Đỉnh cao chói lọi 2
SONG TẤU (10)
Choang!...
Một cú đánh sau gáy khiến ông choáng váng. Cơn đau làm từng bầy
đom đóm bay loạn xạ trong mắt ông. Chủ tịch choàng dậy, mở cửa bước ra phòng
ngoài và thấy cậu lính béo đang ngồi trước chiếc chao đèn thuỷ tinh vỡ nát:
« A, cậu bé đánh vỡ chiếc chao đèn. »
Ông nén tiếng thở phào, bảo chàng chai:
- Vỡ rồi thì thôi. Mai bảo văn phòng thay cái khác!
Rồi nhìn thấy bộ mặt đỏ nhừ vì hổ thẹn của cậu ta, ông cười:
- Cứ bảo tôi đánh vỡ. Già rồi cũng phải được quyền run chân
run tay. Làm sao mà nhanh tay nhanh mắt như trai tơ được?
Chàng lính mạnh dạn nhìn ông:
- Xin chủ tịch thứ lỗi.
- Đấy không phải lỗi mà là sự lỡ tay. Tôi đã bảo chú rồi. Phải
biết dùng danh từ cho đúng.
- Dạ...
- Nhiều rầy quá phải không?
- Dạ, quét không xuể ạ.
- Côn trùng tiết xuân mà. Chú dọn đi rồi cho tôi xin ấm trà.
- Dạ.
Ông nhìn chàng trai lui cui hót những mảnh thuỷ tinh vỡ, bất
giác đưa tay ra phía sau xoa đầu. Bao nhiêu lần ông đã có cảm giác mình bị đập
vào trung tâm điểm của hộp sọ phía sau?....Lần nào cũng đúng vào điểm ấy. Chỉ một
điểm ấy thôi:
« Chỉ một chầy thôi, chưa bao giờ phải dùng đến chầy thứ hai
để đốn một mạng người. Cho dù đối thủ cao một thước tám mươi và nặng ngần ấy
cân số lẻ. »
Đó là bảng thành tích của Tám một chầy, thủ hạ đắc lực của Quốc
Tuỳ, bộ trưởng bộ nội vụ. Không ai nói với ông là gã đã hạ sát nàng, ngay cả
Vũ. Nhưng ông biết điều đó, qua những giấc mơ. Qua những giấc mơ, ông biết chắc
chắn nàng đã bị bóp cổ. Qua những giấc mơ, ông biết chúng đã hạ sát nàng bằng
cách chúng vẫn hạ sát những thành viên quốc dân đảng thời xưa. Tám một chày đã
nổi danh từ những ngày ấy. Ông chưa từng giáp mặt y, nhưng đôi lần Sáu mô tả
tên lâu la này một cách trắng trợn trong thời gian xung đột giữa các thế lực
kháng Pháp. Sự mô tả ấy hàm chứa niềm tự hào không giấu giếm. Sau này, khi cách
mạng đã thành công không mấy khi thấy Sáu nhắc đến tên lâu la này nữa, nhưng
ông biết Tám một chầy đã được bổ nhiệm làm tổng cục trưởng tổng cục cảnh sát và
những cái chết bí ẩn của những kẻ thù nghịch lẫn những người bất đồng ý kiến với
Sáu diễn ra như cơm bữa. Tất cả, trong im lặng. Không một ai dám nhắc đến điều
này, trừ Vũ...Phải chăng chính vì sự công khai đó nên Sáu phải chừa Vũ ra? Biết
bao nhiêu người đã thầm thì bàn cãi về chuyện ấy. Quan hệ giữa y và Vũ vẫn còn
là ẩn số. Mọi người đều biết tính nết Sáu. Cái chết của người em trai út của y,
Lê Đinh, mới gần đây, vẫn còn là thời sự nóng hổi chốn triều đình.
Sáu là anh cả trong một gia đình hào phú. Dưới y còn hai đứa
em trai nữa.Tất thảy đều là những gã đàn ông cao to, béo mượt như y, cùng ham
ăn ham gái và ham quyền lực. Nhưng trong hai đứa em đó, người em thứ chịu nhường
nhịn y hơn, dẫu rằng trước khi đi theo cách mạng, y đã từng là kẻ sát nhân
trong một cuộc sát phạt cờ bạc. Y bỏ làng trốn đi theo ông anh làm cách mạng để
tránh cái trát truy lùng tội phạm của nhà chức trách. Nương dưới ống tay áo của
ông anh, trước tiên y tránh được kiếp tù đầy khi cách mạng còn trong bóng tối,
rồi ngày vinh quang đến, lại được hưởng mọi thứ quyền lợi tót vời so với bộ não
lừa của y. Do đó, y một lòng thần phục người anh cả. Còn người em út, vốn tính
ngang tàng thẳng thắn, cũng lại chưa chịu án giết người nên không tự buộc mình
phải tuân theo mọi chỉ định của bậc huynh trưởng. Cái truyền thống: Quyền huynh
thế phụ không lọt vào lỗ tai anh ta. Nhiều lần, anh ta công khai tuyên bố:
« Cơm ai người nấy ăn, việc ai người nấy làm. Phận sự của ai,
người nấy chịu trách nhiệm. »
Vào một bữa giỗ cha, ba anh em tụ họp. Họ bàn bạc cãi cọ rất
nhiều chuyện, trong đó đương nhiên có những chuyện quốc gia, bởi cả ba đều là bậc
lương đống triều đình ; thấp kém nhất là Lê Đinh cũng chiếm được ghế bộ trưởng
bộ công nghiệp. Giỗ cha của các bậc lương đống, ắt hẳn phải có rượu ngon, lợn
béo và đủ thứ sơn hào hải vị cho dù đất nước chiến tranh và lương dân phải thắt
lưng buộc bụng. Nhưng rượu vào, lời phải ra. Đến lúc nào đó, tâm tư được bộc lộ.
Người em út chỉ vào mặt ông anh mà hét:
- Anh ác vừa vừa thôi. Nếu không sau này thiên hạ sẽ đào mả bố
lên. Mà bố là bố chung. Ông cụ không chỉ đẻ ra một mình anh. Ông cụ còn đẻ ra
tôi nữa...
- Câm mồm.
Sáu đáp, với giọng khẽ khàng. Y không muốn những người xung
quanh nghe được câu chuyện của họ, cho dù ba anh em đã ăn riêng mâm, trong một
phòng biệt lập, nhưng lời qua tiếng lại vẫn có nguy cơ vọng ra bên ngoài. Vả
chăng, còn đám gia nhân phục dịch khi lấy rượu, lúc thay nước dùng, hoặc mang
những món ăn mới.
- Tôi bảo chú câm mồm.
- Tôi không câm.
Người em trai càng hét to hơn nữa:
- Tôi không muốn bố tôi bị bật mả quăng thây vì những tội lỗi
của anh.
Quyền cao chức trọng anh hưởng, sơn hào hải vị anh xơi, ông cụ
nằm dưới đất chưa được miếng nào.
Tới đó người em thứ can thiệp. Hai bà chị khác từ phòng bên
cũng bước vào van xin Lê Đinh để anh ta hạ giọng cho... Sáu không nói thêm một
lời. Hơn một tháng sau, Lê Đinh dẫn theo hai tuỳ tùng vào Thanh Hoá săn thú.
Anh ta có một thú vui không bao giờ quên, cũng không bao giờ chán là đi săn.
Nhiều lần anh ta bỏ cả các cuộc họp hội đồng bộ trưởng khi cuộc săn dang dở.
Con người này là tay săn thú thượng thặng. Có lẽ trời sinh ra anh ta trước hết
là để trở thành đao phủ của thú rừng. Trong bộ sưu tầm kiêu hãnh của nghề săn,
anh ta có năm con hổ, hơn hai chục con gấu ngựa. Còn lợn lòi, hươu nai hoẵng và
những loài vặt vãnh khác thì không kể xiết.
Lần đi săn ấy, Lê Đinh chết ngay trong xe hơi, trên đoạn đường
giữa hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hoá. Người ta thông báo là anh ta ngứa tay giở
súng ra lau, rồi không may súng bị cướp cò...
Cậu cần vụ đi ngang sân chùa, khay trà trên tay ; gương mặt
tròn xoe đỏ dừ, mồ hôi vã đầy trán. Leo hết mấy bậc thềm, anh chàng lấy chân đá
cho cánh cửa mở rộng rồi kính cẩn đặt khay trà trước mặt ông:
- Dạ, mời chủ tịch dùng trà. Con chuẩn bị hơi lâu vì ấm điện
bị hỏng, phải đun nước nhờ bếp nhà chùa.
- Không sao. Chú để đấy cho tôi.
- Thưa người, đây là bánh đậu mới. Tỉnh uỷ Hải Dương vừa gửi
biếu.
- Cảm ơn.
Người lính gác lui ra, lưng áo đẫm mồ hôi. Chắc chắn cậu ta
đã khổ sở lắm khi phải chui vào gian bếp bé tí bé tẹo của nhà chùa. Vì to béo,
cứ gần hơi lửa là anh chàng đổ mồ hôi ròng ròng như tưới. Ông nhớ mùa hè năm
trước khi cậu ta tháp tùng ông làm một chuyến dạo chơi khu núi quanh chùa trong
khi chờ Lễ và chuyên gia « phun thuốc muỗi », mồ hôi anh chàng không chỉ thấm ướt
sũng lưng mà còn ướt sũng cả phần quần che đôi mông to béo cong như mông đàn
bà. Mồ hôi cũng chảy không ngừng trên trán, trên mặt. Cậu ta phải vắt trên vai
một chiếc khăn bông to đùng để lau. Lúc đó, ông bảo:
- May mà tôi là chủ tịch nước Việt. Nếu tôi sinh ra ở châu
Phi ắt hẳn cậu không sống sót được vì nóng.
- Được chứ ạ. Bảo vệ chủ tịch thì dù đến nơi nào con cũng đi!
Anh chàng trả lời ngay tức khắc. Sau đó, họ không nói thêm lời
nào nữa cho tới lúc quay lại chùa. Nhưng ông nhớ cái kỉ niệm cỏn con ấy. Trong
đời ông không thiếu những kỉ niệm đẹp, cũng chẳng thiếu người ngưỡng mộ thậm
chí sùng bái ông. Nhưng không hiểu vì sao ông luôn nhớ tới những kỉ niệm vặt
vãnh với cậu lính phốp pháp này. Phải chăng chốn núi non quạnh vắng khiến lòng
người cần hơi ấm đồng loại? Phải chăng vì ông đã quá già và với tuổi già tính dễ
xúc động ấu nhi lại quay về? Hoặc phải chăng vì sau bao nhiêu thăng trầm, nếm
trải bao nhiêu phản trắc, ông cần bấu víu vào một hình ảnh nào đó mang phần tốt
lành của thế nhân để những năm tháng cuối cùng của cuộc đời bớt đi phần đớn đau
khốc liệt? Ông không biết nữa. Ông cũng không còn nhu cầu phân tích mọi sự một
cách rạch ròi. Nhưng bằng linh giác, ông biết con người này có thiên lương cư mệnh,
xứng đáng để cho ông tin tưởng. Bằng linh giác, ông tìm thấy hơi ấm khi gã trai
xồ xề sởi lởi ấy đứng bên mình. Dường như xung quanh anh ta không gian được sưởi
ấm bằng một thứ ánh sáng vô hình ; thứ ánh sáng của lòng tốt bẩm sinh, sự trung
thành bẩm sinh, tình trìu mến bẩm sinh.
- Chú đã nếm thử bánh đậu chưa?
- Mời chủ tịch. Chúng con sẽ có phần vào bữa ăn cuối tuần.
- Chờ đến cuối tuần thì lâu quá. Hãy nếm trước một nửa đĩa
bánh hôm nay. Cổ nhân dậy:Việc hôm nay chớ để ngày mai. Ăn uống cũng như vậy.
- Không đâu ạ! Con không dám...
- Đây là chỉ thị của tôi. Chú phải gánh bớt nửa phần trách
nhiệm vì nếu tôi ăn hết đĩa bánh này chắc chắn tôi sẽ bỏ cơm chiều hoặc uống
thuốc xổ.
Ông đưa cho anh chàng nửa phần bánh và nhìn cậu ta đi sang
bên kia sân. Phiên gác đêm cần có hai người, nhưng ban ngày chỉ một là đủ. Ông
chọn cậu ta gác phiên ngày vì thi thoảng ông cần phải rời căn phòng, tự giải
thoát bằng cách đi quanh quẩn trên những lối mòn bao quanh chùa, dẫn vào khu rừng
phía sau hoặc ngọn núi bên kia vực.
« Ta cũng giống như thằng tù. Không ăn cơm hẩm, nhưng thứ
corvée ta phải làm còn muôn phần khốn khổ hơn thứ corvee mà những người tù khổ
sai khác phải gánh vác. »
Trong những cuộc dạo loanh quanh như thế, khi anh chàng béo kề
cận, ông cảm thấy nỗi u uẩn vơi bớt đôi phần. Những gì đáng e dè ngờ vực với
người khác, ông có thể san sẻ với cậu ta một cách đơn giản, hầu như không suy
tính. Hôm qua, chính cậu ta đã xuống xóm Tiều Phu thăm thú gia đình người chết
và quay về kể mọi chuyện cho ông. Thoạt kì thuỷ, ông đề nghị Lễ nói rõ là anh
ta đã đặt bao nhiêu tiền vào chiếc phong bì ông đem viếng. Vẻ lúng túng của anh
ta cho biết điều ông dự cảm hoàn toàn chính xác. Chiếc phong bì lớn nhưng món
tiền lại quá còm. Ông yêu cầu anh ta chuẩn bị số tiền bổ sung, đưa cho chàng
béo mang xuống xóm Tiều Phu.
Cậu lính đi rồi, ông mới nhận ra sự sơ xuất của mình: Người
ta có thể đặt dấu hỏi cho sự quan tâm quá đặc biệt của ông với gia đình người
tiều phu xấu số, bởi mỗi ngày có hàng ngàn người chết do chiến tranh, rủi ro, bệnh
tật. Và ông, chủ tịch một quốc gia, ông phải có những mối quan tâm hàng đầu đối
với lợi ích của dân tộc với vận mệnh của đất nước, vì duyên cớ gì chú tâm thái
quá vào một cá nhân, điều này có vẻ như sự phi lý, như sự xuống cấp về tinh thần
trách nhiệm, hoặc sự thoái hoá về khả năng suy nghĩ và quyết đoán. Một sự tò mò
thái quá chỉ có thể là sản phẩm của một cuộc sống nhàn rỗi, lười biếng hoặc của
một bộ óc vô năng. Một sự tò mò thái quá là khuyết tật cần phải loại bỏ ngay với
những người đàn ông bình thường, huống chi với ông, lãnh tụ tối cao của một quốc
gia?
Nhưng rồi tức khắc một cơn tức giận ập tới, hiển hiện dưới
khuôn mặt xanh xao của một kẻ lữ hành. Một gã đàn ông luống tuổi, dường như lạ
dường như quen, cau mày nhìn ông và lên tiếng:
« Có nghĩa gì? Tất thảy những nghi vấn khôn ngoan, những dè dặt
cần thiết của một ông vua già trong hầm tối? Có nghĩa gì mọi che chắn cho một
con tim thương tổn và một bộ não bị giam cầm? »
Và ông chợt nhận ra rằng kẻ lạ mặt đang đối diện không phải
ai khác mà chính là ông, giờ đây đang cười nụ cười buồn rầu và cợt nhạo. Không
nhìn gã, ông lớn tiếng đáp:
« Ông có lý! Ta khuất phục nỗi tò mò này vì chính ta muốn thế,
vì cương vị chủ tịch nước không còn là con át chủ bài trong tâm hồn ta nữa, vì
những đớn đau của kẻ làm cha buộc ta phải nhìn thẳng vào tội lỗi của mình, vì
những hối tiếc của kẻ làm chồng buộc ta tìm kiếm người tiều phu kia như tìm một
tấm gương chiếu rọi lương tâm. Ta có quyền được ăn năn, có quyền được sám hối,
có quyền được yêu thương những người ta muốn yêu thương, và do đó những đòi hỏi
của lương tâm là hợp lý. ».
Ông đưa mắt rõi theo cậu lính, mỗi lúc mỗi nhỏ dần trên con
đường xuống núi, cho đến khi cậu ta hoàn toàn biến mất sau những mỏm đá nhấp
nhô và những bụi sơn trà. Rồi những làn mây trắng mướt, mỏng manh như cánh bướm,
dập dìu giăng mắc quanh các đỉnh núi che lấp một cách hững hờ mặt trời mùa
xuân:
« Người yêu dấu, ta biết rằng mọi sự đã lỡ làng, rằng thuyền
đã vỡ khôn hàn chắp những mạn ván bập bềnh trên sóng, rằng cây đã bị đốn không
thể hồi sinh, người nơi chín suối không còn lối quay về. Nhưng ta vẫn muốn truy
đuổi đến cùng tội lỗi của chính ta, trước vong linh nàng và trên mạng sống của
hai đứa trẻ. Ta không thể và không cần đứng trước pháp đình nơi hạ giới, nhưng
ta sẽ phải đối mặt nàng trước pháp đình của một cõi thiêng liêng. Ta biết nàng
sẽ chờ ta nơi đó. »
Người đàn ông kia đã quay lại, đứng sừng sững trước mặt ông
và đưa mắt nhìn ông một cách khinh bỉ. Lòng tự ái bị thương tổn khiến hai thái
dương chủ tịch nóng bừng. Ông nhìn thẳng vào kẻ khiêu khích. Lần này ông thấy
gã giống ông như hai anh em sinh đôi, tệ hại hơn, như hai giọt nước. Từ hình dạng,
màu da sắc tóc, cử chỉ, trang phục cho đến ánh mắt. Chỉ có điều gương mặt gã dửng
dưng, sự dửng dưng bất cần đời của trang hiệp sĩ sẵn sàng múa gươm dưới trăng
cho thoả giấc mơ rồi chết:
- Vì sao ngươi mãi dùng dằng trong một nỗi hối tiếc muộn
màng, trong một mối ăn năn không còn cơ giải thoát?
- Vì tôi cũng là một con người như muôn triệu kẻ khác. Tôi
không thể thoát nổi nhu cầu yêu thương và muốn được yêu thương của một người
cha, một người chồng. Quyền ấy là chính đáng.
- Nhưng chính ngươi đã chấp nhận khước từ những tình cảm bình
thường ấy. Chính ngươi đã chấp nhận thiến hoạn cuộc sống của một người đàn ông
để làm vui lòng các đồng chí của ngươi, những kẻ nhân danh uy tín Vị Cha già
dân tộc mà sát hại vợ con ngươi, và cũng vì trong sự đồng thuận ấy, ngươi tìm
thấy những tiện nghi cho vai trò vĩ đại của bậc gia trưởng toàn dân tộc.
- Không, không tôi không bao giờ chấp nhận điều đó. Mọi sự đều
xảy ra phía sau lưng tôi, trong bóng tối. Tôi là kẻ bị phản bội.
- Nếu là kẻ bị phản bội, ngươi chỉ có thể rơi vào một trong
hai trạng thái này: hoặc là quá cả tin, hoặc là thiếu khả năng phán đoán. Hai
trường hợp đều có chung một cơ sở: sự thiếu thông minh, nói trắng trợn là ngu dốt.
- Có lẽ...Có lẽ tôi ngu dốt, ngu dốt thật sự. Có điều là nỗi
nhục nhã ấy chỉ được nhận chân một cách muộn màng.
Ông nhấm miếng bánh để làm bớt đi vị đắng của ý nghĩ cuối
cùng.
Miếng bánh đậu cổ truyền ngọt khé khiến ông phải chiêu vội bằng
nước trà còn nóng bỏng. Rồi cái ý tưởng dùng vị ngọt của vật chất để làm giảm nỗi
đắng cay trong tâm hồn khiến ông mỉm cười chua chát. Giờ ông hình dung lại những
vương triều sụp đổ, vàng rơi ngọc nát, bao nhiêu mũ mãng cân đai, bao nhiêu
xiêm y lộng lẫy rồi cũng mục rữa, cùng những thây ma làm mồi cho ròi bọ. Những
kẻ sống nơi lầu son gác tía xưa kia, hẳn cũng đã từng nhiều phen mài ngọc trai
hay sừng tê uống để tẩm bổ tấm thân mỹ lệ, hoặc để làm nguôi dịu đi vị chát
trong tâm hồn? Bi kịch của quyền lực cũ như trái đất. Chỉ có điều khác biệt giữa
những vua chúa xưa và ông ngày hôm nay là ở chỗ định danh: các vua chúa là những
kẻ thừa hưởng quyền lực của tiền nhân cũng giống như thứ dân thừa hưởng gia tài
do tổ tiên di tặng. Còn ông, ông không có một chút của thừa tự vật chất cũng
như tinh thần, ông là kẻ tay trắng dựng ngôi, nước lã vã nên hồ. Vốn liếng duy
nhất ông là sự cảm phục và yêu mến của dân chúng. Đó là vương miện của ông! Đó
cũng chính là tù ngục của ông!
TRUYỆN XÓM TIỀU PHU
Đường vào Xóm Tiều Phu quanh co như ruột gà!
Xóm Tiều Phu, mọi người vẫn gọi là xóm Tiều Phu mà không biết
rằng đó là một cái tên đã lỗi thời, hoặc nói cho đúng hơn, tên gọi đã sai lạc với
nội dung. Bởi mang tên là Xóm nhưng thực chất Xóm Tiều Phu không còn là một xóm
mà là một xã đất rộng, người đông. Có thời, những người lãnh đạo đã định đổi
tên xã Xóm Tiều Phu thành xã Quyết thắng, nhưng ý đồ ấy không thành công vì dân
sở tại đã quá quen tên cũ, và dân quanh vùng cũng vậy.
Tên Xóm Tiều Phu hình thành từ thuở sơ khai, không biết đã
bao đời, ba gia đình mà gia trưởng là ba anh em ruột rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn
vốn là tỉnh Bắc ninh cũ lên đây sinh sống bằng nghề đốn củi. Lịch sử cuộc di
dân này vốn huyền bí, càng ngày càng trở nên huyền bí hơn qua nhiều thế hệ khi
từ một xóm trại vẻn vẹn hơn hai mươi người, Xóm Tiều Phu trở thành một xã rộng
lớn gồm ba thôn, trên hai ngàn dân, không chỉ sinh sống bằng nghề đốn củi, bán
than mà còn trồng lúa nương, lúa nước, các loại cây công nghiệp cũng như nuôi
ong, làm miến, sao chè... Lịch sử được truyền tụng trong những đêm trăng, khi
tiếng chày giã bột làm bánh vang lên khắp các sân nhà, những người đàn bà ngồi
quanh bếp lửa vắt bánh trong khi đám đàn ông ngồi hút thuốc lào, uống nước chè
chuyện vãn.
Lịch sử ấy gắn bó một cách huyền nhiệm với tên vùng đất cũ: Bắc
Ninh.
Bắc ninh vốn là kinh đô thuở xa xưa. Đặc điểm dân cư của mọi
thứ kinh đô là họ có nhu cầu hưởng thụ cao hơn dân chúng nơi khác. Cỗ cổ truyền
ở Bắc Ninh thường được định danh bằng chữ tầng: Tầng ; giống như người ta gọi một
toà nhà hai tầng, ba tầng, năm tầng.... Cỗ Bắc Ninh chia thành nhiều thứ hạng:cỗ
hai tầng, cỗ ba tầng, cỗ năm tầng, thường không mấy khi thấy cỗ bốn tầng. Tầng
có nghĩa là giới hạn đồ ăn được bầy kín mặt chiếc mâm đồng. Cỗ hai tầng có
nghĩa là đồ ăn phải xếp thành hai tầng mới hết. Cứ theo đúng nghĩa đó mà hình
dung cỗ ba tầng, hoặc năm tầng. Chắc chắn không có thứ dạ dầy nào chứa nổi những
mâm cỗ ba tầng, năm tầng nhưng cách trưng bày những mâm cỗ như vậy được xem xét
trên hai khía cạnh: Sự tôn trọng khách mời, và sự khoe của, hiểu một cách thông
tục hay tế nhị cũng thế thôi. Một đặc điểm thứ hai của dân kinh đô là họ thường
hoạt khẩu. Họ thích nói, thích diễn giảng chuyện đời và khả năng diễn đạt của họ
xuất sắc hơn dân nơi khác. Đôi khi, khả năng này phát triển một cách thái quá
và dẫn họ đến thói quen thêu dệt mọi chuyện. Bất luận người dân nào cũng có thể
là một nhà văn tài tử hoặc một thi sĩ lỡ tàu. Nhu cầu sáng tạo chỉ được phóng
chiếu qua một khuôn cửa duy nhất: lịch sử các tiền nhân. Thế nên, người ta có
thể tìm thấy rất nhiều huyền sử khác nhau về ba gia đình đã khởi sự lập nghiệp
nơi Xóm Tiều Phu, biến vùng núi non hoang vắng này thành nơi rậm rịch bước chân
người, eo óc tiếng gà và véo von tiếng hát. Cũng chính những cư dân Xóm Tiều
Phu là những người đã xây dựng ngôi chùa Lan Vu cùng hai chùa khác ở tầng núi
dưới, bởi vùng Kinh Bắc vốn nổi tiếng là nơi nhiều chùa chiền, đền miếu. Nhu cầu
vãn cảnh chùa là một trong những niềm hoài nhớ đất cố đô xưa.
Xóm Tiều Phu gồm ba thôn:Thôn Thượng, thôn Trung, thôn Hạ.
Thôn Thượng nằm ngay trên chân rặng núi, ấy là nơi ba gia đình đầu tiên khởi
nghiệp, dựng làng. Nhiều thế hệ trôi qua, lứa trai trẻ dựng vợ gả chồng chiêu tập
những nàng dâu và những chàng rể từ muôn phương tới, họ lập trại, dựng nhà lan
xuống những miền đồi xung quanh, hình thành thôn Trung rồi tới thôn Hạ. Cư dân
hai thôn ấy trồng cả lúa nương lẫn lúa nước, trồng sắn lẫn chè trên các ngọn đồi,
cũng như trồng khoai môn và súp-lơ su hào nơi đất thấp hơn. Những gia đình sinh
sống ở thôn Thượng là những gia đình được coi là rường cột của làng xã, được
nghiễm nhiên tôn trọng theo bộ luật xa xưa của phong tục mà không ai biết một
cách chính xác nó được hình thành từ lúc nào, và do ai khởi xướng...Như thế,
ông Quảng, người tiều phu xấu số chính là một trong những nhân vật luôn luôn được
ngồi chiếu trên, luôn luôn được liệt kê hàng đầu trong danh sách những người có
uy lực nhất Xóm Tiều Phu, người mà tất thảy những ông chủ tịch xã cũng như bí
thư đảng uỷ phải hỏi ý kiến, phải tìm sự đồng thuận khi muốn làm bất cứ điều
gì. Mười lăm năm trước, vào thời xảy ra câu chuyện này, con trai trưởng của ông
đang giữ chức chủ tịch xã. Ông, vừa là bậc lão trượng trong xã, vừa là cha đẻ của
con người quyền uy.
Mùa thu năm ấy, vợ ông ngã bệnh. Lúc đó, bà đã xấp xỉ lục tuần,
sinh đẻ cả thảy tám lần, sức lực nếu chưa cùng kiệt thì cũng đã hao tán như ngọn
đèn dầu sắp cạn. Vào dịp Tết trung thu, bà bỗng nhiên thay tính đổi nết, trở
nên phàm ăn một cách dị thường. Xưa nay, vốn là người khảnh ăn khảnh uống, bữa
cơm bà và hai bát chiếu lệ, khi có cỗ bàn, bà xuống đũa cho vui lòng chồng con.
Đột nhiên, vào đêm rằm tháng tám, khi đám trẻ trong làng phá cỗ, mọi người bỗng
thấy bà sà xuống mâm bánh nướng bánh dẻo nhặt một đĩa đầy tú ụ rồi ngồi ra một
góc ăn thẳng một hơi hết nhẵn không cần chiêu một ngụm nước chè. Ai cũng biết rằng
những thứ bánh dành cho con trẻ vào ngày Trung Thu thường ngọt sắt họng, cho dù
người hảo ngọt mấy cũng chỉ có thể ăn được hai tấm và kèm theo hai tấm bánh đó
ít nhất cũng phải uống một ấm chè mạn cho xuôi. Thế nhưng bà đã ăn hết cả một
đĩa đầy tú ụ, có nghĩa là sáu tấm bánh lớn, thứ bánh trước đây bà không thể ăn
nổi một góc mà không lắc đầu ngao ngán. Cái sự kiện ấy lan truyền trong xã như
một cơn động đất. Láng giềng dấm dúi bình phẩm sau lưng bà. Nhưng cũng thật lạ
lùng khi bà không thèm để ý tới tất thảy những ánh mắt tò mò xung quanh, bà có
vẻ như người đãng trí. Bà chỉ có một mối quan tâm thực sự, ấy là những món ăn
mà bỗng dưng bà thèm muốn một cách điên rồ, và sự thèm ăn của bà dần dần trở
nên mối bí ẩn kinh hoàng đối với tất thảy mọi người, trước hết là lũ con. Bà
thèm ăn mật ong, ong non. Mỗi sáng, bà rót đầy bát chiết yêu mật ong, ngồi ăn
lem lém với một chồng hàng chục bánh đa vừng hoặc nửa rổ khoai môn luộc. Bà
thèm ăn thịt lợn, thịt bò, rồi gà vịt, tôm cá. Bữa trưa, bà có thể ăn cả một
chiếc chân giò hay một con gà trống thiến luộc. Bữa tối, bà tiếp tục ăn tám
chín bát cơm với cá kho mặn hoặc lạc rang mắm tép và một rổ rau muống hay rau cải
xào. Một bữa, khi đàn gà hàng trăm con sắp tuyệt diệt, chỉ còn lại những con gà
chíp và hai mái già đang đẻ, bà vào ổ lấy ra hơn hai tá trứng đúc thịt lợn với
hai đĩa xôi, ăn ngấu nghiến như hùm như hổ. Sức ăn như thế là gấp ba một gã lực
điền Nam hà chuyên nghề đào đất, gấp năm lần ông chồng và gấp hai mươi lần
chính bà cách đó vài tháng. Gia đình vốn khá giả, ông Quảng lại chiều vợ nên
toàn thể gia đình đều tìm mọi cách làm thoả mãn mọi yêu cầu bất thường đó.
Nhưng những đứa con của bà sợ hãi. Và người làng thì thầm một cách vụng lén sau
lưng họ:
- Không phải bà ấy đâu, ma đói nhập vào đấy. Cứ để ý mà xem,
mắt bà ấy đờ đẫn như mắt kẻ mất hồn, mà khi bà ấy ăn, bà ấy không nhìn vào mặt
ai hết. Các cụ dạy: Ăn trông nồi, ngồi trông hướng. Người khôn ăn uống phải liếc
ngang liếc dọc trước khi xuống đũa. Chỉ có kẻ bị ma đói ốp mới cúi đầu ăn sùng
sục như vịt dũi ốc, như lợn xốc cám không thèm nhìn xem người bên cạnh có gắp
được miếng hay chưa?
- Ôi dào, người bên cạnh là chồng với con, có khi bà ấy không
thèm để ý.
- Thế đêm rằm tháng tám, nào phải chồng con mà bà ấy hốt cả
đĩa bánh ra góc phản ăn một mình? Chỉ có người tàng tàng mới dám làm như thế.
- Ờ, cũng kì dị thật...Nhưng tôi không tin có ma. Dù là ma cà
rồng hay ma đói.
- Không có ma thì có quỷ!... Chỉ có bị quỷ đói ốp mới thành
ra phàm ăn đến thế. Người bình thường ăn chừng đó chỉ có chướng bụng lên mà chết
thôi.
- Đúng thật. Ăn như thế mà tiêu nổi cũng là sự kinh dị. Bữa
trước bọn trẻ luộc trứng rồi bỏ đi ăn liên hoan chi đoàn thanh niên. Tôi tiếc của
ăn cố đến quả thứ ba mà bụng ấm ách đến nửa đêm, ngủ không được phải ngồi dậy
làm mấy chén rượu với một nắm mứt gừng.
- Bà ấy không ăn để sống mà ăn để chết. Đời nào cũng có những
người như vậy.
- Tôi lại ngờ bà ấy sống rất dai. Nhưng ăn như thế núi của
cũng tiêu tán. Không hiểu rồi ông Quảng sẽ xoay sở cách nào?
- Miệng ăn núi lở! Người thường cứ ăn không làm còn cào lở
núi huống chi người bị ma đói nhập hồn.
- Đừng tin nhảm, chẳng có ma quỷ nào hết, nhưng đó là một thứ
bệnh mà cho đến tận bây giờ các thầy thuốc vẫn bó tay.
Ông Quảng không nói năng gì. Ông lẳng lặng lên rừng tìm mật
ong khi chum mật trong nhà đã cạn, những đõ ong nuôi chưa kịp giàn đủ mật để chắt.
Ông cũng rút tiền tiết kiệm về để mua thịt lợn thịt bò cho vợ khi đàn gà trên
trăm con đã hết sạch, cả ngan lẫn ngỗng non trăm con nữa cũng không kịp đẻ trứng
gây lứa mới. Khắp vùng, bất cứ nhà ai ngả trâu què, nghé hư hay bò già bò ốm đếu
cho người đến gọi ông, bởi chắc chắn ông sẽ là vị khách xộp nhất Xóm Củi. Không
ai dám tiêu xài như ông. Ông bảo đám con:
- Mặc người làng nói gì thì nói, mẹ các con đã bóp mồm bóp miệng
cả đời để nuôi nấng các con, giờ là lúc bà ấy cần bồi dưỡng.
- Mọi việc trong nhà do cha định đoạt.
Người con cả, tức chủ tịch xã đáp lại. Anh ta đã xấp xỉ bốn
mươi, đã có vợ và ba con, ở nhà riêng nhưng không ngày nào không qua nhà bố mẹ
đẻ. Dưới anh ta, hai người em trai nhập ngũ, chỉ còn lại đứa em trai út, chưa đầy
mười sáu tuổi là chính thức chung sống với bố mẹ.Vợ chồng ông Quảng sinh nở cả
thảy tám lần nhưng chỉ đậu lại bốn đứa con trai. Tất cả đều đặt tên theo vần Q
của bố. Chủ tịch xã tên là Quý. Tiếp đó là hai cậu sinh đôi cùng nhập ngũ một
ngày, họ có tên Quyết và Quyến. Còn cậu út tên Quỳnh, đẹp trai nhất trong bốn
anh em và dường như cũng là đứa lẳng lơ nhất, mười bốn tuổi đầu đã đuổi gái mê
mệt khiến nhiều lần bà mẹ lồng lên chạy tìm con hết thôn Thượng, thôn Trung,
thôn Hạ cho tới những xã cách Xóm Tiều Phu nửa ngày đường. Trong bốn anh em, bà
cưng chiều cậu út hơn cả. Từ đồ ăn thức uống cho đến quần áo, bút sách, Quỳnh
được chăm chút đầy đủ đến mức đám chúng bạn phát ghen. Cậu ta giống mẹ hơn cả.
Cách nói năng cũng thủ thỉ như con gái. Có thể vì vậy mà cậu út được bà mẹ cưng
chiều. Người làng bảo bà không có tay nuôi con gái, đứa nào lọt lòng mẹ được
vài tháng cũng chết, không trụ qua một tuổi.
Mùa đông năm ấy rét đau rét đớn, bếp nhà nào cũng đỏ lửa cả
ngày lẫn đêm. Những người già không dám bước chân qua cửa bếp. Đêm họ ngủ quanh
đống lửa như dân Mán, dân Sán dìu. Sương mù từ trên núi phả xuống giăng màn trắng
quanh vườn, tụ thành khối lơ lửng trên những mái nhà và các ngọn cây. Nhiều
ngày sương tụ đến tận non trưa, chưa kịp tan thì chiều đã tới kéo theo đợt
sương mới. Rồi tiếp theo những ngày mù sương là những ngày mưa dãi dề cùng gió
bấc. Các vườn cây vặn mình xao xác dưới những lằn roi quất của mưa đông. Gió
hun hút trườn qua các khe vực rú rít âm thầm rồi ào xuống xóm thôn mang theo những
thở than truyền kiếp. Rét đến độ nếu ai đứt tay chưa kịp dịt thuốc máu đã đông
ngay, nhưng sau đó vết nứt không thể khép miệng vì da co lại. Vào thời gian ấy,
dân xóm Tiều Phu tụ tập quanh những bếp lửa của các đại gia, những gia đình
sung túc nhất đủ củi dự trữ cho vài mùa đông, đủ thóc nếp lẫn đường mật đãi
khách mà không phải nhíu mày cau trán hoặc bấm bụng rên la vì tiếc của.
Những mùa đông trước, bếp lửa nhà ông Quảng bao giờ cũng đầy
lèn khách khứa, người ta nói ông vừa rộng cửa vừa rộng lòng. Cửa rộng, nhà cao,
thóc nếp thóc tẻ, chum đường chum mật mía, chum mật ong...chất ngồn ngộn năm
gian nhà ngang bên hữu. Đỗ lạc, đỗ xanh, vừng đen, vừng trắng phải quây trong
cót. Chủ nhân lại là người hào phóng, hiếu khách. Những ngày mưa dãi gió dề, trời
xám mây giăng, cảnh ngoài trời càng buồn thì trong nhà ông càng vui như tết.
Xóm giềng không thể lên nương, xuống ruộng hay trèo núi đốt than hái củi, đều tụ
tập tại căn bếp và ba gian chính ngôi nhà trên. Ở đấy, lò sưởi tí tách, than hồng
rực. Đàn ông sẵn thuốc lào, thuốc lá, nước chè, chuyện nổ như pháo. Dưới bếp,
đàn bà giã bột làm bánh, hoặc thổi xôi nấu chè tuỳ theo hứng. Cánh cửa nhà dưới
mở là thể nào cũng có đôi ba bà nạ dòng khệ nệ bưng ra thúng thóc hay liễn mật,
liễn mỡ. Bánh trôi, bánh chay, bánh rán mặn nhân thịt, bánh rán ngọt nhân đỗ
ngào đường, bọc mật....Xôi lạc, xôi đỗ, xôi gà hấp, xôi gà nướng....Đủ trò. Có
thể gọi là sơn hào hải vị của vua chúa cũng chưa hẳn đã mang lại sự khoái khẩu
và niềm vui như những ngày đông lạnh, khi dân làng tụ tập quanh bếp lửa nhà
ông. Từ trên nhà xuống dưới bếp, tiếng cười ran như pháo nổ. Khách cười một, chủ
cười hai. Ông Quảng vốn có tiếng cười hào sảng mà bất cứ ai cũng thầm ao ước.
Những người biết xem tướng đều nói ông giàu sang nhờ ở tiếng cười. Dầu là dân
thôn dã, ông biết đủ nghề, hiểu đủ cách kiếm tiền của thiên hạ. Vừa thoắt lên rừng
kiếm củi đốt than, đã thấy ông tay thước tay dao dẫn đám thợ mộc, thợ nề xuống
thành phố làm thuê cho công trường của tỉnh. Vừa ráo tay cày ruộng, đã thấy ông
đánh xe ngựa chở chè mạn hay sắn khô xuống chợ huyện. Rồi từ chợ huyện, xe ngựa
của ông lại chở đủ thứ hàng dưới xuôi lên bán cho các hợp tác xã của người Dao,
người Sán Dìu, Sán Chỉ bên Lục Nam, Lục Ngạn láng giềng. Từ núi xuống đồng bằng,
từ đồng bằng tạt xuống mạn biển nhặt cá khô, mực khô, và các loại mắm, ông lại
rong ruổi dọc các huyện vùng cao, nơi chỉ có núi đồi và dã thảo. Giống như loài
ngựa thảo nguyên, ông không dừng lại lâu ở bất cứ nơi nào. Bởi thế, tuy gốc gác
tiều phu, nhưng từ thuở trai tráng ông đã ăn cơm tứ xứ và vẻ phong sương ngạo
nghễ khiến con người ông toát lên một sức hấp dẫn mãnh liệt mà những người khác
vừa thèm muốn vừa sợ hãi. Hơn thế nữa, cách cư xử của ông làm cho dân làng thán
phục. Sự hào phóng chắc chắn là thứ tính chất hiếm hoi nơi những người bị trói
chặt vào đất với rừng. Lòng tốt thường khó kiếm, hoặc nếu có cũng không thể đem
lại hiệu quả khi cuộc sống vật chất quá bạc bẽo. Những mùa đông khắc nghiệt nhất,
bao nhiêu mẹ goá con côi trong xã chỉ có thể trông chờ vào sự giúp đỡ của ông,
bởi ngay quỹ tương trợ của hợp tác nhiều nhất cũng chỉ có thể cho đến năm mươi
cân thóc. Ông Quảng không bao giờ cho thóc. Ông không muốn làm mếch lòng ai. Một
khi hợp tác đã cho thóc, ông cho củi sưởi, cho gạo cho mắm cho đường cho mỡ và
cho tiền.... Như thế, tiện cho cả người nhận lẫn người cho. Quá nhiều kẻ hàm ơn
ông. Nhưng ông không trói buộc gì họ. Dường như không còn nhớ ông đã từng giúp
họ. Như thế, có vẻ kì dị nhưng khiến cho cả ông lẫn những người mang ơn ông được
nhẹ lòng. Và ngôi nhà sừng sững của ông có vẻ giống như một thứ đình làng thu
nhỏ, nơi mọi người có thể tìm được hơi ấm của cộng đồng cùng những thời khắc
sung sướng nhàn hạ ; một thứ hơi hướng của hội hè, rọi sáng cuộc sống vất vả và
buồn tẻ dằng dặc nơi sơn khuê.
Mùa đông năm ấy, với những cơn mưa thấu xương thấu tuỷ, những
cơn gió bấc dãi dề, người ta vẫn hướng nhìn về phía ngôi nhà ông theo thói
quen, nhưng nó không còn đỏ lửa. Không ai bảo ai, nhưng tất thảy mọi người đều
không dám đến nhà ông. Họ biết ông đã tay dao tay thước ra đi từ non một tháng
nay, sau khi đã giao tiền nong cửa nhà cho cậu con trai út. Ông phải xuống
thành phố làm việc vì của cải trong gia đình cạn kiệt. Không ai dám chia buồn
hay an ủi ông. Không ai dám động chạm tới căn bệnh khó hiểu của bà. Căn bệnh ấy,
đối với những kẻ chất phác quê mùa, quen sống cần kiệm là một tai hoạ. Nó cũng
tương tự như căn bệnh thương hàn, lao phổi hay kiết lỵ thời xưa. Mất đi nơi chốn
quen thuộc, dân làng đành chuyển đến một gia đình mới nổi lên giàu có ở thôn
Trung: nhà cô Vui, bí thư chi đoàn.
°°°
Cô Vui, ba mươi hai tuổi, chưa một lần lấy chồng, hình như
cũng chưa từng phải lòng ai, hoặc nói cho chính xác hơn là chưa ai từng phải
lòng cô. Không phải vì cô xấu nết hay xấu người, nhưng vì cô cao đến một mét
tám mươi bảy phân trong khi đám đàn ông trong làng, to con nhất như ông Quảng
cũng chỉ già mét bẩy. Cao như thế, cô lại có đôi vai ngang như đòn gánh với những
bắp thịt nảy nở quá mức rắn chắc như sành. Đôi vai cô có thể sánh với vai các
võ sĩ quyền anh thượng thặng. Một tay cô có thể vật đổ gã trai bằng tuổi như
chơi. Cô chính là hình ảnh của cha cô:ông đô Vàng, một thời nổi danh vô địch khắp
ba tỉnh phía đông bắc châu thổ sông Hồng, kiếm không ít tiền trong những lần
tranh giải vật toàn xứ bắc. Dân xã đồng lòng cho rằng cô giống ông đến mức nếu
cô cạo đầu, cởi trần đóng khố thì cô có thể bước vào xới vật và làm run sợ mọi
địch thủ như cha cô thời vang danh nức tiếng. Ông đô Vàng có một mụn ruồi lớn
hơn hạt đỗ đen mọc ngay giữa cổ. Trên mụn ruồi ấy, lúc nào cũng đâm tua tủa những
lông, mỗi sợi dài đến ba đốt ngón tay. Cô Vui cũng có một mụn ruồi y hệt như thế,
nhưng nó mọc dưới cằm, và hàng ngày cô phải soi gương cắt túm lông đi. Nếu đôi
khi cô mải việc, quên chăm chút nhan sắc là những sợi lông lập tức mọc dài ra,
quăn queo một cách kì cục. Có lẽ vì ngần ấy dị biệt khiến cô không thể có được
một tấm chồng như những người đàn bà khác. Cô làm nhụt chí mọi đấng nam nhi.
Hình hài cũng như sức khoẻ của cô là đề tài mặn mòi nhất cuốn hút cánh đàn ông
trong làng dù khi họ đang làm cỏ sắn dưới cái nắng chang chang tháng sáu hoặc
khi họ ngồi hút thuốc lào vặt ngày mưa. Có một ngàn cách khơi mào những chuyện
tiếu lâm nhưng riêng về cô, thường thường là một câu hỏi, một nỗi băn khoăn
chung của cả đàn ông lẫn đàn bà Xóm Núi:
- Hôm qua tôi thấy con Vui chuyển đõ ong lên đồi. Chân nó đi
có vẻ khang khác.
- Khang khác thế nào?
- Hai chân nó chạng sang hai bên, giống như có gì vương vướng
bên trong.
- Cái chó gì vướng được ở giữa hai bẹn nó, trừ khi nó buộc
vào đấy một con cu-ly hay một con chồn?
- Cái lão điên này, đúng là thánh sư nói láo...Tôi cho rằng
hình như có người vừa khơi thông lạch đào nguyên.
- Đào nguyên mới chả thiên thai, toàn dân cu đen lại còn sính
chữ!...Cứ nói huỵch toẹt ra rằng đã có thằng nào nhảy lên bụng nó cho rồi.
Nhưng thằng nào dám liều mạng thế nhỉ? Hay là chính ông đấy? Tôi thấy mặt ông
có vẻ gian gian?
- Tôi ấy à? Thế thì vinh dự quá! Nhiều phen tôi cũng định thử,
nhưng mới nhìn thấy nó con cu tôi đã xun lại như chim thằng bé lên ba. Thôi,
tôi xin nhường cho ông.
- Đội ơn ông, gan tôi chưa đủ lớn! Tôi sợ tôi tắt nghỉn nửa
chừng. Mà đám con tôi còn trứng gà trứng vịt chẳng ai nuôi. Tôi xin nhường cho
ông nào mạnh vía hơn.
- Bây giờ chúng ta đánh cuộc, ai dám sờ vào cái hang hùm của
con Vui sẽ được chiêu đãi liền trong cả tháng. Các khổ chủ sẽ luân phiên gánh
chịu phí tổn rượu ngon gà béo.
- Ôi chao, rượu với gà của các ông đáng giá gì.
- Thế thì một con bò tơ vậy.
- Bò cũng không đáng bằng sự hao tổn nửa mạng sống.
- Thế thì ba bò vậy.
- Ba bò chứ mười bò, lại các thêm ba lá vàng Kim Thành tôi
cũng xin kiếu.
- Đừng đùa, ba lạng vàng là đủ cất lên năm gian nhà ngói.
- Thế thì ông thử đi.
- Không chơi trò thách suông, các ông cứ chồng đủ tiền mua ba
cây vàng, tôi khắc liều mạng ngay.
- Cái mặt ông có liều mạng cũng chẳng ai tin. Con vợ ông cao
chưa đầy một thước rưỡi, nặng có bốn mươi lăm cân mà nó còn bĩu môi bảo mọi người
rằng ông là thằng vô tích sự, nhoai được ba nhát đã tụt xuống giường, chưa kịp
đi đến cửa chợ đã rơi sạch tiền. Vậy mà ông còn nói phét.
- Đừng tin miệng lưỡi đàn bà. Ông có ở trên giường với tôi
đâu mà biết?
- A, thế thì hôm nào ta mở cuộc thi. Gọi ban quản trị hợp tác
làm trọng tài, mượn cái đồng hồ quả quýt của ông Quảng đem ra bấm.Vợ chồng ông
bên tả, vợ chồng tôi bên hữu, thằng nào thua cuộc phải mất con bò. Tôi cũng
không ăn con bò ấy một mình mà sẽ đem thui khao cả xóm. Nào, dám chơi không?
- Tiên nhân đồ khôn vặt. Tôi hai thứ tóc trên đầu, chẳng dại
gì mất con bò với cái quân máu dê như ông. Thôi được, tôi chịu thua. Nhưng nếu
ông cậy có con củ bằng sắt, sao ông không thử tài với con Vui một lần. Nhà nó
phải có đến trăm cây vàng chứ chẳng phải ba cây. Ai cũng bảo rằng từ ngày ông
đô Vàng chết, nó hái ra tiền. Chắc ông lão thương con nên đêm ngày phù trợ. Ông
mà leo được lên giường với nó là đời ông lên hương tức khắc. Không phải chuột
sa chĩnh gạo mà là chuột sa vào chum tiền.
- Ồ không, chum tiền chứ chum vàng chum ngọc tôi cũng chịu.
Tôi chỉ dám trèo lên bụng con vợ tôi hay loại đàn bà ngang ngửa như nó thôi.
Còn con Vui, nói trộm vong hồn ông đô Vàng, tôi mà thử sức với nó dám chắc tôi
tắt thở ngay giữa cuộc. Hoạ may chỉ có chui đầu vào cái hang hùm ấy mà ngoi hay
thượng cẳng chân vào trong đó mà đạp.
Những cuộc chuyện vãn như vậy kéo liên miên không bao giờ
chán. Có lẽ công việc nặng nhọc và buồn tẻ nơi sơn thôn bắt con người phải tìm
cách giải trí như vậy, mặc dù đôi khi họ sực nhớ ra rằng cách mua vui kiểu đó
làm tổn hại danh dự người khác và có phần độc ác. Về phía cô Vui, chắc chắn cô
không thèm để tâm tới những gì người ta bàn tán sau lưng. Cô sống hiên ngang
như đấng nam nhi, làm tất thảy những việc mà thông thường chỉ đàn ông mới đảm
đương nổi. Trông cô chẳng có chút đau buồn hay hiu hắt như những người đàn bà
khác thường mường tượng với nỗi hả hê. Bởi vì họ, có chồng và có con, hạnh phúc
thì ít nhưng gánh nặng chồng chất trên vai thì nhiều. Đôi khi, thấy cô đi trên
đường với dáng vẻ hùng dũng, với vẻ mặt tự tin mà ngay cả những người đàn ông
thành công nhất vùng cũng thèm khát, họ cảm thấy một sự thương tổn không thể cắt
nghĩa, một sức mạnh vô hình đè họ bẹp dúm như con chồn lạc bị xe ngựa chẹt
ngang lưng. Nhất là từ ngày ông đô Vàng chết, cô Vui mó tay vào đâu, ở đấy nảy
ra tiền. Ngay từ khi cha cô còn sống, ông đã xây nhà dựng cửa cho con gái, đoán
biết rằng cô không thể có được một cuộc sống bình thường. Ông dạy cô nghề mộc,
nghề nuôi ong, nghề sao chè, nghề làm miến...tất thảy những gì có thể làm nảy
ra những tờ giấy tiêu được và khêu gợi thèm muốn của mọi người. Cô Vui vốn
thông minh, lại có sức khoẻ phi thường, nghề nào cô cũng học được đến nơi đến
chốn. Mẹ cô chết vì hậu sản, người nuôi cô thuở nhỏ chính là bà nội, rồi sau
này khi bà nội chết, ông đô thôi giang hồ tứ xứ quay về Xóm Tiều Phu với đứa
con gái duy nhất của mình. Người ta không hiểu vì sao ông chẳng tái hôn để có
người tề gia, nội trợ, để có người đẻ ra cho ông những đứa con trai. Trước những
băn khoăn của láng giếng, ông chỉ trả lời vắn tắt:
- Xưa nay có mấy khi mẹ ghẻ con chồng được cơm lành canh ngọt?
Còn gặp khi đám anh em con chú con bác tò mò lục vấn chuyện
riêng ông đáp thẳng thừng:
- Chuyện đực cái là lẽ thường tình, tôi muốn lúc nào mà chẳng
được. Đàn bà lén lút tìm tôi trước khi tôi tìm họ. Nhưng đó là việc chốc nhát
giải khuây cho thân xác. Còn tái giá lại là vấn đề hoàn toàn khác. Tôi không thể
làm khổ con Vui. Vì đẻ nó mà vợ tôi phải chết. Tôi cũng không nỡ lòng để bà ấy
ngậm ngùi nơi chín suối.
TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (2)
Một người chồng tình nghĩa như vậy quả là không dễ kiếm, một
người cha thương con đến như thế cũng là chuyện hiếm trên đời. Khi ông đô Vàng
chết, cô Vui làm ma cho bố ba ngày liền, dù cô là bí thư chi đoàn và chính quyền
vốn ngăn cấm dân chúng tiêu xài lãng phí trong những dịp lễ lạt hay ma chay.
Nhưng cuộc sống bao giờ cũng dành cho một số người quyền ngoại lệ. Bởi vì ngoài
lề luật của thế tục, bao giờ cũng có những thứ lề luật mà con người tự hiểu với
nhau, không cần đến giấy trắng mực đen. Như vậy là ba ngày liền, kèn trống vang
vọng khắp xóm cùng thôn, tiếng hát đưa vong miên man như suối chảy. Ba ngày liền,
hết bò lại gà lợn bị vật chết trong mảnh sân lát gạch thênh thang. Dân làng, từ
già đến trẻ, từ chức sắc đến cùng đinh cứ việc thoả sức đánh chén. Thành ra cái
chết của ông đô Vàng từa tựa như một dịp hội hè tuy người ta không tiện nói ra.
Chẳng cứ dân Xóm Tiều Phu, dân quê ở bất cứ nơi nào cũng vậy, trong một cuộc sống
chật vật và buồn tẻ, người ta khó từ chối những dịp được nâng chén rượu lên hạ
chén rượu xuống, và được ăn thoả sức những thứ vốn ít ỏi trong những bữa cơm
thường.
Cô Vui, từ sau đám ma bố, bỗng nhiên có một thứ quyền lực
không định danh. Trước đây, là bí thư chi đoàn, cô chỉ là xếp sòng của đám
thanh niên và con nít. Sau cái thời điểm mà người ta chứng kiến lòng hiếu thảo
tận tuỵ của cô, cũng như sự hào phóng chưa từng thấy nơi một người đàn bà, cái
nhìn của dân làng hướng về cô hoàn toàn thay đổi. Thế là, từ một cô gái lỡ thì,
đề tài vô tận cho các cuộc kháo chuyện tục tĩu của cánh đàn ông, cô đã trở nên
một chức sắc tự phong, điềm nhiên tham gia vào mọi sự việc trọng đại trong
làng, với vai trò của một bậc nam nhi hơn là của một trang nữ tú. Người ta
không mời cô khi có một cặp vợ chồng cãi cọ, vì đấy là việc của mấy bà cán bộ
phụ nữ trong tổ hoà giải, nhưng họ mời cô khi mưa lũ làm sụt lở đường, khi xảy
ra chuyện tranh chấp nương vườn với xã bên, khi cần phải xây trường học và nhà
hộ sinh cho xã, khi cần phải khiếu kiện với cấp huyện về vấn đề phân phối máy
xay máy sát và lương thực. Tóm lại, thuần những việc trọng đại thiết cốt tới đời
sống và tương lai của dân chúng. Mùa đông năm ấy, lần đầu tiên, gian bếp nhà cô
Vui thay thế gian bếp lạnh của vợ chồng ông Quảng.
Dân làng, nhất là những người đàn bà làm quen rất nhanh với
những gian nhà kho của cô. Bởi cô không có đến mười gian nhà ngang rộng rãi như
ông Quảng. Giàu có đã lâu nên cơ ngơi nhà ông gây dựng theo hình mẫu cổ, ba toà
nhà châu tụ hình chữ môn quanh mảnh sân vuông lát đá, tòa nào cũng năm gian
thênh thang, ngói dày, tường cao, gỗ cửa bóng lọng như gương. Năm nhà ngang bên
trái ông dự định dành cho cậu út Quỳnh sau này lấy vợ và sinh con. Năm gian nhà
ngang bên phải là nơi chứa lương thực, thực phẩm và mọi thứ đồ nghề. Nếu ai có
hỏi phần của cậu Quyết cậu Quyến ở đâu thì ông bảo:
« Hai thằng này có số đi ở rể. Bảy lượt đi xem tướng các thầy
đều bảo thế. »
Cô Vui không chồng không con nên ngôi nhà năm gian ông đô
Vàng xây đã là quá rộng. Vì thế, cô chủ trương biến ba gian thành kho chứa đồ
theo kiểu dân thành phố. Trong ba gian nhà kho của cô, mọi thứ xếp thành hàng
thành lối, đều tăm tắp như các đội quân, dù là dụng cụ làm vườn, đồ nghề làm mộc,
sao chè, đổ miến hay các đõ ong, các thùng lương thực...tất thảy đều đánh số,
ngăn nắp và sạch sẽ một cách đáng thán phục. Nhưng vì thói quen sạch sẽ thái
quá của người không chồng, cô Vui chỉ định cho các vị khách những món ăn mà
theo cô, không gây ra quá nhiều thứ rườm rà. Thành thử, dân làng chỉ có thể được
cô thết một vài món chủ yếu là xôi đậu, bánh chè lam, ngũ vị hoặc bánh rán nhân
mặn. Đừng mơ tưởng tới xôi gà hấp, xôi gà nướng hoặc những món cầu kì khác. Cô
vốn sợ lông gà và lòng gà vương vãi trên mảnh sân gạch bóng lộn của mình. Trừ
những ngày lễ tết, ma chay, thường ít khi cô thịt gà mà chỉ ăn trứng. Còn thịt
lợn, thịt bò cô mua nơi nhà khác. Trong sân nhà cô, gà không được thả rông mà
quây trong khu rào thép mắt cáo. Bờ dậu quanh vườn cũng chắn thép mắt cáo sát đất
để ngăn gà vịt, ngan ngỗng láng giềng đột nhập. Sống nơi thôn dã mà sạch sẽ đến
như thế kể cũng là chuyện lạ kì. Nhưng tục ngữ đã dạy:
« Đáo giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục. »
Dân làng chấp thuận rất nhanh những điều luật trong ngôi nhà
của cô chủ không chồng...Dù trong tâm can, họ có nuối tiếc gian bếp tưng bừng
niềm nở nhà ông Quảng như một thiên đường đã mất thì con mắt thực tế buộc họ phải
coi bếp lửa nhà cô Vui như một quán trọ đẹp mắt đối với kẻ lữ hành mỏi gối chân
chồn. Mùi thơm của chè lam ngũ vị dẫu không hấp dẫn như món xôi gà nhưng cũng đủ
làm rạo rực dạ dầy trong những ngày giá rét. Mà năm ấy rét thật hãi hùng. Chưa
ai chứng kiến một mùa đông rét ghê rét gớm như vậy. Người ta nói không ngoa:
Rét quắt cả tai. Rét buốt đến tận óc. Rét đến nỗi hơi thở đặc quánh trong hai lỗ
mũi. Tháng mười, tháng một rồi cho đến tháng chạp, những cơn rét kéo không
nguôi. Dường như không có lấy một ngày trời hửng nắng. Nhìn lên đỉnh Lan Vu chẳng
thấy một đốm xanh của cây rừng hoặc mỏm đá. Không phải tuyết nhưng những cánh đồng
mây chồng chất tầng tầng lớp lớp tạo thành một cõi trời mênh mông trắng buốt và
mỗi khi gió nổi, những cánh đồng mây trắng đó xô đuổi nhau, xao động, bồng bềnh
hắt lên những luồng sáng bạc lạnh lẽo. Hiếm hoi lắm, mặt trời mới trồi lên, nhợt
nhạt héo hon như trái cam bị sâu đục, rồi một hai giờ sau, lại biến đi vô tăm
tích. Năm ấy, nói một cách chính xác không còn là một mùa đông mà là hai mùa
đông tiếp nối, không đứt quãng. Cái Tết Nguyên Đán qua đi vội vàng, cũng gần
như không ai nhớ vì mưa rét. Chẳng ai dám trẩy hội. Không có trống chèo, cũng
không có trống hội vật. Không có cảnh đáo cù, cờ bãi. Không có chọi gà chọi
trâu. Cũng không cả trò thi thả chim, thả cá. Không ai cho trẻ con ra đường. Mọi
hoạt động chỉ còn thu lại quanh bếp lửa. Quanh bếp lửa, người ta gói bánh
chưng, bánh nếp, làm các loại chè lam ngũ vị. Quanh bếp, người ta nấu nướng, ăn
uống rồi sau đó, những người già ngủ ngay quanh đống lửa còn trẻ con và người lớn
phải đem chăn hơ cho nóng trước khi lên giường. Sau tết, trời lại đổ mưa. Lại
tiếp tục rét. Như thế là mùa đông tiếp nối mùa đông!
...Vào một ngày cuối tháng hai, lẽ ra đã là thời khắc cây cối
đâm chồi nảy lộc nhưng vì rét muộn nên các cành cây vẫn hoàn toàn trơ trụi, dân
làng tụ tập trong gian bếp nhà cô Vui. Hôm ấy, chủ nhân đem ra sáu quả gấc nếp
với hai cân đường đãi khách. Mấy ngày Tết, có một mình nên cô không muốn làm
xôi gấc mà giàn gấc trên bể nước lại lần lượt chín đỏ như son. Hơn nữa, trong bếp
cô còn hai liễn mỡ gà, thứ mỡ tuyệt hảo chỉ dành riêng để làm các loại xôi ngọt
như xôi dừa, xôi vừng, xôi gấc. Ý định của cô được mọi người hoan hỉ đón nhận.
Ngay tức khắc, các bà nhộn nhạo bắt tay vào hông đỗ, vớt gạo ngâm, rửa chõ đồ
xôi dưới bếp trong khi ở gian nhà trên đám đàn ông ngồi hút thuốc, nhấm nhá
bánh ngũ vị quanh lò than. Ngoài sân, trời vẫn không ngừng mưa. Thứ mưa nặng hạt
như mưa giông lại kèm theo gió bấc. Thứ mưa đó buốt tới xương, thứ mưa đó ngăn
người ra đi còn còn mạnh hơn cả dây quấn của những cánh tay ân ái. Vậy mà khi
các chõ xôi gấc vừa lên hơi thơm nức, người ta thấy bà Quảng lù lù khoác áo mưa
tiến vào giữa sân. Thoạt tiên, mọi người chưa kịp nhận ra mặt khách. Đường từ
thôn Thượng xuống thôn Trung phải qua mấy lượt đồi. Trời lại mưa gió dầm dề,
rét như cắn da cắn thịt. Không ai nghĩ một bà lão sáu mươi tuổi vượt qua quãng
đường như thế để đến nơi đây. Nhưng khi bà Quảng gỡ nón, cởi chiếc áo mưa bằng
ni-lông xanh nhạt, người ta chợt hiểu ra bà tìm đến căn bếp đỏ lửa này vì căn bếp
nhà bà đã trở nên hoang lạnh. Một thằng bé mười sáu tuổi không thể nào nấu nướng
săn sóc chu đáo một con bệnh đói như bà, nhất là khi nó vốn quen ăn sẵn.
Chủ nhân, chính là người đầu tiên nhận ra vị khách không mời.
Cô Vui đang nói chuyện với đám đàn ông trên nhà, vội vàng vớ chiếc mũ của ông
khách nào đó che đầu, rồi chạy xuống sân đón bà Quảng. Cô niềm nở vồn vã mời bà
lên nhà trên, sự niềm nở có vẻ đặc biệt vì cô ý thức được rằng mới mùa đông năm
trước, bà còn là chủ của bếp lửa lớn nhất xã, rằng thực khách nhà bà rải khắp
ba thôn và đã hơn ba thập kỉ tên vợ chồng ông Quảng lừng danh khắp huyện vì sự
giàu sang và lòng hiếu khách.
Bà Quảng chào tất thảy mọi người một cách chậm rãi, một cái
chào chung vì bà không gọi tên bất cứ ai. Rồi bà ngồi xuống góc phản mà cô Vui
vừa sửa soạn cho mình, đưa mắt nhìn ra ngoài sân, nơi những cơn mưa xiên xiên
không ngừng táp.
Cô Vui, sau khi rót nước mời vị khách mới, chạy xuống bếp báo
động. Người ta phải mở kho tức khắc, đong gạo nếp tức khắc để nấu thêm một nồi
cơm nếp ăn với thịt lợn kho. Dân làng kháo nhau rằng càng ngày bà Quảng càng ăn
mặn. Bữa cơm nào cũng phải có thịt có cá. Bà không thể vừa lòng với các loại
xôi ngọt như mọi người. Cả chủ nhân lẫn đám đàn bà thôn Trung chuẩn bị mọi sự với
một nỗi háo hức không che giấu. Đây là cơ hội hiếm hoi để họ có thể quan sát một
căn bệnh thần bí mà cả vùng nghi nghi hoặc hoặc bởi từ sau ngày rằm tháng tám,
bà Quảng không còn đặt chân ra ngõ. Cùng với căn bệnh ma đói, bà mất thói quen
làm việc cũng như mất khả năng giao tiếp bình thường với xóm giềng. Bà không
nhúc nhắc chân tay, không đụng chạm tới bất cứ một thứ gì, dẫu là săn sóc vườn
cây, chăm nuôi gà lợn hay quét tước sân ngõ. Bà chỉ làm những món ăn cho riêng
mình. Bà quên cả những quan tâm thông thường nhất đối với chồng con. Bà cũng chẳng
còn nhớ rành mạch tên tuổi những người cùng chòm xóm. Như thế, căn bệnh quái quỷ
này kèm theo cả chứng mất trí nhớ. Và như thế, từ lâu bà Quảng sống gần như
cách biệt với mọi người. Hai cánh cổng gỗ to đùng luôn gài chặt. Người ta chỉ
loáng thoáng nhìn thấy bà đi qua sân khi cậu út Quỳnh trở về nhà lo cơm nước
cho mẹ hoặc di chuyển các đõ ong. Dân làng nhìn bà với con mắt tò mò thầm lén
như người ta nhìn một con bệnh tâm thần đặc biệt. Vì vậy, chẳng có gì đáng kinh
ngạc khi thấy đám đông xúm lại quanh bà hỏi han, chuyện trò, ngay từ lúc bà vừa
ghé mông ngồi xuống tấm phản lim mênh mông nhà cô Vui. Đàn ông cũng như đàn bà,
không che giấu nổi cơn tò mò ngứa ngáy. Nhưng dường như bà Quảng không nhớ rằng
bà đang ngồi ở đâu, ai hỏi bà cũng chỉ ừ hữ cho qua rồi bà ngoảnh mặt nhìn ra
sân, cười một nụ cười đờ dại. Cho đến khi người ta bê lên một mâm đầy, nào cơm
nếp trắng với thịt kho, nào xôi gấc, nào xôi vừng với mật...bà điềm nhiên cầm
đũa, nói:
- Mời các ông các bà.
Nói xong, không đợi ai trả lời, bà bắt đầu ăn mải mốt. Người
ta tản ra các mâm khác, nhưng vừa ăn, vừa theo rõi bà. Chủ nhân chạy lên, chạy
xuống, lúc ở trên nhà khi ngồi dưới bếp, rõ ra vẻ quán xuyến, nhưng con mắt
không lúc nào ngừng quan sát người bệnh. Thành ra mọi cuộc chuyện trò, mọi cuộc
đối thoại diễn ra giống như màn kịch chỉ để lừa một người là bà Quảng, trong
khi chính bà không mảy may ý thức về điều ấy. Bà ăn hết hai đĩa cơm nếp đầy ụ với
thịt kho mà những người xung quanh chẳng dám xen đũa. Rồi bà tiếp tục kéo đĩa
xôi vừng về phía mình. Những người đàn ông khác cúi mặt làm ra vẻ không để ý,
nhưng những ánh mắt hãi hùng của họ thầm lén giao nhau. Cứ như thế, bà lại vét
gọn đĩa xôi vừng, đoạn đưa mắt nhìn sang đĩa xôi gấc đang còn quá nửa ở góc bên
kia mâm. Cô Vui đứng sau lưng bà, hốt hoảng gọi:
- Nhà bếp cho xin đĩa xôi gấc mới.
- Có ngay đây.
Các bà dạ ran bên dưới, rồi một người nhanh chân chạy lên hai
tay bê hai đĩa xôi đỏ như son:
- Mời bà!Hai đĩa chứ không phải một đĩa.
Không ai bảo ai nhưng mọi người đều hiểu rằng khi bà đã đụng
đũa vào đĩa nào, đĩa ấy coi như chứa một thứ vi trùng còn nguy hiểm hơn vi
trùng thương hàn hay kiết lị. Sẽ không một ai dám thò đũa vào nữa. Những người
buộc phải ngồi chung mâm với bà vừa rón rén ăn vừa run. Một nỗi sợ không cắt
nghĩa được hù doạ họ. Dù rằng, cùng với nỗi sợ ấy là một sự bù đắp thoả đáng: họ
được hoàn toàn thoả mãn cơn tò mò.
Khi bốn người đàn ông cùng mâm chia nhau những miếng cuối
cùng trên đĩa xôi của họ, cũng là lúc bà Quảng vét gọn cả hai đĩa xôi gấc phần
bà. Như thế là một mình bà táng hết năm đĩa xôi với một bát tộ thịt kho. Bốn vị
khách nam nhi vội vã rút khỏi chiến trường tìm nơi hút thuốc. Họ run sợ ra mặt.
Họ sợ bị lây căn bệnh quái quỷ của bà. Chủ nhân cũng không chạy trốn được nỗi sợ
hãi ấy, cô nói thầm vào tai đứa cháu:
- Bưng cái mâm này ra sau vườn rồi đem chôn, càng sâu càng tốt.
Trong khi đó, bà Quảng đã đứng lên, nói bâng quơ giữa nhà:
- Cảm ơn cô chủ nhá. Chào các ông các bà ở lại, tôi về.
Không chờ chủ nhân, bà tự khoác áo mưa, đội nón ra sân. Khi
cô Vui từ trong bếp chạy ra định tiễn bà thì bà đã đi khuất ngõ. Chỉ còn thấy vạt
áo mưa xanh nhạt lấp ló sau góc tường nhà bếp mà thôi. Hai mươi bốn giờ sau, cả
Xóm tiều phu nghe loan tin bà chết.
Bà chết ngay trên đường trở về, ở đoạn rừng trúc giữa thôn
Trung và thôn Thượng. Bà ngồi ở vệ đường, lưng tựa vào tảng đá, nón úp xuống mặt.
Rủi ro là đêm hôm ấy, cậu con út sang nhà bạn chơi, vui chuyện ngủ lại xã
bên.Trời mưa rét lại xế chiều chẳng còn ai đi lại. Vì thế, phải đến non trưa
hôm sau, mới có người qua đường, nhìn thấy một bà lão ngủ ngồi dưới mưa rét,
sinh nghi bước tới lật nón lên xem. Bà đã cứng ngắc như đá. Bà lại là mẹ chủ tịch
xã nên chẳng thiếu người ba chân bốn cẳng chạy tới uỷ ban đóng ở thôn Thượng
thông báo. Quý tức tốc cho người xuống tỉnh gọi ông Quảng. Còn anh ta với các
chức sắc xã lo việc tang điếu.
Thời nào cũng thế, là bậc mẫu nghi của kẻ có quyền có chức
đương nhiên phải được hưởng phần lễ tiết sang trọng hơn hẳn thứ dân. Dẫu sao,
con trai bà cũng là chủ tịch xã. Chưa có ai pha nước, têm trầu, mua thuốc lào
thuốc lá, đội kèn trống đã tức khắc đến nhà và tiếng nhạc đưa vong cất lên vang
dội khắp xóm cùng thôn. Nếu chẳng phải là mẹ ông chủ tịch xã, gia chủ phải lo đủ
cỗ bàn, trầu thuốc lẫn tiền phong bao rồi mới dám lên tiếng mời đội kèn trống
nhà đám. Bởi khắp huyện, chỉ có một đội nhạc tang. Mà lại toàn những người có
nghề từ nhiều đời tụ tập lại. Từ tay kèn, tay nhị cho đến tay đánh trống hát
đưa vong...thuần là những người theo đuổi nghề nghiệp từ thuở thò lò mũi xanh,
mà cũng kiên trì giữ nghề sau bao nhiêu đợt càn đi quét lại của chính quyền
cách mạng. Đã có những năm tháng dài họ phải cất giấu nhạc cụ, vờ vĩnh giải thể.
Ai nấy cắm cúi sắm vai kẻ tuỳ thời, một lòng một dạ tuân theo các chỉ thị của
huyện uỷ lẫn xã uỷ:
« Toàn đảng toàn dân đồng lòng thực hiện chủ trương xây dựng
con người mới, con người xã hội chủ nghĩa. »
Theo tiêu chuẩn này, đám cưới chỉ được quyền uống nước chè
xanh và ăn bánh kẹo. Để tiết kiệm, người ta thay pháo nổ bằng những tràng vỗ
tay. Còn đám ma thì tuyệt đối cấm kèn trống cũng không cỗ bàn, không xe đòn,
không cả đám rước cờ rước phướn. Lại càng không được mời sư sãi tụng kinh.Vì tất
thảy những cổ tục đó là phản cách mạng, đồi truỵ hoá tư tưởng dân chúng và gây
tổn hại tinh thần cho xã hội....
Nhưng rồi năm tháng qua. Dần dà nỗi tiếc thương những người nằm
xuống khiến dân chúng không còn quá sợ hãi chính quyền. Ai cũng tự đặt câu hỏi:
- Ngộ dưới âm phủ không có chính quyền xã hội chủ nghĩa thì
sao?...Không cúng bái đầy đủ tổ tiên chúng ta sẽ trở thành ma đói...Người nơi
chín suối là ma đói thì kẻ sống nơi dương gian làm sao mở mặt mở mày ra được?...
- Không kèn không trống, không nghe câu hát đưa vong, người
chết làm sao biết đường biết lối mà đi về cõi trời?...Không vào được cõi trời,
chỉ có cách sa xuống địa ngục làm mồi cho ngạ quỷ...Như thế hoá ra con cháu lại
chính là những kẻ làm hại cha ông, xô đẩy người máu mủ ruột rà vào nơi hang
hùm, miệng rắn.
- Chao ôi, cách mạng mới có mấy chục năm, còn tổ tiên chúng
ta đã sống mấy ngàn năm có lẻ... Nào ai biết đâu là nẻo đường xuôi, đâu là con
đường ngược...Vậy muốn cho chắc ăn, cứ làm theo cách của các cụ từ xưa....
Những cuộc chuyện trò thầm lén như thế thoạt tiên chỉ ủ ấp
trong mỗi căn nhà, dấu giếm sau những bức tường và các khuôn cửa đóng im ỉm,
nhưng dần dần chúng lan đến những buổi tụ tập quanh ấm chè, mâm rượu, và sau
cùng, chúng theo đám dân cày cuốc lên nương, xuống vườn, thổi một ngọn lửa nóng
bỏng trong lòng thôn ấp.
Thế rồi, việc gì đến, sẽ phải đến. Một đợt phản công dữ dội của
dân làng bùng nổ khi công an xã đến trấn áp gia đình đầu tiên dám kêu gọi đội
kèn đám quay lại nghề cũ. Gia chủ đã trả một món tiền phong bao đặc biệt, vượt
qua mọi mơ ước của các nhạc công khiến họ đủ gan liều mạng. Tuy nhiên, ông ta
cũng không dám đơn thương độc mã đương đầu với chính quyền. Ngay từ khi ông bố
già còn đang nằm trên giường hấp hối, ông ta đã thầm lén đến từng nhà, kêu gọi
mọi người cùng đứng lên hành động. Bởi nhà nào cũng có cha già mẹ yếu, mối lo
tang sự là mối lo rường cột của tất thảy các gia đình nên mọi người đồng lòng
hưởng ứng. Cuộc vận động diễn ra êm ả trong bóng tối. Chính quyền xã hoàn toàn
không hay biết nên đã ập đến gia đình tang chủ một cách hống hách, kiêu căng.
Không ngờ dân chúng chuẩn bị ứng phó. Vừa thấy chủ tịch và công an xã bước qua
cổng nhà đám, người ta liền nổi trống ầm ầm. Các bô lão nghe hiệu lệnh kéo tới
quây kín sân. Gần bốn trăm mái đầu hoa râm lẫn đầu bạc. Thêm nữa, đàn bà trẻ
con đứng vòng trong vòng ngoài như đội quân ứng chiến. Tình thế lạ lùng khiến
các chức sắc run chân. Họ đành xuống giọng:
- Nếu các ông các bà muốn quay lại hủ tục, phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật. Chúng tôi đến đây chỉ để nhắc nhở mọi người.
- Chúng tôi không coi việc tang ma là hủ tục. Chúng tôi coi
đây là việc hiếu nghĩa. Các anh nói hủ tục nghĩa là từ ngàn xưa đến nay cha ông
chúng ta toàn phường ngu dốt, chuyên làm những việc xằng bậy hay sao?
- Chúng tôi không định nói thế.
- Hủ tục? Vậy các anh muốn nói gì. Yêu cầu trả lời rành mạch
trước toàn thể dân chúng. Ở đây, sớm hay muộn, muốn hay không, mọi gia đình đều
phải lo việc hiếu việc hỷ. Không ai tránh được sự bắt buộc của kiếp làm người.
- Chỉ thị của cấp trên đã nói rõ: việc kèn trống theo lối cũ
là hủ tục. Chúng tôi chỉ có phận sự thi hành. Chúng tôi không thể giải đáp.
- Thế ngày mai huyện uỷ ra lệnh cho các anh đào mồ đào mả tổ
tiên lên các anh cũng cứ nhắm mắt làm, không cần hiểu đúng hay sai.
- Các ông đừng quá lời, đảng không thể ra lệnh làm những điều
phi lý, phi nhân như vậy.
- Có đấy!....các anh quên nhưng chúng tôi chưa quên: Năm con
gà, cấp trên của các anh đã ra lệnh triệt hạ chùa Lan Vu và biến hai ngôi chùa
dưới núi thành lớp bình dân học vụ. Các lão làng phải kéo lên tỉnh uỷ kêu cầu
ông Lợi Đen, họ mới tha cho. May là ông Lợi Đen đã từng ăn nhờ ở đậu ; bốc cơm
nguội, húp nước dưa nhà chúng tôi nhẵn miệng trong những năm đen tối.
Chính lúc ấy, trưởng công an xã xuống giọng trước:
- Thôi được, nếu các ông các bà thích tuân theo cổ tục thì cứ
lẳng lặng mà làm. Chỉ có điều chúng tôi hoàn toàn đứng bên ngoài sự việc...
Nói xong, anh ta bấm chủ tịch xã chuồn. Hai người vừa ra khỏi
ngõ, tiếng kèn trống lập tức nổi lên ầm ĩ, nửa như thị uy, nửa như khiêu khích.
Công an xã ghé tai chủ tịch, nói thầm:
- Đừng có lơ mơ. Người xưa đã bảo rằng:
― Chúng khẩu đồng từ, ông sư cũng chết ―...
Chủ tịch xã lòng dạ hoang mang không biết nói năng sao vì thấy
gã đàn ông nổi tiếng sắt đá hung dữ bỗng nhiên tòng phục đám đông một cách dễ
dàng như vậy...Ba tháng sau, ông bố già của xã trưởng công an chết, đội kèn trống
được mời đến ngay tức khắc. Đích danh anh ta mang trầu thuốc lẫn tiền phong bao
ra biếu các nhạc công....
Từ ngày ấy đến nay, bao nhiêu đời chủ tịch và xã trưởng công
an thay đổi. Nhưng việc hiếu hỷ ở Xóm Tiều Phu không ai còn bàn. Người ta tuân
theo phong tục của tổ tiên như một sự nghiễm nhiên. Chính quyền cấp tỉnh lẫn cấp
huyện giả đò như không nghe, không thấy.
Nhờ vậy cái chết của bà Quảng được hưởng đủ mọi lễ nghi. Kèn
trống, xe tang, cờ phướn, hương hoa linh đình. Nhà cửa sạch banh sau hai mùa bị
tàn phá bởi căn bệnh ma đói nhưng ông Quảng đã vay ba con bò, năm tạ thịt lợn để
làm ma cho vợ. Thiên hạ rùng mình:
- Nợ đến thế trả bao giờ cho xong?
Người độc miệng hơn thì bảo:
- Bà này đúng là quỷ đói. Chết rồi vẫn còn đòi mâm cao, cỗ đầy.
Chắc ông chồng phải lo cho đủ vì sợ bà ấy quay về ám...
Nhưng dẫu sao thì cả Xóm Núi cũng phải cúi đầu kính nể một
ông chồng như thế.
Ông Quảng ở lại nhà đúng bẩy tuần lễ. Ông mời sư về đọc kinh
cho vợ vào ngày cúng trả vong, tên gọi thông thường để chỉ ngày thứ bốn mươi
chín sau cái chết. Lần này, thay vì tiếng nhạc là tiếng tụng kinh gõ mõ suốt
đêm trường. Ông ngả ba mươi mâm cỗ chiêu đãi bà con, láng giềng rồi sớm hôm
sau, đánh xe ngựa xuống tỉnh từ lúc trời còn tối đen như mực. Láng giềng nghe
tiếng ngựa gõ móng trên sân và thấy ngọn đèn bão nhà ông treo lúc lắc nơi càng
xe rọi sáng đám sương mù:
- Ông ấy đang làm cai cho công trường tỉnh sao lại còn đánh
xe ngựa theo?...Chẳng lẽ vừa xây nhà vừa buôn đường dài?
- Có trời mà biết. Người lắm bạn nhiều bè như ông ấy làm gì
chẳng nổi. Bây giờ nợ nần ngập đầu ngập cổ, ông ấy phải lo cách kiếm tiền chứ.
- Đúng là chữ tài đi với chữ tai...trời cho cách kiếm tiền,
trời lại bắt cõng một con vợ nhập hồn quỷ đói.
- Nói phỉ thui chứ giá như quỷ đói mà rơi vào nhà chúng ta chắc
chỉ có cách đem chôn sống.
- Cái ông này nói ghê cả tai. Nhưng của đáng tội, đúng là
kinh hồn táng đởm. Từ thuở sơ sinh tới giờ chưa nhìn từng thấy cảnh như thế. Chỉ
nghĩ đến thôi, đã đủ sởn da gà...
Láng giềng bàn tán, và sau mỗi lần bàn tán như vậy, họ cảm thấy
hài lòng với mái nhà mình, với cái hạnh phúc nhỏ bé vừa tầm tay của mình, với
những gì số phận đã an bài cho họ. Họ theo rõi ông từ xa, từ nơi Xóm Tiều Phu
heo hút ấy, vừa tò mò vừa khắc khoải...
Mùa xuân lạnh lẽo năm ấy qua đi như cơn ác mộng. Tiếp đến mùa
hè oi nồng đột ngột và chứa chất giông bão, thứ giông bão của mùa thu đến sớm.
Những cơn mưa lũ tháng sáu tháng bẩy dồn lên ngay giữa tháng tư khiến các con
suối cuốn ào ào làm nhiều đoạn đường sụt lở. Việc dọn lũ, đắp đường tiêu phí biết
bao tiền của lẫn nhân công. Ve đẻ như sung vào cuối hè, tiếng ve kêu inh ỏi cả
ngày lẫn đêm khiến những người già không ngủ được. Trẻ con bị hết dịch cúm lại
đến sốt bạch hầu. Tiếng trẻ khóc như xé vải khiến không gian càng nhôi nhoai,
ngột ngạt. Thời tiết thay đổi bất thường, cuộc sống cũng đảo lộn một cách bất
thường. Những nỗi lo âu xưa cổ lại quay về, kêu ra rả như tiếng ve trong tâm hồn
phập phồng hoang mang của người dân. Mặc cho chính quyền lẫn các đoàn thể hội họp,
răn đe, dân làng quyết định mời các nhà sư trên chùa Lan Vu lẫn hai ngôi chùa
dưới chân núi đọc kinh giải hạn trong ngày lễ ra hè. Thông thường, lễ ra hè chỉ
làm trong một ngày, nhưng năm ấy, do quá nhiều sự bất thường trong trời đất
cũng như trong cuộc sống, người ta làm lễ ba ngày liền, cờ phướn treo rợp sân
chùa, dân làng từ già tới trẻ ngồi sùng kính đọc kinh, hy vọng cơn giận dữ của
các bậc quỷ thần sẽ nguôi dịu....
°°°
Ông Quảng trở về làng vào ngày cuối cùng của dịp lễ. Chiếc xe
ngựa của ông là chiếc xe duy nhất trong Xóm Tiều Phu có mui che, thế nên người
ta nhận biết được ngay. Ông có vẻ gầy hơn xưa, đuôi mắt hằn thêm vài nếp nhăn
nhưng tiếng cười ngạo nghễ không thay đổi. Một nửa mùa xuân với một mùa hè, ông
đã trả đủ nợ, cả gốc lẫn lãi, lại biếu thêm mỗi chủ nợ mươi thước vải làm quà.
Xóm giềng nhìn ông như nhìn người lạc từ cung trăng xuống. Người ta thì thầm
kháo nhau về mọi cách kiếm tiền của ông. Nhưng những câu hỏi luôn luôn còn là
những câu hỏi. Không ai kiểm soát hay dò tìm được đường đi lối lại của con người
này. Cuộc sống của ông nằm ngoài trí tưởng tượng của thôn dân. Ông không chỉ dẫn
người Xóm Tiều Phu mà còn tuyển dân của các huyện láng giềng xuống làm nề làm mộc
nơi công trường thành phố. Một khi đã sắp xếp công việc cho các toán thợ, giao
quyền cho đàn em thân tín, ông biến ngay cùng cỗ xe ngựa. Vài tuần sau, ông
quay lại kiểm soát chất lượng thi công, bàn bạc, thoả thuận công xá với thượng
cấp cũng như với hạ cấp, rồi sau bữa cơm rượu đãi thợ, nâng chén lên hạ chén xuống
với mọi người, cười ha hả khi nghe đủ thứ chuyện tiếu lâm,
ông lại mất tăm như người làm trò ảo thuật. Không ai có thể
theo rõi ông, nhưng ông lại có biệt tài theo rõi tất thảy mọi người, ngay cả
khi ông vắng mặt. Đừng hy vọng lừa đảo ông. Tất nhiên ông cũng chưa từng lừa đảo
hay gian dối với ai nhưng đám dân đã theo ông xuống tỉnh kiếm cơm đều biết luật
lệ của trò chơi và không kẻ nào dám mạo hiểm vượt mặt con người lõi đời ấy.
Sau khi trả hết nợ nần, ăn một bữa cơm với con cháu, chiếc xe
ngựa của ông lại gõ móng lên đường vào một sáng tinh sương. Lần này, người ta
nghe tiếng nhạc cất lên từ chiếc đài Sương Mao ông đeo bên mình. Cái thứ máy
móc giống như cục gạch đen mà có thể phát ra đủ thứ bài hát, lẫn những giọng
nói véo von đang còn là đồ vật huyền bí trước mắt dân quê. Ngay các quan chức
huyện cũng chưa thể có được một vật lạ kì như thế. Láng giềng mở cửa, đứng nhìn
theo chiếc xe ngựa, và lắng nghe tiếng nhạc xa dần.
- Lão này oách thật!...
Người ta bình phẩm.
- Không oách đã không phải lão Quảng. Có nhà ai dám làm đến
ba mươi mâm cỗ vào bốn mươi chín ngày vợ chết đâu. Mà đấy còn là quỷ đói đã ăn
tàn phá hại gia tài.
- Nếu bà ấy là người bình thường hiền thảo cho tới phút nhảy
vào trong hòm chắc ông ta phải làm đến ba trăm mâm cỗ?...
- Chả phải nói!...
- Ông ấy bao nhiêu tuổi mà trông còn chắc như cua gạch thế nhỉ?
- Bà ấy sáu mươi, ông ấy sáu mươi mốt. Họ lấy nhau theo công
thức:Gái hơn hai, trai hơn một.
- A! Sáu mươi rồi thì không còn phải nghĩ đến chuyện tái hôn.
Từ nay về sau, ông ấy chỉ còn việc nhặt tiền bỏ vào túi!
Đó là ý nghĩ phổ biến của dân Xóm Tiều Phu. Họ muốn rằng một
người chồng tận tình tận nghĩa như ông ắt hẳn sẽ ở goá đến cuối đời để hoàn thiện
hình ảnh của một lý tưởng đạo đức. Bởi con người luôn luôn có nhu cầu hướng về
một lý tưởng đạo đức, miễn là cái lý tưởng ấy đừng hoá thân vào chính họ. Thế
mà cuối mùa đông năm ấy, nói cho thật chính xác là ngày hai mươi lăm tháng chạp
ông Quảng lại đùng đùng dẫn về một cô vợ trẻ. Một cô gái mẩy da mẩy thịt, cặp mắt
lúng liếng sắc như dao cau, đôi mày dài qua thái dương quết đến tận chân tóc.
Ngày đầu, cô ngồi trên càng xe đi qua đường làng, vừa trò chuyện với ông vừa
đong đưa đôi chân và cười như nắc nẻ, nhiều người tưởng lầm là con gái nhà Quý:
- Ủa con cái Mơ sao bỗng nhiên nảy da nảy thịt nhanh thế nhỉ?
- Chắc mắt ông có nhài, con Mơ nào mà to lớn đến thế được? Nó
chỉ nặng một xách tay chứ mấy.
- Chẳng lẽ lại là con Mận? Con bé mới mười lăm. Nghe giọng cười
lạ hoắc, rắn đanh. Tôi chắc không phải nó.
Họ không cần chờ đợi lâu. Ngay tối hôm ấy, sân nhà ông đã chộn
rộn láng giềng. Đèn măng-xông treo giữa sân, soi sáng đến tận vườn trước, vườn
sau. Người ta uống nước chè, ăn đủ loại bánh kẹo và nghe ông giới thiệu một
cách vắn tắt:
- Đây là cô vợ mới của tôi. Cô ấy tên là Ngân.
Mọi người chưa kịp nói câu nào, cô gái đã tiến lên, nhoẻn miệng
cười:
- Em chào các bác. Cảm ơn các bác tới mừng cho chúng em. Ngày
mốt ngày hai chúng ta sẽ là những láng giềng.
Dân làng gần như á khẩu. Giấc mơ về người chồng lý tưởng sập
đổ, tan như vôi vữa một ngôi nhà bị vùi trong cơn núi lở. Hơn thế nữa, cô dâu
trẻ quá, lại đẹp quá, đến nỗi mọi người muốn tắc thở. Cô ấy mặc chiếc áo cánh lụa
xanh, cặp vú nảy cồn cộn, ngon lành như hai bát xôi nén nặng tay. Cặp mông cong
lượn một đường ngoạn mục dưới lớp sa-tanh đen nhánh. Bộ đùi cũng vậy, chúng hằn
lên mỗi khi cô bước, đặc biệt gợi bao nhiêu điều háo hức cho cánh đàn ông khi
gió thổi ngược chiều. Mắt cô cũng đen nhánh như sa-tanh, nhưng lại bắn ra những
tia lửa lúng liếng khiến tim người loạn nhịp.
Chắc chắn ông Quảng đã hiểu thấu gan ruột của đám đàn ông,
nên cao giọng nửa đùa nửa thật:
- Ở thành phố toàn những người đẹp như vợ tôi trở lên, ông
nào muốn, tôi giới thiệu cho tức khắc ;
Cánh đàn ông như được rút lưỡi, nhao nhao:
- Muốn thì cũng muốn, nhưng túi không xu, gái nào thèm.
- Lòng vả cũng như lòng sung, tôi cũng đang mót lắm đây...Ông
mà kéo được cho tôi một cô đẹp bằng nửa vợ ông, tôi xin làm quản gia, coi sóc
nương vườn không công cho ông cho đến chết.
- Đừng tin mồm mép lão ấy, cái quân chuyên vay lường mướn quỵt.
Xưa nay những người cho lão vay nợ chưa ai đòi được một hào. Có giúp thì giúp
tôi đây.
- Các ông các bà thấy chưa? Bạn nối khố đấy! Động đến gái là
chẳng còn tình nghĩa gì.
Câu chuyện râm ran trong khi cô Ngân đã rút xuống bếp để nấu
nước chuyên chè và bày tiếp bánh kẹo ra đĩa đãi khách. Người ta ngồi đến quá nửa
đêm. Đã hai năm căn nhà thênh thang của ông tối lửa tắt đèn, giờ mới lấy được
không khí nồng ấm cũ. Tuy nhiên, dẫu chuyện trò như pháo nổ, láng giềng vẫn đảo
mắt tìm những đứa con trai. Quý không thấy mặt. Cả cậu út Quỳnh cũng không. Giá
như địa vị người khác thế nào cũng bị dăm ba câu hỏi đểu. Kiểu như:
- Cậu cả cậu út đi đâu chưa về?
Hoặc là:
- Nhà có thêm nhân khẩu mới mà mọi người lại bỏ đi chơi đâu vậy?
Hoặc là:
- Hôm nay là ngày nhận diện mẹ kế, đáng lẽ các cậu con trai
phải bưng trà bóc thuốc mời dân làng mới phải đạo!...
Đại loại là như thế. Dân quê vốn không thiếu lối cạnh khoé
ngoắt ngoéo như vậy. Nhưng có lẽ tại vía ông Quảng lớn, nói trắng ra rằng ông ấy
sang cả, đường ăn lối ở đều trên can mọi người, dân nghèo trong thôn mang ơn
ông ấy phải tính đến cả trăm chứ không phải đôi ba chục cho nên người ta đành
nén những loại lời lẽ ngâm cả dấm lẫn ớt chỉ thiên trong họng.
Đêm ấy, trên đường trở về nhà, họ kháo nhau:
- Thằng cả không thèm đến, thằng út bỏ đi. Nhà này loạn đến
nơi.
- Loạn làm sao được với ông Quảng. Cứ nhìn vẻ mặt ông ấy thì
biết. Người như thế có cháy nhà cũng không chớp mắt.
- Nói phét!...Có là lòng gang dạ sắt con cái hỗn loạn cũng chẳng
và nổi bát cơm.
- Để rồi xem ai có lý!...Chẳng cần phải chờ lâu, không mai
thì mốt, con tốt phải xuất đầu. Ai cá cược với tôi?
Không cần cá cược thì sáng hôm sau, mọi người đã thấy chủ tịch
Quý đến thăm bố. Anh ta gõ cửa ầm ầm. Ông Quảng gắt giọng hỏi với ra:
- Ai làm rộn lên đấy?
- Con đây.
- Về đi, tao còn đang ngủ.
- Bố mở cửa, con có chuyện cần nói.
- Chuyện gì cũng không nói lúc bảnh mắt này. Tao mới đi xa về,
đang còn muốn nằm cho giãn lưng.
- Bố dậy đi. Con có nhời...
- Đây là nhà tao, tao muốn ngủ đến lúc nào tuỳ ý.
- Nhưng con còn phải lên xã làm việc.
- Lên xã là việc của mày, ngủ là việc của tao.
Chủ tịch Quý đứng hồi lâu trước khuôn cửa gỗ đóng im ỉm, mặt
đỏ dừ. Nhưng rồi, anh ta cũng phải bỏ đi.
Láng giềng nín thở nghe cuộc đối thoại giữa hai cha con,
không sót nửa câu, nửa chữ. Đàn ông cũng như đàn bà, xồn xồn nạ dòng cũng như
năm mươi, sáu mươi, tóc trên đầu trộn cả tiêu lẫn muối, không ai không chú tâm
theo rõi cái màn kịch hiếm hoi nơi thôn dã. Cái màn kịch, mà họ biết chắc chắn
sẽ còn đi qua rất nhiều lớp lang.
Ngày hôm ấy, láng giềng quanh quẩn làm cỏ vườn, hoặc nhặt đậu,
nhặt lạc, sàng ngô...bất cứ thứ công việc tủn mủn nào, cho phép họ theo rõi được
mọi tiếng động xảy ra trong ngôi nhà ông Quảng. Họ nhìn thấy hai cánh cửa mở ra
thật trễ tràng: Chín giờ rưỡi, mười giờ hay non trưa?...Chắc cũng phải tầm ấy.:
- Lão Quảng bây giờ đã ra dân đô thị...Người thôn quê không
ai dám ngủ muộn thế...
- Thôn quê hay đô thị cũng chỉ có một đầu hai tay, hai chân với
cái chân thứ ba lủng lẳng dưới đám lông đái. Dù khoẻ như hùm cũng đã chính lục
tuần. Cặp mông cô vợ trẻ thây lẩy như vậy, rập xong một quắn phải ngủ mười tiếng
mới lại hơi.
- Này bà Tám, nghe thằng chồng dê xồm của bà tán chuyện hay
chưa kìa?...
- Chẳng cứ lão nhà tôi, ông nào nhìn thấy cô Ngân chả nhỏ nước
dãi...Chỉ có điều các ông không thể bì với ông Quảng. Các ông chỉ là phường đũa
mốc thôi...Đã đũa mốc đừng có chòi mâm son.
- Cái nhà bà này. Bà nói thế có nghĩa là bà tự nhận là mâm gỗ
mốc à?
- Tôi nhận quá đi chứ!Tôi không là thứ mâm gỗ mốc đời nào tôi
phải chịu suốt đời hứng cái thứ đũa mốc kia.
- Con mụ trời đánh thánh vật! Đêm nay thì mày biết tay
ông!...
Đấy là câu chuyện trong bữa ăn đúng ngọ, khi những người láng
giềng vừa xới cơm vừa đưa mắt liếc qua sân nhà bên kia xem ông chủ tịch Quý đã
quay lại chưa...Nhưng ông ta chưa quay lại. Chỉ nghe tiếng gà kêu quang quác, rồi
sau đấy là tiếng cười của cô Ngân. Giọng cười đến là lạ, vừa sành sỏi vừa thơ
trẻ. Có cái gì đó tươi hơn hớn như hoa mùa xuân trong giọng cười của người đàn
bà mới mười tám tuổi này. Rồi tiếng ông Quảng nói trong bếp. Chắc là cả hai
đang làm cơm. Chỉ có hai người thôi vì cậu út Quỳnh đã bỏ về nhà bà ngoại dưới
thôn Hạ. Chừng nửa tiếng sau thấy cô Ngân bưng mâm đi trước, ông Quảng cầm chai
rượu thuốc theo sau, rõ ra là cảnh tuần trăng mật. Họ ăn cơm ở nhà trên chứ
không ăn dưới bếp như mọi người. Phú quý sinh lễ nghĩa là thế. Láng giềng phải
kiên nhẫn chờ cho tới sát bữa cơm chiều, mới thấy Quý quay về. Lúc ấy, ông Quảng
và cô Ngân đang thu dọn năm gian nhà ngang được dùng chứa đồ gia dụng và lương
thực. Hai người hì hục khuân ra sân hàng đống bao tải để lựa những chiếc còn có
thể đựng thóc ngựa hay cỏ khô. Quý đi ngang sân, mặt hằm hằm:
- Con muốn nói chuyện với bố.
Ông Quảng nhìn con trai, gằn giọng:
- Muốn nói chuyện thì phải vào nhà. Muốn vào nhà phải chào chủ
nhân rồi mới được bước qua bậc cửa. Anh là chủ tịch, đứng đầu một xã mà phép ăn
phép ở tối thiểu cũng không thông suốt. Anh lãnh đạo ai?
- Con chào bố rồi.
- Trong nhà này, ngoài tôi ra còn có vợ tôi. Trước đây mẹ anh
là vợ tôi. Bây giờ bà ấy mất tôi lấy cô Ngân. Cô ấy là chủ nhà này.
- Con không có thứ mẹ ranh như vậy.
- A...Anh không muốn thứ mẹ ranh nhưng tôi lại muốn. Tôi lấy
vợ cho tôi chứ tôi không lấy cho anh.
- Bố lấy ai cũng được nhưng phải nhìn ngược nhìn xuôi chứ. Đầu
bố hai thứ tóc rồi.
- Tôi không cần anh dạy tôi. Tôi làm điều gì tôi thích.
- Nhưng con là con trưởng.
- Con trưởng hay con thứ trong gia đình này cũng vậy thôi. Tất
cả đều tay tôi gây dựng. Tôi chưa nhờ vả được đứa nào. Kể từ ngày chúng tôi cưới
vợ, dựng nhà cho anh đến lúc mẹ anh mắc bệnh, ăn lở núi lở đồi, là con trưởng
anh đã đỡ đần tôi được một đùi bò hay nửa tạ lợn chưa?
-....
- Không một đấu gạo, không một đồng xu, không một manh vải...Đến
một viên kẹo mút cũng không?...Tôi nói sự thật hay tôi đặt điều cho anh?....Tất
cả đều tự tay tôi mà ra. Sự tồn tại của mái nhà này là do tôi đổ mồ hôi sôi nước
mắt...Anh chưa báo hiếu nuôi mẹ anh được bữa nào, anh chưa ghé vai đỡ đần tôi
được cân thóc nào thì chớ nên vênh mặt lên nhận con trưởng...Hãy giương mắt
nhìn thiên hạ, có thứ con trưởng nào chỉ đào ăn như anh hay không?
-.....
- Anh cấm khẩu, cứng họng không dám cãi. Vì xưa nay chỉ có
chúng tôi bù trì, gieo vãi, chăm lo cho vợ chồng anh còn chưa từng xảy ra chuyện
ngược lại. Vậy anh là thứ người chỉ há mồm ra chứ không bao giờ úp tay xuống.
Đã thế thì hãy biết thân biết phận. Đừng đem cái thứ trưởng hão ra mà hù doạ
tôi. Tốt nhất là bước đi cho khuất mắt!
TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (3)
Cuộc đối thoại xảy ra ngay giữa sân. Ông Quảng đã không hề hạ
giọng mà lại còn nói toáng lên cho hả cơn giận dữ. Có người cho rằng ông cố
tình nói oang oang để láng giềng nghe thủng ; để từ nay ai có mồm thì cắp có nắp
thì đậy, đừng ngứa lưỡi dây vào việc của ông. Người ta cũng lại nghĩ rằng ông
đánh gục đứa con trai như thế là để nó phải nhục nhã mà ghi khắc tận gan tận ruột
là trong ngôi nhà này, chưa kẻ nào được phép vượt qua mặt ông. Và để nó quên đi
giấc mơ thừa tự. Bởi đã từ lâu, ngôi nhà thênh thang này là giấc mơ ban đêm lẫn
ban ngày của đứa con trai trưởng. Sau khi vợ xón ra hai ả Tố Nga, Quý đã quyết
đẻ bằng được đứa con trai dù phải chịu kỉ luật đảng hai năm, và chức chủ tịch
cũng phải treo hai năm mới bổ nhiệm. Nhà ngang, nhà dọc, nương vườn, những đàn
ong, những của chìm của nổi mà người trong nhà cũng như ngoài ngõ luôn luôn dòm
ngó là cạm bẫy mà chắc chắn ông Quảng đã biết từ lâu. Người ta cho rằng cũng đã
từ lâu ông đắn đo mọi sự và một ngày nào đó, ông sẽ ngả xuống mặt bàn tất thảy
những quân bài, những phép tính đã đủ thời gian cộng trừ nhân chia trong óc. Cuộc
hôn nhân này là dịp để những con tính ấy được bộc lộ ra.
Thế nên, xóm giềng nín thở theo dõi cuộc đối thoại.
Ngay tối hôm đó, mọi người kéo tuốt tuột từ thôn Thượng xuống
thôn Trung, tụ tập ở nhà cô Vui. Người ta kể lại không thiếu một dấu phẩy, dấu
chấm cuộc đối thoại giữa hai cha con. Sau cuộc đối thoại ấy, Quý đứng chôn chân
giữa sân hồi lâu. Ông Quảng và cô Ngân tiếp tục giũ những chồng bao tải làm bụi
bay mù. Không ai nói thêm nửa lời. Trong sự im lặng đó, ông chủ tịch xã rút lui
âm thầm:
- Một cuộc rút lui không kèn không trống.
Ai đó lên tiếng bình phẩm.
- Mất keo này, bày keo khác. Thằng Quý không chịu thua đâu.
Người khác phản hồi.
- Còn keo với cú gì nữa? Tôi không bênh ông Quảng vì uống rượu
ăn cơm nhà ông ấy, nhưng tôi biết mười điều ông ấy nói đúng cả mười. Kể từ ngày
dựng vợ gả chồng cho cậu Quý, có bao giờ họ được gắp một miếng nem miếng chạo của
nó đem cho?
- Vì nó ỷ là ông ấy hái ra tiền. Con không ỷ vào bố thì ỷ vào
ai?
- Làm người chớ nên ỷ vào người khác, dù là con cái hay bố mẹ.
Còn đã ỷ lại vào người khác tức là chấp nhận phận ăn bám, thì chớ lên mặt dạy dỗ
ai, chớ nên đòi hỏi cái gì ngoài phận sự của mình.
- Nói nghe dễ, nhưng con gái nó mười chín, bây giờ ông Quảng
lại
rước một đứa mười tám về làm mẹ ghẻ thì nó chịu sao nổi?
Con cái Mơ đã mười chín rồi à? Nghe mà giật cả mình!
- Ông ngủ mê hay sao? Cậu Quý năm nay bốn mươi mốt rồi còn ít
ỏi gì? Ông bà Quảng lấy nhau khi bà ấy mười tám, năm sau đẻ liền con trai.
- Kể ra thì cũng bất tiện. Vợ thằng Quý hoá ra đẻ được cô
Ngân.
- Cơm ai người nấy ăn, giường ai người nấy ngủ. Cuộc sống thời
bây giờ đổi khác.
- Đổi đến mấy thì những người có liên quan máu mủ vẫn phải ngồi
cùng một mâm, nằm dưới một mái ngói. Do đó, khi có sự bất tiện, không tránh được
việc nảy sinh mâu thuẫn.
- Theo ông thế nào là bất tiện?
- Bất tiện là sự nghịch mắt, trái với lẽ thường ở đời. Các
ông thử hình dung vợ thằng Quý đứng cạnh cô Ngân. Một bên đúng mẹ nái xề, cần cổ
trơ xương, vú chảy tới rốn. Bên kia ngồn ngộn như mâm cỗ đầy, ức phẳng như ức
chim câu, bắp tay lẳn như bắp ngô, da trắng như trứng gà bóc. Thế mà bắt con mẹ
nái xề kia phải gọi mẹ Ngân ơi...thì quá nực cười!...
- Tôi nghĩ rằng con mắt ông xục xạo dòm ngó một cách thái
quá. Người ta gọi những kẻ như ông là loại dê xồm.
- Được là dê xồm càng tốt, tôi không từ chối lời ban khen của
ông. Nhưng trở lại chuyện nhà ông Quảng, tôi cho rằng thằng cha Quý ghen với bố.
Đời thuở nhà ai bố cắn miếng thịt ngọt sớt, con lại phải gặm xương ống, xương
đùi? Chính cái nghịch cảnh ấy thiêu đốt tâm can ông chủ tịch.
- Chuyện tầm phào! Cái ngọn lửa thiêu đốt tâm can đứa con
trai trưởng chính là gia tài mà nó đinh ninh là kẻ thừa tự. Các ông các bà có
thấy từ sau khi đẻ thằng Phú ông chủ tịch nở mặt nở mày từng giờ từng khắc hay
không. Cái cú liều chịu kỉ luật đảng hoá ra lại là canh bạc thắng lớn. Bố là
Quý con đặt tên là Phú giấc mơ sang giàu không chệch đi đâu được. Bố là con
trai trưởng, con là cháu nội đích tôn, bề nào khi ông Quảng khuất núi của nả
cũng rơi vào túi nhà nó. Dù bây giờ theo luật trên giấy trắng mực đen thì con
cái bình đẳng, bình quyền nhưng thói thường người ta vẫn cứ theo cái luật thời
xưa. Nay có một bà mẹ ghẻ mười tám, giấc mơ tiêu thành khói. Chắc chắn là những
đứa con khác sẽ ra đời. Cô Ngân có thể đẻ mười hai đứa con trai to như cối đá lỗ.
Còn ông Quảng, tuy đã sáu mươi nhưng sức vóc ấy cũng phải cho ra lò dăm sáu đứa
rồi mới chịu quy tiên...Hoá ra công liều đẻ đứa con trai của chủ tịch Quý bỗng
thành công cốc.
- Ông nói ngang bỏ mẹ! Cô Ngân có đẻ mười thằng con trai nữa
thì anh Quý vẫn là con trưởng. Con trai anh ta vẫn cứ là cháu đích tôn.
- A, mọi người bé cái nhầm. Từ thời xửa thời xưa, luật phép
cũng đã quay đảo. Đã có luật thì cũng có cái chống luật. Ngay đến ngai vua cũng
còn có chuyện truất thái tử lập thế tử huống chi gia sản của thần dân? Luật nào
cũng nảy sinh trong bộ óc của con người. Óc liền với tim. Tim đập theo chiều
nào, óc quay theo chiều ấy.
- Ờ...ờ...Có lý!
- Tôi chẳng tin! Nói gì thì nói, ai cũng phải nhìn làng nhìn
nước mà hành xử. Phép vua thua lệ làng. Từ ngàn năm xưa tổ tiên đã dạy.
- Đời nào cũng có kẻ vừa nhìn làng nhìn nước vừa ngoảnh mặt
nhìn ra thiên hạ. Bình thường họ xử theo mọi người, nhưng khi cần thiết họ có
thể đạp lên những lời đàm tiếu. Các ông các bà không nhận ra rằng ông Quảng
chính là thứ người như vậy hay sao?
- Ờ ờ, ông nói chí phải...
- Bây giờ, còn ai nghi ngờ nữa không? Ai nghi ngờ giơ tay lên
cho tiện đếm.
- Hôm nay đâu phải là ngày họp bầu tổ trưởng sản xuất hay kế
toán hợp tác mà đòi giơ tay biểu quyết?
- Tôi hỏi lại, có ai nghi ngờ những điều tôi phỏng đoán hay
không?
Không ai nghi ngờ, nhưng người ta vẫn ấm ức vì một lẽ gì đó
chưa nói ra được. Một thứ cảm tưởng vô cùng khó diễn đạt. Có biết bao ý nghĩ,
có biết bao cảm giác lẩn khuất một cách xảo quyệt khiến họ không thể hiểu tường
tận, lại càng không đủ khả năng cắt nghĩa. Chỉ một cách là đợi chờ. Câu trả lời
sẽ là của thời gian!
Sáng hôm sau, một thiếu niên từ thôn Hạ lên gặp ông Quảng,
nói rằng cậu Quỳnh nhờ nó đến lấy quần áo, sách vở, rằng từ nay Quỳnh sẽ sống
dưới thôn Hạ với bà ngoại và hai cậu ruột. Láng giềng nghe thấy cô Ngân gọi chồng
ra tiếp khách. Câu trả lời của ông Quảng khá sỗ sàng:
- Tôi không biết cậu là con cái nhà ai, lâu nay tôi kiếm ăn
dưới tỉnh nên không có dịp qua lại các thôn khác. Vì thế, tôi không thể giao
tài sản cho người lạ mặt...Cậu về nói với thằng Quỳnh rằng quần áo, bút sách, đồ
đạc riêng tư của nó đều mua bằng tiền trong túi tôi. Nếu nó muốn có những thứ
đó thì phải đem đầu đến gặp tôi chứ không nhờ được ai khác.
Đương nhiên là anh chàng thiếu niên kia phải rút lui, không
kèn và không trống, theo như lời mô tả của hàng xóm. Buổi chiều hôm ấy, hai người
em trai bà Quảng đến gõ cửa nhà anh rể. Có lẽ trong thâm tâm họ run sợ trước
ông nên phải hè nhau cùng đi một lượt, hy vọng cái câu ca:
« Hai thằng đánh một chẳng chột cũng què! »
bao giờ cũng chính xác. Lúc đó là giờ bữa cơm chiều nên xóm
giềng mượn cách xin muối, xin mỡ đến hóng chuyện nhà ông. Chủ nhân không những
niềm nở cho đủ thứ mà còn pha trà mới và chèo kéo khách:
- Nhân tiện có hai cậu em vợ tôi tới chơi, các ông ở lại ăn
cơm cho vui.
Lẽ ra chúng tôi đã làm vài chục mâm mời làng mời nước nhưng
theo phong tục, phải đợi qua ngày giỗ đầu của mẹ thằng Quý. Cũng chỉ còn già một
tháng thôi.
- Ôi, chúng tôi không dám phiền nhiễu thế.
- Chẳng phải các ông phiền nhiễu mà là chính tôi muốn có dịp
cùng nâng chén lên hạ chén xuống với nhau. Tiếng là láng giềng liền vườn liền
ngõ nhưng quanh năm tôi đi vắng, chỉ mùa đông mới có dịp tụ tập với người cùng
xóm trong thôn.
- Vâng, thôi thì ông đã có nhời!...
Người ta chỉ đợi đến lúc ấy để kết thúc màn xã giao muôn thuở,
muôn thuở sáo mép và giả dối nhưng không ai dám bỏ đi. Chủ nhân gọi với xuống bếp:
- Dưới nhà vặt thêm cặp gà nữa nhé.
- Dạ, em nghe thấy rồi!
Cô Ngân tức khắc trả lời. Dưới bếp, ngoài cô còn có bà Tư
móm, đang tay nem tay chạo xào nấu đồ ăn. Bà là cháu gọi ông Quảng là cậu ruột,
năm nay năm mươi chín nhưng vẫn còn trinh. Mẹ bà chết vì thương hàn khi bà tròn
mười tuổi. Cha bà nuôi con được hai năm sau cũng chết do lũ cuốn. Mười hai tuổi
bà đã nhất quyết ở riêng, không sợ cô đơn, không sợ ma quỷ, không lấy chồng.
Làng nước khiếp hãi vì một đứa con gái mới ngần ấy tuổi đã nhất quyết giữ tiền
đường để thờ cha cúng mẹ. Người ta bảo bà có số tu tại gia. Dòng họ nội nhà bà
cũng đã từng có nhiều người đàn bà sống độc thân theo kiểu ấy, người thì làm chủ
miếu, người mở phủ nhảy đồng, người là hộ lý trong những nhà thương làm phúc
cho đến chết. Không nghe ai nói về chuyện tình duyên thời son trẻ của bà. Quả
thực, bà không phải người có duyên có sắc. Thân hình nhỏ bé, rắn rỏi, gương mặt
bình thường nhưng cằm lẹm và miệng hơi móm. Chính mẹ bà gọi yêu là con móm, sau
đó thành tên. Bà Tư móm không đẹp nhưng cũng chẳng xấu gái. Môi bà đỏ và mắt
sáng như nước, long lanh. Ối kẻ trong làng kém bà dăm bẩy điểm mà vẫn có chồng
có con đàng hoàng. Còn bà phải chấp thuận cả một đời hiu quạnh. Phải chăng kiếp
trước bà là kẻ đa đoan, lắm chồng nhiều vợ nên kiếp này bà phải trả quả? Hay
vong linh các tiền nhân bắt bà phải là gái già để giữ bàn thờ cho dòng tộc, tổ
tiên? Không ai tìm được lời giải đáp cuối cùng nhưng trong thâm tâm, họ nể trọng
bà. Về phần ông Quảng, ông thương bà một cách đặc biệt. Tuy không nói ra miệng
nhưng tất thảy những gì bà Tư có trong tay, từ đồ đạc, vườn tược, bò ngựa cho đến
quần áo, kim xuyến đều do ông Quảng tu tạo. Hai người vừa là cậu cháu vừa là bạn
thời ấu nhi, rồi sau đó lại cũng là bạn đồng môn. Người ta kể rằng lần đầu xuống
tỉnh làm ăn, ông Quảng chỉ mua cho vợ chiếc nhẫn một đồng cân nhưng lại mua cho
cháu đôi bông tai hai đồng cân rưỡi. Bà Quảng không dám thở hơi ghen. Biết rõ
trong tim ông, cô cháu thiếu nhan sắc kia mới chính là người được tin cẩn và
xót xa nhất trên cõi trần, bởi họ bị giằng trói trong một mối liên kết ngoại lệ
vừa là tình cốt nhục thâm sâu vừa là sự tương đồng bằng hữu.
Buổi tối đầu tiên ông Quảng dẫn cô Ngân về làng, trong khi tất
thảy họ hàng làng nước còn đang tắc họng vì không biết ăn nói xưng hô ra sao,
bà Tư móm đã đon đả mời:
- Xin các ông các bà dùng trà xơi bánh. Hôm nay là tiệc ngọt
cho mợ Ngân tôi ra mắt láng giềng!...
Rồi bà cao giọng gọi cô Ngân:
- Mợ Ngân hãy dừng tay ra chào hàng xóm. Cứ bỏ đấy cho cháu.
Rồi mọi việc khắc xong.
Rõ ràng, thái độ của bà là một sự định danh chính thức, một
thứ khẳng định chính thức mà không ai có quyền bắt bẻ. Họ đành tặc lưỡi bảo
nhau:
- Ờ, trẻ thì trẻ nhưng theo thứ bậc họ hàng, nó được ngồi chiếu
trên.
- Con mẹ Tư móm trung thành với cậu nó thật!
Rút cuộc chẳng còn cách nào hơn là phải chấp nhận người đàn
bà lạ hoắc, mới mười tám tuổi ranh kia là cô, là dì, là mợ, là bà trẻ, thậm chí
là cụ trẻ theo thứ bậc họ hàng tuy trong bụng chứa đầy ấm ức.
Bữa cơm chiều nay, không hiểu do trời xui hay đất khiến mà bà
Tư móm lại đến giúp cô Ngân nấu nướng. Trên nhà chưa cạn ấm trà, bà đã bưng lên
một mâm cỗ đầy ngồn ngộn:
- Mời các vị vào chiếu. Mợ cháu tôi dở nồi chè đỗ xanh, ngồi
ăn dưới bếp cho tiện.
- Ấy chết, bà xử thế chúng tôi nuốt làm sao nổi...Thời nay
dân chủ, bình đẳng bình quyền, đàn bà đàn ông phải ngồi cùng mâm cho vui.
- Cảm ơn các ông, không phải khách khí làm vậy. Hai mợ cháu
tôi ở dưới bếp cũng đủ rượu, đủ thịt, đủ món xào món nấu như các ông đây, không
thiệt miếng nào.
Nói xong bà te tái xuống bếp, để các thực khách được tự do.
Rồi bữa ăn bắt đầu. Cả sáu người đều im lặng bởi rượu ngon, đồ
ăn còn ngon hơn nữa. Quả tình những câu chuyện khó nói không thể nào hoà nhập với
một bữa ăn ngon. Chúng phải chờ đến khi tiệc sắp tàn. Khi xương lợn, xương gà,
xương cá đã đầy lè quanh mâm, khi rượu ngon đã thấm vào huyết quản khiến con
người trở nên hăng hái, hoặc mầu nhiệm hơn nữa, là nhập vào những cơn bốc đồng,
lưỡi của họ mới trở nên mềm dẻo, ngôn từ, lý lẽ mới từ các hang hốc trong sọ
chui ra. Dường như là hai người em rể của ông Quảng đã chờ rượu ngấm để bắt đầu
cuộc sinh sự, cái việc họ cho là trách nhiệm tối cao trước vong linh bà chị vừa
chết chưa trọn một năm:
- Cảm ơn bác đã cho chúng em được cơm no rượu say...
Ông thứ nhất bắt đầu:
- Bây giờ, việc ẩm thực đã xong, chúng em xin được cất nhời.
Ông thứ hai hắng giọng nói tiếp.
Chủ nhân cười:
- Các cậu cứ tự nhiên, cổ nhân đã dạy: rượu vào lời ra! Người
xưa đã nói vậy, không ít thì nhiều, phải có lý.
- Cháu Quỳnh đang ở nhà bà ngoại, tâm tư đau buồn, bối rối.
Không nói bác cũng hiểu nó ra đi vì sao...
- Cậu nhầm, tôi không hiểu. Những thằng trẻ ranh bỏ nhà trốn
học có cả trăm lý do, làm sao tôi có thời gian mà lần mò những chuyện trong túi
chúng nó.
- Bác là người ăn cơm thiên hạ đã mòn bát mòn đũa mấy chục
năm nay. Còn chúng em chỉ là bọn thôn dân quẩn quanh nơi góc vườn, xó núi.
Không dám, mà có dám cũng không đủ tài đấu lý với bác. Nhưng quả thực tình cảnh
cháu Quỳnh hiện nay làm tất cả gia tộc phải điên đầu.
- Tất cả gia tộc phải điên đầu? Cậu nói thực hay bỡn? Mà gia
tộc nhà cậu hay gia tộc bên tôi? Điều đó phải rõ ràng.
- Gia tộc bên ngoại. Trước tiên là bà ngoại. Rồi đến chúng em
đây. Người ta vẫn nói:chết cha còn chú, xẩy mẹ bú dì.
- Tôi hiểu rồi!
Ông Quảng cắt lời rồi cất tiếng cười ha hả. Tiếng cười của
ông vang khắp năm gian nhà, vọng cả xuống bếp khiến bà Tư móm lẫn cô Ngân phải
thò cổ ra nghe:
- Vì xẩy mẹ bú dì mà mẹ thằng Quý, thằng Quỳnh lại không có
em gái nên bây giờ các cậu phải đóng thay vai trò đó...Tốt quá, xưa nay tôi
chưa từng thấy thứ tình cảm mặn nồng ấy được bộc lộ...Giờ các cậu đã có tâm,
xin các cậu cứ việc lo cho cháu...Như thế là các cậu thương tôi, cất đỡ gánh nặng
trên vai tôi. Vậy là cháu của các cậu có phúc, bên nội lẫn bên ngoài đều là chỗ
tựa. Con người ta mà được cả hai bề, tả phù hữu bật thì số sẽ đỏ như xôi gấc, mạng
chắc tựa thành trì. Các cậu càng lo cho cháu được đầy đủ gia đình bên ngoại
càng nức tiếng thơm... Tôi nuôi nó ngần ấy năm, xét ra cũng không còn phải ân hận.
Giờ, mười sáu tuổi, nó muốn ăn cơm hưởng lộc nhà ngoại cũng là lẽ thường tình.
Ai sống trên đời cũng phải có cả cha lẫn mẹ, chẳng bên nào trọng, chẳng bên nào
khinh.
Nói đoạn ông quay lại ba vị khách láng giềng:
- Tiện dịp có láng giềng chứng kiến, tôi nhường toàn quyền
huynh trưởng cho hai cậu. Kể từ nay, việc học hành, cơm áo, rồi việc dựng vợ gả
chồng cho cháu trong tương lai, bà ngoại và hai cậu sẽ đảm đương. Như thế, hẳn
thằng Quỳnh sẽ ưng thuận. Mà mẹ nó dưới suối vàng cũng mát ruột mát gan.
Hai ông em rể chưa đối đáp được lời nào, ông đã gọi với xuống
bếp:
- Chúng tôi xong bữa rồi, dưới nhà có chè có cháo thì mang
lên.
- Có ngay đây cậu.
Bà Tư móm trả lời. Chưa đầy phút sau, mâm chè được bưng lên.
Sáu người tiếp tục ăn tráng miệng. Ba ông khách vừa ăn vừa ngóng đòn đánh trả của
hai người em vợ với nỗi tò mò xen lẫn cơn tuyệt vọng. Còn hai ông kia cúi mặt
húp chè, không dám ngẩng lên. Hẳn món chè không còn ngọt mà đắng ngắt trong họng.
Rồi khi món chè chưa kết thúc, ông Quảng đã gọi vợ mới gói bánh kẹo đem về biếu
mẹ vợ cũ, vẻ tươi cười thản nhiên đến mức hai người em vợ chỉ có cách cầm gói
quà mà chạy cun cút ra khỏi ngõ, không thể bật nổi một câu chào.
Còn lại ba ông láng giềng với chủ nhân, vừa uống nước xỉa
răng vừa chuyện vãn. Ở chốn thâm sơn, buổi tối bao giờ cũng tĩnh lặng hơn dưới
đồng bằng. Ông Quảng mở chiếc đài Sương mao cho các vị láng giềng nghe ca nhạc.
Chừng nửa giờ sau, các bà các cô đã nhộn nhạo tiến vào sân, người vẩy đèn pin,
người cầm đuốc:
- Ông Quảng bật cái đài to lên cho chúng tôi nghe nhờ với...
- Nào, bánh kẹo thành phố hết hay còn? Chúng tôi đến kiếm miếng
cho ngọt giọng chuyện gẫu đêm nay.
- Bà chủ mới đâu, thắp ngọn đèn lên cho thôn xóm được vui.
Đèn măng-xông lại được treo giữa sân, sáng tưng bừng khắp
trên nhà lẫn dưới bếp. Bà Tư móm bưng nồi chè đỗ xanh to như nồi cháo lá đa
ngày rằm tháng bẩy ra đãi khách, theo kiểu những bếp ăn tập thể: Một thúng bát
lẫn thìa sạch bong đặt ngay trên bàn, ai nấy tự động múc ăn. Khi nồi chè cạn,
cô Ngân lại tiếp tục mở những thùng bánh và những hộp kẹo mới. Chốn thôn dã, việc
ăn uống vẫn là thủ tục không thể thiếu, dẫu người ta thường dáo dác một cách
khinh bỉ:
« Miếng ăn quá khẩu thành tàn... ».
°°°
Những ngày sau đó nối tiếp trôi qua giống như những lớp lang
của một tấn tuồng mà người diễn lẫn người xem đều đóng vai dửng dưng một cách vờ
vĩnh. Các diễn viên, chắc chắn là những kẻ thương tổn tâm can. Chủ tịch Quý
không cam chịu, như mọi người dự đoán. Anh ta đương quyền. Muốn hay không, quyền
lực cũng là thứ sức mạnh nhìn thấy rõ ràng tuy không sờ mó được. Với danh nghĩa
chủ tịch, anh ta có thể huy động dễ dàng những kẻ dưới trướng như công an trưởng,
chi hội trưởng chi hội phụ nữ, bí thư đoàn thanh niên.. Thêm nữa, có một thứ
quyền lực vô danh vô diện vô hình nhưng ai cũng cảm được, ngửi được, ấy là thứ
sức mạnh của thói đời....Quý tin vào sức mạnh ấy cũng ngang ngửa như anh tin
vào con triện của chính quyền xã, thứ bửu bối mà anh ta đang giữ khư khư trong
tay.
Trước hết, Quý phải hiệp đồng với đứa em út, bởi cuộc chiến đấu
nào cũng cần lực lượng. Lực lượng càng hùng hậu, thắng lợi càng gần tầm tay.
Trong cuộc đấu này, đồng minh đáng tin cậy nhất chính là anh em ruột. « Anh em
như thể chân tay, vợ chồng như áo cổi thay qua lần... ». Xưa nay, Quý và Quỳnh
ít quyến luyến nhau, phần vì sự cách biệt tuổi tác, phần Quý vẫn ngầm cảm thấy
cha mẹ yêu đứa em út hơn anh ta và anh ta sẽ có nguy cơ không được thừa hưởng
phần lớn gia tài nếu gã em trai nửa ngơ dại, nửa lẳng tình này thành đạt. Theo
thói thường, đứa con út có quyền thế trưởng nếu bố mẹ đồng lòng ưng thuận, một
khi con trưởng có những khiếm khuyết về năng lực, tư cách hoặc từ thuở lọt lòng
đã mang sẵn những sa sút về trí não. Ông chủ tịch không cảm thấy bị đe doạ vì
mình thiểu năng, nhưng chính sự khôn ngoan lọc lõi của ông có thể lại là con
dao hai lưỡi, có khả năng quay ngược lại mà « sát chủ ». Bây giờ, sự xuất hiện
của cái « con đĩ áo xanh tự nơi nảo nơi nao mò đến» chính là cơ hội để anh ta
thử lòng đứa em, thu phục nó và biến nó trở thành cánh tay đắc lực của mình, điều
anh ta đã làm với hầu hết những đối thủ trong Xóm Tiều Phu kể từ ngày được bổ
nhiệm làm chủ tịch xã.
Về phần Quỳnh, mọi sự hoàn toàn trái ngược. Cậu em trai được
chiều chuộng, đang còn ở tuổi trăng gió mải ăn mải chơi nên chưa nghĩ đến sự đời.
Đôi khi, thiên hạ có thẽ thọt hỏi:
- Mai đây, nhà cao cửa rộng sẽ về tay ai?
Quỳnh chỉ cười đáp:
- Hôm qua, hôm nay, và ngày mai đều thuộc về cha tôi hết.
Nếu người ta có gặng:
- Chẳng nhẽ ông bà Quảng chưa hề có ý định làm di chúc hay
sao?
Cậu ta liền đỏ mặt, gân cổ đáp:
- Bố mẹ tôi còn vật đổ trâu, cớ gì phải làm di chúc?
Sau đó, không ai có thể cậy mồm anh chàng được nữa. Công bằng
mà nói, Quỳnh tốt bụng, chỉ có điều ham chơi và ngại việc. Từ thuở lọt lòng đến
khi mẹ chết, Quỳnh chẳng nghĩ ngợi gì. Mọi sự đã có người chở che, lo lắng.
Ngay đến cái chết giữa đường của bà mẹ, trong khi cậu ta bỏ nhà đi chơi ngủ lại
xã bên, giá như người khác, ắt phải tự vò xé tâm can, nỗi ân hận ám ảnh đến mất
ăn mất ngủ. Đằng này, anh chàng chẳng mảy may hoảng hốt. Khi bị họ hàng quở
trách, cậu ta rầu rĩ mất vài giờ rồi sau đó đến bữa ăn lại đánh thẳng da bụng,
chùng da lưng. Rồi tối đến, lại chổng cu lên mà ngủ. Y hệt đứa bé lên ba. Họ
hàng nói mãi cũng chán miệng, phàn nàn với ông Quảng, ông chỉ cười cười:
- Cha mẹ sinh con trời sinh tính. Tôi biết làm sao? Nhà này
chỉ có hai đứa sinh đôi là lo ăn, lo làm lại biết tính trước tính sau. Nhưng
chúng nó đã đầu quân cùng một buổi...
Rồi ông buông tiếng thở dài, và mắt ông dâng lên nỗi buồn mà
mọi gia đình có con tại ngũ đều thấu hiểu.
« Thời ly loạn, nước mắt rơi như suối.
Cỏ mọc trong vườn, sông vắng chuyến đò sang. »
Đôi người phụ hoạ với ông:
- Cảnh nhà tôi cũng thế, đứa khôn bỏ ra mặt trận hết...Còn lại
ở nhà không thằng đụn rạ thì cũng đấm đơ.
- Cứ gì chúng ta! Mọi nơi đều thế cả. Nước non là nước non
chung. Chiến tranh đã tới, không cánh cửa nhà ai không bị gió đập.
Người ta cho ông Quảng là người bố vị tha, dễ tính. Người ta
cũng cho rằng cậu út Quỳnh có lớn mà không có khôn ; tuy chẳng đến nỗi đấm đơ
nhưng chắc chắn không phải là gã trai đàng hoàng, biết ăn ở một cách chỉn chu,
biết phận sự của mình đối với gia đình cũng như xã tắc. Riêng chỉ có việc cắp
sách đến trường cậu ta cũng đã làm khổ bà mẹ bao nhiêu lần....
Vậy mà không hiểu vì sao cái gã đoảng vị, vô tâm, dấm dớ ấy lại
bỏ nhà ra đi ngay hôm đầu, khi xuất hiện người mẹ kế trẻ. Có lẽ, đó là nỗi băn
khoăn lớn nhất của xóm giềng, và trước hết, của ông chủ tịch xã. Anh ta lặn lội
xuống thôn Hạ tìm hiểu căn duyên. Không cần lâu la, hai ngày sau người làng đã
biết rằng cậu út Quỳnh phải lòng bà mẹ kế. Ngay phút đầu tiên khi cô Ngân đặt
chân vào nhà, chàng trai đã chết lặng đi vì vẻ đẹp xiêu đình đổ quán của cô gái
áo xanh kia ; và trong trí tưởng tượng nó nghĩ rằng cô là người vợ mà trời đất
dẫn đến cho chính nó, bởi « gái hơn hai trai hơn một », cô Ngân với nó vừa xoẳn
cái công thức vàng cho hôn nhân, cái công thức đã được thử thách qua hàng ngàn
năm...Chắc chắn cơn mộng tưởng được xây cất trong chớp nhoáng rồi tức khắc đổ vỡ.
Tất cả tấn bi kịch trong lòng chàng trai xảy ra vẻn vẹn trong vòng nửa ngày trời.
Từ buổi sáng chiếc xe ngựa của ông Quảng đưa cô dâu mới về làng cho tới lúc nhập
nhoạng mặt người, khi nó lẳng lặng bỏ nhà xuống thôn Hạ...
Chuyện con trai mê vợ kế của bố xưa nay không hiếm, trong những
trường hợp như thế người ta vẫn thường kết án người đàn bà lẳng lơ đĩ thoã «
quân vô luân vô loài, chài cả bố lẫn con ». Sỉ nhục người đàn bà là sự dễ làm
nhất, nó khiến đám đông hả dạ, dẫu rằng trong đám đông ấy phần lớn lại chính là
đàn bà. Tuy nhiên, đối mặt với tấn kịch của cậu út Quỳnh, dân làng ngần ngại
không dám chửi « con đĩ thị thành vô loài vô luân muốn ngủ một lần với cả thằng
con lẫn ông bố! ».Trước hết, bởi cô Ngân vừa về làng được nửa ngày, dù có đĩ
cũng chưa đủ thời gian hành nghề quyến rũ. Điều thứ hai, và điều này quan trọng
hơn: ông Quảng đứng sừng sững bên cạnh cô Ngân. Có nói hay không người ta cũng
ngầm hiểu: Lão già lọc lõi ấy không ngán ai bao giờ.
Bởi thế nên khi ông chủ tịch tung câu chuyện cậu út Quỳnh mê
cô Ngân khắp xóm cùng thôn, nó cũng chỉ kích động được những nhóm người đang cần
xin con dấu cho một bản sao lý lịch, hoặc giấy chứng nhận khai sinh, kết hôn,
khai tử. Mà ngay những người này, cũng chỉ dám nịnh nọt cho qua chuyện còn sau
đó tìm cách lảng mặt Quý:
- Đừng chọc mồm vào chuyện nhà người ta!...Lôi thôi đá củ đậu
nó ghè vỡ sọ.
Dân Xóm Tiều Phu bảo nhau lấy chỉ khâu thật chặt hai mép lại.
Nhưng trên đời, mọi sự « tự bảo nhau » hay là « tự nhủ » chỉ là phương thức trốn
tránh hay thoái thác sự thực mà thôi. Giống như những đứa trẻ càng sợ ma thì
càng thích nghe kể chuyện ma, người ta càng làm ra vẻ vô tư thì trong bụng càng
sôi sục tò mò lẫn đố kị. Có cố nhịn chăng nữa, cũng chỉ được hai mươi bốn giờ...Sau
đấy, người ta lại kháo nhau rành rẽ đã mấy lần ông chủ tịch đến tìm cậu em, họ
nói với nhau những gì, sau rốt ông anh cả chửi cậu em út là:
« Đồ cù lần, đồ đụn rạ, cơm chẳng muốn ăn, bỗng dưng bưng bát
cứt mà và... ».
Người ta cho rằng cậu út vốn tính hiền lành, nhả nhớt, vừa sợ
cha, vừa xấu hổ vì mê mẹ kế như điếu đổ nên anh xui khôn xui dại gì cũng cứ một
mực lắc đầu:
« Em chịu thôi, làm như thế trời bắt tội chết! ».
Như vậy mưu kế liên minh của Quý thất bại trăm phần trăm. Kể
từ nay, cuộc chiến sống mái này chỉ còn lại mình anh ta giữ một bên trận tuyến.
Lúc ấy, đã là những ngày cuối cùng của năm cũ, nhà nhà đều
chuẩn bị đón tất niên. Năm nay, ắt hẳn Tết phải to vì năm ngoái trời quá rét
nên hầu như chẳng còn ra vẻ Tết. Ai cũng chờ đợi sự bù trả của trời đất để có
được một dịp vui vẻ, hội hè. Bãi đất đầu thôn Thượng đã dọn sạch, đào sẵn lỗ cắm
cọc chuẩn bị cho cuộc thi cờ. Bên cạnh đó người ta cũng sẵn sàng cho các trò chọi
gà, thả chim. Năm nay, dưới huyện đăng cai cuộc thi chọi trâu nên dân Xóm Núi
cũng cử người xuống dự. Dẫu đang bầm gan tím ruột, chủ tịch Quý cũng phải lo đi
mời đội chèo về diễn đêm tất niên, bởi món ăn tinh thần là một trong những điểm
quan trọng người ta vẫn nhìn vào mà đánh giá năng lực các quan chức xã. Mờ sáng
ngày hai mươi tám, chủ tịch rủ cô Vui cùng xuống huyện, lo việc tổ chức đêm
liên hoan. Ở dưới đó, anh ta sai cô bí thư chi đoàn:
« Cô đi dò cho ra tung tích con Ngân, còn những việc khác, một
tay tôi lo được. ».
Thế là theo công thức: nhất cử lưỡng tiện, cuộc xuống núi này
hoá ra để vừa lo việc nước việc làng, vừa giải quyết mối thù nghịch riêng tư,
quả là con tính hoàn hảo.
Phần cô bí thư chi đoàn, vừa chấp hành mệnh lệnh cấp trên, lệnh
của chủ tịch lẫn phó bí thư chi bộ xã, lại vừa có dịp thoả thích nỗi tò mò mà ở
địa vị một cô gái không chồng, cô phải che đậy cho thật kĩ, một thứ che đậy
công phu như người ta nút cho chặt một hũ mắm đã trở mùi. Trong tâm trạng háo hức
như vậy, cô không ngại ngần trổ hết tài thao lược vốn sẵn có ở một người luôn
luôn đóng vai gia chủ. Nếu nói: Mạnh vì gạo bạo vì tiền, thì cô là con người có
quyền mạnh bạo hơn hẳn nhiều người đàn bà khác. Thế nên, sau khi chia tay ông
chủ tịch, cô chạy tuột xuống công trường tỉnh, nơi ông Quảng là một trong ba
ông xếp uy tín nhất của đám thợ nề, thợ mộc ; cũng lại là nơi ông đã gặp cô
Ngân. Vui tin chắc rằng mọi đầu dây mối nhợ là ở đấy.
Cô không lầm, chỉ trong nửa ngày cô đã thâu tóm được toàn bộ
tình sử của cặp vợ chồng tuổi tác khập khiễng kia. Qua buổi trưa, cô dúi tiền
vào túi một tay lái xe công trường:
- Đồng chí cho nhờ một chuyến Hà Tây. Tôi cần giải quyết việc
khẩn cấp của gia đình.
Lái xe khật khưỡng đáp:
- Trên nguyên tắc, chúng tôi không có quyền cho người ngoài
công trường leo lên xe...
Nhưng nói xong, anh ta cũng khật khưỡng thọc hai tay vào túi,
mồm chẩu ra huýt sáo. Trong chiếc túi áo bảo hộ lao động thùng thình, chắc chắn
anh ta đã nắn kĩ chiếc phong bì cô Vui tuồn vào, định giá nó một cách chính
xác. Khi câu nhạc chấm dứt, anh ta liền hất hàm bảo phụ xe:
- Ra phía sau đi thằng nhóc.
Thằng nhóc phụ xe vọt ra phía thùng xe tức khắc, ở đó nó ngồi
kẹt giữa những chồng bao xi-măng và những bè gỗ cốp-pha mà nói dại, nếu xảy ra
va lắc đột ngột hay đụng xe khác, chắc chắn nó sẽ bị đè bẹp như con gián dưới
những chồng cốp-pha khổng lồ kia.
Khi cậu phụ lái yên tâm hạ tấm vải bạt xuống rồi, lái xe quay
lại tặc lưỡi bảo cô Vui:
- Thôi được, nếu đồng chí đã có việc khẩn cấp trong gia
đình... Lên xe đi...
Cô Vui leo lên ca-bin, chĩnh chện ngồi cạnh anh chàng lái xe,
một gã trai đen thủi đen thui nhưng còm nhom như con nhái. Với vẻ hùng dũng như
thế, cô đã đi tới tận làng Khoai, xã Hưng Mỹ, tỉnh Hà Tây, để: Tìm cho được cái
tổ con chuồn chuồn....
Tối hôm đó, chủ tịch Quý về xã nhưng cô Vui còn phải ngủ trọ
nơi đất khách để hoàn thành cái sứ mạng mà ông chủ tịch đã giao phó. Sẩm chiều
hai mươi chín mới thấy cô trở về, mặt tươi như hoa, vai vác một túi đầy hàng Tết.
Chủ tịch Quý đứng đón cô ngay lối vào thôn Trung:
- Thế nào?
- Chuyện đâu có đó. Cứ bình tĩnh.
- Hôm nay cô lên mặt gớm nhỉ.
- Không lên mặt, nhưng tiền tàu xe lẫn quán trọ đã hết cả tạ
thóc rồi đấy, ông anh ạ.
- Tôi khắc đền.
- Cả đời, con Vui này chưa từng nhận tiền đền của ai.
Cô bí thư chi đoàn xã đáp với giọng chắc nịch của người lúc
nào cũng nặng hầu bao. Quý định vác giúp cô Vui bó hàng tết vào nhà nhưng sực
nhớ ra rằng điều đó là lố bịch, không khéo ai nhìn thấy người ta lại cười cho
thối mũi, anh ta liền lẽo đẽo đi theo cô gái. Chắc hẳn đọc rõ vẻ bồn chồn trên
mặt Quý, Vui liền cao giọng quát:
- Anh về đi. Chuyện để đến mai đến kia chưa thối. Giờ đã sắp
ba mươi tết rồi, em còn phải lo thu dọn cửa nhà, chuẩn bị bàn thờ ngày mai cúng
giỗ. Vả lại, còn phải đun nước tắm gội nữa chứ. Hai ngày đi đường, ăn nhờ ở đậu,
bẩn thỉu ngứa ngáy như điên, bụi đen kịt lỗ mũi, sờ lên tóc nhám như mùn cưa.
- Ờ ờ...thôi thì tôi về vậy. Mai cô đi xem chèo chứ?
- Đương nhiên. Cả năm có một lần, ai dại mà bỏ?
TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (4)
Quý vội vã đi luôn vì nhớ ra cô gái già này thờ cúng cả chuyện
tắm gội. Người ta nói rằng hễ Vui đang cần tắm gội mà ai phá đám là cô sẵn sàng
nổi khùng lên, rượt đuổi họ tức khắc. Nước tắm gội của cô gồm lá bưởi vỏ bưởi,
hương nhu, cỏ mần trầu, củ sả, hoa quế. Tất cả được trộn theo một tỷ lệ nhất định
và được đun trong chiếc nồi đồng bẩy, nước bắt đầu sủi tăm là hương thơm toả nức
xóm. Thêm nữa, mỗi lần tắm gội, cô lại còn thắp nhang trầm cho mùi hương huyền
bí kia tẩm đượm vào tóc lẫn da, thành thử việc tắm táp của cô giống như việc tắm
gội của các cung phi thuở trước. Chỉ có điều, các cung phi thuở trước chăm chút
da thịt, nhan sắc là để gợi tình đức vua, còn cô, không hiểu ai sẽ là đấng quân
vương mà cô thương trộm nhớ thầm? Thôi thì, đành phải chờ thời gian hoặc các bậc
quỷ thần phân giải.
Ra đi nhưng dẫu sao ông chủ tịch cũng không cắt nổi cơn ấm ức:
« Hoá ra cái con gái già này chẳng nể nang ai... »
Anh ta vừa đi vừa rủa thầm, mặt nóng phừng phừng dù trời đang
rét. Cố quên đi nhưng không quên nổi, cứ nghĩ lại cảnh bị đuổi, cun cút chạy ra
khỏi nhà « con gái già » như bất cứ kẻ láng giềng nào thường đến cửa cô ta để
xin đường, xin mỡ, vay tiền hoặc nhờ chạy máy nổ... là mạch máu Quý lại giật
đùng đùng hai bên thái dương:
« Nó xem cá đối bằng đầu, xem cứt cũng như rươi. Con này mất
dạy thật. Nó quên rằng chính mình là người đầu tiên gợi ý cho chi bộ cử nó làm
chi đoàn trưởng. Cái quân ăn cháo đái bát. Không trách trời chẳng thí cho một tấm
chồng! »
Anh ta đi hết một vòng quanh thôn Trung, gật đầu chào lại những
người khác một cách máy móc mà chẳng phân biệt được ai với ai. Nỗi xốn xang đốt
lửa đùng đùng trong dạ. Vào giờ này, mọi trách nhiệm với xã đã xong. Chuyện tết
nhất, cúng bái trong gia đình xưa nay vợ con cáng đáng hết. Trong óc Quý chỉ
quay cuồng một hình dáng, một cái tên, một màu áo xanh, một nụ cười lúng liếng....tất
thảy những gì thuộc về: Con đĩ Ngân!
« Con đĩ Ngân, con đĩ Ngân, con đĩ Ngân... »
Anh ta thầm chửi. Nhưng trong lúc thầm chửi, anh ta vẫn hiểu
rằng anh ta đang chửi người khác một cách vô chứng cớ, và điều cốt tuỷ với anh
ta bây giờ là phải chứng minh bằng được:Con đĩ Ngân thực chính là con đĩ, một
con đĩ trăm phần trăm...
Nhưng tiếc thay muốn chứng minh điều ấy lại phải nhờ tay con
Vui, cái con gái già đồng bóng và hỗn hào kia, chính ả mới có thể cung cấp chứng
cứ. Cùng là lũ đàn bà cả, mèo đói ắt phải tìm được cách cào cổ mèo no. Buộc con
gái già này đi bới lông tìm vết con đĩ vú mẩy kia là thượng sách. Nhưng ngựa
hay thường có tật, con Vui tháo vát nổi tiếng nhưng kiêu căng, ương ngạnh thì
cũng chẳng ai bằng...Những ý nghĩ ấy đưa Quý theo con đường quen trở lại thôn
Thượng. Anh ta chợt nhận ra rằng đã sắp đến nhà mình. Gió lạnh dọc đường chừng
cũng làm nguôi đi cơn uất ức. Sau rốt, ông chủ tịch đành tự an ủi:
« Nhưng bây giờ, có ức nổ cổ nổ ruột cũng chẳng làm gì được
nó. Chính nó mới là kẻ biết rõ ngọn ngành mọi chuyện chứ chẳng phải mình. Mà
con gái già này không phải đứa dễ nghe ai. Thôi, đất chẳng chịu trời thì trời
đành chịu đất. Ta phải xử nhũn với nó vậy »
Anh ta bước qua cổng, vừa lúc hai đứa con gái khiêng chậu quất
từ vườn vào sân trong. Dưới bếp, nồi bánh chưng sôi lục bục, mùi bánh thơm dâng
đầy không gian. Lác đác đã có tiếng pháo tép của trẻ trong thôn. Không khí tết
xem chừng đang tràn ngập. Quý vào nhà, ném chiếc xắc-cốt da bò lên bàn rồi duỗi
thẳng chân nằm dài trên tràng kỉ. Nhắm mắt lại, ông chủ tịch hình dung ra cảnh
đêm mai: Đêm mai, sẽ là đêm tất niên chính thức, năm nay tháng chạp có ba mươi
ngày. Đêm mai, sẽ là đêm cuối cùng của cái năm rủi ro này. Đội chèo huyện sẽ về
đây diễn tích: Thị Mầu lên chùa. Chắc chắn ông Quảng và con đĩ Ngân sẽ ở nhà chứ
không đi xem. Sự vắng mặt của họ sẽ là cái cớ tốt nhất để dân làng đàm tiếu và
lúc ấy, con Vui sẽ ra tay. Chuyến đi của nó ắt phải đem lại thành công cho
mình. Đêm mai, sẽ là đêm chiến thắng. Anh ta vuốt bụng, thở đánh ực một tiếng rồi
quát:
- Đứa nào đun cho tao nồi nước lá mùi. Cả tuần rồi chưa được
tắm!...
°°°
Công trường xây dựng của tỉnh luôn luôn có ba đội quân thường
trực hành nghề, dưới sự cai quản của ba ông cai thầu, thường được gọi dưới cái
danh mĩ miều: Cán bộ quản lý ngoài biên chế của tỉnh. Ông Quảng chính là người
cai quản đội quân nề, mộc của tỉnh sở tại. Ông thứ hai dẫn quân lên từ tỉnh Hà
Tây. Ông thứ ba là xếp sòng của đội quân Phú Thọ. Trừ cánh quân của ông Quảng,
hai đội quân kia kèm theo rất nhiều đàn bà, con gái. Họ chính là dân cày cuốc bạo
gan, sớm tìm cách kiếm miếng cơm ở xa nơi chôn rau cắt rốn.
Từ thuở sinh ra thị thành, đã hàm chứa một cách biệt định mệnh
giữa cuộc sống của phố phường với cuộc sống nơi thôn dã. Sự cách biệt này chưa
bao giờ được lấp đầy:
« Nhà giàu xứ quê không bằng ngồi lê thành phố. »
Kiếm được bát cơm nơi đồng làng vô cùng khó nhọc, ngoài cây
lúa người ta chẳng thể tìm được nguồn sản sinh lợi tức nào khác. Ở những nơi nửa
cận non, nửa cận ruộng như Xóm Tiều Phu, còn có thể nuôi bò nuôi trâu, nuôi
ong, thả gà vịt...Nhưng nơi bình nguyên, cửa nhà chật hẹp, người sinh sôi đông
đúc, những bờ cỏ hẹp như giải áo không mọc đủ cỏ nuôi trâu cày, huống chi tính
chuyện chăn nuôi...Mọi sự trông vào cây lúa, mà cây lúa vốn còi cọc không thể
gánh đủ thứ tiền chi tiêu: Tiền muối mắm, dầu đèn, tiền quà bánh lễ tết, tiền
ma chay cưới xin, tiền thuế má, tiền quần áo tư trang, tiền học hành thuốc
thang cho trẻ...Vì lẽ đó mà đội quân nề mộc của ông Quảng không có một ả nạ
dòng, nhưng ở hai đội quân kia, đầy nhóc đàn bà lẫn con gái. Người ta vẫn gọi
chung họ với một cái tên chứa ngầm sự khinh bỉ: Gái công trường...
Cụ thể hơn:
« Trai quán Nái, gái công trường ».
Quán Nái là nơi ngã ba đường, nơi những đoàn xe ngược xuôi khắp
châu thổ sông Hồng thường dừng lại ăn uống, tắm gội, hoặc tìm những thứ nhu cầu
khác trong bóng tối. Có cầu đương nhiên phải có cung, dù nhà nước ngăn cấm bằng
mọi cách. Tàn đi phá lại thì sau rốt chính quyền cũng phải ưng thuận để dân phố
Nái dựng lên một dãy dài những quán cơm, quán phở, nhà trọ bình dân, quán chè
nước hoa quả, bánh trái và trăm thứ bà rằn khác. Trai quán Nái vốn có biệt tài
buôn bán. Cũng từ lâu do rủng rỉnh tiền họ thường có thú trăng hoa, cờ bạc, mà ở
nơi nào trò đỏ đen đã tồn tại thì những người bạn đồng hành với nó như lừa đảo,
thanh toán ân oán giang hồ đều không thể thiếu mặt. Dưới con mắt người bình thường
tuân thủ sống một cách nề nếp khuôn khổ, những cuộc ăn chơi long trời lở đất,
cũng như những cuộc chém giết đẫm máu của lũ trai quán Nái giống một thứ bệnh dịch
hạch, một cơn đậu mùa khủng khiếp mà thiên hạ phải tránh cho xa.
Xếp hàng thứ hai sau trai Quán Nái, là gái công trường, những
thôn dân đã tháo cũi sổ lồng, những người được mệnh danh là: « bọn nhà quê học
đòi » theo giọng lưỡi đỏng đảnh của đám dân đô thị hoặc là « bọn động cỡn »
theo cái nhìn gờm gờm ngờ vực của chính dân quê. Dưới cả hai cái nhìn thù nghịch
này thì những người hôm qua chân lấm tay bùn nơi ruộng sâu hay đất bãi, hôm nay
còng cổ co vai khuân gỗ vác gạch nơi công trường là lớp người sỗ sàng, tự do
quá trớn. Cuộc sống chung chạ giữa đàn ông đàn bà, trong khung cảnh tấp nập nhộn
nhịp của việc xây dựng, cũng như những cuộc di chuyển không ngừng hết nơi nọ đến
nơi kia ; trước con mắt những thôn dân suốt đời gắn bó với một mái nhà, một mảnh
ruộng, tự che chắn đời đời kiếp kiếp sau một mái đình và những luỹ tre nghìn tuổi
là một cuộc sống đáng hồ nghi về đức hạnh:
« Ăn đợ, ở tạm...lang thang như lũ phường chèo, như gánh hát
rong... »
Thứ cuộc sống lạ lùng, bất yên như thế khiến họ nửa thèm thuồng
nửa kinh hãi. Thói đời, cái gì đã khác ta, thì cứ nhổ vào nó trước đi đã...Nếu
không tiêu diệt được, thì cứ ném một hòn đá lên cho chắc ăn.
Do hiểu được cái tâm lý đó, những người đàn bà vùng quê khi bứt
áo ra đi, một bên vai mang nặng những gánh nợ của gia đình, vai kia chất chồng
những sỉ nhục mà chính những dân quê ném lên họ, đâm ra liều lĩnh. Họ cố tình tạo
ra một thái độ thách thức với xã hội, một vẻ bất cần, một thứ xuồng xã trong lối
ứng xử, và coi sự phản kháng này là sức mạnh giúp họ đứng vững.
Vậy, cô vợ trẻ của ông Quảng là một trong số những người đàn
bà như thế. Những cô phu hồ, những cô thợ quét vôi, những cô thợ xây...những
người đàn bà gánh vác thứ công việc nặng nề mà thường chỉ đàn ông mới đủ sức
vóc đảm nhiệm.
Một buổi sáng, ông Quảng mải mốt đi qua khu đất trống, nơi cắm
một hàng rào tạm bợ bằng những cây cọc gỗ cao chưa đầy thước rưỡi làm ranh giới
thi công giữa đội quân của ông và đội nề mộc tỉnh Hà Tây, chợt nghe tiếng cười
ré lên từng hồi của đám con gái. Ngạc nhiên, ông quay lại nhưng rồi chẳng thấy
một ai quen nên lại tiếp tục thẳng đường mà bước. Ngay lúc đó, ba bốn cô gái
lên tiếng nheo nhéo gọi, với cái giọng Hà Tây không trộn lẫn được vào đâu:
- Này ông gì ơi...Này anh gì ơi...
- Này, ông anh « kháu lão » ơi, quay lại đây có đứa gọi..
- Ớ anh già bảnh trai, kháu lão ơi....Quay lại đây có ả muốn
nói chuyện này...Ớ anh trai già...
Trong bụng hơi khó chịu nhưng ông Quảng nghĩ rằng nếu bỏ đi,
họ tưởng ông là kẻ non gan và lần sau họ sẽ tiếp tục trêu cợt một cách sàm sỡ
hơn...Ông quay lại, bước tới trước đám con gái lẫn nạ dòng, cả thảy hơn một chục
người đang ngồi chen chúc ngay trên đống cốp-pha.
- Tôi đây.
Ông nói, nhìn khắp lượt những gương mặt bịt kín dưới các loại
khăn chỉ còn ló ra đôi mắt đang tít đi vì cười:
- Tôi đây. Nào, ai muốn nói chuyện thì đứng lên. Tôi không
quen ngồi xổm...
Đám đàn bà túm tít quay lại một cô áo xanh, khăn bịt mặt cũng
màu xanh, và đôi mắt không còn cười mà đang chớp một cách bối rối:
-Ả ta đây. Chính thị đứa muốn gọi ông quay lại.
- Cô nàng Ngân, lên tiếng đi kìa...
- Chính cô ta đặt tên cho ông là « Anh già kháu lão » Bây giờ
lại im thin thít như thịt nấu đông...
Tới đó ông Quảng cũng bật cười, đưa mắt nhìn cô gái bịt khăn
xanh và nhận ra đôi mắt cô ta đẹp mê hồn, đôi mắt ông chưa từng thấy từ khi biết
chú ý tới kẻ khác phái, nói một cách văn vẻ thì đó là « mắt đào hát ».
Không ai nói gì thêm nữa và ông thấy đám đàn bà sắp rơi vào cảnh
bối rối nên quay đi.
Hai tháng sau, tàn bữa rượu với đám thợ, ông Quảng quay lại
nơi nhà trọ trong thành phố. Lúc đó đã sắp nửa đêm, công trường tắt gần hết các
ngọn điện chỉ còn để lại những ngọn đèn trên kho vật liệu hoặc những nơi xung yếu
mà kẻ trộm có cơ đột nhập. Ông Quảng vẩy đèn pin bước qua những lối mòn do chân
thợ vạch ra trên nền đất đá công trường. Chợt ông nghe tiếng đàn bà kêu thét
phía sau một khu nhà vừa hoàn thiện phần cốt gạch, chưa trát vôi vữa. Tiếng kêu
ấy là tiếng kêu của một người đàn bà tỉnh Hà Tây:
- Buông tôi ra!....Giời đất ơi!...
- Giời đất ơi!....Cứu tôi!...
Ông chạy về phía tiếng kêu cứu. Ánh đèn pin rọi vào hai bóng
đen đang quần thảo quyết liệt. Người đàn bà tóc xoã tả tơi, quần lẫn áo rách
tung từng mảnh. Gã đàn ông to lùn như con gấu ngựa, bận bộ đồ xám. Ném cây đèn
sang một bên ông nhào vào táng hai cú đấm liên tục như búa tạ vào chính giữa mặt
gã:
- Bắt nạt con đàn bà này!...
- Quân hãm hiếp đàn bà này!...
Một cú đấm nữa móc vào hàm. Rồi ông túm lấy tóc con mồi khi
gã đang còn chưa định thần được kẻ tấn công gã là ai. Dùng sức lực toàn thân
ông đập đầu gã vào tường tin chắc đó là cú đòn quyết định.
Cú đập đầu ấy đúng là cú đòn quyết định như ông dự tính. Gã
đàn ông quỵ xuống, bật tiếng kêu của loài thú dữ trúng thương. Để chắc ăn, ông
bồi cho gã hai cú đá nữa. Khi đã thấy gã không còn hy vọng gượng dậy được, ông
mới nhặt cây đèn pin, rọi vào mặt cái thứ « quân hãm hiếp đàn bà... ». Một nỗi
kinh hoàng tức khắc chạy qua như cơn chớp: Đó chính là gã phó quản trị văn
phòng xây dựng của tỉnh. Gã không trực tiếp giao việc, định giá tiền công,
lương thảo cho mấy ngàn con người trên công trường này nhưng gã là tay chân
thân tín của con người quyền lực đó. Chính vì thế, vừa từ trường trung cấp xây
dựng ra mới được hai năm, gã đã được ông ta bổ nhiệm làm phó phòng để tiện việc
sai bảo.
Trong tình thế ấy, hoặc trời xui đất khiến, hoặc vị thần hộ mạng
mách nước, nên ông đã hành động một cách khôn ngoan. Rút cây tù và vẫn đeo nơi
cổ như một thứ bùa, ông thổi ầm ĩ khiến cả khu công trường đang im ắng bỗng
nhiên vang động như xóm làng thời chạy giặc. Tiếng tù và lan đến khu lán trại
thợ lẫn khu cán bộ quản lý công trường. Bao năm nay chưa từng có sự lạ lùng như
vậy nên mọi người tay đèn tay đuốc lũ lượt chạy tới. Khi nghe tiếng chân người
rầm rập sắp tới nơi, ông mới quay sang người đàn bà bị hại:
- Cô đứng yên, không được bỏ trốn nghe chưa. Giữ nguyên áo quần
rách rưới, giữ nguyên cảnh giằng xé giữa thằng đàn ông kia với cô. Tình cảnh đã
thế này, không việc gì phải xấu hổ. Cô mà bỏ trốn bây giờ là giết tôi. Hiểu
chưa? Còn nếu người ta hỏi sao cứ đúng sự thực mà trình bày.
- Em rõ rồi ạ.
Người đàn bà đáp và ông chợt nhận ra một vẻ quen thuộc mơ hồ
trong giọng nói của cô ta. Nhưng phải chờ đến khi đèn công trường bật sáng
choang, khi đám đông đã vây kín họ, ông mới biết cô ta chính là cô gái áo xanh,
kẻ đã đặt tên ông là « Anh già kháu lão »...Chính cô ta...Và như thế, dường như
định mệnh đã liên kết họ...
Phần sau đó, không có gì nhiều nhặn. Một khi dưới ánh đèn
sáng choang, phơi bầy cảnh một cô gái bầm dập, áo quần bị xé tả tơi, một gã đàn
ông bị đánh gục trên sàn, mặt còn đầm đìa máu tươi, hơn thế nữa khuy quần đang
còn cởi sẵn, ngay lập tức người ta hình dung ra mọi sự. Không cần quá nhiều lời
bình phẩm. Tuy nhiên, bao nhiêu năm lăn lộn kiếm ăn, ông Quảng đã quá thuộc bài
học:
« Bảo vệ uy tín đảng và nhà nước ».
Ông hiểu rằng người ta có thể lật lại nước cờ như trở bàn tay
và lúc đó chính ông sẽ trở thành kẻ phải thí mạng trong trò chơi đường đột này.
Vì vậy, ông nhất thiết yêu cầu ban quản lý công trường mời công an tới làm biên
bản. Rồi tức khắc, ông vận động đám công nhân đòi ba lực lượng phải chính thức
làm chứng nhân: chính quyền, ban đại diện công trường, công đoàn tỉnh. Dù đêm
khuya, đại diện của cả ba tổ chức trên đành phải lần lượt kéo đến để kí xác nhận.
Vốn là người có tài ăn nói, ông Quảng liền mượn dịp tuyên bố trước đám đông:
- Chúng tôi dẫn vợ con thiên hạ rời bỏ quê quán đi kiếm miếng
ăn nơi đồng đất xứ người nên không thể để họ bị hà hiếp. Nếu chúng tôi làm
không đủ phận sự, họ nhổ vào mặt chúng tôi. Nay là đàn bà Hà Tây, mai chưa biết
chừng, là người Phú Thọ hay dân sở tại. Đối với ai, chúng tôi cũng yêu cầu nhà
nước phải bảo vệ người vô tội và trừng trị kẻ côn đồ. Nếu kẻ côn đồ ấy mà chui
vào hàng ngũ cán bộ nhà nước thì càng phải nghiêm minh.
- Chúng tôi đồng lòng với ý kiến ông Quảng!
Hai ông xếp của các đoàn nề mộc tỉnh bạn hưởng ứng tức khắc,
họ nhìn thấy quyền lợi của chính họ được bảo vệ trong cơ hội này. Bởi sự việc xảy
ra với ông Quảng « kẻ quen ăn sóng nói gió, tim rắn như gang, gân cứng hơn thép
» chứ nếu xảy ra với họ, ắt chỉ có cách đổ tội cho cô gái kia là: « Con đĩ ngựa
quyến rũ cán bộ đảng » và tìm cách đẩy cô đi khỏi công trường càng nhanh càng tốt.
Thế nên, núp sau lưng ông, họ cao giọng nhắc đi nhắc lại cái điệp khúc:
- Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ông Quảng. Công trường có
nhiệm vụ bảo vệ nhân công.
- Để giữ gìn nghiêm minh uy tín của đảng và nhà nước, chúng
tôi yêu cầu xử kẻ có tội.
Còn về phía những người dân quê đang khoác quần áo bảo hộ lao
động, cơn uất hận ào tới như thuỷ triều. Người bị hại đứng trong đội ngũ của họ,
trong nấc thang tận cùng của cái xã hội thu nhỏ này. Cái tai hoạ mà người đàn
bà kia gánh chịu có thể sẽ chờ họ trên đường đời, vào một ngày nào đó chẳng ai
có thể đoán trước. Sự sỉ nhục mà hôm nay cô ấy phải nếm rất có thể sẽ là món
quà cay đắng của số phận dành cho họ vào một khoảnh khắc đen đủi trong tương
lai. Ở hoàn cảnh của những con người chân lấm tay bùn, mặc cảm và sự tủi nhục
luôn luôn là những lò than không bao giờ tắt, ủ giữ ngọn lửa căm thù và phản
kháng. Vào những dịp như thế, tình bằng hữu sống dậy cùng một lượt với ý thức
thương xót bản thân. Đàn ông cũng như đàn bà, nhìn thấy trong cô gái bị giằng
xé tả tơi kia bản diện xiên ngang của chính họ, như tấm gương soi của số phận,
phản chiếu những kiếp người hẩm hiu trong cuộc sinh tồn. Bởi vậy, sau những lời
lẽ rắn đanh của ông Quảng, cơn giận dữ bùng nổ, tựa hồ người ta rút chốt khoá một
đập nước cho dòng nước hung dữ xối xả tuôn ra. Đám đông vây quanh gã phó phòng
xây dựng, giờ đã ngóc đầu dậy nhìn mọi người với đôi mắt đẫn đờ. Họ la hét, chửi
rủa. Họ nhổ nước bọt, họ đạp vào lưng y. Đám cán bộ quản trị lẫn tay trưởng ban
bảo vệ công trường đều phải kí vào biên bản trước cơn phẫn nộ của đám thợ. Sau
đó, không có cách nào hơn, trưởng văn phòng ra lệnh kỉ luật gã đàn em, chuyển
sang phụ trách công trường đập đá ở Yên Bái. Sự việc diễn ra theo cách thức mà
người ta thường gọi là hiệu ứng dây chuyền. Trưởng phòng xây dựng có vẻ hoang
mang trong vài ba ngày đầu. Dường như ông ta không muốn hiểu sự việc. Nhưng rồi
thói quen lười suy nghĩ giúp ông ta bắt lại nhịp điệu của cuộc sống bình thường
rất nhanh. Vả chăng, ông ta cũng chẳng cần áy náy nhiều, vì kẻ nịnh nọt thời
nào cũng sẵn cả đống, một thằng rơi mười thằng khác sắp hàng nhảy vào thế chỗ.
Chưa đầy hai tuần sau, ông ta đã có một tay phó văn phòng khác. Gã đệ tử mới nhỏ
bé hơn, bảnh trai hơn, và đắc lực hơn.
Sau sự kiện này, ông Quảng nổi tiếng khắp công trường lẫn
thành phố như một vị anh hùng, một Từ Hải tái sinh. Và như thế, tất cả mọi người
đều được hài lòng.
Khi mọi sự đã yên lắng lại, chính là lúc tình sử của họ bắt đầu.
Khởi sự, nàng áo xanh tìm cách gặp ông, một tay xách túi quà,
tay kia cầm hai chai rượu thuốc:
- Em xin đến cảm tạ ông. Không có ông, chắc em không thoát nổi
thằng cha ấy.
- Không có gì!Tôi là người đàn ông, giữa đường thấy sự bất bằng
chẳng tha. Những người khác gặp chuyện phi đạo lý như thế ắt hẳn cũng hành sự
như tôi.
- Sự đời không có vậy. Ông nói khiêm tốn thôi.
Cô gạt phắt đi một cách quả quyết khiến ông chẳng biết nói gì
hơn. Rồi bất chợt ông nhìn thấy hai chai rượu thuốc cô đặt lên bàn:
- Cô mang rượu đến cho tôi à?...
- Vâng, đúng như vậy! Có gì mà ông phải ngạc nhiên?
Ông mỉm cười:
- Rượu ai ngâm đấy?
- Em ngâm lấy.
- Cô cũng là dân nghiện rượu hay sao?
- Không! Không nghiện nhưng biết uống.
- Vậy sao?
- Thoạt đầu, không ai nghĩ là đàn bà nên uống rượu. Nhưng bọn
em làm thợ quét vôi, hai tay treo lên suốt ngày, đêm về ngủ đau rã rời từ bả
vai xuống tận ngang hông. Cô em cắt cho thang thuốc bảo đem ngâm với thứ rượu nếp
cái tốt, đêm về uống một chén trước khi ngủ sẽ hết đau. Em làm theo y như vậy,
quả nhiên không còn đau nữa, mà ngủ ngon giấc lắm.
Ông im lặng ngẩn ngơ. Suốt cuộc đời ông, đây là lần đầu tiên
có người cho ông rượu, mà lại là một cô gái. Hơn bốn mươi năm ròng sống với vợ
con, chưa bao giờ bà nghĩ cách mua cho ông một món quà, con cái ông cũng vậy.
Trong gia đình ấy, dường như ông phải nghĩ đến tất cả mọi người, lo toan cho cuộc
sống của tất thảy mọi người, nhưng không bao giờ có sự quan tâm ngược trở lại.
Điều đó được coi là hiển nhiên.:
« Bảo bố anh, ông ấy sẽ giải quyết. »
« Muốn gì cứ bàn với bố. Đâu rồi có đó. »
Bản thân ông cũng coi chuyện đó như là đương nhiên, bởi vì
ông là người làm cha, làm chồng, là trụ cột gia đình và ông có trách nhiệm hoàn
tất trách nhiệm ấy. Cuộc sống với những phiền toái của nó chất chồng lên vai
ông bao nhiêu gánh nặng. Để đảm đương những gánh nặng ấy, ông chẳng còn thời
gian nghĩ đến bản thân mình. Giờ, sáu mươi mốt tuổi, ông chợt nhận ra lòng mình
xáo động, rằng trong ông còn có một người đàn ông khác, kẻ đó có nhu cầu được
chăm chút, thương yêu.
Trong lúc ông đang bần thần vì nghĩ ngợi, cô đã nhìn quanh quẩn
rồi nhặt trong bộ đồ trà của quán trọ một chiếc chén sứ, rót đầy:
- Ông nhắp thử mà xem.
Ông đưa chén rượu lên nhắp thử, thấy rượu rất ngon cho dù mùi
thuốc đã làm cho hương nếp phai đi nhiều. Cô chăm chú nhìn ông và hỏi:
- Ông thấy thế nào?
- Tôi thấy rượu ngon. Nhưng giá không có thuốc thì hơn.
- Sao ông dại thế? Thang thuốc ấy cô em bán đắt gấp mười lần
tiền mua một lít rượu đầu nồi.
- Ừ, tôi vốn là kẻ dại khờ mà!...
Ông đáp, chăm chú nhìn lại cô và bỗng cảm thấy người con gái
này đã là một phần đời của ông từ lâu lắm, từ những ngày cả cô lẫn ông chưa xuất
hiện trên thế gian. Có thể, ông mường tượng một cách hồ nghi, từ những kiếp sống
xa xôi thuở trước. Những kiếp sống mà ông không hình dung nổi, giống như người
ta không thể nhìn thấy nửa bên kia của vầng trăng nhưng cái nửa bị che khuất ấy
vẫn tồn tại. Cũng như vậy những kiếp sống xa xôi lẩn khuất trong các tầng mây
cao thẳm của kí ức vẫn tồn tại dù con người không hình dung ra chúng...:
― Thực hay hư, hư hay thực? Sao bỗng dưng ta thấy cuộc sống
thật lạ lùng?
Ông tự hỏi, tiếp tục chăm chú nhìn người đàn bà đang đứng
cách ông chưa đầy hai thước. Hôm nay, cô cũng mặc áo xanh, chính màu xanh lá dừa
mà ông đã thấy khi cô ngồi chen chúc giữa đám đàn bà phụ nề, đánh vữa. Đôi mắt
cô đẹp lộng lẫy, bây giờ ông có thể nhìn rõ từng sợi lông mi. Đôi mày dài như
hai nét mực tầu, kéo từ chính sơn căn sang hai thái dương, gần như chấm đến
chân tóc:
― Cô nàng xinh đẹp thật! Đúng là người trong tranh!
Ông thầm nghĩ và bỗng dưng cảm thấy đau đớn khi nghĩ rằng chỉ
chốc lát nữa thôi, cô sẽ ra đi, sau khi để lại cho ông hai chai rượu thuốc lẫn
gói quà như một sự đền ơn đáp nghĩa. Ông sẽ không bao giờ gặp lại cô nữa. Rồi
cô sẽ sống cuộc đời của cô và cuộc đời ấy chẳng hề liên quan tới ông. Còn ông,
chắc chắn sẽ kết thúc tuổi già trong căn nhà trọ này, hoặc trong căn nhà quen
thuộc nơi Xóm Tiều Phu, hoặc trên chiếc xe ngựa hành trình giữa hai nơi đó, với
những phận sự ngổn ngang và mòn mỏi của gia đình. Với những toan tính, lo âu,
dàn xếp giữa một mớ người thân, những kẻ tưởng chừng vô cùng gần gũi với ông
nhưng thực chất lại xa lơ xa lắc, những kẻ chỉ quen chồng chất lên vai ông gánh
nặng mà không hề nghĩ đến những nông nỗi ông từng trải nếm, những nóng lạnh ông
từng chịu đựng, những mật đắng ớt cay ông từng phải nuốt vào trong. Và rồi đây,
ông sẽ chẳng thể sống một cách an bình được nữa. Bởi sau cuộc gặp gỡ này, cuộc
sống phía trước của ông sẽ trở nên vô cùng ảm đạm. Và ông?...
Dòng suy nghĩ ấy khiến ông bơ vơ, lạc lõng. Có một nỗi yếu đuối
lạ lùng, một nỗi yếu đuối chưa bao giờ biết đến tràn ngập tâm hồn ông làm sống
mũi ông cay xè. Hoảng hốt vì sợ mình sẽ khóc trước mặt một người lạ, ông vội vớ
lấy bát điếu thuốc lào rít lia lịa hai mồi rõ to rồi ngửa mặt lên thả khói. Những
giọt nước mắt lớn trào qua mi lăn xuống hai bên thái dương. Ông dặn ra một cơn
ho rồi làu nhàu chửi:
- Thuốc lào quán này là thứ Tiên Lãng đểu.
Còn cô, cô vẫn đứng tần ngần nhìn chén rượu trên tay ông,
không ngớt thắc mắc vì sao ông lại chê món rượu thuốc này, chọn thứ rượu trắng
rẻ hơn mười lần, ông - người anh hùng đã cứu cô khỏi cơn tuyệt vọng?
Vào chính lúc ấy, chủ quán bước vào nhắc ông rằng bữa cơm của
ông đã chuẩn bị xong, rằng ông có cần lấy thêm món ăn mời khách hay không? Ông
chợt nhận ra sự thất thố của mình: Cô đi từ công trường lên đây phải mất hai tiếng
rưỡi đồng hồ, và lúc này đã chính ngọ. Ông vội vã bảo:
- Lo cho tôi bữa cơm khách.
Đoạn quay lại cô, ông hỏi:
- Cô có chê dùng bữa với tôi không?
- Vì sao lại phải chê?
Cô hỏi lại một cách thật thà. Và ông mỉm cười:
- Vì cô cho tôi là kẻ dại khờ.
- Ồ, đấy là em nói thế.
- Vậy thật sự cô cho tôi là người thế nào?
- Em cho rằng...rằng ông...rất kháu lão...
Trả lời xong, chính cô lại phá lên cười. Có lẽ vì cô tự thấy
câu nói của mình là kì cục. Nụ cười của cô cất đi khối đá đè nặng lên ngực ông.
Ông cảm thấy trong tiếng cười ấy, trong ánh mắt tươi cười kia, một lời hứa hẹn...Ông
không còn thấy sa mạc cuộc đời trải ra phía trước. Ông không còn thấy bị đe doạ
bởi cuộc ra đi của cô. Trong thâm tâm ông thầm hưởng trước món quà tốt lành của
định mệnh. Bước khỏi phòng trọ, ông gọi chủ quán rõ to:
- Lo cho tôi một mâm thịnh soạn nhé! Hôm nay có khách đặc biệt!...
TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (5)
Đúng như Quý dự đoán: Vào đêm tất niên, cả Xóm Tiều Phu đến
xem ― Thị Mầu lên chùa, trừ vợ chồng ông Quảng. Họ không đi vì nhiều lẽ. Trước
hết họ đang ở thời kì nóng bỏng ái ân. Cô Ngân còn ở tuổi thanh xuân, ắt hẳn.
Nhưng ông Quảng cũng đã nhịn đàn bà gần hai năm, kể từ ngày vợ bị bệnh Ma đói.
Cuộc hôn nhân này, với cả đôi là nắng hạn gặp mưa rào. Lẽ thứ hai, họ làm việc
dưới tỉnh quanh năm, và ở dưới đó, tuồng chèo, ca nhạc mới, chiếu bóng, các hội
thi hát dân gian diễn ra gần như từng tuần, từng tháng, họ không phải nhịn thèm
nhịn nhạt như dân Xóm Tiều Phu. Lẽ đương nhiên là thế. Kể ra, việc ấy chẳng động
chạm đến ai. Nhưng thói đời, sự chênh lệch nào cũng gợi nên những ganh ghen, dù
muốn hay không, dù nói toạc móng heo hay vờ vĩnh che đậy. Ngay từ lúc màn chưa
mở, dân làng đã đưa mắt tìm kiếm cặp vợ chồng oái oăm này, sốt sắng như sự hiện
diện của họ sẽ làm cho vở chèo thành công hay thất bại:
- Không thấy cả anh lẫn ả!...Chắc họ ở nhà!
- Chắc với lép gì nữa. Họ không thèm xem thứ chèo về xóm. Dưới
tỉnh thiếu gì? Mà dưới đó, rạp hát rộng bằng mấy cái đình làng, màn trướng thuần
bằng nhung đỏ, oách lắm.
- Sao cậu Quý không mời đoàn chèo hạng một về cho dân
xem?...Đắt thì đắt nhưng cả năm một lần, ai cũng bấm bụng mua được vé.
- Có mời họ cũng chẳng về, đường xá xa xôi gập ghềnh, mà những
thứ màn trướng bằng nhung bằng gấm như thế muốn di chuyển phải dùng xe ca loại
đặc biệt. Rách một vết phải đền cả đống tiền.
- Thôi, phận đũa mốc thì cứ yên bề đũa mốc, đừng có rửng mỡ
đòi màn nhung màn gấm làm gì?...
- Ông nói ngang như con cặc! Ai cũng da cũng thịt, ai cũng muốn
được được ăn cơm với cá. Có đồ điên mới từ chối của ngon vật lạ.
- Chính ông mới là thằng nói ngang như con cặc! Muốn nhưng lại
đéo có tiền. Thèm của ngon nhưng túi lại rỗng! Đã thế thì im đi, nói ra làm gì
cho thêm hổ thẹn?
- Thôi, tôi xin các ông, đêm nay là đêm tất niên, chớ có sinh
sự. Cuộc vui sắp bắt đầu lại cãi nhau thì còn nghĩa lý gì nữa?
Người ta can nhau. Các bà dấm dúi cấu véo các ông chồng để họ
nguôi đi cơn bốc hoả. Rồi tiếng trống nổi lên rộn ràng mời gọi. Hai tấm màn lụa,
tuy đã lỗ chỗ thủng vì gián nhấm nhưng vẫn còn giữ được màu đỏ hoa mẫu đơn, từ
từ mở ra và cô đào váy áo xênh xang như làn gió ngũ sắc lướt trên sân khấu:
― Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba, thấy sư mười bốn vãi già mười
lăm...‖
Dàn nhạc sau cánh gà rộn lên tiếng đế. Một cây sáo lảnh lót
vút lên trên tiếng nhị, tiếng sáo và tiếng trống đệm nhịp. Khuôn mặt tươi cười
của cuộc sống khiến cho người ta tạm quên đi những dồn nén và những cơn xung động.
Sau hơn hai giờ, muốn hay không tích chèo cũng kết thúc.
Dân làng đứng ngẩn ngơ hồi lâu trước sân khấu, tiếc nuối. Cuộc
vui thật nhanh tàn. Và sau cuộc vui bao giờ cũng là nỗi buồn thường trực. Khi
đám diễn viên đã thay trang phục, dỡ sân khấu, gấp lại mớ phông màn để chuyển
lên chiếc xe tải nằm chờ sẵn phía sau, đồng hồ mới chỉ tám giờ. Còn những bốn
tiếng nữa mới đến giao thừa. Còn những bốn tiếng nữa mới được nổ pháo, hạ cỗ.
Còn những bốn tiếng nữa phải chịu đựng thứ im lặng trường niên nơi sơn khuê heo
hút, sau khi được tẩm đẫm trong không gian đầy ắp ánh sáng, mầu sắc, hình ảnh
và âm thanh của vở chèo, quả là rất nặng nề, quả là rất đỗi khó khăn. Người ta
đứng xem cảnh thu dọn cuối cùng của đội văn công, nhìn chiếc máy nổ hai mươi
lăm ngựa chạy ầm ầm toả ánh điện lên màn trời đen kịt. Bỗng nhiên, nỗi luyến tiếc
dâng đầy tâm hồn. Bỗng nhiên, sự cảm nhận mơ hồ về một nỗi thiếu hụt, mất mát
khiến con tim khắc khoải. Người ta biết chắc chắn chẳng có gì mới chờ đợi họ ở
cuối đường, nơi bóng tối đêm đông hoà cùng mầu đen của rừng cây bóng núi, nơi
lát nữa, họ sẽ tìm về dưới ánh lửa bập bùng của cây đuốc dầu hoả hay ánh lập
loè của ngọn đèn pin. Nơi ấy, là cuộc sống cũ mòn như tấm vải đã trơ lõi sợi...
Trong lúc đám đông còn tần ngần, Quý đã lo xong các khoản thù
lao cho đội văn công huyện. Anh ta bảo Vui:
- Bây giờ, tôi phải lo dẫn đội chèo đi ăn cháo gà trước khi họ
quay về huyện. Dân làng còn đứng đầy bãi chưa muốn đi. Có tiện thì cô mời bà
con đến chơi trước giao thừa. Năm có một lần, cũng phải tạo cho mọi người một
đêm ấm cúng.
- Có ngay thôi, chẳng khó với em. Nhưng lát nữa anh đến chứ?
- Có thể...
Quý đáp nước đôi:
- Tôi sẽ đến nếu mọi việc xong xuôi.
- Thôi được, anh cứ lo phận sự của anh.
Cô Vui trả lời. Đoạn cô đi tới trước đám đông, lên tiếng:
- Bà con chưa thích về xin mời đến nhà tôi uống nước chè, ăn
mứt Tết...Đợi giao thừa, quay về tự xông nhà cho chắc ăn!
- Hoan hô, được thế thì cô là người sang nhất hạng!
- Mứt nhà cô tự làm hay mua dưới phố?
- Mứt xịn dưới phố. Hạt dưa, hạt bí cũng là hàng cấp một, xin
đảm bảo chất lượng. Còn chè mạn thơm, chính hiệu Hồng Đào.
- Ai đến nhà cô Vui với tôi nào?
- Chẳng phải rao! Người nào có chân, người ấy tự biết đi!...
Không ai nói ra, nhưng người ta ngầm hiểu rằng cuộc tụ tập ở
nhà cô Vui chính là màn hai của đêm tất niên, sau tích chèo ―Thị Mầu lên chùa‖, ắt là tình sử của cặp vợ chồng
chênh lệch. Bởi họ giàu nhất làng, bởi họ sống một cuộc sống khác biệt với đám
đông, nên chắc chắn họ phải biến thành con mồi cho những cuộc đàm tiếu. Đàm tiếu,
xưa nay vốn là thứ món ăn tinh thần gần như duy nhất nơi làng xóm, và là thứ độc
dược kinh niên ngấm vào xương tuỷ chúng sinh.
Đêm ấy, nhà cô bí thư chi đoàn thắp đèn măng-xông.
Cô sắm cây đèn này từ khi cô ý thức rằng cô đã trở nên có vai
có vế, nghĩa là từ khi cô nổi lên trong xã như một bậc Mạnh thường Quân, dù đối
với ông Quảng cô cũng chỉ tương tự như võ sĩ lông gà lông vịt so với hạng gấu,
hạng voi...Tuy nhiên, đó vẫn là niềm tự hào mà không mấy người đàn bà được quyền
nếm trải...Thêm nữa; cô thầm nghĩ rằng mọi thành công của cô đều do cha cô phù
trợ nên cô muốn cho ông ở dưới suối vàng được hãnh diện. Như vậy khắp Xóm Tiều
Phu, sau ông Quảng giờ cô là người thứ hai có máy nổ bốn ngựa, có đèn
măng-xông, những đồ vật được coi là biểu tượng của cuộc sống thịnh vượng. Với
người dân vùng này, sau nhà cao sân lớn ắt đến xe ngựa, vừa là thứ tài sản vừa
là phương tiện kiếm tiền. Sau xe ngựa ; có máy nổ gia đình để tưới vườn ruộng,
và cây đèn măng-xông để thắp sáng tưng bừng trong những dịp lễ tết là niềm ước
mơ tột đỉnh. Tết năm nay, cô Vui lại mua thêm được ba bộ ấm chén sứ Hải Dương
loại một với chiếc bình pha trà cỡ đại quai đồng. Cô đem ra pha trà thết khách.
Chiếc bình đại chứa hai lít nước, mỗi lần pha hết nửa gói Hồng Đào. Dân làng chỉ
nhìn thôi cũng đã khiếp. Ở thôn quê, người ta vốn có thói hà tiện. Một gói trà
Hồng Đào, với những nhà bình thường, uống dè sẻn ít nhất cũng mươi hôm.
Như thế là, dưới ánh sáng trắng rực của ngọn đèn măng-xông,
chén tách sứ mới lóng lánh, trà thơm ngào ngạt bốc hơi, đĩa lớn đĩa nhỏ đựng mứt
sen, hạt bí, hạt dưa, và các loại bánh kẹo. Tất cả được bày kín mặt hai chiếc
bàn lớn kê sát nhau, trên phủ khăn hoa như bàn đám cưới. Một không khí nồng ấm,
hội hè bao phủ khắp hai gian nhà, nơi người làng ngồi túm tụm nhau theo xóm hoặc
theo dây mơ rễ má họ hàng. Không khí ấy khiến con người tự nhiên hào hứng và cởi
mở. Người ta chuyện trò như pháo ran, từ chuyện cô con dâu nhà bà Côi ở xóm Thượng
đẻ sinh ba đến chuyện con nghé nhà lão Tự say ở thôn Hạ bị cố ý đánh què để ngả
ra thịt. Từ chuyện cô diễn viên đóng vai Thị Mầu có cặp vú lép đến nỗi mỗi khi
cô ta cử động thì những miếng mút đệm trong su-chiêng trồi lên trụt xuống trông
đến là buồn cười, đến chuyện con gái ông Huân ở xã bên chửa ngoài dạ con đem xuống
bệnh viện tỉnh, tốn một tạ tiền cũng không cứu được thai...v...v...
Rồi một ông bỗng lớn tiếng gọi:
- Bà chủ ơi, tôi vốn có thói xấu là bụng cao dạ dốc...Chẳng
hay có thể kiếm được miếng bánh hay khúc giò ở đây không?
Cô chủ đứng lên:
- Có ngay...
Nhưng vợ ông ta lên tiếng trấn áp:
- Nhà ông này rõ vô duyên, không nhịn được đến giao thừa hay
sao?
Ông chồng vặc lại:
- Việc gì phải nhịn? Đói ngày giỗ cha no ba ngày tết. Chỗ
láng giềng, cô ấy lại có bụng mời.
Bà vợ phân bua:
- Miếng ăn chẳng to, nhưng người ta lại phải đụng vào dao vào
thớt, lại phải dọn dẹp, rửa tay. Trời rét thế này!...
Đến đó, làng xóm ùn ùn hùn vào:
- Kệ ông ấy. Đói thì làm sao mà ngồi uống nước chè ăn bánh kẹo
như mấy bà cho được?
- Đúng đấy! Tôi tán thành. Cô Vui ơi, cho tôi chén rượu. Lũ
đàn ông cứ phải có chén rượu mới xôm trò được. Các cụ dạy: Phi tửu bất thành lễ.
Tôi xin phép nói trại đi: Phi tửu bất thành đêm tất niên. Ai tán thành ý kiến của
tôi?
- Tôi.
- Tôi cũng vậy.
- Tôi nữa!
- Cả tôi nữa, cô chủ ạ...
- Được thôi, không có gì khó khăn. Nhưng trong đám các bà, ai
sẵn lòng đứng lên giúp tôi một tay nhỉ?
- Vâng, có tôi đây! Tôi đã trót lấy một cục nợ thành ra phải
đèo bòng.
Đấy là giọng bà vợ có ông chồng háu ăn đòi cỗ mặn trước tiên.
Đương nhiên, sau lượt bà ấy là ba bà khác, phu nhân của các đức lang quân chủ
trương:phi tửu bất thành đàn ông. Một thứ lo-gic ngầm ẩn chỉ định họ phải đứng
lên, gánh bớt những phiền nhiễu cho gia chủ.Và, như thế, một phần đêm tiệc trà
đã biến thành cỗ mặn với đầy đủ giò, rượu, bánh chưng, măng nấu sườn, thịt kho
và hành muối. Tuy là một thứ cỗ tuỳ hứng, chỉ được chuẩn bị trong vòng mười lăm
phút, nhưng cũng đủ món cho các ông nâng đũa lên hạ đũa xuống một cách sung sướng.
Khi hai mâm cỗ đầy, mỗi mâm kèm theo hai chai rượu lớn được
bưng lên và đặt trên hai chiếc phản lớn kê đối diện nhau thì cánh đàn ông háo hức
sà xuống. Mỗi cỗ sáu người, vị chi mười hai người. Cô chủ kê một chiếc ghế
chính ở lối đi giữa hai tấm phản để cùng một lúc có thể tiếp rượu cả hai bên:
- Các bà tự pha trà, thỉnh mứt nhé. Tôi đành phải hầu chuyện
đám các ông vậy.
Cô chủ tuyên bố.
Các bà nhao nhao đáp:
- Cứ tiếp họ, chẳng phải lo cho chúng tôi.
Nói thế thôi nhưng các bà cũng bưng bánh kẹo, trà nước tới chầu
rìa sau lưng đám đàn ông để hóng chuyện. Người ta không quên rằng, đấy mới
chính là phần cốt lõi nhất của buổi tối hôm nay, sau tích hát chèo.
Làng Khoai là làng nghèo nhất xã Hưng Mỹ.
Tỉnh Hà Tây khá rộng, nhưng sự phân bố ruộng đất cũng như nghề
nghiệp giữa các vùng vô cùng chênh lệch. Người giàu nhất làng Sơn nam cũng chỉ
ngang với kẻ cùng đinh ở làng Nam lộc, tuy hai làng cách nhau chưa đầy mười lăm
cây số. Cứ như thế mà so sánh, làng Khoai ắt hẳn là làng nghèo nhất trong đám
các làng nghèo. Cái tên làng Khoai chỉ ra rằng từ xửa từ xưa, dân ở đây làm
quen với khoai hơn là với gạo và các thứ thực phẩm khác. Đương nhiên dạ dầy họ
phải thích ứng để quanh năm xơi các loại khoai luộc, khoai nướng, khoai nấu độn
cơm, cả thứ khoai Vàng Anh bở tung như đỗ xanh đồ lẫn khoai mật nghệ trong suốt
như thạch, cả thứ khoai ngọt như mía lùi được gọi là khoai Hoàng hậu, đến thứ
khoai tăng sản được dặm vào cuối mùa, vỏ trắng ruột cũng trắng nhạt như nước ốc,
thường gọi là khoai Trung-Hoà ; cả khoai lang lẫn khoai sọ, khoai môn.
Thế nhưng đời nào cũng vậy, làng Khoai đều có mỹ nhân. Đấy là
niềm tự hào duy nhất của dân sở tại. Đấy cũng là niềm an ủi duy nhất để bù lại
sự khắc nghiệt của số phận mà họ phải chịu đựng từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Con gái làng Khoai dù chẳng là mỹ nhân cũng có nước da trắng muốt. Dù họ dãi dầu
ngoài ruộng bãi cũng chỉ hai bàn tay bị mặt trời làm đen đi chút đỉnh nhưng so
với đàn bà con gái tất thảy mọi làng, da họ trắng và đẹp một cách lạ kì. Người
ta cho rằng làng Khoai nửa cận sông, nửa gần núi, khí trời thanh thoáng khiến
cho da dẻ đàn bà con gái tươi nhuận quanh năm. Thứ nữa, mắt họ từa tựa như mắt
đàn bà Chàm, mênh mông thăm thẳm, với những cặp mi dài ngút ngát, cong veo. Người
ta nhắc rằng thời trước, có một toán tù binh Chàm bị đầy về tận đây để khai đất
khẩn hoang cho một tướng công được triều đình phong tước. Toán tù binh này ăn
chung ở lộn với đám dân sở tại, rồi vì họ có tay nghề thợ mộc thợ nề giỏi, mang
lại nhiều lợi tức cho vị tướng mà họ được phép dựng vợ gả chồng với các gia
nhân. Hậu duệ của những cặp vợ chồng này vì thế có những cặp mắt lớn, trong vẻo
trong veo mà lại buồn như cảnh tàn thu vậy. Tóm lại, nhan sắc con gái làng
Khoai đã trở thành truyền thuyết từ bao nhiêu đời, làm nức lòng đám con trai
các vùng lân cận và gây nên mối hiềm khích với các cô gái khác làng, khác xã.
Người làng Khoai có thể kể vanh vách thời Trần triều bà nào được tuyển vào làm
chánh hậu, đời Hậu Lê ai được kết duyên với quan tể tướng, đời Minh Mạng ai được
tuyển vào làm ái thiếp, đời Tự Đức ai được làm thứ phi....Cho tới thời cách mạng
này, cũng có bà Lan lấy được ông bí thư tỉnh uỷ Ninh Bình, còn cô Nga được tuyển
vào đoàn văn công tổng cục chính trị, nay đi Liên-xô, mai đi Tiệp-khắc như cơm
bữa...
Cô Ngân sinh ra trong một làng nghèo với bao nhiêu niềm tự
hào về dung nhan của các ái nữ. Mẹ cô đã từng là cô gái xinh đẹp nhất huyện
nhưng chưa kịp được một vị quan tỉnh hay vị nha lại đầu huyện dòm ngó đã phải
lòng bố cô, anh giáo làng. Anh giáo quèn lại lớn lên trong một gia đình nghèo rớt
mùng tơi giữa một làng nghèo, nhưng vì là đứa con duy nhất nên cả cha lẫn mẹ đều
thắt lưng buộc bụng cho anh học đủ chữ để trở thành giáo viên cấp một. Như thế,
anh giáo quèn vô cùng biết ơn vợ vì cô đã lấy anh, chứ không vào đoàn văn công
quân khu hay chờ đợi một vị hôn phu sang giàu nào khác. Từ thuở nhỏ cho đến khi
trở thành thiếu nữ, có đến cả ngàn lần Ngân được nghe bố kể:
― Mẹ con đã được tuyển vào đoàn văn công quân khu tả ngạn rồi
đấy. Có kém cạnh ai đâu. Chẳng qua bố tốt số nên lấy được mẹ thôi!
Khi cô lớn lên, nhan sắc còn đậm đà hơn mẹ. Bố cô vừa dạy học,
vừa đánh dậm hoặc đan cói vào buổi tối để cô đủ tiền theo học cho đến hết cấp
hai. Ông nuôi một niềm ước mơ không che đậy:
― Con xinh đẹp hơn cả mẹ con ngày trước. Con lại được học
hành. Sau này nhất định con còn sung sướng hơn cô Nga xóm Mới, nay cưỡi máy bay
mai lên tầu thuỷ vượt biển khơi...
Như vậy, tương lai cô gần như đã được định sẵn, giống như một
bức hoạ đã được phác thảo kĩ lưỡng, chỉ chờ ngày hoạ sĩ đủ cảm hứng để phết lên
đó những nhát sơn dầu: Cô sẽ được tuyển vào đoàn văn công trung ương hoặc đoàn
văn công tổng cục chính trị, sẽ đi Liên xô, Trung quốc và hàng trăm nước khác
như cơm bữa, làm vinh hiển cho toàn gia!
Nhưng trong lúc cả ông bố lẫn bà mẹ đang còn bận lo toan nuôi
hai đứa con trai và đinh ninh trong dạ rằng Ngân sẽ thực hiện đúng chương trình
của họ thì cô đã lớn. Tuy mới mười sáu tuổi, nhưng nhan sắc lộng lẫy của cô quyến
rũ không biết bao nhiêu bạn đồng môn, và không ít các anh giáo trẻ trong trường
cấp hai của huyện. Tựa ngọn đèn bắt sâu ban đêm giữa cánh đồng, mời gọi lũ bướm
đêm bay tới, múa lượn, say sưa mà chết thiêu chết rụi ; vẻ tươi cười nhí nhảnh
của Ngân khiến cho bao nhiêu bạn học bị kỉ luật, bởi nhà trường cấm học sinh được
tự do yêu đương khi chưa tới tuổi thành niên. Tuổi thành niên, theo quy định luật
pháp, là mười tám. Nhưng sau khi đã thiêu chết hằng hà sa số bướm đêm, ngọn lửa
đèn ắt phải tắt. Vì một lẽ nào đấy, vì lũ bướm tội nghiệp kia chất chồng khiến
nó thiếu ô-xy, vì cạn dầu, vì gió thổi? Cũng như vậy, sau khi đã chứng kiến bao
nhiêu chàng trai ngã ngựa vì mình, đến lượt chính Ngân bị đánh gục, không phải
với những gã trai khờ khạo đồng lứa, nhưng bởi ông giáo dạy văn, người mực thước,
một vợ ba con. Ông giáo Tường.
Không ai biết đầu cuối tình sử của họ. Bởi ông giáo Tường sống
với vợ con ngay trong khu gia đình giáo viên trường huyện. Một dãy nhà lợp ngói
chạy dài với hàng hiên hẹp, chia thành từng lô nhỏ, giống nhau cả về hình dáng
lẫn chất liệu, được xây cất một cách tùng tiệm và ẩu tả, trông hệt như một dãy
hộp các- tông.Trước khu nhà đó là khoảng đất trống với dăm cây bàng, được dùng
làm sân chơi bóng chuyền, bóng rổ của giáo viên lẫn học sinh. Sau khu nhà ấy là
vườn tăng gia của các giáo viên giúp cho họ cải thiện đời sống vì đồng lương
không bao giờ đủ, nhất là với những ai đã có gia đình. Người ta vẫn thấy ông
giáo Tường cầm ô-doa tưới su hào bắp cải vào các buổi chiều, vẫn thấy vợ ông quần
ống thấp ống cao te tái lùa gà vào chuồng lúc nhọ mặt người hoặc vẫn thấy chị
ta cầm đèn pin đi nhặt trứng lúc gần nửa đêm. Đấy là một người đàn bà nhỏ bé, gầy
nhẳng, vẻ buồn rầu không lúc nào thiếu vắng trên gương mặt nhọn như mặt chim. Họ
đã sống trong khu tập thể ấy từ khi mới cưới nhau, anh Tường được bổ nhiệm về
trường huyện sau khi tốt nghiệp sư phạm trung cấp tỉnh, còn chị vợ bán thuốc
trong cửa hàng dược phẩm. Từ bấy đến nay họ đã có ba đứa con trai, đứa lớn nhất
mười ba tuổi, đứa thứ hai mười một, đứa út, chắc là vỡ kế hoạch nên mới lên ba.
Trong tình cảnh như vậy, không ai tưởng tượng nổi có một mối tình lãng mạn, say
đắm nảy nở giữa một cô thiếu nữ mười sáu, đẹp lồng lộng như trăng rằm, với một
ông giáo sắp sửa tứ tuần, râu một ngày quên cạo thì mặt tối như hũ nút, áo quần
cũ nát, răng lẫn ngón tay ám thuốc lá vàng khè.
Khi mọi chuyện vỡ lở, nghĩa là khi Ngân có thai, thiên hạ gần
như cuồng lên vì sửng sốt. Đám học sinh đã đành. Nhưng những người lớn, giáo
viên, cán bộ huyện, công nhân các nhà máy trung ương đóng trong vùng, và cả dân
thường....tất cả đều muốn biết căn nguyên một mối tình phi lý hoàn toàn, theo ý
họ. Chuyện thầy trò yêu đương lan khắp nơi cùng chốn, ào ào như lửa bỏng, nước
sôi:
- Quỷ ám, đích thị là quỷ ám!
- Làm chó gì có quỷ, chuyện dị đoan. Tôi cho rằng thằng cha
này dẻo mồm tán. Người ta bảo:đàn ông yêu bằng mắt ; đàn bà yêu bằng tai.
- Mắt với tai thì cũng phải có lý. Đời thuở nhà ai con bé lại
tự nguyện yêu một lão bằng tuổi bố nó bao giờ? Hoạ là điên! Nếu không điên, ắt
hẳn thằng cha này bỏ bùa yêu cho nó. Trước đây, em họ tôi đi dân công trên Tây
bắc, bị một đứa con gái Thái đen bỏ bùa yêu. Cứ mỗi lần tìm cách quay về đồng bằng
là lên cơn điên, mắt trợn trừng, mồm lảm nhảm nói toàn tiếng Thái. Gia đình
đành phải đưa lên sống với đứa con gái kia.
- Cho đến tận bây giờ?
- Chính thế. Con vợ nó chờ đến năm năm rồi cũng phải xin xã
làm thủ tục ly dị để đi lấy chồng. Hai đứa con gửi cho chú thím tôi nuôi.
- Tôi không tin chuyện bỏ bùa yêu.
- Tôi tin.
- Tôi cho rằng lão giáo này có thuật chài đàn bà con gái mà
chúng ta không biết được.
- Thuật gì?
- Thôi miên chẳng hạn. Thằng cha này trông hom hem thế nhưng
khi nó nhìn ai, người ta cứ như bị đóng đinh câu rút, không động cựa nổi. Tôi
cho là con bé bị cặp mắt nó hút hồn.
- Có thể! Nhưng nếu thế sao từ trước tới nay nó không chài những
đứa khác? Khoá học nào chẳng có vài cô xinh?
- Đúng vậy. Từ trước đến nay ông ta có chuyện trăng gió nào
đâu? Nếu là kẻ chuyên mồi chài ong bướm hẳn mọi sự đã phải xảy ra từ lâu. Mười
lăm năm qua, thiếu gì học trò đẹp, tại sao phải chờ đến lượt con Ngân?
- Vì số mạng định thế. Đến ngày đến tháng, cái thai mới chui
ra khỏi bụng mẹ. Cũng như vậy, đến ngày đến tháng, tai hoạ mới hiện hình.
- Ông cho thế là tai hoạ à? Tôi lại cho là phúc cơ đấy. Đương
nhiên, được ngủ với một đứa con gái còn trinh tiết, lại xinh đẹp như tiên. Chẳng
khác chi được bước vào thiên đường.
- Nhưng sau thiên đường là địa ngục. Mọi người chưa biết chuyện
bố con Ngân lồng lộn kiện nhà trường, vác dao đòi giết lão giáo Tường. LãoTường
phải trốn lên tỉnh. Bây giờ, nghe đâu đã nhận kỉ luật chuyển đi nơi khác.
- Chuyển đi đâu?
- Tôi không nhớ rõ nhưng chắc chắn là một tỉnh biên giới.
Trên đó, ông ta bị phân công tới một nơi khỉ ho cò gáy, dạy đám tân binh trong
trường đào tạo hạ sĩ quan. Các trường đào tạo sĩ quan cao cấp thường ở gần
thành phố lớn, nhưng các trường đào tạo hạ sĩ quan bao giờ cũng bị tống vào những
miền chó ăn đá, gà ăn sỏi. Ở những nơi ấy, ngọn rau muống cũng hiếm. Thức ăn đầu
bảng quanh năm là cá khô với mắm tôm.
- Đáng kiếp thằng dê già. Luật nhân quả chẳng bao giờ sai. Đã
hưởng lộc trinh tiết, đã nếm da thịt con gái trắng như trứng gà bóc thì sau đó
mãn kiếp mút cá mắm khô cũng là phải.
- Địa vị tôi là bố con bé Ngân, tôi cũng vác dao cho thằng
cha này một nhát. Hết một đời con gái. Uổng một kiếp giai nhân!
- Ông cho nó một nhát thì ông cũng phải ngồi bóc lịch trong
tù. Mà đã dan díu nhau ắt hẳn phải tự cả đôi bên, cả anh lẫn ả...can cớ chi đâm
chém người ta?
- Ông ngu thật. Theo luật, mười tám tuổi mới thành niên. Con
cái Ngân mới mười sáu...Ngủ với nó tức là thằng cha kia phạm luật. Tội ấy gọi
đích danh là: Quyến rũ trẻ vị thành niên. Đáng lẽ nó phải bị truy tố và tù ngồi
ít nhất bốn năm. Nhưng bác ruột nó là chánh án toà án tỉnh.Vì lẽ ấy mới thoát
được cửa tù.
- Ra thế, tôi không biết.
- Ông không đọc luật à?
- Thời giờ đâu mà đọc luật. Ngày làm hai ca, có khi ba ca
thông tầm. Tuần làm sáu buổi, có khi chủ nhật còn phải lao động công ích xã hội
chủ nghĩa. Về đến nhà chỉ muốn lăn ra ngủ. Trèo lên bụng vợ còn lười huống chi
ngồi đọc luật?
- Thế con gái ông lên mấy rồi?
- Mười hai.
- Vậy thì hãy lo đọc luật từ bây giờ. Có ngủ chỉ nên nhắm một
mắt, mắt kia phải mở mà ngó nghiêng, mà liếc ngang liếc dọc. Nếu không lại có
thằng cha nào bằng tuổi ông nó ngấp nghé gọi ông là bố vợ bây giờ.
- Đồ đểu! Tại sao ông độc mồm độc miệng thế? Ông cầu cho tôi
khốn nạn như lão giáo làng Khoai hay sao?
- Tôi không cầu cho ông khốn khổ như vậy. Nhưng biết lo xa
thì tránh được cái hoạ gần.
Quả tình, tất cả những gia đình có con gái tuổi dậy thì đều
nháo nhác sau câu chuyện tình oái oăm trên. Người ta hiểu được nỗi đau đớn của
ông giáo làng Khoai. Vì sao một con người hiền lành nhu thuận như thế lại vác
dao lên huyện giữa thanh thiên bạch nhật. Ông giáo Tường chỉ kém bố cô Ngân hai
tuổi, nhưng vì mắt sâu, râu rậm nên trông mã còn có vẻ già hơn. Giá như ông ta
là đại gia đại phú, hoặc là quan lớn đầu tỉnh hoặc bậc lương đống triều đình,
người ta còn có thể châm chước. Nhưng đằng này, ông giáo dạy văn trường huyện lại
là kẻ ―trên răng dưới dái, mà đã thế lại là dái già....nên thiên hạ bất khoan
dung.
Lúc ấy, cái thai trong bụng cô Ngân đã sang tháng thứ tư ; kể
thì cũng khá muộn nhưng nhà trường vẫn cho giấy giới thiệu vào bệnh viện huyện
xin ― nạo thai cho nữ sinh vì lý do tai nạn đạo đức ―. Mẹ Ngân đưa con gái nhập
viện buổi tối, cả hai đều lấy khăn bịt mặt chỉ để hở hai con mắt, nón đội sụp
xuống ngang mày. Bố Ngân tuyên bố từ con gái. Ông giáo làng bảo vợ:
― Giá nó cầm dao đâm thẳng vào tim tôi còn hơn là nó đẩy tôi
vào tình cảnh này. Kể từ nay, dưới mái nhà này có nó thì chẳng có tôi, và ngược
lại. Tuỳ mình chọn...
Vợ ông không dám chọn, bởi bên chồng bên con đều là máu thịt
cả. Đưa Ngân vào viện nạo thai xong, bà giáo dẫn con về gửi mẹ. Ở đó, Ngân sống
với cậu mợ và bà ngoại. Hơn một năm sau, cậu Ngân vốn là thợ nề tay nghề cao
xin cho cô chân thợ quét vôi dưới công trường. Còn ông giáo Tường, không nghe
thấy tin tức gì nữa. Có tới một năm ròng, người ta thấy vợ ông, người đàn bà
teo tóp như cây rau cải phơi nắng vẫn bán thuốc trong cửa hàng phố huyện. Gương
mặt vốn dĩ nhọn như mặt chim nay càng quắt lại, trơ cả xương hai gò má lẫn
xương sống mũi. Qua tết, không còn thấy chị ta trong cửa hàng dược phẩm huyện.
Bốn mẹ con nghe đâu dắt díu nhau về tỉnh Thanh, quê ngoại. Gian nhà của ông
giáo Tường khoá cửa một vài tháng rồi được phân cho giáo viên thể dục mới về.
°°°
Khi ông Quảng và cô Ngân quyết tâm gắn bó keo sơn, họ tính
chuyện hợp lý hoá cuộc sống đôi lứa. Trong tình cảnh gia đình như vậy, cô Ngân
không muốn cưới xin linh đình theo cách của mọi người. Trước hết, cô không muốn
khuấy lại dòng nước đã lắng. Vết thương cũ của ông giáo làng chắc chắn chưa
lành, nếu cơn cớ chi chạm tới, ắt máu lại ròng ròng chảy. Người làng vẫn nhắc lại
cảnh bố Ngân bỏ lên lớp, bỏ ruộng cày cả tháng, băm nát mớ đồ nghề đánh dậm,
chũm cá sông. Đêm đêm, ông giáo đi như cuồng cẳng trên đường làng, chốc chốc lại
ngửa cổ lên tru như chó sói gọi đàn khiến chủ tịch xã là cậu ruột, phải bỏ tiền
mời bác sĩ tỉnh về tiêm. Ai cũng ngỡ ông ta sẽ khăn gói vào nhà thương điên,
không chóng thì chầy. May phúc đức tổ tiên, và cũng nhờ tay nghề bác sĩ tỉnh mà
ông ta đã hoàn hồn, tuy thi thoảng vẫn có những cử chỉ hoặc những câu nói không
thật sáng suốt. Cô con gái chính là toàn bộ giấc mơ vinh quang của người cha.
Giấc mơ ấy tan tành như chiếc gương bị đập vụn. Ông giáo làng không muốn chấp
nhận sự thực đau lòng ấy. Ông tìm cách tẩy xoá mọi dấu vết của thời mơ mộng cũ.
Tất thảy những gì liên quan đến Ngân đều bị ông đem đốt hoặc trôi sông. Những tấm
ảnh xinh đẹp treo đầy tường. Hòm quần áo. Rổ đồ khâu khi cô học nữ công gia
chánh. Những con búp-bê vải cô tự khâu. Những quyển vở chi chít điểm son từ khi
cô còn học cấp một. Tất thảy những kỉ niệm của một niềm tự hào quá lớn chung sống
với một giấc mơ ban ngày kéo quá dài.
Ông Quảng đã từng làm cha. Ông hiểu lòng tự ái tổn thương sẽ
xô đẩy con người vào thứ địa ngục nào. Những năm tháng lăn lộn trên đủ miền đất,
rong ruổi trên mọi nẻo đường dậy cho ông biết cảm thông và nhẫn nhịn. Hạnh phúc
của ông ắt sẽ đòi thử thách. Chính ông là người gánh vác chứ không phải Ngân.
Sau khi tính đi tính lại, họ quyết định nhờ người cậu Ngân mời mẹ cô xuống công
trường chơi. Ở đó, đêm thứ nhất bà mẹ được nghe cô con gái kể lại tình sử của
cô với một người đàn ông hơn cô bốn mươi ba tuổi, bậc Từ Hải tái sinh đã dang
tay che chở cứu cô thoát khỏi kẻ hung đồ. Ngày thứ hai, cô đưa mẹ đi chơi phố,
sắm sanh cho gia đình tất thảy những gì làm cho con mắt mọi người có thể sáng rực
lên như đèn điện. Ngày thứ ba, mới là bữa cơm chính thức giữa bà mẹ vợ và chàng
rể tương lai hơn bà hai mươi bốn tuổi. Có một sự trùng hợp khiến cho cả hai bên
đều không tránh được ngượng ngùng: bố của Ngân sinh cùng tháng cùng năm với
Quý, con trai đầu ông Quảng, họ chỉ khác biệt nhau về ngày sinh.
TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (6)
Tuy nhiên, mẹ Ngân là người thực tiễn. Bà hiểu rằng con gái
mình đã lỡ trớn không thể nào tìm lại được cơ hội cũ. Như con thuyền bị lũ cuốn
xuôi chẳng thể quay ngược dòng. Nếu cô cảm thấy sung sướng với những người đàn
ông hơn cô nhiều tuổi chắc chắn vì số mạng của cô đã định sẵn một lối kết duyên
trái khoáy, ngược đời như vậy. Không ai chống lại được luật trời. Từ ông giáo
Tường đến ông Quảng, đường đời của cô đã vạch sẵn theo những đường chỉ kẻ trên
lòng bàn tay. Bà thở dài, nhưng bà chấp thuận tất thảy những gì không thể thay
đổi được. Thêm nữa, đối với người làng Khoai, vật chất có giá trị mạnh mẽ. Người
chồng tương lai của Ngân sẽ đem lại cho cô một đời sống vật chất tối đa. Và đó
là sự bù trả của định mệnh.
Ngày thứ tư, bà mẹ khệ nệ xách hai chiếc hòm quay về làng. Bà
không nói gì với ông giáo về cuộc gặp gỡ cô con, chỉ lẳng lặng thu dọn đồ đạc
và dáo dác:
- Ít bữa nữa thế nào cậu cháu cái Ngân cũng gửi thợ về làm
nhà. Dưới đó, nó dành dụm được ối tiền.
- Tôi đã bảo mình là đừng bao giờ nhắc lại tên nó trước mặt
tôi.
- A, tôi quên. Vậy từ giờ tôi chỉ nhắc tới cậu nó. Tháng tới
cậu ấy sẽ giúp chúng ta sửa nhà.
- Làm gì tuỳ ý. Nhà này quyền ở mình từ xưa đến nay.
Ông giáo đáp chủng chẳng rồi chắp tay sau đít đi ra ngõ.
Hai tuần sau, em bà giáo dẫn một tốp thợ tám người về làng
Khoai. Kèm theo họ là ba xe tải chở gỗ, gạch, xi-măng lẫn các phụ liệu khác.
Dân làng xúm lại xem như đêm rằm tháng tám trẻ con xem đèn kéo quân.
Làng Khoai chưa từng có một mái ngói. Cả làng thuần một kiểu
nhà lợp rơm hoặc lá cọ, tường xây bằng đủ loại chum vại sành, tiểu sành hư hỏng,
mua ở làng bên. Làng láng giềng là Quách Thổ, một làng bề thế với trên bốn ngàn
dân, giàu có từ nhiều đời đổ lại. Họ giàu vì họ không làm ruộng mà chỉ chuyên
làm đồ sành. Đất vùng Quách Thổ là thứ đất sét tuyệt hảo để chế tác các loại vật
dụng bằng sành, trước hết là tiểu. Tiểu lại là mặt hàng đời đời kiếp kiếp cần
thiết cho chúng sinh. Dù giàu hay nghèo, bất luận muốn hay không muốn, nhà nào
cũng có người chết, qua ba bốn năm phải rửa xương cốt cho vào tiểu sành chôn lại
lần thứ hai. Lần này mới thực là lần hoàn tất thủ tục ma chay, và như thế chiếc
tiểu sành được coi như nơi trú ngụ cuối cùng của vong linh, ngôi nhà vĩnh cửu nếu
vong linh đó không có cơ may đi đầu thai lại. Bởi thế, tiểu sành là thứ mặt
hàng bắt buộc phải tiêu dùng đối vớ tất thảy dân cư. Nghề làm tiểu sành được
coi như thứ nghề danh giá nhất trong vùng. Người ta không cho phép kẻ ngoại
nhân được học nghề ấy. Con gái con trai làng Quách Thổ buộc phải kết hôn nội
trong ba dòng họ thống lĩnh nghề này. Nếu kẻ nào dám mạo muội vượt qua lề luật,
buộc phải đi biệt xứ, hoặc vào Nam kì, hoặc ngược lên biên giới phương Bắc. Nếu
quanh quẩn trong vùng châu thổ sông Hồng, thế nào cũng bị phát hiện và rượt đuổi.
Còn trường hợp hãn hữu, những kẻ bạo phổi to gan dám mở lò nung tiểu sành hay
chum vại theo nghề cũ ; ắt phải liệu thân ; cuối mọi ngả đường đều có kẻ rình
đánh cho tàn tật. Vì lý do ấy, cả vùng nhìn dân làng này như nhìn những kẻ thù
bất dung thứ, vừa là lũ giàu sang ngạo ngược vừa là những kẻ độc ác, tay dính
máu người. Để mua lại đôi chút tình cảm vờ vĩnh của dân các vùng phụ cận, tức
khách hàng vĩnh cửu của mình, dân làng Quách Thổ bán lại những chum vại nổ, vỡ,
méo mó hoặc non lửa hoặc già lửa và những chiếc tiểu không đủ tiêu chuẩn với
giá rẻ như bèo. Khách hàng đầu bảng của họ chính là dân làng Khoai, làng bần
cùng nhất trong đám làng bần cùng. Xây cả một ngôi nhà năm gian bằng những thứ
chum méo, vại thủng hay tiểu sành vỡ đáy này chỉ tốn bằng tiền mua một chiếc tiểu
đúng chất lượng. Thế là ngôi nhà dành cho cả chục người sống cũng chỉ trị giá
như nấm mộ cỏn con dành cho người dưới tuyền đài. Dân làng Khoai quen với hình
dáng kinh dị của những ngôi nhà xây bằng đồ phế thải. Nhưng nếu khách giang hồ
lạc đường ghé qua đây, ắt hẳn phải giật mình kinh sợ vì những bức tường cong
queo, lồi lõm, khi phình ra như những chiếc bụng ỏng, khi dúm lại như vỏ quả
bóng xì hơi. Chúng đem lại nỗi ngần ngại hãi hùng, vì với hình dạng kì dị như
thế, chúng gần với hang hốc, nơi trú ngụ của gấu ngựa hay hùm beo chứ không phải
những ngôi nhà dành cho con người. Vì lẽ đó, hình ảnh những ngôi nhà ngay ngắn,
đẹp đẽ, với mái ngói đỏ au là giấc mơ tót vời của người dân ở đây. Và là một giấc
mơ bất khả trong hiện tại. Như thế, đủ hiểu vì sao người ta xúm đen xúm đỏ xem
những chiếc xe chở vật liệu và toán thợ tỉnh về làng như du khách xem bảo tàng.
Công việc xây dựng tiến hành một cách hối hả. Cậu em bà giáo ở
lại trực tiếp chỉ huy. Ngôi nhà hai tầng hiện lên như trong chuyện cổ tích. Nó
vượt qua trí tưởng tượng của mọi người. Nhà mình xây xong, bà giáo có nhã ý tặng
cho ông cậu chồng đương kim chủ tịch xã nửa xe gạch và xi-măng còn thừa, động
viên ông cậu: « Dấn lên, cháu ghé vai gánh đỡ một nửa ». Ông chủ tịch dấn lên
thật, vì cơ hội ngàn năm có một mà bỏ qua thì hoạ là điên... Bà giáo hỗ trợ ông
để có thể thay đủ bốn bức tường gạch với lên một mái ngói. Còn cậu em bà tự
nguyện chờ đến năm sau.
Hôm khánh thành nhà mới, bà giáo làm hai mươi mâm cỗ mời họ
hàng. Một tuần sau, ông chủ tịch quyết định cho cửa hàng kinh doanh xã dời về tầng
chệt nhà bà bởi không thể tìm đâu ra một nơi lý tưởng đến thế cho dân làng tụ họp,
nhận các phần tem phiếu và mua mọi loại nhu yếu phẩm, từ mắm muối, len vải sợi,
đến sách bút cho trẻ em, thuốc thang cho người ốm, từ quần đùi, may-ô, sơ-mi dệt
cho các ông cho đến gương lược, kim chỉ, sáp chống nẻ môi và nước hoa rẻ tiền
cho các cô các bà. Bốn gian phòng thênh thang khả dĩ vừa làm cửa hàng, vừa làm
kho chứa, vừa là nơi khách ngồi chuyện gẫu. Như thế, đương nhiên bà giáo được bổ
nhiệm làm cửa hàng trưởng, thay cho cô cửa hàng trưởng cũ vừa bị kỉ luật vì
tham ô. Ông giáo lẫn hai cậu con trai rút lên tầng trên. Tầng này, cũng có ba
gian rộng rãi, ngoài nơi làm việc, ăn uống của ba bố con, ông vẫn còn nơi thờ
cúng tổ tiên, hoặc ngồi ngắm cảnh. Cuộc đổi đời xảy ra gần như trong chớp mắt,
giống như chiếc đũa thần của bà tiên chạm vào mớ áo quần rách rưới của nàng Lọ
Lem và biến chúng thành xiêm y lộng lẫy, chạm vào quả bầu để biến nó thành cỗ
xe ngựa xa hoa chở nàng đến với Hoàng tử trong Vương quốc của những chiếc giầy
thuỷ tinh.
Dân làng Khoai dù đã được mời ăn cỗ nhưng vẫn điên lên vì bỗng
dưng chuyện cổ tích hiện về. Mà nếu chuyện cổ tích đã hiện về thì những nén
vàng thoi bạc phải chia đều cho chúng sinh, cớ sao bao nhiêu ân sủng dồn cả cho
lão giáo làng ngơ ngẩn? Thế là người ta cố công moi cho ra bí ẩn của sự việc.
Cuộc dò tìm không mấy khó khăn bởi tám gã thợ kia trong lúc
làm nhà đã đủ thời gian để liếc các cô gái làng và chết mê chết mệt vì nhan sắc
của họ. Trong đám thợ ấy ngoài những gã đã hai ba mụn con với một nái xề giữ
chuồng gà chuồng lợn nơi quê nhà cũng còn được hai chàng chưa vợ. Hai gã thợ
xây trẻ nếm cơm thiên hạ đã mòn môi, nhận ngay ra vẻ đẹp của các cô gái trong
cái làng nghèo xa lắc xa lơ, nơi cùng sông cuối núi này. Cả hai quyết tâm cưa bằng
đổ các cô, quyết tâm « đi theo gót ông già kháu lão chịu chơi tên là Quảng ».
Vài bữa cơm rượu trong nhà người đẹp đủ cho hai chàng trai phun ra tất thảy mọi
bí mật về tình sử ―cô Ngân, ông Quảng, kèm theo những bình phẩm của mọi loại
dân trên công trường. Sau rốt, người ta được thoả mãn vì đã tìm thấy chiếc đũa
thần của bà tiên, chiếc đũa biến những con cóc thành cặp giầy thuỷ tinh tuyệt mỹ.
Lần này, mọi dư luận không còn chạm tới ông giáo làng được nữa,
bởi ông cố thủ trên căn gác, suốt ngày ngồi đọc sách. Cậu em vợ khuân hai thùng
sách cũ thư viện công trường thải ra đem về làng, làm quà tặng cho ông anh rể,
kèm theo ngọn đèn điện chạy ắc-quy. Người ta thường xuyên nhìn thấy ông qua
khuôn cửa sổ thênh thang của căn gác, nghiêng đầu trên chồng sách, thay vì hì hụi
đánh dậm ban đêm hoặc chổng mông lên mò cua giữa trưa hè một thuở chưa xa. Bà
giáo tươi cười như hoa, càng ngày càng béo phây phây, má đỏ hồng như má con
gái. Bà mặc vải phin nõn hoa, tai đeo nụ chân đi dép Trung Quốc tím trong suốt,
kể như thế đã là giấc mơ tột đỉnh của đám đàn bà cầy cuốc đương thời.
Tuy nhiên, bà không bao giờ dám nhắc đến tên con gái. Vài tuần
sau ngày khánh thành nhà mới; nghe đâu ông Quảng cô Ngân về làng đăng kí kết
hôn. Nếu quả thực như vậy, chắc chắn chủ tịch xã sẽ đích danh làm thủ tục. Còn
nhân chứng hẳn không thể là ai khác ngoài bà mẹ vợ và cậu em trai của bà. Tất
thảy diễn âm thầm và vô cùng mau lẹ, người ngoài cuộc chẳng thể biết. Bởi chính
chủ tịch xã không hé môi nói nửa lời. Người ta đồn thổi hoặc suy đoán như vậy
vì bắt gặp cặp vợ chồng mới quay trở lại chiếc xe ô-tô chờ họ bên kia sông để
trở về thành phố. Đưa chân họ là bà mẹ và ông cậu. Chủ tịch xã tươi cười vẫy
tay chào. Cô Ngân nhỏ nước mắt trước khi trèo lên xe. Cô nhìn vài lượt làng cũ,
con sông, cánh đồng...nơi chôn rau cắt rốn, nơi đớn đau thân thiết, nơi cô sẽ
không còn có cơ quay trở lại.
°°°
- Đã giao thừa rồi sao? Vui chuyện quên cả đường về.
- Gọi là Tết thì cũng phải được thoải mái. Quanh năm đầu tắt
mặt tối còn gì?
- Nhưng lẽ ra tôi phải về đốt pháo.
- Đốt pháo là việc của trẻ ranh, sao ông lại tranh với chúng
nó?
- Nhưng con tôi còn bé quá.
- Bé quá thì vợ ông làm, bề nào thì cũng đã quá giờ. Ông có
đi bây giờ cũng bằng vô tích sự.
- Ờ...ờ...
- Vui thật, nghe pháo nổ sướng cả tai. Dù sao Tết cũng vẫn là
Tết!
- Tết năm nay xôm ra trò. Mà cũng lạ lùng. Từ thuở cha sinh mẹ
đẻ, chẳng bao giờ tôi qua giao thừa ở nhà hàng xóm.
- Tôi cũng vậy. Nhưng sống mãi cũng phải tìm cái gì mới lạ.
Mà dẫu ngồi dưới mái nhà mình hay nhà láng giềng thì cũng vẫn rượu, vẫn thịt, vẫn
bánh chưng xanh với đồ nhắm. Có thiệt miếng nào đâu?
- Chẳng thiệt miếng nào đã đành mà còn được nếm rượu thượng đẳng
nữa. Phải công nhận rằng tay nghề của cô Vui đáng kính nể. Cô ấy học được phép
bí truyền của bà cụ thân sinh ông Đô. Cùng một thứ men, cùng một thứ nếp nhưng
rượu nhà này say êm hơn rượu nhà tôi.
- Không chỉ có rượu ngon mà còn trà ngon và chuyện hay nữa chứ!
Này cô Vui, tôi tưởng cô chỉ giỏi làm nhưng không ngờ cô còn giỏi nói nữa. Lẽ
ra cô nên làm nghề giáo học.
- Không dám, ông quá khen! Tôi nghe được ra sao thì kể lại
nguyên si như vậy, không thêm không bớt.
- Kể nguyên si cũng phải biết rút lưỡi ra mới đổ được nhời.
Thiếu gì kẻ hiểu rành rẽ mọi sự mà không nói được cho ra nhẽ.
- Ôi dào, các ông khen phò mã tốt áo. Cô ấy làm bí thư chi
đoàn đương nhiên phải biết nói năng.
- Bí thư chi đoàn thì cũng chỉ biết phổ biến nghị quyết, biểu
dương thành tích hay công bố kỉ luật chứ làm sao biết tả cảnh tả tình lên bổng
xuống trầm như thế?
- Đúng đấy. Rõ rành rành là cô Vui có năng khiếu kể chuyện.
Nhưng phải công nhận rằng tình sử của cặp vợ chồng này cũng hay.
- Ông có lý. Chuyện tình của ông Quảng xôm ra trò. Năm nay
vui đáo để! Bởi năm nào cũng chỉ có một vở chèo. Năm nay, những hai tích chèo lận.
Này cô chủ, cho thêm rượu với...
- Chờ tôi một chút.
- Chúng tôi không nói cho được lòng chủ nhà đâu, nhưng quả thực
cô có tài ăn nói. Tiếc rằng cô xuất đầu lộ diện hơi muộn. Cô mà là giáo viên dạy
văn cấp hai thì khối kẻ xin chết đấy.
- Không dám đâu.
- Cô đừng tưởng trên đời này chỉ đơn thuần là ― Gái tham tài,
giai tham sắc. Nhiều khi cánh đàn ông cũng tham tài nữa đấy. Tôi là đàn ông tôi
hiểu bụng dạ đàn ông.
- Thôi, tôi xin các ông! Không dám!...
- Tôi nói thực tình chứ không nịnh rượu của cô đâu. Đói ngày
giỗ cha no ba ngày tết, nhà chúng tôi cũng đầy rượu thịt, bánh trái. Nhưng ăn
mà không có người cùng ngâm nga, không có chuyện mà tán tỉnh thì vô duyên quá.
Tôi nói có phải không các ông?
- Đúng như vậy ; chuyện cô kể thật tuyệt vời. Điều đó đáng
giá hơn ngàn lần hai mâm cỗ của cô.
Cô chủ mang tiếp ra hai chai rượu nữa. Không rõ những lời
khen của khách là thật hay dỡn nhưng hai má cô đỏ ửng lên, mắt cô long lanh và
rõ ràng trông cô xinh gấp bội ngày thường. Cánh đàn ông tiếp tục rót rượu,
nhưng những người đàn bà đã nháo nhác đứng lên:
- Thôi đi chứ, Tết nhất mà ăn uống như thuồng luồng ba ba,
quá bằng kẻ đói năm Ất Dậu.
- Ô hay, cứ để các ông ấy được tự nhiên. Tết có đông khách đến
nhà ăn uống ra giêng chắc chắn sẽ làm ăn thịnh vượng.
- Sông nào cũng có bờ có bến, vườn dẫu hẹp dẫu rộng cũng có
rào có dậu. Tiệc nào rồi cũng phải tàn. Về đi cho cô chủ nghỉ ngơi.
- Về đi! Tôi sốt ruột lắm rồi.
Những người đàn ông tuy có oai phong lẫm liệt nhưng sau rốt
cũng phải hiểu rằng khi các bà lên tiếng có nghĩa rằng giờ đã điểm. Một ông dốc
tuột chén rượu cuối cùng vào họng rồi hắng giọng:
- Nào các ông, cạn chén đi rồi đứng lên. Người xưa bảo:―Lệnh
ông không bằng cồng bà. Người thời nay thêm vào: ― Nhất vợ, nhì trời.Thôi,
chúng ta cũng phải nhìn người đời mà hành xử.
- Ông đúng là đồ râu quặp.
- Tôi đích thực râu quặp, xin nhường cho ông vểnh râu. Ở đây
ai mắc bệnh râu quặp như tôi?
- Tôi.
- Tôi nữa.
- Tôi cũng vậy...
Các bà vừa vỗ tay tán thưởng, vừa cười sặc sụa khi nhìn các đức
lang quân nghiêng ngả đứng lên. Sau rốt, chỉ còn lại hai ông râu vểnh. Hai ông
này ngó xuôi ngó ngược thấy xung quanh đã đứng lên hết cũng đành dằn chén xuống
mâm:
- Nào thì về! Rõ thật chán mớ đời cái bọn đàn bà. Chuyện đang
rõ là vui.
Một bà đanh đá ngứa mồm đối đáp:
- Chuyện vui đến mấy cũng đến lúc chấm hết. Hát cô đầu hay đến
mấy cũng đến lúc phải hạ trống chầu. Không kẻ nào cả gan tom chát suốt ngày dài
đến đêm thâu. Chẳng qua vợ các ông quá hiền nên mới chịu bị bắt nạt.
- Việc ấy chẳng dây dưa đến nhà bà. Tôi có lấy bà làm vợ đâu?
- Ồ, may thật là may, phúc nhà tôi to bằng cái đình nên tôi
không phải chui vào cửa nhà ông. Trên đời này ai ghét tôi thế nào tôi ghét hạng
đàn ông vểnh râu như thế.
- Tôi cũng ghét...
Bà vợ ông râu vểnh đứng nép sau đám chị em, im lặng từ đầu giờ
mới lên tiếng:
- Lòng vả cũng như lòng sung các bà ạ. Khốn nỗi các cụ đã dạy:
« Ghét của nào trời trao của ấy » Chịu nhịn mãi rồi cũng thành quen...
- A....a....Con mẹ này hôm nay to gan nhỉ?
Ông râu vểnh quay lại nhìn vợ với đôi mắt trợn trừng, nửa như
kinh ngạc nửa đe doạ. Bà vợ được kích thích bởi khí thế của láng giềng, cũng sửng
cồ lên:
- Ai cũng da cũng thịt. Chị em người ta dám như thế, tôi cũng
phải vùng lên chứ?
Đến đây thì cô chủ ra tay can thiệp vì không khí bắt đầu căng
thẳng. Bước hai bước, cô xen giữa cặp vợ chồng, cười nụ cười tươi chưa bao giờ
thấy:
- Bà ấy nói đúng đấy, tất cả loài người đều hát khúc hát vùng
lên!
Rồi cô tủm tỉm nhìn quanh. Khi thấy mọi người đang ngẩn tò te
trước cách diễn đạt quá văn chương của mình, cô liền cao giọng:
- Trong số các vị ở đây tôi điểm thấy tám đảng viên cả thẩy.
Chẳng lẽ các vị đã quên bài hát tuyên thệ dưới đảng kì hay sao?
Tám ông đảng viên nhìn nhau, người này cầu cứu trí nhớ của
người kia nhưng rốt cuộc tất cả đều ậm ừ, ngắc ngứ trong họng. Lúc đó cô Vui mới
dõng dạc đọc từng lời từng chữ:
-― Vùng lên hỡi các nô lệ của thế gian ;
Vùng lên những ai cực khổ bần hàn ;
Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành...
Thế nào, các ông đã nhớ ra chưa?
- Quên tiệt.
- Chịu cô thật. Ngày kết nạp thì phải cố học vài câu mà ư hữ
cho qua chuyện. Xong thì thôi chứ có phải cơm áo gạo tiền đâu mà nhớ?
- Thế mà tôi cuộc rằng các ông nhớ không sót mảy may chuyện
nhà ông Quảng. Điều đó đúng hay sai?
- Chả phải bàn. Cũng chả cần chối. Chuyện trong làng trong
thôn thì chẳng cần vắt óc cũng nhớ như nhớ cái gối đầu giường. Còn những bài
hát tận đẩu tận đâu, từ những bên Tầu bên Tây đưa về hơi sức đâu mà bận tâm cho
nhọc?
- Chính phải.
Lúc ấy, một trong hai ông vểnh râu lên tiếng:
- Tôi đố các vị chuyện đã chấm hết chưa?
Vẫn là chị chàng đanh đá trả lời trước:
- Chẳng chấm hết thì còn gì nữa. Kết thúc, anh lấy ả, ả chui
vào giường anh...Ông còn muốn gì hơn?
- Rõ thật là đồ đàn bà, óc không to hơn quả bưởi, mắt nhìn
không quá hai sải tay.
- Phải chúng tôi ngu, nhường cho ông khôn hết...Rõ ra đồ sĩ
diện, lòng tự ái to bằng cái bồ.
- Nghe cho rõ đây này: Chuyện bây giờ mới bắt đầu. Mọi người
không thấy thể sao?
- Chúng tôi chẳng thấy gì hết. Người ta đã thương nhau, đã đi
cuối núi cùng sông, đã làm thủ tục kết hôn hợp pháp, còn ai dám xen vào?
- Đã làm thủ tục chưa cô Vui?
- Tôi không rõ. Nghe người ta đoán già đoán non thế thôi.
- Mà không có thủ tục thì trai chết vợ, gái chưa chồng, làm
gì được họ? Mấy ngàn năm trước tổ tiên mình vẫn lấy nhau vẫn sinh con đẻ cháu,
có ai cần đến tấm giấy kết hôn với con dấu đỏ của chính quyền đâu?
- Tấm giấy kết hôn không to nhưng củ tỏi lại to. Vấn đề là ở
đấy.
- Cái gì là củ tỏi? Ông định nói đến cái cặp ngọc hành lủng lẳng
trong đũng quần chúng ta phải không?
- Sao mà tối dạ đến thế? Bìu dái là bìu dái còn củ tỏi là củ
tỏi ; thứ nào đi thứ nấy. Ban đêm ông có sờ nhầm con hến của bà ấy thành cái ấm
pha chè đặt trên bàn hay không?
- Ông ví von rắc rối bỏ mẹ.
- Rắc rối mới là sự đời. Bây giờ ai dám đánh cược với tôi là
chuyện nhà này chấm hết? Còn tôi, tôi cho rằng màn vừa khép sau hồi một. Mà hồi
hai mới thực xôm trò...Nào, ai dám chơi?
-.......
- Các vị nhát như cáy đồng. Không ai dám lên tiếng hay sao?
- Thôi, tôi chẳng dại.
- Cược với ông làm gì? Nhỡ đến tai người ta, miếng chẳng được
lại nghe câu chửi. Xưa nay nhà ông ấy có hại ai bao giờ đâu?
- Thôi, đừng có bé xé ra to! Chuyện gì đến khắc đến. Xin thay
mặt bà con cảm ơn cô chủ. Giao thừa năm nay vui thật là vui!
Đám người lục tục chuẩn bị đốt đuốc, rọi đèn, khoác áo ấm rồi
kéo nhau ra về. Khi những ánh lửa bập bùng trên các ngả đường thôn Trung, gà đã
cất tiếng gáy chào canh một. Chó sủa ran lên theo bước chân người. Trời đen như
mực và không gian ắng lặng. Cô Vui tắt cây đèn măng-xông, bắt tay vào dọn dẹp
nhà cửa dưới ánh sáng của một dãy nến sáp ong tự chế.
Trong thâm tâm, cô phập phồng chờ đợi:
― Chuyện gì đến khắc đến!
Cô biết những người khác cũng đang chờ đợi như mình. Do tính
thận trọng lưu truyền, người dân quê không bao giờ dám tham gia vào một vụ cá
cược nhưng họ thầm kín theo rõi mọi câu chuyện và cũng thầm kín mong đợi nó xảy
ra theo sự phán xét của mình. Luôn luôn ấp ủ giấc mơ trở thành kẻ phán xét, kẻ
có quyền hành nơi những con người sống chật vật và đơn điệu. Cô Vui cảm thấy giấc
mơ thầm kín ấy đang cựa quậy trong tâm hồn mình, tựa hồ cái bào thai đang quẫy
đạp trong bụng một người mẹ. Cô linh cảm thấy ―...cái gì đó sẽ đến, không chóng
thì chầy.... Cô nhớ đôi mắt vằn lên của chủ tịch Quý khi cô mô tả ngôi nhà hai
tầng, bảy buồng của vợ chồng ông giáo làng Khoai. Bởi nhà của chính ông Quảng vẫn
chỉ là kiểu nhà cổ truyền một tầng tuy rộng mênh mông và xương khung kết thuần
gỗ tứ thiết. Còn nhà của Quý kém nước hơn nhiều. Vậy mà giờ đây bố con đĩ Ngân
lại thượng trên tầng gác suốt ngày ngồi đọc sách, cảnh tượng ấy làm sao chịu nổi?
Linh cảm mách cho cô Vui hiểu rằng cuộc tình này ắt dẫn đến bão tố. Nhưng bão tố
theo kiểu nào, gió thổi từ núi cao hay từ biển xa tới, cô không thể dự đoán.
Bỗng nhiên, con mèo già trong bếp xồ ra, khoèo vào chân Vui:
- Cút ngay, con điên này...
Cô quát, tiện chân thượng cho nó một đạp.
- Ngoeo....ngoeo...eo...
Con vật nhảy phóc sang một bên, cất tiếng kêu ai oán, đôi mắt
nó hướng về phía cô, tròn xoe nỗi kinh hãi và ngạc nhiên. Cô chủ tặc lưỡi:
- Mình quên, nó chưa được ăn. Suốt tối bận khách khứa, quên cả
mèo.
Bỏ mớ bát đĩa đang dọn dở, cô vào trạn, lấy ra con cá kho, đặt
vào chiếc đĩa mẻ dành riêng cho mèo ăn:
- Nào, giờ mới đến lượt mày...
Con vật vừa tiến đến đĩa cá vừa tiếp tục kêu, mắt không rời
cô chủ. Dường như nó chưa hiểu và chưa thể bỏ qua hành vi lỗ mãng của Vui. Cô bỗng
nhiên bật cười:
- Thôi, ngoeo ngoeo gì nữa, ăn đi cho rồi...
Rồi cô ngồi xuống, đối diện với con vật để cho nó yên tâm rằng
cơn thịnh nộ của cô đã qua. Khi con mèo già cúi đầu xuống đĩa cá, cô bỗng nhiên
có ý tưởng lạ lùng rằng cô cũng giống như một con mèo. Một con mèo đang ngồi
rình mồi trong bóng tối. Nhưng không phải là một con mèo già mà là một con mèo
cái, đang còn rất trẻ và tràn trề sinh lực. Ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy khiến cho cô tủm
tỉm cười mãi một mình.
Con mèo ăn xong, liếm mép với vẻ hài lòng rồi tót lên nhà
trên, khoanh mình trên cái ổ khâu bằng vải vụn. Cô Vui tiếp tục dọn nhà, rửa
bát. Những ngọn nến đại cháy bùng bùng từ trên nhà xuống bếp, ánh sáng thừa
thãi hoang tàng. Ong nhà nuôi, sáp làm nến quanh năm dư dả. Hơn nữa, bố cô đã dạy:
― Sống dầu đèn, chết kèn trống ―
Cô không việc gì phải tùng tiệm như những người đàn bà nheo
nhóc một nách năm bảy đứa con. Bữa tiệc tất niên này khiến cô mãn nguyện.Vừa rửa
bát, cô vừa lẩm nhẩm bài: Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian. Tự thán phục mình
vì trí nhớ siêu việt và vì khả năng văn chương bỗng nhiên dạt dào tuôn chảy.
Khi cô rửa xong bát đĩa, dọn nhà láng bóng như gương thì vừa rạng sáng. Trời lạnh,
nhưng mồ hôi nhơm nhớp chảy dọc sống lưng. Cô tặc lưỡi:
- Tắm cái đã!Thế là năm nay, trước lẫn sau giao thừa, ta tắm
cả thảy hai lần!
Đó là một sự bất thường. Vì người ta thường kiêng tắm sau
giao thừa. Nhưng những kẻ sống độc thân thích thờ vị thần sạch sẽ. Vị thần này
mang cho họ niềm kiêu hãnh mà những ai bìu díu con con, cháu cháu, chồng chồng
vợ vợ không có quyền hưởng thụ.
Vui tắm xong, đồng hồ chỉ bảy giờ kém mười lăm. Sương hãy còn
trùm phủ núi non nhưng những rặng cây quanh vườn đã lờ mờ hiện lên với những
vòm lá ướt sũng. Cô chủ đứng nhìn vườn cây trong chốc lát, mơ màng. Rồi cô khoá
cửa, lên giường ngủ:
― Cái gì sẽ đến, ngày mai?
Cô tự hỏi, khi khoan khoái duỗi tấm thân đồ sộ dưới tấm chăn
bông.
TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (7)
Cái gì phải đến, ắt sẽ đến!
Nhưng người ta chẳng cần súng sính văn chương chữ nghĩa, mà
cũng chẳng cần nhọc công chờ đợi. Ngay chiều mồng một Tết, sự đã sinh.
Vào lúc cửa nhà cô Vui còn đóng kín mít. Tiếng ngáy rền như sấm,
lên bổng xuống trầm như giọng hò kéo gỗ của cô còn vang khắp năm gian nhà. Cái
sự sinh, sinh sự. Cái cảnh màn hai trong tấn tuồng của gia đình ông Quảng mà cô
thầm chờ đợi đã đến. Tiếc thay cô không được chứng kiến tấn tuồng ấy, dẫu cô là
người duy nhất trong Xóm Củi đã trèo đèo lội suối đi đến tận làng Khoai xa xôi
kia.
Theo lệ thường, sáng mồng một Tết mọi người khăn áo chỉnh tề
thay hương trên bàn thờ, cúng gia tiên. Cúng xong, trời ắt đã non trưa, họ được
quyền ngả cỗ ra đánh chén một bữa tuý luý để cả năm có cơ dồi dào chè rượu. Cỗ
xong, là thời khắc đón khách trong gia tộc. Thời khắc ấy, gia chủ đón con trai
kèm theo con dâu, con gái kèm chàng rể và đàn đàn lũ lũ cháu nội cháu ngoại. Phải
có mâm ngũ quả ê hề để trẻ con được quyền ăn thoả sức. Phải có hộp phong bao đỏ
chót để phân phát một cách đồng đều tiền mừng tuổi cho đám hậu duệ, không kể
gái hay trai, ngoại hay nội. Phải có bánh kẹo, các loại mứt khác nhau để mọi
người nhấm nháp với nước trà.
Năm nay, nhà ông Quảng chỉ có hai vợ chồng son. Cậu Quỳnh vẫn
sống dưới thôn Hạ với bà ngoại. Sau buổi thương thuyết thất bại của hai cậu,
chính Quỳnh phải lên xin bố áo quần và mọi thứ vật dụng kèm theo một khoản tiền
đủ trả học phí lẫn sinh hoạt phí. Chỉ một tuần lễ sống dưới mái nhà ngoại,
chàng trai đã hiểu rằng những lời nói tốt đẹp không ve vãn được túi tiền. Bà
ngoại cũng như hai cậu chỉ có thể cung cấp những lời khuyên giải xuông hoặc những
kích động không hiệu lực. Họ không thể làm gì hơn. Và Quỳnh đành chấp nhận sống
ở đó như khách trọ, góp tiền ăn hàng tháng. Chàng trai không muốn quay lại mái
nhà cũ, phần vì sĩ diện của kẻ đã tự ý khăn gói ra đi, phần vì nhan sắc của bà
mẹ kế khiến cậu điên đảo. Chắc chắn hiểu lòng dạ con, ông bố không nài ép:
- Được, anh muốn thế nào được thế nấy. Còn năm gian nhà dành
cho anh, anh tính sao?
- Bố hãy giành cho mẹ kế và các em. Con không có ý định quay
trở lại.
- Hãy nghĩ cho kĩ.
- Con chỉ xin tiền bố học hết đại học. Học xong, con tự liệu
thân.
- Nếu được vậy, tôi lấy làm mừng. Chỉ e anh không vào nổi cửa
trường trung cấp.
- Con biết. Từ giờ con sẽ ra công học.
- Được, tôi sẽ lo cho anh đủ tiền.
- Con xin bố.
Cuộc đối thoại chấm dứt và cậu con út xách chiếc hòm véc-ni
vàng óng ra đi. Ắt là một cuộc chia ly tốt đẹp vì sau đấy, Quỳnh bỗng nhiên trở
thành chín chắn, học đến đâu nhớ đến đấy. Thành tích vượt bực của cậu ta khiến
cả trường kinh ngạc.
Ông bố ở lại với tình yêu mới của mình. Cả một dinh cơ rộng
mênh mông, năm gian nhà chính, mười gian nhà ngang cả bên tả lẫn bên hữu chỉ có
anh với ả.
Như thế Tết năm nay, ắt hẳn là ông Quảng sẽ là người được quyền
mừng tuổi cho cô Ngân. Quà mừng tuổi của cô không phải là chiếc phong bì đỏ đựng
mấy đồng bạc mới mà là một hộp nhung màu cánh hồng. Khi cô mở hộp, mắt cô sáng
lên như điện và cô nhảy bổ đến bá cổ ông chồng:
- Anh chàng kháu lão! Thật tuyệt vời.
- Quà này liệu có xứng với cô gái làng Khoai? Hay là cô văn
công quân khu tả ngạn?...
- Văn công tả ngạn hay hữu ngạn cũng chẳng bằng về làm chủ trại
nhà ông Quảng nơi xóm Thượng.
- Mình có chắc không đấy?
- Chắc như cột lim.
- Hễ lão giáo Tường quay về đây rủ rê bỏ tớ mà đi thì tớ sẽ
treo cổ lên cây mít đầu vườn.
- Phỉ thui cái mồm nói láo. Mà anh nói treo cổ ai?
- Treo cổ cô ả trước, rồi đến lượt tớ sau. Cùng một giờ không
hơn không kém. Để sau này con cái tiện làm ma.
- Nói gớm chết.
- Sao non gan thế? Tôi đùa một chút thôi...
- Đừng đùa dại như thế. Mình đã cay đắng bao nhiêu rồi. Mình
sẽ sống cùng nhau đến lúc bước xuống mồ.
Cô ôm chặt lấy ông, nước mắt rưng rưng tưởng như sự chia cách
đang rình rập bên ngoài khuôn cửa. Ông ôm chặt lấy cô, để xác định sự chở che
vô điều kiện của mình. Vào khoảnh khắc ấy, ông lại có một cảm giác hết sức
chính xác, hết sức mãnh liệt như cảm giác trong lần gặp đầu tiên, khi cô bối rối
đặt hai chai rượu xuống bàn, trong căn phòng trọ nơi thành phố: Cô chính là một
phần xương thịt của ông, một phần đời của chính ông, phần đời mà ông đã quên
lãng, đã đánh rơi từ bao nhiêu kiếp trước ở một vùng xa lơ xa lắc phía bên kia
chân trời. Họ đứng như thế hồi lâu, trong không gian yên ả của đầu xuân, vừa
đinh ninh vừa ngạc nhiên vì sao bỗng dưng họ lại gắn bó với nhau đến thế, vì
sao bỗng dưng họ lại yêu nhau tha thiết thế, sợi dây thần bí nào của định mệnh
đã ràng trói họ, hai con người vừa còn là những kẻ không quen biết trong một
quãng thời gian chưa xa?...
Rồi tiếng chó sủa và tiếng chân bọn trai trẻ đi chơi xuân sớm
ngoài đường thôn khiến họ bừng tỉnh giấc mê tình ái. Cô Ngân vội vã mắc đôi nụ
mặt đá ru-bi đỏ lên tai:
- Thôi chết, đã đến giờ làm cơm cúng tổ tiên.
- Không việc gì phải vội? Tổ tiên chứng dám rằng chúng ta
cùng có lòng thành. Nửa trưa bưng cỗ lên là được.
Ông đáp.
Tuy chỉ có hai người nhưng cỗ cúng vẫn phải đủ lệ bộ. Dẫu xuất
thân từ làng nghèo, nhưng đã nếm nhiều thứ cơm thiên hạ lại vốn dĩ thông minh
nên cô Ngân đủ tay nghề lo liệu. Không cần chồng hỗ trợ cô vẫn làm được mâm cỗ
mười món trong vòng hai tiếng đồng hồ: Gà luộc lá chanh, gà rán ướp mật ong, thịt
bò xào măng, cá quả xào cần, thịt lợn xào bông cải, mọc gà, mọc lợn mộc nhĩ,
chân giò nấu đông, tôm nấu bóng, xương sườn om măng. Còn các loại giò lẫn bánh
nếp bánh chưng không tính. Đúng ngọ, cỗ bưng lên bày la liệt mặt bàn thờ. Mười
tám đĩa lẫn bát cho món chính lẫn món phụ. Ông Quảng đứng vê râu trầm trồ khen
vợ. Hương trầm bốc khói thơm ngát khắp mấy gian nhà. Có một thứ nồng ấm của ngọn
lửa vô hình lan toả trong không gian, có một gương mặt tươi cười vô hình của vị
thần hạnh phúc ngự trị dưới những mái nhà mà người ta yêu thương nhau....
Vào đúng lúc ông Quảng áo xống chỉnh tề, đứng ngay ngắn trước
bàn thờ tổ tiên chuẩn bị khấn, Quý dẫn vợ và hai đứa con gái bước vào. Anh ta
mang đến hai trái bưởi đào vườn nhà với mấy chồng bánh gai là thứ bánh bà Quảng
thích ăn nhất khi còn sống. Đặt lễ vật trên bàn thờ xong, Quý nói:
- Con xin được khấn mẹ con trước, xong việc con còn phải đi
chúc tết các đoàn thể và dân xã.
Ông Quảng quay lại, nhìn con trai:
- Lui ra kia! Trên bàn thờ này có tổ tiên tôi năm bảy đời về
trước. Sau đấy đến cụ kị, ông bà bên nội bên ngoại của tôi. Rồi đến cha mẹ, chú
cô, cậu dì của tôi. Thứ nữa, đến người anh trai tôi chết trẻ. Mẹ anh, tức là vợ
tôi còn phải chờ sau lượt ông ấy. Thứ tự đó là niêm luật, không có quyền đảo
ngược.
- Nhưng con...
- Lui ra kia.
Ông bố quát. Không nói ra nhưng ông biết rằng cả nhà Quý
không ai chào cô Ngân, và cô đã lui ngay xuống bếp khi thấy vẻ sinh sự trên những
gương mặt của họ.
- Đây là nhà tôi. Không phải trụ sở uỷ ban xã. Quyền của anh
dùng ở chỗ khác, không phải dưới mái nhà này.
Vẻ quả quyết của ông khiến Quý chùn bước. Vợ anh ta, luôn
luôn nép vào một xó nào đấy, thò tay kéo áo chồng. Quý đành hậm hực đứng yên,
chờ ông Quảng khấn vái.
Bài khấn của ông Quảng khá dài vì ông phải triệu hồi theo thứ
tự từ cao xuống thấp vong linh tất cả những người thân thuộc, từ năm bảy đời
trước cho tới bà vợ vừa chết mùa xuân năm vừa rồi. Quãng thời gian ấy quả là
khó chịu đựng nổi với một đứa con thích sinh sự mà lại đang có quyền lực trong
tay. Chủ tịch Quý hết dậm chân nọ lại đến chân kia. Dường như có một ổ kiến lửa
đốt dưới bàn chân khiến anh ta không đứng yên nổi. Khi ông Quảng vừa dứt lời,
anh ta liền nhào đến trước bàn thờ, vái hai vái cúi gập lưng kiểu như phường tuồng
rồi cất tiếng gào thật to:
- Mẹ ơi, mẹ ở dưới tuyền đài có khôn thiêng xin quay trở lại,
mở mắt mà nhìn mọi sự nhiễu nhương dưới mái nhà này. Mẹ ơi, nhục nhã cho các
con lắm. Tại sao mẹ vội ra đi để cho cóc nhái nhảy lên bàn, để gà tha rác vào
nhà, quạ về đậu trên ngọn buởi ngọn cam làm tổ?
- Ối mẹ ơi là mẹ...
- Ối bà ơi là bà, bà đi đâu? Bà bỏ lại con cháu như vậy bà
ơi?
Vợ con Quý, hẳn đã được chuẩn bị sẵn ; lên tiếng kêu khóc như
dàn đồng ca nhạc kịch hoà theo giọng độc tấu. Tiếng kêu gào của họ vang lên
trong không gian yên tĩnh của xóm thôn. Vào giờ này, mọi người đang còn chuẩn bị
quần áo trước khi ra đường. Theo cổ tục, trừ lũ trai thích chơi xuân sớm, không
ai ra khỏi ngõ trước giờ Mùi. Do đó, mọi lời qua tiếng lại cũng như tiếng kêu
khóc của gia đình ông chủ tịch xã lọt tuốt tuột vào những cái tai lúc nào cũng
sẵn sàng giỏng lên của láng giềng bốn phía.
Ông Quảng sững sờ chết lặng. Ông không chuẩn bị để đón nhận sự
việc này. Nói cho đúng, chẳng một ai đủ sức tưởng tượng một sự việc như thế.
Người ta lam làm cả năm, chờ đợi năm mới với tất cả những hy vọng mới. Ngày mồng
một tết, là ngày thứ nhất của thời gian tương lai, của đoạn đời sắp tới, có
tính chất đặc trưng thiêng liêng của sự khởi đầu. Bởi thế, không ai cãi nhau với
ai ngày này, láng giềng dù có thù ghét nhau đến mấy cũng phải ngậm bồ hòn làm
ngọt mà chào hỏi, chúc tụng vì nếu nói lời không hay, ý không đẹp thì sự rủi ro
sẽ đến cho cả hai phía. Người ta kiêng mặc quần áo cũ, kiêng đi giầy dép cũ,
kiêng chửi tục, kiêng quát tháo lẫn nhau, kiêng lườm nguýt nhau, kiêng khóc,
kiêng làm bát đĩa vỡ, kiêng làm đổ nước tương, nước mắm, kiêng ném vỏ chuối hay
vỏ cam ra sân, tất thảy những gì có thể gợi ý đến một rủi ro hay thiếu may mắn.
Ngay cả đến những kẻ thù địch còn không dám sinh sự ngày tết, huống chi người
thân thích, ruột rà? Vậy nên ông đứng bàng hoàng khi nhìn đứa con trai đầu và
gia đình nó gào khóc trước bàn thờ tiên tổ, biến ngày Tết thiêng liêng thành một
đám ma. Nhưng qua một khoảnh khắc kinh ngạc, hoang mang, ông hiểu rằng ông cần
phải hành động. Rút phắt cây trượng dựng trong góc nhà, vật bất ly thân gần hai
mươi năm khi đi rừng, ông trỏ vào mặt Quý và quát:
- Cút ngay! Cút ngay lập tức! Đây là bàn thờ tiên tổ của tôi
chứ không phải bàn thờ riêng cho mẹ anh. Nếu anh có lòng hiếu đễ, tôi cho phép
anh mang ảnh bà ấy về nhà anh mà thờ. Lũ vợ con anh nữa, cút ngay khỏi nhà này,
tôi cần con cần cháu, nhưng không cần bọn lưu manh phá rối. Tôi không cho phép
lũ bất nhân biến mái nhà này thành cái chợ.
- Trời đất ơi, ông đuổi con đuổi cháu ra khỏi nhà, ông ơi...
Vợ Quý tiếp tục gào, trong khi anh chồng giương đôi mắt đỏ vằn
nhìn bố. Hơi thở anh ta sặc sụa rượu ; chắc hẳn đứa con trai đã phải mượn hơi
men trợ sức trước khi tới gây sự với ông bố già:
- Mẹ tôi đã sống ở đây, ông không có quyền đuổi tôi ra khỏi cửa
nhà này.
Ông Quảng đứng ngây người trong giây lát, dường như không tin
vào đôi tai mình...Trong gia tộc của ông, con không được quyền xưng tôi với bố,
bất luận tình cảnh nào. Tất cả đám con ông, cũng như con cái của những người em
trai ông và chị ông, đều biết rõ luật lệ này và coi đó như một thứ đạo luật của
gia đình, phân biệt họ với những dòng họ khác, ít nghiêm minh hơn trong nền nếp
gia phong và sự giáo dục. Chưa bao giờ trong dòng họ nhà ông xảy ra sự ô nhục
này. Quý biểt rõ điều ấy. Bây giờ, chính anh ta là kẻ đầu tiên khạc nhổ lên lề
thói của gia tiên.
Ông Quảng đứng lặng như thế hồi lâu. Những cơn nhói liên tục
chạy qua tim như có kẻ liên tục đâm những nhát gươm xuyên qua nó. Lần đầu tiên
trong đời, ông hiểu rằng trái tim một người bố cũng vô cùng mong manh và dễ bị
tổn thương. Lần đầu tiên trong đời, ông biết nỗi đớn đau chua chát khiến hai mắt
ông như mờ đi, và những cơn rung động lướt qua toàn thân ông như những cơn run
của người sốt rét. Ông biết rằng sự thay đổi cách xưng hô là dấu hiệu của giới
hạn cuối cùng. Rằng sau đây, họ sẽ không bao giờ còn là cha con như thuở trước.
Không bao giờ còn như xưa. Cơn đau đớn vẫn nhói lên không ngừng nhưng cùng lúc ấy
tấm thân ông đột nhiên cứng lại như đá, một cảm giác giống hệt cảm giác của lần
đầu, khi ông mười bảy tuổi, lần đầu đặt lên vai cây cột nhà trước những con mắt
thách thức của đám trai xóm Thượng.
Người cha nhìn bộ mặt đứa con trai, biến dạng bởi hận thù và
men rượu. Một khoảnh khắc yên lặng nữa trôi qua. Rồi đột ngột, ông bố cất tiếng
cười:
- Ông chủ tịch say rồi...
Ông tiếp tục cười gằn và giọng nói của ông bỗng trở nên lạ
lùng khiến đứa con trai ông lẫn gia đình nó đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc: Chưa
bao giờ họ nghe ông nói với mọi người bằng cái giọng ngọt ngào, trịnh trọng như
thế:
- Bà chủ tịch đưa ông về nhà nếu không tôi sẽ đem chuyện này
lên thưa kiện huyện. Chủ tịch say rượu đến quấy rối nhà dân.
- Ông nói gì?
Chủ tịch Quý hỏi lại, mắt trừng trừng nhìn bố. Có lẽ anh ta
say, hoặc đúng hơn là anh ta thiếu thông minh để hiểu rằng người cha đã chuyển
giọng, đó cũng chính là dấu hiệu của giới hạn cuối cùng: Ông đã phải đối đáp với
đứa con rứt ruột đẻ ra bằng thứ ngôn ngữ ngọt ngào, thớ lợ. Thứ ngôn ngữ của kẻ
chuyên đi kiếm cơm đất khách. Buông từng tiếng thong thả, ông Quảng đáp:
- Ông chủ tịch say rượu đến quấy rối nhà dân. Như thế, là làm
tổn hại danh dự của đảng và chính quyền.
- Ông nói gì?
- Bây giờ, ông không còn là con tôi nữa. Ông là chủ tịch xã,
đại diện chính quyền. Ông say rượu, dẫn đồng bọn đến phá rối nhà dân.
- Tôi không say, tôi nhục vì ông lấy một con điếm về làm vợ.
- Xưa nay, các cụ vẫn dạy ―Người ta lấy đĩ về làm vợ, không
ai lấy vợ về làm đĩ. Nếu cô Ngân là đĩ, tôi cũng chưa làm sai lời dạy của người
xưa. Nhưng nếu vợ tôi không phải là điếm, ông chủ tịch sẽ chịu tội vu khống và
nhục mạ công dân. Ông có hiểu điều đó không?
- Vợ ông không là điếm thì cũng là con đĩ chửa hoang. Ông tưởng
rằng không ai biết chuyện thày ngủ với trò, con Ngân ễnh bụng với lão giáo Tường
hay sao? Ông nghĩ rằng cứ quắp một con đĩ ở hang cùng ngõ hẻm, hay cuối núi
cùng sông về đây là có thể bít bùng mọi sự, che mắt được thế gian hay sao?
- Xưa nay, tôi vốn hành xử giữa thanh thiên bạch nhật, không
có điều gì cần che mắt thế gian...Ông chủ tịch chui từ mái nhà này ra mà mau
quên đến thế thì trí khôn ngắn ngủi thật. Đúng, cô Ngân chửa hoang. Cô ấy chửa
với người cô ấy yêu là ông giáo Tường. Cũng như hàng vạn người đàn bà khác chửa
với người đàn ông họ chọn. Cô ta chửa hoang vì cô ta mắn như gà ri. Còn nhiều
người đàn bà khác không chửa hoang vì họ may mắn không thuộc loại máu bồ câu mà
máu vịt. Ví như mẹ anh chẳng hạn. Bà ấy không chửa hoang vì không thuộc nòi mắn
đẻ chứ chẳng phải vì cầm thật chặt chữ trinh. Trước khi cưới mẹ anh tôi đã đưa
bà ấy lên núi Trúc vàng chơi cả năm rồi Anh có muốn tôi chỉ cho anh chỗ nào tôi
ngả bà ấy ra không?
Đến đây, chính đứa con trai há hốc mồm ra vì kinh ngạc. Giống
như kẻ bị sét đánh ngang tai. Rồi khi đã hiểu rõ những lời lẽ ông bố vừa nói,
anh ta tru lên như con lợn bị chọc tiết:
- Không đúng, ông đổ điêu cho mẹ tôi! Tôi không tin!
- Tôi với mẹ anh đang tuổi xuân thì, đi củi đi rừng với nhau
quanh năm, ai cấm nổi chúng tôi? Việc gì chúng tôi phải nhịn thèm nhịn nhạt, việc
gì chúng tôi phải chờ đợi cho đúng ngày đúng tháng, bề nào ăn hỏi rồi, hai gia
đình kết giao rồi, sớm muộn chúng tôi cũng lên giường với nhau.
-.....
- Anh đắng họng không trả lời được vì anh quen giả dối. Bản
thân anh chị nữa, anh chị chẳng đã no xôi chán chè với nhau cả năm trời trước
khi tôi lo đủ tiền cưới hay sao? Cái bận anh chị lén lút đưa nhau đi nạo thai
dưới huyện, anh tưởng mắt tôi thong manh chắc? Tiền mẹ anh dúi cho anh là tiền
móc từ túi quần tôi, sao tôi không biết? May mà còn đẻ được. Nhiều trường hợp nạo
thai đứa đầu lòng gây vĩnh viễn vô sinh.
Vợ Quý đang há hốc mồm ra nhìn bố chồng tới đó bật khóc vì hổ
thẹn. Hai đứa con gái đến tuổi cập kê lẫn cậu con trai cúi mặt xuống. Tất cả đều
hành động dưới cây gậy chỉ huy của ông bố. Và lúc này, ván bài lật ngược, ông bố
lẫn bà mẹ bị bóc mẽ khiến cho cả lũ con không dám ngửng đầu lên. Ông Quảng hạ
giọng:
- Thôi nhé, đã sinh sự thì sự sinh. Đẻ ra anh nhưng từ khi
anh mười ba tuổi, tôi đã hiểu anh là hạng người nào. Tôi đã cố tìm mọi cách
xoay chuyển nhưng không lại. Chẳng ai chống được mệnh trời. Từ nay anh đừng bao
giờ đặt chân đến cửa nhà tôi nữa. Chúng ta không còn là bố cũng chẳng còn là
con.
- Đấy là tự ông muốn thế.
- Anh nhầm tưởng, người ta không thể muốn hay không muốn.
Nhưng một khi đã xô đẩy nhau đến nông nỗi này, mọi sự ắt phải đổi thay.
-....
- Bây giờ, tôi hỏi điều cuối: Anh có muốn được độc quyền cúng
giỗ mẹ anh hay không?
-....
- Anh không dám mở mồm vì anh tiếc của. Làm người khó lắm anh
Quý ạ. Mở mồm thì dễ còn mở bàn tay khó hơn nhiều. Lòng hiếu đễ nơi bọt mép ai
cũng có cả. Nếu anh không muốn, tôi sẽ tiếp tục làm giỗ cho mẹ anh, như thường
lệ. Bà ấy đã từng là vợ tôi và bây giờ vẫn là vợ đã chết của tôi. Bà ấy không
có lỗi với tôi. Nhưng anh lại khác. Từ ngày này trở đi, tôi không có anh.
Đám người đứng đờ đẫn. Có thể vì sự việc diễn biến quá nhanh
và họ chưa kịp hiểu hồi kết thúc. Có thể vì con người thường có thói quen nhận
biết mọi sự theo những ước định đã tồn tại trong óc não họ. Những ước định cổ
nói rằng tình huyết mạch là sợi dây không bao giờ đứt, rằng:
― Anh em có chém nhau cũng chém nhau đằng sọng, không ai chém
nhau đằng lưỡi! Và với những ước định ấy, họ tin rằng dù họ làm gì chăng nữa,
ông Quảng cũng không thể đẩy họ ra ngoài ngưỡng cửa ngôi nhà này, ngôi nhà mà họ
tin chắc đứa con trai duy nhất của họ mai đây sẽ là chủ nhân. Nhưng ông Quảng
đã ném cây trượng trở lại góc nhà, nhìn họ và hạ giọng:
- Đi đi! Đi khỏi đây!
Ông nói nhỏ, gần như thì thầm, nhưng trong giọng thì thầm ấy,
sự đã thành, nước đã chảy, thuyền đã trôi.
Không có gì quay ngược lại.
° ° °
Vợ chồng con cái nhà Quý kéo nhau ra về.
Khi bầu đoàn ấy riễu qua đường thôn, những cặp mắt láng giềng
nép sau các khuôn cửa, các bờ cây, bụi trúc nhìn theo. Đời sống sơn dân vốn
tĩnh lặng như mặt nước hồ dưới lũng sâu, bị cầm tù giữa bốn bề vách núi. Nếu một
hòn đá ném xuống đó, ắt những vòng sóng lan toả không ngừng. Cũng như vậy, một
sự kiện dù lớn dù nhỏ, nhưng động chạm tới những sợi dây thầm kín nhất trong
tâm hồn con người, ắt trở thành một bãi chiến trường, nơi giao tranh của những
ước định cổ xưa với những biến động của cuộc đời hiện tại. Xóm Tiều Phu mùa
xuân năm ấy giống như một hoả diệm sơn mà chất dung nham phun lên không ngừng
chính là câu chuyện xảy ra trong gia đình ông Quảng. Hoặc nói một cách văn vẻ
hơn, Xóm Tiều Phu mùa xuân năm đó giống như lò lửa rừng rực cháy mà người ném
than vào đó là một cô nàng xinh đẹp đến từ miền đất lạ, với cặp mắt đa tình và
màu áo lụa xanh.
Giờ Mùi đã điểm, người làng đổ ra đường, đi chúc Tết người
thân. Theo cổ lệ, mồng một dành cho những ai cùng huyết thống. Mồng hai mới tới
họ hàng xa, láng giềng, bạn hữu. Mồng ba là ngày các chức sắc trong xã thăm hỏi
nhau, chủ tịch đến nhà bí thư, bí thư đến thăm trưởng công an xã, công an xã đến
chúc tết bí thư chi đoàn thanh niên hay bí thư liên hiệp phụ nữ....cả một hệ thống
rường cột của cộng đồng. Năm nay, mọi sự dường như đảo ngược. Ngay buổi tối mồng
Một, người ta đã ào ào kéo đến gõ cửa nhà cô Vui:
- Năm mới, chúc cô làm ăn thịnh vượng gấp năm gấp mười năm
ngoái.
- Năm mới, chúc cô có thật nhiều cái mới, mới từ đầu xuống
chân...
- Năm mới, chúc cô Vui vui cả năm, lúc nào cũng hớn hở tươi
cười, ngày nào cũng là mồng một tết, tháng nào cũng là tháng giêng, mùa nào
cũng là mùa xuân...
Chưa bao giờ, kể từ ngày cất tiếng khóc chào đời, cô Vui được
hưởng những lời chúc đẹp như hoa như gấm vậy. Cũng chưa bao giờ cô được hưởng một
sự trọng thị đến thế nơi dân làng. Muốn hay không, do thân phận của mình, cô
luôn cảm thấy những con mắt xung quanh lục lọi thân thể cô, phán đoán, tọc mạch...dường
như cái sự không chồng của cô là nguồn cơn cho mọi sự đàm tiếu và là một sự thất
thoát không thể nào cứu chữa, giống như một thứ què cụt về tinh thần. Chưa Tết
năm nào, khách đến gõ cửa nhà cô, cho dù nó rộng thênh thang, cho dù nó sáng
choang và đầy đủ những thứ quà bánh hiếm...Năm nay, có lẽ trời đã để mắt nhìn
cô, hoặc là, do người cha tận tuỵ của cô nơi chín suối ngày đêm phù trợ, số phận
cô dường như bắt đầu thay đổi. Mở rộng hai cánh cửa, Vui tươi cười mời khách:
- Năm mới, chúc các vị có tất cả những gì mong đợi...
Người ta ùa vào nhà, không ai chờ đến lời mời thứ hai. Ai ai
cũng ngầm hiểu rằng màn hai của tấn tuồng ― Ngân Quảng ― sẽ lại được tường thuật
ở đây, nhưng lần này người đóng vai chủ đạo không còn là cô chủ.
Phần cô Vui, sau khi ngủ một giấc đẫy đà hơn chín tiếng, sức
khoẻ tràn trề, tâm hồn phơi phới, cô thắp nhang mới trên bàn thờ cha, thay nước
cho bình hoa đào rồi ngồi xơi hết hai khúc giò với chiếc bánh chưng đại. Khi
dân làng kéo đến nhà, cô ở trong trạng thái tuyệt vời nhất của sự thoả mãn và
vui vẻ, điều kiện tối ưu nuôi dưỡng lòng hiếu khách. Vì thế, không cần ai chèo
kéo, cô lại thắp đèn măng-xông, thứ đèn dân quê chỉ dám dùng vào những ngày cưới
xin hay ma chay, hoặc vào đêm hội làng. Ánh sáng lại tưng bừng rọi sáng khắp
năm gian nhà khiến cho không gian long lanh, nồng ấm. Bà chủ đun nước pha trà,
trưng ra tất cả các loại bánh mứt kẹo mua dưới phố. Trong lúc đó, khách đổ đến
mỗi lúc mỗi đông. Không chỉ có những người đứng tuổi mà cả đám trai gái trong
chi đoàn xã, lũ choai choai đi dự hội thi pháo tép, chọi gà và cờ bàn. Thành ra
hai gian nhà đầy ắp người, giá có họp bình công, chia thóc cũng chỉ đông được đến
thế. Cô Vui có ngay một lũ lính để mà sai mời nước, tiếp bánh kẹo cho mọi người.
Còn cô, cô ngồi chĩnh chện ở bàn chính, với các bậc mày râu, những vị gia trưởng
của những gia đình có máu mặt nhất trong xã:
- Tôi nghe láo nháo chuyện xảy ra rồi. Vậy là vị vểnh râu thắng
cuộc. Tôi xin mở chai Lúa Mới chúc mừng.
Cô Vui lên tiếng để mở đầu đêm tụ họp. Nói xong, cô lấy chai
rượu Lúa Mới trên bàn thờ xuống, cùng với gói lạc rang húng lìu nửa mặn nửa ngọt
mua dưới phố:
- Có ai cần bánh chưng, giò nhắm rượu không, xin cho biết?
- Không.
Chính ông vểnh râu trả lời:
- Hôm nay mồng một, chẳng ai còn dạ dày để chứa giò với bánh
chưng nhà bà chủ. Nhưng lạc rang húng lìu với rượu Lúa Mới thì tuyệt. Không ai
dám chê.
- Dân dưới phố sành điệu thật, cũng củ lạc, họ rang lên ăn cứ
ngọt cuốn cả lưỡi, đưa bao nhiêu rượu cũng vừa. Lạc rang trong bếp nhà mình, ăn
được một dúm đã thấy tắc họng.
- Họ có bí quyết. Đã mấy lần tôi mua thử húng lìu ở chợ huyện,
đem về trộn lẫn đường và nước muối rồi ngâm lạc trong sáu tiếng đồng hồ, xong
phơi khô mới đem rang, nghĩa là tôi làm đúng cách mọi người bầy cho nhưng rút
cuộc cũng chẳng ra hồn, ăn củ lạc khét lẹt.
- Ôi chao, cứ nghe mà làm nổi thì còn ai sống được bằng nghề
đầu bếp hay cửa hàng ăn nữa. Họ phải giữ bí quyết chứ. Người ta bảo rằng ở Hà nội,
có những nhà làm giàu chỉ bằng nghề rang lạc, hoặc bán mía hấp mía nướng ướp
hoa bưởi, hoặc chè đậu xanh nấu với vỏ quýt, gọi theo tiếng Tầu là Lục tào xá.
Một nồi Lục tào xá nuôi bảy tám miệng ăn, lại còn xây ba tầng nhà gác.
- Nơi đất chật người đông người ta phải cạnh tranh ráo riết mới
sống nổi, thế nên họ khôn hơn cánh dân quê chúng mình.
- Nói như ông, chẳng hoá cái việc ông Quảng nói tuột móng heo
mọi sự giữa vợ chồng ông ấy với gia đình nhà Quý trưa hôm nay là khôn lắm hay
sao? Bởi muốn hay không, ông ấy cũng là người ― nhà tỉnh nhất trong đám dân xã
này.
- Tôi biết ngay mà...
Ông vểnh râu cất tiếng cười sằng sặc:
- Chưa kịp ngồi nóng chỗ đã quay câu chuyện sang nhà ông Quảng?
Các vị sốt tiết quá. Không chờ chúng tôi uống cạn tuần rượu đầu được hay sao?
Giọng ông ta đầy vẻ khiêu khích và ngạo mạn. Chị chàng đanh
đá chịu không nổi lên tiếng đáp:
- Mọi người đã nhận là thua ông rồi mà ông vẫn chưa thấy đủ
hay sao? Lòng sĩ diện của ông không chỉ bằng cái bồ mà to bằng quả núi cơ đấy.
- Ồ thôi thôi! Hai người này kị nhau như nước với lửa. May mà
không kết đôi kết lứa.
- Thôi thôi, hạ hoả xuống cô mình ơi.
- Được rồi, tôi im mồm ngay đây.
Chị chàng đanh đá lên giọng rỗi, và ông chồng đang ngồi cùng
bàn với ông vểnh râu từ tốn cười:
- Nhà tôi vốn tính trẻ con đấy thôi, cô ấy là người tốt bụng.
Cả hai gian nhà chợt im ắng trong tích tắc, rồi khi nghe thủng
câu nói người ta nhất loạt cười ran lên như pháo nổ, bọn trai trẻ thì hò hét vỗ
tay đôm đốp:
- Hoan hô, thật là một ông chồng tuyệt vời!
- Hoan hô, chúng tôi xin bầu ông là ông chồng điển hình, được
thưởng phiếu ―chồng ngoan nhất xã. Này lũ con gái, chúng mày mở to mắt ra mà
nhìn nhé. Cứ lấy ông ấy làm kiểu mẫu để kiếm lấy một tấm chồng.
Tiếng cười, tiếng trêu chọc vang lên bốn phía. Xưa nay, ít ai
dám ngang nhiên khen vợ, nhất là khen vợ trước một đám đám đông. Quả tình, đó
là một sự hiếm hoi đến lạ lùng. Nhưng mặc kệ sự ồn ào vừa ngợi khen vừa chế nhạo,
ông chồng vẫn ngồi thản nhiên nhắp rượu. Khi đã tự nhận là râu cụp, hẳn mọi lời
chê cười với ông chỉ như nước đổ đầu vịt. Hoặc có một sự nghĩ ngợi nào đó khiến
ông lãng tâm? Người ta đồ như vậy nên những tràng cười lắng đi khá nhanh và họ
nhất loạt quay về phía người đàn ông vốn bình thường được coi là kẻ ít mồm mép
nhất làng, xưa nay chưa từng tham gia vào các vụ tranh cãi xảy ra nơi công
chúng:
- Hôm nay cóc mở miệng, thế nào trời cũng có bão to đây! Nào,
ông anh có điều gì muốn dạy bảo làng xóm, đầu xuân xin lên tiếng.
Người đàn ông đặt chén rượu xuống bàn, nhưng mắt vẫn không rời
những gợn sóng li ti phản chiếu ánh đèn của thứ rượu mạnh:
- Nói bà con bỏ quá, sự việc nhà ông Quảng không phải là chuyện
nhà tỉnh hay nhà quê. Ấy là sự giữa cha với con, cái sự có thể xảy ra với bất cứ
gia đình nào dù ở nơi thâm sơn cùng cốc hay nơi đô hội. Cái sự ấy khiến ta phải
ngẫm ngay đến thân phận mình.
TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (8)
Mọi người im lặng. Người ta đờ đẫn hồi lâu bởi không ai nghĩ
ra chuyện ấy. Giờ có người day mặt đặt tên họ mới ngã ngửa người ra vì một sự
thật sờ sờ trước mắt mà chẳng ai nhận thấy, giống như kẻ đi đường mất phương hướng
cứ đâm sầm vào hòn đá tảng hay bước thẳng xuống vực sâu. Có cái sự mù loà ấy bởi
người ta vốn coi những gì diễn ra trong gia đình ông Quảng như một tích chèo, một
màn tuồng, một vở cải lương mà họ thi thoảng được xem với tất thảy sự háo hức
tò mò và đinh ninh rằng ấy là chuyện của người khác. Rằng chuyện ấy chỉ dính
líu đến những người môi son, má phấn, áo đính kim sa, đội mũ cánh chuồn, đi những
đôi hia cổ, suốt đời hò hát múa may trên sân khấu.
Vậy mà giờ đây lại có người vạch ra rằng những tấn tuồng ấy
có thể diễn ra trong chính ngôi nhà của họ. Lời cảnh báo ấy nào khác chi sét
đánh ngang tai. Đám đông lặng đi như bị cấm khẩu. Người ta phải chờ cho qua
giây phút choáng váng. Rồi sau một hồi tự trấn tĩnh, đầu óc mới bắt đầu sáng
láng trở lại. Khi ấy, họ dò dẫm tìm xem trong câu chuyện kia có nguy cơ nào
phương hại tới cuộc sống của chính mình.
- Cũng có thể là ông có lý Nhưng ông có phải ông Quảng đâu,
tôi cũng vậy.
- Ông chẳng phải ông Quảng vì bà nhà còn chưa bạc tóc. Tôi
cũng vậy, vì nhất định tôi sẽ ra đi trước vợ tôi.
- Ai cho ông ra đi trước tôi?
Chị vợ lên tiếng ngay tức khắc:
- Ông phải chờ làm đám ma cho tôi rồi mới được lên đường.
- Ôi dào, rõ cái thói được chồng yêu chiều, quen xỏ chân lỗ
mũi. Chúng ta không ai định được, vì sinh có hạn, tử bất kì.
- Đúng đấy!...
- Có thể là trong gia đình chúng ta, không có cảnh một đứa
con trai phải lòng mẹ kế, cũng không có cảnh một đứa khác dẫn vợ con về gây nhiễu
loạn trước bàn thờ gia tiên vào chính ngày mồng một tết. Nhưng có ai đảm bảo rằng
tất cả những đứa con chúng ta sinh ra đều một lòng hiếu thảo và cư xử tử tế đối
với cha mẹ chúng? Tôi chẳng nói thì các vị cũng đã nhìn thấy từ lâu.
- Đúng thật! Chẳng thiếu gì chuyện. Nhưng xưa nay, người ta
quen che giấu đậy điệm, nhẫn nhịn mà nuốt nước mắt trong xó bếp. Các cụ dạy từ
xưa rồi: ― Nhà nào cũng có lọ mắm thối, phải biết lấy nùi mà đậy cho chặt, kẻo
láng giềng ngửi thấy mùi hôi „.
- Nhưng cái sự ―đậy cho chặt „ ấy nhiều khi còn thối hơn cả
quậy hố cứt lên mà ngửi. Mọi người có nhớ chuyện bà cụ Cửu chết đói hay không?
- Nhớ!...Chuyện ấy làm sao mà quên được?...
- Vậy ở đây có bà nào muốn chết đói như bà cụ Cửu hay không?
- Ồ, trăm lần không. Chúng tôi tuy đàn bà óc bằng quả bưởi,
nhìn không quá hai gang tay nhưng chúng tôi cũng là người chứ có phải loài gà vịt
đâu mà ngu như vậy?
- Bà cụ Cửu cũng chẳng phải người ngu. Chồng chết từ năm hai
mươi chín tuổi, nhà tranh vách nát. Một mình bà ấy lên nương xuống ruộng, một
mình đốt than, đi củi nuôi ong mà xây dựng cơ đồ. Người đảm đang như thế sao có
thể là người ngu? Chẳng qua bà cụ quá thương con, quá tin con, mà đứa con lại
không thương nổi mẹ ; mọi sự đều nghe vợ, do vợ điều khiển, cho nên để mẹ phải
chết đói.
- Sao bà cụ không làm toáng lên cho mọi người biết chuyện từ
đầu?
- Cơ sự là ở đấy! Vì quá yêu con, vì đã trót nói với mọi người
rằng con tôi tốt nhất cõi đời, con tôi thông minh, hiếu thảo...; nay sự tình tồi
tàn đồi bại xấu hổ không dám mở miệng, đành nghiến răng cắn lưỡi mà chết thôi.
Chẳng lẽ các vị không nhận ra rằng bà cụ đã làm đúng cái câu: ― Đậy chặt hũ mắm
thối lại hay sao? „
- Ờ ờ...thế mà bây giờ tôi mới nghĩ ra.
- Còn tôi thì tôi chẳng dại.
Chị vợ ông râu quặp cao giọng:
- Nghĩ hay chẳng nghĩ thì cũng nên biết rằng nước mắt chảy
xuôi chứ không chảy ngược. Mẹ cho con tiền thì con cười tươi như hoa nở. Con
cho mẹ tiền thì mặt ủ mày chau, ruột đau như cứa. Thế nên tôi vẫn bảo ông nhà
tôi rằng làm người phải biết lo cho con cái nhưng trước hết phải lo cho bản
thân mình. Tôi không dám há miệng chờ sung, buông cả hai tay chờ lòng con hiếu
thảo. Tiền của tôi tôi buộc thật chặt vào hầu bao. Khi nào vợ chồng tôi đau ốm,
thong thả mở hầu bao ra mà rút.
- Nhà ông này tốt số thật, có con vợ biết lo xa.
- Con nuôi cha chẳng bằng bà nuôi ông. Đã là vợ là chồng thì
xuống biển mò cua, lên non hái lá cũng phải keo sơn gắn bó.
- Đúng đấy, chẳng ai muốn nghi ngờ, nhưng con trai lại có con
dâu, con gái lại còn con rể. Những kẻ ngoại lai đột nhập vào nhà, tốt khó kiếm
mà xấu xa thì dễ thấy.
- Bây giờ tôi xin trở lại chuyện nhà ông Quảng: Các vị cho rằng
việc ông Quảng nói toạc móng heo mọi bí mật vợ chồng ra là dại hay khôn?
- Dại, trăm phần trăm là dại dột. Việc gì không khảo mà xưng.
Vả lại, bà ấy cũng chết rồi. Ai lại nỡ nói ra cái bí mật của người đã khuất?
- Chẳng dại chẳng khôn, ấy là sự buộc phải làm. Bởi chính đứa
con trai gây sự trước.
- Phải, khi rơi vào thế cùng ắt xảy ra những việc cưỡng tâm.
Ông ấy cũng chẳng sung sướng gì khi buộc phải nói ra mọi sự.
- Tôi không thân với nhà ấy, nhưng tôi là thông gia với em
trai út của ông Quảng. Ông này bảo tôi rằng từ khi Quý còn nhỏ, ông Quảng đã
nói vụng với mấy ông em rằng sau này ông ấy sẽ không nhờ cậy được đứa con đầu.
Nhưng ông ấy sẽ làm đầy đủ nghĩa vụ người cha để tương lai đứa con được tốt đẹp.
Mọi người đều thấy rằng ông Quảng đã làm đúng những điều đã nói. Chính Quý bỏ
trường trung cấp lâm nghiệp về làng làm ruộng chứ ông ấy đã tìm mọi cách cho nó
được học lên.
- Không chỉ trường trung cấp lâm nghiệp đâu. Trước đấy, ông
ta đã lo cho nó vào trường cơ khí luyện kim nhưng thằng Quý học không nổi. Óc
đã đặc có đánh gậy sắt mà lèn chữ vào đầu cũng chẳng xong.
- Thế nhưng nó hách ra phết. Lại lắm mưu thâm nữa.
- Mưu thâm là một nhẽ, học thông minh lại là một nhẽ ; như
cây cà gai với cây rau cải, làm sao lẫn được với nhau?
- Ờ, ông bố sáng ngời ngời mà sao cậu con trai xấu mã làm vậy?
Anh ta giống hệt mẹ nhưng lại không được tươi đẹp như bà ta. Thật lạ lùng, cùng
một đường nét nhưng cậu Quỳnh đẹp trai lồng lộng còn ông anh cả thì thậm xấu.
Người đã loắt choắt, mắt lại sâu hoăm hoắm. Nhìn vào mắt anh ta cứ như nhìn xuống
vực thẳm, chẳng biết đâu mà dò.
- Người ta bảo mắt như thế là lòng dạ nham hiểm lắm. Nhưng có
nham hiểm thì cũng nên đấm đá thiên hạ chứ sao lại quay vào đánh bố đẻ ra mình?
- Ờ, tôi cũng tự hỏi như thế. Bởi người mù trong xã này cũng
biết được là từ khi đẻ Quý, ông Quảng chính là người lo toan cho anh ta hết thảy,
từ việc học hành cho đến việc dựng vợ gả chồng, xây nhà, sắm sanh áo quần vật dụng.
Mà không chỉ lo cho con, ông ấy còn lo cho cả lũ cháu gái lẫn trai.
- Ông ấy hái ra tiền.
- Hái ra tiền mà tính ki bo, bỏn xẻn thì cũng đừng hòng rút
được tiền ra khỏi túi.
- Giúp được người dưng thì còn tiếc gì con? Nhưng tôi cho rằng
anh Quý ỷ thế con trai trưởng, mà theo tục truyền, con trai trưởng là người được
quyền thừa tự vì phải lo ma chay cho bố mẹ. Một khi bố mẹ khuất núi phải lo cưới
xin, dựng vợ gả chồng cho các em.―"Quyền huynh thế phụ", câu ấy vốn
có tự bao nhiêu đời.
- Thế phụ chỉ là khi phụ chết...Nhưng ông Quảng đang còn sống
nhăn nhăn, lừng lững như cây cột, đứng với con trai trông còn bảnh mã hơn mười
lần... Vậy tính chuyện ―thế phụ„ còn quá sớm.
- Đúng, vấn đề chính là ở đấy!
Ông râu quặp thong thả buông từng lời, như ông giáo làng đọc
đoạn kết một bài văn:
- Anh con trai tính chuyện bố sẽ chết, sẽ phải nhờ cậy đến
mình, nào ai đội mũ mấn khăn xô, nào ai chống gậy lăn đường, nào ai rước kèn rước
trống, nào ai lo cỗ khao vong. Sau tang ma đến giỗ bốn mươi chín ngày, sau bốn
mươi chín lại đến ngày thứ năm mươi ba rước vong lên chùa tụng kinh. Rồi đến giỗ
thứ nhất, giỗ nhị, giỗ tam. Lại đến lễ rửa xương cốt, đưa vào tiểu sành. Sau đấy
mới xây mồ vĩnh cửu. Tất cả những thủ tục cho một người chết quá nhiêu khê. Ai
cũng lo khi chết đi con cái không nhìn ngó tới nên dù ngậm đắng nuốt cay cũng
phải chiều lòng chúng. Và do nỗi sợ hãi bị bỏ bê làm ma đói, người ta đành muối
mặt làm ngơ trước nhiều sự đồi bại, tàn tệ trong nhà. Sự cư xử giữa cha mẹ với
con cái thường chỉ để phô bầy cho hàng xóm láng giềng nhìn thấy. Còn thực tế ra
sao hiếm có người dám bộc bạch một cách chân tình.Vì thế mới có câu ca:
― Sống thì con chẳng cho ăn,
Đến khi mẹ chết làm văn tế ruồi. ―
Câu ca ấy có từ bao đời không ai biết. Như vậy, cũng đã từ
bao nhiêu đời, nhiều bậc cha mẹ phải nghiến răng chịu đựng những cung cách cư xử
bội bạc, bất nhân để hòng chết đi được chôn cất cho hẳn hoi. Con cái, trừ những
đứa hiếu thảo, cũng thường lợi dụng tâm lý này để sách nhiễu và áp bức bố mẹ.
Nhìn vào cảnh nhà ông Quảng hôm nay đủ thấy rõ. Nhưng vấn đề chính của gia đình
nhà này là đứa con trai nghĩ tới cái chết hơi sớm. Người già đứng trước cái chết
thường run sợ, thường mất hết lòng tự tin cũng như quyền uy với con cái. Hơn nữa,
Quý lại đang giữ ghế chủ tịch xã, vừa có vai vế với làng xóm, vừa có quyền
huynh trưởng trong gia tộc. Nhưng ông Quảng chưa thuộc loại già dù ông ta đã
sáu mươi mốt tuổi. Ông ấy đang còn lực lưỡng ; mắt sáng như sao, óc tính nhanh
hơn điện, tay hái ra tiền. Ông ấy chưa nghĩ đến cái chết, ông ấy đang còn thích
sống, đang tính chuyện chăn gối với người vợ mới. Thế nên anh con trai không ép
được ông ta. Ông ta đuổi thẳng cổ cả bầu đoàn thê tử của Quý ra đường. Vậy là đứa
con đi nhầm một nước cờ. Nước cờ nhầm không cứu vãn được. Tôi nghĩ như vậy, các
vị cho là đúng hay sai?
- Trăm phần trăm chính xác.
- Đúng, tôi tán thành. Người ta bảo khi cóc mở miệng, không
phải chuyện tầm phào, cũng chẳng phải trò giải trí.
- Đời người vốn dĩ như vậy. Khi nhìn nghiêng, tưởng là chuyện
vui đùa chơi dỡn ; đến lúc nhìn thẳng lại hoá việc tang thương, chanh xát dạ muối
xát tim.
- Thế mới biết, sống khó thật.
- Ngoảnh đi ngoảnh lại, tuổi già đã xồng xộc kéo tới. Không
phải sau lưng mà lù lù ngay trước mặt mình.
Mọi người im lặng. Cả hai gian nhà đột nhiên im phăng phắc
như chùa ngày dưng. Bởi lần đầu tiên, người ta mới dám nhìn thẳng vào nỗi sợ
hãi của mình. Nỗi sợ hãi ấy vẫn chung sống với họ đời đời kiếp kiếp, như bóng với
hình, nhưng không ai dám gọi tên, không ai dám duy danh định nghĩa. Người ta lảng
tránh nó, người ta đậy đệm nó dưới đủ mọi duyên cớ, nào danh dự gia đình, nào
tình huyết mạch thiêng liêng, nào bổn phận người làm cha làm mẹ, nhưng thực chất,
nó ẩn nấp trong những xó xỉnh tối tăm nhất của tâm hồn. Còn những đứa con hỗn
hào, trơ trẽn không ngần ngại mà lôi thẳng cổ nó ra, bêu riếu giữa thanh thiên
bạch nhật. Chẳng ai bảo ai, nhưng người ta vẫn nhớ từng lời từng chữ vừa chua
ngoa vừa cay nghiệt của cô con dâu bà cụ Cửu:
―Bà tưởng có mẹ già nhẹ nợ lắm hay sao? Chúng tôi được hưởng
nhà cửa ruộng vườn của bà thật, nhưng bà ốm, người ta phải mua thuốc cho bà, bà
chết, phải làm ma, cỗ lên cỗ xuống, rồi còn phải rửa xương cốt, thay hòm gỗ
sang tiểu sành, mọi thứ đều đòi tiền cả đấy, chẳng phải cứ vỗ tay xuông mà xong
đâu.
Đã đành là chẳng phải nhà nào cũng có cô con dâu độc ác, tham
tàn như con dâu bà cụ Cửu nhưng cuộc sống vốn nghiệt ngã, muốn hay không cũng
phải nhìn rõ sự thật ấy. Nhưng trái tim con người thường từ chối chấp nhận sự
nghiệt ngã. Chẳng ai muốn tin vào cái sự đã xảy ra từ đời nọ đến đời kia, từ
châu thổ đến núi cao, từ sơn thôn sang vùng chài lưới. Dẫu sao chăng nữa, trái
tim con người cũng cần một chút nước cam lồ. Những đứa con là từ lòng ruột
chúng ta mà ra, lớn lên bằng máu và sữa của cha mẹ, nào ai muốn tin có ngày
chúng đưa chiếc bát mẻ cho mình ăn cơm?
Sau hồi yên lặng, một ông cất tiếng:
- Con cái cũng là của trời cho, cha mẹ sinh con trời sinh
tính. Xưa nay ai cũng cậy con trai. Vậy mà nội trong huyện này, tôi không dám
nói xa hơn, đã có ông bố nào nằm xuống được làm ma khang trang hơn là cụ Đô
Vàng?
- Cô Vui là trường hợp đặc biệt, kể làm gì?
- Một cha một con, mà chết được xênh sang áo gấm. Có người đẻ
tới bẩy đứa con, suốt đời làm quần quật như trâu, khánh kiệt gia tài để nuôi lũ
con khôn lớn. Vậy mà lúc nằm xuống còn phải nghe chúng nó cãi nhau xem mỗi đứa
góp bao nhiêu đồng để lo thuê xe tang. Ở đời này, người ta hơn thua nhau là ở
phúc đức. Không ai tính được từ sáng đến tối. Chẳng ai định liệu nổi phút xuống
cửa mồ. Thôi, rót rượu đi các ông ơi. Ngày xuân con én đưa thoi. Chúng ta cùng
cạn chén để mừng năm mới, nào cô chủ, cạn chén với chúng tôi.
Cô Vui lẳng lặng cạn chén với các ông. Không ai nói gì nữa.
Dân làng hăm hở đến nhà cô để đàm tiếu chuyện bố con ông Quảng nhưng sau rốt,
câu chuyện ấy lại động chạm tới những uẩn khúc trong cuộc đời riêng tư của từng
người. Và những uẩn khúc của lòng người thường gợi đến mùa đông của cuộc đời
hơn là mùa xuân. Cô bí thư chi đoàn đọc thấy điều ấy. Sau chầu rượu cô yêu cầu
bọn thanh niên hò hát để khoả lấp đi không khí trầm tư. Tuy nhiên, khách khứa vẫn
kéo nhau tốp năm tốp ba ra về. Cô chắc họ sẽ tiếp tục câu chuyện dưới mái nhà của
họ, giữa những cặp vợ chồng trung niên cũng như những ông bà tóc đã ngả muối
tiêu bởi câu chuyện này chính là rường cột của kiếp người, nơi hạnh phúc lẫn khổ
đau bó kết lại như hai sợ chỉ xe xoắn thành sợi dây định mệnh. Có lẽ cuộc xô
xát giữa cha con ông Quảng là hồi còi báo động, khiến cho mọi gia đình phải lường
đến những phong ba rình rập trước mỗi mái nhà, giống như tiếng kêu thét của
loài chim biển khiến cho những con tầu phải dè trước những vịnh đá ngầm hoặc những
cơn bão bất thần trong đại dương tối đen phía trước.
Lũ trai trẻ cũng ra về ngay sau đó. Cô Vui ngồi trước bàn thờ
ngắm bức ảnh ông Đô, thì thầm:
― Cha ơi sống khôn chết thiêng xin trở về chỉ đường dẫn lối
cho con „.
Ông Đô nhìn thẳng vào mặt con gái với cái nhìn răn đe xưa nay
cô chưa từng thấy:
― Mình đã đi sai nước cờ. Hoàn toàn sai. Giờ phải tính cách gỡ
„
Cô thầm nghĩ, nhẩm tính lại những hành động của mình. Cô đã lặn
lội về tận làng Khoai để điều tra gia cảnh nhà cô Ngân và tình sử của cặp vợ chồng
chênh lệch này. Cô là người duy nhất biết đầu cuối mọi sự và cũng đương nhiên
là người tường thuật lại cho Quý cũng như dân xã. Rồi người ta sẽ hỏi, vì động
cơ nào mà cô hăm hở đến như vậy? Không thể vì ngoan ngoãn nghe lệnh của ông chủ
tịch, bởi xưa nay cô vốn chẳng là người ngoan ngoãn với bất cứ ai. Cô chỉ làm mọi
việc theo chủ ý của riêng cô. Như vậy thì cái lập luận:
― "Bí thư thanh niên hành động theo chỉ thị của chủ tịch
xã"
ắt chẳng lọt tai mọi người. Rồi giống như những người thợ đào
giếng khoan sâu xuống những vỉa đất bên dưới để tìm mạch nước, dân làng sẽ moi
đến tận cùng lý lẽ để tìm ra cái duyên cớ đã khiến cô bỏ công bỏ của thuê xe về
tận làng Khoai. Rồi họ sẽ tìm thấy, chẳng khó khăn gì. Và lúc ấy, mũi dùi sẽ
quay lại phía cô:
― Mới từ tối hôm qua đến tối hôm nay, tình thế lật nhào. Nào
ai tính trước, một khi nước cờ thay đổi?„
Cô buông tiếng thở dài. Đêm qua, giao thừa, cả làng nghe cô kể
chuyện, vui cười hỉ hả nâng chén rượu lên đặt chén rượu xuống, và tâng bốc cô
lên tận mây xanh. Bởi cô thoả mãn cơn tò mò của họ. Bởi họ coi câu chuyện nhà
ông Quảng như tấn tuồng mua vui cho ngày xuân. Tối nay, màn hai vở tuồng diễn
ra mau lẹ, nhưng nó không còn là chuyện riêng của nhà ông Quảng mà nó gợi đến
cái sự ―tình cha con „, là sợi dây leo quấn chằng chịt vào những thân gỗ lớn,
chính xác theo cái nghĩa mà các tiền nhân thường răn dạy:
― Rút dây động rừng „
Cô lại bất giác thở dài lần nữa với ý nghĩ rằng mình có khôn
mà chẳng có ngoan, rút dây mà không tính tới việc động rừng. Giờ, mọi sự đã
qua, không cách chi vớt vát lại. Sau một lát bần thần, cô chợt nhớ tới câu cha
cô vẫn dạy:
―Giơ tay mà hứng nước trời, hứng sao cho đủ những lời thế
gian „.
Câu phương ngôn sáng suốt ấy khiến cô lấy lại được bình tĩnh.
Cô tự an ủi mình:― Kệ sự đời. Hơi đâu mà lo hứng nước trời mưa? „
Dẫu vậy, Vui vẫn luôn luôn là con gái của cha cô, ông Đô
Vàng, người có óc thực tế. Cô biết rằng cô có thể mặc kệ những lời đàm tiếu của
dân làng vì vốn dĩ xưa nay, lời đàm tiếu vẫn quẩn quanh như khói bếp trên mái
nhà bất cứ kẻ nào có máu mặt hoặc có những dị biệt với làng xóm. Nhưng cái sự
cô không thể bỏ qua, chính là ông Quảng. Từ lâu cô biết đó là một người hảo hớn,
rất tốt bụng và hào phóng với láng giềng nhưng cũng không ngán rút gươm ra trước
kẻ nào có ác tâm. Cho dầu đã thả trí tưởng tượng bay bổng xung quanh người đàn
ông râu rậm ấy, cô vẫn không hình dung được rằng ông ta có thể thản nhiên nói
toáng lên cho con cái lẫn bốn bên láng giềng nghe cái chuyện: ―Trước khi cưới mẹ
mày cả năm tao đã dẫn bà ấy lên núi Trúc vàng...„ Đã dám ăn nói bỗ bã thế, ngán
gì mà ông ấy không chửi thẳng vào mặt cô một cách sỗ sàng cay độc khi biết chuyện
cô lần mò về tận làng Khoai?.... Chỉ tưởng tượng đến nông nỗi ấy, toàn thân cô
đã nóng bừng, mặt chín nhừ như phải bỏng. Mồ hôi toát ra dưới đám tóc đỉnh đầu
lẫn hai bên thái dương, cô nhìn ông Đô và bật thành lời:
- Cha ơi, cha khôn thiêng xin chỉ đường mách lối cho con.
Ông Đô không nói năng gì, vẫn chiếu vào mặt cô cái nhìn
nghiêm nghị. Cô Vui chợt nhớ ra rằng trong đám đông lúc nãy có ai đó cất tiếng
bình phẩm:
- Ông bố sáng ngời ngời mà sao cậu con xấu mã làm vậy?
Đúng thật, từ xưa cô chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy. Rõ ràng
là Quý đứng cạnh ông Quảng giống như hai loài cây khác giống mọc kề nhau. Ông bố
rõ ra dáng trượng phu. Anh con hoàn toàn ngược lại. Không những còi cọc, mặt tối
như hũ nút, cái nhìn lại lén lút nham hiểm. Vui chưa từng thấy Quý nhìn thẳng
vào mặt ai. Đôi mắt anh ta chìm sâu dưới hố mắt, lúc nào cũng như có bóng mây
vương bên trên, và cái nhìn, nếu không xiên sang một bên thì thường là hạ thấp
xuống, dường như lúc nào anh ta cũng lục tìm một thứ gì đó dưới mặt đất.
― Vậy mà anh ta đã làm chủ tịch xã mấy khoá liền. Và lần nào
cũng đích thân bí thư lẫn chủ tịch huyện về làm việc với chi bộ xã.„
Một ý nghĩ bỗng vụt qua óc cô. Và cô bật tiếng kêu:
- Thôi chết rồi! Thế mà không ai biết!
°°°
Sáng mồng hai tết, cô Vui cưỡi xe đạp lên thẳng phố huyện. Ở
đó, cô quanh quẩn hồi lâu mới tìm được một cửa hàng bán chè chén và bánh kẹo,
chắc vì quá túng bấn, đã phải ra vỉa hè để kiếm mấy đồng bạc lẻ của đám người
chơi xuân. Bình thường, một chén nước chè giá năm chục, hôm nay, bà chủ tính đắt
gấp năm lần, tức hai trăm rưỡi, và không có quyền mặc cả vì đang còn là ―ba
ngày tết―. Phố xá vắng ngơ vắng ngắt, chỉ có lũ trẻ chơi đập pháo hai bên vỉa
hè. Để lấy lòng chủ quán, cô Vui uống liền ba chén nước chè, lại ăn thêm hai quả
chuối tiêu chín nẫu, thứ chuối nhà chủ đã để từ tuần trước giao thừa. Rồi cô
đưa cho bà chủ ba ngàn, miệng nói:
- Vừa trả tiền bà, vừa mừng tuổi năm sớm...
- Cảm ơn cô...
Bà chủ ngoác mồm cười đến tận mang tai trước cô khách nông
thôn mà xộp hơn mười lần dân phố huyện:
- Cô xởi lởi thế này, trời cho cô tha hồ lộc ăn lộc để..
- Cảm ơn bà...
Cô đáp lại với vẻ ôn hoà. Sau đó, cô gợi ý nhờ bà đưa đường đến
nhà chủ tịch lẫn bí thư huyện:
- Xã chúng tôi xa xôi lắm, nhiều vấn đề khẩn cấp chưa giải
quyết được trong năm nên phải lên huyện ngay đầu xuân để lo liệu...
- Việc khẩn mấy cũng phải chờ mồng sáu cô ạ. Tôi bán hàng ở
đây hơn chục năm rồi, khách uống nước chè nhà tôi đa phần đến từ các xã vùng xa
như cô, để lo liệu việc công cũng như tư. Chẳng ai dám bước vào dinh chủ tịch
trước ngày mồng sáu.
- Tôi không có ý định làm phiền các cấp lãnh đạo ở nơi công sở,
nhưng xã chúng tôi có chút thổ sản, muốn tặng các cán bộ cấp huyện để tỏ lòng
biết ơn trước sự quan tâm của đảng và chính quyền.
- A...a...Tôi hiểu rồi.
Bà chủ quán cười to hơn nữa, rồi đưa mắt quan sát cô khách, lẫn
chiếc xe đạp cô dựng bên vỉa hè. Cô Vui nhanh trí đáp:
- Tôi chỉ có nhiệm vụ đi xác minh địa điểm thôi. Mai hay mốt
đích thân chủ tịch xã sẽ mang tặng phẩm lên.
- À ra thế....
Không chờ bà chủ quán lục vấn thêm, cô rút ra tờ giấy bạc năm
ngàn đồng, đặt vào chiếc đĩa đựng thuốc lá:
- Gửi tiền bà, để đền bù lại thời gian bà tốn phí vì tôi.
- Cảm ơn cô.Tôi sẽ đưa cô đi ngay.
Bà chủ trả lời tắp lự, đoạn quay vào ngõ, gào:
- Con Huệ đâu, ra coi hàng cho mẹ. Mau lên!
Chưa có tiếng trả lời, bà lại gào lên tiếp:
- Huệ! Ra coi hàng, Huệ!
Bà gọi dồn dập, tức tốc vì rõ ràng, có ngồi bán chè chén từ
giờ tới nửa đêm bà cũng không thể kiếm được một món tiền lớn như vậy. Gần như tức
khắc, một đứa bé gái chừng bảy tám tuổi từ trong ngõ nhếch nhác chạy ra, chân
loẹt quẹt đôi dép cũ:
- Con đây. Mẹ đi đâu?
- Đi có việc, không phải hỏi.
Đứa bé ngồi vào ghế phía sau chõng hàng, đưa mắt tò mò nhìn
cô khách to lớn như hộ pháp đang dắt chiếc xe đạp xuống đừờng và mẹ nó leo lên
ngồi phía sau, ôm chặt lưng cô ta hệt một con nhái bén ôm lấy quả dưa hấu.
Như thế, cô Vui đã đến tận nhà bí thư lẫn chủ tịch huyện. Sau
cuộc đi, mồ hôi cô đổ ướt hết sống lưng. Giờ, hai năm rõ mười điều cô nghi ngờ
là chính xác. Quý ngồi lên được ghế chủ tịch xã chính là nhờ bàn tay lèo lái của
ông bố chứ chẳng phải vì phép thánh ; càng không phải năng lực của chính anh
ta. Cô bí thư chi đoàn giương mắt trân trân nhìn hai ngôi nhà của hai vị lãnh đạo
cấp huyện, nhà nào cũng hai tầng, bốn gian tầng dưới ba gian tầng trên, chừa một
khoảng sân trời cỡ ba chục mét vuông vây quanh bởi hàng lan can bằng thép hàn để
chủ nhân có thể ngồi uống trà ngắm trăng những đêm cao hứng. Nhà nào cũng có cầu
thang bên trong lẫn cầu thang lộ thiên dẫn lên sân thượng. Nhà nào cũng có hàng
hiên rộng bên dưới với đường diềm chân tường đắp sỏi trắng. Nhà nào cũng có
hình đôi phượng chầu bằng xi-măng đổ cốt thép gắn trên mái ngói. Kiểu trang trí
kiến trúc thời thượng. Kiểu nhà ông giáo làng Khoai.
Khi cô về làng trời đã ngả chiều. Tiếng trống đánh rộn ràng từ
bãi vật vọng đến. Sợ người làng bắt gặp mình trong tâm trạng rối ren này cô đi
vòng phía sau dãy núi Trúc. Đường vòng khá xa vì có đến hơn một chục trái núi
nhỏ mọc thuần các loại trúc kết thành chuỗi như chuỗi hạt trai. Lối mòn ghập ghềnh
khiến chiếc xe của cô nhảy chồm chồm như ngựa vía. Nhưng quả tim cô còn nhảy chồm
chồm hơn cả con ngựa sắt khi cô đạp xe ngang qua chân núi Trúc Vàng, trái núi
cao nhất trong dãy, mọc dày đặc thứ trúc vàng óng. Màu vàng ấy là màu vàng của
dây tơ hồng trên các dậu cúc tần vườn quê. Màu vàng ấy đổ trong nắng chiều như
muôn ngàn sợi vàng dát hoặc như thứ tơ tằm thượng hạng. Màu vàng ấy óng ánh thứ
óng ánh của lầu vua phủ chúa. Cô đưa mắt nhìn rừng trúc đượm vàng ngày xuân,
nghĩ tới một người đàn bà đã từng được trăm lần ân ái với người yêu trong đó,
giờ đã nằm yên dưới mộ. Liệu bà ta có quay về đây để tìm lại mùa xuân cũ hay
chăng? Rồi cô lại nghĩ tới phận mình, vì sao chẳng một ai đưa cô tới khu rừng
đó?. Giấc mơ thầm lén của cô đã tan thành mây khói, và không biết từ đây cho tới
lúc xuống mồ, có người đàn ông nào chìa bàn tay cho cô mà nói:
« Anh yêu em... » Hoặc là:
― Vui ơi, từ nay chúng ta sẽ sống cùng nhau!„
Cô đặt chân vào ngõ lúc trời xẩm tối. Chắc chắn không ai nhìn
thấy vì cô phóng xe vào tận giữa sân. Cô gài thật chặt then cổng. Sau đấy, cô mở
khoá cửa, lao vào nhà. Không kịp thay bộ quần áo phủ dày bụi đường, cô vật mình
xuống đống chăn bông mà khóc. Cô khóc hối hả, nức nở, giàn giụa. Cô khóc thành
nhịp, hộc lên từng hồi như loài lợn rừng bị trúng thương. Cô khóc no nê, ngập
ngụa, không kìm nén. Cô khóc điên cuồng. Cô khóc sầu thảm hơn cả ngày ông Đô chết.
Cô khóc, với tất cả nỗi bi thương đam mê không hay biết, giống như đứa bé đói
ăn ngấu nghiến miếng bánh mà người ta đưa cho. Có thể là, với ngần ấy nước mắt
được trút ra, tâm hồn cô sẽ vơi nhẹ.
Sáng hôm sau, mồng ba tết, cô ăn vận chĩnh chện, đàng hoàng,
vác một cành mai lớn đến nhà ông Quảng. Cô tính không sai, bởi vườn nhà ông Quảng
chỉ có đào thắm chứ không có đào phai hay mai trắng. Mai trắng là giống cây khó
gây lại phải dày công chăm sóc. Ông Quảng đi vắng quanh năm, không thể trồng nổi
thứ mai này. Trong làng, ối người trồng mai nhưng đa phần là giống mai vàng,
còi cây, hoa nhỏ. Chỉ riêng vườn nhà cô là có mai trắng, thứ mai lớn, cành toả
đều, hoa dày chi chít. Ấy là thứ mai Hoàng đế, ông Đô đã về tận làng trồng hoa
Nhật Tân xin giống. Hồi còn sống, ông giữ cây mai như giữ vàng. Ông chết rồi,
cô Vui vẫn tiếp tục chăm sóc nó như cũ, dù cô chẳng phải là người say hoa hoặc
biết thú thưởng hoa. Nhưng ông Đô là vị thần duy nhất đối với cô, những gì cha
cô đã muốn đã làm, cô phải tiếp tục bằng mọi giá...Cô chẳng ngờ vào lúc nguy
nan này, cây mai trắng đã trở thành phao cứu hộ cho mình:
―Nhà lão ấy chẳng thiếu thứ gì, ngoài một cành mai trắng. „
Suốt đêm cô trù đi tính lại. Trời vừa sáng, cô vác cưa ra vườn,
thiến cành mai lớn nhất, sai cả nụ lẫn hoa đem làm vật tế.
Khi cô đến ngõ nhà ông Quảng, khách khứa chưa có ai. Cô Ngân
và bà Tư móm đang ngồi vặt lông gà giữa trước cửa bếp. Thấy cô, cả hai người
cùng đứng lên chào. Cô Ngân mỉm miệng cười:
- Chào chị, năm mới xin mừng tuổi chị.
Bà Tư ròn rã hơn:
- Năm mới, rồng đến nhà tôm, năm nay thế nào cũng có sự tốt
lành...
Cô Vui cố gắng nhìn vào đôi mắt đen như ngọc huyền của bà chủ
mười tám tuổi. Cô cũng tươi cười cất tiếng chúc tụng dù tim đánh thì thòm trong
lồng ngực. Rồi bà Tư móm cao giọng gọi:
- Cậu ơi, có khách đến nhà!
Nói xong, bà giục:
- Mời cô lên nhà trước, mợ cháu tôi đang giở tay.
- Xin phép các vị.
Cô đáp, đoạn bước lên bậc tam cấp. Ông Quảng đứng chờ cô ngay
khuôn cửa trong bộ đồ lụa nâu cổ truyền.
― Lão già chơi trội ; ăn diện kiểu khác đời... „
Cô cúi đầu xuống chào chủ nhân theo kiểu các cán bộ dưới phố,
thầm đánh giá cách phục sức của người anh hùng. Lẽ ra, lấy vợ trẻ, người ta phải
diện sơ-mi trắng hoặc màu trứng sáo, tệ nhất cũng phải áo bu-dông, quần tây thẳng
ống, cho ra dáng thị thành và trẻ trung. Đằng này, ông Quảng lại trưng bộ đồ lụa
tơ tằm của các bậc lão trượng, rộng thùng thình. Thêm nữa, ông ta không cắt tóc
ngắn mà để tóc dài dưới vai rồi buộc lại sau gáy bằng một sợi dây chun theo
đúng kiểu tóc của các hiệp khách giang hồ thời trước. Thêm nữa, ông ta để râu
quai nón, mớ râu bao quanh hàm đen nhánh, rậm như cỏ vực và xoăn như râu người
phương tây. Điều lạ lùng là trong thứ y phục ấy có vẻ như lỗi thời ấy, tất thảy
những cơ bắp cuồn cuộn trên ngực, trên vai ông ta nổi lên rõ mồm một. Và trong
thứ y phục ấy, trông ông ta đẹp ngời ngời, một sắc đẹp của bậc trượng phu,
không chỉ riêng Xóm Tiều Phu mà khắp huyện này khó có thể tìm được...
Vui bất giác gò mình, lùi lại một bước vì hơi thở của ông Quảng
từ phía đối diện đang phả vào mặt cô, như làn gió nóng của một mùa hè oi nồng,
một mùa hè tích tụ biết bao mây giông và sấm sét.
- Chào cô, năm sớm.
- Năm sớm chúc ông mọi sự tốt lành.
Cô đáp lời rồi đặt cành mai đồ sộ tựa vào chiếc tủ chè kê sát
bàn thờ. Ông Quảng đưa mắt nhìn cô:
- Mời cô ngồi. Nhà tôi có trà vườn ướp nhài và ướp bạch cúc.
Nhà tôi cũng có trà Tuyết Sơn lẫn trà Hồng Đào, cô thích loại nào?
- Đã là trà nhà ông, chắc thứ nào cũng tốt. Xin ông cứ tự tiện.
TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (9)
Cô trả lời, nhận ra giọng nói của mình run rẩy. Chưa kịp hiểu
vì sao, cô đã thấy một cơn nghẹn ngào dâng lên họng. Một thứ nghẹn ngào lạ lùng
và bất khả kiềm chế như dòng lũ, cuồn cuộn tràn lên cánh đồng tâm hồn cô, cánh
đồng mênh mông hoang vắng. Vui sợ hãi thầm nghĩ:
― Hỏng thật, sao bỗng dưng mình lại đổ đốn ra thế này? „
Cô tự trấn áp một cách dữ dội nhưng không mảy may hiệu lực.
Vui vội vã cúi gò lưng xuống sửa chiếc quai hậu của cặp xăng-đan, cố tình dán mắt
vào những ngón chân được kì cọ sạch bong nổi bật trên màu nhựa xanh diệp lục:
― Hãy nhìn xem! Hãy nhìn xem! Ta không có những bàn chân đen
đủi như chân bọn đàn bà, con gái Xóm Tiều Phu „.
Cô thầm lặp đi lặp lại câu nói đó nhiều lần và niềm kiêu hãnh
khiến cô dần trở lại bình tĩnh. Chẳng riêng gì đàn bà, con gái Xóm Tiều Phu mà
ngay đàn bà, con gái khắp huyện, hoặc khắp tỉnh này cũng không thể có được cặp
chân trắng nõn như chân cô. Cho dù là người hay lam hay làm, Vui bảo vệ nước da
lẫn đôi bàn chân như thiên hạ giữ con ngươi trong mắt. Bất kể mưa hay nắng, hè
cũng như đông, cô đều đi giầy vải đế cao-su và mang tất sợi dày, hoàn toàn giống
như người ngoại quốc. Ấy là có lần, một phái đoàn chuyên gia Liên xô về thăm
huyện. Vui nhìn thấy nước da trắng nõn lại mỏng như giấy dó của họ. Cô cho rằng
sở dĩ họ giữ được nước da như thế một phần là do quanh năm họ mang tất, mang giầy.
Ngày ấy Vui mới mười ba tuổi, nhưng ý thức về nhan sắc đã sớm ám ảnh cô. Kể từ
đó, cô đòi ông Đô sắm giầy sắm tất cho mình. Cũng từ đó, mang giầy mang tất với
cô trở thành thói quen như cơm ăn nước uống. Giữa một xứ sở mà tất thảy dân cày
đều đi chân đất hoặc dép mỏng, sự việc một người con gái quanh năm mang tất
mang giầy là sự du nhập một phong tục nước ngoài mà thiên hạ cho là quái gở. Bởi
mùa hè nhiệt đới kéo rất dài, trong mùa nồng nực ấy, mang giầy cao cổ lẫn tất sợi
là một cực hình. Mồ hôi sẽ ngấm rất nhanh vào các loại sợi vải làm bốc lên mùi
khó ngửi. Mặt khác, việc đó cũng giống như sự thách thức dư luận mà người khác
khó vượt qua. Nhưng Vui bất cần. Vả chăng, tất thảy những dị nghị, những dè bỉu
lẫn những sự rườm lời của công chúng cũng giống như lũ ve, chỉ sống trong mùa
hè. Tiết thu sang, muốn hay không chúng cũng phải chui vào kén.
Vui nhìn đôi bàn chân trắng như trứng gà bóc của mình, biết
đó là sự cứu rỗi. Một chiếc phao cứu hộ đúng vào lúc cô sắp chết chìm. Gài lại
chiếc khoá nhôm một cách tỉ mẩn, nhìn lại lần nữa làn da mỏng dính, trắng hơn cả
da con gái thị thành, cô tìm lại điểm tựa giống như một đô vật tìm lại được thế
đứng thuận lợi trên võ đài. Ngẩng đầu lên, Vui đã có thể cất lời một cách trịnh
trọng, giống như những dịp cô khai mạc cuộc họp chi đoàn toàn xã:
- Năm sớm, có cành mai trắng làm quà, tặng vật nhà nghèo,
mong ông không chê.
- Cô mà nghèo sao?
Ông Quảng cười phá lên và cất tiếng hỏi:
- Cô tưởng tôi đi kiếm cơm xứ khác nên chẳng hay biết gì mọi
sự trong làng trong xóm?
- Không! Tôi không nghĩ như vậy...
Cô đáp, lúng túng cúi mặt xuống vì hàm răng ông chủ trắng như
ngọc, lại đều chằn chặn, chúng loá như ánh chớp khi ông ta cười:
― Phải chăng lão ta không hút thuốc lào, thuốc lá? Có người
đàn ông nào kiêng được thuốc? Vậy làm cách nào mà lão giữ được hàm răng đẹp như
răng bọn trai mười tám đôi mươi? „.
Ông Quảng tiếp lời:
- Người làng bảo cô sắm máy nổ thượng hạng, rồi cô sắm đèn
măng-xông cũng là thứ mới ra lò, tốt hơn hẳn đèn nhà tôi. Nay mai, cô sẽ trở
thành người giàu nhất huyện đấy.
- Không dám...
- Nhưng cô đã có lòng cho cành mai, tôi xin nhận. Đối với
tôi, đây chính là lộc đầu xuân. Nhà tôi có chiếc độc bình quai đồng, lát nữa
tôi sẽ cắm cành mai vào đó.
Ông rót nước trà. Cô nhìn làn khói bốc lên, bâng khuâng tự hỏi
vì sao cô lại không thể là người cắm cành mai kia vào chiếc độc bình cổ quai đồng
kia? Vì sao? Có lẽ trời đất hoặc quỷ thần hai vai đã quên lãng một phận sự cần
thiết mà đáng lẽ họ nên làm từ rất lâu mới phải!
Nhưng cơn mơ mộng vụt đi rất nhanh, Vui nhớ lại nhiệm vụ khẩn
cấp mà cô phải thực hiện: Gỡ cô ra khỏi tầm ngắm bắn của người đàn ông ngồi trước
mặt.
- Đầu xuân, đến chúc tết ông, mừng người mới, hạnh phúc mới.
Nhưng cũng lại có chuyện muốn nói. Không rõ ông có vui lòng chấp thuận hay
không?
- Ồ, tôi có phải bí thư huyện đoàn hay tỉnh đoàn đâu mà cô phải
đưa đón vòng vo như vậy. Chỗ xóm giềng, trong làng ngoài thôn, chuyện gì mà chẳng
thể nói được với nhau?
- Vậy xin hẹn ông sau năm ngày tết, lúc nào rảnh mời ông ghé
qua nhà chơi.
- Được rồi, tôi cũng có nhiệm vụ đến chúc tết lại chứ. Có đi
có lại mới toại lòng nhau...
Chưa kịp cạn chén nước chè, khách đã ầm ầm kéo đến đầy sân.
Cô Vui rút lui, nhưng trước khi về không quên ghé vào tận bếp chào cô Ngân với
bà Tư bởi hai người đàn bà đã rút lui vào vương quốc của họ. Trong bếp, ngổn
ngang những nồi cùng chảo. Mùi xôi dừa lẫn mùi gà tẩm mật ong rán cùng bốc lên,
hoà lẫn nhau, cho một mùi thơm ngào ngạt.
Trưa hôm đó, vào bữa cơm chỉ có ba người, cô Ngân bảo chồng:
- Này anh chàng kháu lão, cái nhà cô to đùng đến đầu buổi phải
lòng ông đấy. Có biết hay không mà cứ giả bộ ậm ừ?
- Sao mà tôi biết được?
- Đúng, việc gì cậu phải biết cơ chứ? Đông, tây, nam, bắc...bốn
phương tám hướng, thiên hạ thiếu gì người?
Bà Tư chêm vào, rõ ra vẻ hãnh diện. Ông Quảng tò mò nhìn vợ:
- Nhưng vì sao mình lại cho là cô ta mê tớ?
- Úi chao!
Cô vợ trẻ bĩu dài môi:
- Kiểu mắt nhìn đờ đẫn như say thuốc lào thế ấy chẳng phải kẻ
mộng du thì chỉ là mắt mê trai thôi.
- Thật thế sao?
Ông Quảng hỏi lại và cất tiếng cười ròn rã:
- Này cô mình, nếu chẳng có duyên có phận gặp cô mình tớ cũng
có khối người xin vào cửa. Chưa đến nỗi phải đi gánh một cô hộ pháp về để sớm tối
đấu võ hay tranh giải đô vật gia đình.
- Đúng rồi!
Bà Tư móm đế vào tức khắc:
- Gần một năm nay, không biết bao nhiêu kẻ gửi trầu cau với
bánh đậu, bánh gai Hải Dương biếu cháu. Nhờ lộc cậu, chưa kịp làm bà mối đã no
xôi chán chè.
Cô Ngân nhìn hết nhìn chồng lại nhìn bà Tư, đang đong đưa đôi
khuyên tai mặt ngọc, ngoác cái miệng móm cười với vẻ hả hê:
- Thôi, tôi chịu thua cả hai cậu cháu rồi! Rõ thật là một đồng
một cốt.
Phần cô Vui, suốt dọc đường về, cô băn khoăn tự hỏi xem ông
Quảng đã biết chuyện cô đi đến làng Khoai hay chưa? Bởi giọng cười của ông, vừa
có vẻ khoáng đạt, lại vừa có vẻ riễu cợt mà cô không thể cắt nghĩa. Cái nhìn của
ông cũng vậy, khi long lanh nó toát lên sự vui vẻ và độ lượng, khi mờ tối nó lại
phản chiếu nỗi chua chát mơ hồ mà cô không biết căn duyên. Thêm nữa, cô tin chắc
rằng sau tối mồng một, dân làng đã lại đổ đến nhà ông Quảng, nơi chốn lý tưởng
cho truyền thống hiếu khách. Tính hào phóng cũng như cốt cách sang cả của chủ
nhân là những phẩm chất bất khả cạnh tranh. Cô hình dung mảnh sân mênh mông ấy,
những gian nhà thênh thang bài trí toàn đồ gỗ thượng hạng mà ông đã chuộc lại
và mua sắm thêm sau ngày sửa sai cải cách ruộng đất. Những bộ đồ ấm chén bầy
trong chiếc tủ chè. Những chiếc đĩa men ngọc cổ và những chiếc lọ sứ bịt đồng
mà khắp huyện không gia đình thứ hai nào có được. Và cô hình dung lại dáng vóc
vừa vạm vỡ vừa thanh tao trong bộ đồ lụa, tiếng cười sang sảng như ngọc đổ vàng
rơi. Cô bỗng cảm thấy cô như một con rối khổng lồ kết bằng giấy bồi, bị sụp đổ,
bị bẹp dúm dưới cái nhìn sắc như gươm, bị tan rã bị rút mất linh hồn trước diện
mạo của người đàn ông đó.
― Có lẽ lão ta đã biết hết chuyện. Không phải có lẽ, mà chắc
chắn lão ta đã biết hết mọi chuyện. Từ hôm qua đến hôm nay, khách khứa nườm nượp
như thế, chắc chắn đã có người kể lại mọi sự xẩy ra dưới mái nhà mình. Trong
đám khách, có nhà thông gia với em út của ông ta. Vả chăng, khi dân làng đã
nhìn mọi sự theo chiều hướng khác, người ta sẽ chẳng ngại ngần mà trở mặt, lật
tay. Thói đời xưa nay đâu có lạ?...
Cô nhớ lại đường nhăn hằn sâu xuống một bên mép khi ông ta cười
và giọng nói có phần chớt nhả:
- Tôi có phải bí thư huyện đoàn hay tỉnh đoàn đâu?
Cái chi tiết sau cùng khiến cô đinh ninh rằng ông Quảng đã biết
hết mọi chuyện. Giờ đây, cô chỉ có thể trông vào sự độ lượng của đối thủ mà
thôi.
Về đến nhà, Vui mệt rã rời. Nỗi mệt nhọc lạ lùng cô chưa hề
biết từ thuở khôn lớn. Buông mình xuống ghế, bất giác cô cúi xuống nhìn đôi bàn
chân. Hai bàn chân trắng nõn trong màu nhựa xanh. Quanh năm đi tất đi giầy chỉ
để ba ngày tết khoe được làn da trắng. Nhưng hôm nay trời rét, ai cũng thấy rằng
cái việc mang đôi xăng-đan nhựa của cô là sự làm dáng cố tình. Người lõi đời
như ông Quảng không nói ra nhưng hẳn phải thừa biết. Ôi, đôi bàn chân trắng nõn
của cô. Tốn phí biết bao công sức nhưng cũng chỉ gìn giữ được làn da còn chẳng
có cách chi thay đổi được hình dáng:
― Ta là con đàn bà mang cỡ giầy bốn mươi ba. Đôi chân này suốt
đời chọn giầy dép thửa, đôi chân này bị kết tội vĩnh viễn mang hình dạng của bọn
đàn ông. Đôi chân này không thể đẽo gọt, không thể sửa sang. Cũng chẳng có cách
chi che giấu.
Nước mắt bỗng trào lên mi, và lần đầu tiên trong đời, cô hướng
về phía ông Đô, nói lời oán hận:
- Cha ơi, sinh con ra để làm gì? Cha sinh con ra làm gì để
con phải chịu bao nhiêu đớn đau, khốn khổ?
Nước mắt che mờ khiến cô không còn nhìn rõ ảnh cha cô nữa.
Nhưng lúc ấy, trên bàn thờ, ông Đô cũng rưng rưng lệ.
°°°
Từ khoảng mồng mười tết cho đến cuối tháng giêng, trời bỗng
mưa rào liên tục. Nếu theo thời tiết thông thường những cơn mưa này chỉ có thể
đổ xuống vào khoảng đầu tháng tư âm lịch, nghĩa là cuối tháng năm theo lịch
phương tây. Những cơn mưa ào ạt, rơi như bão táp trong vòng nửa giờ rồi ngừng lại.
Nắng hửng lên, trời bỗng oi nóng một cách khó chịu. Rồi sau đó, gần như một trận
tấn công bất ngờ của lũ cướp, mưa lại sầm sập tuôn rơi. Sau những cơn mưa, trời
có một màu hồng xám nhợt nhạt, với những vẩn mây bẩn như bụi chì. Người ta ngửa
mặt nhìn trời, than:
- Lạ lùng, sao mới tháng giêng đã có mưa rửa đền như vậy?
- Mưa rửa đền tới sớm, cháo cám cũng chẳng có mà ăn.
- Lạy trời, đừng bắt dân khốn khổ thêm nữa. Vừa mới dịch châu
chấu rồi lại sâu rầy.
- Ông không tin vào sức người mà chỉ lạy trời thôi ư?
- Sức người có hạn, uy trời vô bờ. Mấy ngàn năm tổ tiên chúng
ta lạy trời, nay tôi cũng lạy trời.
- Thôi, lạy trời xong cũng phải tìm cách mà dặm lấy ít
khoai...Mưa sớm thế này, lợi dụng làm thêm vài luống khoai trái vụ. Nếu không
may mất lúa thì còn có thứ mà bỏ vào dạ dày.
Người ta rủ nhau đi dặm khoai trái vụ. Rồi tiếp đó, người ta
rủ nhau lên rừng hái nấm. Mùa này, nấm mọc như sung, mỗi buổi đi gặp may có thể
hốt đầy bao dăm, bẩy cân tây hoặc hơn nữa. Nấm tươi xào mỡ lợn xuông cũng ngọt.
Nhà nào xôm cho thêm vài lạng thịt bò ướp tỏi và lá ngò gai thái miến thì tuyệt
vời, chẳng cần nêm gia vị hay bột ngọt vẫn ăn đứt nấm xào trong khách sạn thủ
đô. Đối với những nhà đang còn nuôi con nhỏ, các bà có thể vằm nấm tươi với thịt
thăn và hành hoa rồi đem viên theo kiểu viên bún mọc, sau đó nấu cháo hoặc nấu
canh rau ngót rừng hay hoa lý. Tuy nhiên, người ta không chỉ hái nấm để ăn mà
còn hái nấm để phơi khô, sấy khô đem bán. Quanh năm các cửa hàng ăn thành phố,
từ thủ đô cho tới các thị xã miền xuôi lẫn miền ngược đều cần tới nấm khô. Bún
mọc, bún thang, bóng nấu tôm, măng nấu sườn....tất thảy những thứ ấy đều phải
có dăm cánh nấm mới dậy mùi. Ấy là chưa kể tới các món xào, các món hầm, hoặc
món chưng cách thuỷ nơi cao lâu, tửu quán...Nấm đối với dân vùng này không nhẹ
cân hơn lúa, khoai mì và những nguồn thu khác. Như thế, mùa nấm cũng giống mùa
gặt lúa dưới châu thổ sông Hồng, vừa là mùa làm ăn vừa là một dịp chính đáng để
tụ họp vui vẻ nên mọi người khó bỏ qua.
Mùa nấm năm nay là mùa nấm đầu tiên cô Ngân lên rừng với đám
đàn bà Xóm Tiều Phu. Cũng chính là cơ hội đầu tiên để một cô dâu xứ lạ tham gia
vào sinh hoạt của cộng đồng. Thoạt tiên, cô đi với bà Tư Móm, vị thần bảo trợ
và người thân thiết nhất với cô sau đức lang quân. Rồi khi mối bang giao xóm giềng
đã khá mặn nồng, hoặc là làm ra vẻ mặn nồng, cô đi với mấy bà, mấy cô liền dậu.
Mỗi tốp như vậy khoảng từ năm đến mười người. Họ cùng nhau mang theo đồ ăn và
thuốc phòng rắn độc. Mỗi năm chỉ có một mùa hái nấm chính thức nên đàn bà con
gái Xóm Tiều Phu đổ hết lên rừng. Vợ con Quý đương nhiên cũng đi nhưng họ nhập
vào tốp khác, và cả hai bên đều tìm cách tránh mặt nhau. Tuy nhiên, dù muốn hay
không, cũng vẫn có những cuộc chạm trán. Bởi đường lên rừng buộc phải qua những
trảng cỏ hẹp nơi lòng thung hay những con dốc độc đạo. Người ta không có cách
chi tránh được những lối đi bắt buộc ấy. Cái sự chạm trán giữa những kẻ cừu thù
đương nhiên phải xẩy ra trước mắt láng giềng. Sau mỗi lần, thiên hạ lại trần
thuật một cách rộng rãi khắp xóm cùng thôn, giống như cuộc trần thuật những trận
bóng đá tranh giải quốc gia hay quốc tế xảy ra tại các câu lạc bộ thành phố.
Theo cách đánh giá chung của người làng, vợ con Quý ỷ vào hai thế: Trứơc hết, họ
là dân sở tại, mà cái thói:― Ma cũ bắt nạt ma mới vốn là thói quen đã hiện hành
hàng nghìn năm. Thứ hai, họ lại là số đông, bởi họ có những ba mẹ con, trong
khi đối phương đơn thương độc mã. Thế nhưng, điều oái oăm là cả hai thế mạnh
kia đều không chạm tới được lông chân cô nàng áo xanh của ông Quảng. Người ta kể
một cách chi tiết rằng, ngay lần chạm trán đầu tiên, vợ Quý chiếu vào mặt cô
Ngân một cái nhìn đầy vẻ khiêu khích và phỉ báng, ngay tức khắc cô Ngân cũng
quay đầu, giương mắt trừng trừng nhìn lại địch thủ, không lùi một phân. Kể về sức
lực cũng như tinh thần thì cô ta uy hiếp hẳn người con dâu của ông chồng, nhỏ
bé quắt queo nặng không quá bốn mươi cân, cổ dúm lại như cổ bà lão. Nếu hai đứa
con gái nhà Quý nhổ nước bọt một lần, tức khắc cô Ngân nhổ hai lần trả miếng.
Những cuộc chạm trán thù địch như vậy thường diễn ra trong sự im lặng của dân
làng. Mọi người đếu cúi mặt làm ngơ, chẳng ai dám lên tiếng can ngăn hay hoà giải.
Một lần nào đấy, đứa con gái nhỏ của Quý, chanh chua thách thức:
- Giỏi thì chơi?
Cô Ngân cười khẩy, vênh mặt lên:
- Chớ cậy thứ luật:― Hai chọi một, chẳng chột cũng què. Tao
đây, tao chấp cả ba chọi một. Dám hay không?
Lúc này, chính ba mẹ con nhà Quý lại phải nuốt hận làm thinh
vì nhìn tình thế, rõ ra cô thợ quét vôi kia có thể tả xung hữu đột với cây trượng
của ông chồng giáng cho họ những đòn chí tử. Và chắc chắn không một người láng
giềng nào dám đứng vào bè với họ để đánh lại cái ―con đĩ áo xanh kia. Sân nhà ―
Con đĩ áo xanh giờ đây đã trở thành câu lạc bộ của người làng, còn có phần đông
vui gấp bội thời bà Quảng còn sống. Người ta đã ăn đã uống, đã vui vẻ chuyện
trên trời dưới biển trong ngôi nhà ấy, người ta, dẫu trong lòng có muốn, cũng
không thể quay đầu lại đánh gia chủ.
Thời gian này, chẳng thấy chủ tịch Quý đâu. Mọi thứ giấy má của
dân xã, đã có ông phó chủ tịch lo liệu. Nghe đâu có đợt tập huấn mười hai ngày
dưới huyện dành cho các chủ tịch xã, sau đó tiếp đến cuộc tập huấn mười ngày
dành cho các bí thư xã. Quý vừa là chủ tịch vừa kiêm nhiệm phó bí thư. Tập huấn
xong bên chính quyền, anh ta ở lại luôn dự đợt tập huấn đảng thay cho ông bí
thư ở nhà nuôi vợ đẻ.
Trước khi đi, anh ta rẽ qua nhà cô Vui:
- Ông bố tôi biết chuyện cô về làng Khoai rồi hả?
- Chứ anh tưởng giấu được ông ấy hay sao?
- Ông ấy có tra hỏi gì không?
- Anh không hiểu bố anh. Ông ấy chẳng thèm động dạng tới chuyện
đó. Ngay một nửa chữ.
- Bố tôi không vừa đâu.
- Anh chẳng phải dạy.
- Thế hai người nói chuyện gì?
- Chuyện trồng mai, trồng đào phai hay bích đào...Chuyện nuôi
ong, thay giống, hớt phấn hoa hay cải tiến kích thước đõ. Thiếu gì việc ông ấy
quan tâm.
- Giờ tôi hỏi cô sự này: Cô có chắc hai người ấy đăng kí được
ở làng Khoai hay không? Bởi lão giáo làng Khoai lại là cháu ruột chủ tịch xã?
- Người ta đoán vậy thôi, chẳng ai chắc. Một mặt, chủ tịch xã
không thể phỉ báng cháu ruột mình. Bởi nếu ông ấy công khai làm đăng kí kết hôn
cho cô Ngân khác nào dáng cho cậu cháu một cái tát. Nhưng mặt khác...
- Mặt khác làm sao?
- Tôi không biết được.
Cô bí thư buông câu nói nửa chừng vì trong óc cô hiện lên những
ngôi nhà mà ông Quảng đã ra tay xây dựng. Chủ tịch làng Khoai không được hưởng
một cơ ngơi đồ sộ như thế, nhưng ít nhất ông ta cũng đã được thay mái ngói,
thay bốn bức tường lồi lõm cong queo thành những bức tường gạch phẳng phiu,
trát xi-măng từ ngọn tới gốc, lại quét vôi vàng sáng choé...Thêm nữa, chân tường
cũng chạy diềm sỏi trắng như kiểu nhà công sở, đối với dân làng Khoai, đấy hẳn
đã là cách chơi sang. Chưa hết, mảnh sân cũng được lát gạch lá nem và có tường
hoa bao quanh. Như thế, nhà ông ta tuy vẫn chỉ một tầng nhưng trông khang
trang, lộng lẫy như con công đứng giữa đám gà vịt đói lông cánh xơ xác xung
quanh. Rõ ràng là của cải từ túi bà giáo làng Khoai chảy ra để đắp đổi cho ngôi
nhà này không phải ít.
Quý sốt ruột trước vẻ ỡm ờ của Vui. Anh ta cau có dằn giọng:
- Cô bảo sao? Làm gì mà nửa kín nửa hở như vậy?
- Tôi không biết được.
- Cô không biết thì còn ai biết? Cô là người duy nhất ở Xóm
Tiều Phu đi đến tận làng Khoai.
- Vì thế nên tôi sẽ phải hứng đòn của ông bố anh. Mà anh cũng
không thể giơ lưng chịu thay tôi được.
Cô Vui nổi khùng quát trả lại, giương mắt nhìn Quý, hai kẻ a
tòng nhanh chóng biến thành thù nghịch sau cái nhìn hờn oán. Rồi sau một tích tắc
bất động, cô gái già bất chợt vùng đứng lên xô ghế và vung tay như đuổi gà:
- Tôi đã bảo không biết tức là tôi không biết. Muốn rõ đầu
đuôi, anh về làng Khoai mà điều tra.
Quý không nói thêm nửa lời, mặt đen sầm như đám mây trước cơn
mưa bão. Anh ta ra cửa, cô Vui quay lưng vào buồng trong, chẳng ai chào ai.
Ở dưới huyện, nhưng gan ruột Quý cồn cào như ăn phải thuốc
phiện sống. Giống mảnh vải bị cuốn vào guồng bánh xe, lòng thù hận khiến anh ta
quay đảo, khắc khoải không nguôi...Anh ta không còn nhìn thấy vật gì ngoài ―con
đĩ áo xanh. Con đĩ áo xanh, kẻ bất chợt từ trên trời rơi xuống hoặc từ một miền
đất lạ gió cuốn tới đây...
― Con đĩ áo xanh! Kẻ thù sinh tử của ta! »
« Con đĩ áo xanh! »
Nhưng vì đâu mà có lòng căm thù ấy? Quý không thể tự hỏi vì
anh ta không đủ sáng suốt lẫn can đảm để làm điều ấy. Bởi chính anh ta cũng
không hiểu vì sao mình căm thù người đàn bà khác xứ kia đến như vậy. Dường như
lòng căm thù này là một loại mèo hoang hay chó lạc bỗng dưng từ đâu đó chạy thẳng
vào sân nhà cất tiếng gào dã man cất tiếng sủa điên loạn. Hoặc như thứ hạt mầm
cay độc cơn gió lang thang bỗng dưng mang tới, cấy vào trái tim con người, ở
trong đó, nó nảy mầm, đơm lá, những chùm rễ sinh trưởng mau hơn loài thuỷ tức,
lan toả, len lỏi, ăn sâu vào từng tế bào và con người khốn khổ không còn là gì
hơn một thứ xác chết vận hành dưới những sợi dây điều khiển của lòng thù oán.
Những dòng chữ thường xuyên hiện lên trong óc não, những tiếng nói thường xuyên
vang lên bên tai Quý là:
« Con đĩ áo xanh, kẻ sẽ chiếm mái nhà mà ta có quyền thừa tự,
kẻ khiến cho gia đình ta tan vỡ, cha con chia lìa và mẹ ta phải ngậm hờn nơi
chín suối. »
Tuy nhiên, anh ta chưa bao giờ dám thú nhận với chính mình rằng
cái « con đĩ áo xanh kia » còn khiến anh ta mất hoàn toàn thăng bằng mỗi khi gặp
mặt. Rằng ngay lần đầu chạm trán cô ta, toàn thân Quý đã hầu như tê liệt, giống
như một con cua trong tầm tay vồ của con ếch, co rúm cả tám càng lại chờ phút
khai tử, hoặc giống như một con chuột hoàn toàn bị đông cứng tứ chi mất hết khả
năng tự vệ trước cặp mắt thôi miên của loài rắn. Khoảnh khắc ấy, toàn thân anh
ta lạnh ngắt như tử thi rồi sau đó lại bừng bừng như đám cháy, và những cảm
giác tột độ trái chiều như thế cứ lần lượt đổi thay nhau. Ngay lần ấy, anh ta
đã cảm thấy sinh mệnh của mình từ nay thuộc về một kẻ khác, và cái thân xác anh
ta đang cư trú chẳng qua cũng chỉ còn là vỏ của một con tàu mà bánh lái lẫn những
ngọn buồm đã bị điều khiển bởi bàn tay một ác thần vô hình đầy quyền năng. Kể từ
ngày ấy, cứ mỗi lần nhìn thấy đôi mắt nhóng nhánh đen huyền của cô ta là máu
trong huyết quản Quý lập tức sôi lên. Cái thứ máu sôi sục trong thân xác đó thổi
lên trên mặt anh ta một đám cháy, khiến da mặt anh ta bỏng rát trong khi đầu óc
quay cuồng, và mọi vật bỗng trở nên bồng bềnh mờ mịt như bị nhìn qua đám khói đốt
rạ giữa cánh đồng. Anh ta cũng không kịp nhận ra rằng khi thấy cô ta, cổ họng
anh bỗng dưng bị nghẹn, kiểu như người ăn khoai bị nghẹn vì nuốt nhầm thứ khoai
quá bở lại không có nước chiêu. Và hơi thở của anh ta cũng bỗng nhiên thiếu hụt
như kẻ leo núi cao mà không còn đủ sức. Sáng mồng một, để giữ được vẻ bình tĩnh
khi đối đáp với người cha, Quý đã phải tự cấu vào lòng tay mình cho đến nỗi máu
tụ đen bầm sau đó. Rồi tới lúc bị ông bố đuổi, bầu đoàn kéo nhau qua sân anh ta
vẫn cảm thấy nửa bên mặt hướng về phía gian bếp bị tê liệt vì chờ mong ―cái con
đĩ tử thù kia xuất hiện lần nữa. Một nỗi ước mong thầm kín bất khả nhận diện và
bất khả kiềm chế khiến anh ta bước đi một cách vô hồn như sự vận hành của một
zombie. Mảnh sân quen thuộc nơi nhà bố mẹ đẻ bỗng trở thành một sa mạc bất trắc.
Và khuôn cửa nhà bếp bỗng trở thành cửa một hang đá bí ẩn nơi có nguy cơ xuất
hiện một loài thú huyền diệu có khả năng dẫn tới cùng một lần địa ngục lẫn
thiên đường. Anh ta đã đi qua mảnh sân ấy với cơn bão lốc cuồng nộ trong tâm hồn...Nhưng
cô Ngân đã cố thủ bên trong. Cuộc tấn công của anh ta thất bại hoàn toàn mà
không có mảy may an ủi hay cứu rỗi...
Giờ thì những cuộc chạm trán thù nghịch giữa ―con đĩ xinh đẹp
kia với vợ con anh ta đã diễn ra mỗi ngày mỗi căng thẳng. Lòng căm thù của anh
ta cũng càng ngày càng ngùn nghụt bốc cao:
« Con Vui đã trở mặt, nó không còn muốn giúp ta nữa. Con voi
cái thiếu đực này chắc đã ngã lòng trước ông bố của ta. Lão già ăn hết mọi phần
lộc của thiên hạ. »
Quý ngẫm nghĩ với nỗi đau đớn rằng sẽ chẳng bao giờ anh ta với
được đến vai ông bố, không chỉ vì tầm vóc bên ngoài mà còn vì biết bao điều
khác. Và cái ý nghĩ này dầy vò anh ta cả ban ngày lẫn ban đêm, cả lúc ăn lẫn
khi ngủ. Sau những ngày đêm liên tục bị nghiền nát dưới cảm thức về sự thua thiệt
và tủi hổ, đôi khi anh ta ngồi làm phép tính cộng trừ tuổi tác giữa ông bố đẻ với
mình. Chỉ khi đó, Quý mới tìm được nguồn an ủi. Muốn hay không, anh ta cũng còn
trẻ, và tuổi trẻ là sức mạnh vô địch. Trời cho anh ta thời gian. Trời cho anh
ta cơ hội. Có một khác biệt không thể chối cãi, một vực sâu không thể san lấp
giữa một ông già sáu mươi mốt với một người đàn ông tuổi bốn mươi:
« Ta không thể chấp nhận để mình bị gạt ra ngoài lề và thành
kẻ trắng tay. Cuộc đấu không thể kết thúc dễ dàng như vậy. Ta còn cơ hành động.
Chẳng cần cái con gái già kia, ta vẫn có thể làm mọi sự một mình. »
Ý nghĩ cuối cùng nung nấu Quý trong suốt ba tuần lễ tập trung
nghe huấn thị của cấp huyện và cấp tỉnh. Khi đợt huấn thị kết thúc, anh ta bỏ bữa
cơm liên hoan bế mạc dông thẳng xuống thành phố, nơi công trường tỉnh uỷ. Người
làng báo cho anh ta biết rằng ông Quảng đang còn ở lại Xóm Tiều Phu để giúp cô
vợ trẻ phơi sấy nấm. Thực là cơ may. Tại công trường, Quý tránh khu vực của đám
thợ nội tỉnh vì đa phần đều là người trong huyện do ông Quảng tuyển lựa. Anh ta
phải lân la ở dãy quán bán cơm bên ngoài khá lâu nhằm dò cho ra khu nhà mà đám
thợ Hà Tây, lũ ―gái công trường trú ngụ. Tìm ra ―hang ổ ― của con đĩ áo xanh rồi,
Quý còn phải ngồi chờ ngoài quán cơm cho đến khi trời sẩm tối, anh ta mới dám
mò vào công trường sau khi mua hai bao thuốc làm quà cho gã gác đêm:
- Tôi có cậu em họ làm việc trong đội nề của ông Quảng. Nó
đang tìm hiểu một cô thợ quét vôi Hà Tây. Chú thím tôi nhờ tôi kiểm tra xem
tình hình sinh hoạt của cô ta có được lành mạnh hay không để còn quyết định tổ
chức đám cưới. Lý do chính đáng như vậy, hy vọng rằng đồng chí có thể giúp đỡ
tôi.
- Đồng chí có giấy tờ chứ?
- Có ngay đây.
Quý chìa chứng minh thư kèm theo theo giấy triệu tập chỉnh huấn
của huyện. Người gác cổng chúi mũi xuống đọc. Sau đó, anh ta ngẩng lên nhìn Quý
với vẻ nịnh bợ:
- Mời đồng chí vào. Cẩn thận những khúc đường trơn vì giờ này
chúng tôi tắt nửa số đèn, khu vực thi công còn nhiều đoạn lầy lội. Chúc đồng
chí thành công.
- Cảm ơn.
Chủ tịch Quý đáp một cách hài lòng. Vẻ khúm núm của người gác
cổng khiến anh ta thấy tự tin hơn, phấn chấn hơn.
Từ cổng công trường tới khu vực ăn ở của thợ không gần. Đi rảo
bước cũng phải mất hơn nửa tiếng. Vừa đi, Quý vừa suy tính cách tiếp cận với
đám thợ quét vôi, những kẻ không mảy may quen biết. Một lần nữa, cái bóng sừng
sững của người cha lại đổ xuống, trùm lấp. Quý biết rằng anh ta không có khả
năng chinh phục, anh ta thiếu duyên giao tiếp. Những điều mà ông Quảng có thể
nói ra một cách dễ dàng trong giây phút anh ta phải suy ngẫm đắn đo, tìm lời sắp
ý một cách khó khăn. Theo rõi ông bố từ tuổi thiếu niên, Quý ngạc nhiên vì hầu
như ông ta không cần suy tính gì trước, khi sự việc đến, tức khắc cách phản ứng,
những lời lẽ đối đáp như dòng suối bất thần chảy tới, hoặc như mạch nước ngầm từ
trong núi đá tuôn ra. Quý chứng kiến khả năng ứng biến tài tình của người cha,
vào chính những dịp ông dẫn anh ta xuống xin học dưới tỉnh. Thoạt tiên là trường
trung cấp hàng hải vì thuở nhỏ Quý thích gấp thuyền, tắm suối và giấc mơ tuổi
mười ba của anh ta là trở thành thuỷ thủ. Nhưng ngay lần thứ nhất tham quan tầu
thuỷ, Quý đã say sóng đến nỗi cả tuần sau đứng lên vẫn xây xẩm mặt mày, anh ta
nằng nặc xin bố cho chuyển sang trường trung cấp cơ khí. Với nghề cơ khí, Quý
theo học được hơn một năm, nhưng cho dù hết sức cố gắng và cho dù ông Quảng
không tiếc công tiếc của nhờ các thầy giáo trong trường lẫn các quản đốc công
xưởng kèm cặp, Quý cũng không đủ khéo léo và kiên nhẫn để có thể trở thành thợ
tiện mức trung bình. Sau thất bại này, mới đến trường trung cấp lâm nghiệp, cây
cầu cuối cùng để sau đó anh ta phải rút ván và không bao giờ dám mơ tưởng quay
lại bất cứ mái trường nào nữa. Sự thay đổi liên tục các trường trong hệ thống
hành chính nhiêu khê, phiền toái như thế, ai nghe cũng lè lưỡi lắc đầu, vậy mà
Quý thấy ông Quảng phẩy tay nhẹ như bấc. Dường như con người đó sinh ra để
thành công, ông ta có tất thảy những phẩm chất của kẻ thành đạt.
Nhưng một khi ông ta đã hưởng hết mọi quà tặng của số mệnh,
con cái sẽ phải chịu hẩm hiu...:
« Trời cho người này, trời rút trong túi người kia! »
Quý đinh ninh như vậy. Không hiểu từ đâu, mà anh ta có cái kết
luận lạ lùng đó. Có những ý nghĩ quái đản mọc rễ trong óc con người mà không ai
nhổ bật lên được. Phải chăng vì có những thứ tâm hồn u ám chỉ thuận lợi để nuôi
dưỡng sự hằn học, ghen tuông giống như những đầm lầy chỉ có thể làm nảy sinh
loài rong đuôi chồn, cỏ mực?
Khu nhà dành cho các nữ công nhân ồn ã nhất là sau bữa cơm
chiều. Đây là giờ các bà các cô ăn cơm xong, ngồi túm tụm chơi tu-lơ-khơ hoặc
chuyện gẫu. Mùi ngô rang bay thơm lừng. Các bà nạ dòng vừa đánh bài vừa ăn kẹo
lạc và ngô rang. Còn những cô trẻ nhất đang kề mặt dưới ngọn điện mà tỉa lông
mày, thứ chăm sóc dung nhan ít tốn kém nhất. Quý phải dừng lại ngoài cửa vì
nghe tiếng quật bài đen đét, tiếng cười sằng sặc, tiếng nói quang quác của họ.
Một thứ thực tiễn mà anh ta chưa chạm trán bao giờ. Đàn bà Xóm Tiều Phu không
dám cười sằng sặc như thế, cũng không dám la hét và quát tháo hệt như lũ đàn
ông quanh chiếu bài. Nói cho thật đúng, đàn bà Xóm Tiều Phu không được phép
chơi bài. Họ có nhiều việc trong nhà và trong bếp:
« Rõ là mấy con đĩ công trường, thiên hạ chửi không ngoa.
Đúng là lũ ngựa cái được xổ chuồng tháo cũi. »
Anh ta thầm nghĩ, cảm thấy hả hê khi con đĩ áo xanh chính nảy
nòi từ đây, giữa bọn đàn bà mất nết này. Ông bố chẳng có lý do gì để quá tự hào
vì một cô vợ như thế... Trong khi Quý tần ngần nghĩ ngợi, một cô gái trẻ vừa sửa
sang xong cặp lông mày bỗng dưng bước ra ngoài. Thấy bóng đàn ông nép trong
bóng tối, cô ta kêu thét lên:
- Ối giời ơi!Ai? Ai thế?
- Tôi...tôi...
Quý lắp bắp trả lời:
- Tôi là người nhà cô Ngân....Hà Tây....Tôi đến tìm cô ấy....
Tiếng kêu thét của cô gái kéo cả lũ các bà các cô đổ ra cửa.
Họ vây lấy Quý, người đang còn nhai dở ngô rang, kẻ đang cầm cỗ bài, cả bọn
nhìn chòng chọc khiến anh ta thấy đôi chân bỗng dưng mềm nhũn ra như muốn chạy
trốn khỏi cơ thể:
- Ngân nào nhỉ, Ngân thối tai hay Ngân Quảng?
- Ngân...Hà Tây...Ngân làng Khoai.
- A...Thế là Ngân Quảng. Nó đi lấy chồng rồi, họ hàng sao chẳng
biết?
- Tôi cũng đi thoát ly dưới Ninh Bình từ mấy năm nay...
Quý đáp. Các bà các cô nhìn anh ta từ đầu đến chân một cách tọc
mạch, và ngờ vực:
- Anh họ hàng thế nào với nó?
- Tôi với cô ấy là...con cô con cậu...
- Con cô con cậu hay anh em...thông ruột? Cứ khai thật ra rồi
chúng tôi khắc mách đường mách nẻo cho mà tìm.
Quý im lặng, mặt bỗng dưng nóng rần rật và mạch máu nhảy như
đánh trống hai bên thái dương. Anh ta không biết đối đáp ra sao với lũ đàn bà dạn
dĩ này. Trong khi đó các bà các cô nhất loạt phá lên cười ngả cười nghiêng, giống
như họ được xem một màn hề chèo tuyệt đỉnh. Những ánh mắt tinh quái của họ chiếu
vào mặt Quý giống những mũi kim châm khiến anh ta ê ẩm da thịt. Lát sau, anh ta
hắng giọng, cố gắng nói một cách từ tốn và bình thản:
- Các chị hay đùa quá. Tôi đến đây thăm hỏi thật tình.
Bà nạ dòng có tiếng cười nam nhi nhất, sau khi lau nước mắt bằng
ống tay áo, thu cỗ bài dang dở lại và bảo Quý:
- Thôi được, nếu anh đã muốn nói thật tình, chúng tôi sẽ bảo
anh tình thật. Đùa một chút cho vui thôi. Mà cho dù anh là họ hàng con cô con cậu
hay nhân tình nhân bánh thì cái sự ấy cũng chẳng dây gì đến chị em chúng tôi. Nếu
đúng anh muốn hỏi cô Ngân làng Khoai thì cô ấy bỏ công trường theo chồng về làm
trang trại. Chồng cô ấy là ông Quảng, xếp điều hành toán thợ tỉnh sở tại chứ
không phải những kẻ đi làm mướn xứ người như chúng tôi đây. Anh muốn rõ thêm,
sang khu nhà A 7, A 8 mà hỏi. Thợ ở đấy toàn một tay ông Quảng tuyển về. Họ biết
rõ hơn chúng tôi.
- Cảm ơn chị, vậy cô Ngân cưới vào thời gian nào?
- Chịu! Không ai biết.
- Tôi tưởng công nhân xây dựng gia đình, ban tổ chức công trường
có nhiệm vụ giúp đỡ?...
- Công nhân cũng dăm bẩy loại công nhân. Chúng tôi đây chỉ là
dân quê chân đất được tuyển tạm chứ có đứng trong biên chế nhà nước đâu mà được
quyền đòi hỏi. Vả chăng tình cảnh gia đình cô Ngân cũng rắc rối lắm. Họ không
thể cưới xin bình thường như những người khác.
Một cô trẻ tuổi đứng cạnh chêm vào:
- Nghe nó nói là có cưới xin đàng hoàng mà?
Cô khác ngắt lời ngay tức thì:
- Cưới cái con khỉ...
Đoạn quay lại cô kia, cấm cảu:
- Cưới xin gì mà nó im ỉm như ngậm hột thị thế?
- Nó đã chẳng mời bọn mình bún chả với bánh kẹo nhoè bữa chia
tay rồi còn gì?...
- Liên hoan chia tay là một việc, cưới xin danh chính ngôn
thuận lại là việc khác. Mày to đầu mà sao ngu thế?
Bà nạ dòng có tiếng cười nam nhi mắng cô gái. Đoạn bà cúi xuống
nhìn cỗ bài trong tay. Quý biết rằng đã đến lúc phải chuồn, anh ta cúi chào mọi
người:
- Xin cảm ơn các chị, các cô.
- Không dám.
Anh ta vừa quay lưng đi đã nghe các đám đánh bài hò nhau vào
chiếu. Những tràng cười ròn rã lại nổ như bắp trong nồi rang. Trong khung cửa
sáng, bóng con gái đi qua đi lại, cô áo trắng, cô áo tím, cô áo hồng:
« Mấy con đĩ ngựa xổng chuồng. »
Quý lầm bầm trong họng, nhưng mắt vẫn dán vào khung cửa hình
chữ nhật sáng loá điện. Có cái gì nơi đó hút anh ta như nam châm hút sắt? Anh
ta không biết. Nhưng đứng hồi lâu trong bóng tối, thầm lén nhìn những người con
gái kia, anh ta bỗng cảm thấy như vừa đánh mất cái gì đó, một sự mất mát mà anh
ta không hình dung nổi và cũng chẳng hiểu vật bị mất là cái gì. Cố cắt nghĩa những
điều xảy ra trong lòng mình mà không thể được, Quý tự hỏi:
« Cái gì nhỉ? Ta đánh mất vật gì? Ta muốn điều chi? »
Không có lời giải đáp. Rồi bất chợt một cơn tức giận xộc lên
họng mặn chát khiến anh ta phải bật thành lời:
« Đúng là lũ ngựa cái động đực, thằng nào rước phải thứ của nợ
như chúng mày chẳng chết sớm cũng chết muộn. Rõ ra thứ gái công trường. Con đĩ
kia trước đây vài tháng cũng ra ra vào vào õng ẹo như thế. »
Trong đêm, tiếng anh ta vang rất to, dội qua những khu nhà
thô rỗng vọng lại khiến anh ta đâm hoảng. Sợ đám người trong nhà nghe thấy Quý
vội quay đầu chạy. Đường công trường len lách giữa những đống cát sỏi, những đống
gạch ngổn ngang cao thấp, những đống xà giầm, những cối vữa dùng dang dở được ủ
lại bằng nhiều lượt bao tải ướt. Trong bóng tối, thần hồn nát thần tính, Quý đạp
lên một viên đá cục, ngã bổ nhào vào đám vữa đang còn nhão. Vữa lấp đầy mặt lẫn
một bên vai và cánh tay anh ta. Khi đứng lên được, Quý mới nhận ra tình cảnh của
mình:
« Thế này mặt mũi nào mà đi ra phố?... Mà trước khi ra phố lại
còn phải qua mặt thằng gác cổng?»
Anh ta bỏ chiếc cặp da bò xuống, lục tìm các ngăn xem liệu có
tờ báo nào có thể vò nhầu để lau đỡ khuôn mặt nhem nhuốc của mình. Lúc ấy, nước
vôi đã kịp ngấm vào một bên mắt khiến anh ta buốt rát. Cơn buốt rát mỗi lúc mỗi
tăng theo cấp số nhân, một sự gia tăng kinh hoàng. Cơn đau nhục thể ấy rút lên
tới tận đỉnh đầu hoà với một nỗi đau khác, còn khủng khiếp hơn, ý thức về sự bất
khả và nhục nhã. Nước mắt anh ta tuôn ra, hoà lẫn chất vôi khiến cho cả khu quầng
mắt và gò má bỏng rát như bị chà lửa. Rồi nỗi đau đớn đẩy bật lên những tiếng nức
nở. Người đàn ông đã ngoại tứ tuần hốt hoảng vì không thể kìm nén khóc. Những
cơn nức nở buột khỏi sự gìm nén của anh ta, giống sợi dây diều tuột khỏi tay đứa
bé chơi diều, như dòng lũ phá sập bờ đê để tuôn tràn như thác đổ. Trước mắt Quý
chỉ còn lại một không gian mênh mông, trong đó những con thác đen không ngừng
tuôn xối xả. Dường như toàn bộ máu trong huyết mạch anh ta giờ đây đã trở thành
đen, đen tuyền, đen kịt. Những dòng máu đen lan toả khắp cơ thể. Toàn thân Quý
run lên trong một nỗi thèm khát điên cuồng: Cần phải cắt cổ ai đó, cần phải đập
vỡ sọ ai đó, cần phải chà nát ai đó dưới chân cho hả cơn đau đớn mà giờ đây anh
ta đang phải chịu. Vừa chùi bộ mặt lem luốc vôi vữa, Quý vừa nhắm chặt mắt lại
để nước mắt có thể rửa trôi đi phần nào chất vôi bám quanh bờ mi. Và lúc đó,
trong óc não, anh ta thực hiện mọi cuộc trả thù: Anh ta đốt cháy khu nhà lộng lẫy
của tỉnh uỷ. Anh ta cầm súng lia vào đám đông hội nghị như đứa bé lấy roi quật
nát một tổ kiến, anh ta cưỡi lên đầu bí thư tỉnh uỷ, cái lão bụng phệ đã một lần
mắng anh ta như mắng trẻ lên ba trong hội nghị đảng bộ tỉnh, anh ta cầm con củ
tia vọt nước đái vào cái mặt phương phi nhờn những mỡ của lão, anh ta khạc lên
mái tóc hoa râm mĩ miều lúc nào cũng rẽ đường ngôi thẳng tắp của lão, anh ta
trèo lên xe Volga chễm chệ ngồi và bắt lão chạy bộ ngửi đám bụi mù mịt ở đuôi
xe....
....Hình ảnh sau cùng lưu lại trong đôi mắt bỏng loét của Quý
là hình ảnh chính anh ta đang cưỡi lên ngực một con đàn bà trần truồng, trắng
nõn. Anh ta bóp nặn, cấu chí, rồi cắn rách đôi vú của ả. Vết răng anh ta hằn rõ
như vết răng loài sói trên bờ những vết thương, nơi máu ri rỉ chảy ra. Đôi núm
vú nhỏ của cô ta sắp đứt chỉ còn lủng lẳng bám vào bầu vú nhờ một mẩu da nhỏ,
giống như hai hạt sen. Anh ta cúi xuống dứt đứt chúng bằng những ngón tay đen đủi
của mình, với niềm khoái trá như đứa bé vặt chân con châu chấu. Rồi anh ta hiếp
ả. Hiếp, với tất cả đam mê và căm uất tích tụ từ bao nhiêu kiếp sống. Hiếp, như
cách duy nhất để có thể tồn tại trên mặt đất này. Anh ta hiếp ả no nê từ lúc mặt
trăng mới lên cho đến tận trưa hôm sau, giờ ngọ, khi mặt trời in bóng các vòm
cây tròn xoe trên mặt đất. Anh ta hiếp ả từ khi da thịt ả mơn mởn như mỡ đông,
hồng tươi như vỏ trứng gà cho đến lúc da thịt ả trở nên mềm oặt, phôi phai, lợt
lạt và sau rốt trong suốt như đám trứng ếch. Anh ta hiếp ả từ lúc ả xinh đẹp
như bông hồng mùa xuân cho đến khi ả suy nhược, mệt lả, đến độ chỉ còn thoi
thóp thở và khi anh ta đứng lên, cài khuy quần, ả hoàn toàn tan rã như đất mủn.
Chỉ còn lại trên mặt đất một mớ giẻ lươm tươm, rách nát.
Một mớ giẻ màu xanh.
19/1/2007
Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét