẽ, số phận chỉ cho tôi một lần, một lần gặp gỡ và
chiêm nghiệm vẻ đẹp ấy. Tôi tính đến các thủ tục cần làm ở Matxcơva. Sớm nhất
cũng hai tuần nữa mới có thể lên máy bay. Lúc ấy, cây cối ở Matxcơva chưa thay
màu...
Tính hai tuần nhưng rút cục chỉ mười hôm tôi đã ra được sân
bay. Tất cả nhờ ở anh chàng lãng tử. Về Matxcơva, tôi tránh mặt ông cậu. Tôi ở
nhờ một người quen. Chị họ một trong hai cô bạn cùng phòng với tôi. Một người
đàn bà dưới bốn mươi tuổi, nhan sắc không mặn mà nhưng rất tốt bụng. Chị đánh
máy cho một nhà máy xuất bản, sang đây theo ký kết hợp tác trao đổi văn hóa.
Căn phòng chị ở là một căn hộ khép kín, đã cũ nhưng còn đầy đủ tiện nghi. Chị
làm việc ở nhà, còn tôi đi xuôi ngược suốt ngày. Tối về, tôi ngủ trên chiếc
đi-văng tiếp khách của chị. Vào buổi chiều ngày thứ tư, tôi thất thểu từ bến xe
điện ngầm về, buồn rười rượi vì công việc trục trặc. Ở tòa đại sứ, có hàng trăm
thứ rắc rối, phiền não hành hạ con người. Nhất là với một cô gái từ miền xa lắc,
xa lơ đến... Đang đi, tối sực nhớ tối nay là sinh nhật của chủ nhà. Chị đã dặn
tôi về sớm tham dự. Lẽ ra, tôi phải mua hoa hoặc một gói quà gì đó, socola hoặc
một lọ nước hoa ngoại. Tôi đã quên. Giờ, chỉ còn cách duy nhất là nhảy lên xe
điện, tới chợ nông trường mua hoa quả... Đang ngẩn ngơ tính toán, chợt bóng một
chàng trai hối hả vượt qua đường, đi tới. Anh tiến lại gần tôi, chìa tay ra:
- Xin chào.
Tôi buột miệng kêu:
- Chàng lãng tử.
Anh ta cười:
- Cô bạn nói gì mà kỳ quái thế?...
Tôi cũng cười. Sau đó tôi giải thích cho anh hiểu xuất xứ cái
biệt hiệu kia. Chàng lãng tử cười ngất, mắt không rời khỏi mặt tôi. Tôi vừa ngờ
vực vừa hân hoan vì ánh mắt trìu mến ấy... Có lý gì anh ta lại chú ý tới
tôi?... Một cô bé còm nhom, xanh bủng. Chàng lãng tử đưa tôi tới nông trường ma
trái cây và hoa tươi. Hóa ra, anh cũng thân thiết với chị chủ nhà và tới dự
sinh nhật chị tối nay. Trái đất, cuối cùng vẫn chật hẹp... Trong buổi tối vui vẻ
ấy, tôi kể cho mọi người nghe những phiền não tôi phải chịu, chàng lãng tử cười:
- Cuối cùng, bạn cũng chỉ là một cô bé chíp hôi... Thôi, đưa
tất cả giấy tờ đây...
Anh ta cầm lấy đống giấy má của tôi. Ba hôm sau anh quay lại,
chìa ra tấm vé máy bay:
- Ngày kia bay. Chuyến mười một giờ bốn mươi lăm phút... Còn
bây giờ tôi sẽ đưa nàng đi cửa hàng. Cần gì, và thiếu những gì, hãy khai ra cho
đủ. Không còn thời gian để mà ngượng ngùng nữa đâu...
Chưa có một thanh niên nào áp chế người khác với dáng vẻ quyền
uy và êm dịu thế. Anh ta đã giúp tôi rất nhiều trong chuyến đi quá chật vật ấy.
Lần đầu tiên trong đời, tôi chịu nhận sự giúp đỡ ấy từ một người không liên
quan máu huyết. Mọi thủ tục trôi qua xuôi xẻ, chàng lãng tử đã đưa tôi ra sân
bay. Và nụ cười trẻ trung, kiêu mạn của anh sáng bừng lên ngoài khuôn cửa phòng
hải quan, là hình ảnh sau chót của quãng đời ấy, quãng đời lao động trên xứ lạ,
quãng đời đã dạy cho tôi bao điều phải suy ngẫm, những giọt lệ buồn tủi và sướng
vui...
- Xin thông báo, còn hai phút năm mươi giây nữa, chuyến bay
Matxcơva – Hà Nội sẽ được thực hiện... Xin thông báo...
Giọng chiêu đãi viên vang lên. Người đàn ông ngồi bên tôi
đang loay hoay sắp xếp lại những thứ đồ trong chiếc túi xách tay. Nào bóng đèn,
nào phích nước Trung Quốc, nào con lật đật, nào các gói thực phẩm lớn nhỏ và
táo... Mồ hôi ông ta vã đầy mặt. Cổ áo sơ mi một bên cụp xuống, một bên vểnh
lên. Chiếc cà vạt nhăn nheo như khúc ruột gà...
- Xin thông báo...
Tôi rút bông trong túi, vo viên nhét vào hai lỗ tai. Rồi, sau
khi đeo dây an toàn tôi ngả người về phía sau nhắm mắt ngủ... Cả chuyến bay là
những giấc ngủ li bì nối tiếp nhau. Các giấc mơ đan xen, các hình ảnh chồng
chéo... Nhưng trên tất cả mọi hình ảnh, mọi ý nghĩ là một nỗi lo khắc khoải.
Tôi e rằng cô Tâm đã không đủ kiên nhẫn chờ tôi...
Sau gần hai ngày, một đêm, máy bay tới Nội Bài. Không có ai
đón tôi, như tôi dự tính. Lên xe buýt hàng không tôi trở về Bờ Hồ. Từ đó tôi
thuê một chuyến xích lô về nhà. Mẹ tôi đang ngồi ngủ gật sau quầy hàng lơ thơ
vài chiếc bánh chưng, bánh gai và mấy trái chuối chín nẫu. Chiếc chân gỗ tháo
ra, đặt một bên. Nhìn thấy tôi mẹ định đứng lên, chạy ra ngõ. Nhưng khi sực nhớ
tới khúc chân giả, mẹ lại ngồi xuống. Mẹ khóc. Tôi nói:
- Nín đi mẹ, dẫu sao con đã về được tới nhà.
Chúng tôi đóng cửa hàng, nghỉ sớm. Tối hôm đó, nhà chật
khách. Theo thói quen, bà con chòm xóm đổ tới hỏi han. Sắp tới, nhiều nhà xin
cho con em đi xuất khẩu lao động. Họ muốn biết chúng tôi sinh sống bên ấy ra
sao?... Mẹ tôi pha hai bình nước chè lớn. Chúng tôi mời mọi người uống nước
chè, ăn nho khô và kẹo. Thứ kẹo “Chìa khóa vàng” rất hợp khẩu vị ở Việt Nam.
Chàng lãng tử đã chuẩn bị cho tôi khá đầy đủ. Cuộc hàn huyên thật vui, không
khí quen thuộc của ngoại ô lại tràn vào cảm quan của tôi, với vẻ ầm nồng lam
lũ. Chỉ còn thiếu một cái gì đó... Con Trắng Xồm và giọng hát cuồng dại của anh
quê. Tôi hỏi cô Vị:
- Dạo này anh con trai bà Miều không hát nữa hả cô?...
Cô bĩu môi:
- Khỏi phải mong. Chắc lúc này nó đang đánh tam cúc với lũ trẻ
con. Tẹo nữa mày lại váng óc lên, tao chớ kể...
Tôi cười:
- Con Trắng Xồm thế nào ạ?
Bà hàng xôi lúc lắc đầu:
- Lại con Trắng Xồm. Lũ trẻ trong ngõ này đến lạ. Thằng con
trai tôi đi học ở Đức viết thư về cũng hỏi con Trắng Xồm. Thằng con trai bà
Hoan đi bộ đội đóng tận biên giới về phép cũng chỉ hỏi con Trắng Xồm. Giờ con Hằng
nhà bà Quế cũng hỏi con Trắng Xồm. Nó chết rồi. Chết mùa đông năm ngoái. Là chó
chứ là người chắc nó phải lên chức cụ. Già quá rồi còn gì?
Mọi người cười. Và lúc ấy, giọng hát khàn khàn của anh què bất
chợt rống lên:
Mùa thu sang lá rụng ven đường
Cô Vị hất hàm bảo tôi:
- Đã thấy chưa?...
Tôi gật đầu, cười, trong lòng muốn rơi nước mắt. Sau quãng thời
gian xa cách, giờ đây tôi mới đủ khôn lớn để hiểu nỗi buồn thẳm sâu của tiếng
hát trùng phùng. Nó vẫn vang trong không gian nhàm chán của phố nghèo. Nó, điệp
khúc buồn tẻ chẳng thay đổi một luồng sinh khí tù đọng không có cơ hội giải
thoát. Nó, giai điệu ám ảnh của một cõi đời thiếu hụt, của cuộc tồn tại mà chẳng
tồn sinh, của một dòng sông thối rữa nhiều rác rển và bèo bọt...
Hàng bạch dương xác xơ ven đồi
Màn sương trắng buông rơi lững lờ
Mà không thấy bóng người mong chờ...
Chàng què rống lên. Không còn là âm nhạc mà là tiếng kêu
thoát ra từ con tim bị bóp nén, là làn hơi độc thoát ra như thứ lửa bỏng trên đầm
lầy, là tiếng gầm của một con thút què quặt cả tâm hồn lẫn thể xác nhưng lại dư
đủ trí không để hiểu cuộc đời thỏa thuê ngang dọc chốn rừng thẳm, dưới ánh chói
mặt trời...
- Hằng, xem lại siêu nước sôi chưa con?...
Mẹ tôi gọi. Tôi giật mình, xuống bếp lấy siêu nước. Chắc nó
đã sôi một lúc lâu. Đổ nước vào phích, tôi pha tiếp tuần chè thứ hai. Đám xóm
giềng đang rôm chuyện.
Mẹ tôi bảo:
- Tiếp nho ra đĩa đi con.
Tôi đáp:
- Vâng ạ.
Rồi đi lấy túi nho, xẻ ra các đĩa. May sao là trước ngày lên
máy bay, chúng tôi đã mua được thứ nho không hạt, rất ít sạn trong một cửa hàng
gần ga xe điện Miacốpxki. Mọi người chiếu cố tới nho nhiều hơn kẹo. Một ông
già, trước từng làm đầu bếp cho cơ quan công sứ Pháp, vừa khề khà ăn vừa nói:
- Lâu ngày không ăn cũng thèm... Nhưng mà nói các vị bỏ qua
cho, thứ này thua xa nho trắng Pháp...
Giọng cô Vị át đi:
- Thôi thôi bác ơi, của ngon vật lạ thời sài lang chúng cháu
đâu có được hưởng mà so sánh... Với chúng cháu thì nho này cũng ngon rồi.
Ông già nói:
- Đấy là tôi bảo cho mà biết...
Ông làu bàu gì đó, không rõ. Cô Vị đã quay sang kể cho mẹ
nghe về vụ đánh ghen vừa xảy ra ở ngõ Hàng Bông sáng nay.
Bỗng nhiên, điện phụt tắt. Mọi người hỏi nhau:
- Sao lại cắt điện giờ này nhỉ?
- Biết đâu được?... Sở “điên” mà...
- Đừng có nói oan cho người ta. Dây nhợ mục hết không có tiền
thay...
- Con bà là nhân viên sở “điên” có khác, bênh ra mặt... Thôi,
giải tán. Mỗi người bốc nắm nho bỏ túi rồi về cho mẹ con cô ấy nghỉ.
Tôi thắp cây đèn dầu. Mỗi người bốc nắm nho hoặc dăm bảy chiếc
kẹo bỏ vào túi rồi ra về... Lúc tôi đóng cửa, đồng hồ đã gõ thong thả mười một
tiếng. Mẹ tôi ấu yếm vuốt tóc tôi, rồi bảo:
- Kệ đấy, mai hẵng dọn... Mẹ con mình ngủ đi con...
Chúng tôi lên giường. Mẹ gối đầu tay cho tôi, kể lể với tôi về
mọi chuyện nhà. Sau, lại tới lượt tôi kể lại cuộc sống của mình bên kia, quãng
đời nơi xứ lạ...
- Thế tuyết có giống cái bọt đá trong tủ lạnh nhà bà Hoan
không con?
- Gần như thế. Con đã mua cho nhà mình một chiếc tủ lạnh.
Hãng minxơ hẳn hoi.
- Thế, mùa hè có thể làm đá bàn chè đỗ đen?
- Vâng.
- Con đi làm lạnh lắm hả? Nghe nói mùa đông bên ấy, đường
toàn nước đá.
- Vâng. Chỗ con ở lạnh lắm, thường xuyên âm bốn mươi độ
- Chắc mẹ sang bên ấy mẹ sẽ chết.
- Nếu khỏe. Rồi cũng quen. Nhưng những người nhiều tuổi chịu
rét khó khăn hơn. Đường trơn, thanh niên như chúng con cũng ngã xoành xoạch,
xương đau tê tái. Những ông già, bà già Nga tới cửa hàng thực phẩm cũng ngã. Chắc
họ đau lắm. Cứ nhìn họ, con lại nghĩ đến mẹ ở nhà...
Tôi thấy mẹ lấy cánh tay lau nước mắt. Rồi mẹ sụt sịt:
- Mẹ biết con vất vả chỉ vì mẹ...
Tôi ôm chặt mẹ, và dỗ dành như dỗ dành một em bé gái. Quả thực
lúc ấy, tôi thấy mẹ nhỏ bé và yếu đuối làm sao?...
- Mẹ ơi, đừng khóc...
Chúng tôi xiết chặt tay nhau, trong niềm hạnh phúc. Khoảnh khắc
ấy, quá khứ bị xóa nhòa. Chỉ còn lại mẹ con tôi với tình yêu không thể san sẻ...Tiếng
đồng hồ tích tắc reo trong không gian đều đặn, êm đềm. Thi thoảng một con thạch
sùng tặc lưỡi trong bóng tối. Ngọn đèn hoa kỳ vặn nhỏ bằng hạt đỗ đặt trên bàn
chốc chốc lại bùng lên vì một cơn gió lùa. Tôi vỗ nhè nhẹ lên lưng mẹ:
- Ngủ đi mẹ nhá...
Mẹ tôi trở mình đáp:
- Ừ, ngủ đi con...
Tôi buông mẹ ra, lấy chăn đắp bụng cho mẹ. Lúc tôi xoay mặt lại
với mẹ, mẹ hỏi:
- Bên ấy, con có gặp cậu không?...
- Có.
Tôi đáp. Nhưng cũng ngay lúc đó, cơn giận dữ đột ngột trào
lên, xâm chiếm tôi. Tôi thấy mình nghẹn thở, một luồng khí nóng xộc vào lồng ngực,
lùa lên óc. Trong giây lát tôi tưởng mình có thể điên lên, đập phá một cái gì
đó tức khắc. Có thể rời xa vĩnh viễn mái nhà này, không nuối tiếc. Có thể gào
lên rồ dại. Có thể nghĩ ra những lời lẽ bạo tàn... Nhưng rồi tôi vờ ngáp, và
nói:
- Thôi, ngủ đi mẹ ạ... Mai con phải đi sớm...
Đó là cố gắng cuối cùng của tôi. Mẹ tôi im lặng. Cái vết nứt
giữa chúng tôi hé miệng ra, như vết nứt trên mặt ruộng khô nẻ, như vết chém
trên một thứ đồ gỗ quý.
Suốt đêm tôi không ngủ. Tôi nằm cứng đơ như hình nhân. Mẹ tôi
chỉ trằn trọc chừng vài phút, rồi cất tiếng ngáy ngon lành.
Tôi bỗng căm ghét tiếng ngáy của mẹ. Sao nó an nhiên một cách
bạo tàn. Bốn giờ rưỡi sáng, tôi nghe tiếng cô Vị xoe xóe bên tường:
- Nhóm cho cô cái lò.
Tôi bật dậy, chuẩn bị quần áo, tư trang vào chiếc tui đi đường.
Rồi tôi viết mảnh giấy đặt trên bàn:
Con về quê. Thời gian chưa tính được.
Mẹ hãy giữ gìn sức khỏe.
Lẽ ra, phải ở với mẹ một ngày nữa. Nhưng giờ đây, tôi không
còn ăn năn. Tôi khép cánh cửa lại sau lưng, bước ra đường với tâm trạng nhẹ
nhõm. Có ai đó đi ngược lại phía tôi?... Một người mù. Ông già cao lớn, mặc bộ
quần áo vải, đeo túi vải nâu. Chiếc gậy trong tay ông khua lọc cọc dò đường. Một
người ăn xin chăng? Tôi định hỏi nhưng chính ông già lên tiếng trước:
- Ai đấy?
Tôi hỏi ông:
- Ông đi đâu?
- Tôi tìm đứa con gái tôi. Trong ngõ này có nhà ai tên là Nhị
không?
Tôi điểm mặt những người tôi biết... Không ai tên là Nhị...
Tôi nói:
- Xóm này không có ai tên là Nhị... Còn đầu ngõ, cháu không
được biết.
Ông già ngước đôi mắt đen kịt lên, ngẫm nghĩ, nói:
- Bà Nhị bán bánh giầy giò chả từ thời Pháp. Nghe đâu bây giờ
học được người Tàu nghề làm “cháo quẩy”... Bà ta là dì ruột con bé nhà tôi.
- Trong xóm này chỉ có chị Dược bán bánh dày giò chả thôi ông
ạ... Hay ông cứ hỏi thử xem?
- Ừ, tôi sẽ hỏi...
Ông đáp, ngẩng đầu cao, vẻ cương cương không che giấu. Tuy
mù, nhưng giọng nói sang sảng, hoàn toàn trái ngược với những người mù ủ rũ, e
dè tôi đã gặp:
- Cô cứ đi đi... Đừng quản ngại. Tôi khắc tìm được đường đi.
Tôi đã đi từ làng lên huyện. Từ huyện lên tỉnh. Từ tỉnh đi ô tô lên đây... Tôi
không ăn mày lòng thương của thiên hạ...
Nói đoạn, ông ngẩng đầu kiêu hãnh, tiếp tục đi sâu vào ngõ, lọc
cọc, lọc cọc... chiếc gậy khua dẫn đường. Tôi đứng nhìn theo ông một lát rồi bước
đi. Với người như thế, không hy vọng giúp đỡ họ. Có lẽ, đứa con gái ông gặp một
chuyện phức tạp, có thể là lỡ dở với một người đàn ông nào đó, có thể phản đối
một cuộc hôn nhân không ưng ý, có thể vì hoang thai... Và cô ta phải lẩn trốn
xóm làng, ra đi. Và người cha đeo túi hành trang đi tìm con, có thể do tình
thương, có thể do lòng ân hận... Nhưng dù lẽ nào, ông ta vẫn là một người cha.
Bỗng dưng tôi nhớ tới cha tôi, người đàn ông chưa bao giờ tôi gặp mặt, một tình
yêu nung nấu trong hoang tưởng. Có thể chăng, giờ này ông cũng đang lang thang
trên các nẻo đường dưới âm thế, cô đơn, nhẫn nại, đi tìm đứa con gái mà ông đã
trót sinh ra mà không bao giờ hiểu được nỗi đau khổ của nó khi thiếu vắng ông
trong cõi đời...
Chương 23
Tôi bước hối hả. Chuông nhà ai bên đường điểm năm tiếng. Cái
xóm bắt đầu nhộn nhạo. Tiếng gọi cái, tiếng vo gạo, tiếng múc nước xen lẫn tiếng
gà gáy báo bình minh. Ngay khúc đường đổ ra phố chính, một ông lão đạp xích lô
đang ngồi há mồm ngáy. Tôi gọi ông. Vừa tỉnh dậy ông đã nhỏm lên hỏi:
- Đi đâu?
- Cho cháu ra bến xe ngoại tỉnh.
Tôi đáp. Ông xích lô lúc ấy mới mở được đôi mắt kèm nhèm ra:
- Nào, ngồi lên.
Ông vặn lưng răng rắc vài cái rồi nhảy phóc lên yên đạp. Tôi
ngồi trên xe, ngắm phố xá lúc tinh sương. Nhưng tôi cảm thấy lo ngại: Nhỡ ra cô
Tâm không chờ được mình...
- Ông đạp dấn cho cháu với.
Ông xích lô quát:
- Đạp thế này là hết sẩy rồi. Mấy thằng trai trẻ cũng không đạp
được nhanh như tôi.
Tôi nài:
- Cháu có việc gấp lắm.
Ông lại quát:
- Đã bảo là rất nhanh. Bảo đảm với cô là kịp chuyến xe thứ nhất...
Tôi đành im, chờ đợi. Những đường phố lùi lại phía sau. Qua ngã tư, tôi lại nhẩm
tính quãng đường còn lại. Ông xích lô nói đúng. Tôi tới bến xe khi nhà xe chưa
thức, mà chỉ có chừng dăm khách chờ. Phải nửa tiếng sau, xe mới từ từ vào bến.
Tôi đưa cho người phụ lái một số tiền gấp năm lần giá vé quy định. Tôi được ưu
tiên ngồi ghế trên. Chuyến đi chóng vánh. Xuống bến, tôi gặp may lần nữa. Một
đám xe đạp thồ đang ngồi chầu hẫu chờ. Tôi gặp lại người xe thồ lần trước đã thồ
mẹ con tôi. Ông ta già đi nhiều quá. Tôi ái ngại nhìn ông:
- Bác có đèo được cháu tới bến sông không?
Ông đáp:
- Đèo được.
Thấy ánh mắt lo âu của tôi, ông nói thêm:
- Mỗi ngày tôi đưa những năm chuyến khách ra sông. Cô ngồi
lên đi...
Lưng áo ông loang từng đám mồ hôi muối. Có lẽ, nhiều ngày
không thay. Mùi mồ hôi theo gió tạt lại. Con đường năm xưa lăn dưới bánh xe. Những
giải cát trắng và những ổ gà. Con mương nhỏ luồn qua nhịp cầu gỗ. Thi thoảng, một
gò đất ven đường nổi lên bóng dáng cổ kính của một cây gạo hoặc một gốc si. Vẫn
những đồng lúa bị phân cắt bởi các bờ vùng, bờ thửa, những ao hồ, những kênh thủy
lợi hoặc những mảnh ruộng hoang lun phun cỏ dại... Vẫn như xưa...
Những buổi chiều ấy, lần đầu tiên về quê, tôi đã nép vào lòng
mẹ với tất cả niềm yêu thương và tin cậy. Lúc ấy, tôi là một bé con, lúc ấy,
tôi chưa biết cô Tâm... Một thiên đường bé xíu nở ra dưới chân cây buồm. Cánh
buồm trắng rách vá, nhưng huyền diệu, cả người đàn ông đi đò thô lỗ, cả bộ mặt
dửng dưng của người lái đò, cả dáng điệu nhu mỳ, nhẫn nhịn của người đàn bà
gánh khoai. Tất cả,... tất cả hòa điệu lại, tất cả là một góc cái thiên đường
bé xíu nở trong buổi chiều tuổi thơ. Gió sông thổi lạnh buốt. Tiếng sóng nước dạt
dào. Màu tím rịm của ráng chiều là nơi chân mây. Và những đám xác vờ trắng nổi
lềnh bềnh ven mép nước... Mẹ ơi... cái thiên đường ngây ngất của thời quá
vãng...
- Tới nơi rồi...
Người đạp xe thồ nhảy xuống, rút khăn mặt quàng quanh cổ lau
mồ hôi mặt. Ông nói tiếp:
- Cô cho tiền.
Tôi trả tiền ông, rồi từ từ đi xuống bến đò. Viên đá cũ đã mất.
Thay vào đó là một ống cống xi măng vứt lăn lóc. Có lẽ khách chờ đò ngồi luôn
nên mặt trên nó trở nên nhẵn bóng. Tôi đưa mắt tìm con thuyền với cánh buồm trắng
năm xưa...
Có tiếng động cơ nổ. Từ bến sông bên kia, con thuyền quay
mũi. Rồi chừng mười phút sau nó đã tiến đến trước mặt tôi, tiếng máy đuôi tôm
ròn rã. Người lái thuyền có bộ mặt vô cảm không còn nữa. Con thuyền cũ được sửa
sang lại, gắn máy, một chú bé trạc mười lăm tuổi điều khiển. Đám khách dưới
thuyền nối đuôi nhau bước lên cây ván gỗ. Chờ họ lên hết, đám khách chờ xuống
đò. Tôi là người cuối cùng. Cậu thiếu niên mặc quần Jin, áo sơ mi kẻ ô tóc để
dài như kép hát:
- Các vị nộp tiền cho.
À, ra bây giờ đi đò trả tiền trước. Đám khách quá giang đã
chuẩn bị sẵn bạc lẻ. Tôi phải nài nỉ mãi một bà mới đổi cho. Thu tiền xong
xuôi, cầu lái đò giật dây cho máy chạy. Chỉ một loáng sau, chúng tôi đã tới bờ
bên kia. Tôi bước lên cây ván gỗ, lần nữa ngoái nhìn dòng sông, thay cho một lời
chào. Rồi tôi hối hả bước.
Cô tôi đang chờ tôi... Giơ tay đập cánh cửa, tim bỗng đổ dồn.
Bao nhiêu phỏng đoán cùng lúc xô tới. Căn nhà im như ngôi miếu hoang. Cái im lặng
khiến tôi dừng lại. Tôi nắm cả bàn tay đập cửa thình thình, chừng hai phút sau,
có giọng nói cuống quýt bên trong:
- Đây... Nghe rồi... nghe rồi..i.. i..
Tiếng lách cách mở cửa then ngang hối hả, lập cập. Cánh cửa vừa
hé, tôi đã xô vào:
- Úi giời ơi...
Bà Đũa cất tiếng kêu hớt hải, rồi nói:
- Ra là cô, mong cô mãi.
Tôi hỏi ngay:
- Cô tôi đâu?
Bà Đũa đáp:
- Trong nhà.
Và giây lát, bà nói thêm:
- Bà ấy vẫn chờ cô.
Tôi nhẩy qua bậc tam cấp, chạy xộc vào buồng. Các cửa lớn cửa
nhỏ đều mở toang. Cô tôi ưa ánh sáng, khác nhiều nhà ở nông thôn, nhà cô có nhiều
cửa sổ. Cô đang nhắm mắt như thiêm thiếp ngủ, đầu gối trên gối mây.
Tôi bật kêu:
- Cô.
Tức khắc, cô mở mắt. Một thoáng ngỡ ngàng, rồi đôi mắt sâu và
đen chăm chắm nhìn tôi.
- Cô ơi, con về với cô đây...
Tôi nói.
Cô lặng im, mắt vẫn mở thao láo. Rồi từ hai hố mắt đen mênh
mông, những dòng lệ nối nhau tuôn:
- Hằng...
Cô thì thầm:... Mày ra thế đấy hở con?... Người ngợm lép như
con mắm, vú vế chẳng có, còn đâu là da thịt con gái?...
Khổ thân cháu tôi, đem thân làm cu ly tận nước người...
Cô nức lên từng cơn, đôi vai lép và bộ ngực lép run rẩy. Hai
gồ xương mắt nhô cao trên bộ ngực gầy. Nước mắt, dòng nọ nối dòng kia, tuôn chảy
mãi từ tấm thân khô kiệt. Tay cô đặt trên lưng tôi rơi thịch xuống giường. Cô yếu
lắm, nhưng mắt cô như hai hòn than, không chịu tàn. Cô nói, thì thầm nhưng rành
mạch từng tiếng:
- Tao ghét mẹ mày... Nó không thương đứa con rứt ruột đẻ ra.
Nó đầy đọa tấm thân mày...
Tôi không dám cãi. Tôi vuốt nhẹ hai bàn tay cô, nói:
- Con xin cô. Cô đừng nói nhiều mất sức. Cô nghỉ đi...
Cô lặp lại, bướng bỉnh:
- Tao ghét nó... đứa em dâu trời đánh... nó...
Tôi vỗ nhẹ vào vai cô, kiên nhẫn dỗ dành:
-Con xin cô, nói nhiều mất sức lắm... Cô nghỉ đi...
Môi cô mím chặt. mắt chan chứa lệ nhìn đăm đăm vào một điểm
giữa không gian vô ảnh. Trong đáy mắt, lóe lên ngọn lửa thù hận, rực rỡ và giá
buốt. Tôi bất chợt rùng mình. Tôi gọi:
- Cô ơi...
Gương mặt cô như chùng xuống, mở mắt đi. Cô cất tiếng nấc và
gọi:
- Hằng.
- Dạ.
- Cúi xuống với cô...
Tôi quỳ xuống bên giường, cúi sát mặt cô. Cô đưa bàn tay gầy
héo rờ vai tôi. Khi chạm chiếc xương quai xanh trỗi trên bộ ngực khốn khổ của
tôi, cô lại bật tiếng nấc to hơn, nước mắt trào ra đầm đìa:
- Khốn nạn thân con, Hằng ơi...
Lúc ây, mắt cô chìm trong bóng tối. Tia nhìn trở nên đứt đoạn
run rẩy. Trong đáy hồ thăm thẳm, lướt qua chút ánh sáng yếu ớt khiến tôi se
lòng... Cô ăn năn chăng?... Cuối cùng, cuộc chiến tranh giữa cô với mẹ tôi chỉ
mình tôi gánh chịu. Trận đọ sức bất phân thắng bại chỉ đem lại nỗi bất hạnh cho
số phận của riêng tôi...
Cô gọi:
- Hằng.
- Dạ.
- Cô thương con.
- Vâng ạ.
Cô giơ tay, cố xoa đầu tôi:
- Cô thương con... con biết không?...
Tôi nắm giữ bàn tay khô nhẹ như chiếc lá cuối đông lìa cành,
nói:
- Con biết cô ạ... Cô an tâm.
Giọng cô bắt đầu chơi vơi, nhưng ánh mắt tỉnh táo:
- Cô đã cố chờ con... Cô phải nhìn thấy mặt con.
Tôi đáp:
- Con về, con sẽ chăm sóc cô... Cô sẽ khỏe mạnh như bình thường...
Mắt cô nhìn đâu đó, chứng tỏ cô không thèm nghe lời tôi nói,
như đó chỉ là những điều nhảm nhí. Cô tiếp tục những ý nghĩ của mình:
- Cô chỉ có con, một mình con... trên đời.... Cô muốn con được
sung sướng.. Hồi xưa, cô yêu bố con... như con bây giờ. Cô cõng nó trên lưng,
bón cháo, ôm nó ngủ lúc bà đi cấy... Bố con không còn... Nó ở dưới cõi âm, lạnh
lẽo...
Tới đó, cô rùng mình, nhắm mắt lại. Tôi xiết chặt tay cô, ghì
riết tấm thân xương xẩu, teo tóp của cô vào mình. Tình yêu, sự đồng cảm, mối
liên kết mơ hồ trong bóng tối âm u của máu huyết, niềm xót xa thâm hậu... tất
thảy cùng một lúc vặn thắt con tim.
- Bố con ở dưới kia...
Cô lại tiếp tục thì thầm, mắt vẫn nhắm nghiền, chỉ hai lằn mi
tím thẫm khẽ rung rẩy:
- Cõi âm lạnh lắm... nó không được như ở trên đời...Cô muốn ủ
ấp con, che chở con... Vậy mà chính cô lại đày đọa con, cô hại con... Hằng, con
có oán cô không?
Tấm thân nhỏ bé, khô kiệt run lên, theo từng hồi nấc nghẹn.
Nước mắt cô lại tràn trên gò má, chảy xuống hai bên thái dương sâu hõm. Tôi ôm
cô, nói:
- Cô ơi, đừng nói nữa, cô ngủ đi một lúc...
Cô không nghe tôi. Cô cất tiếng gọi:
- Hằng.
- Dạ.
Cô nói:
- Con ra xem bà Đũa đâu? Bảo bà ấy nấu cho cô nồi nước tắm.
Tôi chạy ra sân. Bà Đũa đang ngồi nhặt kê lép và cỏ hạt lẫn
trong kê ra vừa đãi. Ở vùng này, người ta hay ăn kê nấu với đường cát và bánh
đa. Có lẽ, thấy tôi về, bà Đũa chuẩn bị quà đãi khách.
Tôi nói:
- Bà nấu cho cô tôi nồi nước tắm.
Bà Đũa ngẩng lên:
- Quái lạ, tôi vừa tắm cho bà ấy hôm qua.
Đoạn bà bỏ rá kê, xăm xăm chạy vào buồng:
- Thưa bà, bà mau quên, tôi vừa đun nước tắm cho bà chiều
qua.
Cô Tâm mở mắt, nói rành rọt:
- Tôi không quên... Bảo bà nấu nước thì bà cứ nấu, không cần
hỏi lại... Nhớ bỏ cho tôi thật nhiều hương nhu.
Bà Đũa đáp:
- Vâng.
Rồi bà đi ra.
Cô tôi bảo:
- Con đóng kín cửa lại.
Tôi đóng kín các cánh cửa rồi tới ngồi bên giường. Cô tôi rút
dưới gối vật gì đó, đặt vào lòng tay tôi. Vì tối, lát sau tôi mới nhìn ra hai
chiếc chìa khóa được nối bằng một đoạn dây sa tanh chắc cắt ra từ chiếc quai
nón.
Cô nói:
- Chiếc chìa khóa đồng là khóa tủ đứng. Trong đó cô cất tiền
mặt để con lo lễ tang, cúng cữ ba ngày và bốn mươi chín ngày. Còn chiếc chìa
khóa bằng kền của Mỹ là khóa chiếc hòm gian gỗ lim cô cất phía sau lưng tủ.
Trong hòm, cô để ít đồ tư trang đã đánh sẵn cho con và giấy vẽ sơ đồ nơi chôn của.
Rồi con sẽ rõ...
Nói xong, cô nhắm mắt. Tôi vuốt nhẹ tóc cô:
- Cô ngủ một lát cho dễ chịu... Cô ngủ đi...
Những nếp nhăn trên mặt cô giãn ra. Gương mặt cô trở nên thơ
thái. Cô thở đều đều, hơi rất khẽ. Và cô thiếp đi thật... Tôi xuống bếp, ngồi
bên bà Đũa:
- Cô tôi ốm lâu chưa?
- Bốn tháng hơn rồi.
- Ai đánh điện cho tôi?
- Ông Tám, người đi xe máy lần trước đón cô về.
- Cô tôi mắc bệnh gì thế?
- Tôi không rõ. Cả lang Tây lẫn lang ta tới nhà như chuột vọc
mà chẳng biết bệnh gì. Bà ấy cứ héo dần đi...
- Cô tôi ăn gì thế?
- Bây giờ thì chẳng ăn gì cả. Hồi mới ngã bệnh, bà vẫn ăn
cơm. Qua tháng thứ hai chỉ ăn cháo. Tháng thứ ba uống sữa bò với thỉnh thoảng
đòi ăn chè đỗ xanh nghiền. Mấy tuần lễ nay, bà chỉ uống sâm... Ăn gì cũng nôn hết...
- Cô tôi trông vẫn tỉnh táo.
- Phải, bà ấy tỉnh lắm. Mà sạch sẽ đến kinh người. Cứ hai
ngày bắt tôi đun nước tắm một lần. Có vài con ruồi bay vào phòng là bà ấy bắt
tôi đuổi cho kỳ được.
- Cảm ơn bà nhé. Chắc bà vất vả nhiều vì cô tôi.
- Không. Việc gì cũng quen. Mà chẳng có bà ấy hồi trước tôi
cũng đến bị gậy đi xin xứ người... Này, nước sôi ùng ục rồi đấy...
- Vâng. Bà để tôi tắm cho cô tôi...
Tôi sắp sửa để tắm gội cho cô. Tôi không tin lắm vào linh cảm,
nhưng ý muốn của người ốm nặng cần phải tôn trọng. Cô Tâm, sau giấc ngủ đã thức
dậy. Cô ngoan ngoãn để cho tôi tắm gội, thay quần áo. Sức yếu, nhưng tôi vẫn bê
được cô một cách dễ dàng. Cô nhẹ bỗng như đứa bé. Mùi nước lá thơm tỏa khắp mấy
gian nhà, thật dễ chịu. Tuy ốm, nhưng giường chiếu cô được thay giặt luôn nên
không có mùi hôi lưu cữu như giường của những người bệnh khác. Tôi mặc cho cô một
bộ đồ lụa trắng. Tôi lục thấy nó trong tủ. Cô đã may mà chưa bao giờ mặc. Bộ đồ
ấy nằm giữa các xấp vải và các bộ quần áo khác, cũng nguyên nếp gấp. Tôi nói:
- Cô buồn cười thật, cất mãi làm gì?... Mùa này mặc quần áo
nhạt màu cho đỡ nóng.
Cô im lặng, mỉm cười. Khoảnh khắc ấy, nỗi buồn sâu thẳm lướt
qua đáy mắt cô. Nỗi thương tiếc mùa hè... Tôi cắt lát sâm chưng cách thủy với mật
ong cho cô uống.
Chương 24
Tối hôm đó, nhà chúng tôi đầy khách. Những người quen thuộc
và đám họ mạc nghe tin tôi về sang chơi. Tôi bảo bà Đũa nấu một nồi chè đỗ xanh
đãi khách. Cả kê nấu với bánh đa cũng được đem ra. Người làng trò chuyện rầm
rĩ. Họ không hề bớt nhời và hạ giọng chút nào, mặc dù người ốm nằm cách có một
bức tường. Khoảng chín giờ, người đàn ông đeo kính xanh chai bữa trước bước
vào:
- Bà đỡ chưa cô nương?
Ông ta hỏi tôi.
- Cô tôi đang ngủ.
Tôi đáp.
- Ngủ được là tốt...
Ông ta nói oang oang và khoe: Hôm nọ tôi phải phóng lên tận
Hà Nội điện cho cô mới nhanh thế...
Tôi đáp:
- Vâng, cảm ơn ông.
Ông ta ngồi xuống phản:
- Bà Đũa, phần chè của tôi đâu?... Bà định cắt xuất của tôi
à?...
Bà Đũa trả lời:
- Có chứ. Cắt xuất ông làm sao được?...
Nói đoạn, bà xuống dưới bếp lấy bát lên múc chè mời ông ta.
Có lẽ, dạo này phải tiếp khách nhiều, bà Đũa ăn nói hoạt bát hẳn lên. Tôi hỏi
bà:
- Không thấy ông phó chủ tịch Đường sang chơi?
Mọi người cười ồ:
- Ông ta đang dạo chơi dưới âm phủ...
Thấy tôi ngơ ngác, người đàn ông đeo kính màu xanh chai giải
thích:
- Ông ta không thể từ bỏ âm mưu cướp vườn của bà Hài. Bà chị
cái bà có vết bớt trên má sang nấu ăn giúp bà Tâm hồi ấy... Ông ta đã tranh thủ
mọi thế lực từ huyện xuống xã để hợp lý việc chiếm đoạt mảnh vườn. Giấy má vừa
xong tuần trước, tuần sau thợ đến đào móng, đổ gạch xây nhà. Vôi không kịp tôi,
phỉa mua vôi tôi sẳn của đám gác công trường trên huyện. Ô tô chở xi măng vào tận
cửa, ném huỳnh huỵch bao lớn, bao nhỏ... Chỉ vài tuần sau, ba gian nhà đã mọc
lên giữa vườn hồng xiêm, cứ như mơ. Ông phó chủ tịch vênh váo lắm, đi đâu cũng
nhơn nhơn cười nói. Bà Hài thành người trắng tay. Chiều chiều bà ấy đi vòng
quanh chiếc ao đầu đình. Rồi lặn mặt trời, lại ngược thôn Hà, đến nghĩa trang
liệt sĩ. Bà ấy tới mộ con trai, ngồi cả đêm. Thằng bé chết ở Tây Ninh, ba năm
trước bạn nó cải táng đem về... Mấy người chị gái, thoạt đầu còn cắt người theo
khuyên nhủ. Sau thấy mọi sự cũng thường, bèn thôi. Anh em nhà ấy biết thương
nhau, họ góp tiền góp gạo chu cấp cho bà Hài... Sự đời, chuyện nóng sốt đến đâu
lâu cũng nguội, mọi người quên đi. Qua tết, một chiều ông chủ tịch đang ngồi
cho bầy chó con ăn cháo. Bà Hài lừng lững vào sân. Vô phúc, mọi ngày nhà ông ta
cửa đóng then cài. Hôm ấy, thằng con trai đi đá bóng quên không gọi người ra
khóa. Cứ thế, như bóng ma, bà Hài đến sau lưng ông phó chủ tịch. Rút búa giấu
trong bụng, bà đập một nhát trúng đỉnh đầu ông ta. Ông Đường ngã vật ra tức khắc.
Búa thợ rèn, ngựa bị đánh trúng huyệt còn ngã quỵ. Bà Hài về nhà, đổ thùng dầu
hỏa xung quang rồi kiếm sợi dây thừng treo cổ ngay xà giữa. Lửa cháy từ ngoài
vào. Xóm giềng chạy tới vây xung quanh mà bó tay. Bà ta cứ đu đưa, lơ lửng như
thế, cho tới khi lửa đốt cháy dây thừng mới rơi xuống...
Tôi rùng mình, mắt tối sầm lại.
Người đàn ông kể xong, cúi xuống húp chè. Mọi người chuyện
trò lúc nữa rồi ai về nhà nấy. Người đàn ông đeo kính màu xanh chai nán lại,
ghé tai tôi thì thầm:
- Cô nương đưa tôi ra ngõ, tôi có câu chuyện...
Tôi đi theo ông ta ra tới cổng. Ông ta nói:
- Chiều nay, tôi nghe thằng cháu báo tin cô đã về làng...
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Ai nhỉ?
Ông ta giải thích:
- Đứa con trai tôi, nó chạy thuyền máy ngoài bến sông... Lúc
cô quá giang, nó biết... Thằng ấy mới mười lăm tuổi, nhưng làm ăn giỏi, tính
tình cẩn thận, có chí lắm... trước sau tôi cũng phải lo gầy dựng cho nó. Nó còn
lấy vợ, sinh con, phải có dinh cơ riêng. Nhà này, đằng nào cũng vào tay cô. Khi
bà Tâm đi rồi, cô không ở xin cô chiếu cố đến tôi...
Ngừng một lát, ông ta nói tiếp:
- Dẫu sao, đối với bà Tâm, tôi cũng là chỗ gần gụi, thân
tình... Vả lại, về vấn đề tiền nong, tôi là người biết điều, xin cô yên trí...
Tôi nói:
- Vâng, vâng... nhưng hiện giờ tôi chưa hề nghĩ tới điều ấy.
Xin ông để cho tôi yên...
Ông ta cúi đầu ngập ngừng:
- Cô còn ít tuổi, ít biết việc đời. Nhưng mệnh trời, không ai
tránh khỏi...
Tôi im lặng. Ông ta lẩm bẩm điều gì đó rồi bước đi. Tôi mệt
rũ, hai chân bải hoải. Tới lúc người đàn ông đi khuất, tôi gục đầu vào tường.
Bà Đũa, vẫn đứng âm thầm cách đó vài bước chân, chạy tới:
- Thôi chết khéo không cô lại đổ bệnh theo bà... Để cửa cho
tôi đóng... Cô vào nghỉ đi...
Tôi vào nhà, không kịp thay quần áo, lăn xuống giường như cây
gỗ... Lúc ấy, tôi lịm đi như chết. Nhưng một đêm ngủ no giấc đã trả lại cho tôi
sức khỏe và sự tỉnh táo. Hôm sau, tôi tỉnh dậy lúc trời vừa rạng, tôi vào buồng
cô Tâm. Cô đã thức dậy từ lâu, đưa mắt nhìn chăm chăm ra cửa, có ý chờ đợi. Tôi
nói:
- Cháu mệt quá không biết gì, sao cô không sai bà Đũa gọi.
Cô lắc đầu, ngửa một bàn tay ra. Tôi nắm bàn tay ấy, nó nhẹ bỗng,
khô xác và lạnh. Đường mạch chạy li ti như thực như ảo.
Cô nói:
- Con chải đầu cho cô.
- Vâng. –Tôi lấy lược, nương nhẹ từng nhát chải. Những sợi
tóc đã hết màu mỡ, giống một bó đay tước nhỏ. Lớp da đầu, mỏng dính vào xương sọ,
khiến đầu cô tóp lại như đầu một con rối. Không có một con chấy, dù trứng lép.
Không có một mảnh gầu. Tôi ít thấy người đàn bà nào sạch sẽ như cô, dù cô sống ở
làng quê. Sau khi chải mượt mớ tóc, tôi tết lại thành con sam. Cô lắc đầu:
- Đừng. Búi cho cô... Tết tóc giống người Tầu.
Tôi búi cái búi tóc cỏn con, nhỉnh hơn củ tỏi một chút. Cô có
vẻ hài lòng. Cô bảo:
- Xong việc rồi... Giờ, ngồi xuống với cô...
Tôi bỏ chiếc ghế tựa, ngồi lên giường. Tấm thân khô héo của
cô chạm vào tôi. Trong cái đụng chạm ấy, tôi bỗng rùng mình, một dòng điện lan
truyền qua lớp vải mỏng. Ngọn sóng thâm sâu của máu huyết dâng cuồn cuộn, xóa
nhòa mọi ngăn cách, mọi ranh giới. Tôi bỗng muốn nguồn sinh lực của tôi, tuổi
trẻ của tôi là thứ vật hữu hình, tôi có thể chia sẻ cho cô.
- Bao giờ...
Cô cất tiếng, thì thào:
- Bao giờ cô chết... Con ở đây trông nhà... Bàn thờ tổ phụ...
Vườn cam sắp sửa thay giống... còn...
Trong đôi mắt sâu hoắm của cô, lờ đờ một làn nước trôi qua.
Như dòng sông nhỏ, làn nước ấy in bóng những vòm cây, khóm lá, hàng cau ngất
ngây lay động, mái nhà râm mát, làn mây trắng lãng đãng qua... Hình ảnh thu nhỏ
của một thế giới thần tiền suốt đời cô tạo dựng. Một gia tài được đắp đổi bằng
tuổi xuân không tình ái. Một chiến thắng được ký bằng cả cuộc đời không có sự tồn
sinh...
- Con hãy ở đây... mái nhà của tổ tiên...
Tôi cúi xuống van vỉ:
- Cô đừng nói nữa... Cô chịu khó uống sâm, cô sẽ khá lên dần...
Con chăm sóc cô...
Ánh mắt xa vắng của cô chứng tỏ cô hoàn toàn không nghe lời
tôi nói. Cô tiếp tục dòng suy nghĩ. Chắc nó cũng đứt đoạn những những câu nói
run rẩy, đoản hơi, cất lên từ khuôn miệng trắng nhạt. Tôi thấy cô thở dốc lên,
nhắm mắt một chặp rồi lại mở đôi mắt đã nhạt ánh tinh quang. Cô níu tay tôi. Cô
níu tay tôi, nói lên một hơi:
- Cô không nợ ai trong làng. Còn những người nợ cô, sau đám
tang con xóa cho người ta... Nhớ chưa?
- Con nhớ.
Cô lại nhắm mắt, thở khó nhọc. Tôi đẩy nốt hai cánh cửa sổ
cho thoáng khí. Mảnh trời xanh lơ với ngọn cau hiện ra. Mùi thơm êm nhẹ của
hương cau tỏa. Cánh mũi cô bớt phập phồng:
- Hằng ơi.
- Dạ.
- Cô thương con.
- Dạ.
- Cô thương con... côi cút...
Nói xong nước mắt cô từ đôi mắt nhắm nghiền chảy ra giàn giụa.
Tôi òa khóc:
- Cô đừng nói, cô ơi, con sợ...
Không gian bao quanh tôi hóa dài rộng và lạnh lẽo. Như không
phải ngôi nhà này, với vườn cây, xóm mạc quen thuộc mà là một miền hoang đảo cô
liêu, trập trùng. Và nơi trú náu duy nhất của tôi là người cô ruột, tấm thân bé
nhỏ, tiều tụy kia. Nếu người đó không còn nữa, không còn gì che chắn cho tôi
trong đời...
Cô nấc lên, rồi nói đứt quãng:
- Tội nghiệp... cho con... Cô... không làm sao... được...
Tôi ôm chặt hai vai cô:
- Cô ơi, đừng thế.
Cô từ từ mở mắt ra. Nước mắt hoen đầm đìa trên mi, trên hai
gò má nhăn nheo. Cô nhìn tôi, rồi rất khó nhọc, cô đưa mắt về phía cửa sổ:
- Trời màu gì?
Cô hỏi. Tôi không hiểu cô định nói gì. Tôi cúi xuống:
- Cô bảo gì con?
Cô thì thầm:
- Ngoài kia, trời màu gì?
Tôi đáp:
- Trời đẹp lắm cô ạ. Trời xanh. Hôm nay nắng.
Cô mỉm cười:
- Cô nhìn thấy trời đỏ như lửa cháy. Cô đang thoát dương.
Tôi kêu:
- Cô nói gì thế?
Vẫn thoáng một nụ cười trên lằn môi nhợt, cô bảo:
- Cô đã nhìn thấy cõi âm...
Rồi cô khép mắt lại, không nói thêm lời nào. Tôi chờ lúc lâu,
nhè nhẹ bỏ ra sân. Cô đã thiếp ngủ. Chiều đó, hai giờ, tôi vào đổ sâm cho cô.
Có mùi rất khẳn bốc lên. Cô đi đồng, vài cục phân màu đen, mùi khẳn lạ lùng. Ba
giờ rưỡi, cô hoàn toàn tắt thở...
Tôi không nhớ cụ thể tôi đã lo đám tang ra sao. Khi nghe tin
cô chết, họ hàng xóm giềng đổ tới. Cả người đàn ông đeo kính màu xanh chai. Ông
ta rất tháo vát. Mỗi người một chân một tay giúp tôi lo tang lễ chu tất. Họ
giúp tôi mua được một cỗ áo quan bằng gỗ quý, dày tám phân, với thời buổi này
thật là một cỗ áo quan lý tưởng. Tôi mặc cho cô tôi bộ quân áo bằng tơ màu mỡ
gà. Trong chiếc túi đi đường tôi có một hộp màu hóa trang. Mặc quần áo cho cô
xong, tôi đánh phấn, bôi son cho cô. Đám phụ nữ trong làng xúm đến xem, trầm trồ:
- Bà Tâm đẹp quá... Chưa bao giờ tôi thấy bà ấy đẹp như bây
giờ.
Cô Tâm vốn là người đẹp. những đường nét trên gương mặt cô ít
người đàn bà nào đạt được. Khi phấn son phủ đi làn da bị hủy hoại, cặp môi bị tử
thần nhiễm tím, gương mặt cô phô bầy những dáng nét thanh tú, dưới màu sắc tươi
thắm... Tóc cô búi sau gáy, độn thêm chiếc khăn nhung đen. Chân cô đi tất trắng.
Tôi lại đặt mua một bó hông trắng đặt trên ngực cô. Tôi cũng mua một yến chè
Thái Nguyên đổ quanh xác cô theo kiểu mai táng của dân miền Nam. Trong đám
tang, tôi mặc áo xô, mặc áo rơm, chống gậy đi trước. Tôi không tin vào sự linh
thiêng của các thủ tục nghi lễ, nhưng tin vào sự linh thiêng của tình cảm giữa
con người. Nấm mộ cô phủ đầy hoa trắng. Ở vùng này không có người bán hoa. Họ mạc
phải cử hàng chục người tầm khắp nơi để mua hoa dại, hòa nhài, mẫu đơn trắng, hải
đường trắng, cúc trắng và những đóa sen trắng muộn màng... Buổi chiều, mọi người
trở về vào nhà ăn cỗ. Cỗ đám mà cũng do người đàn bà nấu bếp bữa trước đảm nhận.
Người có vết bớt trên mặt gầy bằng nửa hồi tôi về lần trước, khuôn mặt bà quắt
lại nên vết bớt như loang ra và trở nên khó nhìn. Các bà chủ động mua sắm, bàn
tính món ăn. Tôi bảo bà Đũa:
- Mọi việc đã có người đảm nhận chu tất. Bà về trước đi.
Bà Đũa ngần ngừ:
- Cô cũng nên về đi, đồng không mông quạnh thế này...
Tôi lắc đầu:
- Đừng ngại...
Bà ta chần chứ vài giây rồi cắp nón về theo đám dân làng. Giờ
này chắc những người giúp việc đang rầm rập bưng cỗ lên dẫy bàn nhà đám. Mình
tôi ngồi lại nghĩa trang. Nói đúng hơn là ngồi lại bãi tha ma, một khoảng đất
hoang lô nhô những nấm mộ. Con đường lượn ngoằn ngoèo giữa các hàng mộ chí, cái
cũ, cái mới, cái bia gỗ, cái bia đá lộn xộn nghiêng ngả. Xung quanh bãi tha ma,
hàng cây dứa dại và dãy song bao quanh. Các góc, cỏ mọc um tùm. Người ta kiêng
không chôn người chết vào sát gốc dứa dại hoặc dây mây, dây song, vì e rằng
linh hồn họ dưới cõi âm không thể đi lại một cách dễ dàng. Trẻ con chăn trâu
làng không bén bảng tới đây. Trong bãi tha ma, nấm mồ cô Tâm mới nhất. Ở các nấm
đất khác, chỉ còn vài nắm chân hương. Gió thổi chúng xiên lệch. Rải rác, giữa
các rạch cỏ, thoi vàng giấy bị giẫm bẹp, sắp mục ải. Trong đám tang cô tôi, người
ta cũng đốt nhiều vàng thoi và tiền âm phủ. Họ bảo:
- Bà ấy sống sang cả, chết cũng phải được tiêu pha cho đàng
hoàng.
Họ khen tôi hiếu thảo. Khen đám tang linh đình, trọng thể.
Lúc ấy, tôi mãn nguyện. Nhưng khi mọi người ra về, chỉ mình tôi người trước nấm
mộ đầy hoa trắng, trong buổi chiều ấm nắng, hoang vu và trong suốt, tôi thấy sự
an tâm đó giả dối và ngắn ngủi. Cô tôi đã ra đi, vĩnh viễn lìa xa, không thể
vãn hồi... Người đàn bà ấy đã đem theo cái chết, cả niềm trìu mến, cả tình yêu
khắc khoải với người cha xa cách của tôi. Cả nỗi thắc mắc khôn nguôi về bí ẩn của
kiếp người...
Theo tục lệ, tôi phải làm ba lượt giỗ: giỗ ba ngày, giỗ bốn
mươi chín ngày, giỗ một trăm ngày. Tôi quyết định ở lại làng cho tới lúc xong mọi
việc. Tôi nhờ người làng nhắn với mẹ. Mẹ tôi giận, trả lời: “Chị ấy muốn ở ba
năm cũng được...” Tôi đã đủ khôn để im lặng, không đối đáp. Tôi lặng lẽ tính
toán những gì cần làm: mỗi lượt giỗ ít nhất cũng ba mươi mâm. Tính xô bồ, cả phần
gói cho người giúp việc là một trăm mâm. Tiền cô tôi để lại không đủ. Khi mất
đi, cô không ngờ rằng đồng tiền trượt giá nhanh như thế. Có lẽ tôi phải bán bớt
một ít tư trang hoặc vài thứ đồ đạc trong nhà để lấy tiền lo liệu. Từ ngày đưa
cô tôi ra đồng, hôm nào cũng đầy nhà khách. Đám người giàu có mới nổi lên: ông
thuế vụ trên phố huyện, bà trưởng cửa hàng hợp tác xã, ông phó bí thư, ông chủ
nhiệm khóa trước, ông chủ nhiệm đương kim, vài tay lái buôn lợn, vài tay chủ xe
bò, hai gia đình có con ở nước ngoài viện trợ... Họ hỏi mua nhà, mua sập gụ khảm
trai, mua tủ đứng ba buồng bằng gỗ lát, gỗ cẩm lai, mua tủ chè gỗ chạm đàn dơi
vảy chùm nho... Đụng tới của cái một cách cụ thể, tôi mới hiểu nổi công sức cô
tôi đã bỏ ra để kiến tạo cơ ngơi này. Cái cơ ngơi mà từ bể chứa nước mưa tới
dãy tường hoa, từ chiếc lư đồng tới bộ chân nến... nhất nhất vật gì cũng là tột
đỉnh cái lý tưởng thẩm mỹ và sang giàu của dân quê...
Chương 25
Sau giỗ bốn mươi chín ngày, tôi mở chiếc hòm gian gỗ lim sau
lưng tủ. Hòm nặng khủng khiếp. Bốn góc được bịt đồng lá, tán đinh. Nắp hòm dày
ước tới bảy ly. Bên trong, có lượt nhung kẻ Trung Quốc lót. Lật lớp nhung kẻ đã
lấm chấm vết nhạy, lại tới lần vải láng hoa đỏ. Bỏ lớp vai láng đi, tôi sững sờ:
Cả một bộ đồ cô dâu trong đó. Một chiếc váy đầm liền thân hàng voan trẳng mỏng,
chiếc mũ đội đầu gắn ngọc giả. Đôi găng trắng đeo tay. Bông hồng trắng cài tóc.
Dây vạn thọ xâu chuỗi để gài vào bó hoa chú rể tặng cô dâu... Xếp bộ đồ cưới
tân kỳ ấy sang một bên, tôi thấy một bộ đồ cưới của những năm về trước: Áo dài
trắng thêu kim tuyến, quần sa tanh ống rộng, trâm nạm ngọc giả cài đầu. Dưới nữa,
là một sấp áo dài. Thứ hàng gấm, thứ hàng sa tanh, thứ hàng lụa. Đủ màu, đủ
hình thêu: thêu hoa, thêu công phượng, thêu chữ Thọ, thêu đục mặt vải... vài hộp
son đã khô két, hai lọ nước hoa, một hộp phấn con Én Thái Lan, một hộp phấn
Coly đã mục, thứ hàng từ trên ba mươi năm trước...
Cuối cùng, là chiếc hộp gỗ bề ngang chừng gang rưỡi bề dọc
hơn hai gang. Tôi mở hộp: Một gói lụa đỏ. Mở gói, lại gói nữa bên trong. Hết ba
lượt lụa bọc, có một nắm bông, lấp lánh ánh kim loại: một chiếc dây chuyền mặt
trái tim đúc. Một cặp hoa tai, chính cặp hoa tai cô đã đòi lại mẹ tôi. Dưới món
đồ tư trang, có tờ giấy gấp tư. Thứ giấy kẻ dòng của học trò. Trong đó, cô tôi
viết nắn nót:
Của cô để cho Hằng: cách tường bếp bên trái ba bước chân,
cách cây cau đầu tiên (kể từ bể nước) hai bước chân rưỡi. Đào sâu một mét tây sẽ
thấy. Nhớ đào đêm sáng trăng, sẽ có bóng che của cây cam.
Dưới những dòng chữ, là sơ đồ vẽ nguệch ngoạc. Một ngôi sao vẹo
vọ, với các khoảng cách được ước định tới vật chuẩn: nào bể nước, nào tường bếp,
nào cây cau... Nét bút vụng dại, nhưng quyết liệt... Có lẽ, khi cô đào hố chôn
của trong một đêm mù mịt, hay khi viết những dòng chữ này, cũng giống hệt như mấy
chục năm trước – đặt con dao dưới đầu, hai tay chắp trước bụng ngủ giấc ngủ giữa
màn sương để nuôi chí phục thù... Cô tôi, người đàn bà xinh đẹp có đôi mắt
nhung huyền, lẽ ra...
Tôi nhìn ngắm, lần nữa rồi lần nữa, những bộ đồ cưới, những tấm
áo dài rực rỡ, những phấn son đã được sắm sanh thầm lén và thầm lén nhốt trong
bóng tối của chiếc hòm. Và tôi hiểu, khi tôi đưa chiếc quan tài chở xác cô ra
bãi tha ma, thì tôi lại bật mở một chiếc quan tài khác, chiếc quan tài quấn xác
chết của tuổi xuân, xác chết của những giấc mơ son trẻ, của cô...
Tôi sập nắp hòm, chạy khỏi căn phòng. Tôi khóc. Khóc đớn
đau....
Ngày hôm ấy, tôi không thể làm được gì. Chiều, ăn cơm xong,
tôi bảo bà Đũa trong nhà. Một mình tôi lững thững ra đồng. Trời còn sáng. Lũ trẻ
chăn trâu đuổi nhau dọc bờ mương. Người đi làm từng tốp hối hả về. Chỉ các cô
gái là vừa đi vừa chọc ghẹo nhau, cười như bị thọc vào nách. Tôi đến bãi tha
ma, thắp hương mới cho cô. Hoa xưa đã tàn, gió bay tứ tung. Tôi đặt trên mộ vài
chùm mẫu đơn vừa hái. Rồi ngồi đó, tôi ngắm khoảng đồng mênh mông vàng thẫm ánh
chiều... Những ngày còn sống bên Nga, đã bao lần tôi hình dung tới cảnh này,
như một hồi niệm, như ước mơ. Sao giờ đây nó đè nặng tim tôi với vẻ đẹp huy
hoàng không suy suyển?... Giờ phút êm đềm sau những oi ả, nồng nực. Ánh chiều
thếp vàng lên ngọn cỏ, bờ cây. Cánh chim ảo giác vụt lướt qua. Lớp hơi nước bồng
bềnh, uốn lượn, đan xuyên trong ánh tà dương như khói... Đã bao lần bên đó, sau
cánh cửa, nhìn tuyết trắng xóa, tôi mơ tưởng tới khoảng đồng xanh thắm này, bồi
hồi nghĩ tới lúc nó trở thành một tấm thảm vàng dạt dào trong gió. Nhớ tiếng
chim kêu lúc rạng đông, nhớ bóng cô lặn lội soi mình đáy nước, nhớ âm điệu xào
xạc của bờ tre.. những vẻ đẹp đã vĩnh định trong hồn ta, trong thẳm sâu ký ức...
-Cú..ú...ú..
Một con cú mèo thét lên bên tai. Tôi giật mình đứng lên. Phải
về làng. Không bóng người, chỉ có đôi chim đêm bay mải trên khoảng đồng quạnh
quẽ. Tôi đi dọc con đường mòn lách giữa các hàng mộ chí. Chừng trăm thước sau,
tới đường làng. Hai bên đường, tiếng ếch nhái, chẫu chuộc ì ọp vang lên. Vài
nhà đã lên đèn. Những con nghé gọi mẹ trong chuồng. Tiếng bính boong của chuông
chùa làng bên văng vẳng.
Bà Đũa đón tôi ở cổng:
-Có người chờ cô.
Tự dưng, tôi gắt vô cớ với bà:
-Mua đồ chứ gì?... Tôi không bán.
Trong bóng tối, một người đàn ông tiến lên, mặt dài ngoẵng
như ống bơm:
-Thưa cô.
-Tôi không bán gì hết. Đồ đạc nhà này giữ nguyên tớt lượt giỗ
trăm ngày.
-Tôi không mua đồ gỗ.
-Vậy ông cần gì?
-Tôi biết cô cần tiền làm giỗ trăm ngày cho bà Tâm.
-Việc ấy chẳng liên quan gì tới ông.
-Có ạ...
Ông ta cười, răng trắng nhởn như xương lợn khô trên khuôn mặt
đen xì:
-Không bán đồ gỗ, cô phải bán vàng. Tôi biết vàng bà Tâm mua
toàn vàng Kim Thành ngày xưa. Cô bán cho tôi. Tôi trả giá cao so với mọi người.
Gã đàn ông này là phù thủy chăng?... Tôi đứng đần mặt, không
biết nói năng sao. Sau một lát, tôi tìm được cách từ chối:
-Lúc khác... Giờ tối tăm, tôi không thể đưa ông thử vàng.
Ông ta điềm nhiên đáp:
-Vàng bà Tâm không cần thử. Tôi mua ngay bây giờ.
Rồi, sau chút đắn đo, ông ta nói thêm:
-Cô đừng sợ, tôi không phải kẻ trộm cắp, tôi cần mua cho con
gái tôi ít của hồi môn...
Nói xong, ông ta bước lên bậc tam cấp, vào nhà. Tôi bất lực,
đành bước theo. Mua bán xong, ông ta ra về, đem theo mùi hôi khét của cái đầu
lâu ngày không gội. Tôi ra hiên, nhìn theo. Bà Đũa đã đóng cửa, quay vào, tôi vẫn
thấy ông ta còn đứng đấy, giữa khuôn cổng hình bán nguyệt tối om. Nỗi ám ảnh
màu đen. Bóng ma của diệp lục. Những chiếc chiếc ao tù đọng, thối rữa, ảnh chiều
loang đỏ như máu con vật tế lễ. Những quân bài tổ tôm cáu ghét quật xuống mảnh
chiếu làng. Hang hốc của dục vọng. Tiếng cười và tiếng khóc sau lũy tre. Hình ảnh
người đàn bà tím đen, đung đưa dưới sợi dây thòng lọng, giữa bốn bề lửa cháy...
Nhờ gã đàn ông ấy, tôi hiểu được những gì bóp nghẹt tim tôi.
Gã vô tội, nhưng gã là cái cớ khai tổ những ý nghĩ mù mờ trong cõi vô thức. Tôi
hình dung lại khuôn mặt dài như ống bơm, chẳng rõ đường nét, chẳng rõ màu mắt,
khuôn miệng... Cần cảm ơn gã... Tôi ngồi xuống hiên. Trong nhà, bà Đũa vừa ngáp
vừa nói vọng ra:
-Sương xuống, dễ cảm hàn lắm cô ạ... Các cô ở thành phố bấy
như cua lột...
Tôi đáp:
-Cháu vào bây giờ, bà ngủ đi...
Trăng thượng tuần chập chờn trên vòm lá đen huyền bí của vườn
cam. Rải rác quanh vành trăng, vài ngôi sao lớn. Tôi đăm đăm nhìn chúng. Hơn
bao giờ hết, tôi thấy rõ đường đi của thời gian đang lướt qua khung trời. Như vệt
đuôi sao chổi. Chúng xóa đi từng thời khắc của cuộc đời. Chúng xóa đi... mà trí
nhớ con người lại không xóa nổi. Nhưng dĩ vãng chỉ là dĩ vãng. Những đồng tiền
âm phủ không tiêu được trong phiên chợ trần ai. Tôi sẽ xin với vong linh cô tôi
cho tôi bán nhà. Tôi phải đi. Ý muốn của những người quá cố chỉ có giá trị như
vòng hoa trang trí trên các nấm mồ. Không thể tiêu phí cuộc sống bởi những cánh
hoa tàn héo, những tối tăm, lầm lạc của quá khứ, mà phải hướng tới ngày mai.
Vành trăng thượng tuần lên cao hơn, tách khỏi vòm lá đen. Những
ngôi sao không còn im lìm mà tỏa ánh lấp lánh. Chúng làm bắn tóe ra xung quanh
từng chùm kim bạc. Tôi kéo vạt áo, tì cằm vào lòng bàn tay. Phút ấy, tôi mơ tới
bóng mát của giảng đường. Tôi mơ tới phi trường xa xôi, nơi những chuyến bay cất
cánh và hạ cánh.
Hà Nội, 10/6/1988
Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét