Những thiên đường mù 1
Chương 1
Chín giờ sáng, bà Vêra đưa cho tôi bức điện: “Cậu ốm nặng, Hằng
tới ngay.”
Sau khi quan sát gương mặt tôi, bà bảo:
- Tội nghiệp cho mày. Mày là 1 con bé thiếu may mắn.
Nói xong, lắc mái đầu đồ sộ, bà quay đi. Mùi nước hoa rẻ tiền
tạt lại, vương trong không gian, như 1 thứ nhựa loãng dính vào các bức tường
vôi đã tróc lở. Tôi mặc đồ ngủ, đứng co ro nhìn tấm thân phì nhiêu của người
đàn bà gác dan, đầu óc rối tung. Chính tôi, tôi cũng đang ốm. Những trận viêm
phế quản liên miên vừa qua khiến 2 vai tôi còng xuống như lão già nghiện nặng.
Ngực lép dẹt, không chiếc áo lót nào còn mặc vừa. Khu cư xá chỉ có vài mống đàn
ông, toàn thứ đồ cổ. Vậy mà đi qua mặt tôi, họ cũng không buồn đưa mắt liếc
qua. Trong số 800 rúp dành dụm được, tôi đã tiêu hết 450 tiền thuốc men và thứ
ăn bồi dưỡng. Tôi dự định tiêu thêm 50 rúp nữa khoản đó, cho đủ sức đi làm. Vậy
mà, đúng lúc bức điện trời đánh kia giáng xuống.
- Con điên, mới bảnh mắt đã ra đứng ngoài ấy làm gì? Vào
phòng ngay không cảm lại 1 trận nữa thì đời ra tương.
Cô bạn cùng phòng hét to. Tôi quay vào, chui trong tấm chăn nồng
sực hơi ấm. Hạnh phúc quá. Hôm nay chủ nhật, tất cả đều nghỉ việc. Cả bọn dự định
làm bún kiểu Việt Nam ăn bữa trưa. Còn lúc này, tất cả rúc trong chăn nghe nhạc.
Tiếng nhạc từ căn phòng nào đó từ tầng trên vẳng xuống. Vừa nghe, vừa thả lỏng
tấm thân mệt mỏi, vừa gặm nhấm nỗi nhớ nhà. Khung cửa sổ căn phòng của chúng
tôi mở rộng. Không ngọn cây nào vươn được tới đó. Nhưng bù lại, là trời xanh
ngăn ngắt, màu xanh trong và lạnh, thăm thẳm đơn côi.
- Điện gì thế Hằng?
Cô bạn tôi hỏi.
- Ông cậu ốm.
Tôi đáp lời.
- Cái ông ở Matxcơva chứ gì?
- Ừ.
- Nhưng mày cũng vừa ốm dậy.
-...
- Chì còn được nghỉ 4 hôm nữa thôi. Hôm qua, mụ Tanhia vừa nhắc
đấy
-...
- Từ đây tới Matxcơva có ít đường đất đâu? Những đi về đã đủ ốm
rồi.
-...
- Mà mày xanh bủng ra như đàn bà hậu sản. Không chịu phấn son
vào, nhìn pháp khiếp.
Tôi lặng im, không đáp. Nhưng dường như, cùng lúc với tiếng
nói của cô bạn, trong tôi thầm vang lên lời phản bác:
- Không đi, không đi! Mặc kệ, mặc kệ.
Con đường hun hút lướt qua. Những cột cây số chạy lùi. Các
cánh rừng và những đồng lúa mì ngút ngát. Các tỉnh lỵ với chóp nhà thờ và những
khuôn viên. Tiếng bánh xe lăn trên đường ray buồn tẻ. Cac sân ga trong ánh điện
hoặc trong lớp sương mù.
Đang nằm, chợt cô bạn tôi vùng lên, vẫn tay áo lê thê như thế,
cô tới giá sách, chọn 1 chiếc đĩa hát. Rôù cô mở chiếc máy quay đĩa mới vừa
mua, giá 120 rúp. Bỏ tấm vải phủ, bật nắp máy, cô đặt chiếc đĩa hát và cho máy
chạy. Tiếng kim chạy xè xè qua những vòng rãnh câm, Cô bạn lại nhảy lên giường,
trùm chăn. Lúc ấy, tiếng hát bỗng cất lên, đột ngột:
Ở tận sông Hồng em có biết?
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh mãi gọi với lòng tha thiết
Vàm Cỏ Đông! Ơi Vàm Cỏ...
Giọng hát bay chói vói trong không gian. Xanh và lạnh. Trời
đang nắng rỡ ngoài kia, nhưng cái lạnh ly hương thấm vào da thịt. Bài ca, như sợi
chỉ bạc mong manh, lạc lõng giữa khung trời. Nó khiến tôi có cảm giác bị xô đẩy
tới tận cùng trái đất. Rồi nó lại kéo tôi về với 1 triền sông quen, bờ cát nóng
bỏng ánh trời, cánh buồm tả tơi chòng chành trên sóng nước, tiếng kêu khắc khoải
của lũ chim di trú bay.
Trời ơi, mái nhà đã sụp lở của mẹ tôi. Một bên mái ghép bởi tấm
tôn và mảnh giấy tẩm nhựa đường. Ngày mưa, tiếng mưa gõ trên mái tôn rổn rảng.
Trưa hè, mùa nhựa đường khét lẹt bốc lên khiến ta muốn buồn nôn. Những rãng nước
bẩn chảy từ nhà nọ sang nhà kia, dưới các phiến gạch xi măng ghép. Lũ trẻ trong
ngõ thường khuấy dòng nước đen nhơ bẩn đó lên chơi. Chúng thả xuống cống những
con thuyền gập bằng giấy trắng. Ngay bên rãnh nước, bụi nhài tỏa hương ngây ngất.
Con đường phố quen, những bụi cỏ leo cớm nắng dưới chân tường, nơi lúc nào cũng
khai nồng nặc vì dòng nước tiểu của đám người say bia vô sỉ rót xuống.
- Hằng ơi! nghĩ gì thế?
- Không
- Nhớ nhà quá mày. Đau quặn ruột.
-...
Cô bạn tôi cất tiếng rên rỉ. Nó quấn chăn lăn giẫy ầm ầm trên
giường, rồi đột ngột bật kêu to:
- Ối giời ơi, thế này thì chết mẹ nó đi cho xong.
Tôi im lặng, không đáp. Vì chính tôi cũng đã khóc tự lúc nào
chẳng rõ. Nước mắt nóng và mặn khiến tôi nghẹn họng. Trong làn sóng nước mắt,
gương mặt u uất của mẹ tôi hiện lên. Mắt bà rất đen, lút dưới 2 hố sâu, chiếu
ra những tia sáng buồn. Trong cái nhìn của bà găm giữ nỗi thống khổ và sức chịu
đựng không thể đo đếm. Hồi trước, mỗi lần gia đình chúng tôi gặp tai biến, là 1
lần mẹ nhắc nhở:
- Làm người cốt nhất là không được thối chí. Chỉ 1 phút xuôi
tay, mọi sự sẽ đổ nát. Gừng già gừng rụng, gừng cay, anh hùng càng cực càng dày
nghĩa nhân.
Mẹ đã sống theo châm ngôn ấy suốt đời. Mẹ muốn tôi cũng sống
được như mẹ. Vậy mà tôi đã làm gì cơ chứ? Ông cậu ruột, người em duy nhất của mẹ
bị ốm, điện cầu cứu tôi, và tôi đã định làm ngơ.
Ở phòng gác dan, bà Vêra đang đan 1 tấm khăn len bằng rất nhiều
thứ ken tháo từ các tấm áo cũ ra. Tấm khăn ấy có thể choàng kín cả tấm lưng đồ
sộ của bà viø nó xấp xỉ 1 tấm khăn trải bàn. Đôi tay nhỏ, trắng trẻo, trẻ hơn mặt
bà 10 tuổi, luồn lách mũi kim 1 cách khéo léo. Không ai đoán được 1 người vóc
dáng thô tháp, mông vại, lưng gấu gù gù như bà lại có thể đan nổi chiếc khăn đẹp
thế. Bà đang chăm chú đan nốt những dòng cuối cùng. Thấy tôi, bà ngẩng mặt lên
nhìn, cặp kính lão tụt xuống chóp mũi:
- Mày nhất quyết đi Matxcơva?
- Cháu phải đi, bà Vêra ạ.
- Tao trông mày xanh lắm.
- Vâng, nhưng ông ấy là cậu ruột cháu.
Bà Vêra cúi xuống:
- Chờ tao 1 lát.
Tôi đứng chờ, hơi sốt ruột vì sợ trễ tàu. Nhưng nể bà nên
không dám giục. Bà Vêra kiên trì chiết nốt dòng cuối, rồi vuốt ve tấm khăn 1
cách trìu mến, bà bảo tôi:
- Mày thấy đẹp không?
- Rất đẹp.
- Toàn len cũ giặt lại đấy.
Bà nói, giọng đầu tự hào. Xong xuôi, bà ghi tên tôi vào cuốn
sổ trực to tướng. Chỉ đợi có thế, tôi vội vã chào:
- Cháu đi đây.
Nhưng bà gác dan đã thò cánh tay hộ pháp qua cửa nắm tay tôi:
- Chờ đã. Tao cho mày mượn tấm khăn len này. Đêm nay sẽ phải
dùng tới nó đấy, chuột nhắt ạ.
Tôi cúi chào, cảm ơn người gác dan nặng 92 kilô, tốt bụng
nhưng cũng nghiệt ngã và hay nổi nóng 1 cách bất ngờ, như hầu hết những người
đàn bà góa bụa sau chiến tranh ở nước Nga. Tôi đi ôtôbuýt ra ga. May mắn sao,
tôi đã tới kịp chuyến tàu tốc hành duy nhất trong ngày. Tàu khởi hành lúc 5 giờ
chiều. Khoảng khắc ấy, tất cả các ngôi nhà trong thành phố, những rặng cây bên
vỉa hè, và các mảnh rừng nhỏ nằm xiêu xiêu nơi ngoại ô đều đẹp lên rực rỡ vì tẩm
nhiễm làn ánh sáng nhấp nhoáng của vàng tan loãng. Váy các cô gái bay tung, mỏng
hơn, gọi mời hơn trong thứ ánh sáng ấy. Tôi ngắm các cô không chán mắt, với tâm
trạng đã trở lại thơ thới. Khi vào cửa ga, tôi bỗng chạm phải 1 người đàn bà
tóc hoe vàng, quấn thành từng lọn trên mái đầu tròn trĩnh. Bà ta khẽ nhăn đôi
mày lại, không nói gì. Tôi lí nhí cất tiếng xin lỗi, nhưng có lẽ giọng tôi quá
nhỏ, hoặc người đàn bà quýphái đó không muốn nghe, nên bà ta đã đi lướt qua rất
nhanh. Tấm áo nhung đỏ và chiếc váy nhung đen bó sát tấm thân óng ả. Cặp mắt
kiêu hãnh nhìn thẳng. Mùi phấn bay như 1 loài hoa... Rồi tôi thấy mình trong
gương: Một con bé da xanh tái, nét mặt ngơ ngác và âu lo, vai lép dẹt, mặc bộ đồ
nâu lợt, dáng vẻ thiếu tự tin, cân nặng 42 kilô.
- Đừng cả nghĩ... Đừng mặc cảm... Mình là 1 con bé đa sự, vớ
vẩn...
Tôi tự lẩm bẩm mắng mình. nhưng dẫu sao, cảm giác tủi hổ vẫn
bám trên 2 gò má nóng rực của tôi, như lớp son dính. Tôi bỗng thấy oán ghét ông
cậu tôi. Lên tàu, chui vào góc toa của mình, tôi nhắm mắt lại. Và như 1 cuốn
phim sử thuật, cuộc sống quá vãng lần mở ra...
Chương 2
Ông ngoại tôi làm nghề bốc thuốc. Cụ cứu chữa cho rất nhiều
con bệnh nặng trong vùng, nhưng chính cụ không cứu được mình. Ông tôi mất năm
43 tuổi, vì 1 căn bệnh không định rõ. Sau này, theo triệu chứng lâm sàng, người
ta đoán là bệnh ung thư. Bà ngoại tôi năm ấy 42 tuổi, ở vậy nuôi con, mẹ tôi và
cậu Chính. 18 tháng sau, bà cũng cảm hàn đột ngột đi theo ông. Lúc đó, mẹ tôi
19, cậu Chính 17. Cậu được 1 người bà con tình cờ về dự đám ma dắt lên chiến
khu Việt Bắc. Cậu vào bộ đội luôn. Mẹ tôi ở làng bán hàng xén trên chợ huyện,
chăm sóc nhà cửa, mồ mả ông cha. Ngôi nhà của ông ngoại tôi, tôi đã về thăm 1 lần.
Đó là 1 ngôi nhà thấp, lợp ngói vẩy cá, hiên bức bàn, cửa gỗ, các chân cột kê
đá hình trụ chống ẩm. Ngoài nhà ở, còn 3 gian nhà ngang dùng làm nơi gác nong tằm,
xay giã gạo và chứa nông cụ. Nhà của ông bà ngoại tôi rất chắc chắn, nhưng tối
tăm, loại nhà cổ. Buổi trưa, tôi đứng trong nhà, thấy hơi ẩm toát ra từ các bức
tường ghép gỗ, từ các cây rui được đẽo gọt cầu kỳ giương hình chạm như những
con mắt bí hiểm. Từ các đầu hồi tăm tối, nơi thỉnh thoảng 1 chiếc mạng nhện đu
đưa, ánh sáng rọi qua các kẽ ngói mục ẩm bị đứt quãng, run rẩy như lửa ma trơi.
Tự dưng tôi sởn da gà, vội chạy ra sân. Mẹ tôi, lúc ấy đang cùng mấy người đàn
bà nữa ngồi uống chè xanh liền hỏi:
Làm sao thế em?
- Không sao, nhưng con sợ.
- Rõ đồ con vịt, giữa ban ngày ban mặt mà còn thế.
Mẹ chửi. miệng tủm tỉm cười. Tôi nhìn 2 hàm răng đều chằn chặn,
ánh trắng rực rỡ như ngọc trai của mẹ, bỗng nhiên buồn. Đó là mảnh nhan sắc cuối
cùng còn sót lại của mẹ. 1 thời xuân sắc qua, chẳng để làm gì, chẳng dành cho
ai. Tôi hỏi vu vơ:
- Ngày trước, mẹ có sợ không?
Mẹ gắt:
- Nhà của tổ tiên, ông bà, có gì mà sợ?
Tôi gặng:
- Nhưng mẹ ở 1 mình.
1 bà hàng xóm cỡ tuổi mẹ tôi, nhếch mép cười:
- Không sợ, nhưng buồn. Chả thế chưa kịp mãn tang đã lấy anh
chàng Tốn.
Các bà nhìn mẹ tôi cười ré lên. Rồi bà nọ đấm lưng bà kia
thùm thụp như các cô gái. 2 gò má mẹ tôi đỏ rực lên như say trầu.
Tôi hỏi:
- Anh chàng Tốn ấy là ai hở dì?
- Là bố mày. Rõ con nhà vô phúc
- Không.
Tôi hét lên, đâm đầu chạy ra vườn. Người ta đã trêu tôi, người
ta đã sỉ nhục tôi. Tôi, đứa con không bố, đứa trẻ vô thừa nhận. Tôi khóc nức nở
trong góc vườn, giữa 1 cây ổi già và 1 bụi dứa gai. Rồi mẹ tôi tìm tôi, dắt tôi
vào nhà. Đám láng giềng đã về hết. Trên mảnh sân gạch chỉ có hoa khế rụng. Mẹ
múc nước giếng trong chiếc bể vỡ, gạn từng gáo đổ vào thau đồng, rồi rửa mặt
cho tôi. Tôi nức nở mãi. Tia mặt trời đốt lửa trong các vòng sóng nước và trong
mắt tôi. Tôi ngủ vùi. Hôm sau, lúc rạng đông, những con chim hót líu lo trên ngọn
tre và khắp khu vườn. Gió mát thổi tan cơn ám ảnh, người bán kẹp mạch nha rong
cất tiếng rao dẻo quẹo ngoài đường thôn:
-Ai mạch nha, mạch nha đây ây ây...
Mẹ tôi mua cho tôi 2 que kẹo lớn, ôm tôi vào lòng và thủ thỉ
kể chuyện anh chàng Tốn. Năm ấy, 9 tuổi tròn, tôi mới biết bố tôi là ai...
Trong cái năm đầu tiên sống 1 mình, khi ông bà ngoại đều mất
và cậu Chính lên chiến khu, mẹ tôi đã phải cắn răng lại chống đỡ nỗi cô đơn, 3
gian nhà trên, 3 gian nhà dưới trống huyênh. Những quét cho sạch nhà, sạch sàn
đã mệt. Lại còn khu vườn đầy cỏ, cứ dọn góc này góc kia đã um tùm. Trưa hè,
trong không gian im vắng tù đọng chốn làng quê, tiếng chim tu hú cất lên cũng
khiến cô gái trẻ giật thót tim hoảng sợ. Vào nhà, ra sân thui thủi 1 bóng theo.
Ngọn lửa rơm liếm lem lém quanh cái niêu đồng một. Vại dưa chua mốc meo bốc mùi
trong nhà, 1 con cá kho hay nửa quả trứng luộc đặt trên cái đĩa nhỏ bằng lòng
tay. Bắt canh leo pheo dăm ngọn rau mồng tơi hay rau dền hái ven bờ rào. Đôiï
khi, vừa nhìn ngọn lửa rơm vừa ứa nước mắt thương thân, mẹ tôi lắng nghe tiếng
láng giềng gọi nhau sửa soạn bửa cơm chiều, nào giã cua nấu riêu, nào luộc
khoai ăn thêm buổi tối, nào rang thóc làm cốm, nào nầu chè lam cúng rằm tháng
giêng. Cô gái 19 tuổi không cắt nghĩa được những tai họa giáng xuống đời mình.
Thêm vào đó, bọn trai làng nghịch tặc lẫn đám ông lý ông nhiêu háo sắc dòm ngó
như quạ vào chuồng lợn, Tối tối, mẹ tôi khóa chặt các cửa, rồi thắp ngọn đèn
hoa kỳ hạt đỗ, nằm chờ cho tới sáng. Lúc ngủ dược đã vậy, lúc thao thức chỉ còn
biết tặp 3 nén nhang khấn tổ tiên, xin các người che chở cho cảnh sống cheo
leo, như 1 mình neo con thuyền trong gió dữ. Đúng lúc ấy, mẹ tôi đã gặp bố tôi.
Anh chàng Tốn là hương sự mới được bổ về làng. Trước, bố tôi dạy học trên phố
huyện. Nhưng vì bà nội tôi bị tê thấp, bại tiệt 1 chân nên ông xin đổi về xã để
hầu hạ mẹ già. Mẹ tôi 20, bố tôi 26. Mẹ tôi xinh gái nhất vùng, bố tôi cũng là
người khá kẻng trai, lại có học vấn. Tình yêu của 2 người nảy nở nhanh chóng và
tăng trưởng với 1 tốc độ mà dư luận xã hội không chấp thuận. Theo tục lệ, mẹ
tôi phải để tang 3 năm, và trong thời gian 3 năm ấy, không có quyền yêu đương,
trang phục lòe loẹt tham dự hội hè. Bố tôi đã vượt qua những lời đàm tiếu, sự
khinh thị, thái độ diễu cợt hay châm chọc của dân làng để cưới mẹ tôi. Người ta
mỉa mai:
- Anh chàng Tốn theo Tây học. Bên Tây, chỉ chịu tang 1 năm
thôi.
- Mình có phải giống mắt xanh mũi lõ đâu? Rõ quân xanh như lá
bạc như vôi, bước qua mồ mả ông bà mà không biết nhục.
- Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục của tổ tiên.
- Các ông các bà cứ chờ đấy mà xem. Đã trái lệ ắt sinh sự chẳng
lành. Rồi chúng nó cũng chẳng ăn đời ở kiếp được với nhau đâu.
Lời tiên tri độc ác của họ đã thành sự thực. Nhưng không phải
vì bố mẹ muốn chia lìa nhau. Thời gian đầu, 2 người đã thực sự hạnh phúc. Bởi
vì, trong câu chuyện kể, dù sầu thảm đến đâu, tôi cũng thấy mắt mẹ ánh lên ánh
hồi quang nồng nàn, thắm thiết của 1 tình yêu không thể đo đếm, không thể tìm
kiếm lại, thứ tình yêu chỉ có 1 lần... 1 năm 2 tháng sau ngày bố mẹ cưới nhau,
hòa bình lập lại. Bộ đội ta từ chiến khu Việt Bắc kéo về. Khắp nơi vang khúc
hát mừng giải phóng, khút hát yêu hòa bình, khúc hát của đồng lúa và rừng xanh.
Mẹ tôi mừng mừng tủi tủi, hồi hộp chờ đứa em trai duy nhất. Từ hồi cậu đi, biệt
vô âm tín, tịnh không có lấy 1 dòng thư nhắn về. Có người làng đi buôn thuốc
Tây ngược lên vùng Trại Cờ gặp cậu, bảo cậu khỏe mạnh lắm, đã lên chức trung đội
trưởng rồi. Người khác lại quả quyết thấy cậu sốt rét, da vàng khè như nghệ,
chăn mấy con ngựa cho 1 đại đội thông tin. Mà cậu không đủ quần áo rét chỉ có 1
manh trấn thủ giữa tiết tháng Chạp, run lẩy bẩy như người nghiện thiếu thuốc. Mẹ
tôi khóc hoài, giục bố tôi lần tìm khắp các đơn vị bộ đội trong tỉnh. Bố tôi
cũng cất công đạp xe khắp nơi, nhưng không bắt được tin. Rồi, bỗng dưng nửa năm
sau ngày giải phóng, cậu tôi đeo ba lô lùi lũi bước vào nhà.
Mẹ tôi đang dỡ khoai sọ trong vườn, ném cây cuốc ngồi thụp xuống
khóc. Ai gọi mẹ tôi cũng không đứng được lên. Bố tôi dạy học trở về, chào cậu
em vợ, đun nước pha trà ngon cho cậu uống. Nhưng đáp lại những săn sóc nồng nhiệt
của bố tôi, cậu Chính chỉ hờ hững gật đầu, hoặc ầm ừ trong miệng. Thái độ của cậu
vừa trịch thượng, vừa có gì rất khó hiểu. Bố tôi ra vườn gọi mẹ tôi vào rồi bỏ
sang nhà mình. Nhà bà nội tôi cách đấy 1 vườn cau với 2 hàng dậu trồng hoa móng
rồng. Đứng ở nhà này, có thể gọi vóng sang nhà bên kia. Bà sống với cô Tâm, chị
ruột bố tôi. Côtôi 27 rất đẹp nhưng có học lại lạnh tính nên chưa lấy được chồng.
Cô vừa làm ruộng vừa nuôi tằm. Bà tôi cơm nước. Bố tôi đã ở bên ấy luôn cho tới
ngày bỏ quê đi.
Về phần mẹ tôi. Khi bố tôi đi khỏi, cậu Chính đã bảo mẹ ngồi
xuống chiếc tràng kỷ đối diện với mình và nói:
- Chị Quế, từ nay về sau chị không được gặp mặt, không được
nói năng, không được trao đổi bất cứ việc gì với tên Tốn.
- Tên Tốn? Sao cậu lại gọi anh ấy như thế?
- Vì anh ta là phần tử bóc lột.
- Bóc lột?
- Gia đình anh ta thuộc thành phần địa chủ, kẻ thù của nông
dân. Chị Quế, trước khi về nhà, em đã được trên giao nhiệm vụ đội trưởng đội cải
cách ruộng đất. Em đã họp dự thảo từ cấp huyện xuống xã, và đã sơ bộ quy định
thành phần cho các nhóm trong làng. Gia Đình tên Tốn có ruộng cho cấy rẽ, có
bóc lột công nhân. Theo tình hình được cung cấp, hắn thuộc đối tượng phải đem đấu
tố.
- Đấu tố là thế nào hở cậu?
- Là buộc kẻ có tội phải cúi đầu nhận tội trước bà con nông
dân
Mẹ tôi run rẩy nói:
- Từ xưa tới nay gia đình anh ấy vẫn ăn ở hiền lành, chưa làm
điều gì độc ác. Cậu biết đấy, ở làng ai xấu ai tốt xóm giềng đều biết cả.
Cậu Chính nghiêm giọng bảo:
- Chị không được để kẻ khác lung lạc. Chị phải giữ vững lập
trường giai cấp. Chúng ta phải đánh đổ bọn địa chủ cường hào giang ác để đem lại
ruộng đất cho bà con nông dân. Nếu không nghe em, chị sẽ bị đào thải khỏi đội
ngũ, chị sẽ chịu các hình thức kỷ luật của cách mạng.
Mẹ tôi òa khóc:
- Nhưng xưa nay chị và anh vẫn sống êm thấm với mọi người.
Anh Tốn tốt nhịn lắm. Hồi anh chị cưới nhau ai mắng chửi, mỉa mai anh ấy đều nuốt
giận làm lành. Chị không biết anh bóc lột ra sao. Mà chị cũng chưa nghe những
điều em nói bao giờ.
- Chưa ai nói thì bây giờ Đội cải cách nói, cách mạng nói. Chị
Quế, chị phải nghe em.
Cuộc đối thoại ấy diễn ra trước mặt 1 số bà con thân quyến.
Ai nấy sợ xanh mặt, lặng lẽ ra về. Mọi người không hiểu vì sao bà lão Tam, chủ
nhân 1 mẫu 8 ruộng hương hỏa lại trở thành kẻ thù với mình, thành giai cấp bóc
lột phản động. Cô Tâm coi sóc số ruộng ấy. Mùa cày, cô thuê thợ cày. Mùa cấy cô
ra đồng cấy. Mùa gặt, cô quần quật vừa làm vừa lo cơm nước cho tốp thợ gặt thuê
từ dưới thôn Đông, thôn Sở lên. Trong làng, không thiếu người gia cảnh tương tự
như thế. Họ là đám người cốt lõi của làng quê. Những kẻ yêu nghề nông như chính
sinh mạng của mình. Tháng Giêng, tiếng trống hội hè vang lên khắp các sân đình,
lũ trẻ mặc quần áo mới chạy chộn rộn các ngả đường thôn. Các đám rước và các
gánh hát thi nhau dựng rạp, hòng moi những đồng xu nóng ấm thắt kỹ trong hầu
bao dân quê. Đám người này, nửa con mắt ngó lên sân diễn, nửa con mắt kia đã liếc
ra cánh đồng, nơi những vạt lúa xanh non phủ kín mặt ruộng. Tay họ vục trong
bùn, cảm thấy độ ấm lạnh của đất, độ tan nguyễn hay thô cục của các rạch cày.
Mùa hạ, trong các cơn gió chạy rần rật qua mái tranh, họ đoán trước được tai họa
hay ân huệ của trời đất. Và từ tiếng sấm đầu tiên của cơn mưa đầu tiên, họ đã
biết mình phải vác cuốc ra be bồ hay xáo xới các ruộng màu ngoài bãi sông.
Tháng Tám, đêm thu trong vắt, tiếng chày giã cốm vọng từ các mảnh sân qua đường
làng, tiếng cười đùa chí chóe của lũ đàn bà con gái làm không gian nở bung ngàn
đóa hoa trắng, mùi hoa móng rồng mê mệt du níu các vườn cây. Lúc đóù, họ nhìn
trăng, quầng đỏ hay tán bạc màu mây xanh leo léo oan nghiệp kia báo trước hiểm
nguy gì? Tháng Chạp, những đêm đông tê tái, họ có thể tỉnh dậy giữa lúc giấc
ngũ đang nồng, và lặn khỏi giường, chạy ngay tới chuồng trâu, để đem thêm 1 ôm
rơm, hay đốt lên 1 đống lửa. Nghề nào cũng có những người tận tụy với nó, yêu
mê nó. Tình yêu đó đôi lúc không cắt nghĩa được. Nhưng chính nhờ tình yêu ấy mà
nó tồn tại.
Phải, mẹ tôi đã không hiểu được tai họa giáng xuống đầu mình.
Mẹ tôi khiếp sợ, như nhiều người khác đã khiếp sợ vào lúc đó. Cậu Chính đã triển
khai đội cải cách rất nhanh. Bà nội tôi và cô Tâm chịu quỳ trước sân đình, đấu
gục xuống, 2 tay vòng trước ngực. Trước mặt 2 người là đám dân làng đốt đuốc ngồi.
Họ có nhiệm vụ lắng nghe những lời đấu tố. Và mỗi khi có tiếng hét bật lên: “Đả
đảo địa chủ.” họ có nhiệm vụ giơ nắm tay lên hô thật to: “Đả đảo! Đả đảo...”
Hô càng to càng chứng tỏ tinh thần cách mạng vững vàng, chứng
tỏ lòng căm ghét giai cấp bóc lột. Mà trong đám đông ấy, không ít những nông
phu có ruộng đất và yêu ruộng đất với tình yêu máu thịt, nhờ kinh nghiệm lao động
và tính cần mẫn mà có được 1 nóc nhà, 1 con trâu với vài ba vựa thóc. Chỉ cần bị
1 lời tố giác điêu toa, họ dễ dàng nhảy từ địa vị của người ngồi tham dự xuống
đáy hố của kẻ bị kết án. Tai họa, nỗi nhục nhã, cái chết treo lơ lửng tựa 1
trái cây chín rục trên cành cao, không biết nó rụng xuống lúc nào. Bởi lẽ đó,
trong tiếng hô rầm rập của đám dân làng, không ít những tiếng gào để che lấp
cơn sợ hãi, 1 cách tự trấn an tinh thần, 1 cách cầu lợi thấp hèn, cái thấp hèn
mà con người khó tránh khỏi trong những cơn giông tố. Mẹ tôi kể rằng trong đám
dân làng có 2 kẻ được liệt vào loại cốt cán đã đấu tố bà nội tôi và cô Tâm. Người
thứ nhất là 1 gã du thủ du thực, sống lang bang hết làng này qua làng kia, suốt
mùa đông tới mùa hè đều đánh 1 bộ ka ki vá víu, bẩn thỉu. Nghe đâu gã đã có thời
đi lính. Sau rồi nghiện rượu, gã được xuất ngũ trước thời hạn. Gã cao lớn, khá
đẹp trai, nhưng lười. Người ta chỉ thuê gã làm những việc vặt trong nhà như dọn
dẹp mâm bát, coi sóc sân phơi lúa hoặc lật lá thuốc, hù dọa bọn trẻ con ăn trộm
mùa quả chín. Gã có tài pha trò hầu chuyện mấy lão chức dịch trong làng, xách
thúng đi chợ hoặc làm gà, pha thịt cho mấy bà địa chủ giàu có, gã có thể ngồi
đánh tổ tôm suốt đêm, xoa mạt chược suốt đêm như các ông chủ, bà chủ, có thể
tán tỉnh các cô thợ gặt từ đầu mùa tới cuối mùa không chán, càng tán càng xôm
nhưng chỉ cần cuốc 1 luống khoai, gã đã thở hồng hộc, mồ hôi toát đầm đìa khắp
thân mình vạm vỡ như 1 võ sư chính cống. Người ta vẫn thì thầm với nhau rằng gã
đã ngủ khắp lượt với bà lý Tiềm, bà tống Hớn, bà nhiêu Lan, bà cai Hồng... Còn
mấy bà chủ ruộng góa chồng thì có các thêm vàng cũng không dám cho hắn vào nhà
vì sợ ễng bụng ra. Không chồng thì biết đổ nọc cho ai?
- Bích, lại đây mày.
Đám đàn ông trong làng thường gọi hắn thế, dù hắn ít hơn hoặc
nhiều hơn họ một chục tuổi. Hắn không được định giá theo bảng giá trị chung của
dân làng. Hắn có cái tên đàn bà: Ngọc Bích, không hiểu cha mẹ hắn đặt từ thuở lọt
lòng hay hắn ăn mày ở đâu trong đời phiêu bạt. Người ta cũng không biết cha mẹ
hắn là ai. Hắn là dân cư ngụ.
- Bích, kể chuyện đi.
- Thưa vâng, chuyện gì bây giờ?
- Chuyện sờ vú sư cụ.
- Hi hi... Cho xin 1 chén đã.
Từ lão chánh tổng dâm ô 60 tuổi đến gã trai làng phóng đãng vừa
có ria mép đều sai khiến được gã theo cách đó. Bỗng dưng, khi được liệt vào
thành phần cố nông, đối tượng bắt rễ của đội cải cách, gã liền biến thành kẻ được
trọng vọng. Thay vì nói chuyện phiếm mua vui cho cánh mày râu, gã dạy họ phải
giác ngộ giai cấp, kiên quyết đấu tranh với bọn địa chủ bốc lột, nêu cao tinh
thần chiến đấu. Thay vì ngồi bệt xuống ngạch cửa, chìa bàn tay cáu ghét ra xin
chén rượu, hắn ngồi chồm hỗm trên tràng kỷ, nhìn chòng chọc vào mặt những ai bị
đấu tố, la lối, sỉ nhục họ với vẻ hả hê bèo bọt. Thứ hả hê của loài cỏ leo.
Nhưng thôi, hãy nhắc tới nhân vật thứ 2, đó là 1 mụ góa, 1
người đàn bà nở nang phốp pháp từ mặt mũi tới thân hình xộc xệch cả áo quần lẫn
tâm tính. Mẹ tôi kể rằng mụ khá xinh. Tên mụ là Nần. Da trắng nhây nhẫy, có
phơi nắng nửa năm cũng không đen. Hồi chồng mụ còn sống, cứ 5 ngày mụ bị 3 trận
đòn vì tội ăn cắp vặt. Ăn cắp từ trong nhà qua hàng xóm. Từ dăm quả cà, ổ trứng
gà đang ấp, mớ ngô, cho tới con cá diếc. Mụ có tật tham ăn. Bún riêu cua, 1 lúc
và lùa 6 bát. Bánh đúc hành mỡ, quẹt ngang miệng cũng 4 đĩa lật. Bánh da kê,
người ta ăn hết 1 góc thì mụ phải làm cả chiếc mới đã nư. Cứ quỳ gối xuống hàng
quà là mụ quên tất tần tật: cả chồng, cả con, cả hàng xóm láng giềng. May mà mụ
chỉ đẻ mỗi 1 mống con gái. Người ta bảo mụ ăn quá nhiều, mỡ lấp tịt cả trứng
nên không sinh nở được thêm. Giá đẻ nhiều, chắc cả lũ con mụ chết đói dở. Chồng
mụ trước kia đăng lính, sau bị sa hố gãy dóng xương chân nên được về làng. Ông
ta vốn người cù mì như cục tính. Suốt ngày lặn lội ngoài ruộng, ngoài bãi, lúc
vác cày dong trâu về nhà thấy mụ vợ nằm lù lù trên giường ngáy, cơm nước chưa
thổi, ông ta liền vác đòn tre phang. Ngày mùa, thóc tuốt về đổ vựa lớn, cót con
nhưng chưa qua tháng đã thấy vơi như bị ma làm phép. Ông chồng đầu tiên còn hồ
nghi, sau vài bận rình rập mới mục kích vợ xúc thóc trộm bán lấy tiền ăn quà.
Ông ta lại nện cho mụ 1 trận thừa sống thiếu chết rồi thuê người đóng 1 chiếc
rương gỗ lớn bằng cả gian nhà ngang chứa thóc. Cái rương ấy được khóa chặt bởi
1 ổ khóa bằng gang. Hết đường xơ múi, mụ Nần vác rá sang buồng hàng xóm. Từ
láng giềng gần tới bà con xa. Không biết bao nhiêu bận lại bắt quả tang, mụ phải
quỳ xuống van lạy. Rồi có lúc ông chồng phải tới tận nơi đem tiền chuộc vợ về.
Đòn đánh như đập đất nhưng mụ vẫn không chừa. Thoạt tiên, còn là trộm thóc, sau
tới cả con cá, lá rau. Người làng vẫn kể đi kể lại 1 giai thoại về tính tham ăn
của mụ:
Mùa đông, buổi sớm trời rét như cắt tai. Chưa lăn xuống đất,
mụ đã kêu đau bụng. Ông chồng chẳng nói chẳng rằng vào buồng xúc gạo nếp nấu nồi
cơm nếp đậu đen. Xong xuôi, ông gọi đứa con gái dậy ăn rồi cha con chuẩn bị cuốc
xáo ra bãi. Trước khi đi, ông ta dặn vợ:
- Nửa trưa, hễ bớt đau bụng thì ngồi dậy nấu cho bố con tôi
bát chè. Đường tôi để trong chạn.
Mụ Nần nhăn nhó:
- Cứ đi đi. Tôi xem bụng dạ thế nào đã.
Chồng con vác cuốc đi khỏi ngõ, mụ nhỏm dậy, xuống bếp vét sạch
nồi cơm nếp. Xong, mụ sang nhà hàng xóm đánh võng, tán chuyện. Chùng non trưa,
ngon ngót bụng, mụ về nhà cạo khoai từ nấu chè. Nồi chè chín, đặc sánh như mỡ,
múc vừa đầy 4 bát. Thoạt tiên, mụ Nần ăn 2:
- Để cho bố con mỗi người 1 bát.
Rồi mụ đi vo gạo nấu cơm. Cơm cạn, vùi trấu xong mụ ra vườn
hái rau dền nấu canh trứng cáy. Đi ra, đi vào, nhìn 2 bát chè, không nhịn được
cơn thèm, mụ lại tặc lưỡi húp bát nữa:
- Thôi, 2 bố con nó chia nhau 1 bát cũng được. Đi ngoài bãi về
lạnh bụng ăn của ngọt dễ giở chứng.
Nồi canh ra đã chín, mấy con cá mắm khô cũng đã nướng xong, mụ
Nần sắp bát đũa vào chiếc mâm gỗ, bưng lên nhà. Còn bát chè mụ đặt tít trên bàn
thờ để khỏi nhòm ngó tới. Nhưng chồng con mụ ham việc nên quá trưa mới về.
Trong khoảng thời gian đó, mụ hết ra ngõ ngóng lại vào nhà cởi áo bắt rận. Bát
chè đặt tít trên cao không nguội đi mà cứ nóng hôi hổi trong cơn thèm. Mụ không
chịu nổi. Mùi thơm của nó, vị ngọt của nó, hương vị bùi ngậy của nó khiến các
giác quan mụ bứt rứt, không yên.
- Ôi dào, ăn nốt cho gọn chuyện. Lần khác, bố con nó chén hẳn
1 nồi.
Người đàn bà tặc lưỡi lần thứ 2. Ông chồng về biết chuyện, lẳng
lặng ngồi ăn cơm. Nhưng đứa con gái mới 11 lại bô bô kể cho lũ trẻ trong làng.
Hơn nửa năm sau, gia đình mụ có giỗ, Ông chồng mời anh em, họ mạc tới đông đủ vẫn
chưa thấy vợ đi chợ về. Xôi dỡ rồi, gà giết rồi chỉ còn thiếu gia vị và các thức
nấu. Từ nhà lên chợ huyện những tám cây số rưỡi. Người chồng đành nhờ chú em
trông nhà rồi 3 chân 4 cẳng chạy té lên phố huyện. Tới chợ, mồ hôi tháo ướt áo
quần, ông ta sục tìm khắp nơi. Cuối cùng, tới dãy hàng quà, ông tathấy mụ đang
quỳ gối trước chỗ bánh khúc. Bên cạnh, chiếc rổ xề đựng các thứ đồ lề và thực
phẩm. Ông ta không nói được câu gì, chỉ hộc lên 1 tiếng rồi ngã lăn ra. Mọi người
xúm lại. Lúc ấy, mụ Nần mới ngẩng được mặt lên. Chồng mụ đã cấm khẩu, mặt mũi
tím đỏ như cổ con gà bị thít trước khi cắt tiết. Khi người ta võng ông ta đến
trước cổng nhà thương thì ông ta trút hơi thở cuối.
Chồng chết, mụ Nần bán bớt 3 gian nhà ngang để lấy tiền làm
ma. Số thóc trong rương đủ nuôi 2 mẹ con tới mùa sau. Nhưng vì mụ vẫn không chừa
được tật tham ăn. nên mới được nửa mùa, mụ đã vét thúng thóc cuối đem bán. Đứa
con gái 11 tuổi không thể thay cha cáng đáng việc nhà. Còn mụ, vốn quen chơi
hơn quen làm nên càng ngày càng sa sút. Vừa giỗ đầu cho chồng xong, mụ bán nhà
bán đất, dọn tới ở 1 mái lều ngoài trại, cách làng non cây số. Qua năm, mụ giao
đứa con gái cho 1 bà con đưa lên tỉnh. Con bé đã ra đi không nhỏ 1 giọt nước mắt.
Nghe đâu nó làm công cho 1 hàng bán bánh cuốn. Vì cơ chỉ, nên nó cũng dành dụm
được món tiền còm. Co lần, quá túng đói, mụ Nần lên tỉnh tìm con, nhưng đứa bé
trốn không ra gặp mẹ.
2 nhân vật đó, gã Bích và mụ Nần, không ai trong làng không
biết. Chẳng hiểu vì cớ gì, cậu tôi lại xếp vào đội ngũ cốt cán củagiai cấp nông
dân. Chúng ngồi lên hàng ghế danh dự, đập bàn, quát:
- Mụ Tam, mày có biết tao là ai không?
- Thưa có, ông là ông Bích.
- Con Tâm, con địa chủ gian ác, mày có biết tao là ai không?
- Thưa có, bà là bà Nần.
Bên tay trái bà nội và cô tôi, những người khác quỳ gối chờ tới
lượt họ. Cứ mỗi lần tiếng hô: “Đả đảo...” cất lên, họ lại run bần bật. Chỉ cô
Tâm không hề run rẩy. Mẹ tôi nói rằng cô có cặp mắt tượng, trơ trơ cùng thế
gian. Lần đấu tố thứ 2, bà và cô tôi phải đứng đưới 1 cái hố sâu chừng nửa thước.
Đứng ở dưới đó, con người có cảm giác mình là 1 sinh vật thấp hèn, tủi nhục, bị
đầy ải. Ngay những người đàn ông lì lợm rơi vào cảng ngộ ấy cũng phải gục. Bà
tôi ốm nặng rồi chết. Chỉ cô tôi là thản nhiên.
Tôi hỏi mẹ:
- Còn bố con thì sao?
- Bố con không như cô Tâm, bố con không chịu được nhục.
Mẹ tôi trả lời, với 1 giọng buồn, chẳng ra chê trách, cũng chẳng
ra thán phục. Mẹ kể rằng bố tôi đã đau khổ ngay từ lần đầu tiên cậu Chính tới
nhà bà nội tôi, chỉ vào mặt ông mà nói:
- Trước kia, anh với chị Quế là vợ chồng. Bây giờ, anh là kẻ
thù giai cấp, không có quyền đi lại với chị tôi. Nếu anh còn bén mảng tới nhà
chị ấy, tôi sẽ ra lệnh cho du kích bắt trói.
Cậu nói xong, tiếng trống cà rùng nổi lên, dinh tai nhức óc.
Rồi tiếng hô uy hiếp vọng vào:
- Kiên quyết đánh đổ địa chủ Đỗ thị Tam
- Kiên quyết đánh đổ...
Cậu Chính nhìn bố tôi, hất hàm:
- Nghe rõ chưa?
Bố tôi không trả lời. Cậu quát:
- Đội hỏi, có trả lời không?
Mặt bố tôi tái xanh, mồ hôi và đầy 2 thái dương nhưng vẫn im
lặng. Lúc ấy cô Tâm bước lên:
- Bẩm thưa đội, bây giờ chúng con biết thân biết phận, dù Đội
không ra lệnh, người nhà con cũng không dám chơi trèo.
Cậu Chính là đội trưởng đội cải cách. Lúc ấy, đội cải cách là
Thượng đế, là Trời. Câu trả lời của cô Tâm thỏa mãn lòng tự ái của cậu. Cậu đi
ra. Nhưng theo lệnh của cậu, đoàn thiếu nhi còn ở lại, hô khẩu hiệu, đánh trồng
thị uy, và đồng thanh hát. Bài hát thế này:
Cắt đứt là cắt đứt
Dứt khoát là dứt khoát
không vương vấn giai cấp dịa chủ...
Bài ấy mới hợp tình cảm của bố mẹ tôi làm sao? Dăm hôm sau,
vào 1 đêm mưa, cô Tâm thu xếp cho bố tôi trốn khỏi làng:
- Đi đi, em không chịu được nhục đâu. Muốn sống qua lúc này,
phải chịu nhục. Đừng lo gì cho chị cả. Rồi trời khắc có mắt thôi.
Giá người khác như thế, ắt bị truy lùng khốn khổ, nhưng cậu
Chính chỉ tra hỏi cô Tâm qua loa rồi lờ đi. Cậu bảo mẹ tôi:
- Thằng ấy đi khuất mắt càng tốt cho chị. Từ đây, chị yên tâm
làm ăn. Gánh hàng xén đem bỏ đi. Cặp bồ để mà dấm chuối. Ruộng Được chia rồi,
nay mai nước mình sẽ tiến ngang với Liên Xô, mùa cày có máy cày, mùa gặt có máy
liên hoàn gặp đập, không ai phải mó tay vào bùn đất.
Mẹ tôi cúi đầu nghe cậu nói, nước mắt rơi lã chã 2 hàng. Trưa
hôm sau, mẹ tôi vác giỏ ra đồng móc cua, chờ cô Tâm đem quần áo ra đầm giặt. 2
người nói chuyện với nhau, 1 người cúi gầm mặt xuống bờ ruộng giả bộ móc cua, 1
người vỗ đập quần áo:
- Cô Tâm, nhà tôi đi đâu thế?
- Thưa bà nông dân, chúng con không biết.
- Tôi xin cô, tôi có làm gì nên tội đâu.
- Thưa bà, con biết bà là chị ruột đội Chính. Đội là Trời, bọn
địa chủ chúng con là sâu bọ.
- Trăm lạy cô, ngàn lạy cô, đừng dày vò ruột tôi nữa. Chồng
tôi đi đâu?
- Chị đã có em, chị khỏi phải có chồng. Người nhà tôi không
chịu được nhục. Nó nhất thiết phải bước khỏi đây, dù núi cao hay sông sâu, dù
kiếm ăn nơi đồng chua nước mặn hay sống nơi lam sơn chướng khí cũng còn hơn cảnh
đọa đầy này.
Nói xong, cô Tâm cắp rổ quần áo ướt, tong tả về làng. Mẹ tôi
cứ cúi khom lưng xuống ruộng, tay vẫn ngâm trong hốc cua, nước mắt mồ hôi chan
chứa.
Tối hôm đó, cậu Chính hỏi mẹ tôi:
- Trưa nay chị gặp con Tâm?
Mẹ tôi cãi:
- Ai bảo cậu thế?
Cậu đáp:
- Anh em du kích theo dõi.
Mẹ tôi nói:
- Tôi đi móc cua.
Cậu bảo:
- Không ai móc cua lại đứng mãi 1 góc ruộng. Chị đừng cãi.
2 người lặng im 1 lát, rồi cậu bảo:
- Vì 3 đời nhà ta làm thuê bốc thuốc, không có 1 tấc đất nên
tôi mới được làm đội trưởng. Nếu chị liên hệ với bọn địa chủ, có đứa báo cáo
lên cấp trên, sẽ ảnh hưởng uy tín của tôi.
Mẹ tôi lại bật khóc:
- Tôi khổ quá.
Cậu Chính quát:
- Chị không được nghĩ tới cá nhân mình. Chị phải nghĩ tới quyền
lợi giai cấp.
Nói xong, cậu bước ra khỏi nhà. Mẹ tôi quằn quại, rên rỉ 1
mình trong gian nhà trống vắng, với cây đèn hoa kỳ trên bàn thờ gia tiên. Từ dạo
đó mẹ tôi càng ngày càng gầy rộc, 2 hố mắt trũng sâu. Đêm đêm, mẹ tôi thờ thẫn
ra vườn, đến từng gốc khế, bụi móng rồng, từng gốc ổi, gốc sung thì thầm. Phải
chăng mẹ trò chuyện với những vật vô tri vô giác ấy về tình yêu của mình, về
người đàn ông duy nhất đã đem tới nguồn vui sướng và tuổi xuân, về nỗi oan khuất
không thể bày tỏ. Người làng thì thầm là mẹ tôi mắc bệnh tâm thần. Cậu Chính giận
lắm:
- Người làng xì xào bàn tán. Họ bảo chị còn thương tiếc thằng
địa chủ Tốn. Rằng vì thế mà chị dở điên, dở dại, suốt ngày nói chuyện 1 mình.
-...
- Chị có biết rằng chị đang giết hại uy tín của tôi không? Khắp
vùng này, chẳng có đội nào tiến hành cải cách triệt để bằng đội của tôi. Không
khéo vì chị, hóa thành công cốc. Chị Quế, hãy nghe em. Chị em mình vẫn là chị
em, trước sau như 1.
-...
- Chị Quế, bố mẹ chết chỉ còn 2 chị em mình. Em không thương
chị thì thương ai? Chị còn trẻ, được nết được người, thành phần cơ bản, có nhà
có ruộng, lấy đâu cũng được người tử tế. Chị nghĩ đi, 1 đằng tương lai sáng sủa,
được cách mạng dìu dắt, 1 đằng bị đào thải khỏi hàng ngũ, đứng trong đám kẻ thù
nhân dân.
-...
- Em nói lời cuối cùng, chị hãy tỉnh ngộ. Vài hôm nữa lên tỉnh
em sẽ giới thiệu chị với anh Nham, cấp trên của em. Hồi ở chiến khu, anh ấy là
đại đội trưởng thông tin của tư lệnh mặt trận.
Trước những lời lẽ ấy, mẹ tôi lặng im. 1 đêm tháng Chạp, mẹ
cuốn bọc quần áo rời khỏi làng. Cậu Chính cho người dò xét, không ai biết. Tra
hỏi cô Tâm, cô 1 mực bảo rằng không liên quan. Cuối cùng cậu tuyên bố với dân
làng tằng mẹ tôi mắc bệnh thận, phải lên thành phố chữa.
Nửa năm trôi qua, cậu Chính cùng đội cải cách rút khỏi làng.
Căn nhà được khóa lại bởi 1 ổ khóa gang to tướng, chìa đem gửi 1 người bà con gần
gụi. Trẻ con nghịch, đem đất sét trát kín ổ khóa, rồi vẽ lăng nhăng nhảm nhí
lên những cánh cửa vá các bức tường vôi. Lá tre rụng lấp đầy chân tường. Màng
nhện bắt đầu chăng lớp mỏng lớp dầy 2 bên đầu hồi. Lúc ấy, mẹ tôi về, thất thểu
như bóng ma. Làn da hồng mịn màng xưa kia đã sạm. Những nếp nhăn mờ in trền gò
má và sơn căn, giữa 2 tràng mày cong vút. Đêm ấy, chòm xóm kéo sang thăm hỏi. Mẹ
tôi ngồi vòng tay ôm gối, nước mắt thánh thót rơi. Thói thường, người làng hay
tọc mạch. Họ nhất thiết dò tìm điều muốn biết. Nhưng dạo ấy, họ không cật vấn mẹ
tôi. Phần vì thương, phần bị hút vào cuộc xáo động mới. Đội sửa sai về làng.
Giống như làn gió sung mãn thổi qua cánh đồng tiêu điều trơ gốc
rạ, đội sửa sai không thể cứu những cánh ruộng đã bị giông gió quần nát, những
hạt thóc bị vùi giữa bùn, nhưng ít nhất nó cũng quét được phần nào làn không
khí hắc ám tù đọng trong không gian. Thôn xóm vang tiếng cười, tiếng khóc, tiếng
than hờ, lời kể lể những nông nỗi oan khuất, tiềng hú gọi hồn những người thác
oan. Đèn dầu cháy thâu đêm trong các căn nhà. Người ta mở cửa thâu đêm, trò
chuyện thâu đêm, họp hành thâu đêm. Người ta đòi rạch mồm những kẻ tố điêu, đòi
bồi thường danh dự, đòi nợ máu. Kẻ bị căm ghét nhất là cậu Chính. Lúc đó, không
rõ cậu ẩn núp nơi nào. Chỉ mẹ tôi và căn nhà tổ tiên để lại là không thể chạy
trốn cơn giông bão thù hận. 1 tối đám người bị kích động tay thước tay dao đã ập
tới cổng, đòi mẹ tôi ra đền nợ máu thay đứa em trai. Họ nguyền rủa, đập phá, la
hét. Mẹ run như giẽ núp trong buồng. Buồng đã cài then. Cửa chính cũng đã khóa.
Nhưng chắc chắn nếu đám người kia lấn tới, chúng sẽ bị đập tan. Lúc ấy cô Tâm
đã nhảy ra:
- Các ông các bà có điên không?
Cô nói, giọng lạnh lùng, đầy uy lực.
- Chỉ có lũ trẻ chưa ráo máu đầu mới xử sự như thế này, chỉ
có kẻ mất trí mới giận cá chém thớt. Người biết nghĩa không ai làm bậy. Hơn nữa...
tôi hỏi, liệu em dâu tôi có đáng chịu tội không? Các ông các bà mất ruộng, cô ấy
mất chồng. Bây giờ sửa sai, ruộng vườn còn đòi lại được, cô ấy tìm chồng mòn
gót lại trở về tay không.
Cơn điên của đám đông dịu xuống. Cán bộ sửa sai tới trấn an.
Người ta ra về. Cô Tâm gọi mẹ tôi mở cửa. 2 người đàn bà ông nhau khóc...
Chương 3
Con tàu dừng lại. Ga đầu tiên trên chặng đường dài. Bảy giờ
kém 15 phút. Người đàn ông bên tôi giơ tay che miệng ngáp. Ông ta gấp cuốn sách
trinh thám bỏ vào túi, rồi đưa mắt liếc nhìn tôi như nhìn 1 con mèo ngồi trong
góc đi văng.
Ư hừm ừm...
Bỗng dưng ông ta hắng giọng 1 cách vô lý, rồi nhoài qua mặt
tôi, áp chiếc mũi khoằm vào cửa kính nhìn ra bên ngoài. Tàu dừng ở 1 ga tỉnh lỵ.
Thành phố nhỏ nhưng đẹp, êm dịu, u tịch. Các dãy phố đổ từ các ngọn đồi xuống
lòng thung, nhà nọ tiếp nhà kia chẳng nhà nào giống nhà nào nhưng tất cả đầu
toát ra hương vị ngọt ngòa của các mối tình xưa cũ. Các bức tường trắng diệp
màu trong ánh trắng hoàng hôn. Các rèm cây uốn lượn theo dọc phố, thếp vàng
trên đỉnh các ngọn đồi và biến màu tím thẫm dưới lòng thung, nơi phố chia thành
nhiều hẻm con, khuất lấp trong các khu vườn.
Người đàn ông ngắm nghía tỉnh lỵ, gật gù. Rồi ông ta khẽ nhếch
lông mày, nheo mắt nhìn tôi. Dường như ông ta muốn nói:
- Thế nào, thành phố của chúng tao đẹp đấy chứ, bé con?
Tôi im lặng, không đáp. Trong những trường hợp như thế, tôi
thường không tìm cách ứng xử khôn ngoan. Người khách đồng hành rút trong chiếc
túi đi đường 2 miếng bánh mì kẹp thịt, chìa cho tôi:
- Làm 1 miếng cho vui, cô bạn đồng hành, cô cũng tới Matxcơva
chứ?
Tôi đáp:
- Vâng. Cảm ơn ông, tôi chưa thấy đói.
Ông ta khẽ nhún vai, cười. Răng ông ta đã hỏng nhiều, cái trẩm
bạc, cái thay răng giả. Vì thế, nụ cười thật hài hước. Bất giác, tôi cũng cười
theo. Người đàn ông bắt đầu nhai bánh mì 1 cách ngon lành. Nhưng được vài ba miếng
chợt ông ngừng lại. Đoạn, lấy trong túi đi đường chiếc rađiô cát sét Nhật, ông
ta thận trọng đặt lên bàn, bật nút. Ngay tức khắc, giọng hát quen thuộc của
Pugatrôva vang lên. Ông khách đồng hành nhìn tôi. Cái nhìn thay cho câu hỏi:
- Thế nào, không làm cô khó chịu chứ?
Tôi nói:
- Tôi rất thích. Cám ơn.
Ông khách ngả người vào thành ghế, vừa nghe hát vừa nhai bánh
mì, vẻ mặt ông mãn nguyện. Nhưng tôi cũng không còn chú ý tới ông, cũng không
chú ý tới con tàu đã bắt đầu chuyển bánh, rời xa tỉnh lỵ. Giọng hát nổi loạn của
người nữ ca sĩ mê hoặc tôi. Có lẽ giọng hát ấy đã là 1 trong những niềm vui hiếm
hoi ở xứ này, giúp tôi chiến thắng nỗi buồn ly hương kể từ ngày bắt đầu cuộc đời
công nhân xuất khẩu. Lần đầu, tôi nghe giọng hát ấy ở nhà 1 tay nghiên cứu sinh
trong thàng phố Kiep. Ông ta là chú họ cô bạn cùng cư xá với tôi. Cô ta cao lớn,
rắn rỏi, sống phóng đãng. Cô có thể cùng 1 lúc chung sống với dăm bảy anh
chàng, nhưng không bao giờ nhớ tới họ.
- “Trong giấy mơ của tao không có chỗ dành cho gương mặt đàn
ông.”
Cô thường tuyên bố với bọn tôi như thế. Vậy mà, tụi đàn ông lại
lăn vào mê say cô như điếu đổ. Đám con gái ghen ghét với cô thì thầm rằng cô học
được cách làm bùa mê của mấy mụ digan. Tôi, tôi biết cô rất đẹp. 1 vẻ đẹp tàn bạo,
thiêu đốt. Những người đàn ông bản lĩnh tầm thường không thể tránh khỏi ngọn lửa
ấy. Nó biến họ thành tàn tro. Nhưng tôi cũng thích cô vì cô thành thực, thành
thực ngay với tội ác của mình, và hay bênh vực kẻ yếu. Mùa đông năm đầu tiên
chúng tôi sang Nga, nỗi buồn tê tái xâm chiếm tâm hồn. Căn buồng khu cư xá như
cái hộp tẩm ướt những ý nghĩ buồn tẻ, và quây bọc chúng tôi trong nỗi nhớ nhà.
Cứ ngày nghỉ chúng tôi lại tìm cách đi chơi. Ít nhất là để lẩn tránh 4 bức tường
nhàm chán ấy và nghe tiếng nói mới, nhìn gương mặt mới của người Việt. Lần đó,
cô bạn dẫn tôi đến Kiep. Chú họ cô đang nghiên cứu môn Điện cơ. Khu nhà đủ sinh
viên các màu da, lúc nào cũng rầm rập người đi lại, khuân vác hòm xiểng, hàng
hóa. Lạc vào đó, khó mà tìm được lối ra. May sao, vốn từ vựng tiếng Nga của tôi
cũng khá. 2 chúng tôi kéo đi chợ, mua thực phẩm và hoa quả trước khi tới nhà
khách. Cô bạn tôi bảo:
- Các lão nghiên cứu sinh bao giờ cũng keo kiệt. Mình chuẩn bị
trước vẫn tốt hơn.
Chú họ cô trạc ngoại 40, dáng vẻ nho nhã. Ông ta đang cạo chiếc
móng giò, thứ thực phẩm rẻ tiền cho nhữnng ai muốn dè xẻn từng côpếch. Nghe tiếng
gõ cữa, ông ta vội dúi vào xoong, đậy nắp. Cô bạn tôi cười khanh khách, lật nắp
xoong bảo ông:
- Ôi dào ôi, có giấu diếm thì người ta cũng biết tỏng ra rồi.
Các chú già trót đời cũng không chừa được tính sĩ.
Chú cô ngượng gỏ mặt, nhìn tôi. Chừng như thấy tôi quê mùa,
nhút nhát nên ông ta yên tâm mỉm cười. Cô cháu bảo:
- Thôi dẹp cái móng giò ấy lại. Cháu mua thịt bò với gà làm sẵn
rồi. Gà loại 1 của Hung nhập sang đấy. Chú ở nhà nấu nướng với cái Hằng nhé.
Cháu phải chạy sang mấy đứa bạn tí xíu.
Nói xong, cô ném túi thực phẩm xuống sàn, vào phòng vệ sinh mở
nước rửa, rồi lát sau quay ra:
- Hằng ở đây, tao đi 1 lát thôi.
Không chờ tôi trả lời, cô xách ví đi luôn. Buộc lòng, tôi phải
cùng ông chú họ cô chuẩn bị bữa ăn. Cô bạn tôi đi 1 giờ, 2 giờ, 3 giờ đồng hồ
sau cũng chưa thấy về. Ông chú họ mời tôi ăn cơm trước. Ăn xong, trời mờ tối.
Tuyết bắt dầu rơi. Từng vệt trắng dài, cheo chéo ngoài cửa kính. Bóng mây xám
tro bồng bềnh như 1 biển hoàng hôn trải trên thành phố. Các cành cây đã rụng hết
lá, trơ trọi vẽ những nét gầy guộc, cọ quạnh. Giữa đám cây, 1 đốn đen vụt lướt
qua. Chắc hẳn, đó là 1 con quạ.
Tôi đang dán mặt vào khuôn cửa, chợt ông chú họ cô bạn nói:
- Uống 1 chút rượu cho ấm bụng nhé?
Tôi ngạc nhiên, chưa kịp đáp, ông ta đã hấp tấp mở tủ, lấy
chai rượu. Rồi cúi xuống gầm giường, ông ta kéo ra chiếc hòm gỗ, trong xếp đầy
những bát chén sứ, ly cốc bằng thủy tinh và pha lê. Những chiếc ly khua lanh
canh. Rót 2 chén ruợu, ông chìa cho tôi:
- Uống đi, nào uống cho ấm. Tuyết lại rơi, trời rét ghê.
- Cảm ơn chú, nhưng cháu không uống được rượu nặng.
- Được, được... rượu nhẹ thôi. Mà có nặng thì trời rét này
cũng chẳng thấm vào đâu.
Ống ấn ly rượu tận môi tôi. Lúng túng, nhưng quá nể nang, tôi
đành uống 1 ngụm.
- Ngụm nữa, ngụm nữa sẽ thấy người ấm lên.
Ông nài nỉ, dốc tuột cốc rượu vào họng tôi. 1 chất lửa lan
truyền khiến toàn thân tôi nóng rực. Mắt nhìn chao đảo, bập bênh. Ông chú họ cô
bạn tôi uống cạn ly rượu, rất nhanh. Rồi 1 ly nữa, ly nữa... Quái lạ, sao ông
ta lại uống rượu sau bữa ăn? Tôi ngơ ngẩn với nỗi băn khoan ấy. Người đàn ông
ngồi xuống ghế, cười ngây độn. Rồi rất nhanh, ông ta nhào tới ôm chặt lấy tôi:
- Em, em... nào em...
Miệng ông ta nồng nặc mùi rượu và mùi tỏi. Cặp môi dày hé mở,
thật ghê tởm. Những ngón tay cứng như gọng kìm, xiết chặt vai tôi. Trong khoảnh
khắc ấy, chợt 1 nỗi căm hờn dâng lên, nghẹn ứ tim. Tôi tỉnh rượu tức khắc, tôi
nhìn thấy từng sợi râu, li ti trên mép người đàn ông, mụn ruồi thịt trên cánh
mũi, cả chất mỡ ngoang nhoáng trên 2 gò má đỏ ửng lên vì rượu:
- Ông bỏ tôi ra. Tôi sẽ hét lên đấy.
Tôi đáp, bằng 1 giọng nhỏ nhẹ nhưng bình tĩnh. Tôi cố sức
nhìn vào mặt ông ta, cố đẩy cái khuôn mặt ấy ra xa để nhận diện cho rõ ràng.
- Không có gì đâu... Không có gì đâu em.
Ông ta lắp bắp. 2 khóe môi dày khép mở, giống như miệng cái mặt
nạ ông Địa trẻ con thường chơi ngày Tết Trung Thu. Tôi hoàn toàn không thấy sợ,
nhưng ghê tởm và căm thù, có lẽ, ông ta đã lờ mờ nhận biết được điều đó qua ánh
mắt tôi. Ông ta nhếch môi cười.
- Tuyết rơi... Trời rét... rét ghê.
Có tiếng gõ cửa. Cô bạn tôi trở về. Tức khắc, cô mỉm cười:
- Chú mà cũng khốn nạn thế à? Đẹp mặt nhỉ.
Ông chú họ co rúm lại, buông thõng 2 tay ngồi xuống giường.
Các thớ thịt trên mặt ông chảy xuống. Lúc ấy, trông ông già như 1 ông lão lục
tuần. Cô bạn tôi mở tủ, rót nước lạnh uống rồi bảo:
- Đánh đĩ phương cũng phải chừa 1 phương để lấy chồng chứ? Bạn
cháu mà chú cũng không tha à?
Ông chú im ro, không đáp. 2 vai ông nhô lên gần chấm tai. Cô
bạn nói tiếp:
- Thôi, sang phòng bên mà ngủ nhờ. Đêm nay chúng cháu ở đây.
Từ giờ trở đi, chú liều liệu đấy.
Ông chú lật nắp giường, lấy ra 1 bộ chăn gối:
- Đây này. Mới giặt xong tuần trước.
Nói đoạn, ông lùi lũi mở cửa phòng, đi ra. Cô bạn tôi khóa
trái cửa buồng, trải chăn nệm cho tôi nằm, rồi nói:
- Đừng buồn. Đời nó thế. Tất nhiên là cũng có những người tốt.
Nhưng mà... Thôi, đừng nghĩ cho mệt óc. Tao mở máy quay đĩa cho mà nghe.
Tuyết rơi trắng xóa bên ngoài. Những tia sáng xuyên qua, giống
những chiếc kim lấp lánh ai ném vào đêm tối. Cảm giác buồn tủi và nỗi nhớ nhà
cùng 1 lúc ào ạt xô đến, như những ngọn triều câm nín cuồng liệt. cô bạn tôi mặc
chiếc váy ngủ xanh, loay hoay với chồng đĩa hát. Ánh đèn lịm dần, những sợi tuyết
trắng trở nên huyền ảo. Luc đó, giọng hát của người nữ ca sĩ vang lên. Thoạt
tiên, tôi không rõ lời ca. Dường như 1 chuỗi sấm lan truyền trong không gian. Sấm
của những cơn mưa mùa hạ. Cơn bùng nổ giận dữ của các dãy núi xa xanh mài miệt
nơi chân trời, của các cánh rừng hoang dã, của các đồng cỏ trơ trụi dưới nắng,
của bình nguyên xanh bị lãng quên. Tôi choáng váng. Sau đó, khoảnh khắc lạ lùng
qua đi, tôi bị xô đẩy bởi 1 loạt âm thanh khác, khó định được màu sắc, nhưng êm
dịu hơn, mặn mòi hơn. Chúng đưa tôi tới cõi hoang lặng của tâm hồn, nơi tiếng nức
nở của con người hòa trộn với niềm hy vọng, nỗi khoắc khoải được đếm trong nhịp
thời gian, góc u tối trong mỗi căn phòng với cánh hoa buổi sớm. Bài hát chấm dứt.
Lại 1 bài hát tiếp theo. Tôi không nhớ các cảm xúc và ý nghĩ của mình. chúng tiếp
nối nhau, chồng chéo, xóa nhòa nhau. Cô bạn tôi chồm dậy, lật mặt đĩa hát. Làn
sóng âm thanh tuôn chảy không ngừng. Tôi không nghe hát nữa, tôi nghĩ đến người
đàn bà đang hát. Chắc hẳn những khát vọng trong chị đã có lúc bị vùi lấp dưới
tro bụi rồi trộn lên như mầm cây lúc sang xuân. Chắc hẳn chị đã có lần cúi xuống
vì thất vọng, vì chán chường rồi lại ngẩng lên, học cách hy vọng, tìm niềm vui
sống. Tiếng hát của nữ ca sĩ như tia lửa vọt lên từ đám cháy, như cánh chim
phiêu bạt giữa khoảng xanh... Tôi lắng nghe. Rồi tôi sửng sốt khi nhớ lại câu
chuyện xấu xa buổi tối. Âm nhạc đã vang lên trong căn phòng của 1 gã đàn ông dơ
dáy. Món trộn kỳ quái của cuộc đời.
Bây giờ, lại là giọng hát ấy, trên con tàu tới Mátxcơva. Các
cột cây số lùi qua. Bên ngoài, rừng bạch dương lấp lánh. Màu trắng óng như
satanh trên thân cây gợi vẻ đẹp yếu mềm. Bỗng nhiên, tôi chợt khám phá ra nét
quyến rũ trong giọng hát kia. Cái chất lửa cuồng nhiệt của tình yêu, ngọn phong
ba bạo liệt của sự phản kháng, sức mạnh đẹp đẽ nhất, cần thiết nhất với con người...
Tôi thu mình trong góc toa, khoành tay lại. Giá chi mẹ tôi có được chút cỏn con
sự phản kháng ấy?... Giá chi trong trái tim mẹ có được ngọn lửa nhỏ của đám
cháy khát vọng?
Chương 4
Dầu sao, mẹ tôi không thể tiếp tục sống ở làng. Người ta
không nỡ thù ghét mẹ, nhưng cũng khó chịu khi nhìn thấy mẹ. 2 chị em, mẹ và cậu
Chính, giống nhau như 2 giọt nước. Từ khổ người, hình dáng, tới nét môi, đường
mày, điệu cười, giọng nói. Ngôi nhà tổ tiên chỉ còn lưu giữ những kỷ niệm buồn.
Gánh hàng xén, theo lệnh cậu Chính, mẹ đã bán. Đôi bồ xẹp trong xó bếp để ủ chuối.
Mẹ tôi đắn đo 1 tuần trăng, rồi đem cầm ngôi nhà cho người trong họ, thu xếp tiền
bạc tư trang, lên thành phố...
10 năm sau, tôi đã ra đời trong căn nhà gạch, nửa lợp tôn và
giấy dầu, nửa lợp ngói Tây. Ngõ hẻm nằm trong 1 khu phố ngoại ô, nơi cư trú của
dân lao động. Sáng tinh mơ, vào trước buổi lê minh, những người bán xôi lúa,
bánh rán, bánh chưng, bánh giò, bún ốc, bún riêu, bánh cốm, bánh khúc và những
thứ quà vặt khác đã thức dậy làm hàng. Bếp trấu, bếp than bập bùng cháy. Mùi
thơm của hành phi mỡ, bánh rán, ớt chưng... tỏa khắp nơi, đánh bạt mùi các đống
rác, các chuồng tiêu, các hốc tường nồng nặc thứ nước tiểu lưu cữu. Rồi những
mùi vị thần tiên đó nhạt dần, bay xa dần với tiếng quang gánh kẽo kẹt, tiếng
rao ời ợi của những người đàn bà:
- Xôi vò, xôi lúa đây ây ây...
- Ai... bánh rán, bánh chưng, bánh dầy...
Mỗi tiếng rao có 1 âm điệu riêng, với những âm nhấn, những tiết
điệu lên bổng xuống trầm. Trong xóm có 7 người bán xôi vò, xôi lúa. Qua tiếng
rao, có thể phân biệt từng người. Tiếng rao hàng ời ợi vào buổi lê minh, trong
khoảng trời ngoại ô là thứ âm nhạc đầu tiên đã thấm vào tôi. Mẹ tôi lúi húi xếp
hàng vào gánh. 2 chiếc quang chất dầy tới cổ, nào măng khô, bánh đa nem, bánh
đa thái, miến tàu, miến ta, đỗ xanh, đỗ đen, đậu lạc, vừng trật vỏ, vừng
nguyên... cả tò ho, thảo quả, hoa hồi... mỗi thứ 1 ít. Mẹ sắp xếp hàng rồi tới
vỗ lưng tôi:
- Em ăn cơm rồi hãy đi học nhé. Chìa khóa nhà mẹ vẫn để trong
hốc tường.
Mẹ đi. Từ trên giường lăn xuống, tôi đã thấy chiếc mâm đồng sứt
vành đặt trên bàn. Bát dưa cải xanh với đĩa nhộng rang hành. Hoặc bát tương dầm
cà với con cá khô nướng. Mùa hè qua mùa đông năm nay qua năm khác, thức ăn dường
như không đổi. Cơm ủ trong chiếc liễn sành, bên ngoài là chiếc giỏ cũ lót rơm.
Bên cạnh khay nước uống, có sẵn 1 gói kẹo nhỏ, khi là kẹo bột, khi là mấy thanh
chè lam.
- Em ăm chè lam nữa không? Mai mẹ lại mua?
- Kẹo bột ông Tảo có gừng, em có thấy mùi thơm không?
Mẹ cúi xuống bên tôi, thì thầm. Mắt mẹ nhìn tôi, vừa ấp iu vừa
ngưỡng mộ. Tôi lờ mờ cảm thấy, ngay từ độ ấy, tình yêu của mẹ với tôi có gì
khác biệt. Những người đàn bà trong xóm, không nhìn con với ánh mắt như thế.
1 sớm đông, trời bỗng rét cằn rét lụn, tưởng như nước trong
chậu đông sánh lại. Mẹ tôi đi chợ sớm. Gần Tết Nguyên Đán người ta tranh thủ
bán hàng. Quanh năm, chỉ có dịp ấy là dân tiểu thương kiếm được tấm món. Tôi thức
dậy, thấy tấm áo bông đặt ngay cạnh gối. Sờ vào còn ấm. Mẹ đã hơ than trước lúc
đi. Tôi mặc áo, ăn cơm rồi chạy sang nhà cô bạn hàng xóm. Nó còn ngủ li bì, ông
bố nghiện thuốc lào ngồi co ro trên phản, vừa thấy tôi đã giơ chiếc xe điếu lên
dọa:
- Về nhà ngay, trời rét thế này muốn sưng phổi hay sao màrủ
nhau đi chơi hả? hả?
Tôi đi thơ thẩn dọc đường. Gió lùa những đám lá úa bay qua.
Con chó trắng nhà bà Miều rên ư ử, quét cái đuôi xơ xác lông trên hè phố. Nó cứ
dò dẫm bước từng bước 1, vừa bước vừa đưa cặp mắt già nua kiếm đường, cái mũi
nhăn nheo hếch lên 1 cách khó nhọc.
- Này, Trắng xồm, Trắng xồm,,,
Tôi gọi:
- Trắng xồm, có đi chơi với tao không?
Con chó già lờ đi, ra điệu khinh khỉnh. Lúc đó, anh con trai
què của bà Miều từ trong nhà cất tiếng rống lên:
Rồi thu sang lá vàng rơi đầy.
Hàng bạch dương buồn im xác xơ ven đồi...
Tự dưng tôi muốn khóc. Lúc ấy, con bé Thu bỗng từ sau lưng
tôi bước lên:
- Chơi không mày?
Tôi im lặng không đáp. Trong Xóm, cả bọn chúng tôi không đứa
nào chơi với con Thu. Nó xấu bụng, lại có thói điêu toa. Nhiều lần, nó bày trò
rủ rê mọi người chơi. Khi bị mắng, Thu liều đổ ngay tội đầu têu cho đứa khác,
và nhanh như cắt lẩn trốn. Con bé đứng chặn ngay trước mặt tôi, nhắc lại:
- Tao với mày đi chơi nhá?
Tôi không đáp, lưỡng lự.
Thu liếc nhìn quanh rồi bảo:
- Không ai biết đâu. mẹ tao lên cơ quan rồi. Mà trưa nay mẹ
tao cũng không về. Cơ quan có tiệc trà liên hoan.
Tôi phân vân. Nhưng nghĩ tới gian nhà trống vắng, lại thấy sợ.
Thu đán được ý nghĩ của tôi, liền kéo áo tôi, bảo:
- Đi đi... Ra bãi xem thuyền muồm vui lắm. Nếu chịu khó chúng
mình có thể đào được dế mèn.
Tôi theo nó. Chúng tôi vượt qua dãy phố, qua bờ đê, ra ngoài
bãi sông. Không gian thơm ngát. Các bụi cây vòi voi đu đưa chùm hoa tím, các
loài cúc áo bé bỏng đơm hoa dọc bờ cỏ, thỉnh thoảng lại gặp 1 dây lạc tiên hiếm
hoi với chùm quả như những chiếc đèn lồng. Êm ả trôi, dăm cách buồm trên dòng
nước. Người chèo thuyền ngồi trước mũi lái, mặt nhuộm ánh nắng đồng.
- Dô huây, dô huây...
Tiếng hò vẳng từ dưới bến sông đưa lên. Người ta đang hạ thủy
1 con thuyền... Chúng tôi mê mải đi dọc theo bờ cátm theo duổi không chán lũ
chuồn chuồn và cánh cam. Thu hái được 1 vạt áo đầy quả lạc tiên chín. Nó ăn
không kịp thở, không chia cho tôi 1 quả. Tôi lắng nghe tiếng hò của những người
dân chài. Bỗng nhiên, có tiếng hét vọng từ bờ đê xuống:
- Thu, Thu ơi i i...
Bóng 1 người đàn bà đang đi dọc triền đê. Thu vội kéo tôi núp
vào ruộng ngô gần đấy. Mẹ nó vẫn tiếp tục gọi:
- Thu, Thu ơi i i...
Tiếng gọi chứa đầy tức giận, nghe như tiếng hét. Cả Thu lẫn
tôi đều nín thở. Nó nằm ẹp xuống rãng ngô, kéo tôi theo. Chờ cho mẹ nó đi thật
xa, xuôi bãi sông tới trở dậy:
- Về, về ngay...
Thu bảo tôi. 2 chúng tôi men theo các ruộng ngô và bí đỏ về
phố.
- Giả vờ chơi ô ăn quan nhé. Vào sân ông lão mù xem bói.
Thu kéo tôi vào cái hẻm đầu tiên trong ngõ phố. Ở đó, có 1
ông già mù, chuyên sống bằng nghề bói. Ông ở trong 1 căn nhà gạch nhỏ, nghe đâu
bà vợ dã xây cho ông trước khi bỏ đi với 1 người đàn ông khác, cách đây 17 năm.
Căn nhà nhỏ nhhưng khá sạch và đầy đủ vật dụng cần thiết. Sân rộng, lát gạch
men nâu, có cả tường hoa bao quanh và 1 luống đất trồng những loại cây lưu niên
như lựu, đào, mơ. Người từ các nơi nghe tiếng đồn thường tới ngồi ở mảnh sân ấy,
chờ tới lượt mình được thày xem. Lũ trẻ trong ngõ phố tới sân chơi nịt, chơi nhảy
lò cò, chơi ô ăn quan hoặc đá cầu lông. Thu kéo tôi ngồi xuống, ấn vào tay tôi
hòn gạch non nó đã nhanh tay lượm được trên đường về:
- Vẽ đi, vẽ ngay ô ăn quan không mẹ tao về tới nơi bây giờ.
Tôi cầm hòn gạch, hối hả vẽ vòng ô ăn quan. Còn Thu chạy ngay
ra đống sỏi đầu xóm bốc về đầy vạt áo. Nó vừa chia sỏi, rải đều vào các ô, mẹ
nó đã xộc tới:
- Ở đâu? Nãy giờ mày ở đâu?
Con bé ngẩng lên:
- Chúng con chơi ô ăn quan.
Mắt mẹ nó trợn ngược, gần như chỉ còn lòng trắng. Cập môi
phai son trơ ra, thâm tím. Bà ta cúi xuống túm tóc đứa con:
- Tao rẽ vào đây rồi mới ra bờ sông tìm mày. Đi đâu? Chết băm
chết vằm ở đâu?
- Con chơi...
Thu ấm ớ, miệng méo xệch.
Mẹ nó kéo con gái đứng lên, róng rả từng lời:
- Đi đâu? Khai ra thì sống. Còn quanh co, tao đánh tuốt xác.
Đi đâu?
Mặt cái Thu tái xanh nước mắt vãi như tháo cống. Rồi, bất chợt
nó khóc hu hu:
- Cái Hằng rủ con ra bãi sông. Nó bảo con đi đào dế mèn... Hu
hu... Nó còn rủ con bẻ ngô về nướng.
Người đàn bà quay nhìn tôi. Cặp mắt bà ta lồi hẳn ra, trơ và
nhẵn như mắt tượng trong chùa, Môi bà mím lại, hằn thành vệt thâm và mọng. Bà
im lặng. Những tia nhìn lạnh buốt, đe nẹt, khinh bỉ của bà quất vào mặt tôi, đè
bẹp tôi xuống mặt đất lấm bụi. Tôi run lên, 2 ống chân cơ hồ không đứng vững. 2
tay bấu chặt lấy vạt áo, tôi cố sức chịu đựng cái nhìn sắc sảo của bà. Cổ tôi
nghẹn lại. Bà lia mắt từ đầu tới chân tôi, kiểu như người ta nhìn 1 con vượn
trong chuồng sắt sở thù. Rồi bà ghìm giữ cơn tức giận sắp biến bà thành 1 vị
chúa sơn lâm nhảy vào xé xác tôi, bà cúi xuống ném vào mặt tôi từng câu 1:
- Con kia, tao cấm mày lân la tới gần cái Thu, tao cấm mày
bén mảng tới đầu sân, trước ngõ nhà tao. Quân vô thừa nhận, trên không chằng,
dưới không rễ. Đồ con hoang không bố, lần này tao tha, lần sau thì chớ trách.
Nói đoạn, bà ta túm lấy tay con, xềnh xệch kéo đi. Tôi đứng
trên mảnh sân gạch, rải rác lá rụng, nghe gió bắt lùa ngang trời. Hồn tôi như
ngôi nhà tan hoang, không tường không vách. Con chó già nhà bà Miều lại kéo
đuôi lững thững đi qua hè phố, vừa đi vừa đưa mõm sang 2 bên hít hít, ngửi ngửi.
Nó cũng không khốn khổ như tôi, trơ trọi như tôi. Ông già mù ngồi trong nhà bỗng
cất tiếng:
- Hằng ơi, vào đây ông bảo...
Tôi đứng lặng, nước mắt dâng cay xè.
- Hằng ơi...
-
Tôi cắm đầu chạy khỏi sân, nước mắt nhòe trong gió lạnh.
Ngang trời ngoại ô, mây xám lướt chầm chậm, lũ chim di trú cuối cùng vỗ cánh
bay. Món cháo bi thương của người đời có vị đắng ngắt, không trôi được qua họng.
Tôi chạy mãi, chạy mãi. Cho tới khi kiệt sức, ngã xuống, tôi thấy làn sóng đỏ của
dòng sông nhấp nhô trước mắt mình. Và 1 cánh buồm nhỏ, góc bên dưới rách tơi tả
nhấp nhóang trôi...
Đêm hôm ấy, nước mắt mẹ rơi ướt đầm món tóc bên thái dương
tôi:
- Mẹ xin em, em đừng khóc. Nín đi, em nín đi, đừng khóc.
- Nhưng con phải có 1 người bố chứ? Ai cũng được mà.
- Mẹ xin em, em đừng hỏi.
- Đứa nào cũng có bố, dù bố nó đã chết hoặc đui mù, mẹ phải
chỉ cho con biết bố của con.
- Em đừng hỏi. Mẹ chắp tay lạy em ngàn lạy, xin đừng hỏi. Mẹ
con ta sống với nhau, có nhau, thế là đủ, mẹ xin em.
Những giọt lệ của bà đã thắng. Tôi đành chịu thua, và hình ảnh
về người bố vẫn nằm im trong tấm màn đen bí ẩn.
Hơn 1 năm sau, cũng vào 1 ngày đông giá, nhà tôi có khách. 1
người đàn ông cao lớn lưng hơi gù, khuôn mặt vuông, mắt đen, môi cười hình trái
đào:
- Đây là cậu Chính, cậu ruột của con.
Mẹ tôi bảo. Tôi cúi chào thật to. Cậu cao lớn nhưng nét mặt rất
giống mẹ. Tôi có cảm tình với cậu tức khắc.
- Con nấu cơm mẹ nhé? Có phải ra phố mua thịt quay không?
Mẹ tôi gật đầu:
- Mẹ nấu cơm cho. Con đến hiệu thịt quay chú Tàu mua nửa cân
lợn quay, nửa cân ngỗng quay với 2 lạng kiệu muối.
Cậu Chính cau mày:
- Không cần lãng phí như vậy.
Mẹ tôi đáp nhỏ nhẹ:
- Ngót chục năm trời chị em mới gặp nhau.
Nói xong, mẹ sai tôi vào buồng lấy chiếc làn tre Lạng Sơn đi
chợ. Trong buồng, tôi nghe cậu hỏi:
- Con bé Hằng mấy tuổi?
Mẹ tôi đáp:
- Cháu gần tròn 9 tuổi rồi.
Cậu bảo:
- Nó giống hệt anh ta.
Mẹ tôi im lặng không đáp. 1 lát sau. cậu nói:
- Chị không có lập trường. Chị không dứt bỏ được con người ấy.
Đáng lẽ chị phải xây dựng gia đình mới từ lâu.
Tôi nghe mẹ nói, yếu ớt:
- Gia đình bên ấy xuống trung nông ngay hồi sửa sai rồi. Mà
thôi, tôi xin cậu đừng nhắc lại chuyện cũ.
Tôi cầm làn đi ra. Cả 2 người im bặt. Tôi hỏi:
- Mẹ ơi, có phải mua thêm rau đậu nữa không?
Mẹ tôi lắc đầu:
- Đủ rồi em ạ.
Nói xong, mẹ cúi xuống ngay. Nhưng tôi đã thấy 2 giọt nước mắt
rơi xuống đầu gối người.
Tối hôm ấy, sau bữa cơm mẹ mời láng giềng thân thuộc sang
chơi, giới thiệu cậu em ruột. Dân trong ngõ xóm đều là lao động, người buôn
thúng bán mẹt, người làm hàng xôi hàng bún, người kéo xe ba gác chở hàng hoặc đạp
xích lô. Họ nghe giới thiệu cậu Chính tôi là cán bộ tuyên huấn của tỉnh Quảng
Ninh thì nể vì lắm. Trong con mắt chúng tôi lúc đó, tuyên huấn là 1 nghề cao
siêu, không thể so sánh với các nghề nghiệp khác trong xã hội, vì nó đem lại
cho con người tư tưởng, ánh sáng, những tài sản cao quý không tiền bạc nào mua
nổi. Cậu tôi đọc nhiều tài liệu trong và ngoài nước, cậu kể chuyện hấp dẫn. Đám
láng giềng nhà chúng tôi ngồi nghe mê mẩn. Nào là cuộc đấu tranh của 2 phe trên
thế giới. Nào là các cuộc bãi công nổ ra trong phe tư bản, phong trào công đoàn
phản đối nữ hoàng Anh. Nào là những dòng thác cách mạng trên địa cầu. Những thủ
lĩnh da đen lãnh đạo cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Các bộ tộc da đỏ đấu
tranh đòi hưởng thụ nền văn minh vật chất của bọn đế quốc mới. Quá nửa đêm, dân
xóm mới chịu ra về. Mẹ tôi hỉ hả. Vẻ mãn nguyện hiện ra trên nét mặt. Mẹ thu dọn
những cốc chén, tàn thuốc lá thuốc lào, đĩa đựng mứt sen, mứt bí, kẹo chanh...
Giống như người ta thu dọn bàn tiệc sau lễ cưới. Rồi mẹ trải chiếu mới, sắp xếp
chăn màn cho cậu Chính đi ngủ:
- Mẹ con tôi ôm nhau nằm võng càng ấm. Cậu đi nghỉ sớm cho đỡ
mệt. Đường dài...
Cậu bảo:
- Không cần. Chị cho cháu Hằng đi ngủ trước đi. Em còn có
chuyện phải nói.
Mẹ tôi bảo tôi vào giường ngủ. Xong. Mẹ pha ấm trà ướp hoa
cúc:
- Cậu có ăn chè sen tôi nấu? Hồi còn thầy u, năm 2 lần, ngày
lễ Nguyên tiêu và Tết, bao giờ nhà cũng nấu xôi vò, chè sen.
Cậu Chính đáp:
- Vâng. Nhưng dạo đó em còn nhỏ quá, em không nhớ.
Mẹ tôi nói:
- Tôi tuổi Hợi, cậu tuổi Sửu, chỉ thua tôi chưa đầy 2 năm,
sao lại không nhớ?
Cậu tôi im lặng 1 lát rồi đáp:
- Phải, nhưng em mải nghĩ đến việc nhà nước, đầu óc bận rộn
luôn luôn.
Mẹ tôi nói, giọng hờn dỗi:
- Thế nên 9, 10 năm trời cậu chẳng thèm hỏi tôi lấy 1 câu.
Giá tôi chết, cũng không có người sang điếu.
Cậu Chính đáp, cằn nhằn:
- Đã bảo chị là em bận. Việc công chứ em có đi chơi đâu. Hết
cuộc tập huấn này tới cuộc tập huấn khác, hết hội nghị tỉnh đoàn tới hội nghị tỉnh
hội phụ nữ. Rồi là mặt trận tổ quốc, rồi là công đoàn, không có lấy 1 ngày thảnh
thơi. Sắp tới, lại có chiến dịch tuyên truyền, phổ biến nghị quyết xuống các cấp.
Chắc xong việc thì Tết cũng tới sau lưng.
2 người im lặng. Tôi nghe tiếng cậu rót trà, uồng ừng ực rồi
đặt chén xuống chiếc khay nhôm, 1 khoảnh khắc lặng lẽ nữa trôi qua. Chợt mẹ tôi
bật kêu:
- Sao cậu chẳng hỏi gì giỗ tết thày u thế? Bao nhiêu năm...
Cậu Chính thở dài:
- Ôi dào, chị khéo đa sự. Thày u chết lâu rồi còn hỏi làm gì?
Mẹ tôi khóc dấm dứt:
- Nhưng mà là thày u của mình. Chết hay sống cũng vậy. Thày u
chỉ có cậu là người nối dõi.
Cậu Chính gắt:
- Chị ăn nói lạ, thời buổi này là thời duy vật, không ai còn
nghĩ vớ vẩn như chị. Chết là hết.
Cậu ngừng lời, gian nhà im vắng, chỉ có tiếng nấc khe khẽ của
mẹ tôi điểm nhịp. Cậu tôi, sau 1 lát im lặng, cất tiếng:
- Em quên chưa hỏi, bây giờ chị sống bằng nghề gì?
Mẹ tôi lau nước mắt, trả lời:
- Thế cậu không thấy gánh hàng khô chị đặt trong góc nhà hay
sao? Hồi ở quê, dấn vốn có gánh hàng xén cậu bắt đem bán. Đôi bồ nan cật, quang
dầu tốt thế đành đem dấm chuối cứ mục dần ra. Làm vườn không được, chị đành phải
cầm nhà ra phố. Thoạt đầu, chị đi kéo sợi thuê cho nhà làm chỉ. Sau quen chúng
quen bạn dần, kiếm gánh hàng ra chợ. Lúc vốn ít thì buôn hoa quả, măng tươi, mì
miến. Sau dấn vốn nặng hơn, chị cất cả đường, đậu, các loại gia vị, các thứ đồ
ngũ cốc chế biến.
- Tóm lại chị buôn chứ gì?
Cậu tôi cắt ngang, giọng khó chịu, lạnh lùng. Mẹ tôi lặng ngắt,
không đáp. Cậu tôi lên tiếng, chì chiết:
- Trong xã hội này, chỉ có 2 loại người có chỗ đứng xứng
đáng. 1 là giai cấp công nhân tiên phong, đội ngũ lãnh đạo các mang. 2 là giai
cấp nông dân lao động, người bạn đường của giai cấp công nhân, cùng tiến lên xã
hội chủ nghĩa. Ngoài ra, không đáng kể. Loại con buôn, dù lớn dù nhỏ, đều là những
kẻ bóc lột. Chị không thể đứng trong hàng ngũ bọn chúng.
Mẹ tôi hốt hoảng:
- Nhưng tôi không bán hàng khô thì biết làm gì bây giờ? Tôi
còn phải nuôi cháu cậu.
Cậu tôi đáp, giọng tỉnh khô:
- Em sẽ xin cho chị là công nhân nhà máy. Mới vào, hãy làm tạp
vụ. Sau, họ sẽ dìu dắt vào nghề. Nhà máy đệt Mồng 8 tháng 3, nhà máy điện Yên
Phụ, nhà máy xay Lương Yên, nơi nào cũng được.
Mẹ tôi mếu máo:
- Thôi chị xin cậu. Ngần này tuổi mới tập phụ nghề rồi biết
bao giờ mới thành nghề. Mà có thành nghề rồi tóc cũng 2 thứ. Lúc ấy, chẳng lẽ
nghỉ hưu?
Cậu Chính nói:
- Cái chính là chị ngại lao động. Chị đã quen với môi trường
của dân tiểu thương. Nhưng chị hãy nghe em, trướn hay sau Đảng và Nhà Nước cũng
sẽ cải tạo triệt để loại người phi lao động. Chị hãy từ bỏ bọn chúng, đứng vào
đội ngũ của những người lao động ngay bây giờ là hơn.
Mẹ tôi nóiL
- Cải tạo tư sản nhà nước đã làm từ 10 năm trước. Như chúng
tôi, mờ sáng đã đặt dòn gánh lên vai, tối đất mới được ăn bữa cơm đèn, cậu bảo
bóc lột ai? Mấy mùa đông năm trước, chưa kiếm đủ tiền giấy bút cho cháu, ban
ngày đi chợ, tối về phải xách nồi than ra đầu phố, quạt ngô bán thêm.
- Thôi thôi...
Cậu tôi cắt ngang lới:
- Chị không phải nói nhiều. 1 bộ phận giai cấp tư sản đã được
hình thành từ đám tiểu thương như chị. Nhưng đất nước ta sẽ tiến thẳng lên xã hội
chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Do đó, tư bản trở
thành đối tượng của cách mạng. Phải trừ tận gốc rễ mầm mống giai cấp ấy.
Tôi nghe mẹ tôi thở dài. Rồi lát sau, mẹ rầu rĩ nói:
- Cậu Chính, bỏ lỗi cho chị. Chị không được học hành nhiều,
chị không biết lý luận. Nhưng ít nhất cậu cũng cho chị kiếm đủ miếng cơm nuôi
cháu Hằng ăn học.
- Chính vì nghĩ tới tương lai cháu Hằng em mới yêu cầu chị
vào nhà máy. Trong xã hội mới, con em của giai cấp công nhân và nông dân được
hưởng mọi quyền lợi để phát triển khả năng lao động. Ở Liên Xô, các nhà văn lỗi
lạc, các nhạc sĩ thiên tài, các giáo sư tiến sĩ khoa học đều được đào tạo từ đội
ngũ của giai cấp công nhân.
Mẹ tôi không trả lời. Cậu Chính gằn giọng:
- Tôi làm công tác tuyên huấn, giáp dục tư tưởng của Đảng cho
các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Tôi không thể có 1 người chị là con buôn.
Mẹ tôi uống nước, rồi khe khẽ đáp:
- Chị mệt quá. Cậu để cho chị đi ngủ. Rồi mai mốt chị sẽ nghĩ
thêm.
Cậu gật đầu, giọng nói êm dịu lại:
- Vâng. Nhưng em có việc nói với chị. Vợ chồng em xin chuyển
về Thủ Đô. Cô ấy công tác ở Thành Đoàn. Chúng em được phân phối nhà ở nhưng cần
tiền để tu tạo và mua sắm đồ đặc.
Mẹ tôi nói:
- Vâng. Nhà của thày u tôi cầm cho người ta, hẹn khi nào lấy
hết tiền mới làm giấy chính thức. Phần của cậu vẫn còn nguyên. Bao giờ cậu cần?
- Cần ngay, càng sớm càng tốt.
- Vậy cậu về lấy tiền, hay tôi?
- Em bận, làm gì có thời giờ về làng.
- Vâng. Tuần sau tôi sẽ thu xếp hàng họ, đưa cháu về quê. Tôi
lấy tiền cho cậu và cho cháu về thăm nom họ hàng làng xóm.
Đúng 1 tuần lễ sau, mẹ đưa tôi về làng. 2 mẹ con tôi đi xe
ca, xuống bến xép ở thị trấn. Từ thị trấn phải đi bộ 8 cây số mới tới bờ sông.
Ngang đường, tôi đòi mẹ dẫn vào chợ huyện, 1 cái chợ quê đông đúc họp ngay trên
đồi, cách đường chừng 500 thước. Những cây đa cây muỗm um tùm nối thành mái
che. Dưới các tán cây, người ta dựnng 1 dãy lều sơ sài, chỉ vài cây cọc chống với
mái lá mía hoặc thân nứa đập dập. Phía sau chợ, ngôi chùa nhỏ phơi tường vôi trắng
mốc với mái ngói rêu phong. Trên gò đất trước cửa chợ, vợ chồng người thợ nhuộm
đang vắt những mảnh lụa vừa vớt trong nồi lên cây sào tre. Mảnh nào mảnh nấy bốc
hơi nghi ngút, màu hoa sen chói mắt. Trên chiếc sào bên cạnh, chừng dăm mảnh vải
và quần áo màu thiên lý, màu hoa hòe, màu gụ, màu đen. Những thứ màu muôn thuở
dân quê ưa thích. Đối diện với hàng nhuộm, 1 ông già mặc quần áo trắng bẩn, ngồi
dãi thẻ nặn những con giống bột, nào lợn, nào gà, nào trâu, nào ông tướng, bà
tướng, thằng tốt đen, cỗ xe hồng. Từng đoàn con giống sặc sỡ xếp hàng trên tấm
ván mỏng, kê lên 4 hòn gạch.
- Te tò te, đây là ban kèn Tây.
Ông già vừa nặn xong cây kèn, đưa lên miệng thổi. Lũ trẻ ngồi
quanh giương mắt, há miệng chầu hẫu theo cục yết hầu nhảy lên tụt xuống trên cần
cổ già nhăn nheo.
- Te tò te, đây là ban kèn Tây.
To tò tò te tí, có anh nào muốn chơi...
Câu mời chào quyến rũ làm sao. mẹ mua cho tôi hẳn 12 con giống
với cây đèn ngũ sắc. Tôi xếp mớ tài sản vào chiếc hộp giấy, trước ánh mắt thòm
thèm của đám trẻ quê. Mẹ đưa tôi qua dãy hàng xén, bồi hồi nhìn những chiếc hộp
gỗ mặt kính bề rộng chừng gang rưỡi, bề dài 2 gang, bên trong xếp từ viên bi thủy
tinh, mớ chỉ thêu, gói kim ngoại cho tới những chiếc mùi xoa Tàu in bướm sặc sỡ,
từ những chiếc ngòi bút sắt, viên băng phiến cho tới chỗi hạt vỏ ốc hoặc ngọc
trai bằng nhựa giả.
- Ngày xưa, mẹ cũng bán hàng xén. Nhưng ở chợ huyện nhà.
Những giải quai nón bằng lụa ni lông bay phấp phới trên nóc lều.
Các cô bán hàng trẻ, lông mày tỉa cong vút như vành trăng ngồi nhể ốc trên
trong. Mùi nước mắm gừng bay trong gió. Chợ quê, đến là nhiều thứ quà. Những
quà rẻ tiền và đôi khi đơn sơ 1 cách lạ lùng. Kề bên những bánh bún riêu, bún ốc
người ta bán cả bún canh rau cải, rau rút. Cạnh hàng bỏng ngào mật, chè lam,
ngũ vị, người tabán cả những thúng bánh con sâu, 1 hào 12 con, vừa bằng ngón
tay út đứa trẻ lên 2. Thứ bánh đó nặn bằng cơm nguội giã trộn bột nếp. Cứ 10 phần
cơm nguội mới có 2 phần bột nếp. Rồi nặn hình con sâu rau ném vào chảo dầu lạc.
Bao giờ bánh chín, bột vàng rộm, nứt khía ra và nổi lên trên.
Bánh nếp ở đây chỉ vừa bằng trôn chén. Bánh gai nhỉnh hơn cái
hạt mít, bọc năm bẩy lượt lá chuối bên ngoài. Hàng khoai luộc, củ ấu, củ súng
luộc ngồi cạnh gánh xẩm. Chồng xẩm đeo kính mắt đen ngồi kéo nhị, vợ xẩm mặc áo
lụa đỏ phai màu gân cổ hát bên cạnh:
- “Con tàu Việt Nam đi suốt bốn mùa vui...”
Mẹ tôi hỏi tôi có đói không? Tôi lắc đầu. Kì thực tôi có thấy
đói nhưng không muốn ăn. Mấy người đàn bà đang cắm cúi ăn bánh đúc mắm tôm ngay
gần đó. Nón họ sụp xuống mặt. Chỉ thấy bàn tay hạ xuống, cất lên. 2 mẹ con tôi
đi khắp lượt các hàng quán trong chợ, len lách giữa đám người. Giọng hát xẩm của
người đàn bà đuổi theo. Cứ nghe mỗi lời hát, tưởng chừng lại nhìn thấy sợi gân
cổ bằng chiếc đũa nổi lên. Giọt mồ hôi đọng trên cái cằm cáu bẩn. Tôi nói:
- Ta vào chùa đi mẹ.
Tôi kéo mẹ về phía cổng ngôi chùa. Ở đó, có một cây đa huyền
diệu. Cây đa có tới bảy thân, một thân chính và sáu thân phụ. Mỗi thân phụ là một
chòm rễ nối từ cành cây xuống mặt đất. Nhưng các thân phụ cũng lực lưỡng gần
như thân chính. Chúng tạo thành các vòm cổng kết thành thân cây, như những cổng
chào kì bí, những khải hoàn môn của trận thắng xa xưa. Tôi ngồi xuống gốc đa, tựa
vào đùi mẹ. Những chòm rễ đa trắng ngà đu đưa, đu đưa. Đột nhiên, như những cái
vòi bạch tuộc lạ lùng, chúng dính chặt lấy tôi, bứt tôi khỏi vòng tay mẹ. Tôi
muốn kêu, nhưng cơm mê dịu ngọt khiến tôi không cất được thành lời. Những chòm
rễ đa đung đưa tôi trong cái nôi xanh êm ả, lộng gió. Rồi chúng đưa tôi tới tận
cổng trời. Một bức tường thành sừng sững bởi các lớp mây nặng nề, có ánh bạc
như kim khí tạo nên, chạy dài. Giữa tường thành, cái cổng được trổ ra, với hai
cây cột lớn bao phủ làn mây ngũ sắc, cuộn xoắn như những con rồng đùa giỡn. Hai
cánh cổng tựa hai tấm đồng sáng chói, bóng như gương, cánh khép, cánh mở, nửa
như mời mọc, nửa đe dọa con người. Phía sau hai cánh cửa ấy, một khoảng không
gian kì bí hiện ra, màu lục thẫm, trong suốt, và lấp lánh như ẩn chứa ngàn ngàn
tinh tú.
- Em ơi, dậy đi, dậy đi nào.
Tôi mở mắt. Mẹ tôi cười:
- Con chó con, đến là dễ ngủ.
2 hàng ngọc trai sau làn môi mẹ ánh lên. Ánh lên nỗi buồn.
Xuân sắc đã qua rồi. Không để làm gì. Chẳng để cho ai.
- Cũng phải ăn tí ti chứ em? Mẹ cũng đói rồi.
Tôi ngồi dậy, từ bỏ vòm đa xanh và cái cổng trời huyền hoặc.
Nhà chùa cũng bán hàng: bánh nếp đậu xanh và chả đỗ xanh. Ni cô cầm chiếc quạt
tre phẩy ruồi. Mẹ con tôi ăn chả đỗ, uống nước vối hãm gừng. Mặt trời đã tụt xuống
ngang đỉnh núi. Nắng le lói, vàng hực, tỏa hơi nóng như lò gạch đang nung. Mẹ
tôi bảo:
- Trời đang ấm, phải đi ngay kẻo lát nữa sẽ lạnh.
Tay cầm túi, tay đắt tôi mẹ lên đường. Hôm ấy là 1 ngày đông
hiếm hoi. Trời lặng gió, ấm. Con đường vượt qua các cánh ruộng, các thôn mạc.
Bãi cỏ hoang với cây gạo già. 1 nghĩa trang có những bậc thềm xây, ngọn tháp in
hình ngôi sao 5 cánh với dòng chữ: Tổ quốc ghi công. 1 khu hồ bát ngát, nước lặng
ngắt dưới chân các cọng sen tàn.
- Nhanh chân lên em. Hay ôm cổ mẹ, mẹ cõng.
- Không, con đi được.
- Từ đây tới bến sông còn dăm cây số nữa.
- Dăm cây con cũng đi, mẹ đừng lo.
Tôi chạy vượt lên, cách mẹ 1 đoạn. Chờ mẹ đuổi tới nơi, tôi lại
chạy tiếp. Cứ thế, mẹ con tôi đã tới bên sông trước lúc hoàng hôn. Cái bờ đê dốc
thoai thoải ăn xuống tận mép nước. Những đám rác quẩn tụ ở đó, với xác vờ. Mẹ
tôi xuống bến rửa chân tay cho tôi, rồi chúng tôi tìm 1 phiến đá, ngồi chờ đò.
Trời trở gió. Làn hơi lạnh từ mặt sông thốc ngược lên phả vào da thịt. Hơi thở
của mùa đông. Tôi ôm choàng cổ mẹ:
- Mẹ ơi, bố con ở đâu?
Mẹ nhìn tôi ngạc nhiên, rồi sau đó khẽ than van vỉ:
- Mẹ xin em, đừng hỏi.
Tôi nhắc lại:
- Bố con ở đâu? Sao mẹ không nói cho con biết?
Mẹ cầm bàn tay tôi, không đáp. Ánh hoàng hôn tím dần nơi chân
trời. 1 làn khói tỏa giữa thinh không, khiến mọi vật không rõ nét. Tôi biết câu
hỏi của tôi khiến mẹ đau lòng. Nhưng tôi không thể cầm giữ. Tôi chưa bao giờ
hình dung rõ gương mặt của 1 người bố. Nhưng nỗi cô đơn, hơi thở giá lạnh của
chiều đông, làn sương tím lãng đãng trên khoảng trời nhạt nhòa mây nước, cái
khung cảnh ấy khiến tôi run rẩy vì lẻ loi. Mẹ tôi cũng trở nên nhỏ bé và lẻ
loi. Tôi muốn cầu cứu 1 gương mặt nào khác, 1 cánh tay nào khác trong đời. Gió
mỗi lúc mỗi mạnh, rít u ú qua các tầng dây điện trên cao. Mẹ tôi vẫn im lặng
hoài. Nhưng lúc ấy, cánh buồm trắng đã chòng chành tới bến:
- Qua sông thì xuống đi. Chuyến cuối đấy.
Tiếng người lái thuyền ném lên, cục cằn. Đám khách ngồi trên
thuyền láo nháo đứng dậy.
- Đi đi em.
Mẹ tôi giục khẽ. Rồi chúng tôi xuống dốc. Những hòn sỏi trơn
tuột lăn xuống nước, chút nữa tôi ngã theo. Chờ đám khách dưới thuyền lên hết bờ,
người lái thuyền mới cho chúng tôi bước lên cầu.
Trên bờ đê, 1 người đàn bà gánh gánh khoai tây nặng trĩu, vừa
chạy vừa cất tiếng gọi:
- Đò ơi i i... Bớ đò ò ò... Chờ với í í...
Người lái thuyền cắm cây sào đứng chờ. Người đàn bà gánh được
gánh khoai tây lên thuyền, rút vuông khăn trùm đầu xuống lau mặt:
- Lạy trời, may thật là may. Lỡ chuyến này là tôi chết.
Mặt bà đỏ ửng, nhễ nhại mồ hôi. 2 tay bà xương xẩu, gân guốc
như tay thợ nề. Các đốt xương lồi cả ra, như đốt xương người mắc chứng viêm khớp.
Đôi vai bà rất mảnh, rất gầy, không hiểu sao nó có thể chịu nổi gánh khoai tây
nặng ngót nghét 1 tạ.
Trên đỉnh dốc, lai 1 người đàn ông nữa hấp tấp kêu:
- Bớ đò ò ò... Chờ tôi với í í...
Ông ta có dáng vẻ như 1 người buôn hàng chuyến. Quần ka ki
vàng, áo ca rô nhàu nát buông ngoài quần, tay xách túi du lịch lấm bê bết. Chân
ông đi giày, thứ giày sĩ quan đế to, khâu những mũi chỉ dài hai ba ly, trông cục
mịch. Khi ông bước lên cầu thuyền, con thuyền chao hẳn về 1 bên.
- Úi chao ơi. Cái nhà ông này, trông thế mà nặng khiếp.
Người đàn bà gánh khoai tây kêu to. Ông khách mới quay đầu lại,
trừng mắt nói:
- Nặng nhẹ thì động gì tới nhà bà?
Người đàn bà chưng hửng nhìn ông ta, rồi gương mặt chấc phác
hiện rõ vẻ bối rối, khốn khổ. Đưa mắt nhìn chúng tôi, bà lắp bắp mấy lời:
- Ấy là... ấy là... tôi cũng nói thế.
Lần nữa, người đàn ông quay hẳn mặt lại. 1 gương mặt to, thô
lậu, 2 gò má sần sùi. Tương phản với nó lá cái miệng nhỏ, môi tròn, có ngấn xẻ.
1 cái miệng đàng điếm của đàn bà trên khuôn mặt tên đồ tể. Trong cặp mắt của
ông ta, lảng vảng 1 làn khí hắc ám. Chúng luân chuyển giữa đôi tròng đen luôn
chao đảo và phần lòng trắng rất lớn, sắc vàng nhờ, nối những mạch máu li ti.
Ném 1 cái nhìn dữ tợn vào mắt người đàn bà, ông ta quát:
- Câm mồm đi.
Tiếng quát khiến cả thuyền sững sờ. Mẹ con tôi, dăm người
khách quá giang, và người đàn bà gánh khoai khốn khổ đều im bặt, đưa mắt nhìn
xuống đáy thuyền. Nơi đó, 1 chiếc gàu tát mẻ miệng nằm chềnh ềnh giữa 2 làn nước
lênh láng. Chỉ người lái thuyền là thản nhiên nhìn lên bờ đê. Ông ta khoèo 1
chân giữ mái chèo, đưa tay mân mê mấy sợi râu cằm lún phún. Gió vẫn phần phật
thổi vào lỗ rách của cây buồm. Con thuyền đu đưa. Những đám xác vờ trắng bị
sóng đánh tan tác như nắm hoa nhài tàn ai ném xuống mặt nước. Rồi vài khoảng khắc
sau, chúng lại hợp tụ giữa những lườn nước xoáy. Từ bờ đê bên kia, gió đưa lại
1 giọng ca véo von.
- Đi thôi.
Người lái thuyền nói. Rồi rút cây sào đáng phựt 1 tiếng, ông
ta đẩy thuyền rời bến. Tiếng nước óc ách vang động hoàng hôn. Những vòng sóng
tím thẫm vỡ tan dưới mũi thuyền. Tôi co người lại, ôm lấy mẹ vì làn hơi giá buốt
phà vào da thịt. Cót két... cót két... cánh buồm lắc lay ngay trên đầu tôi. Tôi
có cảm giác như cây cột gỗ kìa sẽ bị gió bẻ và cả cánh buồm chụp xuống. Cót
két... trục buồm vẫn kêu, những cánh buồm vẫn phồng lên hứng gió. Con thuyền lướt
sang sông. Tới giữa dòng, chợt 1 người đàn bà trẻ lao xuống bến:
- Bớ đò ò ò... Bớ đò ò ò...
Người lái thuyền không quay đầu lại. Cái gáy của ông ta rất lực
lưỡng cạo nhẵn thín, nổi trên cái cổ sơ mi cũ. 2 cánh tay trần, áo len sắn tận
khuỷu điều khiển cây dầm chèo lẹ làng.
- Đò ơi i i...
Tiếng gọi lan dài trên mặt sóng. Trời chạng vạng. Chỉ trong
giây lát, ráng mây cuối cùng của hoàng hôn tắt lịm. Mây khói nhòa đường chân trời.
Làn nước trở nên huyền bí đưới lớp áo màu tro xám, ánh từng viên sóng như thủy
ngân. Cái dáng lẻ loi của người trễ đò nhỏ dần, nhỏ dần. Bờ đê bên kia đã lừng
lững hiện ra.
Đêm hôm đó, tôi mơ thấy mình bị đánh. Nhưng tôi không hiểu ai
đã đánh tôi và tôi có tội gì. Tôi đã khóc rất lâu, rất lâu, nước mắt ướt đẫm gối.
Có lẽ mặc cảm của trận đòn ấy kéo dài nên hôm sau, khi những người đàn bà láng
giềng trêu chọc, tôi đã bỏ ra vườn.
- Bây giờ, mẹ kể cho con nghe.
Sáng hôm sau, khi đã an ùi tôi bằng 2 que kẹo mạch nha thật
to, mẹ bắt đầu nói tới người chồng của mẹ. ông bố tôi chưa bao giờ biết tới.
Chương 5
Không chịu nổi oan ức, nhục nhã, bố tôi đã bỏ làng đi. Ông dắt
theo lưng số vốn còm của người chị gái. Thoạt đầu, bố tôi lên huyện tìm người bạn
cũ. Ông này trước đây dạy cùng trường với bố tôi, con 1 gia đình 3 đời làm nghề
buôn nước mắm trên thị trấn. Tìm được tới nơi, người bạn cũng đã bỏ phố huyện
lên Lào cai. Gia đình ông bị nghi là chứa chấp Quốc dân đảng, chính quyền quản
thúc chờ ngày xét xử. Lúc ấy, ngay ở phố huyện, bãi cỏ lớn trước vốn là sân quần
ngựa cũng đã biến thành trường đấu. Địa chủ lớn, cường hào, ác bá điển hình
trong các xã được đưa lên đấu tố và đem ra trước tòa án của nông dân xét xử. Suốt
đêm tiếng trống, tiếng kèn, tiếng hô, tiếng la hét của đám đông vang động. Đội
du kích đi tuần tra, lưỡi lê giương sáng quắc. Các đội viên du kích, súng lăm
lăm chĩa về phía trước, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Mắt họ cũng sáng quắc
như lưỡi lê vì tinh thần cảnh giác, nhìn như lục soát đám khách bộ hành. “Không
để bọn địa chủ lọt lưới” – Khẩu hiệu kẻ ngang dọc trên đường, bằng đủ loại chữ.
Bất cứ người nào bị họ gọi tới cũng run như cầy sấy, trước những ánh mắt hừng hực
căm hờn – 1 sự căm hờn rất an nhiên không cần căn đế và lí trí.
Thưa thày, xin thày đi ngay cho, trăm lạy thầy, xin thày đi
ngay cho.
Gia đình người chủ trọ, đồng thời là phụ huynh học sinh của bố
tôi chắp tay lạy ông như tế sao. Vào lúc đó, sự xuất hiện của bất cứ người lạ mặt
nào cũng có thể làm cớ cho những kẻ ghen ghét trả thù: Có liên lạc với bọn địa
chủ, có quan hệ với bọn Quốc dân đảng trốn tránh, có hiện tượng khả nghi chống
phá cách mạng... vân vân và vân vân...
- Thưa thầy, chúng tôi biết cư sử thế này là lỗi đạo, nhưng
thày thương cho.
Vợ chồng thân chủ dúi vào tay bố tôi 1 gói giấy nhỏ, trước
khi ông quay đi, rồi họ đóng cửa. Bố tôi gọi trả lại món đồ, nhưng cánh cửa vẫn
im lìm. Lát sau, có tiếng học trò run run nói qua khe cửa:
- Thưa thày, thầy cầm theo độ thân. Thế nào cũng có lúc cần.
Bố mẹ em bảo thế.
Hơi thở của đứa bé cũng run run theo lời nói. Rồi có tiếng
chân nó chạy qua sân, trở vào. Bố tôi nhét gói đồ vào túi áo, tiếp tục đi. Lúc
đó, trời vừa sẩm tối. Giờ các đội du kích chưa tuần tra ráo riết. Ở bến xe phố
huyện 1 người ngồi úp nón ngủ. Chợt ông ta lật chiếc nón chào bố tôi:
- Thầy giáo đi đâu?
Bố tôi dừng lại, nhận ra ông xích lô quen thuộc. Trước đây, mỗi
lần bố tôi ở quê lên, ông thường chở bố tôi về trường. Thấy bố tôi im lặng, ông
ta liền nói:
- Thầy giáo đừng ngại tôi. Xưa thày dạy chữ cho học trò, tôi
đạp xe chở khách kiếm cơm nuôi vợ. Thời thế đổi thay, kẻ bất lương mới khuấy đục
nước kiếm mồi, con người ăn ở hẳn hoi đặt chữ đức lên trên chóp nón.
Bố tôi đáp:
- Cảm ơn bác. Nhưng chính tôi cũng chẳng biết đi đâu. Có người
đồng nghiệp là anh Tuấn...
Ông xích lô cắt nhời:
- Thày Tuấn con ông bà nước mắm Vạn Vân đi rồi. Chính tôi chở
thầy ấy lên bến xe tỉnh tháng trước.
2 người im lặng. Lúc ấy, thấp thoáng có 1 đội tuần tra ở phía
đầu bến. Ông xích lô bảo:
- Thày cứ ngồi lên xe, tôi đạp. Đứng thế này, họ lại ra hỏi
giấy má lôi thôi.
Bố tôi ngồi lên xe, ông thủng thẳng đạp về phía cuối bãi. Khi
2 người đã ra tới tỉnh lộ, ông ta nói:
- Tôi chắc dưới quê không yên thày mới lên đây. Nhưng ở đây
cũng nhộn nhạo lắm, ở lại thày sẽ gặp sự khó. Trường thày dạy vẫn mở cửa nhưng
số thầy cô cũ chẳng còn lại bao lăm. Thôi, cổ nhân đã dạy: “Cùng tắc biến.” Mạng
thày đã tới ngày phải ly hương.
Bố tôi chỉ nói được 1 câu:
- Cảm ơn bác.
Rồi không nói thên lời nào nữa. Ông xích lô cứ đạp xe dọc tỉnh
lộ. Tới ngã 3 đường, ông cúi xuống hỏi:
- Thầy mạng gì thế?
- Mộc.
Ông xích lô lẩm bẩm tính rồi bảo:
- Thủy sinh Mộc, dưỡng mộc. Tôi chở thày tới bến sông. Ở đó
có đò dọc, mua 1 xuất đi tận bến 5 đồng rưỡi. Ngồi hết 3 ngày.
Ông dấn lên đạp. Chiếc xe bon bon về phía Tây Nam. 17 cây số
rưỡi, tới bến Còn. ông xích lô dừng lại, cho bố tôi bước xuống. Lúc đó, khoảng
9 giờ tối, sao chi chít trên trời. Những con thuyền dưới bến im lìm như đã ngũ.
2 người cúi chào nhau. Bố tôi lần túi áo lấy tiền trả. Ông xích lô cầm 1 tờ giấy
bạc, nói:
Tôi cầm 1 đồng để thày khỏi băn khoăn. nhưng tôi lại guở thầy
dồng này làm tiền âm phủ mai sau. Khi nào mồ tôi xanh cỏ, thầy hãy mua vàng
thoi, bạc nén, hương ngát, hoa tôi cúng cho vong hồn tôi mát mẻ. Thôii thầy xuống
đò cho may mắn. Mong cho thày vạn sự bình an.
Ông đặt lại tờ giấy bạc vào lòng tay bố tôi, rồi quay xe đi.
Bố tôi đứng nhìn theo, cho tới khi người và xe chìm trong đm tối. Đưới bến, có
tiếng gọi vọng lên:
- Ai đợi í í... Có đi đò dọc thì xuống.
1 ngọn đèn chai từ trong khoang thuyền được đặt ra ngoià sạp.
Cái đầu vấn khăn của người đàn bà cũng nhô lên. Bố tôi bước xuống bến.
- Nhà ông đi đâu?
Bố tôi lúng túng, rồi đáp lại 1 câu chẳng ăn nhập gì:
- Tôi dạy học.
Người đàn bà hỏi gặng:
- Dạy học ở đâu ta?
Bố tôi bảo:
- Phố huyện.
Bà ta hỏi:
- Muốn lên đò ngược hay đò xuôi?
Bố tôi đáp:
- Thế nào cũng được.
1 giọng đàn ông gay gắt trong khoang thuyền:
- Ngược cũng được, xuôi cũng được là thế nào?
Khoảnh khắc im lặng trôi qua, rồi giọng đàn ông với lên:
- Chắc là quân địa chủ, phú nông trốn làng. Có giấy tờ không?
Bố tôi đáp:
- Tôi là giáo viên tiểu học. Tôi có căn cước đây.
Người đàn bà vấn khăn gạt đi:
- Giấy má làm khỉ gió à? Đây chẳng cần giấy má gì hết. Nhà
ông ngược hay xuôi?
Bố tôi buông 1 tiếng liều:
- Ngược.
Bà ta nói:
- Hai chục.
Bố tôi bất giác buông tiếng thở dài:
- Trời ơi, cả lưng vốn chị tôi cho có 26 đồng. Xuất đò thường
chỉ 5 đồng rưỡi thôi mà.
Người đàn bà gắt gỏng đáp:
- Đò thường mặc đò thường. Nhà ông có đi không?
Chắc hẳn lúc ấy bố tôi đứng im lặng, đắn đo hơi lâu, nên người
đàn bà hạ giọng:
- Thôi, bớt cho 2 đồng. Nhà ông đưa 18 đồng rồi lên đò.
Bố tôi không còn tính thêm nữa. Ông đếm đủ 18 đồng đưa cho
người chủ đò rồi vào khoang, có 1 ông lão tóc bạc như cước với đứa cháu trai 14
tuổi. Họ ngồi giữa những bao khoai khô, im lìm như tượng. Người đàn bà chủ thuyền
xếp cho bố tôi ngồi cạnh 2 ông cháu họ rồi bảo chồng:
- Ngược.
Gã đàn ông không rõ mặt, lùi lũi bước lên sạp mũi, dóng mái
chèo. Con thuyền vẽ 1 nửa vòng tròn ướt loáng ánh sao, rồi từ từ rẽ nước đi. Đò
dọc đi suốt 3 ngày 3 đêm. 2 ông cháu nhà kia xuống 1 bến nhỏ, vào buổi chiều
ngày thứ 3. Họ đi tìm trại của 1 người bà con đã sinh sống lâu năm, bằng nghề
trồng cây trám, cây trẩu và chăn bò. Bố tôi, tuân theo ngọn gió của định mệnh,
bước xuống bến đò cuối cùng, vào lúc sao hôm vừa mọc.
Bến đò, trơ trụi 2 nóc nhà, 1 quán nhỏ bán quà, 1 ngôi lều sơ
sài vách nứa của gã khùng làm nghề đánh xe trâu. Bố tôi xin trú nhờ vợ chồng chủ
quán hàng, họ vốn người Kinh phiêu bạt lên đây từ thời kháng Pháp. Không con
cái, lại có oán thù với dòng họ, 2 người không trở về làng mà dựng túp lều ở tại
bến sông hiu quạnh, ngày gói vài chục bánh chưng cho khách qua đường. Đêm đêm
ngồi vót nan rổ đan thúng, chờ phiên chợ. Họ có 1 khi vườn rộng, trồng cây ăn
quả, cả lạc, vừng, đậu xanh, đậu đen. Mỗi thứ 1 vạt. Mùa mít, người vợ gỡ từng
thúng hạt đồ chín rồi phơi khô, cất vào chum ăn dần. Bố tôi đã ở lại với họ chừng
nửa tháng. Họ tốt nhưng tham tiền. Khi đã tiêu hết 8 đồng bạc, bố tôi không thể
cầm bát cơm của họ lên ăn, dù đó chỉ là thứ cơm ghế quá nửa sắn khô, ăn với vừng
chườm. Vả chăng, cả 2 người đều lầm lì, khóhiểu. Dường như không bao giờ họ trò
chuyện với nhau. Làm bánh, mở quán, nấu cơm, dọn cơm, bán hàng, vót tre, đan
thúng... họ như 2 cỗ máy di động dưới 1 mái lều. Ngay đến khi nhìn mặt nhau họ
cũng không nhìn. Bố tôi lờ mơ đoán rằng trong quá khứ, có 1 tội ác nào đó liên
quan tới 2 người, liên quan tới cái lý do khiến họ phải rời bỏ quê quán ở lại
đây. Quá vãng ấy liên kết họ nhưng đồng thời đào 1 vực sâu giữa 2 tâm hồn, nó
trói buộc 2 số kiếp nhưng lại chia lìa 2 trái tim. Bởi lẽ đó, cuộc sống chung của
họ ngầm chứa những nọc độc. Làn ám khí quẩn tụ dưới mái lều khiến bố tôi lo sợ.
Người đã biếu ông chủ quán bộ quần áo lành nhất rồi ra đi, đồng tiền cuối cùng
đã hết. Bố tôi mở cái gói nhỏ bố mẹ cậu học trò đưa tặng. Trong ấy, có 1 sợi
dây chuyền vàng.
- “Mạng ông là Mộc. Thủy dưỡng Mộc. Cứ theo sông mà đi...”
Nhớ lời ông xích lô, bố tôi ngược theo sông, lần lên mãi.
Vùng ấy, toàn bản người Mường. bản đầu tiên rất nhỏ, dân cư sống bằng nghề trồng
lúa nương, dệt lanh. Nhưng bản thứ 2 rất trù phú, dân Mường vừa trồng cây, chăn
nuôi gia súc, vừa buôn bè và đủ loại hàng hóa. Ở bản đó, sợi dây chuyền có giá
trị. Nó đưa bố tôi, từ địa vị của 1 kẻ lang thang làm thuê kiếm từng bữa tới địa
vị người con rể trưởng ông phó chủ tịch bản. Bố tôi dạy chữ quốc ngữ cho lũ trẻ
con nhà khá giả, hướng dẫn đám thanh niên những kiến thức khoa học mà ông có. Ở
đấy, ngoài các loại chiêng, cồng của dân tộc Mường, người ta có cả 1 cây ghi ta
và 2 cây đàn mandolin. Hồi dạy học ở huyện, bố tôi thường chơi cả 2 loại nhạc cụ
này. Vậy là, nghiễn nhiên, ông trở thành 1 bậc trí giả cao sang, 1 nghệ nhân
đáng kính trọng của bản.
Ông có đứa con trai ngay năm đầu tiên làm rể vị phó chủ tịch.
Qua năm sau, ông có tiếp đứa thứ 2. Cuộc sống cũ, với bão tố đã lùi xa. Cơn
dông mệt nhoài nằm dưới vạt cỏ ướt. Nước hồ đã lắng lại, những cặn bùn, những
rác rến, những bèo bọ. Năm tháng qua. Nhưng rồi năm thứ 6, kể từ ngày bố tôi rời
làng đi, chợt 1 gã bán hàng rong lạc tới bản Mường. Gã bán đủ loại, từ cá mắm
khô tới thuốc ho gà, cam Hàng Bạc cho trẻ nhỏ...
- Ai mua hàng xuống thang mà mua... ai mua hàng...
Gã có giọng rao hàng vui vẻ, bỡn cợt. Cứ rao 1 câu tiếng Kinh
xong, gã lại rao 1 câu tiếng Mường. Nghe vui tai, bố tôi gọi gã lên nhà. Giáp mặt,
chợp ông nhận ra gã là người làng bên, chỉ cách làng tôi 1 bờ mương.
- Ở đây, ở đây chơi vài ngày, tôi sẽ nuôi anh, tôi sẽ mua cho
anh nửa gùi hàng.
Bố tôi đã nuôi gã bán hàng như 1 thượng khách, ngày 3 bữa gà
luộc với rượu. Sang ngày thứ 2, ông thịt 1 con dê. Gã bán hàng săm sắm làm món
tái, cũng nộm rau thơm, cũng thính giã, cũng lá chanh, cũng tương chấm... hệt
cách nấu ăn dưới xuôi. Ngày thứ 3, thợ săn trong bản biếu 1 đùi nai lớn. Gã bán
hàng rong, lần đầu trong đời gặp may, cười hơn hớn. Kho chuyện tiếu lâm có bao
nhiêu, gã xổ ra hết, khiến đám trai bản cười lăn cười lộn.
Đêm khuya, khách khứa về, gã không còn bông đùanữa. Với giọng
nói âm thầm của kẻ đã từng phiêu bạt, gã kể cho bố tôi nghe những biến cố ở
vùng quê. Cải cách ruộng đất, sửa sai, phong trào đổi công, phong trào hợp tác
hóa... Gã biết cô Tâm tôi, gã cũng biết cả mẹ tôi. Lúc ấy mẹ tôi đã cầm cố 3
gian nhà, lên tỉnh sống. Câu chuyện triền miên như dòng nước. Trái tim người
đàn ông thức dậy. Cuộc sống no đủ êm ấm ở bản Mường không còn kìm giữ được bố
tôi. Tuần lễ sau, ông cùng gã bán hàng rong xuôi bè về. Từ làng quê, ông dò hỏi
được chỗ ở của mẹ tôi, lọt trong ngõ hẻm khu phố ngoại ô. Năm ấy, mẹ còn xuân sắc,
con mắt không liếc ai, miệng không cười với ai. Tình yêu của họ thức dậy. Như
đám cháy sau hồi âm ỉ được dội thêm dầu. Khoảng thời gian xa cách, nhớ nhung và
hờn tủi, nỗi oan khiên của đời sống và sự cay nghiệt của hoàn cảnh. Tất cả như
những âm thanh dồn tích lại, cùng lúc cộng hưởng, rung động tới từng tế bào. Bố
mẹ tôi đã yêu thương nhau, ăn ở với nhau trong căn nhà vá víu tồi tàn ấy. Và đẻ
ra tôi...
Chương 6
Chợt tàu rú lên hồi còi. Nó dứng lại đột ngột khiến tôi bị xô
về phía trước. Người đàn ông giơ tay đỡ tôi lại, rồi nhăn mũi cười. Những chiếc
răng bạc lấp lánh. Nhờ ánh lấp lánh ấy, tôi biết trời đã tối. Giọng hát của
Pugatrôga ngân lên lần cuối, rối tắt hẳn. Người đàn ông tắt máy cassette, bỏ
vào túi đi đường. Ông ta vươn vai ngáp liền vài cái, duỗi đôi chân dài như chân
ngỗng. Bên ngoài, trời tím ngắt. Những thân bạch dương kẻ vệt trắng trong đêm tối.
Vài cây bồ đề ngã bóng um tùm trên mặt đất vươn qua bờ rào gỗ thấp và những gò
đất nhỏ nở chi chít 1 loài hoa ánh bạc. Ngôi nhà cô lẻ, mái chóp nhọn có ống
khói, trong ánh chiều chạng vạng, u hoài. Nó gợi cho tôi biết bao ẩn ức về quá
vãng, quá vãng của chính tôi, của cha mẹ tôi, bạn bè thân thiết của tôi, xứ sở
của tôi. Cái quá vãng mỗi con người từng trải nghiệm hoặc liên đới với nó bởi 1
sợi dây thấm sâu của máu huyết và nòi giống. Con tàu vẫn chạy, nhưng ngôi nhà lẻ
loi bên hồ vẫn ám ảnh tôi. Tôi lại nhớ mảnh đầm ướt đỏ hoàng hôn nơi làng quê,
trong những chiều mẹ đưa tôi đi thăm họ mạc. Tuy đã ra thành phố, mẹ tôi giữ
nguyên tục lệ của dân làng. Đi xa về, phải có gói bánh, hộp chè biếu bà con gần
xa, phải thăm hỏi mọi người và kể chuyện mình. Tôi có nhiệm vụ cúi chào người
làng, gật đầu vâng dạ thật to khi họ hỏi chuyện, nhớ mối quan hệ trong gia tộc
để khỏi lầm lỡ khi xưng hô. Có người ít hơn tôi dăm ba tuổi nhưng tôi phải gọi
bằng cô. Có người hơn tôi hai ba chục tuổi lại cung kính gọi tôi là chị... Tất
cả đều khiến tôi bỡ ngỡ ngại ngùng. Nhưng phong cảnh nơi thôn mạc lại thân quen
với tôi mau lẹ. Ngay buổi đầu tiên, tinh mơ thức dậy, rón rén đi giữa những vòm
cây ướt sương, tôi rình con chim chích chòe có tiếng hót chang chói. Tôi rình
những quả ổi chín bị chim khoét rụng. Tôi đã mê mải ngắm không chán mắt lũ chim
thân ái, khi chúng rỉa lông cho nhau, khi chúng quên những khẩu cao su của lũ
trẻ tai ác hoặc nòng súng ghém của gã săn chim tham lam, cõi đời chỉ còn tồn tại
trong niềm trìu mến. Giữa bụi mây và gốc khế già, tôi ngồi thu lu trong bóng
râm, nhìn con kì nhông bò trên những cành mây xanh mướt, sắc da nó đổi từ màu
nâu mốc thếch sang màu lục của cỏ cây. Các bụi hoa móng rồng lúc nào cũng tỏa 1
mùi hương lạ lùng, kì bí. Nhất là ban trưa, khi không khí bị mặt trời hun nóng.
Ai kẹo mạch nha đổi tóc rối, lông gà, lông vịt đây?
- Ai kẹo mạch nha đổi mảnh kính vỡ, nồi đồng nát át... át...
Tiếng rao vọng qua các xóm ngõ, xen tiếng tre kẽo kẹt. Người
đàn bà gánh gánh hàng đồng nát đi qua, đôi mắt lấp dưới vành nón, 2 bàn chân lấm
lem bụi cát. Tôi hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, hồi mẹ còn bé có bà hàng đồng nát này không?
- Có. Nhưng bà lão ấy đã chết rồi. Còn bà hàgh đồng nát bây
giờ là cô con gái đầu của bà lão ấy.
Tôi nhìn mãi bàn chân của bà ta, to bè, sần sẹo và có những vệt
đen lấm tấm như than bột rắc lên. Trước đây vài chục năm, cũng đã có 1 bà lão
gánh gánh hàng lem luốc này, bước qua các lối xóm này, với đôi chân trần như thế.
- Mẹ ơi i i...
Tôi níu vạt áo mẹ định hỏi. Nhưng lại im lặng. Mẹ cúi xuống:
- Em bảo gì cơ?
- Không ạ.
Tôi đáp lúng búng. Thực ra, tôi định hỏi mẹ rằng liệu mấy chục
năm nữa, tôi có sống cuộc sống của mẹ bây giờ không? Nhưng tôi sợ. Cảm giác sợ
hãi chạy qua sống lưng, lạnh buốt. Lần nữa, tôi thấy mẹ cười. Hàm răng đẹp ánh
lên 1 cách phí hoài. Rồi mẹ bảo tôi:
- Con chó con, chưa già đã lẩn thẩn. Thôi, đi ra sân mẹ tắm
cho rồi còn sang nhà cô Tâm. Cô vừa đi tỉnh Nam về, cho người sang nhắn.
Mẹ tắm cho tôi kĩ lưỡng, mặc bộ áo quần đẹp nhất, tức là chiếc
sơ mi trắng cổ cánh nhạn và chiếc quần âu bằng vải chéo xanh Trung quốc, có dây
đeo. Kể ra, so với lũ trẻ làng, ăn mặc như thế đã là tinh tươm lắm. Từ nhà tôi
sang nhà cô Tâm chỉ vài trăm bước. Cổng mở toang cả 2 cánh, 1 bà già đang ngồi
tuốt lạc bằng cặp néo tre bên trong. Thấy mẹ con tôi, bà ngẩng lên:
- Dì đưa cháu vào chơi. Bà Tâm chờ trong nhà rồi đấy.
Nói đoạn. bà đưa mắt ngắm nghía tôi, tuồng như người ta ngắm
1 cái bình quí trước khi mua:
- Chao ơi, giỏ nhà ai quai nhà nấy, giống bố quá hề. Thế này
thì bà Tâm quí hơn vàng.
Mẹ tôi cười, mắt sáng rỡ:
- Vâng, tạ ơn bà.
Mẹ dắt tôi vào sân. Sân rộng, lát gạch vuông khía lá nem,
trong sang trọng nhưng khác với sân mọi nhà trong xóm. Họ thường lát gạch hoặc
láng xi măng trơn nhẵn để phơi thóc. Bên trái sân là 1 tòa nhà kiểu mới, quét
vôi vàng nhạt, phía trước có trụ chống hiên rộng, trên đổ mái bằng. Bên phải
sân là bức tường hoa chạy dài, án ngữ tòa nhà 3 gian, phân cắt sân với 2 dãy
cau. Đằng sau 2 dãy cau là vườn quả, lấp ló hồng xiêm và cam chiết. Khu nhà phụ
rất lớn, nằm phía sau mảnh sân, ở bên trái tòa nhà chính. Giữa khu nhà phụ với
vườn cây là mái chòi lợp bằng tôn, che cái giếng xây. Có cả trục quay nước, sợi
dây nối với chiếc gầu tôn lớn đặt ngay trên nắp giếng. Toàn bộ khu nhà gợi cho
tôi cảm giác bề thế, khang trang nhưng nghiêm ngặt. Tất cả đều sạch sẽ, ngăn nắp.
Tất cả đều được tính toán 1 cách cẩn trọng. Nhưng lạnh lẽo và nghiệt ngã. Giữa
khoảng sân rộng là chậu hoa đinh lăng trơ trọi.
Cánh cửa chính bỗng mở. 1 người đàn bà nhanh nhẹn băng qua
sân, tới trước mặt chúng tôi:
- Nó đây phải không?
1 giọng nói trầm, và nghẹn, khiến tim tôi lặng đi. 1 đôi mắt
mở rộng, đau đáu nhìn như muốn xuyên qua thân hình tôi. làn môi khô mím chặt,
nhưng từng hồi run rẩy:
- Nó đây à, cô Quế?
Mẹ tôi đáp lại, cũng vẫn giọng nghẹn ngào:
- Cháu đấy, chị ạ.
Rồi mẹ bảo tôi:
- Con chào cô đi.
Tôi không dám nhìn thẳng vào đôi mắt sáng rực của cô, cất tiếng:
- Cháu chào cô ạ.
Cô Tâm bỗng quì xuống, mặt cô gần sát với mặt tôi. Tay cô rờ
từ tóc, xuống thái dương, lướt qua khuôn mặt, xuống vai tôi, dường như muốn tìm
kiếm gì đó. Ngón tay cô nhỏ, nhưng cứng và nháp. Mắt cô rực như 2 ngọn đèn, tôi
có cảm tưởng là chúng rọi tới từng sợi mi, từng mụn ruồi li ti trên gương mặt
tôi, sục sạo. Nhưng thái độ kì quái đó không làm tôi bực. Tôi biết cô là người
ruột thịt, cây cầu nối giữa tôi và bố tôi, 1 tình yêu tôi chưa kịp biết đã vĩnh
viễn chôn vùi trong bùn đất. Vì thế, tôi đứng yên cho cô rờ rẫm, vuốt ve. Khuôn
mặt héo úa của cô chắc chắn bình thường rất nghiệt ngã, bỗng trở nên đờ đẫn,
ngơ ngác. Cô lắp bắp:
- Hạt máu của... Cháu tôi...
2 giọt nước mắt trào qua mi, lăn trên gò má đã sạm từng mảng.
Những vết sạm, lẫn những chấm tàn nhang trên má cô khiến tôi phải cúi đầu xuống.
Rồi chợt như tự trấn an, cô Tâm đứng lên:
- Thôi, 2 mẹ con vào nhà.
Cô thoăn thoắt đi trước. Dáng người cô gầy, dẻo dai. Gương mặt
cô trở lại vẻ lạnh lùng. Môi mím chặt. Tôi nhìn những vết nứt nẻ trên gót chân
cô, và bị hút vào đó. Những vết nứt sâu như chẻ 2 gót chân ra nhiều mảnh, khiến
chúng biến dạng, xấu xí. Dáng đôi bàn chân của cô khá dẹp, thon nhỏ, gót tròn.
Nhưng sự tàn phá của công việc lao động nặng nhọc, của thời gian đã khiến vẻ đẹp
ấy bị hủy hoại tàn nhẫn. Giờ đây, mặc dù cô đã sung túc, cô đi đôi dép bằng nhựa
trắng, thứ nhập của Thái Lan, thật xa xỉ so với đám phụ nữ ở nông thôn, nhưng dấu
vết nhọc nhằn vẫn không che dấu được.
- Cô cho cháu ngồi vào mâm. Tôi lấy chai rượu.
Cô bảo mẹ tôi, giọng uy quyền của bà chị. Ngay gian nhà bên
trái, 1 cái sập gụ chân quì kê sát tường. Màu gỗ đen bóng như sừng. Những hình
vẽ hoa lá khảm trai chạy dọc theo mép. 4 góc, là 4 chùm nho lớn khảm bằng thứ vỏ
ốc ngũ sắc. Cái phản đẹp đến nỗi tôi ngại ngần không muốn ngồi lên đó. Tôi hình
dung thứ đồ vật quí giá như thế chỉ nên đặt trong các phòng triển lãm hoặc nhà
bảo tàng. Dường như biết được ý nghĩ ấy, cô Tâm giục:
- 2 mẹ con ngồi vào mâm.
Tôi thầm kinh ngạc. Cô là phù thủy chăng, dù quay lưng đi cô
vẫn đọc được í nghĩ của tôi 1 cách rõ ràng. Cô bước tới gian giữa, nơi bàn thờ
sáng choang những lư đồng lớn, lư đồng con, các bộ chân đèn, tượng Phật. 2 cây
nến đỏ cháy 2 bên. 1 mâm ngũ quả đồ sộ đặt chính giữa. Phía sau, các hộp bánh,
các loại rượu. 1 bình hoa huệ trắng thơm ngát. Cô Tấm lần lượt điểm các chai rượu
chanh, rượu cam, rượu Thanh Mai, rượu cà phê... Sau cùng, cô bảo:
- Ta uống nếp cẩm. Nếp cẩm tôi cất lấy cô Quế ạ. Cho cháu Hằng
uống được.
Cô sắp những chai rượu lại rồi mở khóa cửa vào gian buồng bên
phải, được xây chắn với gian chính bởi bức tường. Lát sau, cô bê ra 1 bình thủy
tinh lớn, chứa thứ rượu nếp cẩm đặc sánh như hồ. Khệ nệ đặt chai rượu lên bàn
nước, cô tìm cái phễu và 1 vỏ chai không, chắt rượu từ bình ra. Xong xuôi, cô bảo:
- Nào, cô Quế so đũa.
Mẹ tôi lật lồng bàn lên. Mâm cỗ đầy tu ụ như cỗ ngày Tết. Gà
luộc, gà rán, giò lụa, chả quế, nem thính, nộm, măng, miến xào... Mẹ tôi bật
kêu lên:
- Sao chị bày vẽ thế này? Còn những ai nữa?
Cô Tâm đáp:
- Ai vào đây? Chỉ mẹ con cô với tôi thôi. Bà Đũa ăn trước khi
cúng. Bà ấy không chịu được dói.
Cô nói, môi hơi mỉm cười. Tôi không hiểu nụ cười đó. Nhưng nó
ẩn chứa sự khinh miệt. Vén 2 ống quần lụa đen, cô ngồi lên phản:
- Nào mẹ con cô cầm đũa lên.
Mẹ tôi lần lượt so đũa cho từng người. Cô Tâm rót rượu ra những
chiếc chén sứ nhỏ như mắt trâu, loại chén xưa người ta dùng uống trà ướp sen buổi
sớm.
- Hôm nay cô đưa cháu về chơi, tôi làm mâm cơm cúng gia tiên
và khấn hương hồn chú ấy. Mong sao cho mọi vong linh được mát mẻ, phù hộ độ trì
cho cháu Hằng.
Tôi bối rối. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình có 1 vị trí quan trọng
như thế. Cô Tâm giơ tay chỉ lên bàn thờ, bảo tôi:
- Đáng lẽ cháu phải khấn trước vong hồn tổ tiên và bố cháu.
Nhưng cô làm lễ sớm, vả lại cháu còn nhỏ nên cô khấn thay. Dăm ba năm nữa,
thành người rồi phải nhớ mà lo giỗ Tết.
- Thưa cô vâng ạ.
Tôi đáp. Cô hài lòng, nói tiếp:
- Cháu biết nghĩa, cô mừng lắm. Đời cô, đời bố cháu không
hoài hủy. Cô mất mát nhiều, thua thiệt nhiều so với thế gian. Nhưng bây giờ, cô
chẳng tiếc đời. Nào, cháu uống đi.
Tôi nâng chén rượu. Rượu đặc sánh, màu tím đỏ, trong ráng chiều
ánh lên, như 1 thứ máu. Lòng thi thoáng qua nỗi lo âu. Những giọt rượu nếp ngọt
lừ, nuốt xong rồi còn đọng lại vị cay và tỏa ra mùi thơm rạo rực, phấn khích.
Nhưng tôi thấy trong mỗi giọt rượu ấy, 1 lời nguyền sâu xa, cay độc, giống như
lời nguyền thiêng liêng của những bộ lạc da đỏ xưa, sống trong khoảng rừng âm
hiểm.
Trời chiều, tiếng người đi đồng về dong trâu trên các ngả đường
thôn. Tiếng những người đàn bà quát nạt, mắng chửi con cái:
- Thằng Tí, thằng Tèo đâu rồi, về ngay đây không chết với tao
o o...
- Cha tiên nhân con đĩ Lan, cả đống bèo lù lù như mả thằng ăn
mày ngoài bờ ao, mà mày còn chải đầu chải tóc hả ả ả...
Tiếng vo gạo, vỗ rá đồm độp. Tiếng người giặt giũ bì bòm
ngoài ao, tiếng la hét của trẻ đang bơi lội. Mùi khói rạ, mùi gai bồ kếp cháy lẫn
trong những đống trấu dấm, mùi phân trâu tươi hăng xè, mùi ổi chín nẫu trong
các khu vườn ấm nóng. Tất cả hòa trộn với nhau, mỗi lúc mỗi nhạt, theo những
ráng mây chiều hôm. Cuối cùng, bóng tối lan trên các ngả đường, thôn xóm chìm
vào 1 khoảng không gian êm ả. Tất cả những âm thanh eo sèo, ỉ óc lắng xuống, tựa
gợn bùn lắng xuống đáy hồ. Vòm trời trở nên thanh khiết. Các ngọn tre đu đưa rì
rào, ban phát cho thế gian giai điệu vô cùng vô tận du dương và tĩnh lặng, giai
điệu không hòa trộn, không đổi thay của những vùng quê an nhiên, nơi mọi giông
tố chỉ khuấy động các lớp nước, xáo trộn bùn nhơ vào bèo bọt trong chốc lát, để
rồi cuối cùng còn lại mảnh đầm xưa cũ, với tiếng ếch nhái vang động trong bóng
chiều, tiếng côn trùng nỉ non lúc canh khuya, tiếng chân trâu, chân người bì
bõm trên các cánh ruộng lúc rạng đông.
- Ra sân uống nước cho mát. Cô Quế xách cho chị phích nước, Hằng
bưng cho cô bộ ấm chén trên bàn.
Cơm xong, cô Tâm phân công 2 mẹ con tôi. Còn cô mỗi tay xách
2 cái ghế gỗ cẩm lai, đem ra sân. Những sợi gân và các thớ thịt nổi thăn trên 2
cánh tay rám nắng của người đàn bà. Cô bước qua bậc tam cấp, nhẹ nhàng không để
các thân ghế va đập. Rồi cô đặt chúng giữa sân, cũng nhẹ nhàng như thế. Chỉ sức
lực của những người đàn ông thực thụ mới sánh nổi sức lực của cô tôi. Cô đưa
tay vuốt nhẹ mấy sợi tóc vương trên trán, ngồi xuống ghế:
- Chè tôi ướp hoa nhài. Vẫn bụi nhài ở giáp tường hoa. Ngày
cô chú cưới nhau cũng pha chè ướp hoa nhài ở đấy.
Mẹ tôi hỏi:
- Từ dạo ấy mà bụi nhài vẫn còn dưới chân tường hay sao?
Cô Tâm nhếch mép, không ra cười, không ra mỉa mai:
- Tôi mới gây, cùng năm xây lại nhà này.
Mẹ tôi nhẩm tính:
- 5 năm... À, để em xem... ngót nghét 5 năm, phải không chị?
Cô Tâm đáp:
- 5 năm 2 tháng rưỡi.
Cô rót nước. Mùi nhài tỏa trong không gian, điệp với hương
cau, với mùi thơm của những đóa hồng, tường vi phía sau vườn cam. Cô tôi khoanh
tay trước ngực, bắt chéo chân lại rồi kể:
- Hồi cải cách, cô biết đấy, ngôi nhà này chia làm đôi, 1 nửa
cho thằng Bích, nửa cho con mụ Nần. Chúng đuổi tôi ra cái lều của vợ chồng thằng
mõ, kề với đình làng. Trong tay chỉ có 3 sào ruộng xấu, trâu không, bò không,
cày bừa không. Bòn được vài chục bạc đưa cả cho chú Tốn. Nhiều đêm không ngủ,
tôi ngồi nhìn đám ruộng trắng, nước mắt ứa 2 hàng. Giá cứ đâm đầu xuống giếng
làng là rảnh chuyện. Mà duyên nghiệp ma quỷ đưa đón, ngày nào cũng dăm sáu bận
đi qua cái giếng trước cửa đình. Nước trong leo lẻo cứ như mời gọi. Soi mãi
bóng xuống mặt nước, tôi lại nghĩ: “Chết thì khỏe xác, nhưng mà hèn. Những kẻ bức
hại mình, nhăn răng cười trước mộ. Phải sống, để nhìn ngày tận mạt của chúng.
Phải sống, để xoay ván cờ với Trời già.” Hồi ấy, tôi còn cặp áo lụa mỡ gà mới
nguyên, chưa xỏ ống tay. Tôi đem sang chợ huyện bán, lấy tiền mua 2 gáng khoai
sọ. Hết thóc, ăn khoai sọ mát ruột, đủ sức làm đồng từ buổi mai tới quá trưa.
Tôi đi cấy cho người ta, 5 công cấy xin đổi 1 công cày. Cày bừa xong, tôi sục
ruộng cho nhuyễn như bột bánh trôi rồi mới cấy. Lúa kín ruộng quay ra lo phân.
Chịu đổ mồ hôi, ruộng chó ỉa cũng thành ruộng nhất đẳng điền. Lúa lên xanh, tôi
cắp nón sang thôn Hà làm thuê cho bà cô họ
Bà cô tôi có nghề làm miến bằng củ rong riềng. Hồi ở làng, cô
thấy rong riềng chỉ để ăn độn những ngày đó kém. Không ai ngờ rằng mài rong, lắng
bột, tráng như bánh đa rồi phơi khô thái nhỏ, nó trở thành 1 thứ miến sợi sai,
trong suốt, nấu rất ngon. Dạo mới làm thuê, ngày nào tôi cũng ôm cối đá vành to
như chiếc mẹt, ngồi quay bột lại. Bột rong riềng mài và lọc rồi, phải xay thêm
cho nhuyễn. Sau tôi học được cách lắng bột, cách pha thuốc tẩy cho bột trắng,
cách tráng và thái bánh thành sợi nhỏ. Tiền công dành dụm được, tôi mua 1 bộ đồ
nấu và vài tạ rong riềng làm vốn đầu tiên. Mò mẫm cả tuần học nghề mộc, tôi
cũng tự đóng được cái trục mài rong riềng quay tay. 1 mình, vừa làm bột, tráng
bánh vừa thái thành sợi, đưa giao hàng lên chợ huyện. Tôi kiếm được món tiền
kha khá. Dịp ấy, rong riềng rẻ thối ra, tôi mua luôn 2 tấn, chứa đầy nhà. Không
có chỗ kê chõng, đêm tôi vác manh chiếu ra đình làng ngủ. Có đồng tiền nào dắt
kỹ trong bụng, còn dao phay mài sắc kê dưới gáy phòng thân, cứ thế, đặt lưng xuống
là tôi ngủ cho tới bảnh sáng, không biết sợ hãi gì.
Chịu khó làm cho hết 2 tấn rong riềng, lưng vốn tôi đã nặng.
Tôi mua 1 cái máy ép miến, thay cho cách thái khó nhọc, lại tốn thời gian. Cả
huyện, lúc ấy chỉ có 3 chiếc máy ép. Thuốc tẩy đang rẻ, nhân công đang rẻ, tôi
thuê người tiếp tục làm miến còn mình vác liềm ra ruộng cắt lúa. Mùa ấy, lúa của
tôi tốt nhất làng. Hết mùa lúa, đội sửa sai về. Họ quy lại phần gia đình tôi là
trung nông, trả lại nhà và 5 sào ruộng tốt.
Hơn 1 năm trời, tôi mới lại đặt chân vào ngõ nhà mình. Xưa
kia, có mẹ, có em. Giờ, 1 thân thui thủi. Ngôi nhà xưa khang trang, sạch sẽ. Giờ
tan hoang như mồ vô chủ. Gã Bích và mụ Nần đã phân chia ranh giới bằng tấm phên
tre. Mỗi đứa chiếm 1 gian rưỡi. Khu nhà ngang và bếp, chúng cậy gạch, đập tường
bán ăn ngay từ hồi đầu tiên. Rồi mỗi đứa nhóm 1 cái bếp con bằng 3 hòn gạch vỡ
ngay trong gian nhà ở. Người nằm trên, gio trấu, khói than, muội bay bên dưới.
Rồi ngan ngỗng nuôi không chuồng, ỉa vãi cùng nhà, cùng sân. Khi tôi nhận nhà,
lớp gạch lát sân và lát khu nhà ở cũng đã bị cạy nham nhở, cả 2 đứa đều kịp bán
vét trước khi buộc rời đi. Bỏ ra 3 ngày dọn dẹp, tôi thu xếp nhà cửa cho gọn
gàng rồi chuyển đồ lề làm miến và khoai riềng về. Những người làm công cho tôi
đã trở về nhà. 1 mình 1 máy mài, 1 nồi nấu, 1 máy ép, tôi làm thâu đêm. Canh 3
chưa nằm, canh 5 đã thức. Đầu tiên còn thèm ngủ, sau quen mắt cứ trơ trơ như mắt
tương gỗ. Xưa kia, chưa bao giờ tôi ham làm giàu đến thế. Cô biết đấy, hồi còn
mẹ, cụ vẫn bảo tôi hay lam hay làm, nhưng không có máu tham tiền.
Khi công việc nông tang rảnh rỗi, tôi hay rủ mẹ đi lễ chùa hoặc
đi hội. Hội chùa Hương, hội chùa Thầy, hội Gióng, xa xôi mấy cũng tìm đường đi.
Không lễ lạt, hội hè, không biết tới cả ngày rằm, mồng 1. Trống chèo đánh nhức
đình làng cũng mặc, văn công tỉnh về diễn trên phố huyện, người ta rủ nhau đi từ
bữa cơm chiều tôi cũng bưng tai làm ngơ. Ngày nắng đổ lửa, cho tới ngày mưa chết
cò, tôi vẫn trần lưng ra làm việc. Vừa lo cấy lúa, vừa lo đổ đất bứng cây vườn,
vừa làm miến bán. Chẳng lúc nào ngơi tay. Đá còn có lúc đổ mồ hôi, vậy mà 5 năm
liền tôi không ốm. Cũng lạ cho con người.
Cô ngừng lại. Trong ánh chiều chạng vạng, mắt cô rực lên như
than. Mẹ tôi rót nước cho cô. 2 người cùng thong thả uống chè, im lặng. Nhưng
khoảnh khắc ấy chỉ là 1 dấu ngừng trong bản nhạc. Tia lửa lóe lên trong 2 hố mắt
sâu, cô Tâm nhìn hàng cau thẳng tắp bên kia tường. Chúng in vào trời đêm, những
đóa hoa đen kì bí. Bỗng nhiên, cô dằn mạnh chiếc chén cầm trong tay xuống khay
nước, rồi cô nói:
- Tôi muốn tôi phải giàu có. Ngôi nhà của tổ tiên phải được
tu tạo khang trang hơn xưa, cho người đời mở mắt. Giá cần xé xác mình ra, tôi
cũng làm, miễn đạt được điều tôi ao ước. Cô thấy đấy, tôi đã xây ngôi nhà này,
bức tường hoa này, trồng lại dãy cau, gây lại bụi nhài. Vườn ổi xưa phá đi thay
bằng cam đường và hồng xiêm. Tới mùa, dân buôn từ trên tỉnh về tận nơi, thầu cả
vụ. Thềm nhà tôi, đổ 3 khối đá, cao nhất làng. Gạch lát nền là gạch hoa loại 1
gửi mua từ Hà Nội. Bộ sa lông cẩm lai, tôi cũng đặt của 1 tay phó giám đốc nông
trường cà phê Buôn Mê Thuột ở làng bên. Gạch lát sân là gạch lá nem dùng lát hè
phố, chỉ cung cấp cho các công trình đô thị. Người làng bảo bà Tâm chơi ngông.
Tôi gật đầu: “Phải, chơi ngông cho bõ những ngày khổ ải.” Nhà cửa, sân xướng
xong xuôi tôi thuê thợ đồng đúc lại toàn bộ thứ đồ thờ gia bảo ngày xưa, bọn thằng
Bích mụ Nần đã lấy. Bọn người ấy, bán tống bán tháo tất cả mọi thứ đồ quí giá
đi, chỉ để đổi lấy 1 cút rượu, 1 bữa thịt cho sướng miệng. Cô biết, người ta đã
có câu “Nhà giầu ham mần, nhà bần ham ăn...” Chúng nó khá được lên đâu. Những kẻ
không dám chịu đói 1 bữa để tát cố cho đầy ruộng nước, không dám mất 1 đêm ngủ
để cày cho kịp mùa cấy. Thằng Bích bạt xuống tận thôn Đông, sống lay lắt ở đó.
Còn mụ Nần vẫn ở cuối làng, ngày mai tôi dẫn cô tới xem. Nó ụ ra như 1 cái bị
thịt, ăn mặc rách rưới bẩn thỉu, nhà dột tứ bề không đánh nổi tấm tranh lợp mà
túm ni lông lên che. Nhưng thôi, nghĩ cho cùng, bọn người ấy chẳng đáng chấp
làm gì. Cái thằng đáng căm là thằng Chính. Giờ nó ở đâu?
Mẹ tôi đáp, giọng ấp úng:
- Cậu ấy ở Quang Ninh, hình như đang xin chuyển về Hà hội.
Cô Tâm hỏi:
- Nó vẫn tới nhà cô à?
Mẹ tôi đáp:
- Chín mười năm bặt tin tức. Tháng trước, cậu ấy mới tìm đến
chỗ em. Cậu ấy cần tới số tiền bán nhà.
Cô Tâm nói:
- Nó không dám vác mặt về làng. Những người oan ức, người ta
rạch mép ra.
Mẹ tôi khẽ nói:
- Cậu ấy phải nghe lệnh cấp trên.
Cô Tâm đáp:
- Cấp trên ra lệnh thế họ đã chẳng phải sửa sai. Nhưng tại
sao cô còn bênh nó chằm chặp như vậy? Cô có biết vì cớ gì chồng cô chết hay
không?
- Em sinh cháu được 2 tháng, nghe tin nhà em ngã nước sốt
rét. Không đưa kịp xuống tỉnh.
Cô Tâm ngắt lời mẹ tôi, nóng nảy, đột ngột:
- Phải, ốm chết. Cái lý ấy lừa người ta dễ nhất. Hồi đầu, tôi
cũng bán tin bán nghi, nhưng đành chấp nhận. Năm ngoái tôi sang làng bên đặt
người khảm lại cái phản, tình cờ gặp 1 người bán hàng rong. Chính anh ta đã lên
mường chú Tốn ở, kể mọi chuyện trong làng ngoài xã. Rồi về đây. Tôi đã cho chú ấy
địa chỉ của cô. Hồi cô sắp ở cữ cháu, chú ấy trở lên, toan thu xếp với người vợ
Mường để về xuôi 1 thời gian nuôi cô và cháu Hằng. Nhưng người đàn bà kia không
chịu. Chắc chắn giữa 2 người có cãi vã hoặc xô xát. Chắc chắn người đàn bà kia
đã sỉ nhục hoặc dày vò chú Tốn. Nó là em tôi, tôi biết. Nó có thể chịu đói, chịu
khát, chịu rét nhưng không chịu được nhục. 1 buổi sớm nó bỏ vào rừng, rồi 2 hôm
sau, người trong mường đi săn tìm thấy xác nó ven bờ suối. Đúng hôm ấy, cái anh
bán hàng rong tới, và chứng kiến cảnh người ta đưa xác nó về làm ma...
Cô ngừng lời. Mẹ tôi cúi mặt, khóc sụt sịt. Mẹ móc túi tìm
mãi không thấy mùi xoa, liền đưa ống tay áo gạt nước mắt. Cô Tâm nói tiếp:
- Nếu em cô không đối xử với nó tàn tệ, làm sao nó phải bỏ
làng ra đi, làm sao nó phải chịu kiếp sống lang bạt, làm sao nó phải chết oan
khốc như vậy? Không, tôi không chịu được. Nếu cô còn nhìn mặt cái kẻ đã giết đứa
em trai tôi.
Mẹ tôi nức nở. Hồi lâu, mới cất được lời:
- Em xin chị, em lạy chị, oán thù chỉ nên cởi đừng nên buộc.
Cô tôi im lặng, không đáp. Mắt cô nhìn trừng trừng vào vườn
cam. Giờ ấy, các vòm lá đen kịt, không còn rõ hình thù, chỉ còn những khối đen
nặng nề chồng chất lên nhau. Trong đám bóng cây dày đặc, 1 con đom đóm bay ra,
lượn vòng, rồi mất hút. Cô Tâm chợt cười lên tiếng, cười gằn, rất khẽ, nhưng
khô rợn người:
- Sao dễ dàng thế được? Còn mẹ tôi, lúc chết đi bà cụ gọi tên
đứa con trai, nước mắt trào ra mà mắt không nhắm được. Còn bao nhiêu...
Cô chợt im bặt vì nghẹn lời. Tôi ngồi im lặng trong bóng tối,
không dám thở mạnh, vì cảm thấy những hơi thở nóng hổi, dồn dập của người đàn
bà ngồi bên lan truyền. Người ấy chung máu huyết với máu huyết của tôi. Người ấy
là 1 phiên bản đã thất lạc của cha tôi. Người ấy đã tự tắt đi ngọn lửa sống, những
vui buồn, nhớ nhung, thương cảm, tình yêu, sự sinh nở, hạnh phúc và nỗi đau của
cuộc sống trần gian. Người ấy đã biến thành cỗ máy của ý chí phục thù, chỉ còn
vận hành vì mục tiêu đó, nghiền nát tất cả mọi vật cản trên đường đi. Đôi mắt
sáng rực như 2 hòn than trong hốc mắt thâm quầng. 2 gò má nhô cao với những vất
sạm, những đám tàn nhang. Những nếp nhăn chân chim sau đuôi mắt. Món tóc bạc lấp
giữa những món tóc khô xác, chẳng ra đen cũng chẳng ra màu hung...
1 ngôi sao rơi xuống, vạch lửa nơi chân trời. Con đom đóm ban
nãy lại nhào từ bóng tối ra, lượn vòng quanh sân rồi biến sau bức tường. Hương
thơm của những đóa tường vi dâng lên, ngập tràn không gian, như 1 thứ nhựa dính
kết, dung dịch không sắc màu nhấn chìm con người trong làn nước nhức nhối âu
lo...
Chương 7
Người đàn ông ngồi bên tôi bỗng ngáp rất to. Ông ta không buồn
giơ tay che miệng, rồi nhắm mắt lại, ông ta gối đầu lên chiếc áo va rơi vắt
trên thành ghế mà ngủ. Tàu đang chạy qua 1 một thị trấn không tên. Chỉ có vài
ba dãy phố, với cây cầu ngắn. Con sông nhỏ như 1 lạch suối, mất hút trong bóng
đêm. Đám cỏ ven bờ in xuống những vệt đen ngoằn ngoèo. Lát sau, con tàu đã bỏ lại
ngọn đèn cuối cùng của dãy phố xép. 2 bên đường ray, lại là những cánh đồng phẳng
lặng, trải dưới ánh bạc của tinh tú. Giống 1 vùng biển nhợt nhạt. Biển u buồn.
Phong cảnh nào rồi cuối cùng cũng đến như nhau. Cái đông đầu tiên trên đất Nga
tôi đã đứng 6 giờ đồng hồ liền bên khung cửa sổ nhìn tuyết rơi. Trời rét. Nhưng
các tấm cửa kính trong suốt, tôi dán mắt vào đó, nhìn 1 thế giới của hoa phù
dung bay lượn, tuôn chảy, làm ngập mặt đất bằng sắc trắng tinh khiết và lạnh lẽo,
làm cho những tâm hồn trở nên e ngại và mềm yếu, làm cho những cơn cuồng vọng của
con người nguội bớt, cô đặc lại, được lọc cho tinh sạch hơn. Trong khi đó, nắng
như bay cao lên, sáng nhẹ, rực rỡ như vàng lỏng, chói lói và mỏng manh như giấc
mơ thời thơ ấu. Khung cảnh ấy làm tim tôi đau nhói. Cái gì thái quá cũng làm
con người đau. Hồi nhỏ, tôi đã trải qua cơn đau ấy 1 lần. Ngày đó, mẹ tôi đưa
tôi đi lễ ở Côn Sơn. Trên đường về, xe vòng qua Bãi Cháy. Tôi ngồi ngủ gà ngủ gật
trong tay mẹ. Chợt ôtô đỗ, và 1 giọng nói vang bên tai:
Tỉnh dậy đi em, tới nơi rồi.
Tôi dụi mắt, choàng dây. Ngay tức khắc, vịnh Hạ Long hiện ra.
Biển lặng trong sương, không 1 gợn sóng xao, không 1 cánh buồm, không tiếng rì
rào của cây lá, không tiếng thì thầm của sóng nước. Sự im lặng không cùng ngưng
đọng trong không gian màu lam. Những trái núi giống những thỏi mực đen in xuống
mặt nước. Chúng giấu trong nỗi trầm mặc đen của chúng muôn ngàn huyền thoại, những
uẩn khúc lịch sử, những chứng tích câm lặng u uất, những châu báu ngà ngọc bị
chôn vùi. Các vòm cửa hang ngó nhìn cõi đời với con mắt chột độc địa. Trong mỗi
con mắt ấy, lưu trữ 1 ngàn hình ảnh của các anh hùng đã tử vong, của các trí
nhân bị ám hại, của các tên cướp sống cuộc đời hoang dã sầu thảm. Nơi chân trời,
bị phân cách bởi các trái núi cô lẻ, làn mây ngọc thạch vắt ngang. Ấy là màu
mây của buổi lê minh. Tôi nhìn mãi làm mây đó, như 1 chiếc vòng ngọc khổng lồ
ai ném xuống thế gian. Màu xanh lá non trộn lẫm màu khói, được lọc bởi ánh trời,
đẹp như thế chỉ có 1 lần trong vũ trụ. Phải, chính vì cảm nhận vẻ đẹp ấy, trái
tim non nớt của tôi đã đau, dù tôi chẳng hiểu duyên cớ.
Bây giờ lại tuyết trắng xứ người. Cái đẹp không có biên giới,
cái đẹp thống trị với quyền uy như nhau. Xứ người, tuyết trắng bay như thể có 1
trời hoa phù dung đổ xuống. Nhưng rồi, sau lưng tôi có tiếng kêu ré lên:
- Đứa nào lấy cái đầu máy khâu của tao dưới gầm giường?
Tôi giật mình quay lại. Cô ta nhớn nhác đưa mắt nhìn khắp lượt
bọn tôi. Tôi, đứng bên cửa sổ. 2 cô khác đang trùm chăn trên giường. Cô nào cô
nấy tung chăn thò đầu ra:
- Vớ vẩn, đầu máy khâu nào?
- Đầu máy khâu 69 rúp, thằng cháu tao ở Kháckốp vừa gửi hôm
qua. Lúc ấy, tụi mày đi xuống cửa hàng bánh mì.
- Làm sao chúng tao biết được?
- Nhưng cả phòng chỉ có 4 đứa mình. Chẳng lẽ...
Cô ta nói, và mặt đỏ lên. Có lẽ vì lo, vì tức, cả vì xấu hổ,
tôi bảo:
- Sáng nay bọn mình làm bún ăn chung. Chiều qua, mày tiếp
khách ở nhà, chúng tao đi cửa hàng, rồi về xem xiếc. 9 rưỡi tối mới ăn cơm. Chẳng
có ai kịp biết mày có máy khâu và để đâu hết.
Mặt cô ta đỏ hơn lên, gần như người mắc chứng xung huyết. Rồi,
cô ta phân bua:
- Rõ ràng tay tao cất chiếc đầu máy khâu dưới gầm giường. Trước
khi cất, tao còn kiểm tra hộp phụ. Lại phủ tấm vải sơn hoa tím cũ lên trên. Tấm
vải bọn mày vẫn trải bàn ăn năm ngoái.
1 trong 2 cô nằm trên giường tức giận, quát lên:
- Phủ vải sơn hay vải trắng thì kệ xác mày. Chúng tao biết
đâu được.
Mặt cô ta từ tím đỏ chuyển sang xanh tái, 2 tay đặt trên mép
bàn bắt đầu run:
- Chúng mày đừng ức hiếp tao. Chỉ có chúng mày cùng ở trong
phòng này, làm sao mà chiếc đầu máy khâu biến mất. Chẳng lẽ nó mọc cánh bay qua
cửa sổ?
Cả 2 cô nằm trên giường đều tung chăn, ngồi nhỏm dậy:
- Vậy mày nghi chúng tao lấy, phải không?
Mắt họ lóe lên như lửa đạn. Cô ta hoảng sợ, lùi lại, lắp bắp:
- Không nghi, không... nhưng cái đầu máy của tao... rõ ràng
tay tao cất trong phòng này.
Nước mắt lăn xuống 2 gò má. Cánh mũi rung rung. Cô ta đưa tay
quệt nước mắt. Những giọt lệ loang qua sống mũi tẹt. Tôi bỗng thấy mủi lòng.
Tôi bảo 2 cô bạn đang ngồi chòm hỏm trên giường, mắt long như hổ dữ:
- Bình tĩnh, đừng có ấm lên. Phòng bên cạnh nghe thấy thì xấu
hổ. Bây giờ tất cả đứng dậy, mặc áo ấm vào giúp nó tìm kỹ xem sao? Căn phòng
này có rộng lớn gì đâu. Kể cả khu phụ nữa, chỉ nửa giờ là xong hết.
2 cô bạn cũng nể tôi, họ mặc áo khoác, và chúng tôi bắt đầu lục
từng gầm giường lên. Hết trong phòng tới bếp. Mới chỉ 10 phút sau, 1 cô đã kêu
như thét:
- Đây rồi.
Cô lôi chiếc đầu máy khâu trong ngăn cuối của chiếc tủ đựng
bát đĩa ra. Ngăn ấy là ngăn lớn nhất, thường để cất các gói mì. gói gạo, khoai
tây, hành tỏi khô và đồ gia vị chưa dùng tới. Chắc cô ta đã tự tay lôi chiếc
máy khâu dưới gầm giường dúi vào đây, dùng những túi gạo túi mì lấp lên trên, rồi
cuối cùng lại quên mất. Bà hàng xóm nhà tôi ở cái xóm thợ ngoại ô, một người đã
ngoại 50, chuyên sống bằng nghề bán sách báo cũ cũng có thói cất dấu như thế.
Thỉnh thoảng, lại nghe ông chồng bà ta chửi 1 trận vì tội tìm 1 gói chè mốc
nhét giữa đám quần áo cũ, 1 cân đường dấu dưới đáy thùng mì chảy đến ăn rỉ cả lớp
vỏ thùng, hoặc 1 gói mứt sen để từ Tết năm này qua Tết năm sau ở giữa những vỏ
hộp bánh mốc. Thói quen ấy xuất phát từ cuộc sống quá cơ cực, khiến con người
nhiễm thói bần tiện và gian dối. Khởi đầu, có thể nó có ý nghĩa như sự cơ chỉ.
Sau rồi nó trở thành sự vụng trộm 1 cách vị kỷ và làm họ hóa thành hèn mọn, nhục
nhã.
- Cái gì đây?
Cô bạn tìm thấy chiếc đầu máy khâu đã hét to lên, cầm cả khối
kim loại mặng mấy chục cân sát vào mặt cô ta.
- Mở mắt ra mà nhìn. Có phải chính nó đây không?
Cô ta đứng sát cái bàn ăn, 2 tay buông thõng xuống. Đôi cắp cụp
mi, nhìn như đóng đinh vào lớp ván gỗ lát sàn. Cái mũi tẹt lúc ấy trông càng
thêm tẹt. 1 người phụ nữ có thể xấu, nhưng không nên hèn. Nếu đã xấu, lại cộng
thêm tính hèn, thì vẻ khó coi của dung mạo sẽ tăng lên theo cấp số nhân. Không
hiểu vì đâu, mà 1 cô gái 21 tuổi đã nhiễm thó quen tồi tệ ấy. Tôi bảo cô bạn:
- Thôi, thôi.
Cô ta gắt lại:
- Nhưng ức lắm, không chịu được. Mà tất cả ở lỗi mày. Ngay hồi
đầu, chúng tao có muốn nhận nó về phòng đâu? Những đứa khác cũng không chịu ở
chung với nó. Chẳng ai muốn rước cái của nợ ấy. Chỉ có mày.
Tôi cầm tay cô bạn:
- Thôi đừng to tiếng nữa. Đằng nào chuyện cũng qua rồi mà.
Cô bạn tôi ném thịch cái đầu máy khâu xuống, ngồi xuống ghế
thở hổn hển. Còn cô ta, cô ta vẫn đứng bên mép bàn, móng tay cạo lớp sơn màu
xanh nhạt đã loang lổ. Những giọt nước mắt bẩn chạy trên 2 gò má to và bẹt, rồi
chúng lan xuống cái chỏm mũi. Trán cô ta thấp, 1 đám tóc đen ăn lan xuống bên
thái dương trái khiến nó lệch lạc. 1 mụn ruồi nhỏ nằm ngang chính giữa sơn căn.
Ở với nhau gần 2 năm, đây là lần đầu tiên tôi ngắm gương mặt cô ta kỹ lưỡng.
Chúng tôi trở về phòng, bỏ mặc cô ta với chiếc máy khâu trong
phòng ăn, giữa các túi gạo, túi mì ngổn ngang. 1 cô bạn tôi lại chui vào chăn
ngủ. Cô kia chải tóc, chuẩn bị ra phố. Tôi ra đứng bên cửa sổ. Tuyết vẫn rơi
bên ngoài. cơn giông tố của 1 vẻ đẹp thuần khiết và huy hoàng vẫn trút xuống.
Những làn sóng mỹ cảm ngây ngất vẫn lan truyền trong không gian. Nhưng tôi trở
nên đờ dại. Tôi quay vào, ngồi trước bàn. 1 cuốn sách để ngỏ với mấy cái lô cuốn
tóc. Những dòng chữ sắc nét, in bằng thứ mực đen nhánh trên giấy trắng tinh.
Tôi nhìn những dòng chữ, mà không thấy gì cả. Lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu
rằng, cho tới lúc nào đó, có những điều thiêng liêng cao cả, tươi đẹp bỗng tan
biến như làn khói. Các giá trị mà suốt cuộc đời con người thờ phụng và theo đuổi
tới 1 khoảnh khắc thức tỉnh, trở nên hèn mọn, xoàng xĩnh. Khoảnh khắc ấy thật
đáng sợ. Khoảnh khắc ấy thật khủng khiếp. Nhưng, không tránh được...
Chương 8
Hồi đưa tôi về quê, mẹ tôi đã đi chơi khắp xóm trên làng dưới.
Gia đình người chủ mua nhà cũng phải chạy chọt, thu xếp hết non tuần lễ mới đủ
tiền. Nhận tiền xong, mẹ tôi viết văn tự bán đoạn cho họ. Rồi, sớm hôm sau,
chúng tôi trở về Hà Nội. Cô Tâm đưa tôi ra tận bến đò. Có lẽ cô đã phải thức dậy
từ nửa đêm, để đồ xôi, luộc gà, rán chả lợn... Tất cả xếp chặt trong chiếc làn
tre Lạng Sơn để đem cho tôi. Mẹ tôi ngại ngần nói:
Thôi, chị khỏi phải đưa cháu, đường xa lắm.
Cô đáp:
- Xa cũng chưa bằng nửa doạn đường tôi cắp nón đi làm công
cho người ta hồi cải cách.
Mẹ tôi nói thêm:
- Còn nhà cửa, công việc nữa.
Cô bảo:
- Tôi dậy từ canh 3, bà Đũa vẫn ngủ. Lúc đi, tôi mới đánh thức
bà ấy cài cửa ngõ. Cô cứ yên tâm.
Và ngừng lại 1 lát, cô nói thêm:
- Cháu tôi về, có việc tày đình cũng cứ gác lại.
Rồi cô nắm tay tôi, dắt đi.
Trời chưa sáng, những vòm lá ướt sương quệt ngang đầu tôi. Cô
Tâm chẳng nói chẳng rằng, đưa chiếc làn thức ăn cho mẹ tôi, rồi xốc tôi lên
lưng cõng. Tôi van vỉ.
- Cô ơi, cháu đi được, cô cho cháu đi mà.
Cô nói, giọng như ra lệnh.
- Ngồi im, để cháu đi, nhỡ lá ngứa quệt phải má cháu lại sưng
lên.
Tôi đành ngồi im. Cô cõng tôi ra khỏi đường thôn, mới đặt tôi
đứng xuống. Thở phào 1 hơi khoan khoái, tôi chạy vượt lên. Trong lòng, tôi vẫn
thầm lo cô lại bắt tôi phải cưỡi lên tấm lưng gầy của cô lần nữa, vì lí do nào
đó mà cô tìm được tình yêu còn sót lại trong tim cô, hoặc nói cho đúng hơn,
tình yêu thương của cô như con chim hóa đá trong những năm phục thù, giờ đã sống
trở lại. Và cô dành cho tôi. Trong ánh mắt nhìn, trong các cử chỉ thân yêu đường
đột, trong lời nói. Nhưng tôi sợ. Có lẽ tôi còn quá bé nhỏ để lãnh nhận 1 tình
yêu như thế. Tôi lờ mờ cảm thấy tình yêu ấy quá lơn, quá khốc liệt, và không
bình thường. Tôi cũng yêu cô, nhưng tôi cố lảng tránh cô trong những cơ hội có
thể được.
- Hằng, ngã bây giờ.
Phía sau, cô cất tiếng gọi. Tôi dừng lại.
- Đi từ từ thôi, đường nhiều gồ sống trâu. Để cô dắt.
Cô nắm chặt tay tôi, như đứa bé khư khư giữ đồng xu mẹ cho
lúc đến trường. Mẹ tôi biết ý, đi vọt lên trước, cách chúng tôi vài chục bước
chân. Cô Tâm nhìn theo, thấy mẹ tôi đã xa, cô mới nói:
- Bây giờ, chỉ có con là giọt máu duy nhất của dòng họ Trần.
Nhà cửa, từ đường, vườn ruộng của cô cũng chỉ để cho con ngoài ra không còn ai
khác. Con biết không?
- Thưa cô con biết ạ.
- Ông nội con xưa là hương sư lừng danh cả tổng phải kính nể.
Bố con cũng là người hiếu đễ, giỏi giang. Mới 12 tuổi, sách Tây đã đọc làu làu.
Con phải cố học, đừng để tủi vong hồn của ông nội và bố, nhớ chưa?
- Thưa cô, nhớ ạ.
- Con chưa hiểu được những oan khổ bố con đã chịu. Nhưng hãy
ghi nhớ trong dạ. Rồi lớn lên sẽ biết.
- Vâng ạ.
- Mỗi tháng viết thư cho cô 1 lần, báo cho cô biết tình hình
học hành, sức khỏe. Áo quần, giấy bút, thuốc men bồi dưỡng, cô sẽ chu cấp đầy đủ
cho con học hành thành tài. Thời này, khối đứa con gái làm nên, con biết không?
- Thưa cô, có ạ.
- Ở làng Đông, con nhà bà Bút thi đậu bằng phó tiến sĩ bên
Balan cơ đấy.
- Vâng ạ.
- Con thi vào đại học, cô mua cho con cái xe đạp Lơ-giô. Con
được đi nước ngoài, cô sẽ gom tiền lên Hà Nội mua cho con căn nhà gác. Nhớ
chưa?
- Nhớ ạ.
Cô ngồi thụp xuống, móc trong túi 1 gói giấy nhỏ thì thầm:
- Đứng lại cô bảo đã.
Tôi đứng lại, chờ đợi. Cô mở gói giấy ra, Hết lượt giấy bọc
ngoài, tới 1 mảnh lụa đen, chắc cắt ra từ điềm vải thừa của 1 cái quần phụ nữ,
sau cùng là nhúm bông nõn. Ở giữa nhúm bông, là đôi hoa tai kiểu cũ, có 2 mặt
đá đánh tòng teng. Cô lấy ra từng chiếc, mắc vào tai cho tôi. Dạo ấy, tôi đã xỏ
lỗ tai. Và mẹ tôi đeo cho tôi 2 hạt nụ hoa bằng nhựa đỏ. Cô Tâm tháo đôi hoa nhựa
ra, đeo đôi hoa tai vàng vào. Rồi, cô lại rút thêm gói nhỏ thứ hai, trong túi
áo cánh bên kia. Lần này là 1 cặp nhẫn, chiếc nào cũng quấn len:
- Cô phải quấn len thế này mớ vừa ngón tay con. Nào chìa ra.
Tôi ngại ngần:
- Con không đeo đâu, con sợ lắm.
Cô Tâm quắc mắt:
- Chẳng sợ gì hết. Của cô cho con mà.
Tôi nói:
- Nhưng trên ấy, trẻ con đeo vàng dễ bị cướp giật, bị mẹ mìn
bắt.
Cô bảo:
- Đeo từ đây về đến nhà, tới nhà mẹ con sẽ gỡ cất đi. Cô cho
con làm vốn riêng. Sau này, sẽ còn những thứ khác.
Đeo nhẫn xong cho tôi, cô lùi ra, ngắm nghía. Bấy giờ tôi hiểu
vì sao cô nhất thiết bắt tôi đeo hoa tai, đeo nhẫn, những thứ đồ trang sức
không mấy người bắt đứa trẻ mười tuổi phải mang theo. Ánh mắt cô nhìn tôi lúc ấy
là ánh mắt của 1 họa sĩ với bức tranh vừa vẽ. Các đồ vật quý giá này đã được cất
trong bóng tối từ ngày mua cho đến lúc tới tay tôi. Nhưng những đứa bé khác, hẳn
tôi phải mừng lắm. Nhưng tôi sợ. Tôi đưa tay sờ lên chiếc hoa, những riềm sắc
bao quanh hạt đá, mặt đá hình lục lăng lạnh lạnh. Rụt tay lại, tôi thọc tay vào
túi. Món đồ trang sức khi truyền sang cảm giác lạnh lẽo, băng giá. Chúng như
cánh hoa tàn cuối mùa xuân, rải xuống nấm mộ hoang cô lẻ, để gió cuốn đi.
Mẹ con tôi xuống thuyền, cô Tâm còn đứng trên bờ nhìn theo
mãi. Khi thuyền sang quá nửa dòng, cô mới quay về. Trong ánh lê minh, cái bóng
nhỏ bé của cô in như 1 chấm mực trên bức tranh thủy mạc. những vầng mây phía
đông ửng lên màu hoa đào tươi thắm trước khi chuyển sang vàng rực. Đàn nhặng
nhào lộn trên không, rồi bổ xuống xác 1 con mèo chết trôi ai ném lên bờ. Trong
không khí thoảng qua mùi thối rữa. Mặt trời lên, cùng với lúc thuyền cặp bến
bên kia. Người lái thuyền gác cây cầu gỗ cho khách, miệng quát:
- Từ từ, đừng có chen nhau. Mới bảnh mắt đã đi đâu mà vội thế?
Bên kia, đám khách chờ qua đò đã nhong nhóng đứng, đợi lượt
xuống thuyền. Mẹ con tôi mau mắn, vừa sang bờ đê bên kia đã gặp đuợc 2 chiếc xe
đạp thồ vắng khách. 2 người đàn ông mặc áo nâu, trạc tứ tuần có lẻ. Họ đang chống
xe phì phèo thuốc lá cuốn. Họ nhận lời chở mẹ con tôi ra bến xe thị trấn với
giá rẻ không ngờ. Đỡ được đoạn đường đi bộ, chúng tôi ra kịp chuyến xe thứ 2. Từ
đó, trở về Hà Nội chỉ hơn 3 tiếng. Khoảng non trưa, 2 mẹ con tôi đã tới nhà:
- Này, ngày thường chả thấy ai, đi vắng hôm nào cũng có người
tới hỏi.
Bà lão bán chè đỗ xanh nóng bảo mẹ tôi thế. Bà ngồi sau tấm
mành trúc nói vọng ra. Mẹ tôi cảm ơn, mở khóa vào nhà. 1 mình mẹ dọn nhà, còn
tôi đi thăm bạn trong xóm. Từ nhà thằng Khang sứt tới con Hà, con Quyên... Cả
con chó Trắng xồm nhà bà Miều. Nó đang nằm dưới chân anh què, ngủ mê mệt. Còn
anh què vẫn ngồi trên chiếc ghế vải bố như thường lệ, thỉnh thoảng lại ném quyển
truyện, ngước nhìn trời hát rống lên:
Mùa thu sang lá vàng rơi đầy...
Tôi chạy đến toát mồ hôi hột. Lúc trở về, mẹ đã dọn dẹp nhà cửa
nấu cơm xong:
- Rửa mặt mùi cho sạch rồi ăn cơm. Hôm nay nhà có khách đấy.
Tôi ngạc nhiên:
- Ai bảo mẹ thế?
Mẹ tôi đáp:
- Tuần vừa rồi, cậu Chính đến đây tìm mẹ con mình. Chắc nhà cậu
ấy có việc. Bên cô Vị vừa nói.
Tôi buột miệng:
- Chắc cậu ấy đến tìm mẹ lấy tiền, chẳng có việc gì đâu.
Mẹ tôi im lặng thu xếp đống hàng họ, rồi lát sau, khẽ hỏi:
- Ai bảo con như vậy?
Tôi đáp:
- Cô Tâm.
Mẹ tôi không nói gì thêm, cất bồ hàng vào góc nhà rồi xới
cơm. Cơm hôm ấy có canh hoa thiên lý nấu thịt nạc, món ăn tôi thích nhất trên đời.
Tôi ăn rõ no, những 3 bát cơm chan lại thêm miếng cháy. Ăn no quá, tôi ngủ ngay
tức khắc. Và giấc ngủ kéo dài tới nửa chiều. Lúc tôi thức dậy, đồng hồ treo tường
thong thả gõ 3 tiếng. Mỗi tiếng kèm theo 1 sợi dây âm thanh run rẩy, ngân nga.
Tôi nhắm mắt, lắng nghe tiếng chuông quen thuộc. Bên ngoài, xuyên qua không
gian xao động của phố xá, vẫn nghe rõ tiếng gào của anh con trai què:
Màn sương trắng nép ngang mái nhà ven đồi
Mà không thấy bóng người tôi mong chờ...
Tôi bỗng nhớ 1 người tôi chưa bao giờ gặp mặt:
- Bố, bố ơi...
Tuổi thơ tôi hiển hiện lên, như trái bóng lăn qua dường. 1
trái bóng không địa chỉ. Những con đường lấm bụi nơi ngoại ô. Gió bấc rít ngang
trời, với làn mây xám không di động. Bầu trời vẩn đục vì khói nhà máy và cát bụi
cuốn theo những đoàn xe tải. Chúng chạy rầm rầm suốt đêm ngày. Con Trắng xồm lại
tru lên. Nó đã già quá rồi, lông đuôi bết từng đám bẩm thỉu, xơ xác. Nó bước đi
lử thử, mắt kéo màng. Nó không còn nhận ra tôi. Mỗi lần tôi cất tiếng gọi, nó
đưa mũi hít hít rồi gục gặc cái đầu đã trụi hết nửa lông. Có lẽ nó vẫn còn ngửi
thấy lờ mờ cái mùi của quá khứ. Nhưng nó không đủ tình thương mến để xẻ chia.
Nó, người bạn thời thơ ấu, vị hiệp sĩ của tôi bao năm dài.
- Ú ú ú...
Tiếng tru của con chó bay qua ngõ. Tôi như thấy cái mũi lạnh
và ướt của nó chạm vào tôi. 1 mùa hè nồng ấm đã tắt đi quá sớm.
- Bố ơi.
Tiếng gọi vang trong 3 gian nhà, rồi lắng đi, như thứ bụi vô
hình. Nước mắt tôi ứa qua hàng mi. Tôi bước khỏi căn nhà trống, không buồn khóa
cửa. Mẹ đi chơi quanh quất đâu đó, chắn chắn sẽ quay về. tôi quấn chiếc khăn
len kẻ ô vào cổ, ra đường. Các nhà hàng xóm đều đóng kín. Tôi đến nhà ông lão
mù xem bói. Nhà vắng khách, mảnh sân đầy lá đào, lá mai rụng. những chiếc lá
khô bị gió đuổi trên sân, dồn từ góc này sang góc kia, xạc xào. Ông lão đang ngồi
thu lu trên giường, 2 tay bó gối:
- Ai đấy?
Tôi đáp lời.
- Cháu ạ...
Ông gọi.
- Con bé Hằng nhà mẹ Quế phải không? Vào đây chơi với ông.
Nhưng tôi chán ngắt. Tôi chẳng muốn chơi với ai. Tôi trả lời:
- Ông ơi, cháu phải đi ra chợ 1 tí.
Nói rồi, tôi chạy đi. Những chiếc lá đào khô đuổi theo tôi.
Tôi chạy 1 mạch, chẳng biết tới đâu. Sau cùng, tôi thấy mình ngồi trước miệng cống
thoát nước. Dòng nước cống chảy tong tỏng xuống hầm chứa, qua hàng răng chắn
rác đã mòn trũng. Rác dồn tụ ở đó, từ chiếc bàn chải đánh răng tới mảng lược
gãy, từ vỏ trứng vịt lộn, vỏ cà chua, hột gấc, bã mía tới lông gà lông vịt,
nhãn dán rượu, đồng tiền lẻ rách... Cả những đám vỏ hạt bí, hạt dưa từ đám cưới
nào đó hắt xuống. Cả những mảnh vải thêu kim tuyến, chắc xé ra từ tấm áo biểu
diễn cũ của diễn viên, phân tươi trẻ con nổi lều bều cạnh những ống thủy tinh rỗng,
vật thải của 1 trạm y tế. Tôi kiếm chiếc que dài, lẩn mẩn bới từng thứ kên, cố
cắt nghĩa xem chúng từ đâu tới. 1 bàn tay cứng nhắc bóp vai tôi:
- Hằng.
Tôi ngẩng lên. Té ra đó là cậu Chính, đôi mày cậu nhíu lại
trên sống mũi:
- Mày nghịch bẩn thế hả? Về nhà ngay!
Cậu túm vai tôi, kéo lên. Chân cậu vẫn gác khung xe đạp. Tôi
nhìn cậu, thấy cậu rất giống mẹ tôi. Trong khi đó, cậu đã kịp đặt tôi ngồi lên
tấm lưới sắt đèo hàng, và cậu chở tôi về nhà. Mẹ tôi đang ngồi sao chè. Chắc hẳn
rôi vừa đi chơi, mẹ đã trở về. Trong chiếc thúng đặt cạnh bếp, có tới 2 cân chè
vừa sao còn nóng hổi. Thấy cậu Chính, mẹ bỏ đôi đũa, bắc chảo chè đổ ra nong:
- Cậu vào nhà đi.
Cậu tôi đặt chiếc xe ngay trước cửa, khóa lại cẩn thận, mới
vào nhà. Chưa kịp ngồi xuống ghế, cậu đã nói:
- Mấy hôm vừa rồi em tới tìm chị luôn.
Mẹ tôi đáp:
- Vâng tôi cũng nghe hàng xóm nói lại. Hằng, lấy cho mẹ gói
chè sen. Bên trên chiếc xích đông ấy.
- Khỏi cần chè cháo, em vừa uống nước bên cơ quan. Chị lấy được
tiền cho em chưa?
- Cậu hã thong thả uống nước cho ấm bụng. Tôi đã lấy đủ tiền
cho cậu, rồi làm văn tự bán đoạn cho người ta.
Mẹ tôi rót nước chè vào chén, đặt trước mặt cậu. Xong xuôi, mẹ
vào buồng lấy ra 1 bọc tiền:
- Phần cậu đấy.
Cậu tôi cầm gói tiền, lật qua lật lại. Mẹ tôi biết ý, bảo:
- Không cần phải kiểm tra lại đâu. Tôi vừa nhận tiền hôm qua,
đếm đủ. Người trong họ, không ai dám làm ăn điêu bạc.
Cậu tôi im lặng uống nước rồi bảo:
- Em xin cho chị làm tạp vụ ở nhà máy văn phòng phẩm Hồng Hà.
Sáng mai tới nhận việc cho sớm sủa.
Mẹ tôi nhẩn ngơ nhìn cậu, khi hiểu ra, mẹ dãy nảy lên:
- Thôi chết, sao cậu làm ăn đường đột thế? Cậu để cho chị ngẫm
nghĩ đã.
Cậu tôi cau mày, gắt:
- Còn ngẫm nghĩ cái gì? Đã bảo chị rồi, đường quang không muốn
đi, lại đâm quàng vào bụi rậm.
Mẹ tôi van vỉ:
- Muốn sống phải nghĩ chứ cậu? Ngần này tuổi tôi còn làm
loong toong cho người ta sai vặt, biết bao giờ mới thành nghề thành nghiệp? Mà
trước mắt, lương bổng như thế, tôi làm sao nuôi nổi cháu Hằng?
Cậu tôi nói:
- Chị nghe đây này. Cái nghề buôn gánh bán bưng của chị, dù
bây giờ kiếm đủ ngày 2 bữa cơm, nhưng mai sau sẽ bị tiêu diệt. Còn đứng vào đội
ngũ giap cấp, dù làm tạp vụ chăng nữa, cũng sẽ nắm tương lai trong tay. Chị muốn
đường nào?
Mẹ tôi bối rối cúi mặt xuống, nhưng lát sau, mẹ vẫn lắc đầu
nài nỉ:
- Chị chịu thôi, cậu cho chị nghĩ đã. Không thể quyết định việc
tày trời 1 chốc 1 lát được.
Cậu tôi đứng lên, thở 1 cách bực dọc, rồi bảo:
- Thôi được, tùy chị đấy. Sau này khốn khổ đừng có trách em.
Em đã làm hết phận sự của mình.
Mẹ tôi cũng đứng lên, run rẩy:
- Chị cảm ơn cậu. Cậu đừng giận. Nhưng sự thể là...
Cậu tôi nói:
- Chị không nhìn được qua chóp mũi của mình. Chị không dám
nhìn thẳng tới tương lai. Nếu cháu Hằng có bị thua kém con nhà người ta, ấy là
lỗi tại chị.
Mẹ tôi đứng im, vẻ mặt lo âu, khổn khổ đến nỗi tôi phải phải
chạy tới:
- Mẹ ơi i i...
Tôi gọi mẹ, đoạn quay sang nói với cậu Chính:
- Cậu đừng dằn vặt mẹ cháu.
Cậu trợn mắt lên:
- Tất cả những điều tao lo lắng là vì tương lai của máy, cuộc
sống của mày nghe chưa.
Cậu bỏ gói tiền vào chiếc cặp da, treo lên ghi đông xe đạp. Rồi
cậu mở khóa xe, ra về. mẹ tôi cung cúc ra theo, định chào cậu nhưng không dám
lên tiếng. Khi cậu đã đạp xe khuất hẳn nơi lối rẽ, mẹ mới quay vào. Mẹ ngồi xuống
bàn, đầu rũ xuống. Tôi hỏi:
- Mẹ ơi, làm sao thế?
Mẹ ngẩng lên, nước mắt lưng tròng:
- Mẹ chỉ còn 1 cậu Chính là người thân. Vậy mà tan nát hết...
Tôi nói:
- Có phải lỗi tại mẹ đâu?
Mẹ tôi ngẩng đầu lên:
- Lẽ ra, khi ông bà chết, mẹ phải tẩn tào nuôi cho cậu con ăn
học. Nhưng mẹ không giỏi giang được bằng thiên hạ, mẹ đã không làm nổi điều ấy.
Buổi tối, nhà buồn như có tang. Mẹ tôi nằm trên giường, mặt
quay vào tường. Không nghe tiếng mẹ khóc, cũng không nghe tiếng mẹ nói. Làm sao
người ta có thể lặng im lâu như thế? Tôi sắp xếp bài vở, rồi bỏ sang nhà thằng
Khang sứt chơi cờ ca rô. Vài tuần sau, tôi nghe mẹ nói với cô Vị hàng xóm:
- Cậu ấy không muốn nhìn mặt tôi nữa. Tôi không đứng trong đội
ngũ của giai cấp công nhân, cũng không là nông dân lao động hợp tác. Tôi làm ảnh
hưởng tới cậu ấy.
Cô Vị hỏi:
- Ảnh hưởng gì?
Mẹ tôi đáp:
- Tiến bộ. Cậu ấy bảo tôi rằng, nếu tôi cũng là 1 cán bộ cách
mạng có 10, 15 năm tuổi Đảng như bà chị ruột của cậu bạn cùng phòng thì cậu ấy
đã lên cấp năm ngoái. Cậu kia năng lực kém, nhưng nhờ có bà chị bên Hội Phụ nữ
trung ương hoạt động cách mạng năm 45 nên được đề bạt phó phòng.
Nói xong, mẹ thở não nề. Cô Vị im lặng ngẫm nghĩ 1 hồi rồi
nói toáng lên:
- Làm sao chị phải rầu rĩ? Ai chọn cửa mà sinh cơ chứ? Nếu chọn
được cửa, thì cả chị lẫn tôi chẳng dại gì không làm con ông Hoàng bà Chúa. Có
ai muốn sống kiếp dân đầu chợ mom sông, sớm sương muối rát mặt đã lo gánh hàng
ra chợ, tối phố lên đèn còn đi vét hàng.
Mẹ tôi nói khẽ:
- Giá không có cháu Hằng, tôi cũng liều nghe lời cậu ấy đi
làm loong toong trong nhà máy. Thật nghề ngỗng chẳng ra sao nhưng cũng được 2
chữ công nhân. 1 thân 1 mình ném xuống ao tôi vẫn sống, nhưng khốn nỗi, còn có
con Hằng.
Cô Vị bảo:
- Anh trai tôi làm thợ điện trong nhà máy Yên Phụ, chị gái
tôi làm thợ dệt dưới Minh Khai, chẳng ai bỏ tôi chỉ vì tôi không đứng cùng 1 đội
ngũ. Tôi ăn ở lương thiện, không trộm cắp, không lừa gạt, không ám hại ai.
Mẹ tôi đáp:
- Vâng... Vẫn biết thế, nhưng mỗi nhà mỗi khác. Cậu Chính khó
tính từ nhỏ. Dòng họ Đỗ nhà tôi có cậu ấy là con trai. Xưa nay, nó muốn thế
nào, mọi người phải làm theo thế.
Cô Vị ối giời lên 1 tiếng rồi bảo:
- Thế thì ông em chị là ông vua con, cách mạng cái khỉ gió.
Nhà tôi dân nghèo, 5 anh em chẳng ai làm vua được với ai. Hễ người nào gặp bão,
đổ nhà trốc mái thì 4 người kia góp tiền góp sức. Con ai lấy vợ lấy chồng, cả họ
xúm vào sắm lễ, sắm áo quần. Tôi bánh pháo thì anh chịu buồng cau. Ngày giỗ bố
giỗ mẹ cũng phân cắt ra, năm nay anh cả, sang năm chị hai, cứ thế mà làm. Việc
nhà chúng tôi nhẹ tênh tênh, còn như chị ấy à, nói xin lỗi, tôi cạch mặt. Anh
em máu chảy ruột mềm thật, nhưng phải có lí có tình.
Mẹ tôi nói:
- Nhưng tôi ít học. Cậu ấy là cán bộ nhà nước, nhìn xa trông
rộng.
Cô Vị đáp:
- Tôi cũng ít chữ. Tôi sống như ngày xưa bố mẹ tôi vẫn sống.
Có thực mới vực được đạo. Chẳng ai nhịn đói được qua năm Dậu để chờ tới năm Tuất
ăn cỗ Tiên.
Tới đó, cô bỗng bật kêu:
- Thôi chết tôi rồi. Nồi chè kho cháy. Thể nào mà cứ thơm lừng
cả lên.
Cô chạy bổ ra sân. Quả nhiên, tôi thấy mùi thơm của đỗ xanh
bén lửa. Cô Vị về chừng 10 phút, lại quay sang, trên tay có đĩa chè:
- Chị ăn chè với cháu đi. Chè tôi kho kĩ lắm. Trong như bánh
dừa mà còn om trên than.
Trời rét, tuy còn bốc khói nhưng đĩa chè cũng đã đặc quánh,
như bánh đậu xanh đổ ra. Bên trên, vừng lột vỏ rang vàng rắc kín. Mẹ tôi trầm
trồ khen:
- Cô nấu khéo quá. Tết này cô cho tôi chung nồi chè kho nhá?
- Có nồi chè, làm gì phải chung? Tôi cho hẳn mẹ con chị 10
đĩa. Vừa ăn, vừa tiếp khách 3 ngày Tết thỏa thê.
Nói xong, cô lại con cón chạy về. Từ hôm ấy cho tới dịp Tết
Nguyên Đán, cậu Chính không lại chơi nữa. 28 Tết, cô Vị mới nghỉ bán hàng, cả
đêm, cô xoay xỏa đãi gạo, đãi đỗ, pha thịt, róc lá gói bánh chưng. Gói bánh
xong vừa rạng sáng, đã thấy cô nấu chè kho, nồi chè to tướng, hết 3 cân đỗ. Cô
múc cho mẹ con tôi 10 chiếc đĩa Bát Tràng:
- Ăn xong phải trả đĩa đấy nhớ. Hết đĩa nào mang trả ngay đĩa
ấy, 3 ngày Tết, tôi lười rửa.
2 má cô đỏ hây hây, mặc dù những nếp rạn chân chim đã hằn dưới
đuôi mắt. Mẹ con tôi bưng chè về nhà, thấy 1 người đàn bà đứng trước bàn thờ,
lưng quay về phía cửa. 1 tấm lưng thon gầy, hơi dẹt, dưới lần áo cánh màu nâu
non.
Mẹ tôi bảo:
- Cô Tâm.
Rồi mẹ bước dấn lên, đánh tiếng:
- Chị vừa lên?
Cô Tâm quay lại. Đỡ mấy đĩa chè trên tay mẹ tôi, hỏi:
- Bưng chè ở đâu về thế này? Cô mua hả?
Mẹ tôi đáp:
- Hàng xóm cho. Em lười nấu quá.
Thấy tôi cũng lễ mễ bưng chè vào, cô lắc đầu:
- Mẹ con mày dắt nhau đi ăn xin thiên hạ? Ngày Tết, không chịu
khó nấu mà cúng lễ cho thoải mái.
Cô có vẻ không bằng lòng. Cô ôm tôi, xoa đầu, hít ngửi mái
tóc tôi. May mà chiều hôm trước mẹ tôi vừa đun nước hương nhu cho tôi gội đầu.
Cô Tâm hài lòng lắm:
- Cái răng cái tóc là gốc con người. Phải đun nước lá thơm mà
gội cho mượt tóc.
Cô dặn, chẳng hiểu dặn mẹ tôi hay dặn tôi. Rồi cô lôi 2 chiếc
làn tre đặt dưới chân bàn tới gần, lần lượt mở từng làn ra. Làn nào cũng đầy ắp
thức ăn. Giò lụa vài cân, chả quế vài cân, giò hoa vài cân. Thứ nào cô cũng đặt
trước. Thứ nào cũng còn mướt lá, chứng tỏ vừa được vớt chiều hôm qua. Rồi chè
lam tỉnh Thanh, ngũ vị tỉnh Bắc, bánh cáy Thái Bình, chè ướp nhài ướp ngâu. Rồi
mứt sen, bánh quy bơ, quy xốp. Rồi bánh gai, bánh tro nhuộm gấc, bánh tro rơm
vàng. Giá 1 người đàn ông lực điền, cũng không thể mang nặng hơn thế. Mẹ tôi đứng
sững sờ, rồi bối rối:
- Em không thể nhận được. Em cũng có, chị đừng cho quá nhiều
thế này. Mẹ con em làm sao ăn hết?
Cô Tâm, trả lời giọng lạnh tanh:
- Tôi có cho cô đâu! Đây là phần tôi cúng em tôi và cho cháu
Hằng. Ăn không hết thì đem biếu thầy giáo, cho bạn bè, quyền ở nó.
Đến lượt tôi đứng sững. Tôi không biết nói sao. Những quyền
uy quà lớn ban cho 1 đứa trẻ khiến nó sợ hãi. Cô tôi ôm tôi vào lòng:
- Cô lo cho Tết từ rằm cơ đấy. Cô nghe tin con được thưởng học
kỳ vừa rồi, phải không?
- Thưa cô, vâng.
- Tại sao không viết thư báo cho cô biết?
- Thưa cô... con bận quá. Tháng vừa rồi trường bắt làm kế hoạch
nhỏ.
- Kế hoạch nhỏ với chả kế hoạch lớn. Cha tiên nhân nó, chỉ
hành con cái nhà người ta. Dưới làng, con nhà Bùng đi kiếm dây thép gai về bán
lấy tiền nộp, đạp trúng uốn ván chết. Từ rày, chớ có dại mà đi kiếm mảnh chai với
giấy vụn, lỡ sứt tay, nhiễm uốn ván thì nguy. Dòng họ Trần chỉ trông cậy vào
con thôi đấy.
Nói đoạn, cô mở chiếc ghim băng gài túi áo trong. Bên trong
chiếc áo cánh bằng len màu nâu non. Cô mặc chiếc áo vải trắng, có bôđêâ gấu và
cổ tay:
- Tiền đây. Họ muốn bao nhiêu con cũng nộp. Chớ có dại dột mà
theo lũ bạn đi ra bãi rác nhặt nhạnh đồ thừa.
Cô đưa cho tôi 1 cuộn tiền mới. Toàn giấy bạc lớn, thứ bạc
không bao giờ trẻ con được phép tiêu. Tôi rùng mình, đấy là đồng tiền của 1 người
đàn bà không bao giờ có tuổi xuân. Người đàn bà đã ăn khoai sọ trừ cơm suốt vụ
lúa, đêm ngủ ngoài trời với con dao mài sắc gối dưới đầu, kiếm từng xu một để
thách đố đời sống.
- Cầm lấy.
Cô ấn cuộn giấy bạc vào tay tôi. Tôi ôm cổ cô, run run:
- Con còn nhỏ, con không muốn tiiêu tiền. Cô cất đi.
Cô tôi quát:
- Không. Cô bảo con cầm, con phải cầm lấy, không được cãi. Mạng
con quý nghìn vàng, tiền bạc kể vào đâu?
- Còn cô đây, còn 2 bàn tay này.
Cô chìa đôi tay khô xác của cô ra trước mặt tôi, giọng rắn
như chém đá:
- Còn đôi tay này, còn tiền còn bạc. Đừng lo. Cô biết cách
tính. Chỉ 1 vụ cà chua, cô thu hoạch gấp 3 lần vụ lúa tốt nhà khác. Chỉ 1 vụ hồng
xiêm, 1 vụ cam, cô đủ xắm cho con dây chuyền vàng. Con biết không, cô đặt người
ta làm sẵn rồi, mặt hình trái tim nặng chỉ rưỡi, dây cũng chỉ rưỡi, cô cất ở
nhà. Bao giờ 16 tuổi, con sẽ đeo.
Nói xong những lời ấy, mắt cô sáng lên. Dường như trong cái
viễn cảnh huy hoàng cô vẽ ra cho tôi, cô đã đứng vượt lên mọi đau khổ và thua
thiệt, cô đã thấy được hình ảnh của chính cô trên đài chiến thắng. Tôi không
nói được nữa, tôi quay đi. Cổ nghẹn lại, tôi bước ra cửa. Trong khi đó, cô tôi
nhét cuộn giấy bạc vào tủ. Rồi cô gọi mẹ tôi ở dưới bếp lên, xăng xái lau bàn
thờ, giũ tấm lụa đỏ phủ trên tấm ảnh của ông bà ngoại. Cô đem sẵn theo tấm ảnh
của bố tôi lồng trong khung kính. Tấm ảnh ấy cắt ra từ 1 tấm ảnh chụp đại gia
đình trước ngày bố tôi lên tỉnh học.
Hình người trong khung kính là 1 niên thiếu dịu dàng, với những
nét gần giống như cô Tâm, nhưng mờ ảo, vì hình phóng lớn, nên thấy rõ những vết
rạn ngoằn ngoèo. Cô tôi đặt tấm ảnh của đứa em trai lên bàn thờ, bảo mẹ tôi lấy
1 chiếc bát mẫu chưa dùng làm bát cắm nhang. Cô xếp các thứ bánh trái, chè thuốc,
các cây giò lớn nhỏ. Cô sai mẹ tôi ra chợ:
- Mua thêm bó hoa đơn trắng và hoa chân chim tím. Hồi còn ở
nhà, chú Tốn thích nhất 2 màu hoa ấy.
Sau khi bày biện bàn thờ hoàn tất, cô tôi lùi ra ngắm nghía,
vẻ mãn nguyện. Từ hồi lớn lên, tôi chưa từng thấy bàn thờ nhà ai sang trọng như
bàn thờ của bố tôi năm ấy. Đèn nến sáng choang, trông lóa mắt. Tiếng pháo đì
đùng vọng đến. Trong không gian, lan truyền những làn sóng vô hình, như ảo
giác, đan xen những giấc mơ đã héo tàn và những giấc mơ chưa tới. Đám người đi
qua cửa nhà tôi, đều vác cành đào hoặc chậu quất, hí hửng 1 cách tức cười. Tôi
đứng tựa cửa, quay quay sợi pháo sáng trong tay. Cuộn tiền cô tôi cho có thể
mua cả 1 nhà pháo. Nhưng tôi không còn háo hức. Ném sợi dây pháo xuống rãnh,
tôi bỏ chạy ra phố. Chạy mãi, tôi tìm được 1 quán cắt tóc vô chủ. Ông thợ cắt
tóc đã bỏ về quê ăn Tết. Ông ta là loại người không có hộ khẩu thường trú ở
thành phố này. Cái ghế gỗ xấu xí, sứt sẹo nằm giữa căn lều. Trên nền gạch, rải
rác những món tóc rơi. Phía trước, cánh cửa bằng gỗ thùng ghép nửa mở nửa đóng
ơ hờ. Tôi chui vào quán, ngồi lên ghế. Qua khuôn cửa, tôi ngắm người qua đường.
Tôi không muốn ở nhà lúc đó. Tôi không muốn cô tôi và mẹ tôi tưng bừng chuẩn bị
cho cuộc lễ tất niên: Nến đỏ và nến trắng, nhang que và nhang vòng, hoa và hoa,
những thứ của ngon vật lạ, những lời khấn tụng rì rầm. Tất cả tạo dựng nên 1
thiên đường muộn mằn, phung phí...
Chương 9
Mùa xuân qua rất nhanh. Rồi mùa hè. Cậu Chính tôi không đến nữa.
Mẹ tôi không còn buồn khổ như hồi đầu tiên, khi bị cậu hất hủi. Tôi học khá, mỗi
tháng 1 lần tôi viết thư cho cô Tâm báo cáo việc học hành. Từ nay, tôi là con
người khác, tôi có guồng máy khác thống trị. Đó là vinh quang của dòng họ Trần,
của ông tôi, của bố tôi. Và tất cả được giao lãnh cho cô Tâm. Thư tôi gửi cho
cô chỉ vài dòng. Thư cô trả lời đặc 4 trang giấy. Phần đối thoại với cuộc đời bị
ngắt quãng cô dồn cả về cho tôi. Cô kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện: Nào là đêm rằm
tháng trước cô tới chùa Pheo, nghe sư ông tunïg kinh cả đêâm, về nhà nhẹ lâng
lâng như được uống thuốc cải lão hoàn đồnn. Nào là trong vườn cam, còn sót lại
1 gốc ổi, sát bờ dậu. Vừa rồi gốc ổi ấy bỗng bị mối đùn to như đống rơm, khiến
người làng xôn xao bàn tán. Cô đã đi xem bói và ông thày mù bảo đó là điềm báo
trước họ Trần sắp phát quí, phát phú. Ngôi sao ứng nghiệm lại là Thái âm nên
người thành đạt là phụ nữ. Nào mùa cam năm nay, cô bán được 6000 quả, còn lại
dăm trăm quả cô vùi cát nhờ người chuyển dần lên Hà Nội cho tôi ăn... Thư nào
cũng có lời dặn dò, khích lệ.
Mùa thu năm ấy mẹ tôi chữa lại bức tường phía sau bếp. Tôi bảo
mẹ tôi bán đôi hoa tai cô Tâm cho tôi để lợp lại mái nhà, ném tấm tôn và lớp giấy
dầu đi. Mẹ tôi không chịu:
- Vốn cô Tâm cho riêng con, không đụng tới được.
Tôi nói:
- Nhưng con muốn thế.
Mẹ bảo:
- Của cô, con không thể tùy tiện dùng.
Tôi cãi:
- Nhưng cô đã cho con.
Mẹ lại bảo:
- Cho là 1 chuyện. Cho con để con đeo. Bán đi là chuyện khác.
Tôi cáu:
- Nhưng con còn nhỏ, con không muốn đeo vàng trong khi ở mái
nhà dột nát thế này.
Mẹ tôi thở dài, hồi lâu mẹ hạ giọng:
- Bây giờ bố con mất, mẹ nuôi con, không lo sửa được mái nhà
mẹ xấu hổ với cô Tâm, với bà con họ mạc. Thôi, mẹ xin con. Hãy chờ mẹ ít lâu.
Từ ngày cô Tâm xuất hiện, mẹ không còn gọi tôi là em, cũng
không nựng nịu tôi nhiều như cũ. Mẹ xa hơn, e ngại, và dè chừng. Chúng tôi vẫn
sống dưới mái nhà cũ. Mái nhà mà xưa kia, dưới bòng mát của nó, bố mẹ tôi đã
thương yêu nhau và sinh nở ra tôi. 1 cuộc ái ân không ở trong cũng không ở
ngoài pháp luât. Và tôi, đứa bé không được thừa nhận, đã lớn lên như loài cỏ
không tên vẫn mọc đầy các chân tường. Mẹ không chịu bán đôi hoa tai của tôi lấy
tiền chữa mái nhà. Những ngày nắng, mùi nhựa chảy trên các tấm giấy dầu bốc lên
hôi khét, như mùi hỏa ngục. Ngày mưa, nhất là những ngày mưa thu, tiếng mưa gõ
trên mái tôn buồn kinh hoàng. 1 mái nhà chia đôi: nửa xám, nửa đen giống 2 mảnh
vá cùng gá trên 1 vạt áo cũ. Hình ảnh ấy không bao giờ rời tâm trí tôi.
Cuối đông, giữa phố bỗng mọc lên 1 quán bia nhỏ. Những tay
anh chị vô nghề nghiệp tụ lại ở đó, ngươi chạy bia từ các cửa hàng quốc doanh
đem về, người bưng mẹt đồ nhắm, thông thường là lạc rang, lạc luộc, vó bò, nộm
đu đủ tới bán. Sau này quán bia phình ra mãi, thu nạp thêm những khách nhậu lắm
tiền. Chủ yếu là cánh lái xe ngoại tỉnh và đám dân buôn xe đạp, xe máy. Người
bán đồ nhắm tăng lên và cấp độ thức nhắm cũng tăng lên theo. Ngoài những mẹt
hàng nôm và lạc, còn có các gánh thịt chó, các lò than quạt lạp sường, mực nướng,
khô cá thiều nướng và thịt bò khô dầm tương ớt. Mùi thơm ngạt ngào bay khắp phố.
Lũ bợm nhậu lúc say sưa, bất cứ góc tường nào cũng loạng quạng xô tới rót nước
tiểu. Những dòng nước tiểu khô thành vệt dưới chân tường. Mùi khai lưu cữu vào
những ngày trở trời xông lên nhức óc. Ngõ phố trở nên đông đúc, nhộn nhạo. Chợ
gần kế đó cũng sầm uất lây. Mẹ tôi và các bạn hàng khấm khá lên trông thấy. Mẹ
thu góp nhặt tiền, tính toán. Mẹ mua sẵn 2 tạ sắt và vài nghìn gạch máy dự định
Tết xong sẽ nâng cao thêm tường và đổ mái bằng. Chỉ còn lo ximăng và công thợ.
- Cứ chờ cho mẹ qua Tết.
Mẹ bảo tôi, hớn hở. Dáng điệu tự tin hẳn lên. Có lẽ, trước sức
mạnh kinh tế của cô Tâm, mẹ mặc cảm. Mẹ nghĩ rằng sự lo toan về phương diện vật
chất của người chị chồng sẽ làm cho giá trị của mẹ giảm đi. Đôi khi, những suy
nghĩ của người lớn thật phiến diện và nông cạn. Tôi nói với mẹ:
- Mẹ không cần lo nhiều quá.
Mẹ đáp:
- Qua Tết, mẹ con mình sẽ có mái nhà mới. Khỏi lo dột, lo
nóng. Không cần đến hoa tai của cô Tâm.
Mắt mẹ sáng lên đắc thắng. Nhưng mẹ không gặp may. 1 chiều,
đi học về tôi thấy mẹ đang xếp hàng vào góc nhà. Tôi hỏi:
- Sao mẹ về sớm thế?
Mẹ bảo:
- Có việc. Con rửa mặt mũi, thay áo quần rồi đi với mẹ thăm cậu
Chính. Cậu ốm nặng, khó bề qua khỏi. Mau lên.
Nói xong, mẹ chạy vào buồng thay quần áo. Tôi chưa thấy mẹ vội
vã như thế bao giờ. Tôi cất cặp, thay áo quần ngay. 2 mẹ con tôi ra đầu phố, gọi
xích lô. Từ đó tới bệnh viện hết nửa giờ. Đang lúc tan tầm, đường đông nghẹt xe
pháo. Ởû bệnh viện cũng tấp nập người ra vào, người mang cơm, người tới thăm
nom, người ôm từng chồng quần áo đi giặt. Gác cổng bệnh viện là 1 ông lão ngoại
ngũ tuần, béo phì, mặt như người mắc chứng thần kinh hoang tưởng. Giá cứ đi thì
lại xong. Mẹ tôi thận trọng đến trước cửa phòng trực, xưng danh, sau đó mới xin
phép vào thăm người ốm.
Ông gác cổng nhìn chúng tôi bằng 1 con mắt, con mắt kia ông
ngó xuống địa ngục hoặc nhìn lên thiên đường. Ông hỏi những câu ngô nghê nhưng
đầy vẻ quan trọng. Rút cục ông phát 1 cái lệnh rất quí tộc:
- Chờ đã, tôi giải quyết sau.
1 mệnh lệnh có thể gặp nhan nhản trong suốt thời buổi này.
Tôi kéo áo mẹ, lùi ra cổng. Chừng 2 phút sau. ông ta đã cúi xuống đọc báo. Tôi
bảo mẹ:
- Đừng hỏi, cứ đi thẳng mẹ nhé.
Mẹ ngần ngừ:
- Thôi, nhỡ người ta biết.
Tôi gắt:
- Mẹ hay nhỉ, mìnhh có ăn trộm cắp gì mà lo.
Tôi kéo tay mẹ đi. Chúng tôi đã vượt qua cổng chính vào sân
viện 1 cách bình yên. Từ đó, chúng tôi phải lần mò qua 4 tòa nhà cao tầng, hỏi
hết người này qua người khác mới tới được căn phòng cậu nằm điều trị. Ông già nằm
cùng phòng với cậu bảo:
- Anh ấy vừa xuất viện chiều hôm qua. 2 mẹ con chị đến muộn rồi.
Mẹ tôi đứng bần thần, mãi mới cất được tiếng hỏi:
- Thưa bác, có đúng người bệnh là Đỗ Quốc Chính không?
Ông già đáp:
- Phải, ngày nào y tá chẳng gọi tên từng người đi tiêm.
Mẹ tôi nói:
- Nhưng cháu nghe bảo cậu ấy bệnh nặng, khó bề qua khỏi.
Ông già cười:
- Ngất đi như thế người ta dễ sợ về chầu Diêm Vương. Nhưng
anh Chính chỉ ngất vì hạ đường huyết. Cái bệnh chung của lũ cán bộ chúng tôi:
đói, thiếu dinh dưỡng... Vào đây được tiếp có 1 phần tư lít nmáu lại tươi ngoay
ngoảy.
Mẹ tôi nhìn nụ cười của ông, bán tín bán nghi. Ông già thấy
thế, lắc đầu:
- Ô hay, chẳng lẽ tôi nói dối chị hay sao? Cứ về nhà anh ta
ngay bây giờ, khắc biết.
- Mẹ con cháu xin đa tạ bác.
Chúng tôi ra viện, qua ông già gác cổng. Ông ta đã bỏ tờ báo
xuống bàn, nhìn chúng tôi như nhìn vào đám sương mù. Cửa viện chen chân cũng
không được. Hàng quà bánh ngồi la liệt không thứ tự. Khó nhọc, chúng tôi mới
lách ra được ra. Mẹ tôi lần túi áo rất lâu, móc 1 tấm giấy lịch, trong đó ghi địa
chỉ cậu Chính. Tờ lịch cũ, nhàu nát, đọc mãi mới ra mặt chữ.
- Xích lô.
1 chiếc xích lô cọc cạch lao tới từ dãy xe chờ sẵn. Người đạp
là 1 thanh niên vạm vỡ. Tóc húi móng lừa:
- Đi đâu bà chị?
- Chú cho 2 mẹ tôi con tôi về tập thể K.
- 2 sọi nhé?
- Vâng.
- A ha, bà chị này nhẹ vía đấy. Nào, lên đi.
Anh chàng xích lô hăng máu thí mạng. May mà đường đã vắng. Hồ
Thuyền Quang như mảnh gương xanh thẫm thấp thoáng qua rặng cây. 1 người đàn bà
béo múp míp, mặc áo lụa mỡ gà phóng xe máy vọt lên, vừa phóng xe vừa cười tít mắt.
Phía sau, cũng có 1 phụ nữ đã qua tuổi ngũ tuần, cưỡi Honda đuổi theo. Anh
chàng xích lô phởn chí, hét lên:
- Ếp ếp ếp...
Xe đi hết non 1 giờ đồng hồ mới tới nơi. Mẹ tôi trả tiền, cảm
ơn anh chàng đạp xích lô. Anh ta trợn mắt nhìn hồi lâu rồi bảo:
- Bà chị ngày tử tế nhỉ!
Nói đoạn anh giơ tay vẫy, miệng huýt sáo rồi đạp xe đi. Chúng
tôi đi qua 1 phòng trực ghép bằng gỗ, kiểu như những trạm chỉ đường của công an
trong thành phố, nhưng không sơn xanh hoặc sơn trắng mà sơn màu cánh dán. Nhìn
gần, thật khó coi. Ngồi trong phòng trực là 1 ông già hói, gầy tong teo, vừa ho
khù khụ vừa liếc nhìn khách qua đôi tròng kính lão:
- Đỗ Quốc Chính? Có đấy. Tôi vừa thấy anh ta dắt đứa con lớn
đi qua đây buổi chiều. Chị có giấy tờ gì không?
- Dạ, cháu có chứng minh thư nhân dân.
Ông già ngần ngừ vài giây rồi hất tay:
- Thôi khỏi cần. Cho mẹ con chị đi.
Con đường trải nhựa bề ngang chỉ độ ngót nghét 3 thước, nhưng
khá dài. 2 bên đường, những thùng gỗ lớn bằng gian nhà xếp thành dãy. Thùng nào
cũng vẽ dấu hiệu chống va đập, dễ vỡ. Hoặc chiếc ô hoặc chiếc ly thủy tinh.
Nhìn nhãn in bằng mực trên lớp gỗ thông, có thể biết đó là những côngtennơ chở
hàng viện trợ thời chống Mỹ. Những nét chữ đã phai màu. Lớp gỗ cũng đã ải. Mẹ
con tôi đi hết đường, rẽ sang trái. Nơi đây, có những khu nhà 1 tầng kiểu như
những dãy trường học cấp 1 xếp song song. Nhà nọ giống nhà kia như 2 giọt nước,
cùng 1 kiểu kiến trúc, cùng màu vôi tường vàng nhạt, cửa sổ và cửa ra vào sơn
màu cánh dán, trông thô lậu, gớm ghiếc. Nhà nhà đã lên đèn. Người ta đang ăn
cơm. Đi ngoài đường có thể nhìn rõ mồn một.
Mẹ tôi lại móc túi tìm tấm lịch. Lần này, mẹ ghé hẳng vào ánh
đèn, đọc lẩm nhẩm: số 56 nhà G. Chúng tôi ngước nhìn đầu hồi của từng căn: A,
B, C, D... G là dãy cuối cùng, sát vào bức tường phần cắt khu tập thể K với 1
cơ quan khác. Có lẽ đấy là 1 nhà máy in vì nghe rõ tiếng máy in chạy rùng rùng
bên kia tường. Gia đình cậu Chính đang ăn cơm. Cả nhà ngồi trên phản. Cậu tôi,
1 người đàn bà mặt rỗ hoa tóc kẹp và 2 đứa con trai, đứa lớn chừng lên 7, đứa
nhỏ trạc lên 3. Cả 2 đứa gầy như 2 con nhái. Cậu tôi, so với hồi đầu đã sút đi
non nửa. 2 hô xương quai xanh nhô lên. Cái mũi dọc dừa giống mũi mẹ tôi teo hết
thịt, trơ xương sống lá mía. Cậu mặc quần ngủ với cái áo bông phai màu.
- Cậu Chính.
Mẹ tôi gọi tên đứa em trai, ngay từ lúc đứng ngoài hè. Cả 4
người đều quay ra, nhưng quáng đèn nên họ không thể nhìn rõ mặt chúng tôi.
- Cậu Chính.
Mẹ tôi cất tiếng gọi lần thứ 2, vẫn giọng bồi hồi. Không chờ
câu trả lời, mẹ dắt tôi vào nhà:
- Tôi nghe cậu ống nặng. Vào viện tìm quanh quất mãi, người
ta bảo cậu đã xuất viện chiều hôm qua.
Cậu tôi đứng lên, bảo người đàn bà mặt rỗ hoa:
- Thành này, đây là chị Quế.
Rồi quay sang mẹ con chúng tôi cậu giới thiệu:
- Nhà em, cán bộ trường Đoàn.
Bà mợ tôi, nghe chồng nói thì à lên 1 tiếng, rồi gật đầu. Mẹ
tôi chưa kịp chào lại. mợ ta đã quay đũa gõ lên đầu đứa con trai:
- Ăn đi, trong bữa cơm không được há mồm ra.
Tôi thấy mẹ tôi có vẻ ngượng ngùng, tay chân mẹ thu cất, đôi
vai cũng như co lại trước cái nhìn có tính chất quan sát nghiêm ngặt của người
em dâu. Có lẽ mợ ta đã quen quan sát các học viện trường Đoàn như thế. Cái nhìn
sắc lạnh lướt từ tấm khăn nhung choàng cổ, tới tấm áo len dài tay màu be thẫm
đính hàng khuy mạ vàng trang nhã, từ chiếc làn nhựa mẹ tôi xách trong tay tới
chiếc quần sa tanh ngoại mẹ tôi đang mặc có viền bôđê gấu. Nó bộc lộ cuộc sống
của lớp dân sống ngoài biên chế nhà nước, nó cũng định vị luôn giá trị của họ
trong xã hội.
Cậu tôi rót nước sôi vào ấm, rồi từ ấm rót ra 1 thứ nước trắng
phếch, có lẽ bã chè đã được pha đi pha lại từ chiều hôm qua.
- Chị và cháu uống nước đi.
Mẹ tôi khẽ đáp:
- Vâng. Cậu cứ ra ăn cơm cho xong bữa.
Rồi mẹ đưa mắt trìu mến nhìn 2 đứa bé trai giống 2 con nhái
bén kia:
- 2 cháu đấy phải không?
Cậu tôi gật đầu:
- Vâng, thằng Tuấn, thằng Tú. Chào bác đi con.
Lúc ấy 2 đứa mới đồng thanh:
- Chào bác.
Mẹ tôi, từ nãy lúng túng như gà mắc tóc, liền bán víu tiếng
chào của 2 đứa bé:
- Ối giời, cháu tôi ngoan quá. Cháu Tuấn học lớp mấy rồi?
Thắng bé lại giương mắt chầu chẫu ra nhìn. Cậu tôi bảo:
- Trả lời bác đi.
Nó liền đáp:
- Cháu học lớp 2.
Nói xong, nó cúi xuống chọc đũa vào đĩa nhộng rang hành. Chợt
thằng em kêu ré lên, Nhanh như cắt, mẹ nó trở đũa gò lên đầu con:
- Tuấn, làm cái gì thế hả?
Hóa ra thằng bé gắp nhầm phần thức ăn của đứa em, không biết
cố tình hay vô ý. Bị đánh, nó giơ tay xoa đầu, không dám kêu. Mẹ tôi cúi mặt xuống.
Đĩa nhộng, lúc ấy tôi mới để ý, gạt làm 3 phần, mỗi phần chừng 15,16 con. Ngoài
đĩa nhộng, có 1 đĩa rau muống luộc và 1 chiếc chén nhỏ, loại chén dùng đựng nước
mắm hay múc chè, đụng thịt nạc băm. Chắc chắn, đó là phần bồi dưỡng cho cậu
Chính. Cậu tôi đã ăn xong bát cơm, trở lại bàn uống nước. Mợ Thành cũng đã ăn
xong, bưng cốc nước sôi để nguội uống 1 lèo rồi ra ngồi xuống ghế làm việc. 1
cái ghế tựa cao, đặt trước bàn viết có cây đèn chân ốc. Cậu tôi bảo:
- Nhà em phải soạn bài để mai lên lớp. Cô ấy là cán bộ cứng của
trường. Gia đình đều là công nhân,11 tuổi Đảng.
- Vâng.
Mẹ tôi đáp, vẫn không ngẩng mặt lên. Trước những lời giới thiệu
đầy kiêu hãnh của cậu tôi, bà cảm thấy tủi nhục. 1 người chị ruột, nhưng chẳng
có 1 giá trị nào mang lại niềm an ủi cho đứa em. Cậu tôi vừa xỉa răng vừa nói:
- Em vẫn còn được nghỉ. Nhưng không có gì nguy hiểm. Chị
không cần lo. Cơ quan em, toàn gia đình cán bộ, ra vào khó khăn.
Mẹ tôi nuốt nước bọt. Nhưng ngập ngừng 1 lát, lại ngẩng lên:
- Nhưng... tôi nghe nói cậu yếu lắm, suy dinh dưỡng.
Cậu tôi bảo:
- Chị nghe người ta nói nhảm. Vừa qua, em làm việc căng thẳng
quá.
Giọng cậu lạnh tanh. Mẹ tôi không nói thêm được lời nào, cầm
nón, xách làn đứng lên:
- Thôi, thế chị về.
Cậu tôi gật đầu:
- Chị bảo cháu về đi.
Rồi quay vào nhà, cậu gọi:
- Thành ơi, chị Quế về.
Vợ cậu ngẩng lên:
- Chào chị.
Đó là câu chào duy nhất tứ khi mẹ con tôi đặt chân vào nhà.
Nói xong, bà mợ tôi lại cúi xuống cuốn sách. Một cuốn sách rất dày, láng bóng.
Nhìn kĩ, có đề chữ: V.I. Lênin tập 13. Cậu tôi lại bảo:
- Chào bác đi các con.
2 đứa con trai cậu vươn 2 cái cổ cò ra, đồng thanh:
- Chào bác.
Mẹ con tôi ra về. Cậu Chính đưa tiễn hết dãy nhà G. Khi chúng
tôi rời khu nhà tập thể, rẽ vào con dường nhỏ 2 bên chất san sát những dãy
côngtennơ, mẹ tôi thút thít khóc. Đầu mẹ cúi gằm xuống, đôi vai mỏng nhô lên.
Dáng điệu của 1 kẻ phạm lỗi. Tôi bảo:
- Đừng bao giờ đến đây nữa mẹ ạ.
Mẹ tôi rút khăn lau mặt, hỉ mũi sụt soạt rồi nói:
- Tình ruột thịt. Không bỏ được con ạ.
Tôi nói:
- Lần sau mẹ đến, con không đến nữa đâu.
Mẹ im lặng, đôi vai rung lên. Từ lúc ấy cho tới khi ra đường,
mẹ tôi không nói thêm lời nào. Tôi cầm chiếc nón cho mẹ rồi gọi xích lô. Chúng
tôi trở về khu ngoại ô lấm bụi. Những đĩa nhạc cải lương não nề vọng oang oang
ngoài phố, giọng ca này lấn át giọng cakia. 1 hàng phở rong bắt đầu gõ dịp:
- Xịt tắc... xịt tắc...
Mùi nước dùng có hoa hồi và gừng nướng thơm ngậy bay theo
gió. Tôi nắm áo mẹ:
- Con đói quá, mẹ ơi!
Mắt mẹ tôi như mờ đi. Mẹ bảo:
- Ờ, thế mà mẹ quên mất. Từ trưa đến giờ 2 mẹ con chẳng ăn
gì.
Chúng tôi ngồi ăn phở gánh ngay lối rẽ. Ăn xong, mẹ tôi bỗng
kêu khó chịu:
- Đi mau lên, mau lên con...
Mẹ bảo tôi rồi dấn bước như ma đuổi. Tôi vừa đi vừa chạy mới
kịp. Vừa về tới nhà, mẹ tôi chạy nhào ra bể nước. Ngồi thụp xuống miệng cống, mẹ
nôn thốc nôn tháo:
- Hằng ơi, gọi cô Vị cho mẹ đi con.
Tôi chạy sang nhà cô Vị, đấm cửa thùm thùm:
- Cô Vị ơi, cô Vị, mẹ cháu làm sao ấy.
Người đàn bà láng giềng đang ngồi cắn hạt dưa, ném ngay nắm hạt
dưa trong tay xuống giường rồi chạy sang nhà tôi. Theo sau cô, lốc nhốc cả 4 đứa
con lớn bé. Chú Vị làm ca 3, phải tảng sáng mới về. Cô Vị bế thốc mẹ tôi vào
nhà, đánh gió, dùng ngải cứu khô đốt các huyệt. Cô lại xoa dầu trùm khắp đầu,
lay giật chân tóc. Mẹ tôi tỉnh, mở mắt nhìn cô:
- Tôi cảm lạnh, phải không?
Cô Vị đáp:
- Cả lạnh, cả đói, cả lao tâm. Chị cảm nhập tâm, phải kiêng
lâu đấy.
Mẹ tôi nắm tay người đàn bà láng giềng, nước mắt chảy quanh:
- Tôi thương con Hằng quá, cô ạ.
Lúc ấy tôi đứng sau lưng cô Vị. Vì tôi khuất lấp trong bóng tối,
cùng lũ con lốc nhốc của cô Vị nên mẹ không nhìn thấy tôi. Nhưng tôi thấy gương
mặt mẹ, vòng nước mắt ứa long lanh, và 1 nỗi buồn tiên cảm, 1 trắc ẩn mơ hồ
trong tia nhìn lúc đó. Tôi bỏ ra cửa. Tôi không muốn thấy người khác xót thương
tôi. Tôi ngồi thụp xuống, trong bóng tối của lùm cây đăng tiêu bên dàn hoa nhà
cô Vị trùm sang. Mấy năm nay, người trong ngõ thi nhau trồng thứ hoa này. Đó là
1 loài dây leo có vẻ đẹp cuồng dại. màu lá xanh quá thể xanh. Với những chùm
hoa chi chít màu nghệ thắm, màu của máu, của lửa, của ráng chiều, của mặt trời
giữa ngọ cùng lúc hòa trộn nhau. Tôi ngồi đó, nghe tiếng trò chuyện trong nhà vọng
ra. Mùi dầu tràm, mùi ngải cứu cháy vẫn tỏa trong không gian, thơm ngai ngái. Bỗng
dưng, 1 con vật lừ lừ đi tới. 1 con chó lạc chăng, hay con mèo của chú Tín bỏ
đi hoang ba bốn tháng lại quay về? Nó vẫn lử thử bước tới. Qua cây cột đèn, tôi
nhận ra đó là con Trắng xồm.
- Trắng xồm... Trắng xồm...
Tôi gọi thì thầm, Giọng tôi trở nên lạc điệu, xa lạ như giọng
của 1 người nào khác.
- Trắng xồm, lại đây...
Con chó khẽ đụng đậy cái tai xơ xác, chảy thõng 1 bên đầu. Có
lẽ nó không nhận ra tiếng gọi của tôi. Nó lượn lờ thêm nửa vòng nữa. Lúc tôi tưởng
nó đến gần, nó lại đi, quay trở lại đường cũ. Con Trắng xồm đi qua cây cột đèn,
cái bóng nhù hòa như 1 mảnh vải rách ai kéo lê trên hè phố. Đúng lúc ấy, anh
con trai què của bà Miều lại gào lên. Anh ta ngồi suốt ngày trên ghế vải bố, có
lúc anh ta đòi lấy vợ, có lúc anh ta đòi nhảy xuống giếng tự vẫn, có lúc anh ta
đòi đi học nghề. Nhưng rút cục, anh ta chỉ biết đọc biết viết và không làm cái
nghề nào khác hơn là ngồi trên ghế, đọc đi dọc lại vài cuốn truyện trinh thám,
tán tỉnh chòng ghẹo bọn trẻ con, bị bọn trai trẻ chòng ghẹo lại, nghe đủ loại
chuyện tục tĩu, mơ tưởng tới cuộc sống trên thiên đường, và thỉnh thoảng lại
gào lên:
Mùa thu sang lá vàng rơi đầy
Hàng bạch dương buồn im xác xơ ven đồi...
Giọng hát sai lạc rót vào nỗi sầu phố xá. Hòa với tiếng rao
hàng:
- Bánh nóng đây. Bánh nóng óng óng đây ây ây...
Tiếng 2 cây tre gõ nhịp của gánh phở rong:
- Xịt tắc... xịt tắc... tắc xịt tắc...
Cô Vị kéo lũ con ra về. Giơ tay xoa đầu tôi, cô bảo:
- Mẹ mày đỡ rồi đấy. Vào ngủ đi.
Tôi đóng cửa, trèo lên giường. Mẹ tôi đã ngũ. Nhưng tôi vẫn
như thấy đôi mắt long lanh của mẹ, mỗi tia nhìn ánh lên 1 nỗi buồn tiên cảm. Có
lẽ, ý nghĩ cuối cùng của con người trước khi bước vào giấc ngủ thường có được
linh cảm tính nhạy, như tia sáng cuối cùng lóe lên trước khi tắt mặt trời. Sáng
hôm sau, mẹ tôi vẫn sốt. Nhưng khi tôi mua cháo ép mẹ ăn, mẹ lại nắm tay tôi:
- Được rồi, mẹ sẽ ăn. Nhưng con phải hứa 1 điều.
Tôi gật đầu:
- Mẹ ăn cho khỏi ốm. Điều gì con cũng hứa.
Đôi mắt của mẹ lóe lên:
- Con thương mẹ chứ?
Tôi đáp:
- Sao con không thương mẹ? Mẹ ăn cho nóng. Cô Vị bỏ nửa bát
lá xương sông với lá hành.
Mẹ tôi nhìn vào mắt tôi:
- Mẹ sẽ ăn. Mẹ sẽ khỏi ngay thôi. Nhưng con hãy đến nhà cậu
Chính.
Tôi im lặng. Chắc lúc ấy tôi cau mày hoặc nhăn trán, nên mẹ
tôi hối hả nói thêm:
- Dù sao mẹ cũng chỉ có cậu là người ruột thịt duy nhất trên
đời. Cậu ấy thiếu ăn, cậu ấy khổ quá. 2 đứa em của con nữa. Trông chúng giống
như 2 cái giải khoai.
Tôi nghĩ:
- Sao mẹ không nói thẳng ra: 2 đứa cháu ruột của mẹ. 2 giọt
máu mang dòng họ Đỗ...
Cuối cùng, mẹ cũng giống cô Tâm. 2 người đàn bà ruột thịt của
tôi. Nhưng tôi đã không nói điều tôi nghĩ. Cuộc sống lẻ loi đã dạy tôi khôn sớm
hơn các đứa trẻ bình thường. Tôi ôn tồn nói với mẹ:
- Được rồi, Mẹ ăn đi đã.
Bưng bát cháo, tôi kề sát môi mẹ. Nhưng mẹ giữa tay tôi lại,
và nhìn tôi, như người ta cầu khẩn 1 lời nguyền trước khi nhảy vào lửa:
- Con thương mẹ nhé. Con hứa đi.
Tôi gật đầu:
- Vâng, con hứa.
Mẹ tôi hớn hở. Mẹ ăn hết bát cháo, uống thuốc cảm rồi sau
đó,bảo tôi đem cho mẹ chiếc làn. Rút chiếc túi lụa đen đựng tiền, mẹ lấy ra 1 xấp
bạc, đếm và bảo tôi:
- Con mua 2 cân giò, 2 cân chả quế, 2 cân thịt nạc đem cho cậu.
Thịt nạc mợ ấy làm ruốc, còn giò chả cho cậu và các em ăn. Nói với cậu mợ rằng
mẹ cháu gửi thức ăn tới cho 2 em Tuấn và Tú.
Tôi cầm tiền, đáp”:
- Vâng.
Mẹ dặn:
- Giò chả mua ở phố Hàng Bông. Còn thịt thăn lấy của cô Hòe.
Nói cô bán cho mẹ cháu con lợn ngon nhất.
Tôi đáp:
- Vâng.
Mẹ bảo:
- Thế thôi. Con thay áo đi cho sớm sủa. À đừng có cói với cậu
mợ là mẹ ốm.
Mẹ dặn dò tôi điều cuối cùng, rồi yên tân trùm chăn nằm xuống.
Tôi đã ra chợ, rồi đạp xe lên phố Hàng Bông, mua bán đủ thứ theo lời mẹ dặn.
Xong xuôi, chưa tới 10 giờ, tôi rẽ vào nhà đứa bạn cùng lớp chơi. Đúng 11 giờ
rưỡi, tôi đạp xe tới khu tập thể K. mang theo tấm thẻ học sinh. May sao, lần
này người gác cửa lại là 1 bà già béo tốt, gương mặt phúc hậu. Bà đang ngồi
thái dưa cải muối. Bà cho tôi vào ngay, không hỏi giấy tờ. Tôi phóng xe thẳng tới
nhà cậu Chính. Cả 2 đứa con trai của cậu tôi đang chơi ngoài cửa. Chúng dùng xẻng
moi đất ở 1 kẽ gạch vỡ lên. Chiếc xẻng nhựa bé như chiếc thìa xúc tương ớt, cái
xô nhựa cũng nhỉnh hơn chiếc chén hạt mít uống trà. Thấy tôi, chúng nhớn nhác gọi:
- Mẹ ơi, có khách.
Mợ Thành đang lúi húi thu dọn gì đó trong nhà. Nghe con gọi,
quay ra:
- Khách nào?
Giọng của 1 bà chủ muốn đuổi khách ra khỏi cửa. Tôi nhớ tới cặp
mắt cầu khẩn của mẹ tôi. Tôi cúi chào:
- Cháu chào mợ ạ!
Mợ ta đưa mắt nhìn tôi, à lên 1 tiếng rồi nói:
- Cậu Chính chưa về.
Tôi đáp:
- Mẹ cháu bảo cháu đem cho em Tuấn và...
Tới đó, tôi thấy đôi mắt người đàn bà đảo 1 vòng lẹ như chớp,
rồi hạ giọng, mợ ta nói:
- Vào nhà, hãy vào nhà đã...
Tôi gỡ chiếc làn tre nặng trĩu từ ghiđông xe đạp xuống, xách
vào. Mợ ta vội đóng cửa, rồi hất hàm bảo tôi:
- Cháu ngồi xuống ghế đi.
Tôi vẫn đứng gần cửa, và nói:
- Mẹ cháu sai cháu đem thức ăn cho em Tuấn và em Tú. Đây.
Tôi mở lớp giấy bao phủ bên trên, lần lượt lấy ra 2 cân giò lụa
nguyên cây, 2 cân chả quế bọc lá chối nướng, 2 cân thịt thăn nõn gói giấy cẩn
thận. Tôi đặt tất cả lên mặt bàn. Đôi mắt người đàn bà như tối tăm đi. Mợ ta lắp
bắp:
- Không được... không được...
Nói rồi, mắt đảo ra cửa, dường như sợ 1 cặp mắt nào đó rình
mò. Tôi xách làn lên, nói:
- Cháu chào mợ, cháu về.
- Khoan, khoan đã.
Mợ ta vồ lấy tay tôi, nói với 1 giọng sai lạc:
- Không hiểu ra sao cả. Chờ tí đã... cậu về bây giờ đây.
Tôi nhìn những nốt rỗ hoa trên mặt người đàn bà, bỗng thấy mệt
mỏi. Trèo lên xe đạp về cũng chán. Tôi ngồi xuống ghế. 2 đứa trẻ lúc đó ló đầu
vào:
- Ra ngoài chơi... Tuấn, Tú...
Mợ ta hét lên đột ngột, đến tôi giật bắn người. Trong đôi mắt
tối tăm ấy, lộ ra vẻ hoảng sợ. Tôi không hiểu nguồn cơn. Tôi bám chặt lấy thành
ghế, nhìn 2 đứa bé chạy vụt ra ngoài như 2 con chuột, gương mặt nhớn nhác. Người
đàn bà khép cửa lại, rồi xếp những gói thực phẩm vào chiếc trạn gỗ, kê phía lối
đi vào buồng trong. Dáng điệu hối hả như tên trộm cất giấu hàng chết. Có tiếng
gọi từ bên ngoài:
- Sao lại đóng cửa thế này?
Giọng cậu Chính. Cậu tôi đẩy cửa vào. Thấy tôi, mặt cậu sa xuống:
- Cậu đã bảo rồi. Cậu đã khỏe. Sao mẹ mày còn sai đến đây?
Mợ Thành, vừa rửa tay sau nhà đi ra, đón lời:
- Chị ấy sai cháu đến chơi.
Tôi nói:
- Mẹ cháu bảo 2 em gầy quá. Mẹ cháu gửi thức ăn cho em Tuấn,
em Tú.
Cậu tôi nhăn mặt lại. Trán cậu nổi u lên, giận dữ:
- Tạng chúng nó gầy. Có phải cứ gầy là thiếu ăn đâu.
Ngừng lại 1 lát, cậu nói thêm:
- Dù có thiếu, cũng là tình hình chung. Không có gì đáng phàn
nàn. Đấy nước còn khó khăn.
Tôi nói:
- Cháu không biết. Cháu chỉ làm theo lời mẹ cháu.
Không chờ cậu trả lời, tôi xách làn đứng lên. Lúc ấy, mợ
Thành bước ra, đứng giữa cậu Chính và tôi, giọng phân giải:
- Đấy là cậu nói chung. Nhưng dù sao, mẹ cháu cũng tốt với
các em, đúng không?
Tôi không trả lời, bước khỏi cửa. Lúc tôi về nhà, mẹ tôi hỏi
đón từ trong buồng:
- Hằng đã về phải không con?
Mắt mẹ hau háu nhìn tôi, háo hức, trông ngóng. Tôi đáp:
- Con đưa cậu mợ ấy rồi.
Mắt mẹ ánh lên mừng rỡ:
- Cậu đi làm rồi chứ?
- Vâng.
- Em Tuấn, em Tú ra sao?
- Bình thường.
- Chúng nó có nhận ra con không?
- Có.
- Chúng nó có mừng không?
- Mừng.
Mẹ chép miệng:
- Rõ đoảng vị, mẹ quên không bảo con mua cho 2 em ấy mấy cặp
bánh dầy cho chúng nó ăn bánh dầy kẹp chả. Cậu mợ ấy lương bổng như thế, các em
con chẳng mấy khi được miếng ngon.
Tôi không trả lời, bụng đầy cơn tức. Chẳng phải vì ghen tuông
với 2 đứa bé, nhưng tôi không thể yêu chúng được. Càng không thể yêu bố mẹ
chúng. Tôi quay mặt vào tường, bĩu môi:
- Thế mà còn dặn, con đừng nói với cậu mợ là mẹ ốm nhé. Chẳng
ma nào nó thèm ỏ ê...
May, mẹ tôi đã không nghe rõ những tiếng lầm bầm. Mẹ hỏi:
- Cái gì thế Hằng?
- Không có gì đâu mẹ ạ. Con mắng lũ kiến. Chúng nó bu đen cả
lọ đường.
Hai ngày sau, mẹ tôi gánh hàng ra chợ, mặc cô Vị khuyên can.
Mẹ nói:
- Cô đừng lo, tôi khỏe lắm. Gánh gáng hàng cứ nhẹ như lông ngỗng.
Tôi hiểu ý nghĩ của mẹ: Giờ đây, mẹ có nhiệm vụ phải bảo trợ
cho 2 đứa cháu. Mẹ có nguồn hạnh phúc mới. Sự hy sinh quyến rũ làm sao. Tối tối,
tôi thấy mẹ ngồi đếm tiền, lẩm nhẩm tính toán say mê khác thường. Mẹ buôn thêm
cả măng tây và cà chua. Cô Vị bảo:
- Mẹ mày tham quá. Sức người có hạn, cứ quay như chong chóng
cả ngày thế nào cũng ngã bệnh. Khỏe đến như voi cũng còn gục chứ chẳng phải người.
Dịp ấy, chúng tôi được nghỉ học kỳ. Lũ bạn rủ tôi ra bờ sông
chơi. Với chúng tôi, những cuộc đi như thế thật quyến rũ. Tôi mang sẵn bao
diêm, tới nơi, chúng tôi gom góp củi khô, đốt lửa. Cả bọn xúm quanh, nhìn ngọn
lửa liếm từng cành cây hay búi cỏ, tưởng tượng tới 1 hòn đảo hoang, 1 khe núi,
đời sống của những bộ lạc man dại xưa. Gió thổi. Mùi các thân cây phơi nắng,
thân ngô, thân cúc dại, dây bí ngô hoặc cỏ mật bốc lên, ngào ngạt. Hạnh “diếc”,
cô tổ trưởng tổ học tập của tôi, cao lêu đêu như cái cọc dẫn đầu 1 tốp 3 đứa đi
tới ruộng ngô gần nhất bẻ ngô về nướng. Trước khi đi, nó bảo tôi:
- Mày có nhiệm vụ canh gác và kiếm thêm củi.
Tôi lắc đầu:
- Không. Tao không ở lại 1 mình.
Nhưng con bé đã trợn ngược cặp mắt xếch lên:
- Đồ hèn. Ngồi ở đấy.
Tôi đành tuân lệnh. Vừa kiếm củi, tôi vừa đưa mắt tháo nhác
nhìn bọn chúng. Chừng nửa giờ sau, bọn chúng mới về, đứa nào đứa ấy phưỡn bụng
ra. Toàn ngô bên trong. Chúng tôi nướng ngô ăn. Bắp ngô nướng lúc đó ngon hơn mọi
thứ mỹ vị trên đời. Tan cuộc chơi trời đã tối mịt. Chúng tôi rủ nhau về.
Phố đã lên đèn. Ở nhà tôi, có tiếng người lao xao trò chuyện.
Người ta nói gì đó tôi không nghe rõ. Toàn những bạn buôn của mẹ tôi và hàng
xóm. Người chép miệng, kẻ lắc đầu. Lần lượt họ đi ra. Còn 1 mình mẹ tôi ngồi
trên giường, mặt tái nhợt. Thấy tôi, mẹ gọi:
- Hằng ơi.
Tôi tới gần:
- Mẹ cảm lại hay sao thế?
Sờ trán mẹ, lạnh toát như nước đá. 2 đường gân đập phật phồng
2 bên thái dương. Mẹ tôi đáp, giọng âm thầm:
- Mất hết rồi con ạ. Chỉ 1 phút thôi, mẹ quay đi bưng bát
cháo. Cả vốn liếng suốt 2 tuần lễ vừa rồi.
Tôi nhìn mẹ, ngạc nhiên:
- Ô hay, con tưởng người ta vẫn bưng thức ăn tới bán?
Ngày thường, mẹ tôi cùng những người bán hàng khô ngồi thành
dãy. Tới bữa, hoặc cơm, hoặc cháo gà, cháo vịt, hoặc bún thang, bún ốc... Các
hàng rong đem bán tận nơi. Làm sao mẹ tôi có thể quay đi cầm bát cháo mà mất cả
túi tiền? Người ta hói: Buôn bán có bạn có thuyền. Những người ta thành nhóm
thành hội kiếm ăn thường có ý thức bảo vệ nhau. Mẹ tôi, tránh con mắt nhìn của
tôi, đáp khe khẽ:
- Mẹ mua... mẹ mua bát cháo đỗ.
Vậy, tôi đã hiểu. Mẹ tôi hà tiện, mẹ bỏ quầy nhảy sang dãy
hàng bên kia, mua cháo đỗ xanh đem về ăn với đường cát của nhà. Không ngờ bọn kẻ
cắp rình đúng dịp liều lĩnh đầu tiên để nẫng nhẹ túi tiền của mẹ. Chợ Tết, người
mải bán, người mải mua, các bạn hàng không để ý. Vả lại, xưa nay, chưa ai hàng
động như thế bao giờ. 1 bát cháo, hà tiện được bao nhiêu? Mẹ tôi thì thầm:
- Vận hạn con ạ. Biết làm sao?
Tôi nói với mẹ:
- Mẹ đi nghỉ đi. Con nấu cháo nhé?
Mẹ đáp:
- Tùy con, con ăn gì mẹ ăn nấy. Lưỡi mẹ giờ đắng như nước
vôi.
Tôi nấu cháo thịt, gia nhiều hành và hạt tiêu cho mẹ. Phần
mình, tôi húp 1 bát nhỏ rồi chạy ra đầu phố mua ngô nướng. Bà lão bán ngô cúi tấm
lưng còng xuống chậu than. Chiếc quạt nan trong tay bà phe phẩy 1 cách kiên nhẫn.
Than hồng rực lên, bắn từng chùm hoa cải. Những hạt ngô già nứt ra, nở hoa trắp
lốp.
- Cho cháu mua 1 cái. Chọn cái non bà nhé.
Bà lão ngẩng đầu lên:
- Con nhà Quế đã lớm thế này ư? Má hồng mắt đen, sắp đến tuổi
lấy chồng rồi.
Tôi sực nhớ, Hồi tôi con nhỏ, mẹ tôi đã từng bưng chậu than
ra chân cột đèn như bà. Và mỗi đêm, mẹ nhặt những đồng bạc lẻ nhọ nhem than bụi
để nuôi tôi. Bàlão lật đi lật lại 1 chiến thuôn thuôn, hạt rất đều.
- Chiếc này ngon nhất thúng đấy nhé.
Tôi trả tiền bà.
- Cho cháu xin.
Những hạt ngô nếp dẻo quẹo dính vào chân răng. Mùi ngô thơm
và những tia lửa bắm tóe ra từ chậu than, rọi sáng 1 đêm đông quá vãng. Những cột
đèn trên hè phố trôi dập dềnh như trong đám sương mù. Chợt 1 gã cà lơ túm đuôi
tóc tôi, cười cợt:
- Em ơi, dừng lại cho anh yêu 1 tí. Ôi, đôi môi xinh tệ... Cười
lên cho anh ngắm nào... 13 tuổi chưa?... Phải rồi, tuồi này ngày xưa đã có chồng
có con rồi đấy... Lấy chồng từ thủa 13, đến năm 18 em đà 5 con... Vậy mà còn thẹn
thùng cơ chứ?
Tôi cố sức giằng khỏi tay gã. Gã trạc ngoài 20, gương mặt đẹp
như tài tử Alain Delon, ria mép tỉa tót điệu nghệ. Miệng gã sặc hơi bia. Gã
xoay tôi trong tay như xoay con búp bê gỗ, rồi buông tôi ra, gã phá lên cười:
- Ôi, em bé sợ thất thần, trông đến là tội nghiệp.
Gã bước đi, những bước dài khoan thai, như bước của 1 tài sử
siêu việt dạo qua đám công chúng ngưỡng mộ. Và gã hát, bằng tiếng Pháp, bài hát
tủ của nữ danh ca Dalida: Lịch sử tình yêu. Giọng hát ám ảnh của gã lơ lửng
trong không gian, như 1 đám bụi kết đọng, không tan được. Tôi nắm chiếc ngô
nóng bỏng trong tay, trở về nhà. Mẹ tôi ngồi dậy, ngẩn nhìn cuốn lịch con:
- Sao mẹ không ngủ đi?
Thay vì trả lời tôi, mẹ ngước mắt lên:
- Mai đã là 25 tết. Nhà cô Vị cúng ống Táo ngày hôm qua. Mẹ mải
bán hàng, quên mất.
Rồi mẹ lại buông tiếng thở dài:
- Đúng là vận hạn.
Tôi an ủi mẹ:
- Đằng nào chuyện cũ cũng qua rồi. Ngủ đi mẹ.
Mẹ tôi gấp cuốn lịch tay, lẩm bẩm:
- Bao nhiêu việc phải lo.
Tôi nói:
- Có 2 mẹ con, đặt vài cái bánh chưng cũng xong. Mẹ đừng lo
cho mệt xác.
Mẹ tôi cười, lắc đầu:
- Con nghĩ đơn giản quá.
Tôi sực tỉnh, chắc chắn mẹ tôi không chỉ lo cái Tết cho mẹ
con tôi. Bây giờ, mẹ đã gia nhập vào 1 guồng máy khác. Trách nhiệm khác. Sự hy
sinh thật dịu ngọt và êm đềm.
Chương 10
Sáng hôm sau tôi dậy muộn. Trời rét. Nhưng vừa xỏ chân vào guốc,
đã nghe tiếng người ngoài sân. Tôi lò dò chạy ra cửa. Hai thanh niên lực lưỡng
đang khuân sắt. Mẹ tôi đã bán lại hai tạ sắt dư định đổ mái bằng cho nhà ông Tạo
ở ngoài phố. Ông ta cơi tầng gác thứ hai thêm một gian và cố làm xong trước Tết
để ăn một cái Tết vui vẻ. Mua được mớ sắt rẻ, trông ông sung sướng hể hả ra mặt.
Ông chỉ huy đám con khuân vác, điệu bộ tung tăng, cười hớn hở hết cả lũ bốn chiếc
răng bịt vàng.
Mẹ tôi gánh hàng ra chợ. Trước khi đi, còn quay lại dặn:
- Chiều nay nấu cơm sớm Hằng nhé. Ăn xong, mẹ con mình có việc
phải đi.
Bốn giờ chiều, tôi đã nấu cơm xong xuôi. Cá kho, dưa cải, vài
miếng đậu phụ sống. Xưa nay, nhà chúng tôi vẫn sống tằn tiện. mẹ tôi quẩy gánh
hàng nặng oằn đòn gánh về. Khi mẹ dỡ lần lượt các thứ hàng ra, tôi thấy mẹ đã sắm
sửa đầy đủ vật dụng cho ngày Tết: nào giò, nào chả, nào thịt, nào mỡ, rồi gạo nếp,
đỗ xanh, lạc, măng, miến, bánh da nem, bóng bì lợn... Trông mẹ tươi tỉnh hẳn
lên:
- Lạy Trời, qua năm hết vận hạn, làm ăn khấm khá lên mẹ con
mình sửa nhà cũng được.
Tôi đáp: Vâng.
Chúng tôi ăn cơm xong vừa lúc trời sẩm tối. Đồng hồ chỉ 5 giờ
27 phút. Mẹ tôi nhẩm tính:
- Giờ này, chắc cậu mợ Chính sắp ăn cơm. Ta cứ thong thả con ạ.
- Vâng, con chạy sang nhà thằng Khang một tí.
Tôi chạy sang nhà Khang sứt, rủ nó chơi cờ carô. Nửa tiếng
sau tôi quay về, đã thấy mẹ sắp xếp nhà cửa gọn gàng. Một chiếc túi cói lớn,
căng phồng chờ trước cửa.
Mẹ bảo: Đi đi con.
Chúng tôi ra phố, gọi xích lô tới khu nhà tập thể K. Nhà cậu
tôi đang sửa soạn chứ chưa ăn cơm. Ở đây, họ ăn cơm muộn hơn đám dân ngoài phố.
Mợ Thành đang lom khom thái một cà muối chườm thành các lát mỏng, trộn đường và
tỏi. Trên mâm, một đĩa bắp cải xào và vài miếng chả cá thái nhỏ bỏ trong bát đựng
nước mắm. Cậu tôi đang ngồi đọc báo. Hai đứa con trai gõ đũa xuống mâm, chờ tới
phút được lệnh ăn cơm. Thấy mẹ con tôi vào, cậu Chính ngẩng lên:
- À chị Quế.
Rồi cậu cau mặt lại tức khắc:
- Em đã bảo chị đừng lo gì hết. Chị... rắc rối quá.
Mẹ tôi, với vẻ mặt của một kẻ có lỗi muốn được cứu chuộc, đáp
ấp úng:
- Chẳng là... hai cháu gầy quá, Chị muốn cho các cháu...
- Chị buồn cười. Tạng chúng nó gầy. Hồi nhỏ em cũng có béo
đâu?
Hồi nhỏ... Cái danh từ ấy khơi gợi cả một dĩ vãng thân ái. Mắt
mẹ tôi sáng lên, và vẻ mặt mẹ vừa xúc động vừa có gì đó quỵ lụy, như mặt một
con chó cưng ngửi thấy hơi hướng thân chủ:
- Ôi chao, hồi nhỏ cậu cũng khá lắm, chứ đâu có như cháu Tuấn
cháu Tú bây giờ.
Bà vợ rỗ hoa của cậu tiến ra, tay bưng bát cà, miệng cười:
- Chị Quế ăn cơm với chúng em.
Rồi như chợt nhớ ra tôi ngồi phía sau, mợ ta a một tiếng rồi
nói thêm:
- Cả cháu Hằng nữa.
Vẻ mặt tươi tỉnh của người em dâu khiến mẹ tôi hớn hở. Mẹ cười,
hai hàm răng lấp lánh:
- Mẹ con tôi ăn rồi. Cậu mợ cho các cháu ăn. Đây, quà Tết bác
chuẩn bị cho Tuấn, Tú.
Mẹ tôi mở chiếc túi cói. Ngay tức khắc, mợ Thành lao ra, khép
chặt hai cách cửa. Sau đó mợ ta còn kéo tấm riđô bằng vải hoa Trung Quốc đỏ rực
che kín khuôn cửa sổ. Mẹ tôi đặt trước mặt vợ chồng người em trai toàn bộ những
thứ đồ vật mẹ đã sắm ngày hôm nay. Một cái Tết trù phú cho tám người chứ không
phải bốn người. Đôi mắt người em dâu của mẹ tối tăm lại, trong lúc những nốt rỗ
như nở to hơn và trắng ra. Mắt mợ ta hết dáo lên lại dáo xuống. Cậu Chính quay
đi, miệng bảo:
- Không cần, không cần... chị lãng phí thế làm gì?
Những câu nói của cậu không có âm sắc, không nhằm vào ai. Như
một đường bóng không địa chỉ trên sân đấu. Hai đứa con cậu hét lên, vươn cổ ra
nhìn. Từ trước tới nay, chúng chưa thấy sự trù phú bao giờ. Mợ Thành huỳnh huỵch
chạy ra rồi chạy vào, khuân mớ thực phẩm cất vào tủ, vào trạn. Tôi nghe tiếng
loảng xoảng, tiếng lục đục gì đó trong buồng, chắc chắn đó là sự va dập khi bà
mợ của tôi thu xếp, chứa đựng đám của cải không có trong kế hoạch.
Đồng hồ treo tường nhà tren thong thả gõ bảy tiếng. Cậu tôi bảo:
- Thành, cho các con ăn cơm thôi.
Bà vợ cậu đáp:
- Được rồi, em ra ngay đấy.
Lát sau, mợ đem ra một đĩa giò, miếng nào miếng nấy thái mỏng
như lưỡi mèo. Vậy mà, mợ phải khép kín cả hai cánh cửa sổ. Người đàn bà nói.
- Để cho họ khỏi nhòm ngó.
Bây giờ, tôi mới hiểu vì sao khi tôi đem quà tới hai con mắt
mợ ta cứ đảo lên đảo xuống như mắt kẻ trộm. Hẳn là ở đây, người ta có thói quen
rình mò nhau, kiểm soát lẫn nhau, và kẻ nào ăn hơn một miếng sẽ trở thành đối
tượng cho cả đám đông nghi vấn.
Hai đứa trẻ đã thôi gõ đũa cành cạch vào miệng bát. Chúng ngồi
im, mắt châu hẫu nhìn đĩa giò. Mẹ chúng, người em dâu mẹ tôi bắt đầu cuộc phân
chia khẩu phần thường lệ. Mẹ tôi, đắn đo, rụt rè một hồi rồi nói:
- Mợ cứ cắt thêm cho các cháu.
Mợ ta đáp gọn lỏn.
- Không được, sinh hoạt phải có kế hoạch, tổ chức.
Nói đoạn, mợ ta gắp một đũa rau cải xào, bỏ vào miệng, rồi vừa
nhai vừa nói:
- Chị ăn cơm.
Tôi muốn về. Nhưng mẹ tôi đang ngắm nhìn hai đứa cháu trai của
dòng họ Đỗ. Chúng ăn một cách ngon lành, say sưa. Mẹ tôi nhìn chúng, cũng say
sưa như thế. Mợ Thành vừa ăn vừa nói:
- Hồi nhà em cầm tiền về, đã bảo mua lấy cái tivi không chịu.
Sắm giường tủ, bàn ghế xong, đem gửi hết vào ngân hàng lấy tiền lãi. Bây giờ
thành mớ giấy lộn.
Cậu Chính đưa mắt lườm vợ:
- Thành, ăn nói hay nhỉ!
Vợ cậu như sực tỉnh, im bặt. Mẹ tôi đỡ lời:
- Thời vận, tính sao được hả mợ? Cũng nhiều người hai thứ tóc
còn dại, huống chi cậu ấy.
Cậu tôi trừng mắt:
- Gửi tiền vào ngân hàng nhà nước, sao chị lại nói là dại?
Mẹ tôi ấp úng:
- Ấy là... Tôi chỉ nói thế thôi. Vì hai năm nay, tiền mất giá
mấy chục lần. Lúc gửi cả lạng vàng, bây giờ mua được hai gói mì chính.
Cậu tôi cắt lời:
- Lạng với chả hoa. Em có phải dân tiểu thương như chị đâu mà
biết mấy thứ ấy.
Mẹ tôi cúi mặt, làm thinh. Tôi định kéo mẹ về, nhưng chợt có
tiếng gõ cửa. Giọng vui vẻ của một chàng trai.
- Thủ trưởng có nhà không ạ?
Rồi anh ta xuất hiện tức khắc, không đợi ý kiến chủ nhà.
- A ha, giờ thủ trưởng mới ăn cơm. Sao muộn thế?
Cậu tôi bỏ đũa bát, bước ra bàn:
- Ngồi xuống đây.
Thấy nhà có khách, mẹ kéo tôi ra giường ngồi. Chàng trai trẻ
nháy mắt với tôi một cách hồn nhiên:
- Em gái cứ ngồi đây. Thế giới bình đẳng mà.
Anh cũng trạc ngoài 20, người thấp đậm, tóc dày, mắt dài. Khi
cười, trông tinh nghịch và lẳng lơ. Anh ta mặc sơ mi xanh chấm đen, quần bó,
dáng khỏe khoắn. Gương mặt rám nắng, riêng hai gò má hồng bóng lên. Thấy cậu
Chính rót nước vào ấm trà, anh kêu to:
- Thủ trưởng cho em uống xái ba hay xái tư đấy ạ?
Cậu Chính không đáp, đặt chến nước trước mặt anh nghiêm giọng
hỏi:
- Có việc gì thế cậu?
- Dạ, có việc đây.
Chàng trai đáp, đoạn rút từ lưng quần phía sau một cuốn sổ
con. Mở cuốn sổ, anh nói:
- Báo cáo thủ trưởng, sắp Tết Nguyên đán, lại có đoàn đại biểu
công đoàn các tỉnh phía Nam ra họp, chúng em dự định tổ chức buổi lễ kỷ niệm
nhà thơ Đồ Chiểu.
- Đồ Chiểu nào?
- Dạ, nhà thơ yêu nước nổi tiếng nhất những năm đầu thế kỷ, một
phần linh hồn của những người dân miền Nam.
- Cậu đưa nội dung tôi duyệt.
- Chàng trai đưa ra một bản đánh máy lớn, gấp làm 8. Cậu
Chính mở rộng tờ giấy, trải gần kín mặt bàn. Cậu đeo kính, cắm đầu đc. Chàng
trai đưa mắt nhìn hình cô gái múa ô trên tờ lịch, chờ đợi. Lát sau, cậu ngẩng
lên nghiêm giọng:
- Không được.
Chàng trai sửng sốt:
- Sao ạ?
Cậu Chính cau mày:
- Nhà thơ yêu nước gì mà ủy mị thế? Cậu nghe đây.
Cúi xuống, đưa ngón tay lên tìm các dòng chữ, cậu đọc:
- Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh khói nhuốm
mày mây. Thế này làm gì có tinh thần xốc tới, liên tục tiến công? Bỏ, bỏ... Đồ
Chiểu cũng bỏ.
Chàng trai nói:
- Thưa thủ trưởng, những năm đó cuộc kháng Pháp của nhân dân
ta đang ở trong thời kỳ đen tối. Hoàng Điệu tự sát. Trương Công Định bị xử trảm.
Hàng vạn sĩ phu yêu nước bị bức hoặc bị lưu đày, trong hoàn cảnh cụ thể đó...
Cậu Chính giơ tay chém ngang.
- Tôi biết... tôi biết... nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào
người chiến sĩ cách mạng cũng lhông được phép ủy mị, buồn rầu. Ông Đồ Chiểu này
không có tinh thần của người cách mạng. Lại còn đây nữa nhé.
Cậu cúi xuống, đọc tiếp:
- Phan Lâm, mãi quốc, triều đình khi dân... Hỏng. Hỏng. Câu
này còn nguy hiểm hơn nữa. Nói triều đình là muốn ám chỉ trung ương hay sao?
Mặt chàng trai đỏ như say bia, trên cần cổ vạm vỡ của anh, nổi
lên một đường gân căng thẳng, phập phồng:
- Nhưng thưa thủ trưởng, trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của
chúng ta, rất nhiều chiến sĩ đã ngâm thơ Đồ Chiểu, nghe những làn điệu dân ca
Nam Bộ phổ thơ Đồ Chiểu trước giờ xuất trận. Bất kỳ người nào chịu khó tìm hiểu
và nhận biết đời sống, đều thấy nhà thơ Đồ Chiểu có một chỗ đứng không ai thay
thế được trong tâm hồn người dân miền Nam.
Đến lượt cậu Chính đỏ cả mặt lẫn cổ. Cậu chòng chọc nhìn
chàng trai sau cặp mắt kính:
- Không ai thay thế được? Cậu nói thế nghĩa là Đồ Chiểu còn đứng
cao hơn Đảng, trong tâm hồn nhân dân miền Nam, đúng không?
Bàn tay cậu xòe ra, như lưỡi kiếm. Chắc chắn nó sẽ chén đứt
đôi cái cổ chàng trai, nếu nó muốn. Dù đó là một cần cổ vạm vỡ, tràn trề sinh lực.
Mặt chàng trai đang đỏ rực bỗng chuyển sang màu xanh xám rồi xanh lẹt, mồ hôi đổ
lã lã trên trán. Cậu Chính nói:
- Uy tín của Đảng là tuyệt đối trong lòng dân tộc, hôm nay và
mãi mãi về sau. Không một ai có thể so sánh với chỗ đứng duy nhất đó.
Chàng trai cúi đầu, im lặng. Sự quy phục của anh ta làm cậu
nguôi giận. Như con gà chọi đã hả máu sau khi bật mấy cú đá thí mạng vào ức đối
pgương, cậu nói tiếp, giọng đã bớt căng thẳng:
- Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên một chiến thắng tuyệt
diệu. Do chiến thắng ấy, chúng ta trở thành lương tâm của nhân loại, trở thành
ngọn đuốc dẫn đường cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc toàn cầu. Trong ba
dòng thác cách mạng của thế giới, chúng ta là một ngọn cờ. Cậu phải luôn luôn
quán triệt tinh thần đó.
- Thưa thủ trường em nhớ rồi.
- Chúng ta, những người làm công tác tư tưởng, đội quân canh
gác cho thành trì cách mạng, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác với những biểu
hiện ủy mị, thiếu tính chiến đấu, suy đồi.
- Thưa thủ trưởng, vậy cuộc lễ kỉ niệm có được duyệt không ạ?
- Để đó, tôi nghiên cứu đã.
- Nhưng, chỉ còn hai hôm, vừa gửi giấy mời, vừa thuê người vẽ
panô, trang trí hội trường, mời các diễn giả và nghệ sĩ minh họa.
- Thế hả?
Cậu Chính chớp mắt, nâng gọng kính khỏi sống mũi:
- Kể ra thì... cái tay dồ Chiểu này cũng không đáng ngại lắm,
Nhưng sao ít nghe tên ông trên đài, báo? Thơ cách mạng, cứ Tố Hữu ra mà ngâm là
yên trí.
- Thưa Thủ Trưởng, Đồ Chiểu là nhà thơ của những năm đầu thế
kỷ. Và lịch sử...
- Gượm đã.
Cậu Chính cắt ngang lời chàng trai, đoạn cúi xuống đọc nốt những
dòng chữ li ti trên tấm chương trình tổng hợp. Ánh mắt cậu soi lục qua các dòng
chữ. Rồi cậu gục gặc đầu:
- Theo Đại Việt sử ký toàn thư... tay viết lời bình dẫn cuốn
sách này ở đâu ra thế?
Chàng trai đáp:
- Dạ. Đại Việt sử ký toàn thư là...
Cậu bỗng à lên một tiếng thật to, tay vỗ trán đánh đét, rồi
nói:
- Nhớ rồi, nhớ rồi. Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Quí Đôn.
Tay này nổi danh lắm đấy. Quê ở Thái Bình.
Miệng chàng trai thoạt đầu nhoành ra như sắp cười. Nhưng nửa
tích tắc sau thu lại, biến dạng méo mó như sắp mếu. Mặt anh chàng ngây độn. Anh
đứng thẳng lưng, chằm chằm nhìn thủ trưởng. Lúc ấy, ông cậu tôi cẫn tiếp tục gật
gù vì sự uyên bác của mình. Cậu bảo:
- Thôi được, tôi duyệt.
Cậu gấp tờ chương trình tổng hợp lại, đưa trả cho chàng trai:
- Các cậu bảo nhau mà làm. Nhớ gửi giấy mời ban tuyên huấn
các cấp, và các cục, vụ, viện cho đàng hoàng.
- Vâng ạ... cảm ơn thủ trưởng.
Cháng trai cúi đầu, chào chúng tôi rồi vội vã rút lui. Tôi bảo
mẹ tôi:
- Con về đây.
Mẹ tôi cần túi, chào vợ chồng cậu Chính. Lần này, mợ Thành ra
tiễn tận cửa, nghĩa là tận dan gác bằng gỗ sơn màu cánh gián khó coi ấy. Nhưng
có điều, mỗi khi gặp người quen, mợ ta lại vùn vụt đi trước, hoặc cúi xuống móc
hòn sỏi lọt vào dép, để tụt lại phía sau. Tôi không hiểu điều đó. Bởi vì, đấy
là lần cuối cùng tôi tới khu nhà tập thể K. Mẹ tôi ép cách nào, tôi cũng nhất
quyết ở nhà. Hơn một năm sau, trong lúc chuyện trò với cô Vị, mẹ tôi phàn nàn:
- Mợ ấy không muốn đi cạnh tôi. Làm sao vậy? Tôi có ăn trộm,
ăn cắp, cướp của, giết người đâu?
Cô Vị bảo:
- Tôi không lạ gì chuyện ấy. Trại lính mà.
Mẹ tôi ngẩng đầu nhìn cô Vị. Lúc ấy, cả hai người cùng bổ
trám để ngâm nước mắm:
- Cô nói thế nghĩa là sao?
Cô Vị đáp:
- Nghĩa là ở đấy người ta sống với nhau theo cách sống của trại
lính. Đã là trại lính thì phải ăn như nhau, mặc như nhau, ở như nhau. Khác nhau
tấm áo manh quần đã chướng mắt. Hơn nhau đồng tiền bát cơm là sinh sự. Tôi bảo
chị nhé. Chị cứ sắm một bộ quần áo y hệt như quần áo của cô em dâu, mặc vào.
Tôi bảo đảm cô ta sẽ cư xử khác. Có sai, cứ đem đầu tôi ra mà chặt.
Mẹ tôi cười. Nhưng ít lâu sau, tôi thấy mẹ mua vải may một bộ
quần áo mới, theo kiểu của cô em dâu thật. Mỗi lần tới khu K mẹ thay bộ quần áo
ấy, và từ đó, mẹ tươi tỉnh nhẹ nhõm hẳn lên.
Lại nói chuyện Tết năm ấy, mẹ tôi mua sắm cho gia đình cậu
Chính đã cạn tiền, nên chỉ thừa vài chiếc bánh chưng với nửa cân giò. 29 tháng
Chạp, cô Tâm từ quê lên. Lần này, bà Đũa gánh theo cô cả một gánh các thức bánh
trái, giò, thịt, cam, bưởi, chuối, hồng xiêm... không thiếu thứ gì. Lại còn lồng
gà, có một con gà sống hoa trắng và tám con gà mái non. Cô bảo:
- Con gà sống hoa này cho mẹ con mày làm lễ cúng giao thừa.
Còn đám gà mái chưa ghẹ ổ để hầm dần cho con cháu Hằng ăn. Năm nay qua tuổi dậy
thì rồi, phải chịu khó ăn uống cho có da có thịt.
Nói xong, cô bước tới bàn thờ, lật tấm lụa trắng phủ ảnh bố
tôi xem qua. Rồi cô gọi bà Đũa về.
- Cô gửi nhà hàng xóm. Phải về ngay nội nhật hôm nay. Hai mẹ
con mày không phải lo cơm nước gì cả. Cô có tiền. Đến đâu ăn quà đó.
Cô ôm tôi vào lòng, vuốt ve, rồi bảo:
- Xem kìa, càng lớn lên càng giống bố mày như đúc. Thật là
rau nào sâu nấy, chẳng lẫn vào đâu.
Cô cúi xuống hít tóc tôi. Cô có thói quen ấy. Rồi cô lật mái
tóc lên xem có chất trứng không.
- Nó giữ tóc sạch đấy. Đừng có phi dê phi bò gì con
nhé!
- Vâng ạ.
- Thôi, cô về. Sang giêng viết thư cho cô.
- Thưa cô, vâng.
Tôi nắm áo cô, tiễn cô ra tận phố chính. Cô gọi xích lô chở
cô với bà Đũa ra bến xe. Chiếc khăn len bay phấp phới trong làn bụi mờ. Cô dướn
đầu lên, quay lại nhìn tôi. Tôi cũng nhìn theo cô cho tới lúc xe xuống dốc. Lúc
đó tôi trở về nhà, mẹ tôi đang bày bàn thờ. Tôi biết mẹ tôi có ý chờ cô Tâm lo
Tết cho tôi, nên mẹ tôi dồn tiền sắm sanh cho gia đình cậu Chính. Mẹ nựng tôi:
- Tết nhà mình to ghê. Nhờ lộc của con gái đấy.
Tôi không thể chịu được một giọng nói thiếu tự trong đến như
thế. Tôi bỏ đi. Tại sao mẹ tôi phải cư xử như vậy? Và cậu tôi, và người đàn bà
mặt rỗ hoa vợ cậu ấy, cả hai đứa bé kia nữa, có gì đáng để mẹ phải hạ mình như
vậy với tôi? Xích xiềng êm dịu làm sao? Tiếng anh con trai què lại rống lên thê
thiết, trong bầu không gian nhộn nhạo của phố xá ngày tất niên:
Rồi thu sang lá vàng rơi đầy...
Trong những ngày cuối năm, nhịp sống dồn lên, thúc đẩy, xô lấp
như dòng lũ, tiếng hát kia càng thê thảm làm sao. Một âm thanh đứt đoạn, một
tia sáng lóe lên rồi ngút tắt, một tàn lửa thoi thóp, một âm giai quẫn bách của
kiếp người.
Chương 11
Người đàn ông bên cạnh đập vào vai tôi.
- Này cô bé.
Tôi choàng dậy. Tôi vừa chìm vào giấc mộng của những cơn hồi
tưởng. Người đồng hành cười. Những chiếc răng bạc của ông ta lại sáng lên trong
bóng tối:
- Không có gì đắp hay sao?
Tôi nhận thấy tôi đã co quắp và rúc vào vai ông ta trên đoạn
đường vừa qua. Tôi xấu hổ, lúng búng xin lỗi. Người đàn ông lắc đầu:
- Không sao, cô bé ạ. Tôi có thể cho cô mượn tấm áo varơi của
tôi.
Tôi đáp:
- Cám ơn ông. Tôi có mang khăn theo.
Tôi mở túi, lấy tấm khăn của bà Vêra. Người đồng hành nhún
vai, ồ lên một tiếng thán phục. Bà Vêra nói đúng. Đêm lạnh, và tấm khăn len
mênh mông của bà thật là một cái tổ chim lý tưởng cho chim trú rét. Tôi choàng
tấm khăn của người đàn bà cô đơn thấy hơi ấm tỏa toàn thân. Thật dễ chịu. Tàu vẫn
đang chạy. Bên ngoài, cảnh sắc mờ ảo như một bức tranh của Jôn Oátsten một họa
sĩ vô danh tiểu tốt tôi gặp trên bãi biển Crimê. Jôn Oátsten gốc Anh. Dù đã ở
Tây Ban Nha nhiều năm, anh ta vẫn mang trong mình dòng máu sương mù xứ sở.
Tranh của Jôn là những cơn hoang tưởng trộn lẫn sương mù. Mọi thứ màu sắc của
anh đều bị sương mù phủ lên, như nhựa dính, như nỗi ám ảnh không có cơ suy giảm.
Cường độ nỗi ám ảnh sương mùa càng ngày càng mạnh hơn, điên khùng hơn trong những
bức tranh của Jôn. Anh ta đã cho tôi xem tới trên một ngàn bức sơn dầu
và phấn màu. Với địa chỉ và thời gian ghi dưới các tấm tranh,
tôi biết càng ngày, Jôn Oátsten càng rời xa quê hương, dấn thân vào xứ sở của mặt
trời. Nào Angiê, Los Angeles, Cairô, nào Tân Đêli, Bombay, nào những thành phố
mới của Úc Châu cuồng phóng. Thật lạ, càng xa quê hương, nỗi nhớ quê hương cần
ám ảnh. Càng lãng quên sương mù, sương mù càng trở thành một xúc cảm có tính
toàn năng chi phối người nghệ sĩ. Có lẽ, nếu Jôn đã là danh họa, anh ta sẽ chẳng
bao giờ trò chuyện với tôi, một người con gái bình thường trên bãi biển Crimê ồn
ào có hằng hà sa số mỹ nhân. Nhưng cũng chính vì anh ta chỉ là một họa sĩ vô
danh, tôi mới tìm thấy ở anh ta sự quyết liệt của khát vọng, và nguồn cảm xúc dồi
dào, đôi lúc có khuynh hướng bội phát chỉ có ở đoạn đời trước của con người.
- Tại sao?...
Jôn nhún vai, anh ta nói tiếng Nga tồi, không mạch lạc. Cái
mũi tróc da của anh ta đỏ ửng, nối trên những đám da chưa kịp tróc rám đen. Jôn
tới thành phố Crimê để vẽ. Thuộc loại khách châu Âu không nhiều tiền. Một chàng
trai xấu xí và cô độc. Các cô chiêu đãi viên xinh đẹp nhất, có giá nhất trong
các khách sạn và các restaurant không quan tâm tới anh. Jôn nhắc lại.
- Tại sao cơ? Tôi không hiểu. Đã 12 năm tôi chưa trở về Anh.
Gia đình tôi có một chuyện gì đó không thuộc loại chuyện vui vẻ. Vì thế, tôi cứ
đi mãi. Khi nào, nhờ đám họa sĩ đàn anh, tôi bán được vài bức tranh, thì tôi
tích trữ toan, cọ vẽ, và các loại màu. Sau đó tôi tiêu xài xa xỉ một chút. Nếu
không, tôi sống với đồng tiền lợi tức của tôi.
Anh ta ngừng lại, để đưa chai nước suối lên tu. Suốt một tuần
ở bãi bể Crimê, quên Jôn, tôi chỉ thấy anh ta uống nước khoáng. Sau đó, Jôn lăn
cái vỏ chai rỗng lên cát, và nói tiếp:
- Đã 12 năm tôi không giáp mặt với sương mù xứ sở, nhưng tôi
thấy nó ngày ngày. Như nó tẩm ướt tóc tôi, như nó phả vào hai lỗ mũi tôi buốt
giá, nhưng nó chạm vào làn da tôi. Sớm nay cũng vậy, khi tôi từ trên giường bước
xuống, tôi cũng bước trong lớp mù sương ấy, lạnh và ẩm ướt, và màu xám nhẹ, như
có ai tung lớp bột mịn trong không gia.
Jôn nhắm mắt lại. Ánh nắng chói như lửa của Crimê chiếu vào mặt
anh. Nhưng tôi biết tất cả những điều Jôn nói là hoàn toàn đúng.
Vâng, đôi khi người ta không lý giải được một ẩn ức ở trong
mình. Nó tồn tại bởi một sức mạnh khác, một sức mạnh vô hình, không thể nắm bắt...
Sương mù trong những bức tranh của Jôn Oátsten khiến tôi nhớ tới cảnh một ao
bèo. Thật là một liên tưởng kì quái. Nhưng có thực. Sao tôi không nhớ tới cánh
đồng xanh khoáng đạt, với những con diều bay lượn trên cao? Sao tôi không nhớ tới
đồng lúa chín, với các chân ruộng bậc thang đậm nhạt pha sắc, vì hình ảnh ấy
thanh nhã. Sao tôi không nhớ tới những thành phố trắng của miền Trung với các
bãi biển mơ màng: nào Nha Trang, nào Mỹ Khê, nào Đại Lãnh... Sao tôi không nhớ
tới con đường cheo leo lên Tây Bắc, vào một ngày xuân, trước khi bước vào trường
đại học, tôi đã theo bạn bè tham dự cuộc rong chơi. Con đường ấy lượn quanh co
giữa các vách núi và vực thẳm, tựa sợi dây đàn căng ra trong cơn hứng khởi trước
vẻ đẹp và hiểm nguy. Những rừng ban trắng, ban tím trùng địp nở, như thánh thần,
trong phút quên lãng, đã buông thả bao nhiêu giấc mộng đẹp cho con người. Biển
hoa trắng ngần, tung trên đỉnh núi và rừng cây, như tuyết đọng. Rồi vào sâu hơn
nữa, với những rừng ban tím nhẹ, người ta có cảm giác mây hoàng hôn quần tụ lại,
và choàng trên núi rừng tấm khăn choàng mỏng manh, lộng lẫy, khiến trái tim con
người lo âu, ngột ngạt vì e ngại vẻ đẹp thần tiên kia sẽ tan biến trong thời khắc.
Nhiều cảnh trí đã ghi dấu quyền uy của cái đẹp. Nhưng không
hiểu sao, như Jôn Oátsten đã nhớ tới sương mù, tôi luôn bị ám ảnh bởi một ao
bèo. Một cái ao bèo tầm thường như bất kì ai trong chúng ta đã từng nhìn thấy,
và hờ hững bước qua. Giữa vùng quê, nơi tiếng còi ôtô hoặc còi tàu hỏa vẳng tới
như ảo giác. Nơi mà người đàn bà trẻ có thể chắp tay lạy đức ông chồng như nô
tì lạy chủ nô, và gã có thể lấy đòn gánh phang vợ vì tội đã trái lời gã, dám
cho người bà con vay dăm gánh thóc hoặc vài nghìn viên gạch. Và những điều đó xảy
ra ngay trong thập kỷ 80 này.
Hồi nhỏ, có lần, theo mẹ tôi đến một làng ngoại ô, tôi thấy một
bà già ngồi vo gạo trên cầu ao. Ao rộng, nước trong, góc bên kia, lênh đênh dám
bèo Nhật Bản. Trên đám bèo xanh, xòe những bông hoa tím nhạt. Giống nụ cười bí ẩn
của người đàn bà đẹp trên một gương mặt hứa hẹn niềm yêu. Tôi ngắm mãi.
Bà già vo gạo xong, vỗ rá, rồi khỏa chân rửa. Mặt ao sóng
sánh. Đám bèo Nhật Bản cũng sóng sánh theo, Và những bông hoa tím như thể thẫm
lại trong cơn chao đảo. BÀ già ngẩng lên:
- Mẹ con bác hỏi nhà ai?
Mẹ tôi cười:
- Cháu tới nhà cô Lài. Nhưng con bé thích đám hoa bèo, đòi
xem.
Bà già cười:
- Lạ lùng gì thứ hoa bèo cơ chứ.
Sau này, khi trở về quê, tôi nhiều lần đứng ngắm những ao bèo
khác. Những chiếc ao thật sự của vùng quê thật sự. Những chiếc ao tù hãm, mặt
nước nổi bọt vì chất thối rữa, các loại rong tảo nảy nở đến nỗi nước không còn
trong và loãng mà trở nên nhớt nhát như một thứ dầu. Những chiếc ao vây bọc bởi
các ngôi nhà chen chúc, những khu vườn bị phân cắt, những chuồng tiêu hôi thối
dưới nắng hè. Mùi bèo, mùi cỏ dại, mùi đám rong đuôi chó, rong chùm bị phơi héo
trên bờ, mùi bùn, mùi ếch nhái chết. Những con cá cờ bị lũ trẻ ném lên khô cong
khô nỏ, vây sạm đen. Và trong cái khung cảnh ngột ngạt ấy, những cành hoa tím
điểm trên nền xanh giống như một thứ độc dược, một vẻ đẹp của xú ếu, sự tô đỉm
cho một đời sống thiếu sinh khí, không cởi mở và tăng trưởng. Trời chiều, mặt
trời ném xuống các vũng ao một bát tiết đỏ lòe, nhếnh nhoáng như rượu hòa máu
con vật bị đâm chết trong những ngày đình đám. Và trời lặng gió, không khí như
ngưng đọng trong oi ả của mệt mỏi và đợi chờ. Và tiếng kêu của một con cuốc ném
từng nhát vào tĩnh lặng. Và người ta lắng nghe, lắng nghe, vớt tìm tiếng còi
tàu nơi xa. Màu tím đã trở thành ám ảnh. Niềm vui thơ ấu, nỗi khắc khoái của tuổi
thanh niên. Cùng một lúc, nó là hạt sương sớm trong lành, là độc tố của nỗi sầu
không thể cắt nghĩa...
Hà Nội, 10/6/1988
Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét