Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2025

Tôi phải sống 4XXXXX

Tôi phải sống 4

8

Canh Bạc Cuộc Đời

Thường ngày tôi không để ý gì tới tiếng kẻng điểm danh buổi chiều, nhưng tiếng kẻng hôm nay đã làm tôi rợn người. Tự nhiên tôi bị nổi da gà và tim tôi bắt đầu đập sai nhịp, trong lúc máu dồn nhanh lên mặt khiến tôi choáng váng và mặt mày nóng hừng hực, như củ khoai lang lùi trong đống than hồng vừa được khều ra. Cảm giác này trong đời tôi chỉ mới gặp thấy lần đầu.


Kể từ lúc khám trại chiều hôm qua và tất cả 6 người trong buồng 1 của tôi trở lại buồng cũ, chúng tôi mới chắc chắn có thể tiếp tục kế hoạch vượt ngục. Những thứ bất hợp pháp cần thiết cho cuộc vượt ngục như móc sắt... chúng tôi cho chìm xuống đáy bể nước khi mang đồ đoàn ra sân khám xét đã được vớt lên. Chiếc thang dây được ráp nối cho thành hình và không sợ còn bị khám buồng bất ngờ nữa. Những thứ  ‘‘quốc cấm’’ đó giờ này đang được cuộn tròn và giấu trong các túi, dùng làm gối đầu của tôi. Riêng miếng sắt giẹp treo lủng lẳng trên cánh cửa vào khu nhà cầu vẫn nằm yên tại vị trí cũ. Nếu có ai nhìn thoáng qua một cách vô tình sẽ không thể nào nhận ra được sự khác biệt nơi miếng sắt hiền lành vô tội đó. Thực sự nó đã khác đi rất nhiều.


Kể từ hôm anh em tôi hì hục tháo được miếng sắt ra và mài nhọn rồi gắn lại chỗ cũ, không hiểu tại sao lúc nào cặp mắt của tôi và của các  “thủ phạm” khác cũng dán vào miếng sắt, nhất là trong các giờ điểm danh ban chiều. Có những lần mấy anh trật tự hoặc cán bộ vào điểm danh mà vô tình dừng lại nhìn vào cánh cửa có miếng sắt đang treo lơ lửng là tim tôi gần như ngừng đập, và nghe lùng bùng trong lỗ tai. Ngay cả lúc ban  ngày không có ai lên kiểm soát nhưng chúng tôi cũng hay liếc nhìn miếng sắt, làm như thể nếu không nhìn sẽ bị người ta ăn trộm mất báu vật đó.


Chiều nay, cũng như thường lệ, sau khi nghe tiếng kẻng, chúng tôi ngồi thành hàng ngay ngắn trên bệ nằm, chờ cán bộ và trật tự vào điểm danh. Lúc đó tôi nghe trong bụng ruột gan bị cồn cào dữ dội, cảm thấy mệt gần như mất thở. Tôi liếc nhìn qua cha Định lúc đó cũng đang ngồi yên trong hàng ngang, như tư thế thông thường hàng ngày ngồi chờ điểm đanh. Điều làm tôi lo lắng là mặt mày cha Định lúc đó trắng bệch ra như người bị thương hàn vừa mới bình phục. Vì đêm qua tôi đã báo cho cha Định tất cả thời giờ và cách thức vượt ngục, nên lúc này tôi lo sợ rủi ro cha Định vì quá khiếp đảm và đợi lúc cán bộ vào điểm danh chiều nay sẽ tố cáo thì sao!


Có tiếng các xâu chìa khóa khua rổn rẻng bên ngoài, rồi cửa vào khu kiên giam mở ra. Mọi việc diễn ra một cách bình thường như mọi ngày, không có dấu gì khác la. Mặc dù ngày mai là ngày lễ nghỉ, có thể trại sẽ tăng cường biện pháp an ninh kỹ lưỡng hơn, nhưng tôi rất mừng khi thấy mọi việc diển ra bình thường.


Tôi ngồi thầm thì cầu xin ơn trên phù hộ cho đừng có chuyện gì xảy ra trong giây phút quyết định cuối cùng này. Tôi biết rằng chỉ cần một trục trặc nhỏ cũng sẽ có hậu quả khốc liệt không thể lường được. Mấy anh em trong nhóm tôi chắc lúc đó cũng có tâm trạng như tôi nên nhìn ai nấy cũng ngồi trang nghiêm chỉnh tề như những vị thánh sống, ai nhìn vào thấy cũng thương.


Chỉ có điều khác là khi tôi liếc nhìn qua hai bên, tôi cũng bắt gặp những con mắt của các vị “thánh sống” đó, ngồi yên như các pho tượng, cũng cuốn tròn tròng mắt sát vào đuôi mắt nhìn tôi! Cái cảnh những bức tượng gỗ đang liếc nhìn ngang như vậy, nếu có ai đem vẽ thành tranh chắc trông sẽ rất buồn cười.


Hai anh trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát chạy vụt vào sân, mắt láo liên, tay cầm cái búa bằng gỗ có cán dài gõ nghe côm cốp vào tường xem coi có chỗ nào bị đào, và gõ vào các song sắt cửa sổ coi có nơi nào bị cưa hay bị phá hoại gì không. Vì ngày nào cũng phải đối diện với hai anh trật tự ác ôn này, nên tôi nhớ hình ảnh, cách ăn mặc, cách đi đứng của hai anh này rõ ràng như hình xâm trổ trên thân thể.


Một điểm đặc biệt mà tôi ghi nhận là hai anh trật tự này không bao giờ nhìn thẳng vào mắt của ai trong đám tù khu kiên giam. Nhưng khi hai anh này đã nhìn thẳng vào mắt ai, là người đó gặp chuyện lôi thôi. Nhẹ nhất cũng vài lời mắng chửi và nặng hơn là vài cú đấm, hoặc hơn thế nữa.


Cán bộ đi điểm danh hôm đó tên là Hạ. Anh là người ít nói, nước da ngăm đen, có nhiều vết lang ben trên mặt và cổ. Cán bộ Hạ đứng ngoài cửa buồng nhìn vào, Trương Văn Phát đã chạy trước qua buồng bên để gõ búa dọn đường, chỉ có Bùi Đình Thi đi vào kiểm soát trong nhà cầu của buồng chúng tôi. Tôi nín thở hồi hộp và cầu trời cho Thi đừng để ý tới miếng sắt đeo tòn teng trên cánh cửa nhà cầu, vì nếu để ý quan sát sẽ thấy miếng sắt giẹp này có cái gì không bình thường. Nếu Bùi Đình Thi phát giác ra miếng sắt này, chẳng những kế hoạch vượt ngục đổ vỡ trước lúc bắt đầu, mà chúng tôi chắc chắn sẽ bị rắc rối to. Mặc dù lúc bấy giờ nếu bị phát giác miếng sắt đã mài bén, chúng tôi đã có câu trả lời là không biết và sẽ nói là ai đó đã mài từ trước khi chúng tôi vào buồng này.


Cũng may là Bùi Đình Thi chỉ làm các công việc như thường ngày và không để ý tới cái đầu miếng sắt trên cánh cửa vào nhà cầu đã mỏng và nhọn hơn nhiều! Lúc này trong buồng, không phải chỉ có miếng sắt mài bén, mà còn chiếc thang dây đã hoàn thành có móc sắt hẳn hoi được bó lại như cái gối đang nằm sau lưng tôi. Nếu vì lý do gì mà chiếc thang dây này bị phát hiện ra thì cho dù...trời cũng không cứu được chúng tôi đừng nói chi tới người phàm! Điểm danh xong, cán bộ Hạ và hai trật tự Thi - Phát ra khỏi vòng rào của khu kiên giam. Giờ hành động đã tới!  Điềm chẳng lành: tắt đèn!  

 

   Theo đúng kế hoạch, sau khi cán bộ và hai anh trật tự vừa khuất dạng, tôi lẹ làng bước xuống để tháo miếng sắt đã được cài lại một cách hờ hững trên cách cửa vào nhà cầu. Khi tôi vừa với tay kéo cánh cửa để tháo miếng sắt thì một việc bất ngờ xẩy ra: Hơi gió tạo ra bởi việc kéo cánh cửa làm tắt ngọn đèn! Chuyện này chưa bao giờ xẩy ra trong buồng từ trước tới nay!


Đây là cái đèn dầu nhỏ làm bằng lọ thuốc Penicilin mà lúc nào cũng được chúng tôi chăm sóc cẩn thận và để sâu vô góc tường, ngay lối vào nhà cầu. Trong suốt thời gian ở buồng này, có lúc ngọn đèn này cũng bị tắt nhưng không phải vì lý do đóng hoặc mở cửa nhà cầu mà vì thiếu dầu. Buồng tôi được cấp phát một lượng dầu tối thiểu dùng thắp ngọn đèn, để ban đêm cán bộ làm nhiệm vụ canh gác có thể thấy được các tù nhân trong buồng sau khi đèn điện trên trần tắt lúc 10 giờ đêm. Phần chúng tôi cũng hết sức bảo vệ nó để có lửa hút thuốc lào. Để cho chắc ăn, chúng tôi giao cho anh Nguyễn Sỹ Thuyên là tay nghiện thuốc lào nặng, cần có lửa trong buồng nhất, lo việc trông nom ngọn đèn, và từ trước tới giờ tôi để ý anh Thuyên chăm sóc ngọn đèn như chăm sóc con ngươi trong mắt anh. 

 

   Theo quan niệm thông thường của người đời, đèn bị tắt là một điềm gở, nên lúc đó cả năm người ngồi lặng yên nhìn nhau, lòng đầy lo ngại. Riêng tôi, mặc dù trong lòng bất an, nhưng tự an ủi mình rằng, có thể vì vội vàng, tôi đã kéo cửa nhà cầu mạnh tay và tạo ra hơi gió làm tắt đèn, có thế thôi, chẳng có gì phải lo ngại. Khi đó tôi để ý thấy sự lo ngại và sợ sệt hiện rõ trên mặt vài anh em, nhất là Lâm Thành Văn. Từ chiều tới giờ thỉnh thoảng Văn kêu đau vì chứng bệnh dạ dầy tái phát mạnh do ảnh hưởng sự lo lắng quá độ. Thấy tắt đèn, Văn bước xuống ngồi gần bên tôi lo lắng hỏi:


- Anh Lễ ơi! Đèn tắt, đêm nay không thấy đường làm sao đào tường?


Mặc dù nói thế nhưng tôi biết trong lòng Văn lo chuyện khác. Vấn đề mang tính cách duy tâm là việc hên xui, may rủi trước hiện tượng tắt đèn, nên tôi đáp.


- Không sao đâu anh, mình sẽ kéo lửa và đốt đèn lại. Có thể chậm một chút nhưng sẽ làm được. Còn việc tắt đèn chẳng qua tôi vô ý kéo cánh cửa mạnh quá tạo ra hơi gió thôi, chẳng có gì đáng quan tâm đâu.


  Anh Thuyên chen vào:


- Bằng mọi giá mình phải tiếp tục thôi các ông ạ! Mọi thứ đã chuẩn bị hết cả rồi, nếu không đi thì giấu vào đâu? Tình thế này không thể dừng được nữa.


Trong khi đó Đặng Văn Tiếp vội vàng lục tung túi đồ nghề dùng để kéo lửa ra, và chúng tôi không chậm mất một giây, lo việc hì hục kéo lửa, theo cách thức tay không lấy lửa mà tôi học được trong tù. Đó là dùng một bánh xe bằng dáy của hộp sữa, đục 2 lỗ nhỏ ở giữa để xỏ dây qua và kéo cho xoay tròn. Khi bánh xe xoay hết vòng tròn sẽ theo đà dây kéo mà xoay ngược lại, cứ thế lúc nào bánh xe cũng quay tít rất nhanh. Khi đó cho cạnh bánh xe chạm nhẹ vào một vật bằng sứ, là cái khu bát. Khi bánh xe kim loại quay tít chạm vào khu bát sẽ bắn ra những tia lửa, có một miếng “bổi” sẳn để hứng những tia lửa đó. Miếng” bổi” là phần than tro của một miếng vải đã đốt cháy và đè cho tắt ngay, phần than tro còn dính trên đầu miếng vải sẽ bắt dính các tia lửa rất nhạy. Chúng tôi chuẩn bị sẵn vài ba miếng bổi này, được gói cẩn thận trong bao ny-lon cho khỏi bị ẩm ướt. Trong tù tôi đã học được những kỹ thật loại mưu sinh thoát hiểm mà người sống bình thường ngoài xã hội không bao giờ biết được. Trong đó, có kỹ thuật tay không lấy lửa. 


Mặc dù tôi đã chuẩn bị những đoạn dây se lại từ những sợi dây dù chắc chắn tháo ra từ ruột áo giáp, nhưng vì hối hả tôi làm đứt gần hết các đoạn dây xỏ ngang qua lỗ đục giữa cái bánh xe kim loại là đáy của hộp sữa đặc có đường.


Tình cảnh chúng tôi lúc bấy giờ như cây tên đã lắp vào dây cung kéo thẳng, chỉ còn có cách buông ra mà thôi! Các việc khác phải hoãn lại để lo kéo lửa. Bình thường tôi kéo lửa không khó lắm , chỉ cần vài phút là xong. Nhưng lúc này vì quá lo âu và cố gắng làm cho nhanh nên tôi lại càng trở nên vụng về và kéo lửa mãi không được. Càng không kết quả tôi càng luống cuống, càng luống cuống tôi càng không kết quả! Tôi biết là lúc bấy giờ một phút qua đi có nghĩa là mạng sống chúng tôi bị thu ngắn lại. Trong khi hì hục kéo lửa, đầu óc tôi nóng ran như muốn bốc khói. Hai tai nghe lùng bùng, da mặt nghe rát và gần như không còn cảm giác bén nhạy như lúc bình thường.


Những đoạn dây đầu đã tơi tả và đứt quãng nhưng vẫn chưa lấy được lửa làm tôi chết điếng cả người. Cuộc vượt ngục thành công hay thất bại một phần lớn cũng tùy thuộc vào việc tôi có lấy được lửa hay không và lấy được sớm hay muộn! Khi xỏ luồn sợi dây cuối cùng vào lỗ miếng sắt, tự nhiên tay tôi run nhè nhẹ vì nếu đoạn dây cuối cùng này bị đứt nữa thì coi như cuộc vượt ngục bắt buộc phải hủy bỏ và hậu quả sẽ không lường được. Tôi âm thầm cầu nguyện.


Trong lúc đó cha Định vẫn đang ngồi dưới lối đi, chỗ ngài nằm ngủ hàng đêm, vì ở đó rộng rãi thoải mái hơn trên bệ nằm chật chội khó xoay trở. Cha Định ngồi dựa lưng vào cánh cửa buồng bằng sắt trong tư thế yên lặng chẳng nói một lời trong khi nhóm mấy người chúng tôi cũng đang ngồi dưới đường đi nhưng sát ở cửa vào cầu tiêu và chấu đầu vào nhau trong việc kéo lửa. Riêng Nguyễn Sỹ Thuyên đã được phân công ngồi ngay cửa sổ nhìn ra sân để nếu có cán bộ bước vào sân khu kiên giam thì lên tiếng:“Chào cán bộ” thật to để báo động cho anh em chúng tôi biết kịp thời.


May làm sao, tôi lấy được lửa trong lần cố gắng với đoạn dây cuối cùng này. Tất cả chúng tôi thở phào nhẹ nhõm khi nghe mùi khói bốc ra từ miếng bổi và sau đó tôi đã thổi lên thành ra lửa ngọn để thắp đèn. Chúng tôi vượt qua được trở ngại đầu tiên khi thắp đèn lại được nhưng phải trả giá bằng một lượng thời gian vô cùng quý báu trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Trong lúc cẩn thận nâng niu cái đóm để thắp đèn khi đó tôi nhớ tới câu nói:“Thời giờ là tiền bạc”. Lúc này thời giờ đối với tôi còn quý gấp trăm triệu lần hơn tiền bạc. Tôi nói lẩm bẩm :“Thời giờ là mạng sống” .



Mũi dao định mệnh


Chúng tôi giao cái đèn cho anh Thuyên và dặn anh bằng mọi giá phải bảo vệ ngọn lửa vì một khi đã bắt tay vào việc rồi thì ngọn đèn là vấn đề sống còn. Chúng tôi kéo vào bên trong để bắt đầu công việc trong tình trạng thần kinh căng thẳng tột cùng vì biết là một khi đã bắt đầu đào tường rồi, sẽ không thể nào dừng lại được. Lúc bấy giờ cha Định ngồi lặng thinh, dựa tường, nhắm nghiền mắt lại. Trong lúc chúng tôi vào phía bên trong thì may mắn thay, trời bắt đầu đổ mưa, và cơn mưa càng lúc càng to như thể trời đang đứng về phía chúng tôi.


Trời mưa sẽ giúp chúng tôi ba điều kiện thuận lợi. Trước hết là có nước để tưới vào gạch làm cho vôi vữa mềm ra lúc đào tường. Thứ nhì, tiếng mưa sẽ át tiếng động lúc đào tường và cho dù có cán bộ đứng bên ngoài buồng cũng không thể nghe được vì có tiếng nước mưa đang chảy ầm ầm vào bể từ cái lỗ trên nóc nhà bằng. Nhưng yếu tố cuối cùng quan trọng nhất vì mưa to, cán bộ sẽ lười biếng và ít đi tuần trên khu nhà Bằng chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu việc đào tường.


Vai trò của từng người được phân chia rõ ràng. Anh Tiếp và tôi sẽ thay nhau đào tường và lấy gạch ra, vì chỗ ngồi để đào là một cái hốc khá hẹp nên chỉ đủ cho một người ngồi ở đó để đào tường. Anh Tiếu và anh Văn lo việc thòng dây múc nước trong bể chuyền cho tôi giội lên chững chỗ đang đào. Anh Thuyên đang ngồi bên cửa sổ nhìn ra sân buồng, canh chừng cán bộ, và giả vờ hát nghêu ngao để lấn át tiếng đào tường sột soạt bên trong.


Miếng sắt dụng cụ đã được tôi tháo ra khỏi cửa, được quấn vải thật dầy phía cuối để làm cái cán. Mặc dù đã được quấn vải khá nhiều lớp nhưng  khi cầm vào cũng không có thế như cầm con dao hoặc cái đục có cán bằng gỗ hẳn hoi, nhưng trong tình thế đó, như vậy đã quá tốt rồi. Anh Đặng Văn Tiếp là người đào nhát đầu tiên. Trước khi ấn mũi sắt nhọn vào bức tường, anh Tiếp quay lại nói với tôi, đang ngồi cầm lon nước kế bên bằng một giọng thật căng thẳng và đầy lo âu: 

 

     - Đây là mũi dao định mệnh, cậu Bảy nhé!

 

       Tôi nhìn anh gật đầu và nói:

 

      - Cầu xin Đấng Thiêng Liêng phù hộ cho anh em mình!

 

    Nghe nói xong câu đó, anh Tiếp ấn mạnh mũi dao định mệnh khoét sâu dần vào bức tường nhơ bẩn của trại tù Thanh Cẩm. Bức tường của trại tù giam hãm sự tự do của chúng tôi một cách phi lý và dã man. Trong lúc đó tôi biết mũi dao định mệnh này một khi đã thọc sâu vào tường sẽ không bao giờ có thể dừng lại được và cuộc đời chúng  tôi, tương lai chúng tôi và cả mạng sống chúng  tôi nữa cũng đang đi theo với mũi dao định mệnh này.


Bất giác tôi nhớ tới giờ này bên ngoài xã hội cũng đang có biết bao nhiêu đồng bào tôi cũng đang thọc mũi dao định mệnh vào bức tường vô hình giam hãm cả một dân tộc bằng hành động vượt biên trốn khỏi một nhà tù lớn hơn! Những đồng bào vượt biên đó và 5 anh em tôi ở trong đây đều hành động vì một mục đích giống nhau, chúng tôi muốn tìm TỰ DO, dù có phải trả giá TỰ DO bằng cái chết chúng tôi cũng sẵn sàng để trả tới giá.


Chỉ có một điều khác là các đồng bào vượt biên tìm tự do bên ngoài có thể đừng chân lại khi thấy không an toàn, còn tình cảnh chúng  tôi ở trong tù vào lúc này không thể nào dừng lại được nữa. Đã phóng lao chúng  tôi phải theo lao. 


Anh Đặng Văn Tiếp đang dồn hết sinh lực và sự khéo léo của con người anh vào việc đào tường. Đôi tay anh hoạt động lanh lẹ như con chuột đang đào hang. Mãnh sắt nhọn trong tay anh làm việc cật lực như một lưỡi cưa máy, khi thì đưa lên khi thì kéo xuống , khi thì rạch vào các khe xi măng giữa hai hòn gạch, khi thì cố lòn sâu vào giữa khe để moi những hòn gạch ra. Nhờ có tiếng nước mưa đang chảy ầm ầm vào bể, chúng tôi càng yên tâm hơn để đào.


Bầu khí lúc đó yên lặng khác thường, không có âm thanh nào khác ngoài tiếng nước chảy từ mái nhà xuống bể và tiếng thở hồng hộc của anh Tiếp. Anh Tiếp cắm cúi đào điên đào dại, đào sống đào chết, đào với tất cả sức lực và ý chí của con người anh. Anh Tiếu và anh Văn đứng cạnh bể nước thòng dây kéo từng lon nước lên chuyền cho tôi để tưới nước vào các chỗ Tiếp đặt mũi sắt nhọn vào. Bốn người chúng tôi hợp lại thành một “bộ máy đào tường” đang hoạt động hết tốc lực. Lúc này còn ánh điện của cái bóng điện tròn trên trần phòng giam và ánh sáng lọt vào cầu tiêu qua cánh cửa mở. Nhờ có ánh sáng, chúng tôi đào tường khá thuận tiện, nhưng phải làm cho nhanh, đào được càng nhiều càng tốt vì đèn điện sẽ tắt sau 10 giờ đêm, chừng đó mọi việc sẽ khó khăn hơn với chiếc đèn dầu leo lét chỉ to bằng ngón chân cái.


Vì chỗ ngồi để đào là một cái hốc hẹp, chỉ đủ chỗ cho một người, và anh Tiếp đang ngồi đó, tôi đứng ngay sau lưng anh, khom người giúp rút từng hòn gạch ra. Được một lúc, tôi để ý thấy trên viên gạch toàn là máu tươi đỏ thẫm. Tôi nhìn xuống tay anh Tiếp, thì ra các mảnh vải quấn vào cán miếng sắt giẹp đã rách nát ra và cạnh của thanh sắt cứa đứt tay anh Tiếp chảy máu ròng ròng mà anh không hề hay biết. Tôi vỗ vai Tiếp nói:


- Anh! tay anh đổ máu rồi! Dừng lại! Dừng lại! Em vào thay cho!


   Anh Tiếp vẫn cắm cúi đào và hỏi lại:


- Cậu bảo cái gì?


  - Tay anh bật máu ra kìa anh không thấy à? Nhìn tay anh kìa.


        Nghe tôi nói, anh Tiếp nhìn chỗ tay cầm miếng sắt. Anh dừng tay, đặt miếng sắt xuống và xòe bàn tay phải ra. Bàn tay anh đã rách nát và đầy máu me tự lúc nào. Anh ngoái đầu ra phía sau bảo tôi


    - Cậu Bảy! Đưa cho anh thêm vải để bó cán dao, vải này rách nát ra cả rồi.


  Tôi đáp:


    - Anh ngừng tay nghỉ chút đi.


   Anh Tiếp gắt tôi:


- Thì cậu lấy thêm vải mang lại đây, nhanh lên, nghỉ sao được mà nghỉ?


  Nói xong, anh quấn sơ lại mảnh vải đã rách tả tơi ở cán miếng sắt giẹp và tiếp tục đào.


       Tôi rời chỗ anh và trở ra ngoài vớ được chiếc áo hay chiếc quần gì  của ai tôi cũng không để ý, vội vàng xé những mảnh vải dài, bề ngang chững 5 phân như  những cuốn băng của các y tá và mang ngay vào trong cầu tiêu, lúc đó Tiếp vẫn đang hì hục đào. Tôi buộc lòng phải nắm áo anh kéo đứng dậy để anh nghỉ, trong khi tôi bó vải vào cán miếng sắt và sau đó vào thay anh.


     Anh Tiếp đứng lên sau một lúc đào khá lâu. Lúc này trông anh phờ phạc, mệt nhọc và nhất là bàn tay phải của anh máu chảy đầm đìa lẫn vào với đất cát và vôi vữa trông rất thương tâm và thảm hại. Tôi bảo Văn lấy lon nước giội rửa tay cho Tiếp trong lúc tôi quấn thêm vải vào cán miếng sắt. Lần này thì tôi quấn nhiều hơn. Sau đó, anh Tiếp và tôi thay đổi vị trí cho nhau và công việc đào sống đào chết lại tiếp tục.


      Việc đào bức tường khó khăn hơn chúng tôi tưởng. Tường được xây bằng xi-măng già, rất cứng. Chỗ ngồi lại là một góc hẹp, khó xoay trở và chỉ vừa đủ chỗ cho một người, vì thế một người đào thì ba người phải đứng phía sau lo các việc khác chứ không thể cùng ngồi xuống để tiếp tay được. Nhưng cho dù có đủ chỗ cho hai người cũng không làm gì hơn trong khi chúng tôi chỉ có một dụng cụ duy nhất là miếng sắt giẹp có đầu nhọn. Thực ra, chúng tôi cũng có 1 cái muỗng bằng nhôm nhưng không thể dùng được với loại tường cứng như thế này.
         Trong hoàn cảnh đó, bốn người thi nhau hì hục đào và đào với tất cả sức lực của con người. Miếng sắt dùng để đào tường mặc dù đã quấn vải vào để cầm nhưng chẳng bao lâu vải lại bị rách, lòi cạnh mảnh sắt ra và cứa rách da thịt tay chúng tôi làm máu đổ ra lai láng. Mặc dù vậy, chúng tôi cũng cắm đầu cắm cổ mà đào, người này mệt thì người kia vào thay không ngơi nghỉ một giây phút nào vì thì giờ lúc đó chính là mạng sống. Kẻ đào tường, người ngồi bên giội nước cho mềm xi-măng, người khác thòng dây lấy nước từ bể nước. Chúng tôi hoạt động đều đặn và hết tốc lực như một nhà máy sản xuất xe hơi theo hệ thống dây chuyền, sản phẩm được chuyền từ khâu này sang khâu khác và thành quả cuối cùng là những viên gạch ương ngạnh được chúng tôi móc ra khỏi bờ tường và vất ngổn ngang trong căn buồng chật chội.


        Dù sao chúng tôi cũng gặp một điều may mắn là trong khi đang đào tường thì bên ngoài trời đổ mưa xối xa. Vì mưa to nên cán bộ canh gác càng lười biếng lên tuần tra trên khu kiên giam, nhất là ban ngày các anh đã chè chén say sưa. Thật vậy, suốt trong đêm, không có bóng dáng một cán bộ nào bước vào khu kiên giam và anh Thuyên cứ ngồi hát nghêu ngao bên trong cửa sổ mà chưa phải sử dụng tới cái khẩu hiệu “chào cán bộ” lần nào.


       Trong khi chúng tôi đào tường, có tiếng đấm vào tường của các anh em bên các buồng khác, như thế là việc đào tường ở buồng này, các buồng bên đều biết. Các tiếng đập tường có ý nhắc nhở chúng tôi làm khẻ thôi vì ở các buồng bên đều nghe biết. Chúng tôi thỉnh thoảng nghe các tiếng ám hiệu đó nhưng không quan tâm vì lúc bấy giờ chúng tôi chẳng còn tâm trí đâu mà để ý các tín hiệu đó. Việc quan trọng vào bậc nhất là đào tường, đào càng nhanh càng tốt, đào nhanh thì sống, đào chậm thì chết. Có thế thôi.


Thỉnh thoảng tôi bước ra và thấy đồ đạc trong buồng bị vất ngổn ngang và bề bộn như một đống rác thành phố. Vì chúng tôi đã chấp nhận ra đi nên chẳng còn bận tâm đến khung cảnh trong buồng nữa, mặc nó muốn ra sao thì ra. Cha Định lúc đó ngồi dựa lưng vào tường, ngước mặt lên trần nhà, mắt nhắm nghiền, đôi môi luôn mấp máy. Tôi đoán là ngài đang đọc kinh cầu nguyện và có lẽ cầu cho chính ngài nhiều hơn là cho chúng tôi.


Về phần tôi, lúc bấy giờ chẳng còn tâm trí đâu để mà cầu nguyện nữa! Thực ra, những gì tôi cầu xin ơn trên phù giúp thì tôi đã cầu nguyện từ mấy tháng nay. Lần cuối cùng tôi cầu nguyện cách khẩn khoản là lúc tôi dùng đoạn dây dù cuối cùng để kéo lửa cách đây mấy tiếng đồng hồ. Và lần đó thì lời cầu xin của tôi được ơn trên phù giúp, cuối cùng tôi đã lấy được lửa .

 


Đào sống đào chết!


 Theo kế hoạch dự trù, chúng tôi phải ra khỏi buồng trước nửa đêm, vì sau khi ra khỏi buồng còn phải gỡ bản lề cánh cửa gỗ vào hầm cầu tiêu và sau đó, phải vượt qua hai bức tường nữa mới chính thức bước vào khu vực tự do. Mặc dù chúng tôi dùng tới sức lực cuối cùng nhưng kết quả không được mấy vì xi măng xây tường này quá cứng. Tệ hơn nữa là những viên gạch trong góc, miếng nọ nằm đè lên miếng kia rất khó kéo ra, mặc dù vôi vữa chung quanh đã được róc sạch. Cứ thế, chúng tôi mải mê đào bới cật lực tới gà gáy lần thứ nhất (quãng một giờ sáng) mà vẫn chưa xong bức tường. Nghe tiếng gà gáy, tôi điếng cả người và càng tăng tốc độ đào.


Khi nghe tiếng gà gáy, tôi nghĩ là cuộc vượt ngục đã thất bại. Cái cảm giác khi phải đương đầu với thực tại lúc cán bộ lên kiểm tra và bắt gặp chúng tôi đang ở trong tình cảnh này khiến tôi kinh hoàng và da thịt tôi tự nhiên trở nên tê dại. Đáng lẽ giờ này chúng tôi đã ra bên ngoài và đang tìm đường lẩn tránh vào rừng phía biên giới Lào -Việt, nhưng ngược lại vẫn còn loay hoay như con thú bị bẫy sập đang tìm dường thoát thân trong chiếc lồng có lưới sắt.


Một câu hỏi gớm ghê chợt hiện ra trong đầu tôi:“Nếu tới sáng ngày khi cán bộ và trật tự lên kiểm tra buồng mà chúng tôi vẫn chưa ra ngoài được thì sao?”. Tôi chết điếng người và không dám suy nghĩ tiếp theo. Điều tôi biết chắc là chúng tôi đã thất bại, nhưng còn nước thì còn tát như có lần tôi đọc câu tiếng Anh:“Where there is life, there is hope.” Vì chúng tôi còn sống nên chúng tôi còn hy vọng. Nghĩ như thế nên càng hè nhau tăng cường tốc độ đào tường lên tối đa vì mỗi phút qua đi là tôi cảm thấy mạng sống mình bị thu ngắn lại.


Chúng tôi không dừng tay lấy một giây mặc dù tay  đã rách nát, máu dính đỏ thẫm những viên gạch vừa được lấy ra, nhưng đặc biệt tôi không hề cảm thấy một chút đau đớn nào. Anh Văn và anh Tiếu cũng vào thay cho anh Tiếp và tôi rất nhiều lần, nhưng thấy cách hai anh làm không nhanh nhẹn nên anh Tiếp và tôi nói hai anh chỉ lo cung cấp nước càng nhiều càng tốt để giội vào tường cho hai chúng  tôi đào. Bất ngờ lúc đó, Văn lại lên cơn đau dạ dày, một phần vì lo lắng , phần khác Văn đã làm việc quá sức. Chúng  tôi bảo Văn ra ngoài nằm nghỉ để có sức lúc ra đi, còn lại ba người cố sức chống chọi với Tử Thần mà trí tưởng tượng của tôi đang phác họa ra.


Tôi thấy một hình hài cao lêu khêu, bên trên là chiếc đầu lâu nhẵn thín với hai hốc mắt sâu hoắm, mình khoác chiếc áo choàng đen rộng phùng phình đôi tay dang rộng, hai bàn tay lòi ra khỏi áo choàng chỉ có xương và không có da thịt. Một tay cầm chiếc liềm hái dài ngoằn, lưỡi liềm hái sáng choang... Cái hình hài quái đản đó đang trườn người bước tới bằng một tốc độ rất nhanh và tưởng là không có gì có thể cản lại được! 


Sau khi gà gáy lần thứ nhất một lúc, chúng tôi mới đào xong một lỗ hổng chỉ vừa đủ thân người lọt qua. Ngay lúc đó, cả ba người vội chui lọt qua lỗ này để vào hầm chứa phân vì còn phải phá một cánh cửa bằng gỗ khác nữa mới ra bên ngoài được. Chúng tôi rơi vào cái hầm chỉ cao vừa quá đầu người, là nơi để các sọt chứa phân, chung cho bốn buồng của khu kiên giam, bên dưới các lỗ cầu tiêu.


Lúc mới lọt xuống đây, chúng tôi cũng thử gỡ bản lề cánh cửa chặn lối ra phía sau. Nhưng xi măng ở đây cũng rất cứng và lúc đó đã  muộn, nên thay vì đào cái bản lề cửa như đã dự tính, chúng tôi hè nhau kéo mạnh đánh “ầm” một phát làm bật tung tất cả đinh của cánh cửa ra. Mặc dù có tiếng động mạnh nhưng không vang xa, vì khi ấy trời đang mưa to, nhưng các anh em tù nhân ở ba buồng bên trên sẽ nghe rất rõ. Bằng chứng là tiếng đấm vào tường của các anh em ở 3 buồng kia càng to và nhiều hơn. Tình thế này thúc bách quá, đã quá muộn rồi, buộc chúng tôi phải đánh ván bài liều, vì không còn cách nào hơn. Cho dù tiếng cánh cửa bị kéo bật tung đinh ra đánh “ầm” vang dội đó làm cán bộ nghe được chúng tôi cũng đành chấp nhận. Còn nước thì còn tát!

 


Cái giá của tự do


Sau khi phá bật cánh cửa hầm chứa phân để có thể ra đi, chúng tôi vội vàng chui trở lại vô buồng để lấy thang dây và các vật dụng cần thiết. Cả ba chúng tôi leo trèo nhanh như  khỉ. Có lúc tôi nghĩ có lẽ khỉ cũng không thể nào lanh lẹ hơn tôi lúc bấy giờ. Vì đứng bên dưới chồm lên không cách gì thót lên tới cái lỗ hổng vừa đào nên chúng tôi phải cõng nhau lên cho vừa tầm mới có thể chui trở lại vào buồng và người cuối cùng là tôi đưa hai tay cho người bên trong nắm lấy kéo lên. Dĩ nhiên, khi kéo như thế, tôi sẽ bị rách da bụng nhưng cho dù là rách một mảnh da bụng, hay một chục mảnh da bụng đi nữa, cũng có là gì, so với cái viễn tượng về một trận đòn hội chợ nếu chúng tôi bị bắt lại.


Khi trở lại vào buồng, chúng tôi thấy anh Thuyên và Văn đã sẵn sàng và đang ngồi đợi. Tôi vội chụp lấy những thứ gì đã sắp đặt sẵn cho vào túi. Để việc đi đường gọn nhẹ, chúng tôi bảo nhau không ai mang theo thứ gì, nhưng mỗi người mặc vào người vài ba lớp quần áo để có mà dùng trên đường đi. Phải làm thế nào để hai tay được rảnh rang vì còn phải leo qua tường và nhất là phải thật gọn nhẹ trong lúc trốn chạy trong rừng, hoặc nếu phải lội xuống dòng sông Mã. Buồng giam chúng tôi mọi ngày vẫn ngăn nắp, gọn gàng nhưng lúc này trở bề bộn như một đống rác, ướt đẫm những nước nôi, đất cát và dơ bẩn như cái chuồng heo, nhìn vào thấy mà khủng khiếp.


Trước lúc rời buồng ra đi, chúng tôi tới chào từ giã cha Định, lúc bấy giờ đang ngồi dưới đất và khóc nức nở. Lòng tôi đau xót khi nhìn thấy cảnh này. Tôi đến bên và quỳ xuống lạy cha Định một lạy để từ giã. Tôi cũng có ý muốn lạy để xin lỗi ngài và xin phép được trói tay và nhét giẻ vào miệng ngài theo như kế hoạch đã bàn tính. Đây là cách giúp cha Định có lý do để trả lời cho cán bộ là bị chúng tôi uy hiếp, còn cán bộ có tin hay không là việc khác.


Tôi làm các việc này trong sự nhanh nhẹn lạ thường trong lúc các anh khác đã lần lượt chui qua lỗ tường vừa đào được để ra hầm chứa phân và bò ra ngoài trước. Xong việc, tôi phóng nhanh như một vận động viên chạy nước rút, vội chui qua lỗ tường vừa đào rơi vào buồng chứa phân và theo các anh em kia. Lúc bấy giờ đã muộn, tôi nghe văng vẳng tiếng gà gáy lần thứ hai! Tôi bắt đầu cầu nguyện cho sự an toàn của 5 người chúng tôi và của cha Định nữa. 

 

   Chúng tôi xếp hàng dọc chạy lần theo con đường hẹp từ cánh cửa vừa bị phá thông ra phái sau khu kiên giam. Con đường này chỉ rộng chừng 1.50m để người tù gánh phân ra vào lấy phân mỗi ngày trên khu kiên giam. Để chuẩn bị cho cuộc vượt ngục này, mọi chi tiết đều được chúng tôi nghiên cứu cẩn thận. Ngay cả việc thứ tự của mỗi người khi đi đứng và làm  những phần hành khác nhau.  Đặng Văn Tiếp là người khỏe và tháo vát nhất trong nhóm, lúc nào cũng đi đầu. Lâm Thành Văn là người có bệnh và yếu nhất trong nhóm nên đi giữa và tôi là người trẻ nhất đi ở cuối cùng để nếu có gì trục trặc bất ngờ tôi còn thể ứng đối được.


Anh Đặng Văn Tiếp dẫn đầu, nằm sát mặt đất bò ra ngài quan sát, thấy không có ai, anh khoát tay ra hiệu cho chúng tôi bò ra tới bức tường khu kiên giam ngay bên góc nhà. Bức tường ngăn cách các buồng này chỉ cao chừng hai thước và chúng tôi leo qua một cách dễ dàng để tới bên chân tường cao của trại. Khu vực này, chúng  tôi mới đặt chân tới lần đầu tiên sau 9 tháng sống trong trại này. Đó là một hành lang rộng quãng 5 thước và chạy dài theo bờ tường rất cao, xây bằng đá xanh, bao quanh trại. Trên mỗi góc của tường trại có chòi gác. Ban ngày lúc nào cũng có một cán bộ võ trang ngồi canh gác, nhưng chiều lại, sau khi điểm danh vào buồng khóa cửa, không còn cán bộ ngồi gác trên đó nữa, thay vào đó họ sẽ luân phiên đi tuần hành ban đêm trong khắp khu trại. Lúc này, chúng tôi đang tới giai đoạn chót cũng là giai đoạn khó khăn là vượt qua bức tường cao để thoát ra ngoài. Giai đoạn chót này đã được chúng tôi điều nghiên thật kỹ lưỡng và phân công rất chi tiết và cũng đã thực tập qua.


Vì đã được phân công và tập dượt trước nên khi vừa tới chân  tường bao bọc chung quanh trại, anh Trịnh Tiếu và tôi ngồi xuống cho anh Tiếp leo lên đứng trên vai. Anh Tiếp tay cầm một thanh tre cột móc sắt ở đầu thang dây, giơ lên cao và móc vào cọc sắt của hàng rào dây thép gai trên trốc bờ tường, rồi thả thang dây xuống. Bờ tường cao ước chừng 5 thước nên chúng tôi đã phải dùng chiếc thang “người” để anh Tiếp có thể quàng được cái móc sắt vào trên trốc bức tường. Sau khi thang dây được thả xuống, theo đúng kế hoạch, anh Tiếp leo lên trước tiên. Khi lên trốc tường cao anh cột một đoạn dây nhỏ vào cọc sắt nơi móc thang dây, thòng ra phía ngoài tường và bám theo dây này tuột xuống.


Anh Tiếp ra tới bên ngoài không bị trở ngại gì, mọi chi tiết dự trù được thực hiện đầy đủ và nhanh nhẹn. Tới phiên Nguyễn Sỹ Thuyên cũng leo lên tới trên đỉnh bức tường cao rồi đu dây bên ngoài xuống đất không có gì trở ngại. Nhưng tới phiên Lâm Thành Văn, xẩy ra một rắc rối chết người!


Vì biết Lâm Thành Văn yếu nên anh Tiếu và tôi nâng anh lên cao một đỗi. Khi Lâm Thành Văn bám thang dây leo được giữa chừng thì thang dây bị đứt làm Văn té lộn nhào xuống. May mà có Tiếu và tôi đưa tay hứng lấy anh và anh không bị ngã xuống đất. Thật là một đại họa ngoài sự dự trù của chúng tôi.
Lúc đó, tôi đứng bên dưới nhìn lên, hình ảnh một đoạn thang dây còn lại treo lơ lửng trên tường cao trông ghê rợn như giây thòng lọng của cái giá treo cổ. Tôi thẫn thờ cúi xuống nhìn đoạn thang dây bị đứt nằm dưới đất rồi lại ngước nhìn phần còn lại treo quá cao bên trên, tôi điếng người chẳng biết tính làm sao. Nhìn cái móc sắt “báu vật” làm bằng dây phơi bằng thép gai bện lại mà chúng tôi đã bỏ ra bao nhiêu công sức và kế hoạch mới đánh cắp  được,  giờ này đã trở thành vô dụng và đang móc vào chân cọc sắt trên trốc bờ tường cao.


Tình thế trở nên vô cùng bi đát, vì ba người còn kẹt lại bên trong không làm sao với tới đoạn thang dây ngắn còn lại ở lưng chừng bờ tường. Tệ hại hơn nữa, chúng tôi cũng không có cách gì để báo tin cho hai người bên ngoài về tai nạn vừa xẩy ra. Bụng dạ tôi lúc bấy giờ nóng như lửa đốt và tôi cũng nghĩ là anh Tiếp và anh Thuyên đang nấp bên ngoài cũng hết sức sốt ruột và lo lắng vì không biết chuyện gì đã xẩy ra bên trong. Tôi cố gắng đủ mọi cách để với lên thang dây bị đứt đang treo lơ lửng bên trên, nhưng vô hiệu quả. Tình thế trở nên tuyệt vọng, và khi nhìn về cuối chân trời, tôi thấy chân trời phía đông đã hơi ửng đỏ, lần đầu tiên tôi thấy cái chết đã gần kề và chắc chắn.


Vì không dự trù trường hợp chết người này nên trong tay chúng tôi lúc đó không còn có thứ gì để giúp với lên được trốc bờ tường đá xanh cao 5 thước này. Trong cảnh tuyệt vọng đó, tôi ngồi xuống cho anh Tiếu đứng lên vai tôi và Văn đứng chồng lên vai Tiếu với hy vọng sẽ nối lại được chiếc thang dây, nhưng không kết quả vì tôi không thể nào chịu nổi sức nặng của hai người. Vả lại, Lâm Thành Văn yếu quá, cũng không thể đứng lên cao trong tư thế mà những người làm xiếc còn phải cẩn thận! Chúng tôi làm đi làm lại, và lần nào leo lên rồi cũng té nhào xuống như những quả mít chín rụng phình phịch xuống mặt đất có nhiều cỏ sát chân bờ tường.


Sau khi cố gắng bằng đủ mọi cách nhưng không kết quả, tôi đành phải bảo hai người bạn ngồi xuống đợi và  tôi chạy  trở vào buồng.


Lúc bấy giờ biết là đã muộn và cuộc vượt ngục coi như đã thất bại, nên tôi không còn e dè như lúc mới vừa bò ra khỏi buồng. Lần này, tôi cố gắng chạy thật nhanh trở lại buồng, tiết kiệm được phút nào hay phút nấy. Tôi hành động vì sự thúc đẩy của bản năng sinh tồn và không còn biết lo sợ là gì. Lúc nãy, khi chúng tôi đi ra, ai nấy cẩn thận bò trườn sát mặt đất như những con sư tử rình mồi theo sự hướng dẫn và quan sát của anh Tiếp, lần nầy trở lại buồng, tôi cứ thế mà cắm đầu cắm cổ chạy. Cũng may lúc đó không có cán bộ nào đi tuần, nếu có, chắc tôi đã lãnh nguyên một băng đạn vào thân thể và sự việc đã hoàn toàn đổi khác. Tôi vượt qua bức tường thấp của khu vực kiên giam một cách nhanh nhẹn và dễ dàng như một con sóc và chạy vào hầm chứa phân mà tôi vừa từ bỏ lúc nãy.


Muốn trở vào buồng, tôi phải chui trở lại qua cái lỗ tường vừa đào nằm cao bên trên. Vì cao quá, tôi không thể với tới để chui trở vô buồng cho được. Lúc nãy có mấy người nên chúng tôi cõng nhau lên để chui vào, bây giờ chỉ có một mình tôi, sống hay chết gì cũng chỉ có một mình, và tôi phải tự xoay xở lấy. Trong lúc tuyệt vọng, tôi nhớ cánh cửa gỗ mà chúng tôi vừa kéo bật đinh lúc nãy, đang nằm gần lối ra vào hầm chứa phân.


Tôi mò lại tìm mấy tấm ván đang nằm rải rác gần đó mang lại và bắt dựng lên gần cái lỗ của bức tường. Khổ nỗi, những tấm ván này trơn trợt nên  không dễ gì để tôi có thể bám mà leo lên được. Mấy lần tôi cố leo lên lại bị tuột xuống và rơi tõm vào cái sọt chứa phân, làm phân văng tung tóe trong cái hầm tối om! Sau mỗi lần thất bại, tôi cứ phải mò mẫm nhiều chỗ mới có thể tìm lại được những tấm ván để bắt đầu lại. Thật là khổ thân tôi, việc ra khỏi buồng đã khó mà trở lại vào buồng cũng không dễ gì hơn. Tôi loay hoay hết cách này qua cách khác, cuối cùng rồi cũng leo lên được và trườn người chui vào lỗ để trở vào buồng.


Căn buồng lúc này như một bãi chiến trường. Chỗ nào cũng bê bết những gạch, vôi vữa, áo quần, chăn, màn, chiếu... Trong một góc buồng sát cạnh lối đi vào cầu tiêu, chiếc đèn dầu bé nhỏ vẫn đang leo lét cháy. Cha Định đang nằm dưới đất, thấy tôi bước vào vô cùng ngạc nhiên và lồm cồm mò ngồi dậy. Tôi chẳng nói với cha Định một lời nào, chỉ vội vàng lục tung các thứ đồ đạc của tôi. Hai tay tôi bươi móc nhanh như một con chuột đào hang để mò tìm cái màn. Đây là loại màng lưới bằng ny-lon của quân đội rất bền chắc. Tôi cuộn cái màn vào bên trong áo, vội vàng quay trở lại chui qua lỗ tường vào hầm chứa phân và theo đường cũ chạy ra chân bờ tường, nơi hai người bạn còn đang ngồi chờ ngay bên dưới đoạn thang dây treo lơ lửng bên trên.  Lúc này trời đã hừng sáng!


Tôi xoắn tròn cái màn lại, nối với đoạn thang bị đứt và cố gắng ném lên cho máng vào dây thép gai trên trốc bờ tường. Vì tường cao quá nên tôi ném lên rồi lại rơi xuống, cứ thế tôi cố hết sức ném cái màn lên. Sau một lúc cố gắng, chiếc màn mắc dính được vào bờ rào dây thép gai trên trốc bức tường. Sau khi ghì thử thấy chắc chắn, tôi bảo anh Văn bám vào leo lên trong khi Tiếu và tôi cố nâng Văn lên, nhưng Văn chỉ leo được một đoạn lại té xuống. Một lần, hai lần... Văn leo lên rồi lại té xuống vì anh đã quá yếu. Chỉ có thang dây với những thanh gỗ nằm ngang mới có hy vọng giúp được anh. Biết mình không thể leo ra được, Văn đau xót bảo:  

 

    - Tôi không đi được, hai anh lo tìm cách leo ra đi! 

 

      Tôi bảo Văn:  

 

    - Không thể được, chúng ta đã thề hứa cùng sống cùng chết với nhau, làm sao chúng tôi có thể bỏ anh cho đành?

 

       Văn mệt nhọc, ngồi bệt xuống đất, xua tay từ chối. Khi thấy anh Tiếu định kéo anh trỗi dậy, anh nói với anh Tiếu:

 

       - Anh Tiếu với anh Lễ lo đi đi, tôi đành bỏ cuộc! Hai anh đi ngay đi, ở đây chết cả đám, ích lợi gì! 

 

      Nói xong, Văn đứng lên, nắm lấy bàn tay tôi và tay anh Tiếu, bóp mạnh để từ giã, xong quay lưng đi dọc theo chân tường! 

 

   Tới phiên Trịnh Tiếu cố gắng bám cái màn leo lên, nhưng cũng không nổi mặc dù tôi hết sức cố gắng nâng người anh lên. Khi thấy không thể nào leo lên được, anh bèn quay sang bảo tôi lo trèo lên, còn anh đi thẳng thật nhanh về phía  Văn, bỏ tôi đứng bơ vơ với chiếc màn treo lơ lửng trên bờ tường.


Lòng tôi buồn vô hạn khi nhìn theo bóng hai người anh em nắm tay nhau đi thật nhanh dọc theo chân tường về phía tay trái mất dạng. Đây là sự mất mát đầu tiên trong vụ vượt ngục. Không biết lúc đó trong thâm tâm hai anh nghĩ gì nhưng riêng tôi thật tan nát cõi lòng khi nhìn bóng hai anh đi xa dần, xa dần... Tôi cũng đoán biết những gì đang chờ đợi hai anh khi người cán bộ đầu tiên trông thấy. Tôi hiểu rằng, hai anh có ý đi thẳng để tôi khỏi bận tâm mà lo thoát ra ngoài cho nhanh.

 

    Còn lại một mình, tôi lấy hết sức lực bám vào chiếc màn cố leo lên. Chiếc màng lưới nhùng nhằng bám vào các gai nhọn của hàng rào bên trên không có thể coi là một loại thang được. Nhưng trong hoàn cảnh đó không hiểu sức lực ở đâu lại dồn về đôi cánh tay khẳng khiu của tôi và tôi đã bám lấy chiếc màn như một con thạch sùng đang bám vào tàu lá để leo lên. Tôi cố gắng nương tay làm sao cho cơ thể mình trở nên “vô trọng lượng” để chiếc màng lưới có thể chịu đựng.


Khi tôi leo lên gần tới đầu bờ tường, chiếc màn tự nhiên bị rách toạc một phát. Tôi vội vàng đưa một một tay vớ được hàng rào dây thép gai trên trốc bờ tường, còn tay kia chới với giữa khoảng không trong khi tôi cách mặt đất bên dưới bằng cả chiều cao của bức tường! Trong cơn hoảng sợ đó, tôi còn cảm thấy được các gai thép nhọn đâm xuyên qua lòng bàn tay và nghe dòng máu nóng chảy ngược xuống nách, vì lúc đó chỉ có một tay đang ghì lại sức nặng của toàn bộ cơ thể. Mặc dù vậy, lúc ấy trong đầu óc tôi hiện ra hình ảnh tên cán bộ cầm khẩu AK chực nhả đạn vào thân thể đang treo lơ lửng của tôi đã làm tôi quên đau đớn. Bằng một sự cố gắng đến tột cùng, tôi nhoài người nắm thật chặt vào dây thép gai đánh đu được lên trên đầu bờ tường.


Từ trên trốc bức tường cao nhìn ra ngoài, tôi thấy sợi dây nhỏ mà anh Tiếp cột vào chân cọc sắt dùng để tuột xuống vẫn còn đó nên vội bám vào dây đó và tuột xuống đất. Tôi chẳng còn nghĩ tới việc cuốn lấy cái màn bên trong, mà có muốn cũng không thể làm được vì cái màn bị móc chằng chịt vào dây thép gai, hơn nữa lúc bấy giờ đã quá muộn. Xuống tới chân tường, tôi bị choáng ngợp và thấy nhẹ nhàng trong cảm giác đang hít thở không khí tự do! Mặc dù đây chỉ là một thứ tự do chết người! Cái cảm giác “người tự do” lúc bấy giờ thật khó mà diễn tả cho được. Tôi nghĩ Tiếp và Thuyên ẩn nấp trong chuồng trâu đã sốt ruột chờ tôi chí ít là hai tiếng đồng hồ! Một giờ lúc đó dài hơn một thế kỷ.


Vừa tuột xuống đất, tôi vội vàng chạy vào chuồng trâu để gặp Tiếp và  Thuyên đang ẩn nấp và lo âu chờ tôi ở đó. Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt vui mừng rạng rỡ của các anh khi gặp tôi. Tôi vội sơ lược cho hai anh biết sự việc xẩy ra bên trong đã khiến anh Tiếu và anh Văn phải bỏ cuộc. Không chậm trễ một giây phút nào, ba người chúng tôi liền phóng chạy ngay về hướng bờ sông Mã cách đó chừng hai trăm thước. Tôi vừa chạy về hướng bờ sông Mã vừa nghĩ thầm là cuộc vượt ngục đã hoàn toàn thất bại, nhưng vẫn còn tin tưởng vào sự may mắn nào đó như một thứ phép lạ có thể xẩy ra để cứu chúng tôi.


Sau khi chạy hết đoạn đường cập theo bờ tường trại, chúng tôi băng qua đoạn đường đất gần bên láng mộc cặp theo một con con suối nhỏ. Con đường sũng ướt và đây đó có những vũng nước mưa còn động lại sau trận mưa to đêm qua. Sau khi qua khỏi láng mộc đã thấy bờ sông Mã lấp ló sau một đồi sắn mới được trồng cách đó không lâu, với những cây sắn vừa cao quá mắt cá chân một đỗi. Chúng tôi hướng thẳng xuống một lùm bụi um tùm bên bờ sông, lúc đó nước dâng cao, chảy thật xiết rồi trầm mình xuống đó.

 


Dưới dòng sông Mã  

 

   Buổi sáng ngày 2 tháng 5 năm 1979 hôm đó, nước sông Mã dâng cao vì trận mưa to suốt đêm qua. Đây là vùng thượng nguồn, nước sông chảy một chiều và các cơn mưa đêm qua làm mực nước dâng lên rất cao và chảy mạnh như thác. Chúng tôi trầm mình xuống sông, bơi theo dòng nước chảy mạnh, mò mẫm cập theo các bụi rậm bên bờ sông. Được một quãng khá xa, chúng tôi gặp cái hốc đá thật kín đáo, bên trên có một cây to, rễ cây tua tủa bao trùm kín cả miệng hang, tạo thành nơi ẩn nấp thật lý tưởng. Cả ba người lặn xuống nước chui vào ẩn nấp trong hang đó và chờ đợi.


Tôi ở trong cùng, sau tôi là Tiếp, còn Thuyên nấp bên ngoài, gần miệng hang. Chúng tôi yên lặng và nín thở đợi chờ. Thời gian lúc bấy giờ như ngừng lại để đủ cho tôi nhận định tình thế và cảm nhận hết cảm giác kinh hoàng của một con thú bị săn đuổi và đang bị dồn đến bước đường cùng. Lúc đó, tôi biết là mình sắp chết, tôi sắp phải từ giã cuộc đời ở tuổi 36 và tôi chẳng chút hối hận gì khi phải ra đi. Lúc đó, tôi nhớ tới cái giá của hai chữ TỰ DO sao mà cao quá. Tôi sắp sửa trả bằng cái giá mạng sống của tôi nhưng vẫn chưa mua được. Tôi nhớ lại trên quê hương tôi, có bao nhiêu người đã phải trả cái giá như tôi nhưng họ vẫn chưa mua được hai chữ TỰ DO!


Ôi! Huyền nhiệm thay hai chữ TỰ DO, hai chữ đó là giá trị tuyệt đối của đời tôi và cũng là của dân tộc tôi. Tôi không hối hận gì nếu phải chết ở tuổi 36 vì hai chữ TỰ DO, tôi chỉ tiếc là tôi phải kết liễu cuộc đời quá sớm khi tôi chưa có điều kiện để tranh đấu mang lại TỰ DO cho dân tộc tôi như lòng tôi mong ước. Đó là lý tưởng mà tôi hằng ấp ủ từ khi có trí khôn để nhận biết dân tộc Việt Nam của tôi là một dân tộc bất hạnh vì thiếu TỰ DO. Tôi khẳng định tôi được sinh ra đời làm người vì sứ mệnh đó. Tôi làm Linh mục cũng vì sứ mệnh đó.


Nằm trong hang một lúc, chúng tôi nghe ba tiếng súng báo động có tù vượt ngục. Giây phút kinh hoàng nhất của chúng tôi đã tới. Tôi biết là mình đang ở trong tình trạng rất nguy hiểm, nhưng vẫn nuôi hy vọng là họ sẽ không tìm thấy chúng tôi đang ẩn nấp trong cái hang có lớp cỏ bao phủ bên trên và phải lặn xuống sâu mới vào được trong hang này. Biết đó là một hy vọng rất mong manh nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng. Chúng tôi đứng yên lặng cho đến nỗi tiếng nước chảy róc rách bên ngoài cũng trở thành một tiếng động rất rõ ràng vọng tới tai tôi và làm tôi kinh hãi.


Vì chỗ chúng  tôi nấp không xa trại bao nhiêu nên không bao lâu sau ba tiếng súng, tôi lặng người khi nghe rõ tiếng chân người chạy rần rật ngay bên trên, chen vào với tiếng la hét, tiếng chó sủa và tiếng súng đạn va chạm nhau lách cách. Chúng tôi biết là cán bộ đang dắt chó săn truy lùng chúng tôi ráo riết. Mặc dù tôi đã biết trước và sẵn sàng đón nhận tình huống này, nhưng thật tình lúc đó tôi sợ đến điếng cả người và tôi nghĩ đây là phản ứng tự nhiên của bất cứ một sinh vật nào khi thấy mạng sống sẽ bị mất đi trong giây lát. Tôi yên lặng, nhắm mắt cầu nguyện và phó thác đời tôi trong tay Chúa.    Lúc sau, tiếng chân người xa dần khiến tôi mừng thầm nghĩ rằng họ đi qua luôn. Nhưng không bao lâu, lại nghe tiếng ồn ào trở lại, rồi tiếng la hét và tiếng chó sủa càng lúc càng gần hơn. Biết chắc là không thể thoát được, tôi lại dọn mình ăn năn tội một lần nữa để sẵn sàng đón nhận cái chết.


Lúc bấy giờ Nguyễn Sỹ Thuyên ở gần ngoài miệng hang, lội vào trong, đến nép sát vào với Đặng Văn Tiếp và tôi. Tự nãy giờ ba anh em tôi chẳng ai nói một lời nào. Lúc đó bất ngờ anh Tiếp quay sang ôm lấy tôi xin tôi làm phép Rửa tội cho anh. Tôi đã khoát nước sông Mã làm phép Rửa tội cho anh Tiếp. Trong thời gian sống chung với tôi, anh Tiếp có ngỏ ý muốn được Rửa tội, và tôi đã giúp anh về phần giáo lý.


Khi vừa Rửa tội xong, anh Tiếp ôm hôn tôi một cách vô cùng tha thiết như bày tỏ sự vui mừng và biết ơn. Tôi cảm thấy có một cái gì khác lạ trong cử chỉ này của anh Tiếp, nhưng tôi đâu có ngờ đó là cái hôn vĩnh biệt của người anh gởi lại cho người em trước khi anh Tiếp từ giã cuộc đời! Trong giây phút đó tôi cố quên đi tất cả những việc của đời người để hướng tâm hồn về cõi sống trường sinh. Tôi tự nhiên cảm thấy rất vui vì vào những giây phút cuối đời, tôi đã nhân danh Thiên Chúa mà ban Bí tích Rửa Tội cho anh Tiếp, là người anh kết nghĩa mà tôi vô cùng thương mến. 


Lúc này thì tiếng la hét, tiếng người, tiếng chó sủa càng lúc càng gần hơn. Tôi không đoán được các loại âm thanh đó ở đâu nhưng tôi đoán có lẽ là ngay trên đầu chúng tôi vì bên bờ sông có một cây to mọc trồi ra mé nước và chung quanh có lùm bụi um tùm rất dễ cho người ta nghi tù vượt ngục rúc vào trốn trong đó.

 

    Tôi đoán không sai, từ trong hang tối om khẻ vạch cỏ nhìn ra, tôi thấy tên Thượng sĩ Hoàn mặc áo thun và quần đùi trắng với khẩu súng lục có dây đeo quàng ngang vai. Hắn đứng trên chiếc xuồng nhỏ, tay cầm cây tầm vông dài chừng ba thước, trên đầu có cây sắt nhọn mà tiếng miền Nam chúng tôi gọi là cây "xà-no" dùng đâm chuột hoặc đâm rắn trong các lùm bụi, nhất là trong mùa nước lên.


Tên Thượng sĩ Hoàn chỉ huy số cán bộ võ trang canh gác đêm vừa rồi, và việc chúng tôi vượt ngục đã làm cho hắn tức giận điên cuồng. Người hắn khá mập, hơi lùn và rất rắn chắc. Đặc biệt hắn có nước da đen, đen hơn những người có nước da ngăm đen bình thường. Nước da hắn đen nên càng làm cho đôi mắt hắn trắng dã dưới đôi chân mày thật rậm và gần đụng nhau trên sống mũi. Toàn diện khuôn mặt hắn lộ ra cái vẻ của hạng người “mặt đụt”, thuộc loại ngu đần và hung ác. Hắn vừa chống xuồng vừa chọc cây sắt nhọn một cách hung bạo vào các bụi rậm bên bờ sông mà hắn nghi ngờ. Thấy chiếc xuồng đang trôi từ từ xuống chỗ chúng tôi đang nấp, tôi mất hết hy vọng! Đã vậy tôi còn nghe tiếng người đàn bà trên thuyền đánh cá bên sông gọi vọng sang, giọng lanh lảnh:    

 

  - Chúng nó vừa ở ngay đấy thôi!  

 

    Tên Hoàn quay mặt sang hỏi: 

 

     - Ở mô?    

 

     - Đâu trong bụi rậm trước mặt ấy, tôi vừa nom thấy chúng ngay bụi ấy! 

 

 Theo sự chỉ dẫn của người đàn bà, tên Thượng sĩ Hoàn vạch từng bụi cỏ, rọi đèn pin xuống và cuối cùng hắn đã tìm thấy chúng tôi. Thế là hết!

 


Giây phút kinh hoàng


   Thật khó mà diễn tả được tâm tư của tôi trong lúc bấy giờ. Tôi nghĩ là cuộc đời của ba anh em tôi chấm dứt kể từ giây phút đó. Cuộc vượt ngục đã hoàn toàn thất bại và chúng tôi phải sẽ trả cái giá cho việc làm này. Lúc đó tôi có thể hình dung ra được chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo, bởi tôi đã được chứng kiến cảnh tù nhân bị hành hạ khi vượt ngục thất bại. Họ bị đánh đập và hành hạ như một con thú. Có người đã bị đánh chết một cách thê thảm. Lúc đó, tôi ôm ghì lấy anh Tiếp và nói:“Anh em mình nhất định không ra, cho nó bắn chết ở đây!” Khi nghe tôi nói, anh Tiếp càng ôm lấy tôi chặt hơn, trong khi tiếng la hét đầy thú tính của bọn người đang đứng trên bờ sông như một tốp thợ săn đã bao vây được con mồi, chỉ còn chờ giương cung hạ thủ. Tên Thượng sĩ Hoàn như một hung thần đang lồng lộn la hét giục chúng tôi ra. Tiếng la hét của hắn đầy vẻ man dại và điên cuồng như muốn xé tan màn sương mai của vùng rừng núi âm u Thanh Cẩm.  

 

     Nguyễn Sỹ Thuyên nấp ở bên ngoài lội ra trước, trong khi anh Tiếp và tôi ôm nhau ghì cứng trong hang, nhất định không ra. Sau khi la hét một hồi thấy không lay chuyển, tên Hoàn vạch cỏ che trên rễ cây, dí mũi súng lục lạnh toát vào thái dương của tôi, miệng hắn la hét một cách man dại:“Lễ! Mày có bơi ra không? Hay đợi tao bắn nát đầu mầy ra, hả?” Thực tình mà nói, lúc bấy giờ tôi chỉ mong cho hắn siết cò. Tôi nghĩ đó là cách giải quyết tốt nhất. Nhưng tên Hoàn không bóp cò súng vào thái dương tôi mà quay súng ngược lên bắn chỉ thiên mấy phát. Đó là dấu hiệu báo cho các nhóm đang tuy lùng khác biết là đã bắt được tù vượt ngục.

   
   Thấy la hét không kết quả gì, hắn bèn điên cuồng chụp lấy cây  “xà no” mà hắn để trên thuyền, chọc một cách điên cuồng vào hang. Mũi sắt nhọn trúng vai anh Tiếp. Qua ánh đèn pin của hắn, tôi thấy máu anh Tiếp tuôn ra đỏ thẫm một vùng nước. Trước tình thế này, chúng tôi thấy không còn cách nào khác hơn là phải lội ra. Anh Tiếp bắt đầu lội ra khỏi hang trước, tôi lội theo sau. Từ mí nước lên tới bờ còn khá cao.


   Tôi hành động như một cái máy. Hai tay nắm lấy từng bụi cỏ, tôi bò dần lên bờ sông trong lúc đám đông chừng vài chục người, cả công an, cai ngục lẫn dân chúng đang đứng lố nhố trên bờ sông nhìn xuống theo dõi cảnh tôi đang lóp ngóp bò lên bờ. Lúc ấy, tôi có tâm trạng của một tử tội, trên đường đi tới pháp trường.

 


Cái giá phải trả


Vừa bò lên tới bờ sông, tôi gặp ngay tên Chuẩn úy Lăng, Sĩ quan An ninh của trại, đang cầm trở ngược đầu cây súng AK đứng chực sẵn. Khi tôi đứng vừa đúng tầm, hắn chấp hai tay quơ một cú cực mạnh, tống trọn cái báng súng vào giữa ngực tôi, đẩy tôi ngã lộn xuống nước. Cú đòn này được coi như tiếng trống mở màn cho một thảm kịch sắp được trình diễn trong giây lát. Khi tôi té xuống sông, tên Thượng sĩ Hoàn đứng trên thuyền dùng xà-no thọc vào lưng tôi, bắt leo lên bờ. Tôi lại lần từng bụi cỏ bò lên, tên Chuẩn úy Lăng vẫn đứng chờ tôi, nhưng lần này hắn không đánh nữa mà túm tóc tôi kéo mạnh lên bờ. Một tên cán bộ bước tới, tháo lấy cái khăn tôi cột ngang thắt lưng, trong đó tôi có cất cái kính đeo mắt. Kính của tôi bị mất từ lúc đó.


Cách đó không xa, tôi thấy một tốp chừng mươi tên cán bộ đang vây quanh anh Tiếp, hò hét và đánh đấm túi bụi. Trông thấy cảnh đó, tự nhiên tôi nhớ lại một câu thành ngữ La-tinh mà tôi đã học hồi còn ở Chủng viện:“Người đối với người còn hơn chó sói!”. Hình ảnh anh Tiếp đứng cao lêu khêu trên đồi sắn, lúc này sắn non mới lên cao độ một gang tay, mình mẩy anh ướt đẫm, tả tơi, chung quanh là một lũ cán bộ cộng-sản đang điên cuồng gào thét, đánh đập, khiến tôi liên tưởng tới một cảnh trong cuốn phim “Cuộc Đời Chúa Cứu Thế”, lúc Chúa Giêsu vác Thánh giá lên đỉnh đồi Golgôtha, một đám đông quân dữ đang vây quanh hò hét, đánh đập. Tôi chẳng biết so sánh như vậy có phạm thượng hay không, nhưng đó là cảm nghĩ mà tôi thấy thật rõ rệt lúc bấy giờ. Vừa trông thấy tôi, một bọn khác xông vào và tôi chịu số phận y như anh Tiếp. Lúc đó anh Thuyên ở đâu và số phận anh ra sao tôi không biết.

 

    Những cú đấm đá đầu tiên khiến tôi đau điếng cả người, nhưng sau một chập, tôi không còn nghe đau đớn nữa vì toàn thân tôi đã tê dại. Những cú đòn về sau, tôi chỉ còn cảm giác qua chấn động, như âm thanh của một quả bóng được đá dội vào tường. Lúc đó, tôi không còn biết đến cảnh vật chung quanh, nhắm mắt cắn răng chịu đòn không hề kêu la một tiếng. Trong cảnh hỗn loạn của những tiếng la hét man dại đó lại có giọng quát khá to của một người nào đó mà tôi không còn đủ tâm trí để nhận ra, tôi chỉ đoán là của ông trại trưởng:“Thôi! Tôi bảo các đồng chí thôi! Tôi bảo các đồng chí thôi!”.


Sau tiếng quát đó, chẳng những chúng không dừng tay mà lại càng đấm đá dữ đội hơn. Tôi đã từng chứng kiến nhiều cảnh cán bộ đánh tù trong ngục tù cộng-sản. Tôi hiểu rằng những lời ngăn can kia là một thứ ám hiệu cho cán bộ càng hành hạ tù tàn nhẫn hơn, trong khi đó người ngoài nhìn vào vẫn tưởng rằng đảng rất nhân từ, vì người thay mặt cho đảng đã lên tiếng ngăn can!   Đánh đập chán chê, chúng đẩy tôi đi về phía trại. Lúc mở mắt ra tôi không còn thấy anh Tiếp ở đâu nữa. Tôi loạng choạng lê bước đi trước, một số đông cán bộ ồn ào theo sau. Gần tới cầu ván bắc qua con suối cạn trước trại mộc, có Thượng sĩ Khải là võ sĩ huấn luyện viên vũ thuật cho cán bộ, đang đứng thủ thế ở phía trước và chờ tôi đi tới. Người hắn cao gần thước tám, và thật rắn chắc. Hắn mặc áo thun, quần đùi trắng, chân mang giày vải, đang trong tư thế sẵn sàng. Khi tôi vừa đến đúng tầm, hắn nhún người nhảy vọt lên cao tống nguyên gót chân vào mặt tôi khiến người tôi bị bắn tung và lộn nhào xuống suối cạn ở gần đó, máu mũi và máu miệng tôi chảy ra lênh láng.


Tôi phải công nhận, đây là một cú đá rất đẹp, đúng bài bản và có tính cách biểu diễn nghiệp vụ! Có bị đòn như thế tôi vẫn thấy “hãnh diện” hơn là lúc nãy bị một đám cán bộ bu vào như những con ngựa non háu đá. Chúng đánh đấm tôi túi bụi nhưng chất lượng lại kém so với cú đá của tên Khải mà tôi vừa lãnh nhận!


Lúc nằm dưới suối cạn, tôi vẫn còn tỉnh nhưng chợt nghĩ là phải giả vờ chết, bằng không tôi sẽ chết thật. Nghĩ vậy nên tôi nằm yên bất động. Cán bộ trên bờ gọi giục, tôi cũng nằm yên. Có mấy anh nhào xuống đánh tiếp, tôi cứ mặc kệ và nằm ngửa ra như một xác chết. Có lẽ họ tưởng là tôi đã chết nên gọi hai trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát xuống suối cạn kéo xác tôi lên và mang về trại.

  9

 

                Chuyện Thương Tâm

 
 


                          
Hai anh trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát, mỗi người một bên nắm lấy cổ tay tôi kéo lê về trại. Lúc đó lưng và mông tôi lết trên đường đá cục, đau đớn không chịu được, nhưng biết làm gì hơn lúc bấy giờ? Quãng đường từ con suối cạn vào tới sân trại khá xa, vì phải qua hết lán mộc và một dãy buồng giam nằm dọc theo con đường sỏi đá này, rồi mới tới cổng trại. Chúng kéo tôi thẳng vào sân trại và vất xác tôi nằm ngửa trên nền xi-măng của hội trường giữa sân trại. Nằm yên một chốc, tôi mê đi, không còn biết gì nữa, và tôi cũng chẳng biết mê man như thế bao lâu vì lúc đó tôi đã mất hết ý niệm về thời gian.


Lúc chợt bừng tỉnh lại, tôi mở mắt ra và thấy Bùi Đình Thi đang cầm xô nước lạnh giội lên mặt tôi. Vừa thấy tôi tỉnh lại, anh ta vội đặt cái sô xuống và nhanh như con hổ sợ con mồi vuột chạy mất, anh ta nhảy chồm lên, hai tay túm lấy một cánh tay tôi kéo thẳng lên, đồng thời dùng gót chân đạp một cách điên cuồng vào ngực, vào bụng tôi, miệng anh ta sùi bọt mép nghiến răng trợn mắt nói như muốn hụt hơi:“ĐM mày Lễ! Ăn cơm không muốn mày muốn ăn cứt! Mầy muốn chết tao cho mầy chết!". Cho tới ngày tôi chết, có lẽ tôi cũng không bao giờ có thể quên câu nói này của Bùi Đình Thi, vì đó là lần đầu tiên tôi nghe một giáo dân chửi một Linh mục như thế.

 

    Đánh đập chán chê, anh ta bỏ tôi nằm yên. Sau này mới biết anh ta quay sang “thăm” hai anh Đặng Văn Tiếp và Nguyễn Sỹ Thuyên đang nằm rải rác gần đó. Tôi lại rơi vào cơn hôn mê một lần nữa, cũng chẳng biết trong bao lâu. Khi bừng tỉnh lại, tôi thấy Bùi Đình Thi đang cầm hai chân tôi kéo lên các bậc thềm đúc bằng xi măng từ hội trường lên khu kiên giam, lưng và đầu tôi va mạnh lốp bốp vào các bậc thềm, cả thảy 12 bậc. Sự đau đớn thái quá đó làm tôi bừng tỉnh lại và nhờ đó tôi mới chứng kiến cảnh tượng hãi hùng khác: Cảnh anh Đặng Văn Tiếp bị Bùi Đình Thi đánh chết tại chỗ. Cảnh tượng này đã in vào tâm trí tôi như một hình xâm trổ trên da thịt và chắc chắn sẽ không bao giờ có thể tẩy xóa được!

 

 

Mạng người thứ nhất

Bùi Đình Thi kéo tôi vào lại buồng 1, nằm quay mặt ra cửa. Buồng này là nơi chúng tôi vừa đào tường vượt ngục đêm qua. Vừa quẳng tôi vô buồng, Thi vội quay trở ra cửa khu kiên giam đẩy mạnh anh Đặng Văn Tiếp vào. Từ lúc thấy anh Tiếp bị đánh ở bờ sông cho đến lúc đó là bao lâu, tôi cũng không thể đoán được vì tôi đã mất ý niệm về thời gian, và anh Tiếp bị đòn nhiều ít thế nào tôi cũng chẳng hay. Tôi chỉ biết lúc này trông anh còn có vẻ khá hơn tôi, tuy dáng anh tả tơi sủng ướt nhưng anh còn đi đứng được.

Chung quanh anh lố nhố một số cán bộ. Tôi nghe có cả tiếng phụ nữ, chắc là vợ con cán bộ cũng chạy lên xem cảnh hành hạ tù vượt ngục. Tôi không biết lúc bấy giờ ai đã quật anh Tiếp ngã xuống, nhưng tôi thấy rõ Bùi Đình Thi nhảy chồm tới vồ lấy anh Tiếp. Hắn dùng 2 tay túm lấy một tay anh Tiếp kéo lên và dùng gót chân dậm một cách điên cuồng lên ngực, lên bụng anh Tiếp, giữa tiếng chửi bới cổ võ một cách điên cuồng của số đông cán bộ cộng-sản vây quanh. 
 
     Nằm nhìn ra cảnh ấy, tôi biết là anh Tiếp không thể nào chịu nổi cú đòn hiểm độc này, tôi nghe anh Tiếp kêu lên thật to:“Chắc con chết mất Mẹ ơi!” Tôi không ngờ đó là câu nói cuối cùng của đời anh. Anh  đã chết sau câu nói đó!
Không ai có thể ngờ được cuộc đời đã từng ngang dọc oai hùng của anh Đặng Văn Tiếp đã bị chấm dứt một cách tức tưởi, dưới gót chân của Bùi Đình Thi như thế này, vào một buổi sáng âm u, ngày 2 tháng 5 năm 1979 trong nhà tù Thanh Cẩm, lúc anh vừa 46 tuổi. Dĩ nhiên, chế độ cộng-sản là kẻ chủ trương, nhưng Bùi Đình Thi đã thay cho chế độ bạo tàn này, giết anh Đăng Văn Tiếp một cách thật dã man! Người cộng-sản ném đá giấu tay, họ đã dùng tù giết tù. Nếu tôi không sống sót, thì ai biết được để ghi thêm một thảm trạng tày trời, đau đớn và đầy nhục nhã này trong ngục tù cộng-sản?
 
    Hôm nay, ngồi nhớù lại cảnh tượng này lòng tôi đau nhói. Tôi có cảm tưởng như đang ngồi xem một đoạn phim chiếu những hình ảnh méo mó, bệnh hoạn làm ruột tôi co thắt lại và tôi cảm thấy buồn nôn! Trong cả cuộc đời tôi, không cảnh nào làm tôi đau xót bằng  cảnh này. Tôi nhớ lại một đoạn trong phim “Quo Vadis?” mà tôi đã xem qua. Đó là cảnh một đám khán giả khát máu trong một hí trường thời cổ đại La Mã đang la hét điên cuồng cổ võ những con ác thú cắn xé các nạn nhân Thiên Chúa Giáo bị kết án tử hình được vất cho chúng. Nhớ lại cảnh thương tâm này, tôi phải ngưng lại để nói chuyện với anh Tiếp:“Anh Tiếp ơi! Giờ này oan hồn anh đang ở đâu? Anh có thấy được nước mắt nước mũi của em đang chảy dài ướt cả áo khi em ngồi đây viết lên những hàng chữ này không? Mỗi năm vào ngày giỗ của anh, em tắt nghẹn nhưng chưa bao giờ em khốn khổ như lúc này, lúc mà em phải nhớ lại từng chi tiết về cái chết của anh.”
 
     Bùi Đình Thi lôi xác Tiếp vào và vất chồng lên người tôi, lúc ấy tôi đang nằm như một thây ma bất động dưới lối đi, nơi mà mấy tháng trước đây Đại tá công-an Hoàng Thanh đã đi qua để nhìn mặt chúng tôi. Lúc này tôi nằm ngửa, còn xác anh Tiếp mềm nhũn nằm sấp áp lên người tôi. Trong tư thế đó, tôi là người thân yêu cuối cùng có mặt để đưa tiễn anh tôi về bên kia thế giới. Xác anh Tiếp thật nặng đè lên người làm tôi ngạt thở, tôi cố vùng vẫy lật xác anh qua một bên để có thể hít thở nhưng tay tôi không còn cử động được, và tôi cảm thấy mình sắp chết ngạt đến nơi. Cũng may lúc đó, có một cán bộ bước vào và tôi nghe tiếng của Bùi Đình Thi nói:
 
       - Thằng Tiếp nó chết rồi!
 
       Cán bộ ra lệnh.
 
      - Lôi xác nó lên!
 
   Xác anh Tiếp được lôi lên bệ xi măng, chỗ mà mọi ngày anh vẫn nằm, nhờ đó tôi không bị chết ngạt. Lúc thấy tôi còn cử động và co đầu gối lên tựa vào tường, một tên cán bộ đã rút thanh sắt cài cửa buồng, đập mạnh lên đầu gối bên trái, làm chân tôi gập xuống. Trong khi đó tôi nghe tiếng chửi rủa léo nhéo của các phụ nữ bên ngoài cửa sổ và chúng ném gạch đá vào tôi, những viên gạch mà chúng tôi đào tường lấy ra hồi đêm qua. Lúc đó nằm dưới lối đi nhìn lên, tôi còn thấy được đôi bàn chân gầy gò, dính đầy bùn đất của anh Tiếp thò ra ngoài bệ nằm xi-măng, và đó là hình ảnh cuối cùng tôi thấy nơi một người anh kết nghĩa mà tôi hết lòng yêu quý và kính phục.
 
      Lúc nhìn thấy gót chân bất động của anh nhô ra từ bệ nằm, tôi còn nhớ lại trước khi vượt ngục, tôi có khâu chiếc nhẫn vàng hai chỉ vào cái cúc quần của anh. Đây là chiếc nhẫn mà anh Thụ, em kế của Tiếp, đã khéo léo giấu trong một hộp sữa hai đáy gởi ra cho anh cùng với tấm bản đồ và cái địa bàn lúc anh còn ở trại Hà Tây. Tôi chỉ nhớ được chừng đó, vì đây là hành trang quý nhất mà anh cần có khi quyết định vượt ngục. Không ngờ anh đã không sử dụng được thứ hành trang đó để đi tới nơi an toàn như anh mong ước.
 

Đi vào cõi chết

  Một lúc sau, tôi lại đi vào cơn hôn mê như một giấc chiêm bao kéo dài. Tôi thấy mình đang chới với bước đi trên một vùng đầy mây trắng, đóng thành từng mảng cứng như nước đá, trong một khoảng không gian hoàn toàn yên lặng. Tôi đạp trên các vầng mây lần bước tiến lên mà chẳng biết là đi về đâu. Thỉnh thoảng, một tảng băng vỡ ra, tôi bị hụt hẫng. Tôi bám vào thành các tảng mây khác leo lên và cố gắng bươn chải đi tới trong khoảng chân không mông lung huyền ảo. Kinh nghiệm của con người đang ở giữa lằn ranh của sự sống và cái chết cho tôi thấy cái chết thật nhẹ nhàng dễ chịu.  Sự chết  không phải là cái gì quá ghê gớm theo như quan niệm thông thường. Có đau khổ chăng là cho những người thân yêu còn ở lại.
 
Sau này, khi nhớ lại cảm giác của buổi sáng âm u trong trại tù Thanh cẩm đó, khi mà xác tôi đã nằm bất động dưới sàn của buồng giam, lúc đó ai nhìn vào chắc sẽ ghê rợn hãi hùng trước cái thây ma bất động, áo quần ướt đẫm, mình đầy máu me và cát bụi. Nếu người thân yêu của tôi nhìn thấy cảnh đó chắc sẽ khóc hết nước mắt vì thương tôi đã phải chịu một cái chết quá là đau thương tàn nhẫn. Nhưng thực tình trong lúc đó tôi đang lơ lửng trên các tầng mây và cảm thấy rất nhẹ nhàng sung sướng trong một thứ hạnh phúc mà suốt cuộc đời với bao nhiêu lo âu phiền muộn, tôi chưa bao giờ được nếm qua.

Cảm giác hạnh phúc mà tôi có được lúc bấy giờ vượt ra ngoài hết những gì đã ràng buộc con người vào cuộc đời trần gian khổ ải bị bao vây bởi thất tình lục dục. Cái khoảng chân không mông lung huyền ảo mà tôi đã được bước vào, trong khi thân thể tôi nằm dưới sàn đất, đó là một khoảng chân không yên lặng tuyệt đối và tôi nghĩ rằng không làm sao có được sự thinh lặng đó trong cuộc đời này.
 
Dĩ nhiên lúc đó tôi chưa hẳn đã đi vào cõi chết, nhưng tôi đã được bước tới ngưỡng cửa của sự chết và đã được “nếm qua” mùi vị của sự chết. Tôi chưa có thể diễn tả về cái chết thực sự ra sao, nhưng có thể nói lên niềm hạnh phúc của tôi đã cảm nhận được trong buổi sáng sớm ngày 2 tháng 5 năm 1979 đó. Khi “tôi” đang ở trong trạng thái lơ lửng giữa các tầng mây, tôi còn biết là thân xác mình đang nằm bất động trong buồng giam và một cảm nghĩ rất lạ đã xâm chiếm lấy “tôi” lúc bấy giờ, và tôi không còn muốn quay về với thân xác nữa. Lúc đó tôi có cảm nghĩ là tại sao con người lại bận tâm trong những việc chẳng ra gì, mà người ta coi là quan trọng để rồi tự làm khổ mình và làm khổ người? Trong khi chỉ có sự thanh tịnh nơi cõi vĩnh hằng mới là nguồn vui đích thực và cuối cùng của nhân sinh.
 
Cái số tôi chưa chết trong ngày hôm đó, vì thực ra chỉ cần một người nào đang có mặt trong buồng lúc bấy giờ bồi thêm một cú đòn, hoặc chỉ cần lật sấp lại để tôi không thở được là cuộc đời tôi chấm dứt. Mà cho dù có người nào đó đã làm như vậy, tôi cũng không oán trách, vì thân xác tôi đã hoàn toàn tê dại, không còn biết đau đớn là gì. Hơn nữa, nếu có ai làm như thế thì chắc chắn họ sẽ giúp đưa tôi thẳng vào vùng hạnh phúc tuyệt vời mà tôi đang chập chờn ở ngưỡng cửa. Dĩ nhiên là tôi rất quý cuộc đời và mạng sống tôi, vì cuộc sống con người chính là một hồng ân của Trời ban. Tôi chỉ muốn nói lại kinh nghiệm của một người đã chạm tới biên cương của sự chết và biết rằng chết là một trạng thái rất nhẹ nhàng êm ái.
 
 
Lần xuống "Đáy Địa Ngục"

Tôi chẳng biết cơn hôn mê đó kéo dài trong bao lâu, nhưng tỉnh lại trong khi Bùi Đình Thi đang vác tôi ngang qua vai anh ta. Hai tay cầm lấy hai chân tôi, bụng tôi áp vào vai anh, đầu và hai tay thõng ra sau lưng. Lúc này con người tôi đã mềm nhũn và không thể tự mình cử động được. Vì bị dằn vật quá mạnh theo nhịp bước chân của anh ta, tôi tỉnh cơn mê. Bùi Đình Thi vác tôi thẳng vào nhà kỷ luật và cùm chân lại. Đây là khu nhà kỷ luật vừa mới xây xong, để thay cho Nhà Đen không đủ kiên cố.  Sau khi đặt nằm yên, tôi lại đi vào cơn hôn mê, vì con người tôi lúc này đang chập chờn ở giữa biên giới của sự sống và cái chết.
Khi tôi tỉnh lại thì trời tối đen như mực, chợt tôi nghe tiếng anh Nguyễn Sỹ Thuyên bên cạnh, mới hay anh cũng đang bị cùm chung một thớt với tôi.  Anh nằm phía trong sát vách tường. Anh Thuyên cho biết lúc ấy có lẽ quá nửa đêm rồi, anh thều thào:
 
      - Sáng nay, lúc thằng Thi nó vác ông vào, lúc ấy ông đang mê man, tôi gọi mãi không thấy ông tỉnh dậy, tôi lo quá, tưởng là ông đi luôn rồi. Có biết Tiếp đâu không?
 
       Tôi rên rỉ qua hơi thở:
 
       - Tiếp chết rồi!
 
       Thuyên kinh hãi kêu:
 
      - Tiếp chết rồi à?
 
      - Ừ, Tiếp chết rồi! Tiếp bị đánh chết trước cửa buồng mình. Nó vất xác Tiếp nằm đè lên người tôi.
 
       Anh Thuyên yên lặng hồi lâu mới nói được:
 
      - Tiếp chết rồi! Còn Tiếu và Văn ra sao?
 
      - Tôi không biết.
 
      Thuyên nằm lặng yên, không nói năng gì, nhưng tôi nghe tiếng anh đang khóc sụt sùi trong bóng đêm. Tôi nằm bất động, nước mắt giàn giụa.   Khi tỉnh dậy được một lúc, tôi cảm thấy buồn nôn, định quay mặt nôn xuống sàn nhà nhưng tôi không còn sức để trở người nên nằm ngửa nôn thốc tháo ra ướt đầy mặt mũi, rất tanh hôi. Sáng hôm sau, khi trời sáng tôi mới thấy mình nôn ra toàn là máu tươi! Ban ngày, khi tiểu tiện cũng ra máu mà đại tiện cũng ra toàn là máu. Lúc đầu nhìn thấy cảnh tượng đầy máu me này tôi rất kinh hoàng. Tuy nhiên, tôi biết rằng nếu máu bầm trong cơ thể đã thoát ra ngoài được là điều tốt, còn nếu máu bầm ứ lại bên trong thì rất nguy hiểm.
 
     Tình trạng anh Nguyễn Sỹ Thuyên lúc đó cũng tệ hại không kém gì tôi, cũng bị đánh đập tả tơi, giập nát cả người cũng như tôi và anh Tiếp. Anh cũng bị nôn mửa và đại tiểu tiện ra máu dầm dề. Trong tình cảnh đó, anh tỏ ra tuyệt vọng và nghĩ là mình không thể nào sống được. Sáng hôm sau, tôi thấy anh Thuyên không chịu nằm yên mà tay anh cứ mò mẫm như đang tìm một cái gì. Tôi nhìn xuống thì ngạc nhiên thấy anh đang định cắt đứt mạch máu ở háng bằng một con dao làm bằng nửa nắp lon sữa bò được mài bén. Không biết anh tù kỷ luật nào ở buồng này trước bỏ lại con dao này ở đây và anh Thuyên rớ được. Thấy vậy tôi la lớn:
 
       - Anh Thuyên! Anh định làm gì vậy?
 
       Anh Thuyên thều thào:
 
      - Tôi biết trước sau rồi mình cũng chết, thà tự tử chết trước cho khỏe thân!
 
       Tôi phản đối ý của anh:
 
      - Anh Thuyên ơi, đừng làm như vậy! Thà để cho cộng-sản nó giết mình. Chúng ta không được quyền tự sát, hơn nữa làm như thế có ra gì?   Nghe tôi nói, anh Thuyên dừng tay lại. Từ đó chúng tôi luôn an ủi và nâng đỡ tinh thần của nhau. Phần tôi, luôn để ý tới các cử động của anh Thuyên, mặc dù tôi đã lấy miếng dao rồi.

Sự có mặt của anh Thuyên bên cạnh tôi trong hoàn cảnh lúc bấy giờ là một sự an ủi và nâng đỡ rất lớn cho cả tinh thần lẫn thể chất của tôi. Nhân nhớ lại câu chuyện này, tôi cũng muốn gởi tới anh Nguyễn Sỹ Thuyên tâm tình yêu mến thiết tha và lòng biết ơn chân thành của tôi. Mỗi khi nhớ lại cảnh tượng kinh hoàng của những ngày đầu tháng 5-1979 đó, tôi đều nghĩ rằng, nếu không có anh Thuyên bên cạnh trong những ngày đầu sau khi bị đánh đập giập nát cả người đó, chắc là tôi không thể nào sống sót được. Xin anh Thuyên hãy biết rằng, trong một ý nghĩa nào đó, chính anh là người đã cứu lấy mạng sống của tôi.
 
Những ngày tiếp theo, anh Thuyên và tôi vẫn thấy máu trong người ra nhiều quá nên chúng tôi gọi báo cáo cán bộ xin thuốc. Sau khi chửi bới một hồi, cán bộ đưa anh y tá, lúc bấy giờ là anh Điện, nghe nói là chánh án tỉnh Bình Dương, lên tiêm cho anh Thuyên và tôi mỗi người một mũi Vitamin K là loại thuốc cầm máu. Mũi thuốc tiêm này là ân huệ duy nhất của đảng ban cho chúng tôi trong suốt thời gian này.
 
    Lúc đó, tôi tìm hết mọi cách cho máu bầm thoát ra khỏi thân thể, thoát càng nhiều càng tốt. Vài ngày sau, khi nước tiểu của tôi bắt đầu trong lại, tôi hứng lấy và uống mỗi ngày vài ba muỗng nước tiểu của chính mình. Một ít hiểu biết về y học cho tôi biết rằng trong nước tiểu có chất muối làm cho tan máu. Kết quả đúng như tôi mong muốn, mỗi khi uống thứ “thuốc” đó vào, tôi lại đi tiểu ra máu.
Tôi tiếp tục tự chữa cho mình như vậy trong thời gian chừng mươi hôm, cho tới khi thấy trong nước tiểu không còn máu nữa tôi mới ngưng uống “thuốc”. Anh Thuyên cũng đã tự chữa trị cho anh cùng một cách thức như tôi. Nhờ cách đó cơ thể tôi dần dần khá lại và một tuần lễ sau có thể xoay trở người để đi đại tiểu tiện xuống sàn nhà. Nhưng phải mất ba tuần lễ tôi mới có thể ngồi lên được.
Tôi còn nhớ trong lần gượng dậy đầu tiên, anh Thuyên phải giúp tôi vì anh đã ngồi lên được trước tôi vài hôm. Anh dùng ống tay áo cột vào cổ rồi kéo tôi từ từ ngồi dậy. Sự cố gắng quá sức này làm tôi đau đớn tưởng chừng như cả bộ xương của tôi bị rời ra từng mảnh, nhưng tôi phải cố gắng ngồi lên, vì tôi nghĩ rằng nằm lâu ngày quá có thể bị liệt cột sống. Thời gian đó tôi sợ nhất là ho hoặc hắt hơi, vì mỗi lần ho và nhất là hắt hơi, cơ thể tôi bị giật mạnh làm các khớp xương như long ra và bay đi tung tóe, đau đớn không thể nào diễn tả được.
 

Mạng người thứ hai

Mấy ngày sau tôi được biết hai anh Trịnh Tiếu và Lâm Thành Văn cũng bị đánh đập tả tơi và đang bị cùm chân trong nhà Nhà Đen. Cha Định cũng bị cùm bên đó, nhưng ở khác buồng. Khu kỷ luật Nhà Đen này sắp được phá đi và thay thế bằng khu nhà kỷ luật mới mà anh Thuyên và tôi hiện đang bị cùm.
 
    Ngoài anh Tiếp bị giết một cách tức tưởi, bốn người còn sống trong vụ vượt ngục bất thành đang bị cùm ở hai nơi. Một tuần lễ sau ngày trốn trại, tôi được anh Nguyễn Tiến Đạt cũng đang bị cùm trên kỷ luật mới và được chỉ định làm trực sinh, báo tin anh Lâm Thành Văn bị Thi bỏ đói vừa mới chết. Nghe tin này, anh Thuyên và tôi bàng hoàng xúc động. Một người anh em nữa đã ra đi . Mãi tới gần một tháng sau khi Nhà Đen bị phá bỏ, anh Trịnh Tiếu và cha Nguyễn Công Định chuyển khu kỷ luật mới và ở chung buồng tôi và anh Thuyên. Lúc bấy giờ anh Tiếu mới kể lại chi tiết về cái chết của Văn cho chúng tôi nghe.   Anh Trịnh Tiếu kể lại rằng, sáng ngày 2 tháng 5, khi vừa có ba tiếng súng báo động, cả anh và Văn đã bị cán bộ túm lấy đánh cho một trận, tuy không dữ dội như ba anh em chúng tôi bên ngoài nhưng anh Tiếu bị gãy một xương sườn. Sau đó cả hai người bị đưa vào cùm chung một buồng ở Nhà Đen.

Những ngày sau đó, Văn yếu nhiều vì vốn có chứng đau dạ dày khá nặng, lại bị đánh đập trọng thương và nhất là không ăn gì vào miệng. Từ trước tới nay, anh Văn có tiêu chuẩn ăn cháo trắng. Mỗi bữa ăn, anh được một bát cháo trắng và một muỗng muối hạt. Số muối này anh ăn không hết và thường chia cho các anh em trong buồng mỗi người một chút. Trước khi chúng tôi vượt ngục, trại cho ăn sắn thường xuyên, nhưng anh Văn vẫn ăn cháo với muối. Nhờ vậy từ khi có kế hoạch vượt ngục, chúng tôi để dành được mỗi ngày một ít muối phòng lúc ra rừng có muối mà ăn. Tới ngày vượt ngục, chúng tôi gom góp được chừng non bát muối.

Khi chúng tôi bị bắt, Thi đã xét thấy số muối đó trong túi của tôi và đó chính là nguyên nhân cái chết của Văn về sau này. Từ đó Thi không cho Văn ăn cháo nữa, mặc dù tiêu chuẩn trại vẫn có. Anh Tiếu kể lại rằng, khi gánh cháo lên tới khu kỷ luật, Bùi Đình Thi đá phăng cháo đi, bắt Văn ăn khoai hay sắn, những thứ mà Văn không thể nào nuốt được vì chứng bệnh dạ dày quá nặng. Bữa ăn nào anh Văn cũng kêu van năn nỉ, nhưng anh trật tự ác ôn trả lời một cách dứt khoát: “Cho ăn cháo để chúng mày lấy muối trốn trại à? Không ăn sắn được thì chết.”
 
    Anh Trịnh Tiếu cho biết, trong suốt mấy ngày cuối cùng của cuộc đời, anh Lâm Thành Văn không có gì để bỏ vào miệng. Vì đang thời gian trại phải ăn khoai ăn sắn liên tục, anh chỉ uống nước cầm hơi. Đêm trước khi qua đời, Văn đã nói sảng như người nằm mơ và toàn nói về các món ăn. Có lần anh hỏi anh Tiếu là lon muối sả của anh đâu? Anh Tiếu nói làm gì có lon muối sả. Văn trả lời là lon muối sả người em dâu của anh vừa thăm nuôi đưa vào cho anh. Nghe như thế anh Tiếu biết là Văn đã nói sảng và chứng tỏ cơn đói hành hạ anh dữ dội.

Sáng sớm ngày cuối cùng của cuộc đời, Văn gọi Tiếu nhờ đỡ ngồi lên, vì anh không còn gượng dậy nổi. Khi Văn ngồi lên, với một chân trong cùm, chân kia co lại, anh ngồi gục đầu trên hai tay đang khoanh tròn đặt trên đầu gối. Anh ngồi yên một lúc lâu trong tư thế này, như vẫn thường ngồi hàng ngày. Thấy Văn đã ngồi yên, anh Tiếu bước chân không bị cùm xuống sàn, với lấy ống bẩu đi đại tiện, nhưng mắt không rời Văn vì nhận thấy Văn đã có dấu hiệu gì hơi khác thường.

Trong khi anh Tiếu đang chân trên chân dưới vật lộn với cái ống bẩu như vậy, chợt anh nhìn thấy Văn gục đầu mạnh xuống và không gượng dậy nữa. Anh gọi mấy tiếng không nghe trả lời, anh vội ném ống bẩu xuống, đỡ Văn dậy, nhưng thấy Văn đã mềm nhũn! Lâm Thành Văn đã chết!

Anh Tiếu đặt Văn nằm cho ngay ngắn, vuốt mắt cho Văn và lên tiếng gọi báo cáo cho cán bộ. Anh Lâm Thành Văn đã chết vì đói! Anh chết dần chết mòn như ngọn đèn cạn dầu tới lúc phải tắt, khi chết, một chân Văn vẫn còn mang cùm!
Hai cái chết tức tưởi của anh Đặng Văn Tiếp và anh Lâm Thành Văn làm tôi đau đớn vô cùng. Niềm xúc động vẫn dâng trào như nén hương lòng tưởng nhớ đến hai người anh, đã cùng tôi chia sẻ khát vọng TỰ DO nhưng không thành.
 
  Văn không thuộc nhóm 48 Quyết Tiến, nhưng anh từ trại Quảng Ninh đến. Tôi nghe kể lại, Văn và anh Đông cùng làm nghề lái xe khách và cùng bị bắt vì tội tham gia tổ chức Phục Quốc. Nhưng sau khi bị bắt một thời gian, hai người xích mích nhau vì những lời khai báo của anh Đông với công-an. Khi đến trại Thanh Cẩm, chuyện xích mích giữa hai anh trở nên trầm trọng. Một ngày kia, trong giờ chia thức ăn trưa, hai người cãi vã nhau, sau đó anh Văn dùng thanh sắt nhọn đâm vào lưng anh Đông. Vì lý do đó, anh Văn bị đưa lên cùm trên Nhà Đen một thời gian rồi đưa qua khu kiên giam. Văn đã ở khu kiên giam thời gian khá lâu trước lúc chúng tôi từ Cổng Trời chuyển về đây. Lâm Thành Văn chết đi để lại vợ và sáu con thơ, lúc đó đang ở xã Xuân Hiệp, Thủ Đức. 

   10


            “Tôi Phải Sống”

 

                                       

Người chết đã yên phận, mặc dù chết thật đau đớn và đầy oan nghiệt nhưng hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn cũng đã thoát khỏi địa ngục trần gian Thanh Cẩm.  Riêng phần chúng tôi, ba anh em còn sót lại trong vụ vượt ngục đó, vẫn phải tiếp tục đền tội sống trong nhà kỷ luật suốt mấy năm trời. Nhà kỷ luật ở đây tự nó đã là địa ngục, có thêm trật tự Bùi Đình Thi vào, nó xuống sâu hơn mọi tầng của địa ngục và trở thành đáy địa ngục! Nhưng ngay trong “Đáy Địa Ngục”, con người cũng có phần có số. Anh Trịnh Tiếu và anh Nguyễn Sỹ Thuyên may mắn hơn một chút vì không bị chiếu cố nhiều. Còn số phần của tôi kém may mắn hơn.

Phần cha Nguyễn Công Định, vì không tham gia cuộc vượt ngục nên không bị đánh đập, nhưng cũng bị cùm trong nhà kỷ luật. Vì lý do đó, cha Định rất oán hận chúng tôi, và sau này khi bốn người bị nhốt chung một buồng, đã có nhiều chuyện đau lòng xẩy ra giữa cha Định và ba anh em chúng tôi. Trong tuần đầu sau khi bị đánh tả tơi, anh Thuyên và tôi bị cùm chân cả ngày lẫn đêm trong nhà kỷ luật mới. Cả hai chưa ai trở người được nên phải đại tiểu tiện và ói mửa ngay trên bệ nằm, xong dùng tay gạt phân xuống sàn và xé quần áo ra lau chùi. Tuy lúc ấy trong buồng có các ống bẩu, dùng cho việc đại tiểu tiện, nhưng làm sao chúng tôi xử dụng được khi trở người còn chưa nổi?

Càng ngày đống phân trong buồng càng cao và bộ quần áo duy nhất của chúng tôi càng nhỏ lại. Tuy vậy, tôi không hề cảm thấy mùi hôi thối gì cả, nhưng mỗi lần cán bộ đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, tôi thấy họ phải đứng lùi ra xa và lấy tay bịt mũi lại. Lúc đó tôi mới biết là buồng mình kém vệ sinh! Tôi đang lo ngại, không biết xoay xở ra sao để che thân, khi áo quần đã xé gần hết, mà kêu xin nhiều lần cán bộ nhất định không cho, thì không ngờ anh Thuyên có giải pháp hay.

Sau khi đã ngồi lên được, anh Thuyên ngồi tẩn mẩn xé mảnh vải dài chừng ba gang tay, rộng một gang và tại bốn góc,  cột dây vải khoảng hai gang. Nhìn thoáng qua trông như bộ Bikini của các bà các cô mặc khi tắm biển. Nhưng bộ “Bikini” này lại là hình chữ nhật, trông giống như loại diều giấy trẻ con hay thả chơi khi trời lộng gió. Với bộ “Bikini” này, khi mặc vào rất đơn giản, chúng tôi chỉ việc cột hai dây vải phía trước ra phía sau lưng,  và hai dây sau lưng ra trước rún!

Tuy ăn mặc như vậy trông hơi có vẻ sexy nhưng gọn nhẹ, tiện dụng và đa năng. Khi cần, chỉ tháo hai gút dây ra là chúng tôi có ngay một khăn mặt để dùng. Thật tôi không ngờ, anh Thuyên là một giáo sư toán mà lại có khả năng bén nhạy của một nhà vẽ kiểu thời trang! Lúc bấy giờ không còn loại y phục nào phù hợp hơn cái “mốt” anh Thuyên đã sáng chế cho anh và tôi. Nhưng rất tiếc là mỗi người chỉ có một cái duy nhất, vì không còn vải để làm cái thứ hai. Một buổi sáng trong tuần lễ thứ ba sau ngày vượt ngục, chúng tôi được tháo cùm lần đầu tiên và cho xuống sông Mã tắm giặt. Tất cả khoảng hơn 20 tù nhân trong khu kỷ luật, trong số đó có vài ba linh mục. Ai nấy trông thật bệ rạc, đứng xếp hàng đôi trước sân, tay ôm áo quần và các loại đồ chứa nước, chờ trật tự đếm số trước khi ra lệnh cho đi. Dĩ nhiên là có cán bộ vác súng dài theo sau.

Lúc anh Thuyên và tôi mặc “Bikini” từ trong buồng 4 lê lết bước ra, tôi thấy mọi người trố mắt nhìn. Không biết anh em nhìn chúng tôi vì lối ăn mặc lạ đời, hay vì hai cái bộ xương biết đi, bị trét đầy cứt đái? Có lẽ cả hai! Hôm đó anh Thuyên và tôi không có gì để giặt, nhưng trước khi ra khỏi buồng, chúng tôi đã lẹ làng quơ hết số giẻ rách đã dùng trong việc đại tiện, vất rải rác dưới sàn, mang xuống sông giặt để dùng lại, vì chẳng còn đâu áo quần để xé nữa.

Vừa ra khỏi buồng, tôi bị quáng mắt và xiêu đảo, phải dừng lại hồi lâu mới bước đi, nhưng tôi lại không thể nhấc chân lên được vì quá kiệt sức. Người tôi bầm giập và tôi đã nằm một chỗ trong thời gian mấy tuần liền, nên gần như bị bại liệt. Cán bộ phải cho hai anh tù khác giúp kè tôi gượng bước đi. Anh Thuyên đỡ hơn tôi, có thể tự bước đi một mình nhưng trông dáng anh đi thật thê thảm. Hai chân dạng ra lết đi từng bước, lưng cong vòng như cái cạp nong, khi di chuyển, tưởng chừng đầu anh gần chạm đất!

Quãng đường tới bờ sông chỉ chừng hơn trăm thước, thế mà lúc đó tôi thấy sao đi mãi không đến nơi. Khi đi ngang qua hội trường giữa sân trại, tôi rùng mình nhớ lại cảnh tượng ở đây ba tuần trước với hình ảnh kinh hoàng của Bùi Đình Thi. Lúc này anh ta đi ngay sau lưng tôi vì tôi đang được dìu lê từng bước, một cách mệt nhọc ở cuối hàng.

   Khi tới nơi, cả bọn ùa xuống sông khua khoắng tắm giặt. Nước thượng nguồn sông Mã hôm ấy thật trong và cạn chỉ ngang tới cổ vì các ngày trước không mưa. Trầm mình trong dòng sông nước lạnh, tôi thấy rất dễ chịu. Nhất là vì đã tẩy rửa được bao nhiêu thứ dơ bẩn, cứt đái đang bám nặng trên người trong ba tuần lễ kinh hoàng vừa qua. Vừa kỳ cọ thân thể, tôi vừa nhìn các anh em, nhất là các anh em Linh mục. Tôi thấy họ cũng đang nhìn tôi cách ái ngại nhưng không ai dám nói năng gì, chỉ có bốn mắt nhìn nhau thông cảm, vì tôi bị cấm tiếp xúc với tất cả mọi người. Hơn nữa, tôi biết là từ trên bờ sông lúc nào mắt của cán bộ và trật tự cũng dán vào tôi.

Tắm một chốc tôi đã thấy mệt thở dốc nên đứng yên đưa mắt hướng về phía xuôi dòng nước, bồi hồi nhớ lại cái hốc đá dưới gốc cây to bên bờ sông, nơi mà ba người đã ẩn nấp cách nay mấy tuần. Giờ này chỉ còn lại hai! Tôi không dám suy nghĩ tiếp, và cứ đứng yên ngâm mình trong nước nhìn đàn cá mương đang lao nhao ngụp lặn chung quanh mấy anh tù để kiếm ăn. Bọn cá mương này cũng già kinh nghiệm, biết rằng chỉ có tù đi tắm chúng mới được một bữa ăn thoải mái. Theo dõi đàn cá đang tranh ăn, tôi chợt suy nghĩ vớ vẩn: “Mấy con cá ngu này, chúng mày rớ được ghét của tao, nuốt vào không hóa dại cũng ói mửa!” Tôi nghĩ quẩn thế thôi, chứ cá mương ăn phân người, thì làm gì có chuyện ói mửa! Một lúc sau có tiếng trật tự giục lên. Cả bọn chúng tôi lóp ngóp lội vô bãi cát lài ngay lối lên xuống. Lợi dụng lúc mọi người đang chen lấn không ai để ý, cha Trần Văn Nghị, có lẽ vì thấy tôi “ăn mặc” quá thảm thương, đã lẹ làng dúi vào tay tôi cái khăn mặt đã giặt sạch vo tròn to chừng bằng cổ tay. Tôi vội vàng nắm lấy vì lúc bấy giờ đó là món quà rất quý.

Trên đường trở về buồng, tôi cảm xúc về tình nghĩa anh em và sự cảm thông cha Nghị dành cho tôi. Tôi cảm thấy vui vì sự nâng đỡ tinh thần của các bạn tù, nhất là các anh em Linh mục. Từ nay gia tài của tôi ngoài nửa manh chiếu rách, nửa cái chăn, một cái “Bikini” do anh Thuyên làm, còn có thêm cái khăn cha Nghị vừa cho. Tôi mỉm cười tự nhủ:“Đời mình chưa đến nỗi nào!” Nhưng ở đời có mấy ai học được chữ ngờ!


Họa Vô Đơn Chí

Về tới buồng, mọi người lo giũ quần áo ra phơi trên các cánh cửa sổ. Tôi gần kiệt sức vì vừa leo lên hàng chục bậc xi-măng vào khu kỷ luật, nhưng cũng cố gắng giũ mớ giẻ rách và cái khăn cha Nghị vừa cho ra phơi. Đó là loại khăn mặt khá lớn, màu trắng và có những ô vuông nổi lên như mặt trong của bao tử bò. Vừa với tay định máng cái khăn lên cánh cửa sổ, tôi bỗng giật mình vì câu hỏi quá bất ngờ từ phía sau:

     - Lễ! Cái khăn này ở đâu mày có?

      Quay lại tôi thấy trật tự Bùi Đình Thi đang đứng ngay sau lưng tôi, một tay anh ta chỉ thẳng mặt tôi, tay kia chỉ cái khăn. Tôi thất kinh vì biết là tai họa tới nơi, nên vội nói dối:

     - Tôi nhặt được dưới sông lúc đi tắm. Không biết của ai đánh rơi để tôi trả lại cho họ.

     - Vô lý mà nhặt được! Nói thật đi, thằng nào cho mầy?

      Tôi vẫn giữ lập trường nhưng lần này bằng giọng khẩn thiết:

     - Tôi nhặt dưới sông thật mà... anh Thi, có ai cho tôi đâu!

  Bùi Đình Thi ngần ngừ trong giây lát rồi bỏ đi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thoát nạn! Tôi cũng không biết nhờ nói dối hay ơn trên phù hộ mà tôi được thoát nạn. Khi anh trật tự đi rồi, tôi vội đi vào buồng, leo lên bệ xi-măng tưởng như đó là nơi an toàn. Nhưng tôi đã lầm!

   Chừng vài phút sau, Thi trở lại với người cán bộ võ trang có đôi mắt xước mà tôi không biết tên. Linh tính báo cho tôi biết chuyện chẳng lành, khi tôi thấy cả hai đi thẳng vô buồng tôi. Chẳng nói chẳng rằng Thi xồng xộc tiến tới nắm lấy cổ tôi lôi xuống, tên cán bộ mắt xước thuận tay tống ngay một quả đấm như trời giáng vào đúng cạnh sườn làm tôi gập đôi người lại. Vì đã quá suy nhược không thể chịu đựng được cú đòn đó, tôi kêu to lên một tiếng “Trời ơi!” rồi ngã vật xuống sàn. Có lẽ thấy tôi đã quá tệ, hay vì thấy tội của tôi không đáng trừng trị thêm nên anh ta đã dừng tay và đứng nhìn tôi, đang sùi bọt mép nằm oằn oại dưới đất, như con cá đang bị đập đầu.

Một lúc sau cán bộ ra lệnh:“Cùm cổ nó lại!” Bùi Đình Thi túm tóc kéo tôi lên và cùm chân lại. Vừa khóa cùm, Thi vừa mắng:“Đánh cho mầy chừa! Nói dối quen mồm!” Trước khi ra đi, cán bộ mắt xước còn nhổ đánh phẹt một bãi nước bọt xuống sàn, không hiểu để tỏ thái độ khinh bỉ hay vì mùi hôi thối trong buồng đang xông lên. Mặc dù lúc chúng tôi đang tắm dưới sông, anh trực sinh, lúc bấy giờ là anh Nguyễn Tiến Đạt, đã rửa buồng và quét hết các đống phân ra ngoài cửa.

   Sau này tôi mới biết là Bùi Đình Thi đã đi hỏi các buồng ai cho tôi cái khăn và đã khám phá ra chính cha Nghị đã cho tôi. Tội nghiệp cho cha Nghị, ngài vì thương anh em mà bị nạn. Sau khi đánh tôi xong, anh cán bộ mắt xước và trật tự đi vòng ra phía trước, nện cho cha Nghị một trận nhừ tử, dập môi chảy máu và cùm chân ngài bảy ngày đêm. Bình thường thì chỉ bị cùm ban đêm! Về sau, tôi có dịp gọi qua xin lỗi ngài, nhưng cha Nghị cười hề hề nói: “Lỗi quái gì? Được chia sẻ với anh một chút đau khổ là mình vui rồi!” Ngài còn nói thêm: “Tại hôm đó chúng nó đánh, mình đỡ trúng tay, chúng nó đau mới tức khí lên nện mình nhiều như vậy!” Nói xong câu đó, cha Nghị lại nhe răng cười hề hề!

   Tôi nằm liệt mấy ngày vì cú đòn hôm ấy. Ba tuần trước tôi bị đánh đập tàn nhẫn hơn nhiều, tuy nhiên lúc ấy cơ thể tôi còn khỏe mạnh nên có thể chịu đựng được. Vả lại lúc đó, khi bị đánh đập quá nhiều, cơ thể trở nên tê dại và tôi không còn cảm giác đau đớn. Tôi gồng sức chịu đòn và không kêu la. Nhưng lần này lại khác, cơ thể tôi đã bị tổn thương trầm trọng đến nỗi một cơn ho hoặc cái hắt hơi cũng tưởng như xương cốt long ra từng mảnh.


Như thế, có thể hiểu được cú đấm như trời giáng vào cạnh sườn tôi hôm đó của anh cán bộ mắt xước, làm tôi đau đớn chừng nào! Tiếng kêu “Trời ơi!” lúc đó là một phản ứng tự nhiên, tôi không thể nào kềm chế được. Nhưng đó là tiếng kêu la duy nhất trong những lần tôi bị đánh đập trong nhà tù. Ngay cả trong trận đòn thập tử nhất sinh, như tôi sẽ kể về sau này, tôi cũng không kêu la như thế.


Nợ đời chưa dứt.

    Sau vụ cái khăn mặt độ vài ba tuần thì Nhà Đen bị phá bỏ và số tù bị kỷ luật bên đó được chuyển sang khu nhà mới. Cha Nguyễn Công Định và anh Trịnh Tiếu vào ở chung buồng 4 với tôi và anh Thuyên. Buồng này nằm phía mặt sau của nhà kỷ luật. Lúc bấy giờ là mùa hè, trời nóng nực và oi bức, nhất là về đêm khi hơi nóng đã nung nấu nóc Nhà Bằng suốt ngày tỏa xuống. Buồng giam đã kín lại chật chội nên hơi nóng không có lối thoát ra đã biến căn buồng thành một thứ lò hấp bánh mì!

           Mỗi ngày, chúng tôi chỉ mong tới giờ cho ăn để được hít thở chút khí trời khi cửa mở ra. Có lúc tôi nghĩ, nếu lúc bấy giờ Chúa ban cho tôi được ơn làm phép lạ, thì phép lạ đầu tiên tôi sẽ làm là có một lỗ hổng to bằng miệng cái lon sữa bò trổ ra trên nóc nhà bằng, để hơi nóng dồn nén trong buồng có chỗ thoát ra và tôi có không khí để thở.

            Vào những buổi tối của mùa hè oi bức, tôi có cảm tưởng không khí trong buồng đặc quánh lại như sữa hộp hoặc như kẹo mạch nha, và chúng tôi đã phải hít thở cái loại không khí “dẻo” ấy. Mặc dù đang vướng một chân trong cùm, nhưng ban đêm thỉnh thoảng tôi phải trườn người, cúi mặt sát sàn nhà, để tìm hít thở chút không khí còn sót lại bên dưới.

    Lúc bấy giờ, tôi gần như chẳng còn quần áo gì. Khi ra ngoài đi tắm thì mặc “Bikini”, ở trong buồng thì ba anh em tôi đều trần truồng như người thời tiền sử. Riêng cha Định không trốn trại nên còn giữ được một ít quần áo. Tôi có kêu xin mãi, nhưng cán bộ cũng chẳng cho áo quần để mặc. Một ngày nọ thấy một cán bộ lạ mặt khá lớn tuổi đi ngang qua bên ngoài cửa sổ, tôi gân cổ gọi to:

     - Báo cáo cán bộ!

      Cán bộ dừng lại, đứng cách xa song sắt cửa sổ một quãng, hỏi vọng vô:

      - Anh nào gọi! Có việc gì?

      Tôi trả lời thật lớn tiếng:

     - Báo cáo cán bộ, tôi xin cán bộ một trong hai điều này: Hoặc là cho tôi áo quần để mặc, nếu không thì cho tôi một viên đạn. Tôi là con người chứ không phải là thú vật mà sống trần truồng!

       Vì đã có dự tính trước nên tôi nói luôn:

     - Nếu tôi chết trong nhà tù này thì thôi, nhưng nếu tôi còn sống, tôi phải tìm dịp nói cho thế giới biết cách đối xử vô nhân đạo đối với tù chính trị của chế độ Cộng sản Việt Nam! Tôi nghĩ rằng, trên thế giới này không một nước nào lại đối xử với tù chính trị cách dã man như vậy! 

      Có lẽ vì quá bất ngờ, ông ta đứng đó một lúc lâu không nói gì. Sau cùng hỏi:

     - Anh tên là gì?

     - Báo cáo cán bộ, tôi tên là Nguyễn Hữu Lễ!

     - Anh thuộc diện gì?

     - Tôi là Linh mục Công giáo. 

     Nghe nói thế ông ta cười nhạt và hỏi lại:

     - Thế ra anh là dạng ‘cha cố’ hả?

      Tôi trả lời cách nghiêm chỉnh:

     - Báo cáo cán bộ, tôi đã nói, tôi là Linh mục Công giáo.

      Ông ta hỏi tiếp theo:

     - Anh làm gì bị kỷ luật?

     - Báo cáo cán bộ, chúng tôi trốn trại.

       Ông ta chậm rãi nói:

     - Trốn trại à? To gan nhỉ! 

   Không nghe tôi trả lời, cán bộ ngần ngừ một lúc rồi bỏ đi.

  Tôi và các anh em trong buồng đang chờ đợi hậu quả của cuộc đối thoại này thì ngay chiều hôm đó, cán bộ sai trật tự  Thi vất vào cho tôi một bộ quần áo, gồm một quần đen và một áo sơ-mi vải Oxford màu vàng còn khá mới, có đóng dấu “Cải Tạo” to tướng sau lưng. Mấy ngày sau tôi phải xé một đoạn ống quần ra dùng khi đại tiện và nếu trong những lần đi tắm tiếp theo mà tôi không nhặt được giấy báo hay giẻ rách nơi đống rác thì số phận các tay áo rồi cũng sẽ như thế, vì không còn cách nào hơn.

   Trực sinh khu kỷ luật bấy giờ là anh bạn trẻ tên Nguyễn Văn Hà, thay thế cho anh Nguyễn Tiến Đạt. Cả hai anh cũng là người trong nhóm 48 Quyết Tiến với tôi. Khi Hà vào buồng giúp đổ các ống bẩu phân và nước tiểu, anh thấy tôi xé ống quần dùng đi cầu bèn hỏi xin cái áo vàng để đổi thuốc lào. Tôi nói không có gì dùng khi đi cầu. Hà nói sẽ tìm cho một số giẻ rách dùng vào việc đó, vì cái áo vàng của tôi còn mới, xé các tay áo đi uổng lắm. Không nghĩ ngợi gì, tôi trao cho Hà cái áo. Ngay lúc ấy, tôi đâu ngờ rằng mình sẽ phải trả một giá quá đắt về việc này.

               Mấy ngày sau tôi quên hẳn cái áo, và Hà cũng chẳng hề đưa tôi giẻ rách để dùng khi đại tiện như đã hứa. Thật ra, tôi thấy chưa cần thiết lắm, vì tôi còn một ống quần đủ dùng tới ngày được đi tắm, khi đó tôi sẽ tạt qua đống rác của trại nhặt giẻ rách đem giặt sạch để dùng. Mỗi lần đi tắm là dịp vui, vừa được tắm giặt sạch sẽ, có khi lén trò chuyện vài câu với anh em các buồng khác hay anh em dưới “làng”. Khi cán bộ và trật tự lơ là, chúng tôi có thể tạt qua đống rác trước trại, nhặt nhạnh một ít “chiến lợi phẩm”. Có lần tôi may mắn nhặt được của quý, đó là cái bàn chải đánh răng đã mòn quá phân nửa, có lẽ của một anh tù nào dưới “làng” vất đi. Tôi mang xuống sông chùi rửa cẩn thận cho hết vi trùng và dùng luôn trong gần hai năm, cho tới khi đãõ mòn hết răng.

Vào một buổi sáng, chúng tôi được đi xuống sông Mã tắm như thường lệ. Sau khi trật tự mở khóa các buồng và đếm số xong, mọi người xếp hàng đôi đi xuống bờ sông. Lần này cũng chính anh cán bộ mắt xước vác súng dài theo sau canh giữ. Nhưng hôm nay chỉ có cán bộ mà không có trật tự đi theo. Vắng mặt Bùi Đình Thi, tôi cảm thấy thật dễ chịu. Các anh em khác cũng có vẻ thoải mái vì chúng tôi có thể trao đổi hay quan hệ linh tinh dễ dàng hơn, và dĩ nhiên là đống rác bên ngoài cổng trại cũng được chúng tôi chiếu cố kỹ hơn.

    Sáng hôm đó trời nắng ấm nhưng ánh nắng không gay gắt. Sau khi tắm rửa xong và trên đường trở về buồng, tôi thấy trong người sảng khoái lạ thường. Tôi ngửa mặt lên nhìn bầu trời trong xanh quang đãng và hít một hơi thật dài. Không khí trong lành chạy vào buồng phổi làm tôi dễ chịu. Tôi nở một nụ cười thật tươi và cảm thấy yêu đời, khi nhớ lại bao nhiêu tai nạn dồn dập trong mấy tháng trước bây giờ rồi cũng qua đi. Tôi đã bị đòn nhừ tử hơn hai tháng rồi, và cơ thể tôi lúc này có phần phục hồi khá hơn. Tôi có thể tự bước đi, nhưng đi thật chậm vì còn quá yếu.

Vừa bước đi, tôi thầm nhớ lại câu người đời thường nói: “Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai”, và nghĩ rằng tôi đã trả xong “nợ đời”. Trong chốc lát, tôi quên hết nỗi nhọc nhằn của cuộc sống hiện tại và cảm thấy yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu thiên nhiên, yêu con người, ngay cả những người đã hành hạ, đánh đập và ngược đãi tôi. Tôi âm thầm cầu nguyện cho ho,ï và lập lại câu nói của Chúa Giêsu khi Ngài bị đóng đinh trên thập giá: “Lạy Cha! Xin Cha tha cho chúng, vì chúng chẳng biết việc chúng làm.” Nói xong câu đó tôi cảm thấy trong lòng phơi phới hân hoan.

    Tôi lê lết bước đi cuối hàng,  tay ôm một mớ “chiến lợi phẩm” lúc nãy thu nhặt được ở đống rác, lầm lũi bước theo các bạn về buồng. Khi vừa tới nơi, tôi chợt thấy Bùi Đình Thi đứng trước cửa buồng và nhìn tôi bằng một cặp mắt hơi khác thường. Có anh cán bộ mắt xước cũng đang đứng bên cạnh. Tôi vội làm một cuộc xét mình chớp nhoáng, coi mình có phạm tội gì không và tôi yên tâm vì chẳng thấy mình có tội gì cả. Tôi nghĩ thầm: “Có lẽ tại mình sợ anh ta quá nên thấy anh ta nhìn, đâm ra hoảng thế thôi, chẳng có việc gì đâu!”

Tôi còn đang suy nghĩ lan man thì chợt thất kinh khi thấy trật tự Bùi Đình Thi, với vẻ mặt hầm hầm bước thẳng tới tôi. Tay trái anh ta  cầm xâu chìa khóa to tướng, tay kia chỉ thẳng vào mặt gần đụng trán tôi, đôi môi run run hỏi:

     - Lễ! Cái áo vàng của mầy đâu?

  Tôi điếng cả người khi nghe câu hỏi đó! Người tôi tự nhiên chao đảo. Có cái gì như một dòng điện cực mạnh chạy rần rần dọc theo thân thể, khiến mặt tôi nóng bừng và các lỗ chân lông trong người tôi hở to ra. Một ít nước tiểu tự nhiên vọt ra quần, và tôi buồn đi đại tiểu tiện cùng một lúc!

Tôi chợt nhớ lại cái áo vàng mà tôi đã trao cho thằng Hà mấy tuần nay và biết là lúc chúng tôi đi tắm, Thi ở nhà đã lục soát khu kỷ luật và việc đã bại lộ. Đó là lý do tại sao hôm nay chỉ có anh cán bộ mắt xước theo xuống sông Mã canh giữ chúng tôi mà không có trật tự cùng đi như các lần trước. Đọc tới đây nếu có ai cho là tôi nhát đảm tôi xin chịu. Thành thật mà nói rằng lúc đó tôi sợ Bùi Đình Thi tới điếng cả người. Biết tai họa tới nơi, tôi vội nói dối:

     - Tôi phơi áo trên cánh cửa sổ này, ai lấy lộn mấy hôm nay tôi tìm mãi không thấy, anh có thấy ở đâu cho tôi xin lại đi anh Thi.

     - Sao thằng Hà nó nói mầy đổi cho nó?

  Tôi cảm thấy ù tai khi nghe tiếng “đổi”, vì luật lệ trong tù cấm mua bán đổi chác. Những người khác trong trường hợp này cũng gặp rắc rối huống gì tôi. Tuy đã tuyệt vọng nhưng tôi gắng gượng chống chế. Như người sắp chết đuối với lấy chiếc lá trôi bên cạnh, miệng lắp bắp tôi trả lời:

     - Đâu có anh Thi! Tôi đâu có đổi! Chắc thằng Hà nó lấy lộn áo tôi rồi nói thế! Tôi đâu có đổi!

  Trong lòng tôi lúc đó đang cầu mong sự thương hại của Thi. Tôi mong rằng anh ta sẽ tha thứ cho tôi vì thấy tôi quá sợ hãi và nhất là vì cái thân tàn ma dại của tôi. Tôi nhìn sang anh cán bộ mắt xước, nãy giờ đang theo dõi cuộc phán xét. Bộ dạng anh ta đã mất kiên nhẫn. Anh ta đứng yên không nói tiếng nào, nhưng hai bàn tay nắm lại chống lên cạnh sườn, các ngón tay đang co bóp liên hồi có vẻ ngứa ngáy khó chịu. Chợt Bùi Đình Thi chộp tay tôi dằn mạnh:

     - Đi lại phía trước, mầy nghe thằng Hà nói!

  Anh cán bộ mắt xước vội đi trước dẫn đường với dáng đi lanh lẹ khác thường.  Bùi Đình Thi đẩy tôi đi giữa còn anh ta theo sau. Chúng tôi đi dọc theo con đường hẹp độ ba thước bề ngang, nằm giữa đầu hồi nhà kỷ luật và bờ tường dẫn ra các buồng phía trước. Tôi biết mình đang lâm nguy vì thằng Hà đã khai tất cả. Dù vậy, tôi vẫn còn hy vọng mỏng manh cuối cùng là mong thằng Hà sẽ làm cử chỉ anh hùng kiểu như "Lê Lai cứu Chúa". Vì nếu nó có nhận ăn cắp áo thì cũng bị vài cái tát là cùng. Còn tôi, cho dù chỉ cần đổi cho nó cái áo thôi, cũng có lý do bị hành tội. Nghĩ như vậy nên khi còn cách buồng 1 của Hà khá xa, tôi gọi to lên cố ý làm ám hiệu cho nó:

     - Hà ơi Hà! Sao mầy lấy nhằm áo vàng tao phơi trên cửa sổ mà không trả làm tao kiếm mấy ngày nay. Anh Thi nói mầy đang giữ áo tao. Trả áo lại tao đi Hà!

      Tôi có ý bảo thằng Hà rằng tôi đã nói như thế, cứ nói vậy đi để cứu tôi. Nhưng có lẽ vì không hiểu ý tôi hay vì sợ bị đòn, nó nói vọng ra:

     - Em đâu có lấy áo của anh! Anh đổi cho em ấy mà!

      Chúa rất thánh ơi! Đó là câu trả lời tôi sợ nhất, nhưng ngược lại hai con người đi trước và sau tôi lúc này, chỉ mong có chừng ấy.


Bước đường cùng 

   Câu nói của Hà chưa kịp dứt thì bất ngờ một cú đấm như trời giáng của Bùi Đình Thi từ phía sau, tống vào lưng làm tôi bay tới trước.  Anh cán bộ mắt xước vội quay lại chụp lấy tôi và đấm vào bụng khiến tôi ngã ngửa ra phía sau. Trật tự Thi đón lấy đấm vào lưng tôi khiến tôi nhào tới phía trước. Cán bộ đấm vào bụng tôi té ngửa ra sau. Trật tự lại đấm tới. Cán bộ đấm lui...  Cứ thế, kẻ đấm tới, người đấm lui làm bộ xương tôi bay đi bay về như hai cầu thủ đang chuyền nhau quả bóng trong một hành lang hẹp. Lúc bấy giờ tôi biết mình sẽ chết. Tôi muốn chạy nhưng chạy không thoát vì hành lang quá hẹp và đang bị chận cả hai đầu. Hơn nữa tôi đã gần chết rồi, còn sức đâu nữa mà chạy! Lúc đó tôi không còn biết mình là ai nữa. Tôi như một con thú bị dính chân vào bẫy, có vùng vẫy cũng không thoát ra được.

            Cuộc hành tội kéo dài khá lâu. Trật tự và cán bộ thay nhau, mỗi người đã đấm tôi, đúng hơn là đấm vào bộ xương tôi chừng mươi, mười lăm quả ở lưng và bụng. Đôi chân tôi yếu dần không còn chống đỡ được bộ xương, tôi bắt đầu ngã quỵ xuống đất trong khi miệng tôi lẩm bẩm:“Lạy Chúa! Xin nhận lấy linh hồn con!” Tôi nhắm mắt lại!

            Hình ảnh cái chết lờ mờ hiện ra trong trí tôi. Cuộc đời tôi như thế là hết! Nhưng bổng chốc tôi lại nghĩ: “Mình không thể chết như thế này được! Không thể được! Mình không có thể chết một cách phi lý như thế này được” Lúc đó tôi bèn dồn hết tàn lực của con người lên cổ họng và vận dụng tất cả ý chí, sức mạnh, sự quyết tâm và tất cả nhu cầu bảo toàn mạng sống của một sinh vật trước khi bị tiêu diệt để tôi hét to lên một cách khủng khiếp. Tiếng hét to nhất trong kiếp làm người của tôi. Tiếng hét to tới mức tối đa, mà cổ họng tôi có thể chịu được mà không bị vỡ tung bật máu ra. Tiếng hét to đến độ mà thân thể chỉ còn là bộ xương của tôi có thể chịu được, không bị bung rời bắn tung tóe ra từng mảnh. Tôi hét lên ba tiếng càng lúc càng to:


“TÔI PHẢI SỐNG!


                    TÔI PHẢI SỐNG!


                            TÔI PHẢI SỐNG!” 

 

  Tiếng hét vang dội núi rừng đó đã đốt cháy tất cả sức lực, khí huyết và ý chí còn lại của con người tôi như một thứ nhiên liệu bị đốt cháy rụi ra tro. Tôi không còn là tôi nữa! Không còn một thứ gì để sự sống của tôi nương vào đó mà tồn tại nữa. Tôi nằm chờ chết!

            Bỗng dưng bản năng sinh tồn trong tôi trỗi dậy một cách vô cùng mãnh liệt!

            Tự nhiên tôi cảm thấy một sức lực phi thường ùa vào thân thể mà cả cuộc đời tôi cho dù là lúc sung sức nhất của tuổi đôi mươi cũng không thể có. Con người tôi như một quả bóng xì hết hơi bất ngờ được bơm căng cứng lên. Thân hình chỉ còn là bộ xương của tôi lúc đó tự nhiên biến thành thép! Lúc đó tôi nghĩ là tôi có thể quật chết và bẻ cổ một con bò mộng một cách dễ dàng như người ta bóp một con nhái. Đôi cánh tay khẳng khiu như hai que củi khô của tôi tự nhiên có sức lao tới như viên đạn đồng bay vọt ra khỏi nòng súng. Đôi chân của tôi trở nên vững vàng như hai trụ cầu. Ý chí cao ngất trời lúc bấy giờ bảo tôi:“Chạy! Chạy! Chạy! Phải chạy thoát bằng mọi giá, nếu không chạy thì chết!”

              Bất thần, như có một sức thiêng vô hình trợ giúp. Tôi bật vùng lên, và nhào lộn như con sư tử bị thương. Tôi vụt quay lại, lấy hết sức lực húc mạnh vào Bùi Đình Thi. Vì quá bất ngờ không kịp đề phòng, và nếu có đề phòng cũng không thể nào chịu được sức mạnh của tôi lúc bấy giờ. Anh ta ngã bắn về một bên, té ngửa dưới đất. Tôi vụt phóng chạy như bay về buồng.

             Bùi Đình Thi lồm cồm bò dậy rượt theo tôi bén gót. Tôi biết nếu anh ta tóm được, chắc chắn hắn sẽ giết chết tôi. Tôi nói điều này với tất cả sự xác tín, không phải suy luận để kết án con người.

Tôi hành động lanh lẹ như một con khỉ, phóng vô buồng, nhảy phóc lên bệ nằm, hai tay vồ lấy cái móng cùm bằng sắt nặng chừng ký rưỡi giơ lên và đứng trên bệ xi-măng cao thủ thế. Điều rầt may mắn là lúc bấy giờ anh Thuyên đã rút song sắt xỏ luồn 2 cái móng cùm ra, và để sẳn cái móng cùm của tôi ngay trên bệ nằm.

Lúc đó tôi đã gần đứt hơi, há miệng thở hồng hộc vì trong cổ họng tôi hình như đang có cục than hồng và phải mở to miệng cho lửa phà ra! Bùi Đình Thi vừa trờ tới cửa buồng. Chợt thấy tôi đang đứng trên cao, tay cầm cái móng cùm quyết tâm thí mạng, anh ta còn đủ khôn nên khựng lại ngay cửa, cách chỗ tôi đứng độ 2 thước tây . Tôi trợn mắt hét thật to qua hơi thở gần muốn tắt nghẹn:

      - Bùi Đình Thi! Tao đổi mạng với mầy! Mầy đã dồn tao tới bước đường cùng. Bữa nay tao đổi mạng với mầy! Mầy vô đây! Vô đây! Vô đây!!!

   Mặc dù đang điên tiết vì vồ hụt con mồi đã bị thương, nhưng Bùi Đình Thi không dám bước tới. Anh ta đứng tại cửa nhìn vào, cặp mắt tóe lửa, và cũng đang thở hồng hộc như tôi. Hai bên khóe mép anh ta đọng lại hai bệt nước bọt trắng to và nhễ nhãi. Anh ta nghiến răng nghe ken két, làm cái mồm bị kéo xuống méo mó dị dạng trông thật tởm! Bùi Đình Thi điên cuồng giơ thẳng tay chỉ vào mặt tôi nói:“ĐM mầy Lễ! Tao giế-ế-ế-ế-ế-t mầy!”   Đây là lần thứ hai, Bùi Đình Thi đã dùng cách nói “ĐM mầy Lễ” đối với tôi! Nghe cách anh ta nghiến chữ “giết” qua kẽ răng, tôi hiểu ngay chính cái móng cùm đã cứu mạng tôi.

Cán bộ mắt xước cũng vừa đi tới cửa buồng, có vẻ rất hài lòng trông thấy hai tên tù đang gầm gừ chực giết nhau. Nếu anh ta biết hai tên tù đó là một giáo dân và một Linh mục, chắc là anh ta càng vui sướng hơn! Anh ta ra lệnh cho Bùi Đình Thi:

     - Cùm cổ nó lại!

      Thấy Bùi Đình Thi bước vào tôi nói:

       - Báo cáo cán bộ, tôi không vào cùm. Nếu bị cùm anh Thi sẽ đánh tôi chết.

     - Tôi bảo anh vào cùm!

     - Nhưng cán bộ có bảo đảm là anh Thi không đánh tôi?

     - Anh cứ vào cùm, tôi bảo đảm!

  Có sự bảo đảm của cán bộ, tôi ngồi xuống để chân vào móng cùm cho Bùi Đình Thi xỏ luồn thanh sắt qua khóa lại. Lúc anh ta cúi xuống, tôi nghe hơi thở hồng hộc và hôi tanh từ miệng anh ta thoát ra tràn cả vào mặt tôi làm tôi buồn nôn không thể chịu được. Tất cả cảnh tượng này diễn ra trước mắt các anh Trịnh Tiếu, Nguyễn Sỹ Thuyên và cha Nguyễn Công Định. Cả ba người đang khép nép ngồi nhìn.

Lần đó tôi mới hiểu và cảm nhận được một loại sức mạnh của ý chí mà người ta thường gọi là bản năng sinh tồn. Bản năng sinh tồn là một bí mật của sinh vật, chỉ được khơi dậy khi sinh vật đó không còn phương cách gì để bảo vệ sự sống, lúc đó bản năng sinh tồn sẽ hoạt động. Trong đời tôi đã một lần phải dùng tới bản năng sinh tồn kỳ diệu này. Và nhờ có bản năng sinh tồn đó mà tôi còn hiện diện trên cõi đời này để chia sẻ kinh nghiệm đau thương nhưng vô cùng quý báu đó với các bạn. 


 Cơn điên loạn

    Khi cán bộ và trật tự khóa cửa buồng và đi rồi, tôi nằm vật xuống bất động, kiệt lực, ngạt thở vì phổi tôi bị thương quá nặng không hô hấp được. Nằm yên một lúc tự nhiên cơn đau đớn của thể xác, sự suy nhược tinh thần và cơn uất ức làm tôi phát điên lên.

Với bản năng tự nhiên, tôi không còn cầm mình được nữa, tôi không còn nhớ mình là ai và cũng chẳng cần biết chung quanh đang có ai. Nằm ngửa trên bệ xi-măng với một chân dính vào cùm sắt, cổ tôi tắt nghẹn và nước mắt chảy ra giàn giụa, máu ở mũi tôi trào ra lênh láng. Tôi đã điên cuồng, lăn lộn,  giật chân bị cùm phát ra tiếng rầm rầm... rầm rầm... và tôi đã thốt lên những lời nguyền rủa, tôi gào thét:“Bùi Đình Thi ơi! Tao thề với mầy! Tao thề với mầy Bùi Đình Thi ơi! Sau này tao mà còn sống, tao sẽ tìm hết mọi cách bắt cho được mầy và cả vợ con dòng dõi rắn độc nhà mầy để tự tay tao mổ bụng móc gan mầy,  đặt trên bàn thờ hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn. Như vậy tao mới hả dạ, Bùi Đình Thi ơi! Bùi Đình Thi ơi! Bùi Đình Thi ơi!”

Trong cơn điên loạn và đau đớn tột cùng này, anh Trịnh Tiếu và anh Nguyễn Sỹ Thuyên đã vỗ về và an ủi tôi. Anh Thuyên xé vải lau máu mũi cho tôi. Trong khi đó cha Nguyễn Công Định ngồi bên kia dựa tường hát bản nhạc “Hè Về”:“Trời hồng hồng, sáng trong trong...” Thái độ này của cha Định làm anh Trịnh Tiếu nổi giận, và anh đã cho nổ bùng một cơn thịnh nộ thật khủng khiếp. Buồng giam của tôi lúc đó trở thành một đáy địa ngục, một đáy địa ngục được hiểu theo nghĩa đen.

Phải một thời gian lâu tôi mới hồi tỉnh lại. Khi đã trở lại bình thường tôi cảm thấy thật hối hận vì câu nguyền rủa gớm ghê độc ác đó của mình. Tôi cảm thấy mình thật sự là một kẻ yếu đuối, chưa làm chủ được chính mình như đôi khi tôi đã tưởng. Nhân tiện đây, tôi công khai xin lỗi các anh Trịnh Tiếu, Nguyễn Sỹ Thuyên và cha Nguyễn Công Định, những người đã chứng kiến sự việc và đã nghe những lời nói độc ác đó của tôi. Tôi cũng xin lỗi anh Nguyễn Tiến Đạt, một tín đồ Công giáo trẻ cùng ở khu kỷ luật với tôi lúc đó. Ngay sau khi biết tôi bị trận đòn chí tử, anh Đạt đang bị cùm ở buồng bên gọi sang an ủi tôi và có hỏi:

     - Cậu Bảy nghĩ thế nào? Nếu sau này Bùi Đình Thi hối cải và xưng tội, liệu Chúa có tha cho anh ta không? 

      Lúc bấy giờ vì cơn tức giận đang sôi lên sùng sục, tôi đã trả lời Đạt bằng câu nói nghịch đạo lý và phạm thượng:

     - Thằng đó hả? Nếu Chúa không vướng chân bị đóng đinh vào Thánh giá, Chúa cũng sẽ cho nó một đạp rồi! Ở đó mà tha cho nó!

   Chắc Đạt đâu có biết rằng, đã từ lâu tôi rất hối hận và xấu hổ, vì trong cơn tức giận tôi đã thốt lên lời bất xứng như vậy, từ cửa miệng của một Linh mục, và do đó tạo gương mù gương xấu cho những người chung quanh, trong đó có Đạt. Đáng lẽ ra lúc đó tôi phải trả lời với Đạt rằng: “Nếu sau này anh ta thực sự sám hối, chắc chắn Chúa sẽ tha thứ. Vì lòng nhân từ của Chúa bao giờ cũng lớn hơn tội lỗi của con người.”


Vài lời về Trương Văn Phát

Tôi cũng muốn có vài lời về trật tự Trương Văn Phát. Tôi không nhớ có bị Trương Văn Phát đánh trong vụ vượt ngục và thời gian kỷ luật tiếp theo hay không. Tôi không nhớ nhiều về vai trò của Phát trong thời gian ở nhà kỷ luật, mặc dù lúc đó Phát vẫn còn làm trật tự phó cùng với Thi và vẫn lên xuống khu kỷ luật. Chỉ có một việc sau đây có liên quan tới Phát là tôi nhớ và nhớ rất rõ.

Vào khoảng tháng 7-1979, sau vụ vượt ngục 2 tháng, tôi đang bị cùm trong buồng 5 khu kỷ luật cùng với anh Nguyễn Sỹ Thuyên. Một buổi chiều nọ trong giờ điểm danh bên kiên giam, chỉ cách chúng tôi một bức tường, tôi nghe có tiếng la lối, tiếng chân người chạy, tiếng chửi bới, tiếng đánh đập một cách bất thường. Lúc đó chúng tôi ngồi trong cùm, đoán già đoán non, nhưng chẳng biết chuyện gì đã xảy ra bên khu kiên giam. Một lúc sau nghe có tiếng người lên khu kỷ luật, tiếng đấm thùi thụi, tiếng chửi bới, tiếng mở cửa buồng kế bên và chúng tôi biết là có người mới vừa bị đưa lên cùm.

Đợi sau khi trật tự và cán bộ đóng cửa buồng đi xuống, chúng tôi gọi vọng qua hỏi sự tình. Lúc đó mới biết người vừa bị đưa lên cùm kế bên là cha Phạm Quý Hòa, một Linh mục quãng 45 tuổi, người miền Trung. Tôi hỏi lý do và còn nhớ mãi câu trả lời đầy hài hước của cha Hòa. Bằng một giọng miền Trung rất nặng, cha Hòa nói: “Mình bóp ‘dại ngựa, bị ngựa đã!’”  Mặc dù tình cảnh lúc đó thật đau đớn nhưng chúng tôi cười vang khi nghe câu trả lời đó của cha Hòa. Sau đó ngài kể lại, khi bắt đầu giờ điểm danh buồng 3 khu kiên giam, sáu người trong buồng ngồi xếp bằng ngay ngắn trên bệ nằm, trật tự Trương Văn Phát đi vào điểm danh, tay cầm cái búa bằng gỗ dùng để gõ vào tường coi có chỗ nào bị đào bị khoét không.

Khi đi ngang trước mặt cha Hòa, không hiểu lý vì do gì, hay chỉ vì ngứa tay, Phát nện cái búa một cú như trời giáng vào đầu gối cha Hòa. Cha Hòa vụt nhảy xuống đánh trả lại Phát, làm anh trật tự bố láo này thất kinh vội chạy trở ra cửa thoát thân. Cha Hòa rượt theo, Phát quay lại ném chùm chìa khóa hàng mấy chục chiếc vào cha Hòa, ngài né tránh kịp, chùm chìa khóa bay vào trúng cửa nhà cầu đánh “rầm” một tiếng và rơi xuống đất. Phát định chạy vào nhặt lại nhưng không dám vì cha Hòa đang hờm bên trong.

Phát ta hồn vía lên mây! Vì mất chùm chìa khóa cửa các buồng giam, coi như anh ta đã mất mạng, nên vội chạy như bay xuống nhà cầu cứu với Thi và cán bộ. Ngay sau đó, cả hai tên trật tự và mấy cán bộ chạy vội lên khu kiên giam. Tới nơi, Thi vô buồng nhặt chùm chìa khóa và lôi cổ cha Hòa ra sân, khóa tay lại, và hai anh trật tự thi nhau đập cho một trận mềm người. Sau đó đẩy cha Hòa sang khu kỷ luật, vừa đi vừa đánh cho tới trước cửa buồng. Tôi dùng chữ “mềm người” theo nghĩa đen, vì sau đó mấy ngày khi được tháo cùm đi tắm chung, cha Hòa bước đi vặn vẹo như người vừa ốm dậy. Sau trận đòn đó, cha Hòa còn bị cùm hơn một năm trời trong nhà kỷ luật chỉ vì tội “bóp dái ngựa”!


Lon nước ân tình

Tôi nghĩ là một thiếu sót lớn nếu tôi không nói lên cách công khai để cám ơn một cán bộ có lòng nhân đã để lại một nét son trong đời tôi, ngay lúc tôi trong hoàn cảnh đau thương và tệ hại nhất ở nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm.

Các cán bộ, nhất là những cán bộ trực trại, là những người trực tiếp ảnh hưởng tới sinh hoạt hàng ngày của chúng tôi. Nếu gặp cán bộ hiền hòa, chúng tôi đỡ khổ; nếu gặp phải cán bộ khó khăn hoặc hung ác, chúng tôi bị khổ đủ điều. Nên biết rằng, đa số cán bộ làm nhiệm vụ cai tù, nhất là cai tù chính trị là những người được huấn luyện để thi hành chính sách chuyên chính của đảng. Họ coi tù nhân chúng tôi là kẻ thù, và rất nhiều người đã biết họ phải làm gì với kẻ thù đang nằm trong quyền lực của họ.

Đại đa số cán bộ mà tôi đã gặp trong suốt 13 năm tù đã cho tôi một cái nhìn chung, phần đông họ chỉ làm việc như một nghề để sinh sống. Thỉnh thoảng có những người hành sử với tù nhân khắt khe và tàn nhẫn. Ngược lại cũng có những người hiền từ, dễ thương từ trong lời nói tới cách cư xử với tù nhân. Những cán bộ này đã để lại trong lòng tôi sự biết ơn và quý mến. Như một đoạn trên tôi đã nói, đồng tiền có mặt phải và mặt trái của nó. Nếu thời gian sống trong nhà kỷ luật Thanh Cẩm có những cán bộ mà vừa nghe tới tên, hoặc vừa thoáng trông thấy từ xa đã làm tôi nổi da gà như Thượng sĩ Hoàn, Chuẩn úy Lăng, Trung úy Bộ, Thượng sĩ Khải v.v thì ngược lại cũng có người như Thượng sĩ Hạ, người cán bộ mà tôi muốn dành riêng một đoạn trong tập bút ký này để bày tỏ lòng quý mến và biết ơn.

Thượng sĩ Hạ là cán bộ trực trại trong ngày chúng tôi đào tường vượt ngục, có nghĩa là người chịu trách nhiệm về biến cố này. Bởi vậy, người mà tôi sợ nhất sau khi bị bắt lại không phải là ai khác ngoài Thượng sĩ Hạ. Hạ có thân hình cao lớn và rắc chắc, nước da ngăm đen, mái tóc bồng bềnh, mới nhìn qua thấy anh ta giống người Dân tộc thiểu số hơn là người Kinh. Điểm đặc biệt là anh có nhiều vết lang ben trên cổ và một ít trên mặt. Vì da anh khá đen nên các vết lang ben càng dễ nhận thấy. Tánh anh lầm lì, rất ít nói, mỗi lần lên khu kỷ luật hoặc kiên giam trong giờ cho ăn, anh thường đứng dựa vai vào tường, một chân đứng thẳng còn chân kia co lại gác chéo qua bàn chân kia. Cứ thế anh yên lặng nhìn trật tự chia thức ăn và nhìn chúng tôi đi lại nhưng chẳng bao giờ nói một lời nào. Sở dĩ tôi nhớ các chi tiết này vì trông anh lúc nào cũng có vẻ sầu đời hoặc như người đang thất tình, lúc bấy giờ anh khoảng chừng 27 tuổi.

Nhìn tướng người cao lớn, da đen ngăm và thái độ lầm lì, tôi rất ngại anh và dĩ nhiên là né tránh khi nào có thể tránh được. Tôi còn nhớ buổi chiều ngày 1 tháng 5-1979, chính cán bộ Hạ và hai trật tự Thi- Phát vào điểm danh buồng 1 kiên giam chúng tôi, và đêm đó chúng tôi đào tường vượt ngục. Sau khi vượt ngục thất bại, chúng tôi bị bắt lại và hành hạ dã man như tôi đã nói ở trên, nhưng điều đáng nói ở đây là tôi không hề thấy bóng dáng cán bộ Hạ trong số những người đánh đập chúng tôi lúc đó. Thay vào đó là thượng sĩ Hoàn, chỉ huy nhóm võ trang canh gác ban đêm trong ngày tôi vượt ngục, là người đánh đập và chửi mắng tôi nhiều nhất. Ngay từ lúc anh ta bắt chúng tôi từ dưới dòng sông Mã và cả lúc sau này khi tôi bị cùm trong nhà kỷ luật rồi, mỗi chiều lên điểm danh, Thượng sĩ Hoàn cũng đứng bên ngoài cửa buồng xỉ vả chửi bới tôi rất thậm tệ. Mỗi khi thấy thượng sĩ Hoàn và Bùi Đình Thi lên điểm danh, tôi ngán vô cùng! Cũng may là không phải chiều nào anh ta cũng lên điểm danh.

Sau gần một tháng kể từ ngày trốn trại và bị cùm trong nhà kỷ luật, tôi không thấy bóng dáng Thượng sĩ Hạ đâu. Tự dưng tôi cảm thấy mừng vì nghĩ rằng nếu gặp lại chắc là tôi sẽ no đòn với anh. Tôi thầm cầu mong cho cán bộ Hạ đổi đi nơi khác, vô tăm biệt tích, và đừng bao giờ quay lại trại này nữa. Vào một buổi xế trưa, chúng tôi được lệnh mang hết đồ đạc ra để khám xét. Việc này cũng thường xảy ra và không có định kỳ nhất định. Từ lúc có vụ vượt ngục của nhóm tôi, việc xáo trộn tù giữa các buồng có vẻ thường xuyên hơn.

Vừa khệ nệ ôm đồ đạc bước ra, tôi giật thót người khi thấy cán bộ Hạ và mấy cán bộ khác đang đứng dưới bóng cây ở đầu nhà cạnh bờ tường. Thấy cán bộ Hạ nhìn tôi chằm chằm, tôi lại càng lo sợ hơn. Điều mà tôi lo sợ cả tháng nay bây giờ đã tới! Tôi cúi đầu né tránh cái nhìn của cán bộ Hạ, và ôm mớ đồ đạc để vào một góc khá xa nơi anh đứng. Lúc quay lại tôi vẫn thấy anh đang nhìn tôi, và tôi nghĩ giờ đền tội của tôi đã tới.

Thượng sĩ Hạ bước chậm chậm lại phía tôi. Tim tôi đập mạnh, người tôi nóng bừng trong khi đang chờ đợi để đón nhận điều tệ hại nhất sẽ xảy ra. Khi anh tới gần, tôi lên tiếng “chào cán bộ” theo luật trong tù. Anh chỉ khẽ gật đầu nhưng chẳng nói gì. Anh bước lại gần hơn, nhìn thẳng vào mặt tôi và nói nhỏ vừa đủ nghe: “Anh Lễ, anh làm tôi mất tất cả!” Tôi rất ngạc nhiên và vui mừng trước thái độ hòa dịu một cách không ngờ của cán bộ Hạ. Tôi đáp lại một cách chân tình: “Tôi thành thật xin lỗi cán bộ, nhưng xin cán bộ hiểu cho hoàn cảnh của tôi.” Đó là câu đối thoại duy nhất với một cán bộ mà tôi phập phồng lo sợ cả tháng trời qua. Tôi thật không ngờ cán bộ Hạ là người có lòng nhân như thế.

Sau lần đó, thỉnh thoảng anh có lên điểm danh trên khu kỷ luật cùng với trật tự Bùi Đình Thi. Cán bộ Hạ vẫn lầm lì như xưa, trên mặt và cổ vẫn còn các vết lang ben. Từ khi gặp lại trong lần kiểm tra đồ đạc dưới bóng cây, anh ta cũng chẳng nói thêm với tôi một lời nào. Cho tới một hôm vào quãng giữa tháng 7, gần hai tháng sau ngày chúng tôi bị cùm, trong buồng tôi có chuyện xảy ra.

Trời Thanh Hóa lúc này nóng như thiêu như đốt, nhà kỷ luật nóc bằng trở thành lò hấp người. Lúc bấy giờ anh Thuyên và tôi bị cùm trong buồng 5, mỗi ngày tiêu chuẩn nước được phát chung cho hai người là hai lon Guigoz (mỗi lon độ 3/4 lít), sáng một lon chiều một lon. Với lượng nước này, chúng tôi phải làm sao gói ghém vừa uống, vừa rửa ráy, vừa tắm, vừa giặt, vừa lau mồ hôi ban đêm trong cái lò hấp người này. Chúng tôi đã quyết định, bằng mọi giá phải để dành một lon nước qua đêm, vì ban đêm hơi nóng từ nóc Nhà Bằng đúc bằng xi-măng tỏa xuống, nóng không tưởng tượng được, cần có nước nhắm vào miệng cho đỡ khát.

Thời gian này trại thường cho tù ăn khoai lang với mắm chược, là loại mắm cá thối được nấu ra thành nước. Mắm chược tanh khủng khiếp, nhưng lúc bấy giờ chúng tôi lại thèm chất tanh nên mắm chược vô tình lại trở thành món ăn ngon. Giờ cho ăn trên kỷ luật sớm hơn dưới “làng”. Ban trưa quãng 11 giờ và ban chiều quãng 4 giờ. Tiêu chuẩn hai người chúng tôi mỗi bữa ăn là ba củ khoai lang, to hơn đầu ngón chân cái một chút. Nếu chia ra mỗi người một củ rưỡi thì ít quá, nên tôi có sáng kiến, thay vì bẻ ngang thì chẻ dọc củ khoai, như thế mỗi người “giống như” được ba củ! Làm như vậy để đánh lừa cặp mắt, nhưng hình như cũng đánh lừa được dạ dầy vì tôi thấy chia như vậy ăn vào “no” hơn và anh Thuyên rất phục tôi ở sáng kiến này.

Mỗi bữa ăn chúng tôi bẻ khoai lang ra, dĩ nhiên là cả vỏ, cho vào tô nước mắm chược, chế thêm một ít nước lạnh vào, quậy cho đều và “húp”! Sau khi xong bữa “húp”, màn tiếp theo là uống nước. Ngồi trong lò hấp mà ăn khoai với mắm thối sẽ khát nước vô chừng. Cơn khát này không phải lúc đó mà thôi, nhưng sẽ kéo dài suốt đêm, nên việc để dành một lon nước qua đêm là yếu tố sống còn cho hai người. Những bữa “húp” của hai anh em tôi không có vấn đề gì xảy ra cho tới một ngày nọ. Hôm đó vì thèm thuốc lào quá nên anh Thuyên, một tay nghiện thuốc lào nặng, nói với anh trực sinh Nguyễn Tiến Đạt làm sao tìm cho một bi thuốc lào.

Buổi chiều cùng ngày, trong giờ đổ ống bẩu và chia thức ăn, Đạt dúi vào tay anh Thuyên một bi thuốc lào to bằng hột đậu, một que diêm và tí giấy bìa bao diêm. Tôi phải nói là Đạt đã cho anh Thuyên một kho tàng vô giá, vì từ ngày bị cùm trong kỷ luật đã gần 2 tháng, ngày nào anh Thuyên cũng nhắc thuốc lào, bây giờ anh mới được toại nguyện. Khi làm việc này dĩ nhiên Đạt cũng phải gồng mình, vì nếu bại lộ thì Đạt cũng sẽ no đòn.

Chiều hôm đó, sau bữa “hút”, Bùi Đình Thi và cán bộ đã cùm chân chúng tôi lại và đi xuống, anh Thuyên nhờ tôi tiếp tay thu dọn các thứ trên bệ nằm cho gọn vì anh biết là sau khi hút thuốc lào, anh sẽ say nghiêng say ngửa. Ai đã hút thuốc lào thì biết, chỉ một đêm không hút, sáng hôm sau điếu đầu tiên là say quắc khước, đừng nói chi gần hai tháng không có hơi thuốc nào như anh Thuyên. Vì trong buồng không có điếu, nên anh phải dùng giấy quấn một cái “loa kèn”, nhét bi thuốc lào vào đầu to của “loa kèn”, rồi ngậm nước trong miệng, châm lửa và...hít! Trước khi hút anh còn dặn tôi, nếu anh có say quá thì lấy tay nhấn nhấn vào ngực giúp anh thở, vì đã có người say thuốc lào nghẹt tim không thở được mà chết.

Anh Thuyên chuẩn bị tinh thần để hít điếu thuốc lào “lịch sử” này, cẩn thận và trịnh trọng như một nghi lễ tôn giáo. Sau khi giúp anh bật được ngọn lửa, mồi vào cái đóm bằng vải và kê vào đầu loa kèn, anh đã “hít...hít...hít” với tất cả sức lực của anh. Có lẽ trong đời anh Thuyên chưa bao giờ anh sung sướng như lúc anh đang ngửa mặt lên trời nhả khói ra trong lúc này! Bất thần anh ngã vật xuống! Ngụm nước trong miệng sặc ra ướt đẫm, mắt anh đờ đẫn và sùi bọt mép!

Sau khi ngã xuống, cả hai tay anh quơ quơ trên không, cái chân không bị cùm của anh đá tứ tung. Miệng anh ú ớ gọi tên tôi, giọng đứt quãng:“Ông Lễ ơi!, ông Lễ ơi!...ông Lễ ơi!...” Tôi thất kinh sợ anh chết, vội nằm xuống vuốt ngực anh, nhưng anh ta quay ngang, gạt tay tôi ra và cào cấu lung tung như người đang bị ong đốt. Trong lúc say quá độ,  anh Thuyên quơ tay đánh đổ lon nước “cứu mạng” duy nhất mà tôi đã cẩn thận nhét sát vào góc. Sở dĩ lon nước không thể để ở xa hơn được vì sau khi phát thức ăn chiều, chúng tôi đã bị cùm chân lại và mọi thứ phải được đặt vào tầm tay với để khi cần có thể lấy được.

Một hồi lâu anh Thuyên mới tỉnh lại và thất kinh trước việc anh đánh đổ lon nước. Lúc đó quãng 4 giờ chiều và chúng tôi phải đợi tới trưa hôm sau, tức là 19 tiếng đồng hồ nữa mới được phát nước! Khổ nỗi, ngay lúc bấy giờ tôi đã bắt đầu khát sau khi húp tô mắm chược trộn khoai lang. Anh Thuyên cũng khát nước không kém gì tôi, nhưng lúc đó chúng tôi không làm gì khác hơn là chờ đợi cho tới giờ điểm danh, chừng đó có cán bộ lên để xin nước, mặc dù chúng tôi biết là rất ít hy vọng.

Riêng đối với Bùi Đình Thi chúng tôi chẳng có chút hy vọng nào. Điều quan trọng là cán bộ nào sẽ lên điểm danh khu kỷ luật chiều nay. Nếu gặp phải cán bộ Hoàn chắc chúng tôi chết mất vì không lần nào anh ta thấy mặt tôi mà không chửi bới. Có lần còn nhào vô buồng đạp tôi mấy phát khi chân tôi đã xỏ vào cùm. Nếu Hoàn mà lên với Bùi Đình Thi nữa thì vô phương.

Tới giờ điểm danh, chúng tôi đã khát gần cháy cổ. Nghe tiếng chìa khóa khua, chúng tôi mừng thầm, nhưng khi tới nơi nhìn ra chỉ thấy một mình Bùi Đình Thi. Có cán bộ nào đi sau hay không, chúng tôi không thấy. Khi trật tự  mở khóa vào buồng kiểm tra cùm, tôi đánh bạo xin Thi cho nước uống vì đã lỡ làm đổ hết, không còn nước uống qua đêm. Thi trả lời:“Tiêu chuẩn nước của trại, chúng mày dùng đổ vào tường để đục tường đủ rồi, còn đòi nước gì nữa!” Thế là anh ta bỏ đi ra ngoài và khóa cửa buồng giam lại.

Lúc đó bên ngoài thấy có cán bộ bước tới, nhìn ra là cán bộ Hạ. Tôi mừng thầm trong bụng và tôi lớn tiếng xin cán bộ cho nước uống vì chúng tôi vô ý làm đổ hết và đang khát cháy cổ. Cán bộ Hạ chưa kịp trả lời thì Bùi Đình Thi đứng ngoài nói vọng vào câu anh ta nói với chúng tôi lúc nãy. Nghe câu đó, cán bộ Hạ ngần ngừ như muốn từ chối. Cảm thấy như tới lúc lâm nguy, tôi xin tha thiết hơn:

   - Xin cán bộ hãy lấy tình người mà thương chúng tôi, chúng tôi khát nước quá rồi.   Đêm nay mà không có nước uống chắc chúng tôi chết mất!

   Vừa nói tôi vừa bóp méo cái lon Guigoz cho lọt qua khe cửa sắt đưa ra bên ngoài. Cán bộ Hạ ngần ngừ một chút, xong ra lệnh cho trật tự:

  - Anh Thi, đến bể lấy cho mấy anh ấy một lon nước!

Không còn cách nào khác, Thi đành phải vâng lời cán bộ, đến bên bể cạn và múc cho chúng tôi một lon nước. Nhưng khi trở lại thành cửa sổ, anh ta dằn mạnh lon xuống làm nước đổ tung tóe và vơi đi gần phân nữa. Đây là nước lấy trong bể cạn ở góc khu nhà kỷ luật. Bể này chứa chừng một thước khối nước dành cho tù giặt quần áo, và sau khi đổ ống bẩu tay dính cứt thì rửa trực tiếp vào đó. Tới chiều bùn sình và những gì nhơ bẩn đã lắng xuống và nước lại trong.
Phải nói anh Thuyên và tôi sống được qua đêm đó là nhờ lon nước ấy. Mặc dù đó là nước dơ nhưng có lẽ không còn vi trùng, vì theo tôi nghĩ tất cả vi trùng trong bể nước đó đã bị trúng độc chết hết rồi, còn đâu nữa để làm chúng tôi bệnh! Tôi không bao giờ quên ơn cán bộ Hạ và lon nước ân tình này.

Sau đó cán bộ Hạ rời trại một thời gian rất lâu. Cho tới một buổi trưa nọ vào năm 1986, tức là 7 năm sau, lúc đó tôi đã qua sống khu kiên giam mới cùng với các anh em Linh mục khác, có lần cán bộ Hạ lên khu kiên giam thăm chúng tôi. Tình thế giữa tù nhân và cán bộ lúc này đã có sự gần gũi nhau hơn. Trong lần gặp lại đó, tôi có nhắc lại với anh về lon nước vào năm 1979 với lời cám ơn chân tình, nhưng anh nói:“Tôi không còn nhớ!” Tôi trả lời:“Nhưng tôi còn nhớ và tôi sẽ nhớ mãi lon nước ân tình này”. Nghe nói thế cán bộ Hạ nhìn tôi mỉm cười, nụ cười rất hiếm hoi trên khuôn mặt lầm lì cố hữu của anh. Đó cũng là lần cuối tôi gặp lại người cán bộ đã để lại trong tôi kỷ niệm thật đẹp về tình người trong nhà tù cộng-sản.


Gió thoảng trưa hè

Không lâu sau đó, Bùi Đình Thi mất chức trật tự.  Sự kiện này đối với tôi rất quan trọng, vì kể từ ngày đó cuộc sống tôi được nâng cấp: Từ đáy địa ngục, tôi được chuyển lên tầng trên của địa ngục! Ngày anh ta mất chức trật tự  trong trại tù Thanh Cẩm cũng là một trong hai ngày vui mừng và hạnh phúc nhất trong 13 năm tù của tôi! Ngày đầu tiên là ngày 2 tháng 8 năm 1978, ngày tôi được chuyển ra khỏi trại trừng giới Cổng Trời!

11


Tầng Đầu Địa Ngục

 



Người ta thường nói:“Sống lâu lên lão làng!” Tôi cũng đã có lần thuộc dạng “lão làng” vào năm 1982, sau khi nằm liên tiếp 3 năm trong nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm. Với cái vốn thời gian đó, tự nhiên tôi trở thành “đại ca” trong khu kỷ luật lúc bấy giờ.

Kể từ khi tôi bị đưa lên cùm chân sau vụ vượt ngục bất thành ngày 2 tháng 5, 1979 cho tới lúc này, tôi cứ quanh đi quẩn lại trong 6 buồng của khu nhà kỷ luật. Tôi giữ vai trò người quản gia, trong khi các người tù khác chỉ là những khách vãng lai. Có người trụ lại một thời gian khá lâu đến hàng năm trời, nhưng cũng có những người ngắn hơn, lên đây một thời gian chừng vài tháng hay tuần hoặc vài ngày rồi trở xuống dưới “làng”. Cũng có người xuống “làng” ít lâu rồi lại lên khu kỷ luật như dân Âu Châu đi nghỉ hè ở vùng bờ biển hàng năm! Riêng tôi đã 3 năm rồi, nhưng chưa được đi “nghỉ hè” lần nào. Cũng chính vì được tiếp xúc với nhiều đợt tù kỷ luật, chính trị cũng như hình sự, nên yếu tố “lão làng” của tôi được nhiều người biết tới.

Nếu yếu tố “lão làng” không mang ý nghĩa gì đặc biệt đối với nhóm tù chính trị thì ngược lại nó là vấn đề quan trọng, đôi lúc là nguyên tắc sống còn đối với những người tù hình sự. Nên biết điều này, giữa những người tù hình sự với nhau, sự kiêng nể các “đại ca” đã trở thành một thứ luật bất thành văn trong tù. Có những anh vì coi thường hoặc chểnh mảng việc tuân giữ quy luật này nên đã phải trả giá rất đắt. Suốt 4 năm qua tôi đã phải sống lăn lộn với tù hình sự từ trại Cổng Trời về đây, nên đã có dịp chứng kiến nhiều trường hợp trả giá đó. Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà các tù nhân vi phạm bị “đại ca” ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù.

Nếu chỉ để cảnh cáo hoặc áp đảo tinh thần những “lính mới” để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng “chưởng”, hoặc “bẻ ngà” . Trường hợp nặng hơn thì bị “lấy cặp pha” , hoặc “xin cặp nạng” . Trường hợp nghiêm trọng và phải bảo vệ chỗ đứng thì đối phương sẽ được “cất” . Những người tù hình sự có loại ngôn ngữ riêng bằng tiếng lóng. Gần như tất cả mọi người đều có một tên đệm kèm theo tên riêng. Và có một điều dường như ai cũng có thể biết được là họ chửi thề luôn miệng!

Hiện tượng “ma cũ ăn hiếp ma mới” trong giới tù hình sự là điều rất phổ biến và tự nhiên trong tù. Chắc hẳn nhiều người đã được nghe kể, và hơn nữa đã đọc những sách viết về đời sống ngục tù đề cập tới hình thức “tìm chỗ đứng” của các tù nhân cũ. Những anh tù mới vừa bước vào buồng sẽ bị những người cũ áp đảo bằng một trận đòn mềm người và bị bắt buộc phải khuất phục dưới trướng. Nếu người tù mới là tay hảo hán thì sau này sẽ “ngoi lên tìm chỗ đứng” bằng cách nào đó để nắm vai trò lãnh đạo.

Việc ngoi lên tìm chỗ đứng này được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng điểm giống nhau duy nhất trong các cuộc tranh hùng đó là tính cách không khoan nhượng, nói rõ hơn là một mất một còn. Vì thế, ngoài trường hợp những “đại ca” có tầm cỡ cao, nghĩa là những tù nhân khét tiếng mà ai nghe tới cũng phải cúi đầu chịu phục và dù ở đâu cũng có đàn em các cấp thì không nói, còn những tay mới vừa ngoi lên tìm chỗ đứng trong tù, khi đi ngủ chỉ nhắm một mắt. Ý muốn nói lúc nào cũng phải đề phòng kẻo bị thanh toán!

Dĩ nhiên các việc đó chỉ diễn ra trong giới tù hình sự. Dù vậy hoàn cảnh đã đẩy đưa tôi, một tù nhân chính trị, vào vị thế được kiêng nể trong giới tù hình sự tại khu kỷ luật này. Một sự việc xảy ra ngoài sức tưởng tượng mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Nó đột biến xảy ra vào một buổi sáng nọ khi cán bộ mở cửa và đẩy vào buồng tôi một anh tù hình sự còn trẻ măng, chừng ngoài 20 tuổi. Buồng tôi lúc đó có 4 chỗ cùm nhưng chỉ có 3 người, tôi và hai anh tù Trung Quốc, còn một chỗ cùm trống dành cho anh tù mới này.

Chợt nghe tiếng mở khóa buồng, tôi vội lấy tấm chăn che ngang người, vì lúc đó cả 3 chúng tôi đều trần truồng. Anh tù mới vừa bị đẩy vào đứng chết trân giữa buồng, vì từ ngoài sáng vào buồng tối làm anh quáng mắt. Anh ta cố gắng định thần trong một buồng giam nóng như hỏa lò và chắc chắn là rất thối tha này. Còn tôi ở đây đã lâu và nằm trong buồng đã quen với bóng tối nên tôi nhìn ra và thấy anh ta hầu như rõ mồn một!

Người anh trông nhỏ thó với mái tóc húi cao. Anh ôm trên tay chiếc chiếu cuộn tròn mà tôi biết bên trong là chăn và quần áo. Tay kia anh bưng một cái bát sắt có hoa màu đỏ, có đĩa sắt đậy lại bên trên, nên tôi không biết trong bát có gì. Dưới nách anh cặp một ống điếu cày có máng cái lon Guigoz lòng thòng. Trong lúc anh tù mới đang chớp mắt nhìn quanh nhưng chưa thấy gì và nghe ba người chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Phổ thông làm anh tưởng buồng này tất cả đều là tù Trung Quốc. Tôi nhận thấy trên mặt anh lộ ra vẻ sợ hãi. Có lẽ chưa kịp định thần thì cán bộ đã rút thanh sắt, xỏ chân anh ta vào cùm, khóa cùm bên ngoài buồng và đóng cửa bước ra. Cán bộ hành động nhanh như một cái máy, vì tôi biết anh ta không chịu nổi mùi hôi thối và bầu khí nóng như lò hấp của buồng giam.

Ban ngày trong căn phòng kín như cái hộp sắt có mở lò sưởi này, chúng tôi gần chết ngộp. Mỗi lần mở cửa là mỗi hồng ân trời ban, vì có không khí ùa vào buồng. Lúc đó chúng tôi thi nhau hít thở, càng mạnh càng tốt, càng nhiều càng tốt và cố rút vào buồng phổi không khí trong lành hiếm có để còn được tồn tại. Đợi cho anh tù mới định thần xong, tôi lên tiếng:

- Mầy thấy rõ trong buồng chưa? Mệt thì nghỉ đi.

  Nghe tiếng tôi, anh ta rất mừng vì biết tôi là người Việt nên lễ phép nói:

  - Em xin chào anh! Thưa anh có phải là anh 'Nể' (Lễ) không ạ!

  Anh tù này nói thiệt là ngọng. Qua cách anh phát âm tên tôi, tôi hỏi:

  - Sao mày biết tên tao?

- Ối giời! Anh ạ, đám bọn em có mấy thằng đi kỷ 'nuật' về, bọn chúng ca tụng anh 'nắm'. Chúng bảo anh rất tốt!

Tôi phì cười:

- Xạo mầy! Mày tên là gì, làm sao mà bị đi cùm?

Có lẽ anh ta sợ, khi nghe giọng nói tôi cố tình tạo ra vẻ “đại ca”. Càng sợ hơn nữa sau khi đã chớp mắt làm quen với bóng tối trong buồng và nhìn thấy hình dạng tôi đang cởi trần, râu ria tua tủa rối ren vô trật tự, tóc tai bờm xờm đang ngồi cùng với hai anh Tàu to con và trần truồng như nhộng. Cảnh này mới bước vô, ai mà chẳng sợ. Anh ta trả lời cách khúm núm:

- Thưa anh, tên em là Huống. Em nhón một ít ‘nạc’ (lạc) của cán bộ, bị bể và đi cùm. À, em xin mời anh dùng bát cơm anh ạ!

Vừa nói Huống vừa với tay cầm cái bát sắt, mở đĩa đậy ra và nhẹ nhàng đặt bát cơm cạnh tôi.

Nhìn bát cơm, hai anh Trung Quốc lộ vẻ thèm thuồng tột độ. Bát cơm trắng quả là một bữa đại yến trong buồng kỷ luật đói triền miên này. Ngồi nhìn cả ba anh tù, tôi cảm thấy thương họ. Cuộc sống tù đày đã biến đổi họ thành những con người không còn là chính con người thật của họ. Một người tù vừa bước vào cố nhịn phần ăn sống còn của mình đổi lấy sự an toàn, còn hai người bạn Trung Quốc chỉ cần được ăn và không cần biết gì khác! Tôi hỏi Huống.

- Cơm này ở đâu mày có?

- Em còn ống gạo mới thổi trưa ‘lay’.

- Gạo mày lấy đâu ra?

- Em 'nàm' điếu đổi gạo anh ạ. Bọn chúng vẫn gọi em ‘nà’ Huống “điếu cày” mà!

- Nếu đưa cơm cho tao thì mày lấy gì ăn?

- Em không đói đâu anh ạ!

   Tôi đau lòng khi nghe câu đó, vì trong tù này ai mà không đói! Tôi bảo:

- Huống! Tao giả vờ hù dọa mày cho vui, mày đừng nghĩ tao như một tay đầu gấu hình sự. Ăn đi mày, ở đây thằng chó nào mà chẳng đói.

  Huống ngạc nhiên khi nghe tôi nói như thế, nhưng nó cũng chưa dám ăn. Tôi giục mấy lần nó mới dám bưng bát cơm lên, miệng lí nhí nói:“Em xin anh!”

Tôi ngồi nhìn Huống “táp” vội bát cơm mấy cái đã hết sạch. Trông nó cũng đói không kém gì ba người chúng tôi trên khu kỷ luật này.


Kỹ thuật kiến trúc


Nhà kỷ luật Thanh Cẩm là một nơi được nghiên cứu và thiết kế cẩn thận để tăng hiệu quả tối đa của tính chất độc ác trong việc trừng trị con người. Ở lâu trong đó tôi mới có dịp quan sát kỹ và đi tới kết luận: Không thể có một đồ án xây dựng nào tốt hơn khu nhà, mới vừa ba tuổi mà tôi là một trong số rất ít người được vinh dự là những thân chủ đầu tiên này.

Khu kỷ luật là một nhà nóc bằng hình chữ nhật có sáu buồng. Ba buồng phía trước trông ra một khoảng sân khá rộng và ba buồng phía sau mở cửa thông ra một lối đi hẹp chừng 3 thước, dẫn tới chân một bức tường đá xanh. Tường nhà dày 40 phân, mái nhà được đúc bằng xi măng cốt sắt. Mỗi buồng vuông vức với 3 thước mỗi chiều. Cửa sắt thật kiên cố và chỉ có một cửa sổ nhỏ 50 phân vuông chắn song sắt to bằng cổ tay em bé. Điểm đặc biệt mà tôi khâm phục sáng kiến là các buồng không phải cách nhau bằng một bức tường theo như cách hiểu thông thường, nhưng buồng này cách buồng khác bằng một cái buồng xép bề ngang chừng một mét rưỡi, có cánh cửa chặn kiên cố bên ngoài.

Như vậy khi muốn bước vào buồng kỷ luật phải qua 2 lần cửa, qua lần cửa gỗ vào buồng xép rồi mở cửa sắt vào buồng giam. Hai buồng giam có cửa sắt đối diện nhau. Tuy nhiên, vì nhu cầu có khoảng trống tráng xi măng trước cửa buồng nên buồng 1 và buồng 6 nằm ở hai góc phía trước và phía sau chỉ cần qua một cửa sắt là vào buồng, trong khi tất cả các buồng khác phải qua hai lần cửa. Cái buồng xép nằm giữa hai buồng giam này là một sáng kiến thật độc đáo vì nó có ba công dụng thật rõ rệt. Thứ nhất là an ninh, người tù muốn vượt ngục phải qua hai lần cửa mới ra được. Thứ nhì là chặn không khí lại. Không khí muốn vào buồng giam phải qua hai lần cửa. Và ý thứ ba quan trọng nhất, cái thanh sắt to từ trong buồng giam xỏ qua các móng cùm ngoạm vào cổ chân những người tù được luồn qua một cái lỗ trong tường ló đầu ra buồng xép này và có ống khóa to khóa lại ở đây.

Như thế người tù ngồi bên trong buồng không bao giờ có thể đụng chạm tới cái ống khóa bên ngoài được. Chung quanh khu kỷ luật có tường cao ngăn cách với các khu vực khác trong trại, trên bờ tường có hàng rào kẽm gai. Đây chỉ là tường khu vực, chưa phải là bờ tường trại bằng đá xanh cao 5 thước bao bọc toàn thể trại tù Thanh Cẩm. Chỉ có một lối ra vào duy nhất là cổng trại được xây theo kiểu mẫu Khải Hoàn Môn (Arc de Triumple) của thành phố Paris bên Pháp. Cổng trại là phòng ở của cán bộ trực trại và lúc nào cũng có lính canh.

Trong buồng có hai thớt nằm bằng xi măng hai bên một “phi đạo” ở giữa, mỗi thớt cao 80 phân và rộng cũng 80 phân dành cho 2 người bị cùm. Thật sự tôi không nhớ rõ chi tiết về kích thước của cái thớt này, chỉ biết lúc bấy giờ chúng tôi gọi nó bằng cái tên khá dài:“Hai người thì thiếu, một người thì dư!” Như vậy sáu buồng khu kỷ luật chỉ được trang bị đầy đủ cho 24 thân chủ. Có thời gian số người bị kỷ luật đông hơn 24 thì mỗi buồng có thể nhận thêm một tù nhân nằm dưới “phi đạo”, dĩ nhiên là không phải mang cùm. Ở kỷ luật mà không phải mang cùm cũng là một hồng ân. Thỉnh thoảng cán bộ chiếu cố cho vài người được hưởng đặc ân này. Riêng tôi không được hưởng quyền lợi này một đêm nào trong 1020 đêm ở nhà kỷ luật.

Thông thường những người đã ở lâu thì chỉ bị cùm một chân (cám ơn sự nhân đạo của đảng!). Thời gian 3 tháng đầu bị cùm cả ngày lẫn đêm. Về sau chỉ cùm ban đêm, từ lúc cho ăn chiều cho tới quãng 7 giờ sáng hôm sau.  Ngược lại, “những khách vãng lai”, tức là những người tù ở dưới “làng” bị phạt lên kỷ luật một thời gian ngắn, họ bị cùm một chân cả ngày lẫn đêm. Tuy nhiên, thời gian “tham quan” khu kỷ luật của họ chỉ kéo dài trong vòng một vài tuần lễ.

Buồng giam kín như bưng và tối đen. Chỉ phía ngoài gần cửa sổ có chút ánh sáng lọt qua song sắt, còn phía trong lúc nào cũng tối om om. Dù vậy, chúng tôi cũng không bị trở ngại vì đã quen với bóng tối. Từ bên trong buồng nhìn ra thấy bên ngoài rất rõ, nhưng từ ngoài nhìn vào qua song sắt cửa sổ thì không thấy gì bên trong. Nhất là những hôm nắng to người bên ngoài phải nhìn vào một lúc lâu mới biết có bao nhiêu người trong buồng. Trần nhà rất thấp. Đứng trên bệ nằm, có thể với tay gần đụng trần nhà, trên đó có bắt một bóng điện, ánh sáng leo lét và tắt từ 10 giờ đêm về sau.

 
Nhà cầu “nổi”

Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại, tiểu tiện vào đó. Trước mỗi lúc phát thức ăn trưa và chiều, một anh tù trực sinh vào từng buồng bưng các ống bẩu phân và nước tiểu này ra đổ vào hố phân ở góc tường ngay trước cửa buồng 3 nằm sát góc sân cập bờ tường phía trước. Hố phân này không có nắp đậy và đó là vương quốc của ruồi xanh.

Việc sử dụng nhà cầu nỗi này không đơn giản, phải được chỉ dẫn và dĩ nhiên là cũng phải có kinh nghiệm. Lúc đó tôi đã là “con ma ” trong khu kỷ luật rồi nên thích nghi hết mọi hoàn cảnh để sống còn. Việc sử dụng cái cầu tiêu lạ đời này không còn là vấn đề đối với tôi. Trái lại những “lính mới” thường gặp trở ngại trong những lần đầu. Lúc bấy giờ yếu tố “lão làng” của tôi lại có giá trị vì tôi phải mở một khóa cấp tốc hướng dẫn cách sử dụng loại nhà cầu “nỗi” này như thế nào. Ban ngày lúc không phải cùm thì dễ hơn, nhưng lúc chân trong cùm mà buồn đi cầu thì không phải là chuyện đơn giản và trường hợp này “không thầy đố mày làm nên!”

Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai cái ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống nước tiểu hứng phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau. Trong khi thi hành bản năng sinh học tự nhiên của cơ thể con người, tù nhân phải ở thế đứng, hơi rùn người xuống một chút như thế “xuống tấn” của võ sĩ thái cực đạo mới đúng thế. Ống phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc phải là ống có đường kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng, vì trong lúc “thi hành nghĩa vụ” của bản năng, nói nôm na là “đi cầu”, người tù phải quàng tay ra sau để giữ cái ống bẩu. Nếu ống này nặng quá thì kẹt đủ điều!

Có mấy lần ống này quá nặng, trong khi “đi cầu” ống đó càng lúc càng nặng vì phải chứa thêm, chứa thêm và cuối cùng người tù không thể giữ ống bẩu sát vào mông đã vuột tay làm đổ phân tung tóe trong buồng. Nếu lúc đó có người đang ngồi ăn thì quả thật là bất tiện! Chúng tôi cố đi cầu vào buổi tối sau khi một chân đã dính vào cùm, một phần để tránh hai bữa ăn của anh em và phần khác cũng kín đáo hơn. Tuy nhiên, vào trường hợp bất khả kháng thì bất kể là ngày hay đêm, dù có phải đại tiện ngay trước mặt những người lúc họ đang ngồi ăn cũng không ai lấy thế làm phiền.

Vả lại, vì đã quen với cuộc sống tù quá ư là chật chội, bẩn thỉu và thiếu mọi tiện nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng ai cảm thấy mùi thối tha hôi hám gì trong cái buồng giam kín như cái thùng sắt này. Việc ai người ấy làm, chẳng ai để ý tới ai. Trong khi một người đang đại tiện thì có thể một anh khác đang ngồi ăn hoặc có người đang tập thể dục, ra cửa sổ hít thở, đang ngồi cầu kinh, chơi cờ hay may vá. Có mấy lần một vài “lính mới” vì chưa rành sử dụng ống bẩu nên làm vương vẩy đầy trên sàn nhà. Nhưng không hề gì, chốc nữa tới lúc cho ăn, chúng tôi sẽ nhờ anh trực sinh quét và hốt đi!

Ban ngày không bị cùm, “đi cầu” đã khó, ban đêm khi đã xỏ chân vào cùm mà muốn “đi cầu” thì quả là một cực hình! Lúc đó cần phải có một kỹ thuật cao hơn và những “lính mới” thường không làm được. Phần vì vướng một chân vào cùm, phần khác cổ chân họ còn nhiều thịt nên rất trở ngại trong cái móng cùm bằng sắt nhỏ hẹp. Trong khi đối với tôi và những “thường trú nhân” của khu kỷ luật lúc bấy giờ, cổ chân chúng tôi không to hơn cái ống bơm xe đạp bao nhiêu, nên việc xoay xở nhẹ nhàng khéo léo và lành nghề như một nhà ảo thuật.

Vào mùa hè, trời Thanh Hóa nóng như thiêu như đốt. Nhất là những ngày có gió Lào cộng vào, buồng kỷ luật biến thành cái hộp bằng sắt có mở lò sưởi ở số cao. Gió Lào là ngọn gió từ bên Ai-Lao thổi qua dãy Trường Sơn miền Trung Việt Nam, đưa hơi nóng từ dãy núi đá này qua các tỉnh miền Trung Việt. Hôm nào gió càng to thì càng nóng. Buồng giam chỉ có một cửa sổ duy nhất và rất hẹp, gió không thể lùa vào buồng được. Sức nóng hừng hực của mặt trời nung nóng nóc nhà bằng, ban đêm tỏa hơi nóng xuống buồng giam đã vắt cạn tới giọt nước cuối cùng trong thân thể gầy còm của chúng tôi.

Những đêm kinh hoàng như vậy, mỗi người trong buồng phải thủ sẵn một tô nước trích ra từ tiêu chuẩn nước trong ngày và một mảnh vải ngâm vào đó. Thỉnh thoảng lấy vải lau trên người cho da thịt tiếp xúc với sự mát lạnh của nước, sau đó vắt nước trở lại vào tô. Làm đi làm lại nhiều lần suốt đêm như thế, khi nào kiệt sức thì ngả xuống nằm một chốc rồi ngồi lên lau người tiếp. Sáng hôm sau nước trong bát đen như nước cống. Trong cơn chết ngạt đó, tôi thấy thứ quý báu nhất trên đời này không gì khác hơn là làn khí trong lành để con người có thể hô hấp và tồn tại. Một điều mà dường như không mấy ai để ý tới. Đó là hồng ân đầu tiên mà Thiên Chúa ban cho tạo vật. Lúc đó tôi cầu xin:“Lạy Chúa, nếu Chúa cho con có thể làm phép lạ thì phép lạ đầu tiên con làm là cho có một cái lỗ bằng hộp sữa trổ ra trên nóc buồng, để không khí có thể lưu thông và con có thể hô hấp hầu bảo vệ mạng sống!” Tô quyết tâm là nếu sau này còn sống, tôi phải nói lên cho mọi người, biết ơn và cảm tạ Chúa vì hồng ân cao cả của Ngài đã ban cho con người  được có đủ không khí trong lành để hít thở.

Trong hoàn cảnh nghẹt thở đó, nỗi niềm hối hận trào dâng. Tôi hối hận vì có những lần trước kia tôi than thở oán trách vì bữa ăn không ngon, chai bia chưa đủ lạnh, đĩa rau không đủ tươi, chiếc áo không đẹp, chiếc xe không đúng kiểu, nhà cửa thiếu tiện nghi.... Và đặc biệt tôi muốn chia sẻ với những người may mắn, nhất là dân các nước tư bản, sinh ra trong nhung lụa, lớn lên trong tiện nghi, cuộc đời được bao quanh bởi thú vui và tiền của. Tôi muốn nói với những người may mắn đó rằng:“Các người đang ở trên thiên đàng mà các người không biết. Vì thế xin đừng bao giờ than trách về một vài bất tiện trong cuộc sống đã quá đầy đủ tiện nghi của mình, nhưng hãy biết mở tay ra bố thí và thương đến những kẻ khốn cùng!”

Những lúc nóng nực quá sức chịu dựng, chúng tôi đều trần truồng ngày đêm. Một phần vì mặc quần áo sẽ ướt đẫm và dán sát vào người không thể nào chịu được, đàng khác, những người ở kỷ luật lâu như tôi không còn quần áo gì để mặc. Dường như ai cũng giống nhau trong buồng giam kỷ luật, chúng tôi chỉ chừa đủ một quần xé ống tới đầu gối và một cái áo xé tay tới sát nách, để khi cần phải ra ngoài hoặc lên cơ quan làm việc, còn bao nhiêu đều phải xé ra lau chùi khi đại tiện. 

Trong thời gian kỷ luật, chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên, nhiều khi cán bộ bận việc hay có gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần, nhưng ít khi nào quá một tháng mà chưa được tắm. Vì quá ba tuần mà chưa được tắm là bọn tù chúng tôi kêu la tru tréo điếc cả tai. Trong trường hợp đó buộc lòng phải cho đi tắm, nếu không phải vì lòng nhân thì ít ra để khỏi phải bị quấy rầy.

Thật ra đối với tôi lúc đó, việc được đi tắm sớm hay muộn hơn một tuần lễ không có gì đáng quan tâm. Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi như lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì ít giấy bao xi-măng làm vở viết học chữ Tàu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố công học.

Cơn mưa trái mùa

Đêm đó Huống nằm chung thớt với tôi. Tôi nằm sát vách và Huống nằm bên ngoài. Hai người nằm song song và đôi chân bị xỏ xâu cùm chung một song sắt. Tôi cùm chân phải, Huống chân trái. Một lúc khá lâu, gần tới giờ tắt đèn đi ngủ, Huống kêu đau bụng và buồn đi cầu. Tôi cảm thấy như sắp gặp rắc rối.

Tôi vội ngồi lên chỉ cách cho Huống xoay người, bước một chân không bị cùm xuống sàn. Huống loay hoay cố gắng làm theo cách thức tôi bày, nhưng không được. Nó không biết xoay ngược người bước xuống sàn và quay lưng ra cửa sổ như thế nào. Tệ hơn nữa, trước đó 2 người đã đi đại tiện và các ống bẩu đã nặng hơn. Trong lúc đang bối rối như vậy thì Huống đứng thẳng trên thớt và kêu lên:

  - Anh ạ! Cố giúp em! Khẩn trương “nên” anh, em đau bụng ‘nắm’ rồi!

   Tôi đáp lời nhanh:

  - Mầy cố khắc phục, để tao bảo thằng Tàu nằm phía ngoài bên kia biểu diễn cho mày coi. Bước xuống! Mày đứng thẳng người trên bệ nằm như thế thì ỉa đái cái chó gì được! Sao không tuột quần xuống đi, còn xấu hổ à?

Tôi quay sang bảo anh Trung Quốc nằm bên ngoài ở thớt bên kia đứng xuống và biểu diễn màn đi cầu trong cùm. Anh Tàu bước một chân xuống và chụp lấy cái ống bẩu biểu diễn cách đi cầu với chân trong cùm một cách nhẹ nhàng và đẹp mắt. Bên này Huống ta cố gắng tối đa để làm theo, nhưng mặt mày nhăn nhó kêu đau vì móng cùm cày vào cổ chân trong lúc anh cố gắng xoay người. Cổ chân anh gần chảy máu mà vẫn không xoay người bước một chân xuống sàn được, vì cổ chân anh ta to mà móng cùm lại nhỏ. Những móng cùm to hơn một chút thì bọn tù kỷ luật chúng tôi đã thủ mỗi người một chiếc như vật gia bảo của mình rồi, khách vãng lai phải chịu thiệt thòi hơn. Thấy không cách gì Huống có thể bước xuống sàn khi chân bị cùm, tôi hỏi:

  - Mầy có thể khắc phục tới sáng ngày không Huống?

  - Chết mất anh ơi! Em chột dạ ‘nắm’ rồi, sắp sửa ra quần rồi anh ạ!

  - Vậy mày đứng trên thớt làm được không?

- Em phải cố thôi! Em chột dạ ‘nắm’ rồi. Xin anh giúp chuyền ống bẩu cho em với!

  - Ban sáng mày ăn gì mà chột dạ?

  - Em  ăn “nạc” sống và uống nước “nạnh” vào! Khổ thân em!

   Tôi bực mình nhưng buồn cười quá nói to nhưng thật vui:

  - Khổ gì mày? Khổ tao thì có!

   Nghe tôi to tiếng, Huống tưởng tôi nạt nên sợ cuống cuồng vội vàng nói:

  - Em xin anh! Em van anh!

Thái độ của Huống “điếu cày” lúc này càng làm tôi tức cười không chịu được. Mặt mày nó nhăn nhó, tay chân cuống cuồng. Thấy thế, tôi bước xuống cầm hai ống bẩu lên và bảo nó:

  - Vậy thì mày đứng trên bệ, tuột quần xuống, đứng dạng hai chân và rùn người xuống như cái thế con chó đang đứng ỉa! Mầy có trông thấy con chó ỉa bao giờ chưa?

   Huống đáp vội vàng:

  - Có, có! Em còn ‘nạ’ gì chó ỉa cơ chứ!

  - Được rồi! Một tay cầm ống bẩu nhỏ hứng phía trước, tay kia cầm ống bẩu to này áp sát vào sau mông. Phải nhớ áp thật sát vào mông nghe mậy, nhưng mầy thuận tay nào?

  - Em thuận tay phải!

  - Vậy mầy dùng tay phải cầm ống bẩu phía sau, vì nó nặng và khó điều khiển hơn cái hứng nước tiểu phía trước. Nhớ phải cầm thật chặt nghe chưa?

   Tội nghiệp Huống! Anh ta vô cùng vất vả mới cầm được hai ống bẩu cho đúng tư thế. Trong khi đó sự đòi hỏi càng lúc càng khẩn trương!

Chỉ dẫn cho Huống xong, tôi nằm dài thẳng người xuống và nhìn lên. Cái ống bẩu “hậu vệ” của Huống đang chỉa thẳng vào mặt khiến tôi lo ngại. Tội nghiệp anh tù hình sự đang đứng trong một tư thế khom người rất kỳ dị. Đôi chân dang rộng, hai đầu gối co lại, người rùn xuống thấp và khom lưng cong người về phía trước. Tôi chưa trông thấy con người đứng trong thư thế đó bao giờ nên không biết diễn tả đó là cái thế gì! Nếu gọi thế “xuống tấn” trong thái cực đạo thì đôi chân phải dang rộng hơn, thân người phải thẳng và phải rùn người xuống thấp hơn mới đúng thế. Xem ra nó hơi giống cái thế của các vận động viên bơi lội trước khi lấy đà phóng xuống hồ bơi, nhưng chỉ giống ở cái lưng cong còn đầu gối các vận động viên phải thẳng, không thể như hai đầu gối của Huống trong lúc đang đứng ngay trước mắt tôi đây được.

Vì đã sống lâu năm ở đây, chứng kiến quá nhiều cảnh tù kỷ luật đứng đi cầu “nổi” bằng hai ống bẩu, nên tôi mường tượng tới cảnh con chó đứng ỉa. Cũng may là Huống khá thông minh! Tôi vừa nói cái thế chó ỉa là anh ta hiểu ngay, nhưng lúc này anh ta biểu diễn không đúng lắm vì một cổ chân còn vướng vào cùm. Nhưng phải nói anh ta biểu diễn không đến nỗi tệ. Tay trái Huống cầm ống bẩu nhỏ và dài phía trước coi bộ đã ổn, nhưng tay phải choàng ra phía sau dường như chưa làm chủ được cái ống bẩu có đường kính khá to và nặng, vì bên trong đã có phân. Nằm dưới nhìn lên, tôi thấy tình thế quá đe dọa, tôi lo sợ lên tiếng:

- Huống! Huống! Đừng cầm trên miệng ống, không được đâu! Cầm ở lưng chừng một phần ba ống bẩu mới được. Mầy cầm như vậy làm sao thúc sát vào mông được!

Tôi càng lên tiếng anh ta càng lụp chụp. Tôi nghĩ rất nhanh, phải ngồi lên cầm giúp nó mới được, bằng không sẽ phải lãnh đủ. Tôi ngồi bật dậy, một tay vừa đụng tới ống bẩu, chưa kịp nắm lấy thì bất thần tôi nghe một âm thanh lạ lùng và sắc nhọn như tiếng gió gào qua khe cửa: “Phụụụụụụt!” Đồng thời với cảm giác ấm và nặng như trận mưa tưới thẳng vào mặt tôi, cùng lúc với cái vị vừa chua vừa đắng ở đầu lưỡi! Tiếp theo là bản hòa âm ngay bên tai tôi, nhưng chẳng giọng nào ăn khớp với giọng nào. Có tiếng thì quá trầm như ếch kêu “Uỳụụp! Uỳụụp! Uỳụup!” hòa với tiếng rít cao vút từng mây “Rooét! Rooét! Rooét!”

Bằng hành động phản xạ, tôi đưa hai bàn tay che mặt và nhắm mắt lại nên không bị nước bắn vào mắt. Nhưng từ tóc, đầu, mặt, hai mu bàn tay và dài xuống tới ngực lãnh trọn những gì tự nãy giờ bị nhốt  trong bụng và đã hành tội Huống. Tôi chợt nhận ra phản xạ kỳ diệu của mi mắt. Nếu cái gì có thể làm nguy hại cho tròng mắt là nó tự động khép lại. Nhưng đôi môi con người lại không có được sự phản xạ đó.  Nếu mi mắt chờ tới khi nhận lệnh của hệ thần kinh mới làm việc thì hôm đó không biết đôi mắt tôi sẽ ra sao.

Biết là tai họa xảy ra, Huống vội vàng quay người lại hốt hoảng la lên:“Ối giời ơi! Ối giời ơi!” Trong lúc đó, một chân anh bị vướng trong cùm, tay kia cầm ống bẩu phía trước, bàn tay phía sau bị ướt đẫm trơn trợt làm ống bẩu nặng tuột rơi xuống đổ tháo, cứt đái vương vãi nằm lăn lóc bét nhè trên chăn chiếu của hai người! Tôi buột miệng kêu: “Trời ơi là trời! Biết nói làm sao đây?”

Sự việc xảy ra quá nhanh và bất ngờ khiến không ai kịp phản ứng gì. Hai người tù Trung Quốc bị cùm thớt bên kia nhìn thấy sự thể vụt ngồi lên chỉ trỏ và dùng tiếng tục tĩu nhất rong ngôn ngữ Trung Hoa để chửi Huống. Mặc dù Huống không hiểu tiếng, nhưng qua cách biểu lộ thái độ giận dữ anh ta cũng hiểu được hai anh tù ngoại quốc này muốn nói gì. Huống đứng chết trân run rẩy vì sợ hãi, luôn miệng kêu: “Anh ạ, em ‘nạy’ anh! Em ‘nạy’ anh xin tha cho em!”

Có lẽ trong thâm tâm lúc đó người tù hình sự đáng thương này nghĩ là anh ta đã phạm một lỗi lầm quá lớn trong tù là dám ỉa vào mặt “đại ca”, và tội này đáng chết! Huống ngồi bệt ngay xuống, không kịp lau chùi gì cả. Anh vội vàng cởi các nút áo ra mà tôi biết là để lau chùi cho tôi và chờ cuộc phán xét. Tôi cũng vội vàng ngồi lên và cởi cái áo đang mặc ướt đẫm ra lau mặt và lau tóc tai. Thấy tôi ngồi dậy, Huống quay lại chắp hai tay trước ngực lạy tôi như tế sao, đôi tay run rẩy, miệng lẩm bẩm:

  - Em van ‘nạy’ anh, xin tha cho em! xin tha cho em!

Tôi chợt cảm thương Huống! Anh ta có tội gì đâu! Để bù lại cho nỗi lo sợ và thái độ van xin của anh, nên tôi buột miệng nói một câu hài hước làm Huống vô cùng ngạc nhiên. Cả hai anh Trung Quốc cũng lấy làm lạ sau khi nghe tôi nói dịch ra tiếng Phổ Thông:

-Tao cám ơn mầy Huống! Trong kỷ luật tháng tắm hai lần, bữa nay mầy cho tao tắm thêm một lần nữa là ba!

  Nói xong tôi cười xòa, tay vỗ lên vai Huống và tiếp:

- Đừng sợ! Mày chẳng có lỗi gì cả. Đâu ai muốn như thế này. Chẳng qua vì hoàn cảnh mà anh em mình đành phải chịu!

   Huống cảm động nói như muốn khóc:

- Em cám ơn anh! Em cám ơn anh thương em!

Vừa nói, nó vừa lấy áo mình lau người cho tôi. Tôi để yên cho nó làm việc đó, vì muốn chứng tỏ là tôi không buồn giận gì Huống cả. Chỉ có nụ cười của sự rộng lượng mới cứu vãn được tình thế lúc bấy giờ.

Lạ một điều là mặc dù lúc đó tôi bị phân người bê bết trên mặt mày đầu tóc, trên áo quần và chăn mền, nhưng khi lau khô rồi, tôi lại chẳng nghe mùi thối tha gì cả. Điều này làm tôi ngạc nhiên về sự kỳ diệu của sự bão hòa khứu giác. Vì nếu trong hoàn cảnh đó mà khứu giác chúng tôi hoạt động một cách nhạy bén bình thường thì làm sao chịu được?

Đó là một tai nạn lớn, nhưng trong cái rủi cũng có cái may! May là việc này xảy ra chỉ còn cách năm ngày nữa là tới lượt chúng tôi được xuống sông Mã tắm giặt. Nếu tai nạn này xảy ra sau khi mới được đi tắm và phải chờ tới 15 ngày sau thì cũng hơi căng! Hôm ngày đi tắm, nước sông Mã thượng nguồn rất trong và mát đã giúp tôi tẩy sạch mọi thứ nhơ bẩn trên người, và quần áo chăn chiếu cũng được giặt giũ cẩn thận. Hôm đó tôi lại cảm thấy mình trở nên thơm tho và tươi mát. Tuy nhiên, nhiều người khác lại không cảm thấy như tôi. Và câu chuyện sau đây chứng minh cho điều đó.

Một buổi sáng kia, nhóm tù trong khu kỷ luật chúng tôi cũng được ra tập họp chung với tất cả những người khác dưới sân trại để cán bộ kiểm tra lại hồ sơ của từng người. Lâu ngày mới được ra sân và rất mừng khi gặp lại anh em. Tôi liền chạy tới ngồi bên cha Cao Đức Thuận mà tôi gọi là “Bố Thuận”, lúc bấy giờ ở khu kiên giam. Cha Thuận rất thương tôi và chúng tôi đã từng sống và ăn uống sinh hoạt chung ở trại Cổng Trời. Lâu lắm không được gặp nhau, nên khi thấy cha Thuận, tôi mừng quá. Vả lại hôm đó lại được tiếp xúc tự do, nên tôi chạy ùa ngay tới bên cha Thuận đang ngồi chung với các Linh mục khác.

Điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là thái độ của cha Thuận sao tỏ ra quá lạnh nhạt với tôi lúc đó. Tôi thực sự không hiểu sao con người nhân hậu đó lại mau thay tâm đổi tính như vậy. Hay cuộc sống khổ đau trong ngục tù đã biến “Bố Thuận” thành con người khác rồi chăng? Lúc đầu tôi ngỡ là cha sợ cán bộ vì tiếp xúc với tù kỷ luật, nhưng khi nhìn lại, tôi thấy cán bộ cho tiếp xúc tự do. Thái độ cha Thuận làm tôi buồn nhưng không hiểu lý do.

Mãi về sau này, sau khi được tha ra khỏi nhà kỷ luật về sống chung với anh em Linh mục khác, tôi mới biết lý do. Vừa gặp lại tôi, ngài nói ngay: “Chú còn nhớ hôm ra sân kiểm tra hồ sơ không? Thấy chú tôi mừng và thương quá sức. Không ngờ con người chú quá tàn tạ và ra nông nỗi đó. Nhưng khi chú tới ngồi cạnh bên làm tôi buồn nôn quá. Tôi suýt ói tại chỗ. Tôi không thể chịu nổi nên phải quay mặt đi, nhưng càng quay đi chú lại càng sấn tới. Lúc đó tôi không tiện nói, sợ chú buồn. Trời ơi! Người chú lúc đó thối tha và tanh tưởi như một đống phân, không tưởng tượng được!”


Ăn để sống

Người ngoài nhận xét về tôi như vậy, nhưng cuộc sống trong buồng kỷ luật hằng ngày, thực tình chúng tôi không cảm thấy gì là khó chịu, là dơ bẩn cả. Việc ăn uống và tiêu tiểu cùng một chỗ trong nhiều năm liên tiếp khiến tôi không còn coi đó là vấn đề. Trong buồng không có mấy hôm là không bị be bét phân người. Nhiều hôm, các ống bẩu không chứa hết và giờ mở cửa cho ăn khá muộn nên làm phân trong ống bẩu sình lên và tràn cả ra ngoài lối đi. Thậm chí có nhiều lúc, sau khi bưng các ống bẩu trong buồng đem đổ vào hố phân xong, anh trực sinh trở lại chia thức ăn cho buồng. Chia xong anh bưng tô canh vào để trên trành cửa sổ. Nhìn tô canh thấy phân người nổi lều bều trên mặt, chúng tôi chỉ việc dùng muỗng hớt ra vất đi và chia nhau húp! Thức ăn trong nhà kỷ luật chỉ có thế, chúng tôi phải ăn để sống còn.

Tù nhân trong kỷ luật bị phạt đủ mọi mặt, nhưng nặng nhất vẫn là phạt cái dạ dày. Khi đói người ta thèm nhất là chất ngọt và chất béo. Chất béo còn đỡ, nhưng thèm đường thì thèm một cách kinh khủng, thèm điên dại, thèm ngày thèm đêm, thèm cả trong giấc mơ, thèm cả trong trí nhớ và tự trách mình sao lúc thừa thãi đường thì lại không ăn. Có lúc tôi tự trách mình, tại sao lúc các cửa hàng, các chợ bán đầy đường, đường trắng, đường vàng, đường đỏ, đường cục, đường tán và đủ loại đường mà mình quá dại dột, không mua vài ba ký lô, hoặc 5 ký, 10 ký, 20 ký để ăn một lần cho đã!!!

Nhắc tới “đường” tôi nhớ lại một chuyện rất đau lòng. Sau khi bị đánh bầm giập vì vượt ngục trước đó vài tháng, tôi bị cùm chung với một số bạn tù trong buồng kỷ luật. Một ngày kia, một anh bạn tù được người nhà từ Sài Gòn ra thăm nuôi. Dĩ nhiên là người nhà đâu có hay anh đang bị cùm kỷ luật. Lần đó vì đang bị cùm nên anh bạn không được ra nhà khách gặp thân nhân, nhưng được nhận hơn chục ký thức ăn. Khi đưa thức ăn vào, cán bộ trực trại chỉ cho mang một ít thức ăn vào buồng, còn lại phải để trong phòng xép bên ngoài.  Cán bộ cho anh mang vào một ít thức ăn tươi và một gói chừng hơn ký lô đường móng trâu.  Lúc đó tất cả đều đang đói và thèm thuồng đủ thứ.

Trong hoàn cảnh “lá rách đùm lá nát”, anh đã chia sẻ cho anh em trong buồng mỗi người một ít thức ăn tươi và một thỏi đường khá lớn. Không gì hạnh phúc hơn trong lúc này. Trống ngực tôi đánh như “trống chầu” khi đưa tay nhận phần chia sẻ của người anh em bạn tù. Lòng tôi lâng lâng niềm xúc động. Miệng lắp bắp lời cám ơn như em bé nhận được món quà quí mà em hằng ao ước. Tôi trịnh trọng đặt miếng đường xuống như nâng niu viên ngọc quí! Cứ sợ rơi, hoặc giả tự dưng nó biến mất thì chắc là tôi cũng “biến” theo.

Nhìn miếng đường mà tôi cứ mãi thầm cám ơn anh bạn vì lòng tốt bao la đã chia sẻ cho tôi. Tôi nâng niu và mân mê nó cứ như là chưa bao giờ thấy hoặc sờ tới miếng đường. Tạ ơn Trời và cám ơn lòng tốt của người anh em bạn tù, tôi từ từ đưa thỏi đường lên miệng, cắn từng miếng một như đưa dần cả hồn sống và sức sống vào người tôi. Cứ thế, tôi thưởng thức thỏi đường cho đến khi nó bao trùm thân thể tôi trong đê mê và hạnh phúc! Tôi mút mấy ngón tay đã từng nâng niu thỏi đường như không muốn một chút hương vị ngọt nào bị lãng phí bay vào không gian vô tận. Sau giây phút đê mê, tôi thấy nhớ da diết thỏi đường mà tôi đã đánh mất vào thân thể tôi. Tôi nhớ và thèm nó như điên dại!

Thật vô cùng quý cho mỗi người chúng tôi khi nhận được được những gì anh bạn chia sẻ. Nhưng như tôi đã nói, trong cơn đói tột cùng đó tôi nghĩ có thể ăn một lúc chừng 5 ký lô đường mới đã cơn thèm! Nghĩ thương cho anh bạn, chắc chắn anh cũng thèm đường như tôi. Dĩ nhiên anh phải giữ lại cho riêng mình một phần quà mà gia đình mang ra. Vì tế nhị nên anh không ngồi ăn trước mặt mấy bạn tù còn lại. Đợi đến đêm anh mới âm thầm mở gói và nhẹ nhàng thưởng thức sự hạnh phúc như thiên đàng mà chất ngọt của đường mang lại.

Khổ nỗi, tôi nằm bên cạnh anh, mỗi lần nghe anh cắn miếng đường là ruột gan tôi lại quặn đau vì thèm khát. Tôi muốn phát điên vì thèm! Khi nghe tiếng anh nhai, tự nhiên cơ thể tôi run bần bật như người lên cơn sốt rét vì thèm đường. Tôi run mà không cách gì kềm lại được. Tôi cố nằm dịch ra, không chạm vào người sợ anh biết là tôi đang run. Bản năng sinh tồn thúc giục tôi mãnh liệt là phải mở miệng xin anh một chút đường để ăn cho đã cơn thèm, nhưng đồng thời lý trí tôi cũng còn đủ nghị lực phản kháng bản năng sinh tồn. Trong khi cơ thể đang run bần bật đó, tôi đã dùng hai ngón tay đút thật sâu vào hai lỗ tai để cố không nghe tiếng nhai sát bên tai.

Lúc đó tôi để tâm trí về dĩ vãng và nhớ lại thời trước lúc tôi còn làm việc ở Vĩnh Long. Một lần có dịp về Quận Chợ Lách chơi và ghé vào thăm gia đình cha Oai là bạn tôi. Cha Oai có người anh làm chủ lò đường mía, lúc ra về anh biếu tôi 10 ký đường hột xoài làm quà.  Mang 10 ký đường về tôi cũng chẳng biết làm gì với nó, mà để trong buồng thì đàn kiến lại tấn công. Tôi bèn gọi người quen nhận giùm và khi cô cháu mang bao đường ra khỏi phòng tôi cám ơn rối rít. Lúc nằm nhớ lại tôi tự nghĩ: “Việc cho đi bao đường đó là hành động dại dột nhất mình đã làm trong đời!”

Mấy ngày sau anh bạn tù tốt bụng vẫn chia sẻ thức ăn cho chúng tôi, nhưng rồi lại có chuyện xảy ra. Một hôm, sau khi chia thức ăn ban chiều xong và cùm chúng tôi lại, hai anh trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát mở cửa buồng xép và ăn cắp thức ăn của anh bạn tù, cho vào xoong đậy nắp lại và mang ra ngay trước những con mắt chết đói của chúng tôi. Có lần anh bạn tù tức quá chịu không nổi, đứng trong buồng nhìn hai tên trật tự ăn cắp thức ăn của mình mang ra, anh định la lên “Quân ăn cắp!”, nhưng tôi ngăn lại vì biết hậu quả sẽ không lường được với hai tên hung thần này (hiểu theo nghĩa thật chính xác) trong nhà tù Thanh Cẩm lúc đó.

Trong khi tù đang chết đói thì thức ăn của anh bạn tù tốt bụng của chúng tôi lại bị để trong buồng xép! Mỗi ngày khi cho ăn, anh bạn tù đã phải van xin năn nỉ cán bộ mới cho nhỏ giọt một ít mang vào buồng. Mấy ngày sau đánh mùi được thức ăn, bầy chuột đói trong trại tù chui vào tấn công ăn gần hết những gì hai tay trật tự Thi - Phát còn để sót lại và đái ỉa be bét vào. Những ngày tiếp theo, lần nào gặp cán bộ anh bạn tù cũng năn nỉ “xin quà” như một điệu nhạc buồn kéo dài.

Cho tới một hôm Bùi Đình Thi thi chấm dứt bi kịch này bằng câu nói ngắn gọn:“Quà anh chuột ăn hết rồi!” Tôi nhớ mãi vẻ mặt đau thương của anh bạn tù khi nghe câu nói đó. Mà ai lại không cảm thấy đau khổ và xót xa khi bị kẻ khác ăn cướp một phần sự sống của mình? Trật tự Bùi Đình Thi nói đúng, quà của anh bạn đã bị chuột ăn hết rồi, cả chuột bốn chân lẫn “chuột hai chân”. Loại “chuột hai chân” ăn mạnh hơn nhưng nhân đạo hơn vì ăn mà không đái vào chỗ còn lại, còn loại bốn chân thì “mất dạy” hơn, vừa ăn lại vừa đái vào!

Anh bạn tù là người đầu tiên được gia đình thăm nuôi trong nhà kỷ luật mới này, và sáng kiến giữ quà lại trong buồng xép của cán bộ sĩ quan công-an người Mường là trung úy Bộ, vô tình trở thành một tiền lệ. Một tiền lệ rất tai hại! Về sau này tất cả những ai có gia đình thăm nuôi hoặc nhận quà gửi theo đường bưu điện cũng phải chịu hệ thống này. Đám chuột đủ loại hoạt động mạnh hơn, trở nên mập béo hơn! Đám tù kỷ luật chúng tôi lại chịu thêm một cực hình mới của cái cảnh “Cám treo để heo nhịn đói!”

Người nhà chúng tôi từ miền Nam cách xa hàng ngàn cây số lặn lội ra tới đây thăm nuôi và quà cáp gởi ra tới trại cho chúng tôi thì bị chặn lại để xó cho “lũ chuột” hoành hành, trong lúc chúng tôi đang chết đói. Từ đó, những cái gật đầu của cán bộ sau khi anh tù khổ chủ khép nép xin được ăn một tí quà của chính mình được coi là một ân huệ!

Vì đói triền miên nên tất cả những người ở kỷ luật lâu ngày như tôi chỉ còn lại có da bọc xương. Tôi vẫn còn nhớ được vài chi tiết về hình hài của mình lúc đó và có thể dùng than vẽ lại con người có đầu gối to bằng rưỡi bắp đùi, bao nhiêu xương sườn lòi ra hết và bụng lép như bụng nhái.

Lúc xỏ chân vào cùm xong, tôi thường ngồi nắm cổ chân nằm gọn giữa vòng tròn ngón tay cái và ngón tay giữa, xoay đi xoay lại như đang nắm cái ống bơm xe đạp. Khi nằm ngửa trên chiếu, tôi phải dùng hai mu bàn tay lót dưới mông vì hai mảnh xương dẹp sau mông lòi ra, bén như một lưỡi dao mài sát thẳng xuống chiếu đau không chịu được. Tìm đâu ra cái gì để lót bên dưới, trong khi áo quần còn không có để mặc!


Cái lưỡi mèo

Thức ăn thì mùa nào thức ấy. Thông thường nhất là ngô, khoai và sắn, cơm trắng rất hiếm. Có khi còn cho ăn cả bã đậu nữa. Những hôm như vậy, chúng tôi đành phải nhịn đói vì không làm cách gì có thể tống món đó vào dạ dày cho được, mặc dù đang đói mềm người. Có một dạo trại cho kỷ luật ăn bột luộc mà chúng tôi gọi là “lưỡi mèo”, vì những miếng bột luộc này trông thật giống cái lưỡi mèo. Trong kỷ luật tuy khổ nhưng thỉnh thoảng có cái vui của nó như chuyện lần đầu chúng tôi được cho ăn bột luộc.

Chiều hôm đó tới giờ cho ăn, anh trực sinh mang vào buồng tôi, lúc đó là 5 người, đặt lên thành cửa sổ cái nồi nhôm khá to hằng ngày vẫn dùng để đựng sắn, khoai. Khi nhìn vào, chúng tôi chỉ thấy miếng bột luộc màu xám, to đúng bằng bao thuốc lá! Chúng tôi nhìn nhau lắc đầu hỏi:“Thế này là thế nào?” Và chúng tôi nghĩ là nhà bếp chia lộn phần ăn của một người cho buồng 5 người chúng tôi. Nghĩ thế chúng tôi không chia ra và ngồi chờ lúc điểm danh sẽ khiếu nại với cán bộ. Mấy tiếng đồng hồ sau đánh kẻng và cán bộ lên. Khi vừa tới buồng, tôi ngồi trong cùm nói vọng ra thật to:

  - Báo cáo cán bộ, tôi có thắc mắc!

   Anh cán bộ ngạc nhiên, tới bên ngoài cửa sổ hỏi vọng vào, giọng sắc như dao cạo:

  - Gì thế?

  - Báo cáo cán bộ, buồng này bị chia nhầm thức ăn.

   Anh cán bộ tỏ vẻ ngạc nhiên:

  - Sao lại có thế. Nhầm thế nào?

   Tôi nói giọng quyết liệt hơn:

  - Báo cáo cán bộ, buồng này năm người mà chỉ cho một phần ăn. Chúng tôi còn để đây chờ cán bộ giải quyết!

  - Đâu, đưa tôi xem nào!

Tôi lẹ làng bước chân phải xuống sàn, chồm gần tới cửa sổ trong khi chân trái đang dính trong cùm giơ thẳng về phía sau như tư thế của người đang tập “Tai-Chi”. Tay tôi bưng cái bát sắt thủng đáy mà tôi đã vá lại bằng vỏ nhôm của cây kem đánh răng và cái “bao thuốc lá” nằm gọn giữa lòng bát. Khi vừa nhìn thấy miếng bột luộc, anh cán bộ nói ngay:

  - Các anh này buồn cười! Đây là tiêu chuẩn cho 5 người! Nhầm thế ‘lào’ được?

  Tôi ấp úng, trong lúc đưa một tay lên gãi đầu:

-  Báo cáo cán bộ, nhưng...

- Nhưng cái gì? Cũng bằng ấy tiêu chuẩn bột, nhưng khi ‘‘lướng’’ thì to ra, còn khi ‘‘nuộc’’ thì bé. Anh hiểu chưa?

Thấy tôi đứng lặng yên có vẻ chưa hiểu ra vấn đề, anh cán bộ vội kết thúc ngay cuộc đối thoại bằng câu nói tạo hiệu quả rất nhanh. Vừa nói anh vừa với tay cầm cái bát có “bao thuốc lá” nằm gọn lỏn bên trong và phán:

  -Thế các anh có ăn không thì bảo?

   Tôi sợ anh ta bực mình lấy “bao thuốc lá” đi thì khốn. Thà có ít còn hơn không, nên đáp vội, vừa nói vừa rụt bát vào:

  - Báo cáo cán bộ có, có, có! Chúng tôi ăn!

Người cán bộ mỉm cười bỏ đi. Tôi đoán không phải anh cười vì chúng tôi hiểu lầm phần ăn của một hay năm người, nhưng có lẽ cười vì thái độ của tôi trong câu nói sau cùng.


Những thường trú nhân

Khu kỷ luật trại tù Thanh Cẩm có thể coi như một cơ sở cư trú. Ngoài tôi ra như một quản gia, còn lại ba hạng người khác làm thành nét sinh hoạt độc đáo của cơ sở này. Ba hạng người đó là những thường trú nhân, những khách kiều cư là những người tù Trung Quốc và cuối cùng là khách vãng lai. Thường trú nhân là những người ở đây dài hạn. Có những người đến đây ngay từ ngày đầu với tôi, có người mới dọn tới sau nhưng còn lưu lại sau khi một số có mặt ngay từ lúc đầu đã dọn ra.

Có mặt ngay từ buổi đầu với tôi gồm có những người dính líu trong vụ vượt ngục ngày 2 tháng 5 năm 1979 như các anh Nguyễn Sỹ Thuyên, Trịnh Tiếu và Linh mục Nguyễn Công Định. Trong ba người này thì anh Trịnh Tiếu ở lâu nhất, có lẽ trên dưới hai năm. Ngoài ra có Linh mục Phạm Quý Hòa dọn tới sau nhưng cũng ở đây thời gian rất lâu, vì tội “bóp dái ngựa”.  Ngoài những người tù Trung Quốc mà tôi sẽ đề cập tới, thì có lẽ bốn người này sống trên kỷ luật lâu nhất, từ một tới hai năm.

Về phía các Linh mục, ngoài cha Hòa và cha Định, tôi còn nhớ năm Linh mục khác thuộc diện khách vãng lai là các cha Trần Văn Nghị, Nguyễn Công Thành, Phạm Hữu Nam, Đinh Cao Thuấn và Mai Quang Bao, Riêng trường hợp Linh mục Phạm Chí Hùng vì bị cưa chân nên gởi tạm và ở một mình trong phòng 6 khu kỷ luật một thời gian khá lâu. Có chuyện lạ, Linh mục Phạm Hữu Nam lại được xách gói ra về trong thời gian đang bị kỷ luật. Điều này làm tôi nhớ mãi, và sự kiện này càng củng cố thêm câu nói:“Không ai hiểu được chuyện cách mạng làm”. Một Linh mục đang bị ở khu kỷ luật mà lại được xách gói ra về! Đúng là chuyện lạ khó tin nhưng có thật!

Trước đó không lâu có trường hợp bất ngờ của anh Nguyễn Đức Cảnh, trước kia là một phó Quận trưởng, dọn lên kỷ luật trong một đêm tối vào buồng tôi. Những ngày tiếp theo anh buồn rầu và tỏ ra thất vọng một cách rõ rệt, khác với thái độ chịu dựng của đa số người bị đi cùm. Tôi hỏi lý do, anh cho biết là dưới làng, anh thuộc diện cải tạo rất tốt, không hề bỏ một ngày lao động, không hề phát biểu linh tinh, chưa bao giờ vi phạm nội quy và các điều khoản “nếp sống văn hóa mới!” Vì thành tích lẫy lừng như vậy nên anh tự nghĩ rằng trong đội anh nếu người được tha về phải là Nguyễn Đức Cảnh, không thể rơi vào ai khác.

Vào thời đó, ngoài những dịp thông thường có đợt tha như Tết Tây, Tết Ta, lễ Quốc Khánh, lễ Lao Động v.v... còn có những trường hợp “đột xuất” được gọi tên ra về, và điều này càng kích thích nhiều người nuôi hy vọng.

Chiều tối hôm đó, trật tự Bùi Đình Thi vào buồng gọi:“Anh Nguyễn Đức Cảnh, mang tất cả nội vụ ra! Cảnh ta nghe gọi tên mình, tưởng là được gọi ra về sướng như lên mây xanh, mặt mày tái mét. Các anh em trong buồng bu quanh bắt tay chúc mừng. Cảnh tay chân run rẩy vì niềm vui bất ngờ quá lớn, vội vàng phân phát tất cả thức ăn và đồ đạc cho các bạn trong buồng. Anh còn thức ăn khá nhiều vì cô chị vợ mới ra thăm nuôi mấy ngày qua, vợ anh đã vượt biên và đang ở Mỹ gửi tiền về khá rộng rãi cho cô chị giúp thăm nuôi Cảnh.

Anh vẫy tay chào anh em và bước ra khỏi buồng, chỉ có mấy bộ quần áo trong cái túi xách nhẹ tưng. Khi ra tới ngoài, trật tự Bùi Đình Thi đưa Cảnh thẳng lên kỷ luật, mở cửa tống vào buồng 3 của tôi. Cảnh vào buồng kỷ luật mang tâm trạng của con người vừa trên mây rớt xống. Vừa thất vọng, vừa bị cùm chân, vừa sử dụng cầu tiêu ống bẩu, lại vừa không thể nào nuốt được mấy củ sắn luộc chấm nước muối trong khu kỷ luật, trong khi tất cả thức ăn bổ béo từ Miền Nam đưa ra, Cảnh đã phân phát hết rồi. Cái lon Guigoz là báu vật để đựng nước uống trong nhà kỷ luật anh cũng không có, anh còn nói là vừa cho đi gần hai chục cái lon Guigoz.

Mấy ngày sau Cảnh như người mất hồn. Tới giờ cán bộ lên cho ăn, anh hỏi cán bộ anh bị tội gì mà lên đây, cán bộ trả lời:“ Anh này buồn cười! Tội của anh mà anh không biết thì làm sao người khác biết? Anh đừng có giả vờ! Cảnh ta điên đầu vì câu trả lời kiểu huề tiền đó! Một hôm anh hỏi trật tự Bùi Đình Thi. Anh hỏi mãi mới được Bùi Đình Thi chiếu cố và trả lời như sau: “Anh thì cải tạo tốt nhưng anh lại quan hệ với người cải tạo không tốt”!

Lúc bấy giờ Cảnh mới vỡ lẽ ra. Mấy ngày trước trong buồng có một người tù nằm kế bên anh, ăn nói linh tinh đụng chạm tới chính sách. Cảnh ngồi dựa lưng vào tường nghe mà không chịu đi báo cáo. Có người khác lại báo cáo việc này với trật tự. Thế là Cảnh bị vác chiếu đi cùm. Nếu tôi nhớ không lầm thì phải hơn một tháng Cảnh mới được xuống làng để bắt đầu chu kỳ “cải tạo tốt” khác. Tôi còn nhớ mãi lúc Cảnh buồn quá, luôn miệng hát đi hát lại bản nhạc có mấy câu sau đây:‘‘Ngày một ngày hai tiễn biệt nhau. Chẳng được cùng nhau chung lối sầu. Nhớ chuyện thế gian cười ngặt nghẽo. Cùng buồn những chuyện thế gian đau!’’
Anh Cảnh là một tín đồ Công giáo ngoan đạo, và tôi rất quý mến anh trong thời gian sống chung trong khu kỷ luật.


Những khách kiều cư

Sự có mặt của 15 người tù Trung Quốc trong khu kỷ luật suốt thời gian tôi ở đó cũng tạo cho cuộc sống có vẻ riêng biệt. Khi tôi ở kỷ luật được 3 tháng thì toán tù Trung Quốc từ khu K2 chuyển vào đây. Trông họ rất bệ rạc, rách rưới, lang thang lếch thếch, tay xách nách mang. Nhìn vào biết ngay là “ba tàu”! Trong nhóm có vài anh rất cao và to. Có nhiều người gầy còm và vài anh nhỏ thó, tạo thành một nhóm người đầu thừa đuôi thẹo. Tới nơi, họ được phân chia ra các buồng kỷ luật và sống lẫn lộn với những người tù Việt Nam, cả chính trị lẫn hình sự. Hỏi ra tôi mới biết những anh tù Trung Quốc này có người đã bị giam hàng chục năm rồi và đã trải qua nhiều trại khác trước khi được chuyển về đây. Tất cả đều mang chung tội danh là “Gián điệp Trung Quốc”.

Sống chung một thời gian, tôi biết có mấy anh qua biên giới để buôn bán thuốc men, đồng hồ, vải vóc mà bị bắt. Cũng có vài anh vì hoàn cảnh chính trị phải chạy thoát thân qua biên giới tìm cách trà trộn vào với đồng bào thiểu số, thay danh đổi họ để tìm cách sinh sống. Có người tìm đường vượt biên qua Miến Điện. Có anh là Vệ binh đỏ của Mao Trạch Đông trước kia, nay bị trả thù phải chạy trốn.

Đa số họ nói tiếng Phổ Thông. Một vài anh nói cả tiếng Quảng. Có mấy người biết chút ít tiếng Việt học được trong các trại tù ở Việt Nam. Nói chung, họ rất tạp nham về nhiều mặt. Vài anh thật hiền hậu dễ thương, nhưng cũng có mấy người gốc là tướng cướp đã từng cướp của giết người và sống ngoài vòng pháp luật trước khi bị bắt. Họ mang theo bản chất lưu manh, bạo tàn hung ác vào đây để đóng góp thêm cho cái đáy địa ngục trần gian này. Sự đói khổ triền miên và bị cùm trong những lò hấp người có tường rào bao bọc này đã làm vài người trong bọn họ phát triển tột cùng bản chất dã man mà trước kia chưa có dịp mang ra thực hành. Nhất là khi vào tù, có dịp sống chung một buồng và có thể cấu kết nhau để tạo sức mạnh, họ trở thành những con người thật đáng sợ.

Những người tù xa tổ quốc này chỉ có một ý định duy nhất trong đầu là làm thế nào để được sống còn. Họ làm hết cách để khỏi chết đói trong những nhà tù Việt Nam có quá nhiều tù nhân chết vì đói này. Để có được miếng ăn, họ sẵn sàng trở thành những tên nô lệ, nịnh bợ, đầy tớ cho những người tù có thể bố thí cho họ một chút gì để ăn hoặc vật gì để dùng làm phương tiện kiếm ăn. Ngược lại, họ cũng sẵn sàng dùng sức lực để áp đảo, đánh cướp, giết người hoặc bất cứ một hành động bạo tàn nào khác để được có miếng ăn. Lúc bơ vơ và thất thế, họ tự biến thành những con chó con, nhưng khi có vây cánh, họ sẽ biến ngay thành một bầy hổ đói.

Trong bọn họ có những tay thật dữ dội, nhưng có những anh rất hiền tư,ø ốm yếu mà mấy anh đầu gấu kia gọi là “kho dự trữ”. Ý muốn nói nếu họ không còn kiếm chác được thức ăn nơi nào khác thì quay về với “kho dự trữ “ trong buồng này, bằng cách trấn lột phần ăn trại phát cho đám tù ốm yếu. Khi nào bọn đàn anh còn cào cấu được nơi khác thì tạm thời nhóm tù Trung Quốc trong “kho dự trữ” này còn được ăn trọn phần ăn chết đói của trại phát mỗi ngày.

Trong khi đó, về phía những người tù Việt Nam nói chung và những tù chính trị miền Nam chúng tôi nói riêng, mặc dù cũng đói khổ nhưng nếu sánh với những người tù Trung Quốc này, chúng tôi còn may mắn hơn nhiều. Tù hình sự miền Bắc được gia đình thăm nuôi tiếp tế. Họ chẳng có quà cáp gì nhiều. Hầu hết là một ít gạo, ít ruốc, vài cái bánh chưng, một ít hoa quả , chè Tàu và vài bánh thuốc lào. Quanh đi quẩn lại chỉ có chừng ấy, vì đồng bào miền Bắc rất nghèo. Của ăn ở nhà còn không có lấy đâu tiếp tế nhiều cho chồng con trong tù.

Chúng tôi, những người tù miền Nam thì xa xôi hơn, nhưng về điều kiện kinh tế thì khá hơn bà con miền Bắc. Những năm đầu, mặc dù chúng tôi chưa được gặp gia đình nhưng thỉnh thoảng có nhận được quà gởi ra theo đường bưu điện, trong đó có thực phẩm và thuốc men. Tuy số lần nhận quà rất hạn chế, mỗi 3 tháng được nhận gói quà không quá 5 ký lô, nhưng chừng ấy cũng giúp rất nhiều cho những người tù duy trì được sự sống. Nếu có những người gia đình khá giả thì nhận quà đều đặn và có chất lượng. Ngược lại, có nhiều người không có thân nhân hoặc gia đình khánh kiệt nên chẳng có quà cáp gì. Thỉnh thoảng lâu ngày được một gói nhỏ có ít thức ăn.

Hoàn cảnh bắt đầu khá hơn khi có chính sách cho người nhà miền Nam được phép ra Bắc thăm nuôi tù trại Thanh Cẩm. Chính sách này bắt đầu từ năm 1979, tức là 4 năm sau khi đợt tù miền Nam bị đưa ra Bắc. Đối với các trại khác tôi không biết rõ. Có thể chính sách thăm nuôi xảy ra sớm hơn. Điều này cũng được coi như là chính sách nhân đạo của đảng và nhà nước, nhưng cũng có thể được xem như một chính sách lợi dụng, vì lúc đó cả nước đói khổ, chính phủ không còn đủ sức nuôi tù và đã có quá nhiều tù nhân miền Nam chết đói trong các trại tù miền Bắc.

Khi có những đợt thăm nuôi thì đồng tiền và của cải bắt đầu vào trại. Do đó, vị thế giai tầng xã hội trong tù lại được phân định rõ ràng. Những người có của sống cao hơn, những người không có gì phải chịu lép vế. Nếu những năm trước tất cả những người tù miền Nam bình đẳng nhau trong cảnh chết đói, thì nay của cải đã nâng nhiều người lên bậc ông chủ. Đồng thời nó cũng giáng cấp nhiều người xuống thành “lái xe”. Lái xe là tiếng dùng để chỉ những anh tù nghèo không có thăm nuôi tiếp tế phải phục vụ cho những anh tù có của khác trong nhóm sinh hoạt chung. Trong tình thế đó, nhóm “lái xe” rành nghề nhất là các anh tù Trung Quốc.


Học tiếng Phổ Thông

Đầu năm 1980, tôi sống chung buồng kỷ luật với hai anh Trung Quốc và một người bạn tù miền Nam là anh Lê Thiên Bảo. Nhờ có Bảo nên trong buồng tôi có thế quân bình và tôi không bị hai anh tù Trung Quốc áp đảo. Bảo là một Hoa kiều ở Chợ lớn, bằng tuổi với tôi. Trước kia anh là võ sư huấn luyện viên Thái Cực Đạo của Tổng Nha Cảnh sát Quốc gia. Anh đã cùng đi với tôi trên tàu Sông Hương ra Bắc, ở chung trong trại Nam Hà, cùng bị đày đi Cổng Trời rồi cùng về trại Thanh Cẩm này với tôi trong nhóm “48 Quyết Tiến”.

Lúc vào tù anh có dịp được sống gần với các Linh mục và nhận thấy đời sống bác ái tốt đẹp của những con người tù đặc biệt này nên anh muốn tìm hiểu về Đạo Chúa. Lúc anh em sống chung trong kỷ luật, tôi đã giúp anh về Giáo lý Công giáo và sau này anh đã xin chịu phép Rửa tội. Với bản chất nhân hậu và tính nết hiền hòa của một võ sư, anh rất được nhiều người quý mến và nể phục.

Anh Lê Thiên Bảo đồng thời cũng là người giỏi về ngôn ngữ. Anh nói cả tiếng Việt, biết chữ Nho lẫn tiếng Phổ Thông và Quảng Đông. Ngày ngày, trong buồng Bảo nói tiếng Việt với tôi và tiếng Phổ Thông với 2 anh Trung Quốc. Ba người họ nói tiếng Phổ Thông với nhau nhanh như gió. Giọng líu lo như tiếng chim hót và nghe tiếng nào tiếng nấy đều giống y như nhau. Lúc đó, tôi chưa biết một tiếng Tàu nào cả. Khi nằm nghe họ nói chuyện, tôi thầm nghĩ trong lòng:“Trời! Bộ óc của con người là cái gì mà người ta có thể hiểu được thứ ngôn ngữ quái đản này”.

Một trong hai người Trung Quốc là anh Lý Đức Nghĩa, gốc người Hồ Nam, nguyên là một Vệ binh đỏ của Mao Trạch Đông. Sau khi Vệ binh đỏ thất thế và bị ruồng bắt, anh ta phải bỏ nước chạy trốn qua Việt Nam sống bằng nghề lục lâm thảo khấu.

Cũng nên biết là khi Mao Trạch Đông nắm quyền ở Trung Quốc, ông ta muốn thanh trừng các đồng chí cũ có thể tranh giành quyền lực với ông nên đã dùng sinh viên học sinh là Vệ binh đỏ và phát động phong trào cách mạng văn hóa để có lý do thanh trừng các cán bộ cao cấp trong hàng ngũ lãnh đạo. Nhiều đồng chí cũ của Mao đã phải chết vì tay Vệ binh đỏ. Sau này khi phong trào Vệ binh đỏ lên cao và lộng hành, Mao lại dùng quân đội tiêu diệt Vệ binh đỏ. Vì thế Lý Đức Nghĩa phải trốn chạy thoát thân qua Việt Nam.

Anh ta sùng bái Mao Trạch Đông một cách điên cuồng và tỏ thái độ khinh bỉ Cộng sản Việt Nam ra mặt. Anh ta nói Cộng sản Việt Nam là tớ phản thầy. Trước kia đội Trung Quốc lên đầu, sau này chửi lại Trung Quốc. Nghĩa bị bắt vào tù hàng chục năm nay với tội danh “gián điệp Trung Quốc”. Mặc dù sống trong tù Việt Nam lâu năm nhưng anh ta không nói được một câu tiếng Việt nào. Tuy nhiên nghe thì anh hiểu.

Anh chàng Lý Đức Nghĩa này người to cao và tính chất lưu manh hiện rõ ra tới ngoài da! Nhất là cặp mắt của anh ta. Anh có cặp mắt thật trong và hẹp như mắt sư tử. Mắt có đuôi dài và lúc nào cũng láo liên. Thỉnh thoảng liếc nhìn trộm. Có lúc tôi nghĩ, họa sĩ nào muốn tìm người mẫu để vẽ đôi mắt lưu manh nhất thì phải tìm tới anh chàng này. Lý Đức Nghĩa là một hiện tượng để lại trong tôi nhiều điều khó quên, vì anh ta có nhiều cái “nhất” trong nhóm tù Trung Quốc. Nói tiếng Phổ Thông đúng giọng nhất, vì quê hương anh rất gần Bắc kinh. Khéo tay nhất, chỉ cần vất cho anh một mảnh vải, chừng tiếng đồng hồ sau anh đưa lại một cuộn chỉ được xe bằng hai đầu ngón tay, đẹp không thua chỉ làm trong nhà máy. Ở dơ nhất, anh ta chưa bao giờ cầm cái bàn chải đánh răng, nên khi anh cười để lộ hàm răng trông giống như mảnh gỗ mục ngâm dưới nước lâu năm bị rong rêu và sò ốc bám tua tủa! Có lần tôi hỏi:

  - Nghĩa à, tao lấy làm lạ, tại sao mầy không đánh răng?

   Nó trả lời tôi:

  - Mao chù xí (Mao chủ tịch) có bao giờ đánh răng đâu mà cũng làm chủ tịch Trung Quốc vĩ đại, cai trị hàng tỷ dân!

   Thì ra anh chàng “Lỳ Tợ Dí” (Lý Đức Nghĩa) này sùng bái Mao Trạch Đông một cách điên cuồng, ngay cả sùng bái cái việc Mao suốt đời không bao giờ đánh răng! Và dĩ nhiên Lý Đức Nghĩa lưu manh nhất đám.

Lợi dụng hoàn cảnh sống chung với mấy anh Trung Quốc đó, và qua sự khuyến khích của Lê Thiên Bảo, tôi quyết tâm học cho bằng được một ngôn ngữ mới, đó là tiếng Phổ Thông. Tôi bắt đầu học nói trước và học viết sau, vì lúc đó trong buồng không có bút giấy.

Tôi chọn thời điểm dễ nhớ là vào sáng ngày 1 tháng Giêng năm 1980 và câu nói tiếng Quan Thoại đầu tiên là:“Chị tôi từ Sài Gòn ra thăm tôi”. Lý Đức Nghĩa giúp tôi luyện giọng và Lê Thiên Bảo giúp tôi dịch nghĩa tiếng Việt và chữ Nho. Bước đầu thật vất vả. Mỗi đêm, chân trong cùm, Lý Đức Nghĩa nằm kể chuyện về phong trào Vệ binh đỏ bên Trung Quốc, Lê Thiên Bảo dịch lại, còn tôi chú ý lắng nghe từng tiếng phát âm của Nghĩa. Thỉnh thoảng tôi kêu dừng lại để tôi tập phát âm cho đúng những tiếng tôi muốn học.

Tôi muốn nhắc lại để nhớ ơn của Lý Đức Nghĩa và Lê Thiên Bảo. Nhờ hai người đó tôi học được một ngôn ngữ mới mà có hàng tỷ người trên thế giới sử dụng. Tôi quyết tâm học cho bằng được và cố gắng ngày đêm. Khi đã nói được chút ít, hàng đêm tôi dùng ngôn ngữ này kể các câu chuyện trong Kinh Thánh cho các anh tù Trung Quốc nghe và dặn chỗ nào tôi nói sai thì chặn lại để tôi sửa.

Sau hai năm miệt mài và lúc nào cũng có dịp sống chung buồng với một anh Trung Quốc nào đó, nên ngay trong lúc còn ở khu kỷ luật tôi đã nói tiếng Quan Thoại lưu loát, cả tiếng lóng, thành ngữ và chửi thề nữa! Nhớ lại đoạn đường đã trải qua trong việc học ngôn ngữ này, tôi tưởng chừng như mình hạ một cây rừng xuống để đẽo gọt thành cây cột nhà. Tôi đã phải làm việc trong hai năm trời. Đầu tiên chặt các cành, lột vỏ cây, dùng rìu chém những chỗ nhô ra, dùng dao gọt lại, dùng bào làm cho láng và cuối cùng là đánh bóng cây cột thật tròn và thẳng.

Lúc đầu tôi chỉ học nói, về sau học đọc và viết. Lúc chưa có phương tiện, tôi phải dùng than vẽ chữ xuống nền nhà để học. Về sau này tới đời trật tự dễ dãi hơn, tôi có thể xin được bút chì và khi đi tắm nhặt những bao xi măng ở đống rác trước cửa trại về vuốt ra cho thẳng làm vở. Những người Trung Quốc sống chung giúp tôi viết và đọc chữ Tàu. Có điều hơi thiệt thòi cho tôi là các anh Trung Quốc chỉ biết “chữ đơn giản”, tức là loại chữ cải cách mà chế độ Cộng sản Trung Quốc dùng. Trong khi “chữ cổ” thì khó và nhiều nét hơn, nhưng đa số sách báo trên thế giới đều dùng chữ cổ. Học nói được tiếng Phổ Thông tôi coi là một trong những sự đền bù xứng đáng cho những năm gian khổ mà tôi bị mất đi trong nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm.

Số tù Trung Quốc lúc đầu khá đông nhưng về sau có nhiều người vượt ngục bị bắn chết, có một số chết bệnh hoặc chết đói. Năm 1980, chỉ còn lại khoảng 15 người sống vất vưởng trong kỷ luật và lệ thuộc vào sự giúp đỡ của anh em tù chính trị miền Nam. Khi sống chung buồng với chúng tôi, họ tỏ ra ngoan ngoãn, nhưng khi sống riêng họ với nhau, hoặc trong buồng nào họ có số đông để trở thành sức mạnh áp đảo, họ trở thành thú dữ. Lúc đó, sự dã man của họ ngoài sự tưởng tượng của mọi người.


Bầy ác thú trong cơn đói

Thời gian đó là vào cuối năm 1981. Anh trật tự lúc bấy giờ là Nguyễn Văn Bảy, mà chúng tôi gọi là Bảy Chà vì nước da của anh ngăm đen. Một con người hiền hậu và nhân từ. Anh được chọn làm trật tự không phải vì thành tích bất hảo, hoặc vì cán bộ muốn anh trở thành quả đấm để trừng trị tù, nhưng có lẽ anh được chọn vì cái bộ dạng rất “ngầu” của anh. Người anh to cao, da ngăm đen, ai chưa biết anh, mới nhìn vào đã thấy nhợn. Anh cũng từ trại quân đội chuyển về đây. Trước khi làm trật tự, anh có nhiệm vụ gánh phân trong trại nên còn được mệnh danh là “Bảy Cứt!” Nếu mấy năm trước trật tự Bùi Đình Thi là một hung thần của khu kỷ luật thì lúc này trật tự Bảy Chà là cứu tinh của chúng tôi. Tôi phải nói lên điều này để bày tỏ lòng quý mến và biết ơn anh.

Lúc đó, tôi đang ở buồng bốn phía sau của khu kỷ luật cùng với vài người Việt nam khác, thì trong buồng năm cách vách buồng tôi có ba anh Trung Quốc đó là Chu Vạn Hồi, Lý Đức Nghĩa và Lưu Tùng. Chu Vạn Hồi trước kia là tên cướp. Nghĩa gốc Vệ binh đỏ và sau này qua Việt Nam sống nghề lục lâm thảo khấu. Tùng lớn tuổi là người hiền từ, ốm yếu như cây sậy, anh đi buôn vùng biên giới bị bắt. Sống trong buồng, Tùng bị Hồi và Nghĩa trấn lột gần hết phần ăn nên càng ngày càng gầy yếu, đi đứng không vững nhưng không dám lên tiếng.

Mặc dù tôi không sống trong buồng đó nhưng tôi còn lạ gì hai tên cướp Nghĩa và Hồi mà trong hai năm qua tôi đã sống chung buồng khá nhiều lần. Có một lần đi tắm chung dưới sông Mã, lợi dụng lúc vắng tôi hỏi Lưu Tùng có phải bị hai tên kia cướp cơm không? Tùng không dám trả lời nhưng, mắt trước mắt sau và xòe bàn tay phải ra cứa qua cứa lại dưới cổ. Tôi hiểu Lưu Tùng muốn nói gì qua dấu hiệu đó. Sau đó tôi nói lại chuyện này với anh trật tự Bảy Chà và anh hứa là sẽ báo cáo với cán bộ.

Mấy ngày sau, cán bộ đưa vào buồng 5 của mấy anh Trung Quốc này một anh tù hình sự bị phạt lên kỷ luật. Những anh tù kỷ luật thuộc loại “vãng lai” này, khi bị đưa lên kỷ luật họ bị cùm cả ngày lẫn đêm, nhưng chỉ một thời gian ngắn là được xuống. Số khách vãng lai này cứ có lai rai, khi thì một anh, có lúc vài ba anh. Vì thế việc anh tù hình sự vác chiếu vào buồng 5 lúc chiều cũng chẳng có gì đáng chú ý. Quãng sau 10 giờ đêm hôm đó, khi đèn điện vừa tắt được một lúc và ai nấy bắt đầu ngủ, bất thần tôi nghe một tiếng “Bùm” rất to từ buồng 5 vọng ra, tiếp theo là tiếng la thất thanh và vang dội trong đêm vắng của anh tù hình sự: “Báo cáo cán bộ, báo cáo cán bộ! Chúng nó giết tôi, chúng nó giết tôi! Cứu tôi! Báo cáo cán bộ!”

Tiếng la hét nghe thật rùng rợn trong cảnh hãi hùng của con người sắp bị giết chết làm tất cả tù nhân trong khu kỷ luật giật mình và nhốn nháo gọi chuyền qua các buồng hỏi nhau coi chuyện gì xảy ra. Anh ta cứ gân cổ lên mà la như vậy cho tới lúc sau có mấy cán bộ xách đèn bấm chạy lên. Tôi nghe tiếng quát tháo, tiếng mở cửa buồng, tiếng cán bộ đe dọa mấy anh Trung Quốc và sau đó cán bộ đưa anh tù hình sự ra khỏi buồng và khóa cửa lại, đi xuống.

Đối với tù trên khu kỷ luật, việc đánh nhau, la lối và báo cáo cán bộ là chuyện thường xảy ra. Chính bản thân tôi trước đó không lâu cũng đã cùng với ông Lê Văn Khương, nguyên Quản đốc trại tù Côn Sơn, đã phải ra tay trừng trị Lý Đức Nghĩa vì anh ta cấu kết với một anh Hoa kiều khác trong buồng để cướp giật thức ăn của một người tù già là ông Hoàng A Giú. Nhưng cách anh tù hình sự kêu la thất thanh trong đêm đó làm tôi sinh nghi có chuyện gì rất nghiêm trọng, chứ không phải cuộc đánh nhau thông thường. Nhưng rồi câu chuyện đó cũng chìm vào quên lãng trong khu kỷ luật không mấy ngày là không có chuyện xảy ra này. Lúc đó tôi đâu có ngờ là trong buồng 5 đêm đó xảy ra một sự việc thật khiếp đảm, ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Sự việc này lại có liên quan tới tính mệnh của tôi, mà mãi về sau này tôi mới biết được.

Tuần sau, lại có cuộc đổi buồng trên khu kỷ luật. Lần này cán bộ trực trại tên Thanh bảo tôi vào buồng 5 với ba anh Trung Quốc đó. Tôi nói với cán bộ Thanh là tôi và Lý Đức Nghĩa mới đánh nhau hôm Tết như cán bộ đã biết. Nếu tôi vào buồng đó chắc chắn sẽ có chuyện đáng tiếc xảy ra, và tôi xin cho tôi vào bất cứ buồng nào trong khu kỷ luật, trừ ra buồng với Lý Đức Nghĩa. Nghe tôi trình bày, cán bộ Thanh suy nghĩ một lúc rồi đưa tôi vào buồng 2 phía trước.


Những khách vãng lai

Trong ba năm giữ vai trò quản gia trong khu kỷ luật trại Thanh Cẩm, tôi đã tiếp đón và tiễn chân rất nhiều người, tù chính trị cũng như hình sự và cả những người tù Trung Quốc như tôi đã nói.

Chúng tôi thường xuyên bị xáo trộn quanh đi quẩn lại trong sáu buồng nên tôi có dịp sống chung với nhiều người. Và nhờ đó tôi cũng theo dõi được tin tức sinh hoạt dưới làng. Tôi cũng nhắn qua các anh em vãng lai khi xuống làng hỏi thăm anh em bạn bè. Thỉnh thoảng những khách vãng lai cũng có mang lên cho các người trên kỷ luật ít thức ăn, vài quả ớt hoặc ít thuốc lào, nhưng điều chúng tôi cần nhất là áo quần và chăn chiếu.

Trong thời gian Bùi Đình Thi còn làm trật tự thì việc cho quần áo bị cấm hẳn. Mặc dù cán bộ không bao giờ để ý chuyện này, nhưng nếu Bùi Đình Thi xét thấy là sẽ no đòn với anh ta. Vì thế, mặc dù lúc đó tôi sống trần truồng, nhưng các khách vãng lai khi xuống làng cũng không hề dám để lại thứ gì cho tôi. Khi Bùi Đình Thi mất chức trật tự rồi, cuộc sống tôi khá hơn, nhất là được áo quần chăn chiếu các anh em để lại. Từ khi anh Nguyễn Văn Bảy làm trật tự, tôi thấy cuộc sống trên kỷ luật có được hai chữ “thoải mái”. Rất tiếc là anh được làm quá muộn. Sau khi Bùi Đình Thi mất chức, tới anh Nguyễn Tấn Đạt. Khi Đạt về, tới anh Danh. Anh Danh lên chưa kịp làm việc đã được về, rồi mới tới Bảy Chà thay thế.

Lúc anh Bảy Chà làm trật tự, tôi đã ở kỷ luật hơn hai năm rồi. Khách vãng lai có người phải ở khá lâu, nhưng cũng có người chỉ vài hôm là được xuống đội. Khu kỷ luật như tôi đã nói có “đủ chỗ” cho 24 người bị cùm, nhưng có lúc đắt khách sẽ có những người không phải cùm, nhưng nằm giữa phi đạo. Trái lại, có khi rất vắng, chỉ có những người thường trú và khách kiều cư.  Vẻ tiêu điều hiện rõ với một số phòng trống không.


Hoa lạc giữa rừng gươm

Có một lần rất đặc biệt, tôi được hân hạnh tiếp một người tù thuộc phái đẹp! Chiều tối hôm đó, cán bộ đưa một người đàn bà vào buồng trống ở cạnh buồng tôi để “gửi” nhờ qua đêm. Khi cán bộ đi xuống rồi, tôi gọi qua hỏi thăm và biết đó là em dâu của anh Dương Văn Lợi. Sau khi anh Lợi cướp chiếc máy bay trực thăng của Bộ Chính trị ngay tại phi trường Nội Bài ở Hà Nội và bay thành công qua Trung Quốc vào năm 1981, cả nhà anh ở Hà Nội bị vạ lây.

Người em dâu của anh Lợi bị bắt và trên đường bị đưa tới một trại giam nào đó, phải dừng chân qua đêm tại Thanh Cẩm. Khi biết tôi là bạn anh Lợi, chị mừng và vui vẻ trả lời các câu hỏi của tôi liên quan tới anh Lợi. Khi gần đi ngủ, chị gọi sang hỏi tôi với vẻ e lệ ngượng ngùng, làm ơn bảo chị cách thức đi cầu! Tôi cảm thông vô cùng với tâm trạng người đàn bà khi phải hỏi một người đàn ông xa lạ về chuyện này. Tôi đoán là một mình trong buồng bên, chị cũng đã xoay xở hết cách nhưng không thành công với loại nhà cầu đặc biệt với hai cái ống bẩu trong buồng!

Tôi gọi sang tận tình hướng dẫn, nhưng không biết kết quả ra sao. Vì vấn đề quá tế nhị nên tôi không tiện hỏi lại. Thực ra loại nhà cầu bằng hai ống bẩu này được “vẽ kiểu” chỉ phù hợp cho giới mày râu mà thôi. Sáng hôm sau, vị khách quý thuộc phái đẹp này được đưa đi rất sớm. Kể từ đó, khu kỷ luật Thanh Cẩm chúng tôi không còn được hân hạnh đón tiếp khách vãng lai thuộc phái đẹp nữa.


Tướng cướp Bình Thanh

Cuộc sống của tôi trong kỷ luật bắt đầu được cải thiện sau hai năm vì nhiều lý do, trong đó, sự ra đi của trật tự Bùi Đình Thi là lý do hàng đầu. Kế đến là được chị tôi từ Vĩnh Long ra Bắc thăm hai lần. Lần đầu vào năm 1980, tôi không được gặp mặt, chỉ được nhận 5 ký quà. Lần thứ hai, năm 1981, tôi được gặp mặt chị tôi 15 phút và nhận quà khá hơn. Tội nghiệp chị tôi trong chuyến đi thứ hai này, từ lúc rời nhà cho đến khi về tới nhà là 33 ngày, vì mưa bão làm sập cầu, ngập đường. Việc tôi được gặp chị tôi là một nguồn an ủi tinh thần rất lớn. Hơn nữa, có một ít thức ăn cần thiết cho sự phục hồi sức khỏe của tôi lúc đó. Ngoài ra, các khách vãng lai khi trở xuống làng cũng để lại cho tôi áo quần, chăn chiếu và đồ dùng. Nhờ đó, tôi không còn phải sống trần truồng như trước.

Thời trật tự Nguyễn Tấn Đạt, cũng là tù quân đội, anh lầm lì ít nói nhưng không đánh người. Tới trật tự Nguyễn Văn Bảy, tôi mới thấy thực sự thoải mái cả cuộc sống vật chất lẫn tinh thần. Mặc dù hoàn cảnh vẫn như cũ, trời Thanh Hóa vẫn nắng như thiêu như đốt, gió Lào vẫn hừng hực lửa vào mù hè, buồng giam khu kỷ luật vẫn mang tính chất khắc nghiệt của nó, nhưng lòng nhân đạo của con người hình như đã thắng sự khắc nghiệt của thiên nhiên này.

Nếu trước đây hai năm, tôi có thể bị cán bộ và trật tự đánh đập bất cứ lúc nào và bởi bất cứ lý do gì, thì lúc này, lớp cán bộ mới cũng không còn dữ dằn và quá giáo điều như lớp trước. Những anh tù có nhiệm vụ trong ban thi đua cũng thân ái, nhẹ nhàng và thỉnh thoảng còn tìm cách giúp cho anh em chúng tôi trên khu kỷ luật một chút gì cho cuộc sống dễ chịu hơn. Một điều đáng nói nữa là lúc đó chúng tôi đã được nhận quà gửi ra theo đường bưu điện mỗi 3 tháng một lần.

Với tất cả những yếu tố đó cộng lại, tôi có thể kết luận cuộc sống của tôi sau hai năm trong kỷ luật đã bắt đầu “lên hương”, mặc dù đêm đêm vẫn phải xỏ chân vào cùm sắt. Chính trong thời gian đó, tôi lại có dịp đón tiếp một đoàn khách đặc biệt.

Một buổi sáng nọ, từ trong buồng 2 phía sân trước cùng với một anh Hoa kiều người Chợ lớn tên Lý Tử, tôi nhìn ra cửa sổ thấy cán bộ và trật tự dẫn một toán tù hình sự khoảnghơn chục anh đi vào khu kỷ luật. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là nhóm tù này khỏe mạnh. Họ mang rất ít đồ đạc. Mỗi người chỉ có một ba-lô khoác trên lưng. Họ ăn mặc gọn gàng và nhìn vào biết ngay là tù hình sự. Phần đông đều nhỏ người, chỉ trừ một vài anh cao lớn. Đa số đội mũ cối, mang giày vải. Có mấy anh mang dép nhựa, cũng có vài anh mang dép râu. Họ âm thầm bước đi không cười nói, nhưng không tỏ ra thểu não và bệ rạc như khi tôi thấy toán tù Trung Quốc nhập vào khu kỷ luật này trước đây.

Tôi chợt chú ý tới một anh đi ở cuối hàng, vì anh này có dáng vẻ và phong thái khác hơn các người trong nhóm. Người anh to rắn chắc và rất tầm thước. Không cao mà cũng không thấp. Vai anh rộng và hơi vòng một chút như vai con rùa. Nước da trắng như một thư sinh. Nét mặt cân đối với đôi chân mày rậm hài hòa. Tóc anh dầy, thật đen và húi cua. Anh có ít râu dưới cằm rất đen vì tương phản với làn da trắng của anh. Anh ta đẹp trai. Tuổi lúc đó chừng ba mốt ba hai là cùng. Anh mang ba lô trên lưng, chân mang giày vải, mặc quần tây màu nâu và áo bộ đội màu cứt ngựa. Một tay anh cầm cái mũ lưỡi trai màu đen. Nếu bình thường gặp anh một nơi nào khác có thể lầm anh là một cầu thủ đá bóng đi dượt bóng về, vì tướng anh rất phù hợp với hình ảnh đó.

Cả bọn đứng lại giữa sân ngay trước cửa sổ buồng tôi, trong khi trật tự mở khóa các buồng phía sau để phân bổ lính mới. Các anh nhớn nhác nhìn vào các buồng, nhưng nhìn từ ngoài nắng chắc sẽ chẳng thấy gì. Tôi đứng sát vào song cửa sắt, nhìn ra và nói một câu với các tù nhân mới:

   - Hêlô! Thân ái chào các anh em mới tới! Các bạn từ trại nào chuyển về?

Nghe tiếng tôi chào, mấy anh đứng gần quay lại nhìn về phía tôi và nheo mắt nhìn vào trong buồng, nhưng tôi biết là họ không thấy gì vì trong buồng tối om.
Anh chàng đẹp trai nghe tôi chào, bước lại sát bên cửa sổ, tươi cười trả lời:

  - Chào anh! Bọn chúng em từ xà lim Bộ chuyển về. Anh là người miền à?  Nghe giọng anh bọn em nhận ra ngay. Anh ở kỷ luật bao lâu rồi?

  - Vâng, tôi người Sài Gòn và ở kỷ luật hơn hai năm rồi!

   Anh chàng nghe thế vội hỏi:

  - Lâu vậy! Anh bị gì?

  Tôi đáp gọn:

  - Trốn trại!

   Anh có vẻ thích chí, cười thật tươi:

  - Nhất anh! Phải thế chứ. Trước trong Nam anh làm gì?

  - Linh mục!

   Anh thanh niên nghe không rõ, hỏi lại và kề tai sát vào song sắt:

  - Em nghe không ra, anh nói trước kia anh là gì?

  - Anh là Linh mục, là cha đạo ấy mà!

  - Em hiểu rồi, anh làm việc trong nhà thờ chứ gì? Cha đạo mà đi tù lại vượt ngục! Nhất anh! Em là Bình Thanh, em rất muốn gặp anh. Thế tên anh là gì?

  Vừa nói anh vừa cầm bàn tay tôi đang nắm song sắt cửa sổ. Trong khi đó cán bộ cũng vừa đi lại. Tôi nói:

  - Anh cũng muốn gặp Bình Thanh. Anh tên Lễ, cứ gọi là Anh Út.

  - Vâng, anh Út!

Cán bộ phân bổ lính mới vào các buồng. Anh tù cao lớn đẹp trai tự giới thiệu là Bình Thanh, qua buồng 3 kế bên tôi. Có hai lính mới vào buồng tôi và một số ra các buồng phía sau.

Hai anh chàng vào buồng tôi khá nhỏ người, nói rặt giọng Hà Nội. Ngay từ phút đầu đã tỏ ra rất lễ phép đối với tôi. Một anh nhỏ hơn, nước da ngăm đen là Bình Bưởi. Anh kia gầy và cao hơn là Tiến Ngựa. Tù hình sự không anh nào là không có tên đệm kèm theo. Vào buồng và dường như có vẻ mệt, hai anh cởi áo nằm nghỉ để lộ hai thân hình xâm trổ đầy người. Bình Bưởi xâm cả lưng, bụng, hai đùi và hai cánh tay nữa. Qua một vài câu nói tôi biết Bình Bưởi tuy nhỏ hơn nhưng là đàn anh. Sở dĩ gọi là Bình Bưởi vì quê anh ở làng Bưởi, Hà Nội.

Hai anh cho biết nhóm này ở xà lim Bộ, tức từ Hà Nội, chuyển về khá đông, một số lớn ở dưới làng. Khi tôi nhắc tới Bình Thanh mà tôi gặp và nói chuyện mấy câu lúc nãy, Bình Bưởi chỉ đáp gọn một câu:

  - Anh Bình Thanh là anh của bọn em. Anh ấy hay lắm đấy anh ạ!

Tôi đã sống chung với tù hình sự trên trại Cổng Trời và hiểu được “ngôn ngữ” và quy luật sống trong tù của họ. Tiếng “anh” có một ý nghĩa rất quan trọng và ở giai tầng trên, trong khi hai tiếng “anh em” chỉ những người trong nhóm và hàng ngang. Tiếng “hay lắm” có nghĩa là đáng kính trọng, có tư cách và có vị thế lãnh đạo. Mặc dù hai anh này chưa biết tôi, nhưng nghe qua cách Bình Thanh bày tỏ thái độ với tôi lúc nãy, hai anh bắt đầu kính nể tôi.

Tới giờ cho ăn trưa, các buồng được ra sân một lúc để hít thở và dọn vệ sinh buồng. Cửa vừa mở, tôi thấy Bình Thanh chạy bay ra và đảo một vòng như con ngựa bị cuồng chân lâu ngày vừa mới xổng chuồng. Anh ta mặc quần đùi trắng, áo thun trắng, mang giày vải để lộ đôi chân khỏe mạnh, rắn chắc. Ngực anh nở nang và hai cánh tay to, một bên có xâm hình bàn tay cầm bó đuốc, bên kia là một cây kiếm. Tôi đoán là thân người Bình Thanh xâm trổ nhiều lắm, nhưng vì anh ta mặc áo thun nên không thấy hết được. Toàn thể con người anh ta toát ra sự cường tráng của người đang ở thời kỳ sức lực dồi dào và cuồn cuộn lên trong các bắp thịt. Thấy tôi bước ra, Bình Thanh chạy tới đưa cả hai tay ra nắm lấy hai tay tôi nói nhanh:

  - Anh chờ em tí, em vào coi hai thằng em ra sao rồi trở ra ngay!

Nói xong, anh ta chạy ngay vào buồng hỏi Bình Bưởi và Tiến Ngựa ra sao, có thoải mái không, có cần gì không. Sau khi biết mọi việc tốt đẹp, Bình Thanh trở ra với tôi, nói:

  - Anh Út! Vừa gặp anh em đã quý anh. Bọn trong buồng bên kia đều nể phục anh và nói là anh hay lắm. Em xin anh xem em như thằng em của anh nhá, anh Út!

Bình Thanh vừa nói vừa cầm bàn tay và nhìn vào mắt làm tôi rất cảm động. Lúc này, đứng gần thấy anh ta rất đẹp và dễ thương. Môi trên hơi ngắn hơn môi dưới một chút và khi nói chuyện hay đưa cằm ra phía trước trong cử chỉ thách thức. Đôi mắt anh ta đẹp, nhưng nhìn kỹ trong đôi mắt ấy, như ẩn hiện đâu đó nét hoang dại của loài sư tử. Tôi nắm tay Bình Thanh, nói:

  - Bình Thanh! lúc nãy khi vừa trông thấy em anh đã quý. Từ nay em sẽ là em của anh. Anh là con Út trong gia đình, bây giờ anh có người em.

Tôi vừa nói vừa kéo Bình Thanh vào đôi cánh tay vừa mới phục hồi sức khỏe của tôi. Bình Thanh ôm lấy tôi thật chặt. Tôi cảm thấy niềm hạnh phúc dâng tràn trong lòng. Tôi cũng ngạc nhiên vì chúng tôi đến với nhau và chấp nhận nhau thật nhanh, không cần tìm hiểu thêm, không cần suy nghĩ, đắn đo. Tự nhiên, tôi thấy nơi người thanh niên xa lạ vừa gặp lần đầu này có một dáng vẻ khác người. Từ con người, lối ăn nói, cách bày tỏ tình cảm, sự chú ý săn sóc cho đàn em và qua câu nói của Bình Bưởi, tôi biết Bình Thanh là một tên lưu manh, nhưng là một tên lưu manh có tầm cỡ và bản lĩnh. Tôi thích mẫu người như anh, và tôi nhận Bình Thanh làm người em kết nghĩa do một thứ trực giác thúc đẩy, không hề suy nghĩ.

Những ngày tiếp theo, tôi thấy hiện tượng khá lạ lùng mà trong gần ba năm qua khu kỷ luật này chưa bao giờ xảy ra. Đó là một vài anh tù hình sự dưới làng lén leo qua những bức tường bao bọc chung quanh khu kỷ luật để tiếp tế lên cho Bình Thanh và anh em. Thì ra, những anh hình sự khác ở dưới làng cũng nhận quyền và tùng phục Bình Thanh đang bị cùm trong kỷ luật.

Những ngày sau, Bình Bưởi và các anh em trong nhóm cho tôi biết thêm về cuộc đời và thành tích của Bình Thanh, làm tôi càng quý anh hơn. Sau này, khi sống chung một buồng, tôi mới hiểu hết ý chí ngang tàng, cuộc sống lẫy lừng và tư cách đàn anh đúng nghĩa của một “đại ca” trong giới giang hồ.

Theo lời các anh em trong nhóm, tên tuổi Bình Thanh được kính nể trong tù hình sự miền Bắc. Anh tù nào nghe tới tên cũng nể phục. Bất cứ anh tù nào mới bị bắt vào buồng và bị các đầu gấu khác bắt làm lễ ra mắt, chỉ cần nói có biết Bình Thanh là được an toàn. Bình Thanh không phải loại đầu gấu hiểu theo nghĩa tầm thường bắt nạt người yếu để kiếm ăn, nhưng là hạng anh hùng hảo hán, bênh vực đàn em và nếu cần chịu chết đói cho những người đàn em được no.

Tôi nghe kể về tư cách đáng nể phục của Bình Thanh, nhưng sau này, khi anh em tôi có dịp sống chung một buồng, tôi mới thấy rõ Bình Thanh là một hiện tượng của xã hội. Dĩ nhiên, trong giới lưu manh có quy luật của nó và anh nào không tuân giữ, đó sẽ bị Bình Thanh bắt khuất phục đến nơi đến chốn. Tuy nhiên, tự trong thâm tâm, anh là con người trọng nghĩa khinh tài. Anh rất coi trọng nhân nghĩa và bênh vực giới bị xã hội bất công đè bẹp.


Luật giang hồ

Tù hình sự có nguyên tắc và giai cấp rất rõ ràng, gồm các vị thế như sau: anh em, người ngoài, bề dưới, kẻ thù. Một khi đã kết nghĩa anh em là sẽ sống chết vì nhau, cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người ngoài là những người có thể ngồi chung mâm nhưng không can thiệp vào chuyện của nhau. Bề dưới là phải tùng phục bề trên vô điều kiện, nhưng bề trên đúng nghĩa là người biết thương bề dưới. Kẻ thù là hạng người phải tiêu diệt bằng bất cứ giá nào và ở đâu. Trong nhóm tù hình sự cùng về đây, chỉ có Bình Bưởi là anh em với Bình Thanh. Bình Bưởi nhỏ con, ốm yếu và đi tù từ năm 12 tuổi nên Bình Thanh thương yêu và săn sóc cách đặc biệt. Những anh còn lại, hoặc là người ngoài, hoặc bề dưới. Chỉ có một anh thuộc diện kẻ thù, tôi sẽ nói sau.

Nhóm Bình Thanh tới được vài ngày thì có một anh tên là Thụ ở buồng phía sau có gia đình vào tiếp tế. Anh này còn gọi là Thụ Con vì người nhỏ thó. Sau khi thăm gặp về, Thụ phạm một lỗi lầm quá nghiêm trọng, đó là quy luật về sự phục tùng của kẻ bề dưới. Có lẽ nó còn quá khờ hoặc là quá khinh suất nên thay vì làm theo nguyên tắc là mang tất cả quà gia đình mới tiếp tế tới chỗ Bình Thanh và nói: “Anh Bình, gia đình em vừa vào thăm cho ít quà, xin anh dùng chút quà mọn của gia đình em.” Chắc chắn là Bình Thanh sẽ cười và nói:“ĐM, người nhà mày mang vào thì mày liếm đi! Có thuốc lào không, cho anh em tao vài bi được rồi!”  Và mọi việc sẽ tốt đẹp. Đàng này, mãi tới chiều hôm đó, Thụ Con mới nắm một ít thức ăn, một ít ruốc và mấy ấm chè tới biếu. Tôi nghe Bình Thanh quát:

  - ĐM mày, tao đâu có chết đói mà mày làm thế. Mày làm nhục tao đấy à? Mang về ngay!

   Thụ còn đang đứng, Bình Thanh nổi nóng:

  - ĐM, tao bảo mày cút ngay!

Thụ sợ quá, cầm gói thức ăn về. Mấy hôm liền, mặt mày Thụ tái mét vì sợ. Rủi cho anh ta, vài ngày sau đổi buồng và cán bộ đưa Thụ vào buồng Bình Thanh. Thụ đứng ngoài khóc rống lên và nhất định không vào, nhưng cuối cùng cán bộ đẩy anh ta vào khóa cửa lại. Có thể dùng hình ảnh con nai tơ bị nhốt vào chuồng sư tử để diễn ta nỗi sợ hãi của Thụ Con lúc bấy giờ. Biết như vậy, nên từ bên này, tôi gọi qua cho Bình Thanh bảo đừng đánh thằng Thụ, tội nghiệp nó. Bình Thanh trả lời:

  - Vâng, em nghe anh, em chẳng làm gì nó đâu!

Và Bình Thanh để cho Thụ được yên, chẳng đá động gì tới chuyện mấy hôm trước. Nhưng có lẽ vì quá sức khiếp sợ, nên chiều hôm đó khi trật tự vừa mở cửa buồng cho ăn, Thụ vụt chạy như bay xuống cổng trại báo cáo cán bộ trực xin cho đổi buồng, lấy lý do là Bình Thanh cướp cơm của nó ăn! Chỉ có lý do đó mới đủ mạnh để mong được đổi buồng. Nhưng nó không ngờ là nó đang đọc bản án cho chính mình. Cán bộ dẫn nó lên và bắt nó vào buồng trở lại.

Khi cán bộ khóa cửa và đi xuống rồi, từ bên này tôi còn nghe được cơn thịnh nộ của Bình Thanh. Khi cơn thịnh nộ nổi lên, Bình Thanh định giết chết thằng Thụ Con vì lần đầu tiên trong đời bị nó làm nhục là nói anh ta cướp cơm của tù để ăn. Một sự hạ nhục quá sức chịu đựng của Bình Thanh. Bên kia Bình Thanh vừa chửi vừa “chưởng”, trong khi Thụ khóc lóc van lạy xin tha mạng. Tôi lại phải gọi sang nói chữa là vì nó sợ quá nên nói bậy, đánh như thế nó biết tội rồi. Có tiếng Bình Thanh trả lời:

   - Anh coi đó, dám bảo em chấn cơm! Anh bảo thì em tha mạng cho nó, nhưng em phải xin nó bộ ngà!

  Nói xong, tôi nghe tiếng Bình Thanh:

  - ĐM mầy!Anh tao bảo, tao mới tha tội chết cho mày. Nhưng hòn đá đây, mày phải ghè cho hết bộ ngà, không chừa một chiếc nào. Mày tự làm hay muốn tao làm?

Không còn cách gì hơn, Thụ Con phải tự tay dùng hòn đá đập gãy không còn sót một chiếc răng nào! Chừng đó, Bình Thanh mới chịu tha cho. Lạ một điều là từ đó về sau, Thụ Con theo hầu Bình Thanh như hình với bóng!


Nhân vật Sửu Què

Sau khi trật tự Đạt được tha về và trật tự Bảy Chà lên thay, cuộc sống chúng tôi trên khu kỷ luật thoải mái hơn. Anh Bảy Chà còn lén cán bộ mở cửa cho chúng tôi chạy ra sân chơi và còn giúp chuyển quà cáp từ buồng này qua buồng kia, hoặc từ dưới làng lên kỷ luật. Đó là ân huệ mà lúc Bùi Đình Thi còn làm trật tự, chúng tôi nằm mơ cũng không thấy. Khi tôi bị chuyển ra buồng 4 phía sau, Bình Thanh vẫn ở buồng 3 phía trước chung với Tiến Ngựa và Sửu Què cùng nhóm với nhau.

Một buổi trưa, cán bộ dẫn lên một người tù miền Nam là anh Nguyễn Đức Khuân vì tội gửi thư chui bị bại lộ, trong thư lại có bản nhạc gọi Hồ Chí Minh là “con quỷ đỏ”. Khuân bị một trận đòn trên bờ dưới ruộng, bị đi cùm và đẩy vô buồng của Bình Thanh. Khuân là bạn rất thân của tôi, nên tôi gọi Bình Thanh và nói:

  - Bình Thanh! Anh Khuân là bạn thân của anh đó. Hãy coi anh Khuân như chính anh nhé!

   Bình Thanh đáp vọng lại:

  - Vâng! Em biết rồi anh Út!

Khuân là người vui vẻ, ăn nói có duyên và rất giỏi nhạc. Gặp Bình Thanh là người thích tìm tòi học hỏi, nhất là các chuyện về miền Nam, nên hai người cũng tương đắc và quý nhau. Bình Thanh kính Khuân như người anh, điều này, vô tình lại làm Sửu Què khó chịu. Sửu bị ai đó đâm trúng gân chân nên đi hơi lệch, vì thế có tên là Sửu Què. Anh ta có ân oán gì đó với Bình Thanh từ ở trại nào trước kia, nhưng vào đây, Bình Thanh bỏ qua không muốn nhắc lại nữa. Một buổi trưa, trong lúc Khuân đang kể chuyện và Bình Thanh đang hứng thú lắng nghe, Sửu Què không dằn được cơn bực tức, đã chửi Khuân:

  - ĐM, toàn nói phét!

Khuân nghe Sửu Què chửi, dừng lại không kể chuyện nữa, trong khi Bình Thanh đùng đùng nổi giận. Thứ nhất, Sửu Què dám hỗn với Khuân là người tôi dặn Bình Thanh hãy đối xử như với tôi. Do đó, khi chửi Khuân thì cũng như chửi tôi. Tội này rất nặng! Điều thứ hai là Bình Thanh và Tiến Ngựa đang hứng thú nghe các chuyện về miền Nam. Bị cụt hứng bất thần, Bình Thanh vùng dậy, rút con dao làm bằng thanh sắt đập dẹp mà lúc nào cũng giấu trong gối, đè Sửu Què xuống, dí dao vào cổ chửi và đòi đâm. Khuân phải can ngăn mãi mới xong. Nhưng từ lúc đó, bầu khí trong buồng nặng nề, câm lặng và bực dọc. Sau đó, có lẽ vì số chết của Sửu Què đã tới nên mới khiến anh ta đến bên Bình Thanh đang ngồi thở hồng hộc vì bực tức, xin lỗi và nói:

  - Anh Bình Thanh hãy nhìn vào cặp mắt tôi coi. Tôi có phải là con người gian ác gì đâu mà anh nói tôi như thế!

Đang lúc bực tức và lại nghe Sửu Què biện bạch, Bình Thanh nhìn vào mắt nó và nhớ lại ân oán năm xưa. Bình Thanh bèn đè cổ Sửu Què xuống, dùng con dao ngoáy móc mắt Sửu Què làm anh ta kêu la vang dội cả khu kỷ luật. Khi cán bộ lên tới nơi và mở được của buồng ra thì một con mắt của Sửu Què đã nằm dưới đất và Bình Thanh đang đè ngoáy dao vào con mắt thứ hai. Nhờ Sửu Què giãy giụa quá nên con mắt thứ hai chưa kịp móc thì cán bộ đã vào tới buồng và giải thoát cho anh ta. Khi thấy cán bộ vừa chạy lên, Bình Thanh dùng con dao rạch một đường trên cánh tay mình cho máu chảy ra. Lúc cán bộ bước vào buồng, Bình Thanh cầm con dao đưa cho cán bộ coi và nói:

  - Báo cáo cán bộ! Anh Sửu vào dây còn dấu được con dao trong ống điếu. Lúc nãy, tôi đang ngủ say, không hiểu nguyên do gì anh ta đâm tôi. May mà tôi đỡ kịp nên chỉ thương ở cánh tay, máu còn đang chảy, cán bộ xem này!

   Tiến Ngựa vội thêm:

  - Báo cáo cán bộ! Anh Sửu hăm dọa giết anh Bình từ lâu rồi. Lúc nãy, nếu tôi không la lên kịp thì nó đã đâm anh Bình thủng tim rồi!

Đúng là miệng lưỡi của lưu manh có khác! Cán bộ nghe thế mắng cho Sửu Què một trận, tịch thu con dao và đưa anh xuống trạm xá băng bó vết thương. Cán bộ không nói gì Bình Thanh vì anh ta là “nạn nhân” chỉ tự vệ! Câu chuyện này chưa chấm dứt ở đây.

Khi Sửu Què đang nằm bênh xá thì Bình Thanh nhắn đàn em dưới làng “cất” giùm Sửu Què. Quãng nửa tháng sau, Sửu mang một mắt trở về làng, ở chung với đàn em của Bình Thanh.  Ngay đêm đầu tiên, khi Sửu đang ngồi uống chè trên sàn bên kia, thì bên này, Tuấn Béo cầm con dao rừng nhảy phắt qua, chém một phát chẻ đầu Sửu Què ra làm đôi, chết không kịp trối. Tuấn béo bị đưa lên kỷ luật ngay đêm đó, nằm một mình một phòng riêng. Sau này, có tòa án lập ngay trong trại, xử Tuấn Béo 18 năm tù.


Cuộc tương phùng

Sau vụ Sửu Què bị chém chết một thời gian, khu kỷ luật lại đổi buồng và cán bộ chỉ định tôi vào buồng 5, nơi có ba anh Trung Quốc là Lý Đức Nghĩa, Chu Vạn Hồi và Lưu Tùng đang ở. Nhưng tôi xin với cán bộ cho đi buồng khác. Trước đó mấy ngày, tôi cũng biết vụ mấy anh Trung Quốc trong buồng này đánh một anh tù hình sự tét đầu chảy máu. Anh ta đã la ầm lên trong đêm và cán bộ phải lên đưa anh đi bệnh xá. Nhưng không phải vì chuyện đó mà tôi xin đổi buồng khác, vì lúc đó tôi đâu có biết hết tính cách nghiêm trọng của vụ đánh người này. Tôi xin đi nơi khác là vì mới vừa trừng trị Lý Đức Nghĩa khi nó cướp bánh chưng của một người tù già. Sau vụ đó, chúng tôi bị đổi đi mỗi người một nơi, bây giờ mà gặp lại trong một buồng chắc chắn sẽ có vấn đề lớn. Cán bộ nghe qua có lý và cho tôi ra phía trước, vào buồng 2 với Bình Thanh và đưa Phi Tàu vào buồng 5 thay tôi. 

Được vào buồng 2 với Bình Thanh, tôi vô cùng sung sướng. Từ khi Bình Thanh về đây đã hơn một tháng rồi, nhưng anh em tôi chỉ gặp được nhau trong các giờ mở cửa cho ăn và lúc đi tắm dưới sông Mã. Lúc khác thì gọi nhau từ buồng này qua buồng khác nói chuyện mà chưa bao giờ được sống chung buồng như anh em tôi mong muốn.

Khi thấy tôi ôm chăn chiếu theo cán bộ từ phía sau đi vòng ra phía trước và đứng trước của buồng 2, Bình Thanh đứng bên trong nhìn ra mừng quá nói to:

  - Bình Bưởi đâu? Đưa đôi giày vải đây cho anh! Anh phải ‘tả’ cho anh Út một trận trước khi vào buồng này!  

Bình Thanh nó trêu tôi như thế.

Trong lúc đứng chờ cán bộ mở cửa buồng, tôi nhớ lại trong sáu buồng của khu kỷ luật này, không có buồng nào mà tôi chưa ở qua. Mỗi buồng đều có một kỷ niệm riêng, nhưng chưa bao giờ tôi bước vào buồng nào với tâm trạng vui mừng và sung sướng như lúc đang chờ để vào buồng 2 với người em kết nghĩa của tôi như lúc này.

Tôi vừa bước vào, chưa kịp để đồ đạc xuống thì Bình Thanh đã ôm chầm lấy tôi và hôn lấy hôn để lên tóc, lên trán, lên mặt tôi và anh em tôi ôm nhau một hồi lâu. Sau đó, Bình Bưởi cũng tới ôm lấy tôi để nhận anh nhận em, trong khi Bình Thanh quay lại bảo hai anh kia;

- Thằng Thịnh với thằng Trọng Loe, đây là anh tao! Chúng mày phải biết sống sao cho phải.

Khi nghe Bình Thanh nói thế, tôi nghĩ đây chỉ là sự giới thiệu thôi. Tôi không ngờ đó là một cái lệnh và lệnh rất nghiêm như tôi sẽ kể dưới đây.

Trong buồng lúc đó đã 4 người, tôi vào là 5, nên một người được cán bộ cho khỏi phải cùm là Trọng, còn gọi là Trọng Loe vì mồm anh rất rộng. Trọng Loe lớn hơn Bình Thanh chừng vài ba tuổi nhưng thuộc dạng bề dưới và không được ngồi ăn chung. Còn anh kia tên Thịnh, mệnh danh là Thịnh Capitaine. Tôi không hiểu tại sao anh có tên đệm tiếng Tây như vậy. Anh này cỡ tuổi với Bình Thanh nhưng người ốm yếu hơn so với Bình Thanh. Thịnh thuộc diện người ngoài, được ngồi chung mâm nhưng chẳng có liên hệ gì với nhau. Tôi nằm chung thớt cùm với Bình Thanh và nằm bên trong.

Tôi cảm thấy mệt mỏi, vì mỗi lần chuyển buồng là phải khám xét đồ đạc, phải khuân vác và nhiều chuyện lỉnh kỉnh khác. Mặc dù lúc đó người tôi đã khá hơn rất nhiều, nhưng vì cùm lâu quá nên một chân tôi gần như bại liệt và điều kiện sống trong kỷ luật đã làm thân thể tôi hao mòn. Tôi nằm xuống nghỉ ngơi và tự nhiên cảm thấy lạ lùng cho cuộc đời tù của tôi. Lúc này, tôi là một Linh mục đang bị nhốt chung buồng với một tướng cướp khét tiếng của miền Bắc và vài tên lưu manh khác. Nhưng lạ lùng thay, đây là con người mà tôi yêu thương một cách đặc biệt.

Tôi thấy trong lòng dâng lên niềm vui khó tả khi nhìn thấy Bình Thanh đang ngồi thu xếp các thứ đồ đạc của tôi cho gọn trong lúc tôi nằm nghỉ. Lần đầu tiên tôi mới thấy Bình Thanh cởi trần, để lộ cái lưng rộng bè bè và bộ ngực nở nang, bụng thon và cặp chân rắc chắc. Bình Thanh xâm trổ nhiều hơn tôi tưởng, cả trước ngực và sau lưng. Phía trước là hình “lưỡng Long tranh Châu”, hai con rồng thật to tranh nhau trái châu. Phía sau là hình Phật Bà Quan Âm chiếm trọn cái lưng. Bên dưới có hình lư hương đang tỏa khói và bên dưới nữa là hai hàng chữ:

Khi tôi chết ai là người xây nấm mộ
Cỗ quan tài ai khóc tiễn đưa tôi?

Hai bên cánh tay cũng xâm hình ngọn đuốc tự do, bên kia là cây kiếm báu. Sống lâu với tù hình sự, tôi nghiệm ra hai thứ để làm thành một anh tù thuộc diện lưu manh. Đó là xâm trổ và chửi thề hai tiếng ĐM! Thiếu một trong hai thứ đó không thể là một “lưu manh toàn diện” được.


Tư cách một đàn anh

Lúc mở cửa cho ăn, chúng tôi được ra ngoài chạy chơi, phơi áo quần và rửa buồng. Những việc này chỉ có được từ khi anh Bảy Chà làm trật tự. Khi mang thức ăn vào buồng, chính Bình Thanh đứng ra chia thức ăn. Trong buồng có 5 người nên Bình Thanh chia ra làm 5 phần bằng nhau. Sau khi chia, anh gạt ngay 2 phần cho Trọng Loe, nói:

  - Mày làm nhiều, mày ăn nhiều!

   Bốn người còn lại chỉ có 3 phần ăn để chung vào nhau và lúc nào Bình Thanh cũng nói:

  - Anh với Bình Bưởi 'liếm' đi! Em chết thế nào được!

Và Bình Thanh nhường phần ăn của mình cho anh và cho em, còn anh ta chỉ ăn một chút để đừng chết đói. Sau này khi có ai cho thứ gì, nếu nhiều thì Bình Thanh ăn một tí, còn ít thì Bình Thanh nói:

  - Thôi anh với Bình Bưởi liếm đi!

Có lần, chị tôi từ miền Nam ra thăm trong khi tôi đang sống chung buồng với Bình Thanh, khi trở vào buồng, tôi có mang theo một ít thức ăn. Bình Thanh chỉ để lại một phần vừa đủ cho 5 người trong buồng ăn một bữa, còn lại bao nhiêu phân chia từng gói nhỏ và đem phân phát cho tất cả các buồng trong khu kỷ luật. Tới buồng nào anh cũng nói:

- Đây là quà của anh tao cho. Chị tao từ miền Nam mang ra, chúng mày ăn lấy thảo với anh em tao!

Dĩ nhiên, chúng tôi cũng dành ra một chút quà để gửi qua cho các Linh mục đang ở khu kiên giam Nhà Bằng, chỉ cách một bức tường với khu kỷ luật. Tôi rất hài lòng với việc làm này của Bình Thanh, vì anh em tôi vẫn nói với nhau, kiếp tù là khổ chung, làm gì để an ủi và cho nhau một chút niềm vui cũng là điều nên làm. Khi làm như vậy, chính Bình Thanh cũng muốn mua nhân nghĩa và để mọi người quý mến tôi.

Trong lần chị ra thăm đó, tôi được gặp chị 15 phút. Tôi đã nói với chị thật nhiều về Bình Thanh là người em kết nghĩa. Tôi cũng nói là sẽ có ngày Bình Thanh tìm tới thăm chị dưới một hình thức ngụy trang nào đó. Vì từ khi gặp nhau, chúng tôi đã hoạch định một kế hoạch vượt ngục rồi.

Trong buồng, Trọng Loe thuộc diện bề dưới nên anh phải làm tất cả mọi việc như quét lau sàn, lấy nước, giặt giũ ở giếng cạn phía sau, lấy áo quần phơi vào buồng v.v... Nói chung, anh ta phải làm tất cả mọi việc trong buồng và lúc nào cũng để mắt nhìn Bình Thanh coi có điều gì anh làm cho Bình Thanh bực mình hoặc trái ý không. Mỗi lần Bình Thanh nói gì với anh, tôi thấy Trọng Loe mặt mày tái mét và run rẩy. Tôi không ngờ anh ta sợ Bình Thanh đến độ như vậy.

Tôi cũng không ngờ Bình Thanh lại quá khắt khe đối với Trọng Loe nên có lần tôi đã vô tình gây ra một việc làm tôi hối hận. Vì Trọng Loe biết Bình Thanh rất quý và tôn trọng tôi nên anh ta cũng biết phải đối xử với tôi như thế nào rồi. Nhưng một ngày kia, trong giờ mở cửa lấy thức ăn, tôi ra bể cạn phía sau giặt áo. Nửa chừng, Bình Thanh gọi tôi vì có một đàn em dưới làng leo qua tường vào khu kỷ luật và muốn chào tôi. Tôi nói với Trọng Loe đang xách nước kế bên:

  - Trọng Loe, giặt giúp anh cái áo rồi phơi trên tường rào nhá!

Tôi không nghe anh ta đáp lại nên nghĩ là anh đã nhận lời nên để áo đó và chạy ra phía trước. Việc Trọng Loe có vẻ lầm lì và không trả lời tôi làm tôi suy nghĩ. Hay là tôi đã làm gì cho anh ta buồn chăng? Nhưng thấy chẳng có chuyện gì, vì tôi đối với anh ta rất tốt. Chợt tôi nhớ lại trường hợp Sửu Què. Lúc đó, vì Bình Thanh coi trọng Khuân làm cho Sửu Què tức bực mới sanh chuyện. Bây giờ, có thể Trọng Loe bực tức vì Bình Thanh quý mến tôi chăng? Tôi cứ suy nghĩ điều đó cho tới lúc vào buồng. Trong lúc Bình Thanh đang chia thức ăn, tôi nhìn ra không thấy áo phơi đâu cả, mới hỏi Trọng:

  - Trọng, áo anh nhờ giặt, em phơi đâu không thấy?

  Trọng Loe trả lời với vẻ mặt đanh lại, tôi chẳng hiểu anh ta bực chuyện gì:

  - Anh không thấy em bận, lấy nước còn  không kịp sao?

Câu trả lời móc họng quá bất ngờ của Trọng Loe làm tôi nổi giận. Vì trên nguyên tắc, trong buồng này anh ta phải làm mọi việc cho tất cả mọi người, và bù lại Bình Thanh cho anh ta hai phần ăn mỗi bữa. Nhưng tôi không bao giờ cậy thế anh em hoặc dùng miếng ăn để sai khiến anh ta. Tôi đã hiểu và đau khổ quá nhiều với tâm trạng của một người tù thất thế. Tôi thương cho thân phận của Trọng Loe, một vợ 2 con, chẳng qua vào tù vì yếu đuối mà phải chịu lép vế dưới luật tôn ti trật tự của giới lưu manh. Những việc có thể làm tôi đều làm và không sai khiến Trọng như các anh khác trong buồng. Tôi nói với Trọng:

  - Trọng, sao em trả lời với anh như thế? Anh biết em bận lấy nước chớ. Nhưng nếu em không giặt áo giúp anh được em phải nói cho anh biết. Đàng này, em không nói gì cả, anh tưởng em đã nhận lời. Nếu em bận, anh sẽ giặt lúc khác có sao đâu!

Nãy giờ Bình Thanh đang chia thức ăn, vụt bật dậy như một cái lò xo, bước tới chụp cái gối bó bằng chiếu, rút con dao dấu trong đó ra. Con dao này chỉ bé bằng đầu ngón tay, làm bằng thanh sắt dài đập dẹp một đầu. Cầm dao trong tay, Bình Thanh quát:

  - ĐM mầy Trọng Loe, mầy quá đáng, mầy quá đáng! ĐM mầy, anh tao mà mầy còn coi không ra gì thì tao mầy coi ra gì? Cái loại chó như mầy không đáng sống trên đời.

Vừa nói, Bình Thanh vừa chụp ngực áo của Trong Loe quật nằm ngửa xuống bệ nằm, tay phải giơ cao con dao định đâm xuống. Thấy vậy, cả ba người chúng tôi vôi lao tới chụp lấy cánh tay Bình Thanh, nhưng anh ta quá khỏe, vung một phát hai anh kia văng ra. Tôi vẫn nắm lấy cánh tay Bình Thanh, cố gỡ con dao ra, miệng quát thật to:

  - Bình Thanh! Bình Thanh! Tha cho nó. Em nghe anh, em làm như thế anh mang tiếng ác!

Mặc dù trong cơn điên tiết nhưng nghe tôi nói thế, Bình Thanh chịu để cho tôi gỡ lấy con dao ra khỏi tay và dùng hai bàn tay chụp cổ Trọng Loe dựng đứng lên. Lần đầu tiên tôi thấy được cơn thịnh nộ của Bình Thanh. Đôi mắt Bình Thanh trở nên hoang dại như đôi mắt hổ. Hàm răng rít lại, cằm dưới đưa ra xa. Các bắp thịt trên người được vận dụng nổi lên cuồn cuộn. Hai tay nắm cổ Trọng Loe, lúc này như một hình nộm, nhấc lên cao và quát vào mặt:

  - ĐM mầy, nếu không vì anh tao, tao đã giết chết đồ chó đẻ mầy rồi! Mầy hiểu chưa? Mầy hiểu chưa?

Vừa hỏi, Bình Thanh vừa lắc thân thể Trọng Loe lúc này như một cây sậy. Sau đó, Bình Thanh xô anh ta ra xa, rồi chụp tay kéo thật mạnh lại trong lúc co cùi chỏ lên kê đúng giữa ngực. Tôi nghe một tiếng “ự” và thấy máu tươi từ miệng Trọng Loe trào ra, chảy lênh láng dưới sàn. Tiện tay, Bình Thanh xô Trọng Loe nằm sấp lên vũng máu. Một cảnh tượng thật kinh hoàng diễn ra trước mắt tôi. Cái cảnh lưu manh trị nhau trong tù!

Tôi đỡ Trọng Loe nằm lên bệ, lau chùi máu trên người và xức dầu cao cho anh ta. Qua cơn kinh hoàng, Trọng Loe gượng mở mắt ra, nhìn tôi và nói nhỏ:

  - Em cám ơn anh!

Tôi ngồi nhìn người bạn tù, cảm thấy hối hận và xót xa trong lòng, đáp lại:

  -Trọng, anh xin lỗi em, em dừng oán trách!

   Trọng Loe lắc đầu nhè nhẹ và nhắm nghiền đôi mắt.

Đêm đó, tôi trách Bình Thanh quá nặng tay với Trọng Loe khi tội nó không đáng bị như thế, và việc nó bị đòn nặng làm tôi cảm thấy buồn và hối hận. Bình Thanh trả lời:

  - Anh là một nhà tu nên lúc nào cũng nói tới chuyện thương người. Bọn lưu manh chúng em nó khác. Không thế, không trị được chúng nó đâu anh ạ! Anh biết không, chưa bao giờ em rút “gươm ra khỏi vỏ” mà xỏ trở vào nếu chưa dính máu. Chỉ trừ lần này vì anh mà em lỗi quy luật!

   Sau đó, Bình Thanh nhắc lại chuyện của Bùi Đình Thi mà tôi đã kể chi tiết cho Bình Thanh nghe. Cũng trong đêm đó, Bình Thanh nói:

  - Anh thấy đó, thằng Trọng Loe nó chỉ hỗn với anh thôi, em đã trừng trị nó như thế nào. Còn thằng Bùi Đình Thi, ĐM nó, cái số nó còn lớn! Nếu lúc này nó còn ở tù, trại này hay bất cứ trại nào khác, thì thật là cái phúc cho em! Nhưng em không giết loại người như nó, giết bẩn tay lắm. Em chỉ muốn xin nó cặp pha và đôi đũa.  Còn cất nó là mình vô tình làm phúc cho nó!

   Tôi trả lời:

  - Chuyện của Bùi Đình Thi đã ba năm qua. Lúc mới bị đòn, anh cũng điên tiết lắm nhưng bây giờ anh đã nguôi ngoai rồi. Anh đã tha thứ cho nó, vì tha thứ làm tâm hồn anh được thảnh thơi...

   Bình Thanh cướp lời tôi:

  - Sao anh lại nói thế? Tội nó làm sao tha thứ được anh?

   Tôi đáp:

  - Anh là một Linh mục. Anh là người rao giảng tình thương và sự tha thứ mà Chúa Giêsu đã dạy và làm gương!

   Bình Thanh nghe tôi nói thế cười bên tai:

  - Anh à! Ông Chúa của anh buồn cười thật. Chắc chắn là ông ta không thể là Chúa của em rồi!

  Tôi nghiêm giọng:

  - Bình Thanh! Anh không muốn em diễu cợt trong vấn đề này. Tôn giáo là vấn đề lớn của con người trên mặt đất. Anh muốn em phải có thái độ tôn kính khi nói đến tôn giáo. Bất kỳ một tôn giáo nào mình cũng phải tôn trọng cả. Em nói là em tôn trọng anh, tại sao em lại xúc phạm tới Thiên Chúa là Đấng anh tôn thờ! Em làm anh buồn.

   Bình Thanh nghe tôi nói thế, quay sang ôm vai tôi nói:

  - Anh Út! Em nói đùa thôi, em nói đùa cho vui. Em không có ý xúc phạm Đấng Bề Trên đâu. Có điều anh nói tới việc tha thứ cho thằng Bùi Đình Thi làm em khó hiểu quá. Khi nghe kể về hành động ác nhân của nó trong trại này và việc nó hành hạ anh, nghe qua em đã nổi điên lên rồi. Hôm anh vào buồng, khi em ôm thân thể chỉ còn bộ xương của anh làm em nhớ lại cảnh thằng Thi nó quần thảo anh làm máu em sôi lên. Bây giờ, anh lại nói chuyện tha thứ cho tên sát nhân đó. Thực em khó hiểu quá. Em là một thằng lưu manh, em không phải là một cha đạo như anh!

  - Nhưng em là em của anh.

  - Anh nói đúng, vì là em của anh nên em phải làm nhiệm vụ của em.

   Tôi hỏi lại:

  - Nhiệm vụ gì?

  - Nhiệm vụ báo thù cho anh.

   Tôi thấy Bình Thanh cứ loanh quanh vấn đề này nên nói:

  - Anh đã nói là anh tha thứ rồi thì còn thù gì nữa mà báo. Vả lại, báo thù thì chuốc oán thôi, ích lợi gì?

   Bình Thanh cãi lại:

  - Anh tha là chuyện của anh, còn ân oán giang hồ là luật của cuộc đời, của bọn lưu manh chúng em.

  - Thế em không nghĩ là tình thương và sự tha thứ mang lại hạnh phúc cho con người, còn ân oán giang hồ chỉ tạo thêm hận thù, ghen ghét làm khổ con người sao?

   Bình Thanh mỉa mai:

  - Anh Út! Anh đang giảng đạo cho em đấy à?

  - Đúng, anh đang giảng đạo cho em đây. Nếu anh không giảng cho em thì còn giảng cho ai, vì anh thương em quá là thương!

   Bình Thanh suy tư một lúc rồi nói:

  - Anh Út ơi! Lúc này anh chưa giảng đạo cho em được đâu. Em sanh ra để làm thằng lưu manh chứ đâu phải để làm con Chúa. Làm con Chúa mà bắt em tha thứ thì em không thể nào làm con Chúa được.

   Tôi nói rất nghiêm túc:

  - Bình Thanh à! Có rất nhiều người lúc đầu cũng nói như em, nhưng có một ngày rồi ơn Chúa đến để cải đổi tâm hồn họ và họ đã thành con Chúa.

   Bình Thanh nói nghiêm trang:

  - Em mong ngày đó đến với em.

   Tôi nắm lấy bàn tay đứa em tướng cướp nói nhỏ:

  -  Anh cầu nguyện cho em.

   Bình Thanh để tay trong tay tôi rất lâu, rồi nở nụ cười thật hồn nhiên, nói:

  - Em không ngờ đời em lại có người anh là một Linh mục!

   Tôi đáp ngay:

  -Anh cũng không ngờ đời anh lại có người em là một tướng cướp. Tướng cướp Bình Thanh.

   Hai anh em yên lặng một lúc, Bình Thanh thở dài nói:

  - Đời, c'est la vie!

  Tôi cười:

  - Em học ở đâu được câu tiếng Pháp đó?

   Bình Thanh trả lời:

  -Thế anh không thấy câu đó xâm trên lưng em à?

Tôi nhớ lại trên lưng của Bình Thanh có xâm hình Phật Bà Quan âm rất to, bên dưới là lư hương tỏa khói, kế đó là câu 'Đời, c'est la vie!' và bên dưới cùng là câu: “Khi tôi chết ai là người xây nấm mộ? Cỗ quan tài ai khóc tiễn đưa tôi?”

Trọng Loe nằm liệt mấy ngày rồi trỗi dậy lo các việc thường ngày. Trong thời gian anh nằm thì Bình Thanh quan tâm cho anh ta thức ăn, mà anh em dưới làng đã gửi lên.  


Kiếp sống giang hồ

Những ngày tháng cùm chung này là dịp để anh em tâm tình với nhau về cuộc đời mình. Bình Thanh tên thật là Đỗ Thanh Bình, năm đó 33 tuổi, quê ở Hưng Yên, gia đình khá giả. Bố là một Thiếu tá công an, mẹ là giáo viên. Lớn lên, Bình học rất thông minh, văn hay chữ tốt và rất khéo tay. Lúc trưởng thành, Bình rất khỏe mạnh, thân hình rắn chắc.

Về tâm tính, ngay từ bé đã bày tỏ chí khí hiên ngang, đôi lúc tới chỗ bạo động. Trong một lần, lúc chưa được 20 tuổi, Bình đã can thiệp cho một người bị công an chặn xe làm tiền trái phép. Cậu đánh anh công an máu me lênh láng nên bị bắt nhốt vào đồn. Bố nghe tin, tới xin lãnh về. Nhưng bố vừa tới nơi đã thấy mọi người rầm rộ đổ xô đi tìm, vì anh lợi dụng lúc người lích gác dẫn đi đại tiện bên ngoài, đã đánh gục anh lính gác và chuồn khỏi nhà giam của đồn công an. Từ đó, Bình không trở về nhà nữa, phiêu bạt khắp nơi, kết nạp băng đảng. Với tính khí bạo động và chống lại sự đè nén bất công của xã hội, triệt tiêu giới cầm quyền áp bức, bênh vực người cô thế, cộng với thân hình vạm vỡ và diện mạo khôi ngô, Bình được nhiều anh em nể phục và sớm trở thành khuôn mặt có tên tuổi trong giới giang hồ miền Bắc.

Vốn khéo tay và mưu lược, Bình tổ chức băng đảng, khi giả dạng bộ đội, khi giả dạng công an với tất cả mọi thứ giấy tờ, chứng minh thư còn “thật hơn là giấy thật!” Nhiều anh bộ đội, cả sĩ quan nữa, “nhảy dù” đi phép, đã phải chết cay chết đắng vì bị “Thượng úy Bình Thanh” xét giấy tờ và tóm được giải vào đơn vị nhốt. Có năn nỉ kiểu gì “Thượng úy Bình Thanh” cũng không tha!

Bình Thanh đứng đầu băng đảng cướp khi mới 26 tuổi và chuyên “mượn” các kho hàng, xe vận tải của quân đội, các hợp tác xã, kho hàng của xí nghiệp quốc doanh. Khi nào kẹt lắm hoặc vào mùa “giáp hạt” , mới phải hoạt động trên “bè dài”.  Cũng trong thời gian đóng giả làm trung úy chỉ huy một tốp lính lái xe vận tải mà Bình Thanh gặp và yêu một cô gái trong đoàn văn công tên là Hường. Bình Thanh kể lại tôi nghe câu chuyện tình bắt đầu rất nhẹ nhàng nhưng rồi càng lúc càng sâu, và cũng vì lụy với giai nhân mà cuộc đời của một tướng cướp lẫy lừng phải chịu đầy gian truân.  

Câu chuyện bắt đầu vào buổi sáng kia, trong một lần “Trung úy bộ đội” Bình Thanh và một anh bộ đội đi qua phố ở Hà Tĩnh và vào quán gọi thức ăn.  Bàn bên kia có mấy cô gái đẹp đang uống nước, trong đó có một cô chừng 20 tuổi, xinh nhất đám. Bên này, Bình Thanh gọi với sang tán tỉnh và làm quen. Trong khi đó, có năm anh bộ đội khác bước vào, kéo ghế ngồi bên cạnh bàn mấy cô gái. Có lẽ mấy anh bộ đội này người địa phương nên quen biết mấy cô. Hơn nữa, có lẽ ỷ vào số đông nên chặn ngang giữa đường và quay sang nói chuyện với các người đẹp, không coi ông “Trung úy” mặt còn non choẹt và anh bộ độâi lạ mặt kia ra gì. Tướng cướp Bình Thanh và tên lưu manh đàn em, không nói một tiếng nào, bước qua túm cổ mấy anh bộ đội đánh luôn.

Vì bị tấn công bất ngờ, không kịp chống đỡ, nên ngay trong giây phút đầu, hai trong năm anh bộ đội đã bị Bình Thanh đánh gục xuống bàn. Còn lại ba chọi với hai. Cuộc ẩu đả bất ngờ làm bàn ghế trong quán vỡ tan tành. Mấy cô gái vội rút vào trong đứng nhìn ra. Chỉ một lúc sau, ba anh bộ đội còn lại cũng nằm gục trong quán dưới những cú đòn ác hiểm của một tướng cướp mà lúc đó ai cũng tưởng là Trung úy bộ đội này. Bình Thanh bị tét môi, máu chảy khá nhiều, đưa cánh tay lên quệt máu. Xong xuôi, anh móc túi lấy một số tiền lớn đặt lên bàn, có ý thường sự hư hại bàn ghế trong quán, cúi nhặt nón cối đang nằm lăn lóc dưới sàn, bước tới nghiêng mình chào người đẹp đang giương đôi mắt bồ câu ra nhìn, rồi đội nón ra đi, trong lúc đó người đệ tử đứng ngoài cửa quán canh chừng. Chợt người đẹp có đôi mắt chim câu lên tiếng:

- Ông sao ngược!

   Bình Thanh nghe nói quay lại, không hiểu cô gái muốn nói gì. Lúc đó cô gái cười thật nhí nhảnh và chỉ vào cái mũ cối trên đầu Bình Thanh nói:

- Ông sao ngược! Anh đội mũ ngược rồi. Ông sao quay về phía sau kìa! Ông sao ngược kìa!

Thì ra trong lúc vội vã, hoặc là bị người đẹp “hớp hồn” khiến Bình Thanh không còn để ý gì chung quanh nên đội mũ lộn ngược ra sau mà không hay biết! Ba tiếng “Ông sao ngược” của người đẹp có đôi mắt chim câu trong một quán ăn buổi sáng hôm đó, đã trở thành những nốt nhạc đầu tiên trong bản tình ca vô cùng thắm thiết nhưng đầy nước mắt và đau thương giữa một giai nhân xứ Hà Tĩnh và một tướng cướp hào hoa.


Giai nhân và tướng cướp

Cuộc tình của hai người càng ngày càng thắm thiết mặn nồng. Bình Thanh nhiều lần đưa Hường ra thăm Hà Nội, nơi mà Hường chưa có dịp ra. Những lần đi xem phim, xem kịch, xem xiếc với người tình sĩ quan đẹp trai và hào hoa đã làm Hường vô cùng hãnh diện. Các loại quà cáp, áo quần, nữ trang mà Bình Thanh sắm sửa cho đã làm cho Hường vốn đã đẹp lại càng đẹp hơn.

Từ đó, cuộc đời người con gái trong ban múa của đoàn Văn Công xứ Hà Tĩnh chỉ toàn là màu hồng. Nhiều lần, bố mẹ nàng có đề cập tới việc tổ chức đám cưới cho Hường và Bình, nhưng Bình cứ tìm cách nói khéo là chờ thêm một thời gian. Thực ra, Hường chưa thấy cần thiết phải có đám cưới, một phần vì nghề nghiệp của nàng, phần khác, cuộc sống mặn nồng của một người tình đối với nàng đã quá hạnh phúc. Việc tổ chức đám cưới tất nhiên sẽ tới, nhưng còn phải một thời gian.

Thương cho Hường sống với người yêu gần hai năm trời mà không hề biết Bình Thanh là người sống ngoài vòng pháp luật, cứ tưởng là một sĩ quan trong ngành vận chuyển. Lúc nào cũng thấy có lính tráng đi theo, súng ống đầy người và lái những xe tải chở đầy hàng hóa, nhưng thường là chở về đêm.

Cho tới một đêm nọ, trăng sáng thật tỏ, sau khi lái xe về nhà Hường xong, Bình và cả bọn ra sông tắm trong lúc Hường làm cơm. Bữa cơm đã sẵn sàng nhưng chưa thấy Bình trở lên nên Hường ra bờ sông gọi Bình và lính tráng về ăn cơm. Bình đang tắm, nghe Hường gọi, cứ thế lội lên bờ, trong khi chỉ bận chiếc quần đùi và áo thun trắng mà chẳng để ý gì. Vì áo thun trắng ướt, dính sát vào người nên dưới ánh trăng, người Bình để lộ ra toàn bộ hình xâm trổ trên thân thể, cả trước ngực lẫn sau lưng đều xâm kín hết. Đây là sự vô ý rất tai hại vì trong suốt thời gian qua Bình đã chủ ý che giấu việc này bằng mọi cách và không bao giờ để cho Hường thấy lúc anh đang cởi trần.

Hường vô cùng kinh ngạc với sự phát hiện bất ngờ này, khi nhìn thấy thân thể Bình dưới ánh trăng sáng tỏ. Chừng đó, Hường mới té ngửa ra. Gạn hỏi mãi, cuối cùng, Bình đành phải thú nhận tất cả sự thật. Bình là một tướng cướp giả dạng sĩ quan ngành lái xe, vì bộ đội đâu được quyền xâm trổ như vậy. Hường khóc hết nước mắt về chuyện này! Bình Thanh đã quỳ xuống trước mặt Hường, xin Hường tha thứ:

  - Vì quá yêu em, anh không dám nói sự thật. Anh sợ mất em!

Hường đau khổ vô cùng khi biết Bình Thanh là con người sống ngoài vòng pháp luật, nhưng vì tình yêu đã quá mặn nồng nên từ đó, Hường đành phải chấp nhận là người tình của tướng cướp Bình Thanh. Một chuyện mà chỉ có mình nàng biết.
Hai năm sau, lúc Bình Thanh 28 tuổi, bị “bể” trong vụ đánh cướp cửa hàng lương thực tỉnh Hải Dương, anh bị bắt và bị kêu án 10 năm, giam ở một trại trong tỉnh Quảng Ninh. Hường từ miền Trung lặn lội ra thăm Bình trong tù ở tận vùng cực Bắc. Vào tù chưa đầy một năm, Bình Thanh vượt ngục. Công an theo dõi và biết anh có người yêu ở Hà Tĩnh, nên cử người kiên nhẫn theo dõi Hường và cuối cùng đã vây bắt được Bình Thanh ở Hà Tĩnh.

Lúc bị bắt, anh chống cự, bị người công an đánh nên anh tức khí, giật súng tháo chạy, công an đuổi theo nhắm bắn, anh quay súng lại bắn chết công an, nhưng chạy không thoát vì bị dân quân bắt được. Ra tòa, Bình Thanh bị  kêu án mới 15 năm, hủy án cũ. Từ đó tới nay, 6 năm qua, Bình Thanh đã vượt ngục tất cả 5 lần. Lần nào cũng thành công, nhưng rồi bị bắt lại vì tay anh hùng hảo hán này là người rất nặng nghĩa tình và lụy sắc đẹp của giai nhân! Khi chuyển về Thanh Cẩm, Bình Thanh còn mang bản án 15 năm vì mỗi lần vượt ngục lại bị tăng án. Nhưng Bình Thanh nói với tôi:“Án thì án thế thôi, có nhà tù nào giam hãm được em đâu anh”!

Nằm chung một thớt, cùng chung một cùm và nghe Bình Thanh kể lại chuyện cuộc đời mình và Hường, tôi quá thương cho người con gái. Mặc dù chưa biết mặt, nhưng lúc này, Hường đã là em dâu của tôi. Định mệnh đã đưa cô vào chiếc quán ăn năm nào và cũng định mệnh đã khiến cô phát ra ba tiếng “Ông sao ngược” trong lần đó để rồi đời người con gái đẹp phải dở dang vì yêu say đắm một tướng cướp. Và nếu như sau nầy, Hường biết được đoạn cuối cuộc đời của Bình Thanh như tôi đã biết thì nàng sẽ đau khổ tới đâu?  


Anh Hùng Náo

Khi tôi từ chối vào buồng 5 với mấy anh Trung Quốc để vào buồng 2 với Bình Thanh thì Phi Tàu, một anh Trung Quốc to lớn như đô vật, vào buồng đó thay tôi, và anh này cũng không phải là tay vừa. Có điều là anh ta thâm trầm và mưu lược, không quá lưu manh lộ liễu như Lý Đức Nghĩa. Có thêm Phi Tàu vào, số phận của anh tù ốm yếu Lưu Tùng càng bi thảm hơn. Tôi có nói tình trạng này với trật tự Bảy Chà, không biết anh Bảy có báo cáo lại cho cán bộ không vì vẫn chưa thấy đổi buồng cho Lưu Tùng đi nơi khác.

Càng ngày tôi càng thấy Lưu Tùng xiêu vẹo hơn và tôi biết là đã tới tình trạng báo động. Mấy anh Tàu kia kèm Lưu Tùng rất kỹ, sợ anh ta mách với cán bộ. Một bữa nọ, trong giờ mở cửa cho ăn, thấy Lưu Tùng ngồi phơi nắng một mình ở góc sân và chung quanh không có ai, vì mấy anh Tàu kia người thì lấy nước, người thì giặt giũ đàng xa, tôi bước tới chỗ Lưu Tùng ngồi và hỏi bằng tiếng Phổ Thông:

  - Lưu Tùng, có bị chấn cơm không?

   Anh ta nói nhanh:

  - Lỳ cớ, chiêu min! (Anh Lễ ơi, cứu mạng tôi!)

Tôi hỏi nhanh là cướp thế nào, anh cho biết hai ngày ăn được một bữa, còn 3 bữa kia bị cướp. Tôi nói lại việc này với anh Bảy Chà, anh nói đã báo cáo cho cán bộ rồi nhưng chưa được giải quyết. Thật ra thì cán bộ chẳng quan tâm gì tới việc những người tù với nhau.

Tôi về buồng nói với Bình Thanh và mấy anh em khác là nếu cán bộ không can thiệp thì mình phải ra tay cứu Lưu Tùng, nếu chờ cán bộ, chắc anh ta sẽ chết trước khi được giải quyết. Trong gần ba năm qua, tôi đã biết rõ về sự dã man, độc ác của ba anh tù Trung Quốc kia. Hơn nữa, hôm nay, chính tai tôi còn được nghe rõ là hai ngày Lưu Tùng mới được một bữa ăn, trong khi người khác ăn mỗi ngày hai bữa còn thấy đói.

Chúng tôi nói trước với anh trật tự  Bảy là chiều hôm đó, để tránh rắc rối cho anh, chỉ cần anh mở cửa các buồng xong, anh lánh mặt đi nơi khác chừng 15 phút. Trước đó, vào buổi trưa, tôi thấy Bình Thanh và 3 anh nữa, Bình Bưởi, Tiến Ngựa, Thịnh Capitaine ăn mặc chỉnh tề. Riêng Bình Thanh mang giày vải vào và chuẩn bị những chiếc vớ cẩn thận để làm “chưởng”. Trước giờ cho ăn chiều hôm đó, khi anh Bảy vừa mở cửa buồng, 5 phía sau, thì nhóm 4 anh nầy chạy bay về phía sau như toán lính đột kích, xông vô buồng 5. Một anh chận cửa, ba anh nhào vô đánh Phi Tàu, Lý Đức Nghĩa và Chu Vạn Hồi tơi bời hoa lá. Bình Thanh dùng “chưởng” quật cho Phi và Nghĩa nhừ cả người, máu me văng đầy tường. Chừng 15 phút sau, trật tự Bảy “biết được” chạy tới thì Phi Tàu và Nghĩa nằm như thây ma bất động! Chu Vạn Hồi bị đánh ít hơn còn gượng đứng dậy đi được. Ngay chiều hôm đó, buồng 5 được giải tán mỗi người một nơi, nhờ đó, Lưu Tùng kéo dài sự sống được vài năm nữa.

Bình Thanh và tôi ở chung buồng khá lâu cho tới đầu năm 1982. Lúc gần Tết, chúng tôi chuyển qua buồng 1 ở góc nhà. Buồng này chỉ có một cánh cửa thay vì hai cánh như các buồng khác. Trong buồng, ngoài tôi và Bình Thanh ra còn có Thịnh Capitaine và Minh Lùn.

Khi qua buồng 1, chúng tôi đã nghiên cứu hết mọi chi tiết và sẽ tổ chức vượt ngục trong dịp trước Tết. Nếu ra ngoài thành công, tôi sẽ ở miền Bắc với Bình Thanh một thời gian rồi xuôi Nam trước khi tìm đường ra nước ngoài. Nếu lần vượt ngục trước thất bại vì toàn là người miền Nam, lần này với Bình Thanh, người đã vượt ngục thành công 5 lần tại các trại miền Bắc, tôi cảm thấy rất yên tâm. Vả lại, Bình Thanh rất khỏe và rành rẽ đường đi nước bước ở miền Bắc.

Trong buồng, chúng tôi đã chuẩn bị hết mọi thứ cần thiết, nhất là giấy đi đường có đóng dấu ký tên hẳn hoi, chứng nhận là người của hợp tác xã đi lấy lá dong để gói bánh chưng cho hợp tác xã. Tôi phải khâm phục tài khéo của Bình Thanh trong việc tạo giấy tờ và con dấu giả. Trong buồng thì Bình Thanh đã làm một cái móng cùm giả, còn giống hơn móng cùm thật. Bình Thanh luôn miệng nói với tôi:

  - Ở những trại giam khác, kiên cố bằng mấy ở đây, em còn ra đi dễ dàng. Trại này chỉ là đồ chơi!

   Bình Thanh còn nói với tôi:

  - Ra khỏi đây rỗi đi với em, anh không phải bận tâm một điều gì cả.

Tôi đang vui mừng về viễn ảnh sẽ vượt ngục ra ngoài và sống phiêu bạt ở miền Bắc với Bình Thanh một thời gian, thì một buổi sáng kia, đúng 10 hôm trước khi chúng tôi hành động, tôi được gọi ra khỏi nhà kỷ luật trước sự bàng hoàng của hai anh em tôi.


Phút chia tay

Tôi được tha ra khỏi nhà kỷ luật sau gần ba năm cùm chân, từ tháng 5 năm 1979 tới tháng 2 năm 1982. Tôi từ giã Bình Thanh ra đi mà trong lòng buồn vời vợi. Cán bộ đưa tôi qua buồng 4 khu Kiên Giam “Nhà Bằng” sống với một số Linh mục. Tôi còn nhớ ở buồng 4 đó, có cha Cao Đức Thuận, Lê Đức Triệu, Khổng Năng Bao. Khi tôi rời buồng kỷ luật ra đi, Bình Thanh nhớ tôi nên lúc nào mở cửa cho ăn là Bình Thanh cũng nhảy tót và leo qua hàng rào vào buồng kiên giam thăm tôi. Trật tự Bảy chỉ đứng nhìn mà không cản vì anh biết là có cản cũng không được, nên Bảy đành phải đứng canh cán bộ cho Bình Thanh nhảy rào qua với tôi.

Các Linh mục khác trong buồng 4 khu kiên giam lúc bấy giờ, rất ngạc nhiên về tình cảm đặc biệt giữa tôi và Bình Thanh. Khi qua đây, tôi mới biết là trong dịp trước Tết năm đó, cha Nguyễn Huy Chương, một Linh mục lớn tuổi nhất mà chúng tôi gọi là Bố Chương, có cô cháu từ Sài Gòn ra thăm cho khá nhiều quà. Vì rất thương tôi, Bố Chương biếu cho cán bộ một ít quà và nói:“Báo cáo cán bộ! Tôi nghiệp anh Lễ bị cùm chân 3 năm rồi. Nhân dịp Tết xin cán bộ tha cùm cho anh Lễ được qua sống với anh em chúng tôi!”.

Cũng vì lời xin đó mà cán bộ tha cho tôi. Bố Chương cứ nghĩ là đã làm một việc rất tốt giúp tôi. Thực sự, đó là việc vô cùng tốt đẹp nếu lúc đó chúng tôi không có kế hoạch vượt ngục từ khu kỷ luật, và ngày thực hiện kế hoạch đã gần kề. Tôi tiếc vô cùng, nhưng cho đây cũng là ý Chúa.


Gạt lệ ra đi

Mười ngày sau, trong giờ cho ăn chiều, Bình Thanh leo rào qua ôm hôn tôi tha thiết và nói:“Đêm nay em đi, anh cầu nguyện cho em. Em đến chào tạm biệt, và có thể là vĩnh biệt anh!” Nói xong, anh em tôi ôm nhau khóc như mưa. Các người khác trong buồng ngồi nhìn ngạc nhiên không biết nguyên nhân tại sao. Nhưng làm sao tôi nói được lý do.

Trước đó, tôi đã cẩn thận dặn Bình Thanh, chuyến này về đừng bao giờ tìm cách liên lạc với Hường, kẻo lại bị sa lưới như những lần trước. Hãy vào Nam gặp chị Hai của tôi trước và các việc liên hệ với Hường về sau này chị Hai sẽ cho ý kiến và thu xếp giúp cho. Tôi cũng giao cho Bình Thanh giữ một tấm hình gia đình của chị dâu và các cháu mà chị Hai mang ra trong lần thăm nuôi vừa qua. Đây là bằng chứng để nếu Bình Thanh có tới thăm, chị sẽ biết Bình Thanh là ai, vì mặc dù tôi đã nói với chị về Bình Thanh nhưng chị chưa biết mặt người em này bao giờ.

Tôi cũng cẩn thận dặn mật mã để Bình Thanh viết thư vào trại cho tôi, nhưng chỉ viết khi vào miền Nam, vì viết từ miền Bắc rất dễ bị nghi ngờ. Tôi dặn là trong vòng ba tháng mà chưa vào Nam được thì phải viết thư vào cho tôi biết. Nếu sau ba tháng mà không có tin gì từ miền Nam hoặc miền Bắc thì coi như Bình Thanh đã chết. Tôi cũng đã đặn dò tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra để giúp Bình Thanh về cuộc sống trong Sài Gòn mà Bình Thanh chưa bao giờ vào. Cuộc chia tay này cảm động nói không nên lời.

Đêm đó, tôi nằm trong buồng 4 khu kiên giam, không chợp mắt một chút nào. Có lúc tôi ngồi đọc kinh lần chuỗi, kêu xin Chúa và Đức Mẹ phù hộ cho Bình Thanh. Tới nửa đêm vẫn chưa nghe tiếng súng báo động, tôi rất mừng vì biết giờ nào Bình Thanh sẽ ra đi. Thời gian trôi qua đã lâu nhưng vẫn chưa nghe tiếng súng. Tới gần sáng, vẫn chưa nghe. Tới giờ điểm danh cũng chưa nghe tiếng súng. Tôi thầm thì tạ ơn Chúa và biết là Bình Thanh đã thoát. Tới giờ điểm danh sáng, tôi ngồi trong buồng nhìn ra, thấy trật tự Bảy hớt hải chạy và báo cáo cán bộ có tù vượt ngục. Có tiếng cán bộ chạy lên rần rật, sau đó là 3 tiếng súng báo động. Bấy giờ trời đã sáng tỏ. Tôi nói ra thành tiếng “Tạ ơn Chúa!”

Chiều tối hôm đó, tôi thất kinh khi nghe tiếng ồn ào bên khu kỷ luật, tiếng đánh đập, tiếng la hét. Sau đó, anh Bảy cho biết là Minh Lùn, trong nhóm vượt ngục với Bình Thanh, bị bắt lại, đưa về trại và bị đánh đập tàn nhẩn và chết trong khu kỷ luật. Còn Bình Thanh và Thịnh chưa nghe tin tức, chắc là thoát rồi!

Quãng hơn tháng sau, tôi được thư chị Hai tôi. Sau khi kể chuyện nhà cửa, chị viết: “Chị quên nói với em là tuần trước cháu Hường trên đường đi công tác ghé qua nhà thăm chị. Thấy ba người lạ mang súng vô nhà chị sợ! Chừng nhận ra Hường chị mừng lắm! Bây giờ nó là trung úy rồi. Nó bảo lâu quá mới trở lại nên không còn nhớ đường. Phải hỏi người ta chỉ vào nhà mình. Ba người ở lại ăn cơm rồi đi. Hường nói tuần sau nó sẽ lên Thành Phố tìm thăm Thu.  Nghe nói bây giờ Thu đã dời nhà về Hố Nai.” Đọc thư chị, tôi mừng suýt nữa la lên. Tôi mừng vô hạn, như vậy là Bình Thanh đã thoát vô Nam, đã gặp chị tôi và sẽ lên Hố Nai tìm người quen mà chỉ có chúng tôi mới biết.

Chừng vài tháng sau, tôi nhận một thư của người cháu đi bộ đội tên Bùi Thanh Hường ở Sài Gòn gửi ra thăm. Hường có nhắc lại lần xuống thăm chị tôi ở Vĩnh Long. Hường kể lúc đầu chị Hai không nhận ra, chị tôi sợ mất hồn! Nhất là khi thấy súng ống, đạn dược. Hường cho biết sau đó lên tìm người bạn ở Hố Nai và có cho ít quà lưu niệm. Hường nói tiếp trong thư là:“Có lẽ cháu sẽ qua Campuchia một thời gian, và sẽ viết cho chú khi thuận tiện”. Tôi đọc thư mừng lắm, nhưng chữ viết không phải của Hường, vì tôi còn lạ gì nét chữ đẹp như rồng bay phương múa của Bình Thanh.

Đó là thư đầu tiên và cũng là thư cuối cùng, vì từ đó, tôi không còn nghe thêm gì về Bình Thanh nữa. Điều này làm tôi rất hoang mang. Nếu không liên lạc với tôi, ít ra Bình Thanh cũng sẽ liên lạc với chị tôi, nhưng tuyệt nhiên không hề có tin tức gì.  Sáu năm sau, tức là năm 1988, khi rời trại Thanh Cẩm về lại trại Nam Hà, tôi vẫn không nghe thêm một chút gì về Bình Thanh, một tướng cướp ngang trời dọc biển trở thành người em kết nghĩa của tôi, và tôi vô cùng thương mến.

Trại tù Thanh Cẩm nằm sâu trong vùng rừng núi âm u của tỉnh Thanh Hóa, mà tôi đã sống ở đó 10 năm, đã dệt thành phần lớn kỷ niệm đời tù của tôi, trong đó, tướng cướp Bình Thanh là một dây tơ thật đẹp.

12

 

Ngày Trở Về


 


                                                                 
Tính tới tháng Giêng năm 1988, tôi đã bước vào năm tù thứ 12, trong đó có 11 năm lê lết qua các trại tù khắc nghiệt miền Bắc.

Cho tới thời gian này, số tù nhân miền Nam ở rải rác trong các trại miền Bắc không còn bao nhiêu. Ngoại trừ những người đã bỏ mình vì khổ ải, một số đông đã được tha về và một số khác đã chuyển vào các trại trong miền Nam. Có những người được về khá sớm ngay từ năm 1980. Từ đó, mỗi năm đều có những đợt phóng thích, khi nhiều khi ít, năm nào cũng có. Ngoài những trường hợp được tha lẻ tẻ và bất ngờ, mỗi năm thường có những mốc thời gian để các tù nhân chúng tôi mong đợi và bàn tán. Những dịp để hy vọng đó là Tết Dương lịch, Tết Âm lịch, lễ Lao Động 1 tháng 5 và ngày Quốc Khánh 2 tháng 9. Trong năm còn có đợt tha nhân dịp sơ kết và tổng kết, nhưng không nhiều lắm.
 

Hát lâu chầu mỏi

Thời điểm đó tôi đang ở trại Thanh Cẩm. Trại này cũng đã có một số rất đông được về và một số chuyển vào trại Hàm Tân trong Nam. Con số tù miền Nam còn lại trong trại Thanh Cẩm không tới 200 người, trong đó có 29 Linh mục. Nếu so sánh với lúc đông nhất vào năm 1979 thì lúc này còn lại không tới một phần ba. Các Linh mục ở khu kiên giam mới xây, cũng nhà nóc bằng rất kiên cố, nằm hướng ra cổng trại. Khu nhà này chia ra 6 buồng liền nhau, có tường cao ngăn cách và có cổng vào riêng biệt. Trước mỗi buồng có khoảng sân nhỏ tráng xi-măng sạch sẽ và có bể nước dùng chung cho 2 buồng giáp nhau.

Bên trong cửa sắt của mỗi buồng là lối đi rộng 1 thước từ cửa cái dẫn vào tới vách bên trong, chia ra một bên là nhà cầu có cửa vào và một bên là bệ nằm bằng xi-măng cao khoảng 60 phân, đủ chỗ cho 6 người nằm sát cạnh nhau. Mỗi buồng có một cửa sổ khá rộng chắn song sắt to, nhưng không to bằng song sắt nhà kỷ luật. Cửa sổ này đủ rộng để cho buồng thoáng khí và cũng dễ dàng cho cán bộ nhìn vào kiểm soát. Trên nguyên tắc, khu vực này “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, nhưng trên thực tế không quá khắt khe như vậy.

Về phần mấy người tù Trung Quốc đang ở trong khu Nhà Bằng, tức là khu Kiên Giam cũ. Những người tù ngoại quốc này đã bị giam hơn 15 năm rồi. Lúc đầu, nhóm của họ khá đông, nhưng dần dần một số chết bệnh, một số chết đói, có mấy anh vượt ngục bị bắn chết và bây giờ chỉ còn lại 10 người

Khi tôi rời khu kỷ luật qua sống bên kiên giam, và Bình Thanh vượt ngục di rồi, trại Thanh Cẩm còn xảy ra hai vụ án mạng khác nữa,  nhưng toàn là bên hình sự. Vụ thứ nhất xảy ra ở khu kỷ luật khi Yên Con dùng tảng đá to đập đầu Chiến Chàm chết ngay tại chỗ trong giờ phát thức ăn trưa, lúc Chiến Chàm đang ngồi săn sóc đám rau muống anh trồng trước sân khu kỷ luật. Sau đó, Yên Con bị kêu án tử hình, nhưng một thời gian sau giảm xuống còn chung thân.

Vụ khác xảy ra dưới làng sau đó ít lâu, khi Minh Con đâm Toản Quảng một nhát thấu tim, chết không kịp trối. Anh Toản chết oan chỉ vì gia đình mới tiếp tế cho ít lạc nên để trong hòm khóa lại.  Đêm đó, Minh Con mò tới lấy trộm, cầm con dao nhọn đang nạy hòm. Toản Quảng nghe động thức dậy, ôm chầm lấy Minh Con từ phía sau. Minh Con bị tóm bất ngờ nên đâm ngược ra sau để giải vây, không ngờ thọc mũi dao nhọn đúng ngay vào tim Toản làm anh ta chết ngay tức khắc! Sau đó, Minh Con bị xử trong một phiên tòa thiết lập ngay trong trại, kêu án 18 năm. Cả ba anh Chiến Chàm, Yên Con và Minh Con đều có ở chung buồng với tôi một thời gian trên khu kỷ luật, trong đó Minh Con sống chung buồng với tôi lâu nhất. Minh Con người nhỏ bé, lúc đó khoảng 18 tuổi, nhưng đã là lưu manh chuyên nghiệp từ năm 12, ăn cắp lẹ như sóc và đi Trường Bộ, tức nhà tù Thiếu niên phạm pháp, từ năm 13 tuổi.

Luật lệ trong tù tới lúc này cũng khá co giãn, không còn khắt khe như những năm đầu. Người đời thường nói “hát lâu thì chầu mỏi”. Hoàn cảnh trong tù cũng vậy, lúc đó, chúng tôi nhận thấy rõ tâm trạng mỏi mệt bao trùm trại Thanh Cẩm. Không phải chỉ những người tù cảm thấy mỏi mệt mà ngay cả những cán bộ làm việc trong tù cũng vậy.

Bầu khí căng thẳng, sắt máu, giáo điều và đầy hận thù của những năm đầu khi chúng tôi mới được chuyển ra Bắc không còn nữa và cơn sốt thời cuộc sau khi cộng sản chiếm miền Nam đã giảm cường độ một cách rõ rệt. Một điều ai cũng thấy là bầu khí trong trại tù lúc này dễ thở hơn rất nhiều so với cái thời hắc ám của 10 năm về trước.

Cỏ dại được mù

Nhớ lại thời gian mới tới trại này 10 năm về trước, tôi vẫn còn cảm thấy lạnh người và khó hiểu. Tại sao vào thời kỳ đó, lòng dạ con người trở nên kinh khủng như vậy? Hay là lòng hận thù giữa người với người giống như một thứ dịch dễ lây và nhiều người bị nhiễm? Tại sao vào những năm  đó, trại Thanh Cẩm lại hội tụ nhiều con người hắc ám như thế? Những người có nhiệm vụ áp đảo và trừng trị tù như cán bộ trực trại, cán bộ an ninh, cán bộ võ trang, hoặc những người thay mặt cán bộ để áp đảo tù nhân như các anh trật tự thì không nói làm gì. Đàng này những anh tù được chỉ định làm các việc chuyên môn cũng hắc ám không kém, như anh văn hóa, và cả anh y tá nữa!

Thời Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát làm trật tự, trong trại  có một anh tù làm y tá tên Hiền. Vai trò y tá phải hiểu là để xoa dịu sự đau khổ thể xác cho tù nhân, nhưng anh y tá tên Hiền này lại chẳng “hiền” chút nào. Anh thật là ‘‘dữ ’’ và ác đức nên được anh em tặng cho danh hiệu “lương y như đao phủ’’ thay vì ‘‘lương y như  từ mẫu’’ như người đời thường hay nói! Riêng anh tù làm văn hóa tên là Thuật thì phải nói là quá quắt.

Chức vụ gọi là văn hóa tức là lo việc phát báo chí, thư từ, quà cáp, giúp cán bộ trong các buổi học tập, nhưng anh văn hóa Thuật này là một biệt lệ. Lúc bấy giờ, Thuật còn rất trẻ, có lẽ chừng 26 tuổi (năm 1979) là cùng. Nghe nói anh là một sinh viên bị bắt vì tham gia phong trào Phục Quốc. Người Thuật thấp bé con con, mặt thỏn, mũi nhọn, đi chân chữ bát, nói năng sắc bén. Thời kỳ đó tôi đang bị cùm chân trong nhà kỷ luật sau vụ vượt ngục bất thành. Tôi ở trong buồng kỷ luật cùng với 4 người khác. Ban ngày chúng tôi được tháo cùm.

Một buổi sáng nọ, trước giờ cho ăn, tôi đứng bên trong cửa sổ với một anh bạn khác. Hai người chúng tôi trao đổi câu chuyện có mùi “phản động”. Trước lúc nói chuyện, tôi đã cẩn thận nhìn ra ngoài cửa sổ, thường thì cán bộ và trật tự chỉ lên trong giờ cho ăn, và lúc này chưa tới giờ ăn. Khi đang mải mê câu chuyện, tự nhiên tôi có linh tính như có người bên ngoài đang nghe lóm, nên dí mặt vào song sắt nhìn ra ngoài lần nữa cho yên tâm. Vì tường nhà kỷ luật rất dầy và cửa sổ lại hẹp, chừng 50 phân vuông nên tầm nhìn ra ngoài rất hạn hẹp.
 
Khi tôi dí sát mặt vào song sắt nhìn ra thì vừa thấy Thuật đang đứng yên, dựa lưng vào tường. Anh ta đứng nép sát lưng vào vách tường, sát bên cửa sổ. Anh ta đã đứng đó tự bao giờ và nghe tất cả những gì chúng tôi nói. Bị bắt quả tang, tôi ngượng ngùng làm sao! Khi vừa trông thấy tôi, Thuật tiến lại đứng ngay bên ngoài, chỉ cách tôi bằng một song sắt. Trong lúc tôi đang bối rối và ngượng ngùng, chưa biết phải làm gì thì Thuật lên tiếng, giọng nhẹ nhàng và sắc bén:

   - Hai anh nãy giờ nói cái gì?

    Chúng tôi yên lặng, chưa biết trả lời sao thì Thuật lên tiếng nói tiếp:

   - Anh Lễ, nãy giờ anh nói cái gì? Tiếp tục nói đi. Tôi nghe anh nói nhiều lắm, mà sao bây giờ anh câm? Nói đi! Nói nữa đi!

    Tôi thấy tình thế này quái đản và trơ trẽn quá, nên rời chỗ đứng, định bước vào phía trong, nhưng Thuật lên giọng gọi lại:

   - Anh Lễ, đứng đây, anh không được đi! Anh bước lại đây, tôi muốn nghe anh nói!

    Lúc đó, vừa xấu hổ, vừa bực mình, vừa điên tiết trước thái độ quá quắt của anh tù trẻ con này, nên tôi bước lại cái thớt nằm bằng xi măng  và ngồi xuống, không thèm quay lại cửa sổ. Thái độ này của tôi làm Thuật nổi giận nên nói to vọng vào:

   - Anh Lễ, lại đây! Hay anh muốn tôi xuống gọi cán bộ lên?

Tôi chợt suy nghĩ rất nhanh, nếu không trở lại cửa, anh ta sẽ bực tức xuống gọi cán bộ hoặc trật tự lên, chắc chắn tôi lại bị một trận đòn nữa, trong khi lần hành hạ vừa rồi làm tôi chưa đi đứng vững. Nghĩ như vậy, tôi bước trở lại cửa và đối diện với Thuật. Anh ta từ bên ngoài chỉ ngón tay gần đụng vào trán tôi, nghiêm mặt nói:

  - Các anh hãy liệu thần hồn! Vào đây rồi hãy bỏ tư tưởng phản động đi nhá. Anh ăn đòn như thế vẫn chưa đủ hả anh Lễ?

Tôi ngượng ngùng đứng lặng yên như trời trồng. Sau câu đó, Thuật dừng lại một chút, đoạn tiếp tục:

   - Lần này tôi tha cho, nhưng hãy liệu thần hồn, tôi bắt được mấy anh nói chuyện phản động một lần nữa thì đừng có trách.

Nói xong, anh ta bỏ di. Chúng tôi quay lại chỗ nằm, nhìn nhau thinh lặng. Riêng tôi cảm thấy như máu đang sôi sùng sục lên trong quyết quản làm mặt tôi nóng bừng. Nhưng trong hoàn cảnh đó đành phải cắn răng chịu đựng.
 

Tình thế đổi thay

Những năm về sau này cuộc sống chúng tôi trong trại Thanh Cẩm dễ thở hơn. Sau những đợt tù chính trị miền Nam được tha về hoặc được chuyển vào Nam, có một số tù hình sự được bổ sung vào và con số tù nhân trong trại lúc nào cũng ở con số chừng 400 người. Khi trật tự Bảy Chà được tha về, thì một anh tù hình sự tên là Tơ lên thay thế làm trật tự. Anh trật tự hình sự này cao to và rất khỏe. Đám tù hình sự rất kiêng nể anh. Mặc dù vậy anh đối xử với số tù chính trị còn lại và nhất là đối với các tù nhân Linh mục rất tử tế và kính nể. Ngược lại chúng tôi cũng giúp anh về nhiều mặt vì lúc đó chúng tôi nhận được quà tiếp tế từ miền Nam tương đối dễ dàng.

Chúng tôi gọi anh trật tự Tơ bằng cái tên thân mật là“Jimmy” theo cách thức trong báo viết tên của vị tổng thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là ông Jimmy “Ca-Tơ “. Điều đáng nói là suốt thời gian 4 năm từ 1977 tới 1981, ông Jimmy” Ca-Tơ “ làm tổng thống Mỹ, tôi chỉ biết tên ông trên mặt báo nhưng chưa bao giờ được trông thấy hình của ông nên cũng chẳng hình dung được con người ông ra sao!
Tính từ năm 1979, hai năm sau ngày tôi ra Bắc, đến nay đã gần 10 năm qua, tình thế lúc nầy đã khác đi rất nhiều. Tù nhân chúng tôi được liên lạc với gia đình, được có người nhà trong Nam ra thăm nuôi và được nhận quà gửi ra theo đường bưu diện. Cuộc sống trong tù khá hơn và những người có gia đình khá giả hay có bà con nước ngoài tiếp tế thì dư thừa, sống xa hoa trong trại. Trong khi đó, các cán bộ vẫn thiếu thốn, nghèo xơ nghèo xác. Dần dần, họ hiểu ra những công thức chính trị rỗng tuếch không làm cho bao tử người ta đầy, không mang lại cơm hai bữa, không mang lại áo quần, thuốc men cho cuộc sống hàng ngày.

Nếu cả nước lúc đó đang lâm vào tình trạng đói khổ, thì các các bộ làm việc trong các nhà tù là những người thiệt thòi nhất. Trong tình thế đó, đồng tiền lại ngoi lên chiếm vị trí cố hữu ngàn đời của nó, như lối định nghĩa đồng tiền của mấy anh tù hình sự bằng mấy câu có vần như sau:“Đồng tiền là tiên là phật,là sức  bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là đà danh vọng, là lọng che thân, là cân công lý. Đồng tiền hết ý!”

Và đồng tiền “hết ý” thật! Chính đồng tiền đã trở thành cây cầu bắc ngang lằn ranh giữa cán bộ và tù nhân để tạo nên mối tương quan hai chiều. Trong mối tương quan này, cả hai cùng có lợi. Vào những năm cuối cùng ở trại Thanh Cẩm, các anh em Linh mục chúng tôi sống chung nhau trong một khu vực ngăn cách với số tù nhân khác. Lúc bấy giờ có một số giáo dân xứ Bắc Hải ở khu vực Ngã Ba Ông Tạ trong Nam vì thương hoàn cảnh các Linh mục bị tù quá lâu nên đã tự động quyên góp và tổ chức gởi quà cho chúng tôi theo đường bưu điện. Nhờ đó cuộc sống của nhóm Linh mục không còn phải thiếu thốn như các năm đầu.

Chúng tôi không hề biết mặt những ân nhân hiếm có này, chỉ biết họ qua các tên đề ngoài những gói quà và các thư ngắn kèm theo. Dần dần chúng tôi trở nên thân thiết với các bà các cô trong nhóm ân nhân đó. Trong hoàn cảnh ấy chỉ có các phụ nữ mới có thể làm các việc như thế mà không sợ bị dòm ngó, theo dõi. Tôi vẫn nhớ và biết ơn những chị em trong nhóm này như các chị Đinh Thị Thập, Nguyễn Thị Đương, Cát Thị Kim Chi, hai chị em Trần Thị Nhị và Trần Thị Kim Loan, Ông Bàø Kim Tâm và một số người khác nữa mà tôi không nhớ tên.
Ngoài ra lúc đó anh em Linh mục trong tù cũng nhận được quà tiếp tế của Thầy Chiểu, Cha Vũ Khoa Cử, Cha Phạm Hữu Nam tù Sài Gòn và của cha Mai, thay mặt đức Hồng Y Trịnh Văn Căn ở Hà Nội gởi giúp chúng tôi. Cha Phạm Hữu Nam ở tù chung với chúng tôi nhưng được về sớm. Khi về Sài Gòn, cha Nam đã cùng với người cháu là cô Nguyễn Thị Hải rất tận tình lo gởi quà giúp cho số Linh mục còn lại trong tù.

Các Linh mục, tuy là ở khu kiên giam nhưng nhờ sựï giao tế quà cáp với cán bộ, nên thỉnh thoảng chúng tôi cũng tiếp xúc được với anh em trong các buồng khác. Nhờ đó, chúng tôi có thể giúp đỡ về vật chất và tinh thần cho một số người cần giúp, nhất là những người sống trong trại lâu năm mà không có thân nhân, đặc biệt là nhóm tù hình sự. Vì sự giúp đỡ rộng rãi đó mà anh em trong trại lúc bấy giờ, mỗi khi nhận được quà, thường gọi đùa là “Vatican viện trợ!”
Lúc đó chúng tôi cũng được phát báo để đọc hàng ngày, tiếng trong tù gọi đọc báo la “học tập báo chí”. Chỉ có hai tờ báo là tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân. Tôi để ý thấy lúc bấy giờ người ta dùng hai chữ nhân dân khá nhiều. Cái gì cũng nhân dân, tòa án Nhân Dân, Công an Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân Dân. Có điều tôi không hiểu và vẫn còn thắc mắc hoài là tại làm sao người ta lại không gọi Ngân Hàng Nhân Dân mà lại gọi là Ngân Hàng Nhà Nước!
 
Tin tức báo chí thật ra chẳng có gì đáng chú ý. Vì là cơ quan tuyên truyền của đảng nên các bài báo phần nhiều nặng nề chính trị đầy những lý luận khô khan và nặng nề. Báo Quân Đội Nhân Dân thì thỉnh thoảng còn có các bài viết về khoa học, lịch sử, y học...Còn báo Nhân Dân thì  toàn chính trị là chính trị.  Cầm tờ báo lên chẳng biết đọc cái gì!

Nơi trang nhất của báo Nhân Dân bao giờ cũng đăng tin tức về thành quả nông nghiệp. Thành tích thu hoạch các vụ Hè Thu, vụ Đông Xuân của hợp tác xã này hoặc hợp tác xã nọ là bao nhiêu tấn thóc. Bao giờ các vụ thu hoạch này cũng vượt chỉ tiêu. Có những hợp tác xã vượt chỉ tiêu thấy mà phát sợ. Đọc tin tức nông nghiệp trên báo Nhân Dân nhiều lúc tôi đâm ra lo. Nếu tình trạng bội thu này kéo dài mà nhà nước ta  không lo xuất khẩu gạo cho nhanh thì đất nước ta lấy kho lẫm đâu mà chứa cho hết số thóc vượt chỉ tiêu! Có lần chia sẻ sự lo lắng này với một anh bạn tù, anh mỉm cười nói nhỏ vào tai tôi: “Anh đừng có lo, trong tờ báo Nhân Dân này chỉ có cái ...địa chỉ tòa soạn là in đúng thôi!”

Điểm đặc biệt của báo Nhân Dân là rất ít đăng hình ảnh. Chỉ trừ một bức hình nho nhỏ nơi trang nhất, hoặc cùng lắm là có thêm một hình nhỏ hơn ở cuối trang, còn lại kín cả tờ báo toàn chữ là chữ!  Bình thường cầm tờ báo lên đã chóng mặt với cái rừng chữ, nhưng nếu vào các dịp đại hội đảng thì chữ nghĩa càng nhiều và nhỏ hơn! Tôi nhớ những lần tờ báo đăng nguyên văn bản báo cáo chính trị của Tổng Bí Thư  đảng. Nhìn bản báo cáo chính trị trải dài hết trang này qua trang khác của tờ báo làm tôi rợn người.

Có lần tôi cũng quyết tâm đọc thử một lần coi người ta nói cái gì trong bản báo cáo chính trị đó mà chữ nghĩa tràng giang đại hải như vậy. Sau khi đọc mỏi cả mắt tôi mới thấy người ta viết thật nhiều nhưng ý chẳng được bao nhiêu. Tôi chợt nghĩ thương cho các đại biểu ngồi trong hội trường phải nghe cho hết bản báo cáo chính trị này, thỉnh thoảng còn những chỗ dừng lại để vỗ tay theo người đọc nữa, chắc cũng mệt không kém gì tôi đang ngồi đập đá dưới nắng mùa hè trong trại tù  Thanh Cẩm trong ngày có gió lào!

Báo Quân Đội Nhân Dân dễ đọc hơn, vì còn có những bài thuộc phạm vi nghiên cứu hoặc tin tức thời sự kèm theo, với khá nhiều hình ảnh. Qua đó chúng tôi biết một phần nào tín tức bên ngoài. Cũng trong báo Quân Đôi Nhân Dân này có lần tôi đọc loạt bài đăng làm nhiều kỳ về “tên phản động Võ Đại Tôn” từ nước ngoài về cố ý xâm nhập biên giới để chống phá chánh quyền cách mạng đã bị “quân đội Nhân Dân ta “ bắt giam và xét xử tại Hà Nội” vào năm 1982. Bài báo kèm theo khá nhiều hình ảnh của “tên phản động Võ Đại Tôn” lúc bị xét xử và đưa ra trình diện với báo chí trong và ngoài nước tại Hà Nội. Dĩ nhiên lúc đọc tin đó tôi rất quý mến và cảm phục tinh thần bất khuất của Đại tá Võ Đại Tôn.

Cũng có thời gian tôi đọc loạt bài rất dài nói về cái chết của ”tên phản động Hoàng Cơ Minh” kèm theo với nhiều hình ảnh về “tội ác phản cách mạng” của nhóm Mặt Trận do Hoàng Cơ Minh cầm đầu xâm nhập phá hoại...Dĩ nhiên là tôi phải đọc ...giữa hai hàng chữ.  Khi đọc các tin tức liên quan tới các ông Võ Đại Tôn và Hoàng Cơ Minh đó, tôi cảm thấy vui và nghĩ rằng ít ra trong thời buổi lúc bấy giờ còn có được những con người như vậy.
 
Cũng nhớ lần tôi đọc thấy trong báo Quân Đội Nhân Dân đăng bức hình của ông Nguyễn Cao Kỳ, mang kính đen, đang chen chúc giữa đám đông cố ôm càng máy bay trực thăng ở tòa Đại Sứ Mỹ để di tản khỏi Sài Gòn trong một ngày cuối tháng tư năm 1975. Tôi không biết đây là hình thật hay người ta dũng kỹ thuật ghép hình để cố ý bêu xấu ông. Bên dưới tấm hình in những lời lẽ có tính cách sỉ nhục ông Kỳ khá nặng nề. 
  
Tù nhân trại Thanh Cẩm, năm nào chúng tôi cũng có một đợt học tập chính trị trên hội trường nằm tận ngoài cơ quan. Những lớp này được tổ chức chung cho cả hình sự lẫn tù chính trị, có một cán bộ tuyên huấn từ trung ương về nói chuyện và thường thì năm nào cũng một cán bộ đó. Vì cứ bổn cũ soạn lại nên chúng tôi thuộc gần như nằm lòng những gì ông sắp nói. Trong các bài học tập chính trị, năm nào ông ta cũng kể lại câu chuyện ông đi thăm nước Kuwait, là nước có nhiều dầu hỏa, và thấy trẻ con xứ đó chơi đánh đáo bằng những đồng tiền vàng. Ông nói mỏ dầu nước ta còn lớn hơn mỏ dầu ở Kuwait, và sẽ có lúc trẻ con Việt Nam sẽ chơi đánh đáo bằng tiền vàng.

Vì năm nào ông ta cũng kể lại câu chuyện đó nên mỗi lần được thông báo có đợt học tập chính trị, chúng tôi bảo nhau: “Chuẩn bị sắp có đợt...đánh đáo!” Và đúng y như vậy, ông cán bộ này nói một thôi một hồi rồi thì bắt đầu...đánh đáo bằng tiền vàng. Cho tới một lần kia, trong lúc ông ta đang say sưa...đánh đáo thì giữa hội trường vang lên một giọng nói thật to, át cả tiếng cán bộ tuyên huấn:

   - ĐM!Ăn sắn mà nói phét!

Nghe câu đó, cả hội trường cười rần, nhưng chỉ có tù hình sự dám cười, còn tù chính trị chúng tôi cứ phải giả vờ như không nghe! Người cán bộ tuyên huấn đang...đánh đáo bị mất hứng, dừng lại, trong khi cán bộ quản giáo đội hình sự đứng lên quát to:
 
  - Anh nào ăn nói bố láo thế hả? Anh nào? Anh nào?

Khi biết là một anh tù thuộc diện lưu manh đã nói, cán bộ chỉ mắng qua loa rồi bỏ qua. Nếu là tù chính trị chúng tôi, chắc là hậu quả không lường được.
 

Cây đa cũ, bến đò xưa

Ngày 27 tháng Giêng năm 1988, bất thần chúng tôi được lệnh chuyển trại! Như vậy, tính ra tôi đã ở trại Thanh Cẩm còn thiếu 6 tháng nữa là đúng 10 năm. Trong lần chuyển trại này, tất cả tù chính trị miền Nam cùng với nhóm tù Trung Quốc đều rời trại Thanh Cẩm và được đưa về trại Nam Hà, trong tỉnh Hà Nam Ninh. Trại Nam Hà đối với những người khác là chỗ mới, nhưng riêng với tôi, đây là cuộc tái ngộ, vì tôi đã sống ở trại này 11 năm về trước, khi được chuyển từ trong Nam ra vào tháng Tư, 1977.
 
Tôi quay trở lại trại Nam Hà với tâm trạng chán chường và buồn nản của con người đang đi trong một vòng tròn khép kín. Mười một năm qua với bao đổi thay trong số những anh em bạn bè đã ở đây với tôi trước kia. Có người đã chết, có người đã được về, một số chuyển vào các trại trong miền Nam và một số nhỏ vẫn đang còn ở đây. Riêng tôi, bị gọi ra trong đêm Giáng sinh 1977 để đưa lên trại trừng giới “Cổng Trời”, rồi 8 tháng sau được chuyển về “đáy địa ngục” Thanh Cẩm và bây giờ lại lộn trở về trại Nam Hà. Lúc từ giã ra đi, tôi là một thanh niên khỏe mạnh 34 tuổi. Hôm nay trở lại, tôi đã là một người trung niên 45 tuổi, thương tật đầy người và tóc đã trổ màu muối tiêu. Thật là ngán ngẩm và trớ trêu cho cuộc đời!

Trại Nam Hà không thay đổi nhiều trong thập niên qua, chỉ có thêm một số dãy nhà cạnh bên nhà bếp nằm sát bờ tường hướng ra cổng trại. Nhưng điều đập vào mắt tôi mạnh nhất là sự bừa bãi, lộn xộn và bệ rạc của các buồng giam. Ngày tôi còn ở đây, phía sau các buồng là đường đi rộng rãi. Bây giờ, nơi đó được che thêm những tấm vải bạt, vải nhựa chi chít như các sạp cá chợ Cầu Ông Lãnh! Ngày trước, chung quanh các buồng sạch sẽ, thoáng mát, bây giờ chất cao ngất nào hòm rương, nào thùng thau, nào xoong chảo, chén bát, bao bì, túi cói... không thiếu một thứ gì trên cõi đời này. Thật chẳng khác nào khu chợ chó đường Hàm Nghi trong những năm cộng sản chưa chiếm miền Nam.

Khi tới nơi, tôi mới biết là cũng có nhiều tốp tù nhân miền Nam từ các trại khác rải rác ở miền Bắc cũng được đưa hết về đây, biến trại Nam Hà thành một kho chứa hàng. Vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn, con số tù nhân trong trại trở nên đông đúc một cách khác thường, nhưng tôi không biết rõ là bao nhiêu.

Về đây, tôi gặp lại một số người ở chung với tôi trước kia. Tất cả đã thay đổi rất nhiều qua năm tháng vì sự lao nhọc, vì thiếu thốn và đói khát trong tù. Có những người đã từng ở chung đội với tôi trước kia, gặp lại nhau vô cùng mừng rỡ. Khi hỏi thăm mới biết đa số đã chết, phần nhiều là chết đói, và được chôn ở nghĩa địa nằm sát bờ rào trại mà ngày tôi ra đi, nghĩa địa này chưa có. Hỏi thăm kỹ mới biết phần lớn những người chết là thành phần trẻ. Trong lúc đói quá và không tự kềm chế được, họ đã ăn các loại rau rừng dơ bẩn và phần đông chết vì bị kiết lỵ.

Lần này tôi về đây, trong trại có một số tướng lãnh miền Nam. Những người này tới trại sau khi tôi đã được chuyển đi. Tôi không biết nhiều các vị tướng này, duy chỉ có Tướng Trần Bá Di là tôi quen, vì lúc ông làm Tư lệnh Sư đoàn 9 đóng ở Vĩnh Long, cũng là lúc tôi đang làm việc tại Nhà thờ Chánh tòa. Tướng Di là người Công giáo và thường hay đi lễ nhà thờ đó, nên chúng tôi biết nhau. Tôi cũng gặp một số Linh mục Tuyên úy từ các trại khác về đây. Trong số đó có mấy người là bạn học với tôi trong Đại Chủng viện Sài Gòn, một số khác tôi chỉ nghe tên nhưng chưa biết nhau bao giờ.
 

Vòng tròn khép kín

Sáng hôm sau, số tù trại Thanh Cẩm chúng tôi được phân phối vào các đội và các buồng. Tình cờ tôi được trở lại buồng cũ trước kia, buồng 6, nơi tôi bị gọi ra trong đêm Giáng Sinh 1977. Chẳng phải hạnh phúc gì khi được trở lại buồng cũ, vì buồng nào cũng chỉ là nhốt tù! Nhưng dầu sao nó cũng để lại những dấu ấn kỷ niệm quen quen của đời tù.

Vào buồng cũ, tôi lại cố ý chiếm cái chỗ cũ trước kia của tôi trong góc phía trên. Nhìn lên bờ tường, tôi vẫn còn thấy cây đinh mà chính tay tôi đã đóng 11 năm về trước để treo lon nước. Cây đinh vẫn còn đó nhưng đầu đã mòn bóng láng.

Đêm đầu tiên, chập chờn trong giấc ngủ, tôi nằm nhắm mắt nhưng cứ tưởng như mình đang nằm ở đây vào đêm 23 tháng 12 năm 1977. Trong phút chốc, quãng thời gian 11 năm của đời lao tù lướt qua như không hiện hữu.
 
Tôi tưởng chừng như có nghe kể một câu chuyện về một người tù nào đó bị gọi ra khỏi buồng 6 này trong đêm Giáng Sinh 11 năm về trước. Người đó vô tình lại trùng tên và trùng họ với tôi. Số phận người đó ra sao kể từ đêm Giáng Sinh năm đó tôi không biết được. Còn tôi đang nằm đây, ngủ một giấc ngủ thật dài đúng 11 năm, một giấc ngủ thật nhiều mộng mị và hôm nay chợt giật mình thức giấc. Khi tỉnh dậy mở mắt ra nhìn lên tường vẫn còn thấy cái lon Guigoz đựng nước uống treo lủng lẳng trên cây đinh tôi đóng trên tường. Có khác chăng là bạn bè nằm kế bên bây giờ là những người mới, già nua và mệt mỏi.
 
Ngày hôm sau và những ngày kế tiếp, chúng tôi vẫn chưa đi lao động. Khi tới một trại mới, tù nhân còn phải lo làm các thủ tục hành chánh, khám xét đồ đạc, lo khám bệnh, lo việc lưu ký tiền và đồ vật... Cán bộ trong trại toàn là những người lạ, chỉ có một người tôi đã gặp 11 năm về trước, đó là Thượng úy Thịnh. Khi chúng tôi mới tới trại Nam Hà năm 1977, anh này mới là Thượng sĩ trực trại. Tôi nhớ rất rõ vì anh có những nét đặc biệt khó quên. Người anh cao to, nước da đen, chân mày rậm và xước. Khi bước đi, lưng anh hơi khum và khuỳnh hai cánh tay cho oai vệ hơn. Thời đó, Thượng sĩ Thịnh là một thứ hung thần và được chúng tôi tặng cho biệt hiệu là “Quận Hách”. Bây giờ, sau 11 năm, gặp lại “Quận Hách” đã là Thượng úy, nhưng có lẽ bị thất sủng nên chỉ là quản giáo coi một đội hình sự làm thủy lợi.

Cán bộ trực trại bây giờ là Trung úy Lực, khoảng ngoài 30 tuổi, nước da ngăm đen. Mặc dù còn trẻ, nhưng tóc anh đã bạc khá nhiều. Trung úy Lực không mấy khi cười nói, nhưng anh em ở đây lâu cho biết, anh ta rất tốt và dễ dàng. Sau này, tôi được biết đa số tù nhân ở đây là người có của, họ đã giúp cán bộ trực trại và các cán bộ khác rất nhiều và điều này đã tạo nên sự thân thiện, gần gũi giữa cán bộ và tù nhân. Qua ngày thứ hai, chúng tôi lo làm thủ tục gửi tiền lưu ký.

Vào những năm sau cùng ở trại Thanh Cẩm, tù nhân được liên lạc với gia đình khá dễ dàng nên nhiều người được gia đình gửi tiền ra cho. Nhưng với luật lệ trong tù, chúng tôi không được giữ tiền mặt mà phải gửi lưu ký, giống như mở trương mục trong ngân hàng. Tiền bạc và sổ sách do cán bộ tài vụ của trại cất giữ. Khi cần mua bán gì, cán bộ sẽ ghi vào sổ riêng của từng người. Lúc còn ở trại Thanh Cẩm, chúng tôi cũng nhờ cán bộ giúp mua nhiều thứ hàng, nhưng khi về trại này, chúng tôi mới ngạc nhiên về tình trạng mua bán công khai và nhộn nhịp như một siêu thị! Thậm chí trong trại Nam Hà này có vài người chuyên nghề buôn bán để gửi tiền về gia đình, những người này được tặng danh hiệu là “Chành”. Có vài anh “Chành” buôn bán phát đạt bằng mấy lần người dân bên ngoài! Điều này càng xác định hơn nữa cho sức mạnh của đồng tiền.
 

Gió thoảng trưa hè

Cán bộ tài vụ trại Nam Hà lúc bấy giờ là một phụ nữ. Hôm đó, trong khi chúng tôi đang chộn rộn thu xếp đồ đạc trước cửa buồng thì cô ta bước vô sân, tay cầm quyển sổ bìa cứng, màu đen khá dầy. Khác với thái độ cách ngăn và hách dịch của nhiều cán bộ lo phần hành chuyên môn mà tôi từng gặp ở các trại, cô cán bộ tài vụ này rất duyên dáng, bước vào sân với nụ cười thật tươi trên môi. Khi chúng tôi quay lại chào, cô cười đáp:

   - Gớm! Sao mà các anh lắm đồ đạc thế!

Đó là câu nói đáp lại lời chào. Sau đó, cô tự giới thiệu là cán bộ tài vụ và nói anh đội trưởng cho anh em tới để xác nhận tiền lưu ký của trại Thanh Cẩm chuyển đến. Cô nói khi cô gọi tên ai thì tới xác nhận, nếu đúng thì ký tên vào sổ. Nói xong, cô ngồi ngay xuống bậc thềm cao khoảng 5 tấc của buồng giam, trong khi chúng tôi đứng vây quanh chờ đợi.

Trong khi chờ gọi tên mình, tôi để ý quan sát người nữ cán bộ khoảng 30 tuổi này. Cô đã gây ấn tượng tốt ngay từ phút đầu. Vóc người cô nhỏ nhắn và gọn gàng, nước da trắng ngần, khuôn mặt trái xoan và có sự hài hòa cân đối giữa mũi, miệng và đôi mắt. Cô mặc áo sơ mi trắng, quần đen, chân mang dép nhựa đen có gót khá cao. Tôi đoán là cô muốn cho mình cao hơn một chút với đôi dép này. Đầu để trần, mái tóc được kẹp và vắt ngược lên đỉnh đầu một cách đơn giản, nhưng làn tóc mây dài lại được nhẹ nhàng thả hờ xuống hai bên má. Cô không trang điểm, không chải chuốt, tất cả đều bình dị và tự nhiên.

Mới nhìn qua, cô không phải là người phụ nữ đẹp sắc sảo, nhưng cô có cái đẹp bình dị và rất duyên dáng trong cách gợi chuyện và nói cười với những người đang tiếp xúc. Người nữ cán bộ này nói năng chậm rãi, nhẹ nhàng và khi cười để lộ hàm răng trắng có 2 chiếc răng khểnh. Khi nói chuyện, cô có thói quen kéo dài tiếng sau cùng tạo nên vẻ độc đáo. Cô hay dùng chữ “gớm” một cách khéo léo để diễn tả thật nhiều ý nghĩa trong nhiều trường hợp. Có một anh, có lẽ vì chữ ký có vẻ tài tử, sau khi kiểm lại số tiền và ký tên vào sổ, được cô chiếu cố với nụ cười hồn nhiên khi nhìn anh ký, với câu:

   - Ối giời ơi! Chữ ký của anh sao mà ‘‘gớm’’ thế!

Sau khi hoàn tất công việc, cô ở nán lại trong sân, hỏi thăm chúng tôi một lúc rồi từ giã ra đi. Có mấy người bàn tán sau khi cô bước ra khỏi sân.

Những ngày tiếp theo, tôi tìm dịp thăm lại các bạn đã ở với tôi tại  trại này trước kia. Trong số đó, có Mục sư người Thượng là Điểu Huynh. Ngày trước, chúng tôi chơi rất thân và thường để giờ chia sẻ Kinh Thánh với nhau. Từ 11 năm qua, anh Điểu Huynh vẫn ở trại này, nên qua anh, tôi có thể biết tất cả những diễn biến trong trại. Những biến cố gì quan trọng đã xảy ra, những nhóm nào tới, những ai đã được về, ai đã chết và chết bằng cách nào, những ai được chuyển về Nam v.v...Về lại chốn xưa, nhìn khung cảnh trại và cảnh vật chung quanh, tự nhiên tôi nhớ rất nhiều những người bạn ở cùng phòng, mà bây giờ đã nằm yên dưới lòng đất. Tôi nhớ từng người, từng tên, từng khuôn mặt, cả tính tình và cách ăn nói, cũng như lối pha trò đùa vui của họ.
 

Giờ thứ hai mươi lăm

Chúng tôi về đây không bao lâu thì có đợt tha thật đông và thật linh đình trong dịp Tết Mậu Thìn 1988 . Thì ra, sở dĩ tù nhân chính trị miền Nam các trại khác được tập trung về đây là để Nhà nước biểu diễn trong đợt tha ngoạn mục này. Đây là đợt phóng thích được tổ chức một cách rầm rộ nhất từ trước tới nay.
 
 Trong lễ phóng thích, có rất đông cán bộ trung ương cùng với phái đoàn báo chí và các hãng thông tấn trong và ngoài nước. Số tù chính trị miền Nam được tha trong đợt này lên gần tới con số ngàn người.

Cũng trong lần tha đó, tất cả tù nhân Linh mục đều được về chỉ còn sót lại hai người là cha Nguyễn Bình Tĩnh, thuộc Giáo phận Ban Mê Thuột và tôi. Cũng vì có các phóng viên nhà báo nên trong ngày lễ phóng thích đó, những người nào không được tha đã bị đưa đi giấu ngoài đồng. Một số khác, có tôi ở trong đó, bị nhốt trong các buồng nằm tận bìa rào của trại, cửa bị khóa, cửa sổ bịt kín và cổng vào buồng cũng khóa. Điều tệ hại hơn nữa là những người bị giấu này lại “quên” cho ăn, tới khi lễ phóng thích xong và phái đoàn báo chí rời trại rồi mới được ăn bữa sáng, lúc bấy giờ đã gần 4 giờ chiều! Hôm đó, những ai được tha về thì hí hửng như lên mây, còn người ở lại đói mờ con mắt!

Sáng hôm sau, trại tù Nam Hà trở nên tưng bừng náo nhiệt chưa từng thấy. Hàng ngàn con người đi lại rộn ràng giữa các buồng và trong sân. Chỗ nào cũng vang dậy tiếng cười, tiếng nói, tiếng gọi nhau ơi ới. Tôi buồn bã ngồi một chỗ, tựa lưng vào tường, khoanh tay trước ngực và theo dõi cảnh người ta bắt tay từ giã, nhắn gửi, dặn dò nhau, trông chẳng khác nào một đàn ong vỡ tổ.

Những thứ đồ đạc, hòm rương, bao bì, túi cói, nồi niêu, xoong chảo mà hàng chục năm nay cố xếp gọn vào một nơi nào đó, bây giờ được vỡ tung ra nằm la liệt khắp nơi. Đồ ăn, thức uống, gạo thóc, củi đuốc được lôi ra. Thứ gì có thể mang theo được thì mang, cái gì trối cho người ở lại thì cho, còn cái gì không cần thì vất đi. Hàng mấy trăm con người được tha về, bày biện đồ đạc đầy ngập cả phòng, ra tới ngoài sân. Trông họ như những người đang sống trên mây. Họ cứ phải di chuyển liên tục.

Hình như sự vui mừng quá độ lúc đó bắt buộc miệng họ phải nói, chân họ phải bước đi. Họ lăng xăng bắt tay người này, vỗ vai người nọ, mừng mừng tủi tủi, chúc nhau muôn điều may mắn trong cuộc sống tương lai màu hồng trước mắt. Lúc đó, tự nhiên tôi nhớ lại hình ảnh trong phim “Ten Commandments”(Mười Điều Răn), đoạn diễn tả cảnh người Do Thái nhộn nhịp trong ngày ông Moses dẫn họ ra khỏi nước Ai cập, chấm dứt thời kỳ nô lệ.

Khi nhìn cảnh anh em bắt tay từ giã ra về, lòng tôi buồn vô hạn. Nhất là khi thấy các anh em Linh mục đã từng chung sống với tôi trong nhiều năm qua, bây giờ ra đi, khiến tôi bị hụt hẫng và cảm thấy bị mất mát quá lớn. Những năm tháng dài anh em sống chung với nhau, tôi không nhận thấy hết được ý nghĩa của một thứ tình gia đình. Giờ đây, qua giây phút chia tay, tôi chợt thấy trống vắng và mất đi sự hỗ trợ rất cần cho cuộc sống trong tù. Lúc đó, hai hàng nước mắt tôi chảy dài một cách tự nhiên và tôi không sao kềm hãm được. Không hiểu tại sao tôi đã khóc! Về sau này, có thì giờ suy nghĩ, tôi biết lúc đó tôi khóc vì phải chia tay với những người quá thân ái, quá gần gũi và giúp tôi rất nhiều trong những năm chung sống. Nhất là giai đoạn tôi vừa ở nhà kỷ luật mới ra, với thân tàn ma dại và tinh thần sa sút.

Sự nâng đỡ về tinh thần và vật chất của các anh em Linh mục thật quý báu đối với tôi lúc bấy giờ. Một lý do khác làm nước mắt tôi chảy dài là tôi cảm thấy quá xót xa cho thân phận mình. Tôi thật sự bị hụt hẫng vì đã đặt hy vọng quá nhiều sẽ có tên trong đợt tha này. Sáng hôm đó, có nhiều anh em Linh mục đi ngang chỗ tôi nằm nhưng chỉ dám liếc nhìn mà không dám tới. Tôi biết là các anh em rất thương và cảm thông với tâm trạng đau buồn của tôi nên không tới bắt tay từ giã, sợ nỗi buồn của tôi sẽ tăng thêm.

Nhớ lại thời gian 30 anh em Linh mục chúng tôi ở riêng biệt trong khu kiên giam trại Thanh Cẩm, tôi coi đó như một hồng ân cho riêng đời tù của tôi. Mặc dù sống chung lâu ngày trong phòng giam chật hẹp và thiếu thốn mọi tiện nghi, đôi khi giữa các anh em Linh mục cũng có những va chạm, xích mích và cãi vã nhau, có lúc cũng nặng lời to tiếng, nhưng không bao giờ chúng tôi để các sự va chạm ấy kéo dài qua đêm.
 
Vì ở trong khu vực riêng biệt, có tường rào bao bọc, nên chúng tôi có điều kiện thuận tiện để dâng Thánh Lễ với nhau hằng ngày, sau giờ điểm danh vào buồng. Trước khi cùng dâng Thánh Lễ, nếu ai có điều gì buồn phiền và xích mích nhau trong ngày, anh em xin lỗi và tha thứ cho nhau để mọi người trở nên hòa thuận tốt đẹp, như không có chuyện gì xảy ra. Dĩ nhiên, đã là con người thì ai cũng có bản tính khác nhau, dù họ là Linh mục hay người thường. Hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã có khi đã đẩy con người xuống đáy tầng địa ngục. Lúc đó, bản tính bất toàn của con người muốn tìm một chút thoải mái riêng tư cũng bộc lộ qua cách hành sử của vài anh em Linh mục, kể cả tôi.

Dầu vậy, xét chung, tôi phải ghi nhận là tập thể Linh mục trong tù lúc đó là một tập thể rất tốt. Đại đa số là những con người hiền hậu, rộng lượng và đầy tình bác ái. Không phải chỉ đối xử tốt trong tình thương yêu với nhau mà thôi, mà còn tốt với tất cả mọi tù nhân khác, khi điều kiện có thể giúp đỡ họ được. Tôi rất hãnh diện có mặt giữa tập thể Linh mục đó. Họ như là những chứng nhân đích thực của tình yêu Thiên Chúa giữa những anh em tù và cả về phía cán bộ nữa.

Lúc bấy giờ, tôi là người trẻ tuổi nhất trong số Linh mục mà phần đông là những Tuyên úy Quân đội trình diện đi học tập, chỉ có chừng 5 hoặc 7 người bị bắt vì lý do khác như tôi. Một điều tôi ghi nhớ mãi và hứa là khi nào có dịp kể lại giai đoạn tù tội, tôi phải nói lên sự kính mến của tôi và của anh em đối với một vị Linh mục trong nhóm là cha Đinh Trọng Tự, Tuyên úy Quân đội thuộc Giáo phận Cần Thơ. Cha Tự học trên tôi 3 năm trong Đại Chủng viện Thánh Giuse tại Sài Gòn. Mặc dù trên tôi 3 lớp, nhưng cha Tự đã khá lớn tuổi vì cha đã có thời động viên đi quân dịch và mang cấp bậc Thiếu úy. Sau khi giải ngũ, ngài trở lại đi tu tiếp.

Cha Đinh Trọng Tự lúc ở Thanh Cẩm quãng 45 tuổi, người gầy ốm và cao lêu khêu như cây tre miễu, nói năng nhỏ nhẹ và ôn tồn. Sống giữa tập thể anh em Linh mục, có kẻ lớn người nhỏ, cha Tự đã tỏ ra là một người hiền hòa thân ái và được tất cả anh em kính mến. Đặc biệt là nếu có sự va chạm cãi vã nhau giữa anh em, thì chính cha Tự là người làm hết mọi cánh để mang lại hòa khí giữa anh em. Thông thường, vai trò trung gian hòa giải của cha Tự đều được anh em nghe theo. Nhưng cũng có mấy lần gặp trường hợp căng thẳng quá, tôi thấy cha Tự đã phải khóc khi năn nỉ  hai người đang bất hòa tha thứ cho nhau.

Tính tình nhân hậu và ôn hòa đó của cha Đinh Trọng Tự đã đóng góp rất nhiều trong sự mang lại đoàn kết và thân ái giữa tập thể anh em Linh mục trong tù. Lúc bấy giờ, anh em chúng tôi thường nói với nhau, nếu Tòa Thánh cho chúng tôi chọn một Giám mục để hướng dẫn cộng đồng dân Chúa trong tù, chúng tôi sẽ chọn cha Đinh Trọng Tự. Ngoài ra, giữa chúng tôi cũng có những Linh mục lớn tuổi và đáng kính. Các ngài để lại trong tôi sự thương mến và kính phục về tư cách, sự hiền từ và tinh thần bác ái cao độ như các cha Đinh Cao Thuấn, Cao Đức Thuận, Lê Đức Triệu (nhạc sĩ Hoài Đức), Phạm Ngọc Lan. Những Linh mục cao niên này thường được chúng tôi gọi là “Bố” để bày tỏ sự tôn kính.

Khi những người được phóng thích đã ra về, trại Nam Hà trở nên xác xơ, buồn tẻ và trống vắng khác thường. Chỉ còn lại một ít tù chính trị miền Bắc và 350 người miền Nam. Sau đợt tha đó, tôi được chuyển qua một đội tạp dịch, lo dọn dẹp vệ sinh và các việc linh tinh khác bên trong trại. Đội này do anh Của, trước kia là Đại tá Tỉnh trưởng Châu Đốc, làm đội trưởng.

Lúc bấy giờ, trong trại cũng còn lại 9 vị tướng, sống trong một buồng riêng và không đi lao động bên ngoài. Về phía Linh mục, còn lại 7 người của cả miền Bắc lẫn miền Nam. Miền Bắc có các Linh mục Thi, Hiểu và Vĩnh. Miền Nam có cha Nguyễn Bình Tĩnh và tôi, cộng thêm hai Linh mục, Nguyễn văn Lý và Lê Văn Nghiêm, thuộc Tổng giáo phận Huế, mới bị bắt 2 năm, đưa ra trại Thanh Cẩm với chúng tôi và cùng chuyển lên đây.
 

Anh em chia lìa

Đêm đầu tiên, sau khi các Linh mục được tha đã rời trại ra về, tôi nằm trằn trọc không sao ngủ được. Sự thất vọng ê chề đã làm tôi đau đớn. Phải nói là từ lúc bị bắt, không một lúc nào sự ước muốn tự do không hành hạ tôi. Những năm đầu, nhận biết thân phận mình nên tôi chưa dám mơ tưởng tới việc được tha về. Lúc đó, tư tưởng vượt ngục lại ám ảnh tôi rất mãnh liệt. Cho dù thời gian nào, trại nào, hoàn cảnh nào tôi cũng đều tìm cách vượt ngục, nếu không bằng cách này thì bằng cách khác, kể cả những cách nguy hiểm và liều lĩnh nhất.  Sau vụ vượt ngục bất thành năm 1979 tại trại Thanh Cẩm, tôi đã phải trả một giá quá đắt và sau vụ đó một thời gian rất lâu, tôi không còn hy vọng được tha như những tù nhân khác.

Tới năm 1986, tức là 8 năm sau ngày vượt ngục bất thành, tôi lại bắt đầu có hy vọng vì trong thời gian đó có rất nhiều người được tha. Mỗi năm, số người được tha càng nhiều và những dịp cứu xét tha càng thường xuyên hơn. Lúc đó, ngồi nhìn những anh em được thơ thới hân hoan ra về, trong đó cũng có vài Linh mục, lòng tôi đầy những ước mơ, cho dù là một thứ hy vọng khá mong manh.
Bắt đầu năm tù thứ 10, tôi càng hy vọng nhiều hơn, vì nghe nói mỗi lệnh tập trung cải tạo là 3 năm, mà tôi đã ở tù 10 năm, tức là được 3 lệnh rồi. Thông thường, những người đã ở tù 3 “lệnh”, sẽ dễ dàng được cứu xét hơn. Như tôi đã nói, mặc dù đây chỉ là thứ hy vọng mong manh, nhưng con người sống phải có cái gì để hy vọng, nếu không còn hy vọng thì còn gì là cuộc sống? Tâm trạng tôi lúc đó cũng như người mơ trúng số độc đắc. Mỗi tuần đều mua một tờ vé số để nuôi hy vọng có ngày trúng lô độc đắc, mặc dù biết là rất mong manh. Riêng tôi, giống như người mơ trúng số mà không có tiền mua vé số!

Bước qua năm thứ 11, tôi càng hy vọng nhiều hơn. Mặc dù lúc bấy giờ tôi vẫn còn ở khu kiên giam, nhưng ngay cả trong khu kiên giam và kỷ luật cũng có người bất thần được gọi tên ra về như trường hợp cha Phạm Hữu Nam, được gọi ra về từ trong nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm! Biết đâu có ngày sẽ có tên mình? Niềm ước mơ thầm kín này thường ám ảnh tôi một cách mãnh liệt về đêm. Vì ban ngày còn phải đi lao động và biết bao nhiêu việc phải làm của kiếp tù, nên không có thì giờ để mơ mộng.

Sau vụ vượt ngục bất thành năm 1979, tôi bị đánh đập quá tàn nhẫn và sau đó bị cùm 3 năm làm cơ thể tôi quá suy nhược, nên lúc này, tôi không dám nghĩ tới chuyện vượt ngục nữa mà dành tất cả nghị lực cho những giấc mơ đẹp về viễn ảnh một ngày nào đó được trả tự do. Rất nhiều đêm, tôi nằm suy nghĩ và thử tưởng tượng xem lúc nghe có tên mình trong danh sách được tha, tôi sẽ mừng biết là chừng nào! Đây là một giấc mộng thật thích thú.

Để trả lời câu hỏi đó, tôi cố nhớ lại tất cả những dịp vui của đời mình để so sánh với tin vui được trả tự do như thế nào. Thật ra, đời tôi không có có nhiều dịp vui lớn ngoài những lần như thi đậu tiểu học, đậu trung học đệ nhất cấp, đậu tú tài, tốt nghiệp chương trình Đại Chủng viện và được thụ phong Linh mục. Những dịp đó cũng rất vui nhưng nếu được nghe tin trả tự do chắc là tôi sẽ mừng nhất!
Qua năm thứ 12, niềm hy vọng lại càng thúc bách tôi khi gần như toàn bộ số anh em trong nhóm 48 Quyết Tiến của tôi đã được tha về gần hết. Qua năm thứ 13, tôi càng nôn nóng hơn vì sau đợt tha dịp đầu năm Dương lịch, con số tù chính trị trại Thanh Cẩm chỉ còn lại không tới 100 người cùng với 10 người Trung quốc đã bị giam ở đây hơn 15 năm rồi. Trong lúc tôi hy vọng và chờ đợi niềm vui lớn thì bất thần có lệnh chuyển trại vào cuối tháng Giêng năm 1988. Tất cả tù chính trị, kể cả các anh Trung Quốc đều phải chuyển đi. Và tôi trở về trại Nam Hà này như đã nói ở trên!.

20/6/2003

Nguyễn Hữu Lễ

Nguồn: http://dactrung.net/

Theo http://diendan.vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những tác giả cách tân thơ lục bát ngoài nước Việt

Những tác giả cách tân thơ lục bát ngoài nước Việt “Lục bát mãi mãi là một tài sản thiêng liêng của nền văn hóa Việt. Chừng nào thế giới c...