Tôi phải sống 4
Theo
đúng kế hoạch, sau khi cán bộ và hai anh trật tự vừa khuất dạng, tôi lẹ làng bước
xuống để tháo miếng sắt đã được cài lại một cách hờ hững trên cách cửa vào nhà
cầu. Khi tôi vừa với tay kéo cánh cửa để tháo miếng sắt thì một việc bất ngờ xẩy
ra: Hơi gió tạo ra bởi việc kéo cánh cửa làm tắt ngọn đèn! Chuyện này chưa bao
giờ xẩy ra trong buồng từ trước tới nay!
Theo
quan niệm thông thường của người đời, đèn bị tắt là một điềm gở, nên lúc đó cả
năm người ngồi lặng yên nhìn nhau, lòng đầy lo ngại. Riêng tôi, mặc dù trong
lòng bất an, nhưng tự an ủi mình rằng, có thể vì vội vàng, tôi đã kéo cửa nhà cầu
mạnh tay và tạo ra hơi gió làm tắt đèn, có thế thôi, chẳng có gì phải lo ngại.
Khi đó tôi để ý thấy sự lo ngại và sợ sệt hiện rõ trên mặt vài anh em, nhất là
Lâm Thành Văn. Từ chiều tới giờ thỉnh thoảng Văn kêu đau vì chứng bệnh dạ dầy
tái phát mạnh do ảnh hưởng sự lo lắng quá độ. Thấy tắt đèn, Văn bước xuống ngồi
gần bên tôi lo lắng hỏi:
- Đây là mũi dao định mệnh, cậu Bảy nhé!
Tôi nhìn anh gật đầu và nói:
- Cầu xin Đấng Thiêng Liêng phù hộ cho anh em mình!
Nghe
nói xong câu đó, anh Tiếp ấn mạnh mũi dao định mệnh khoét sâu dần vào bức tường
nhơ bẩn của trại tù Thanh Cẩm. Bức tường của trại tù giam hãm sự tự do của
chúng tôi một cách phi lý và dã man. Trong lúc đó tôi biết mũi dao định mệnh
này một khi đã thọc sâu vào tường sẽ không bao giờ có thể dừng lại được và cuộc
đời chúng tôi, tương lai chúng tôi và cả mạng sống chúng tôi nữa
cũng đang đi theo với mũi dao định mệnh này.
Chúng
tôi xếp hàng dọc chạy lần theo con đường hẹp từ cánh cửa vừa bị phá thông ra
phái sau khu kiên giam. Con đường này chỉ rộng chừng 1.50m để người tù gánh
phân ra vào lấy phân mỗi ngày trên khu kiên giam. Để chuẩn bị cho cuộc vượt ngục
này, mọi chi tiết đều được chúng tôi nghiên cứu cẩn thận. Ngay cả việc thứ tự của
mỗi người khi đi đứng và làm những phần hành khác nhau. Đặng Văn Tiếp
là người khỏe và tháo vát nhất trong nhóm, lúc nào cũng đi đầu. Lâm Thành Văn
là người có bệnh và yếu nhất trong nhóm nên đi giữa và tôi là người trẻ nhất đi
ở cuối cùng để nếu có gì trục trặc bất ngờ tôi còn thể ứng đối được.
- Tôi không đi được, hai anh lo tìm cách leo ra đi!
Tôi bảo Văn:
- Không thể được, chúng ta đã thề hứa cùng sống cùng chết với nhau, làm sao
chúng tôi có thể bỏ anh cho đành?
Văn mệt nhọc, ngồi bệt xuống đất, xua tay từ chối. Khi thấy anh Tiếu định kéo
anh trỗi dậy, anh nói với anh Tiếu:
- Anh Tiếu với anh Lễ lo đi đi, tôi đành bỏ cuộc! Hai anh đi ngay đi, ở đây chết
cả đám, ích lợi gì!
Nói xong, Văn đứng lên, nắm lấy bàn tay tôi và tay anh Tiếu, bóp mạnh để từ
giã, xong quay lưng đi dọc theo chân tường!
Tới
phiên Trịnh Tiếu cố gắng bám cái màn leo lên, nhưng cũng không nổi mặc dù tôi hết
sức cố gắng nâng người anh lên. Khi thấy không thể nào leo lên được, anh bèn
quay sang bảo tôi lo trèo lên, còn anh đi thẳng thật nhanh về phía Văn, bỏ
tôi đứng bơ vơ với chiếc màn treo lơ lửng trên bờ tường.
Còn
lại một mình, tôi lấy hết sức lực bám vào chiếc màn cố leo lên. Chiếc màng lưới
nhùng nhằng bám vào các gai nhọn của hàng rào bên trên không có thể coi là một
loại thang được. Nhưng trong hoàn cảnh đó không hiểu sức lực ở đâu lại dồn về
đôi cánh tay khẳng khiu của tôi và tôi đã bám lấy chiếc màn như một con thạch
sùng đang bám vào tàu lá để leo lên. Tôi cố gắng nương tay làm sao cho cơ thể
mình trở nên “vô trọng lượng” để chiếc màng lưới có thể chịu đựng.
Buổi
sáng ngày 2 tháng 5 năm 1979 hôm đó, nước sông Mã dâng cao vì trận mưa to suốt
đêm qua. Đây là vùng thượng nguồn, nước sông chảy một chiều và các cơn mưa đêm
qua làm mực nước dâng lên rất cao và chảy mạnh như thác. Chúng tôi trầm mình xuống
sông, bơi theo dòng nước chảy mạnh, mò mẫm cập theo các bụi rậm bên bờ sông. Được
một quãng khá xa, chúng tôi gặp cái hốc đá thật kín đáo, bên trên có một cây
to, rễ cây tua tủa bao trùm kín cả miệng hang, tạo thành nơi ẩn nấp thật lý tưởng.
Cả ba người lặn xuống nước chui vào ẩn nấp trong hang đó và chờ đợi.
Tôi
đoán không sai, từ trong hang tối om khẻ vạch cỏ nhìn ra, tôi thấy tên Thượng
sĩ Hoàn mặc áo thun và quần đùi trắng với khẩu súng lục có dây đeo quàng ngang
vai. Hắn đứng trên chiếc xuồng nhỏ, tay cầm cây tầm vông dài chừng ba thước,
trên đầu có cây sắt nhọn mà tiếng miền Nam chúng tôi gọi là cây
"xà-no" dùng đâm chuột hoặc đâm rắn trong các lùm bụi, nhất là trong
mùa nước lên.
-
Chúng nó vừa ở ngay đấy thôi!
Tên Hoàn quay mặt sang hỏi:
- Ở mô?
- Đâu trong bụi rậm trước mặt ấy, tôi vừa nom thấy chúng ngay bụi ấy!
Theo sự
chỉ dẫn của người đàn bà, tên Thượng sĩ Hoàn vạch từng bụi cỏ, rọi đèn pin xuống
và cuối cùng hắn đã tìm thấy chúng tôi. Thế là hết!
Nguyễn Sỹ Thuyên nấp ở bên ngoài lội ra trước, trong khi anh Tiếp
và tôi ôm nhau ghì cứng trong hang, nhất định không ra. Sau khi la hét một hồi
thấy không lay chuyển, tên Hoàn vạch cỏ che trên rễ cây, dí mũi súng lục lạnh
toát vào thái dương của tôi, miệng hắn la hét một cách man dại:“Lễ! Mày có bơi
ra không? Hay đợi tao bắn nát đầu mầy ra, hả?” Thực tình mà nói, lúc bấy giờ
tôi chỉ mong cho hắn siết cò. Tôi nghĩ đó là cách giải quyết tốt nhất. Nhưng
tên Hoàn không bóp cò súng vào thái dương tôi mà quay súng ngược lên bắn chỉ
thiên mấy phát. Đó là dấu hiệu báo cho các nhóm đang tuy lùng khác biết là đã bắt
được tù vượt ngục.
Những
cú đấm đá đầu tiên khiến tôi đau điếng cả người, nhưng sau một chập, tôi không
còn nghe đau đớn nữa vì toàn thân tôi đã tê dại. Những cú đòn về sau, tôi chỉ
còn cảm giác qua chấn động, như âm thanh của một quả bóng được đá dội vào tường.
Lúc đó, tôi không còn biết đến cảnh vật chung quanh, nhắm mắt cắn răng chịu đòn
không hề kêu la một tiếng. Trong cảnh hỗn loạn của những tiếng la hét man dại
đó lại có giọng quát khá to của một người nào đó mà tôi không còn đủ tâm trí để
nhận ra, tôi chỉ đoán là của ông trại trưởng:“Thôi! Tôi bảo các đồng chí thôi!
Tôi bảo các đồng chí thôi!”.
9
Chuyện Thương Tâm
Đánh đập chán chê, anh ta bỏ tôi nằm yên. Sau này mới biết anh ta quay sang
“thăm” hai anh Đặng Văn Tiếp và Nguyễn Sỹ Thuyên đang nằm rải rác gần đó. Tôi lại
rơi vào cơn hôn mê một lần nữa, cũng chẳng biết trong bao lâu. Khi bừng tỉnh lại,
tôi thấy Bùi Đình Thi đang cầm hai chân tôi kéo lên các bậc thềm đúc bằng xi
măng từ hội trường lên khu kiên giam, lưng và đầu tôi va mạnh lốp bốp vào các bậc
thềm, cả thảy 12 bậc. Sự đau đớn thái quá đó làm tôi bừng tỉnh lại và nhờ đó
tôi mới chứng kiến cảnh tượng hãi hùng khác: Cảnh anh Đặng Văn Tiếp bị Bùi Đình
Thi đánh chết tại chỗ. Cảnh tượng này đã in vào tâm trí tôi như một hình xâm trổ
trên da thịt và chắc chắn sẽ không bao giờ có thể tẩy xóa được!
Mạng người
thứ nhất
Đi vào cõi chết
Lần xuống "Đáy Địa Ngục"
Tôi rên rỉ qua hơi thở:
- Tiếp chết rồi!
Thuyên kinh hãi kêu:
- Tiếp chết rồi à?
Anh Thuyên yên lặng hồi lâu mới nói được:
- Tiếp chết rồi! Còn Tiếu và Văn ra sao?
- Tôi không biết.
Anh Thuyên thều thào:
Tôi phản đối ý của anh:
Mạng người thứ hai
10
“Tôi Phải Sống”
Họa Vô Đơn Chí
- Lễ! Cái khăn này ở đâu mày có?
- Tôi nhặt được dưới sông lúc đi tắm. Không biết của ai đánh rơi để tôi trả lại cho họ.
- Vô lý mà nhặt được! Nói thật đi, thằng nào cho mầy?
Tôi vẫn giữ lập trường nhưng lần này bằng giọng khẩn thiết:
- Tôi nhặt dưới sông thật mà... anh Thi, có ai cho tôi đâu!
Nợ đời chưa dứt.
- Báo cáo cán bộ!
- Anh nào gọi! Có việc gì?
Tôi trả lời thật lớn tiếng:
Vì đã có dự tính trước nên tôi nói luôn:
- Anh tên là gì?
- Báo cáo cán bộ, tôi tên là Nguyễn Hữu Lễ!
- Anh thuộc diện gì?
- Tôi là Linh mục Công giáo.
Nghe nói thế ông ta cười nhạt và hỏi lại:
- Thế ra anh là dạng ‘cha cố’ hả?
Tôi trả lời cách nghiêm chỉnh:
- Báo cáo cán bộ, tôi đã nói, tôi là Linh mục Công giáo.
Ông ta hỏi tiếp theo:
- Anh làm gì bị kỷ luật?
- Báo cáo cán bộ, chúng tôi trốn trại.
Ông ta chậm rãi nói:
- Trốn trại à? To gan nhỉ!
Không nghe tôi trả lời, cán bộ ngần ngừ một lúc rồi bỏ đi.
- Lễ! Cái áo vàng của mầy đâu?
- Sao thằng Hà nó nói mầy đổi cho nó?
- Đâu có anh Thi! Tôi đâu có đổi! Chắc thằng Hà nó lấy lộn áo tôi rồi nói thế! Tôi đâu có đổi!
- Đi lại phía trước, mầy nghe thằng Hà nói!
- Em đâu có lấy áo của anh! Anh đổi cho em ấy mà!
Bước đường cùng
“TÔI PHẢI SỐNG!
TÔI PHẢI SỐNG!
TÔI PHẢI SỐNG!”
Bỗng dưng bản năng sinh tồn trong tôi trỗi dậy một cách vô cùng mãnh liệt!
- Cùm cổ nó lại!
Thấy Bùi Đình Thi bước vào tôi nói:
- Tôi bảo anh vào cùm!
- Nhưng cán bộ có bảo đảm là anh Thi không đánh tôi?
- Anh cứ vào cùm, tôi bảo đảm!
Cơn điên loạn
Vài lời về Trương Văn Phát
Lon nước ân tình
Sau lần đó, thỉnh thoảng anh có lên điểm danh trên khu kỷ luật
cùng với trật tự Bùi Đình Thi. Cán bộ Hạ vẫn lầm lì như xưa, trên mặt và cổ vẫn
còn các vết lang ben. Từ khi gặp lại trong lần kiểm tra đồ đạc dưới bóng cây,
anh ta cũng chẳng nói thêm với tôi một lời nào. Cho tới một hôm vào quãng giữa
tháng 7, gần hai tháng sau ngày chúng tôi bị cùm, trong buồng tôi có chuyện xảy
ra.
Trời Thanh Hóa lúc này nóng như thiêu như đốt, nhà kỷ luật nóc bằng trở thành
lò hấp người. Lúc bấy giờ anh Thuyên và tôi bị cùm trong buồng 5, mỗi ngày tiêu
chuẩn nước được phát chung cho hai người là hai lon Guigoz (mỗi lon độ 3/4
lít), sáng một lon chiều một lon. Với lượng nước này, chúng tôi phải làm sao
gói ghém vừa uống, vừa rửa ráy, vừa tắm, vừa giặt, vừa lau mồ hôi ban đêm trong
cái lò hấp người này. Chúng tôi đã quyết định, bằng mọi giá phải để dành một
lon nước qua đêm, vì ban đêm hơi nóng từ nóc Nhà Bằng đúc bằng xi-măng tỏa xuống,
nóng không tưởng tượng được, cần có nước nhắm vào miệng cho đỡ khát.
Thời gian này trại thường cho tù ăn khoai lang với mắm chược, là loại mắm cá thối
được nấu ra thành nước. Mắm chược tanh khủng khiếp, nhưng lúc bấy giờ chúng tôi
lại thèm chất tanh nên mắm chược vô tình lại trở thành món ăn ngon. Giờ cho ăn
trên kỷ luật sớm hơn dưới “làng”. Ban trưa quãng 11 giờ và ban chiều quãng 4 giờ.
Tiêu chuẩn hai người chúng tôi mỗi bữa ăn là ba củ khoai lang, to hơn đầu ngón
chân cái một chút. Nếu chia ra mỗi người một củ rưỡi thì ít quá, nên tôi có
sáng kiến, thay vì bẻ ngang thì chẻ dọc củ khoai, như thế mỗi người “giống như”
được ba củ! Làm như vậy để đánh lừa cặp mắt, nhưng hình như cũng đánh lừa được
dạ dầy vì tôi thấy chia như vậy ăn vào “no” hơn và anh Thuyên rất phục tôi ở
sáng kiến này.
Mỗi bữa ăn chúng tôi bẻ khoai lang ra, dĩ nhiên là cả vỏ, cho vào tô nước mắm
chược, chế thêm một ít nước lạnh vào, quậy cho đều và “húp”! Sau khi xong bữa
“húp”, màn tiếp theo là uống nước. Ngồi trong lò hấp mà ăn khoai với mắm thối sẽ
khát nước vô chừng. Cơn khát này không phải lúc đó mà thôi, nhưng sẽ kéo dài suốt
đêm, nên việc để dành một lon nước qua đêm là yếu tố sống còn cho hai người. Những
bữa “húp” của hai anh em tôi không có vấn đề gì xảy ra cho tới một ngày nọ. Hôm
đó vì thèm thuốc lào quá nên anh Thuyên, một tay nghiện thuốc lào nặng, nói với
anh trực sinh Nguyễn Tiến Đạt làm sao tìm cho một bi thuốc lào.
Buổi chiều cùng ngày, trong giờ đổ ống bẩu và chia thức ăn, Đạt dúi vào tay anh
Thuyên một bi thuốc lào to bằng hột đậu, một que diêm và tí giấy bìa bao diêm.
Tôi phải nói là Đạt đã cho anh Thuyên một kho tàng vô giá, vì từ ngày bị cùm
trong kỷ luật đã gần 2 tháng, ngày nào anh Thuyên cũng nhắc thuốc lào, bây giờ
anh mới được toại nguyện. Khi làm việc này dĩ nhiên Đạt cũng phải gồng mình, vì
nếu bại lộ thì Đạt cũng sẽ no đòn.
Chiều hôm đó, sau bữa “hút”, Bùi Đình Thi và cán bộ đã cùm chân chúng tôi lại
và đi xuống, anh Thuyên nhờ tôi tiếp tay thu dọn các thứ trên bệ nằm cho gọn vì
anh biết là sau khi hút thuốc lào, anh sẽ say nghiêng say ngửa. Ai đã hút thuốc
lào thì biết, chỉ một đêm không hút, sáng hôm sau điếu đầu tiên là say quắc khước,
đừng nói chi gần hai tháng không có hơi thuốc nào như anh Thuyên. Vì trong buồng
không có điếu, nên anh phải dùng giấy quấn một cái “loa kèn”, nhét bi thuốc lào
vào đầu to của “loa kèn”, rồi ngậm nước trong miệng, châm lửa và...hít! Trước
khi hút anh còn dặn tôi, nếu anh có say quá thì lấy tay nhấn nhấn vào ngực giúp
anh thở, vì đã có người say thuốc lào nghẹt tim không thở được mà chết.
Anh Thuyên chuẩn bị tinh thần để hít điếu thuốc lào “lịch sử” này, cẩn thận và trịnh
trọng như một nghi lễ tôn giáo. Sau khi giúp anh bật được ngọn lửa, mồi vào cái
đóm bằng vải và kê vào đầu loa kèn, anh đã “hít...hít...hít” với tất cả sức lực
của anh. Có lẽ trong đời anh Thuyên chưa bao giờ anh sung sướng như lúc anh
đang ngửa mặt lên trời nhả khói ra trong lúc này! Bất thần anh ngã vật xuống!
Ngụm nước trong miệng sặc ra ướt đẫm, mắt anh đờ đẫn và sùi bọt mép!
Sau khi ngã xuống, cả hai tay anh quơ quơ trên không, cái chân không bị cùm của
anh đá tứ tung. Miệng anh ú ớ gọi tên tôi, giọng đứt quãng:“Ông Lễ ơi!, ông Lễ
ơi!...ông Lễ ơi!...” Tôi thất kinh sợ anh chết, vội nằm xuống vuốt ngực anh,
nhưng anh ta quay ngang, gạt tay tôi ra và cào cấu lung tung như người đang bị
ong đốt. Trong lúc say quá độ, anh Thuyên quơ tay đánh đổ lon nước “cứu mạng”
duy nhất mà tôi đã cẩn thận nhét sát vào góc. Sở dĩ lon nước không thể để ở xa
hơn được vì sau khi phát thức ăn chiều, chúng tôi đã bị cùm chân lại và mọi thứ
phải được đặt vào tầm tay với để khi cần có thể lấy được.
Một hồi lâu anh Thuyên mới tỉnh lại và thất kinh trước việc anh đánh đổ lon nước.
Lúc đó quãng 4 giờ chiều và chúng tôi phải đợi tới trưa hôm sau, tức là 19 tiếng
đồng hồ nữa mới được phát nước! Khổ nỗi, ngay lúc bấy giờ tôi đã bắt đầu khát
sau khi húp tô mắm chược trộn khoai lang. Anh Thuyên cũng khát nước không kém
gì tôi, nhưng lúc đó chúng tôi không làm gì khác hơn là chờ đợi cho tới giờ điểm
danh, chừng đó có cán bộ lên để xin nước, mặc dù chúng tôi biết là rất ít hy vọng.
Riêng đối với Bùi Đình Thi chúng tôi chẳng có chút hy vọng nào. Điều quan trọng
là cán bộ nào sẽ lên điểm danh khu kỷ luật chiều nay. Nếu gặp phải cán bộ Hoàn
chắc chúng tôi chết mất vì không lần nào anh ta thấy mặt tôi mà không chửi bới.
Có lần còn nhào vô buồng đạp tôi mấy phát khi chân tôi đã xỏ vào cùm. Nếu Hoàn
mà lên với Bùi Đình Thi nữa thì vô phương.
Tới giờ điểm danh, chúng tôi đã khát gần cháy cổ. Nghe tiếng chìa khóa khua,
chúng tôi mừng thầm, nhưng khi tới nơi nhìn ra chỉ thấy một mình Bùi Đình Thi.
Có cán bộ nào đi sau hay không, chúng tôi không thấy. Khi trật tự mở khóa
vào buồng kiểm tra cùm, tôi đánh bạo xin Thi cho nước uống vì đã lỡ làm đổ hết,
không còn nước uống qua đêm. Thi trả lời:“Tiêu chuẩn nước của trại, chúng mày
dùng đổ vào tường để đục tường đủ rồi, còn đòi nước gì nữa!” Thế là anh ta bỏ
đi ra ngoài và khóa cửa buồng giam lại.
Lúc đó bên ngoài thấy có cán bộ bước tới, nhìn ra là cán bộ Hạ. Tôi mừng thầm
trong bụng và tôi lớn tiếng xin cán bộ cho nước uống vì chúng tôi vô ý làm đổ hết
và đang khát cháy cổ. Cán bộ Hạ chưa kịp trả lời thì Bùi Đình Thi đứng ngoài
nói vọng vào câu anh ta nói với chúng tôi lúc nãy. Nghe câu đó, cán bộ Hạ ngần
ngừ như muốn từ chối. Cảm thấy như tới lúc lâm nguy, tôi xin tha thiết hơn:
- Xin cán bộ hãy lấy tình người mà thương chúng tôi, chúng tôi
khát nước quá rồi. Đêm nay mà không có nước uống chắc chúng tôi chết
mất!
Vừa nói tôi vừa bóp méo cái lon Guigoz cho lọt qua khe cửa sắt đưa
ra bên ngoài. Cán bộ Hạ ngần ngừ một chút, xong ra lệnh cho trật tự:
- Anh Thi, đến bể lấy cho mấy anh ấy một lon nước!
Không còn cách nào khác, Thi đành phải vâng lời cán bộ, đến bên bể cạn và múc
cho chúng tôi một lon nước. Nhưng khi trở lại thành cửa sổ, anh ta dằn mạnh lon
xuống làm nước đổ tung tóe và vơi đi gần phân nữa. Đây là nước lấy trong bể cạn
ở góc khu nhà kỷ luật. Bể này chứa chừng một thước khối nước dành cho tù giặt
quần áo, và sau khi đổ ống bẩu tay dính cứt thì rửa trực tiếp vào đó. Tới chiều
bùn sình và những gì nhơ bẩn đã lắng xuống và nước lại trong.
Phải nói anh Thuyên và tôi sống được qua đêm đó là nhờ lon nước ấy. Mặc dù đó
là nước dơ nhưng có lẽ không còn vi trùng, vì theo tôi nghĩ tất cả vi trùng
trong bể nước đó đã bị trúng độc chết hết rồi, còn đâu nữa để làm chúng tôi bệnh!
Tôi không bao giờ quên ơn cán bộ Hạ và lon nước ân tình này.
Sau đó cán bộ Hạ rời trại một thời gian rất lâu. Cho tới một buổi trưa nọ vào
năm 1986, tức là 7 năm sau, lúc đó tôi đã qua sống khu kiên giam mới cùng với
các anh em Linh mục khác, có lần cán bộ Hạ lên khu kiên giam thăm chúng tôi.
Tình thế giữa tù nhân và cán bộ lúc này đã có sự gần gũi nhau hơn. Trong lần gặp
lại đó, tôi có nhắc lại với anh về lon nước vào năm 1979 với lời cám ơn chân
tình, nhưng anh nói:“Tôi không còn nhớ!” Tôi trả lời:“Nhưng tôi còn nhớ và tôi
sẽ nhớ mãi lon nước ân tình này”. Nghe nói thế cán bộ Hạ nhìn tôi mỉm cười, nụ
cười rất hiếm hoi trên khuôn mặt lầm lì cố hữu của anh. Đó cũng là lần cuối tôi
gặp lại người cán bộ đã để lại trong tôi kỷ niệm thật đẹp về tình người trong
nhà tù cộng-sản.
Gió thoảng trưa hè
Không lâu sau đó, Bùi Đình Thi mất chức trật tự. Sự kiện này đối với tôi
rất quan trọng, vì kể từ ngày đó cuộc sống tôi được nâng cấp: Từ đáy địa ngục,
tôi được chuyển lên tầng trên của địa ngục! Ngày anh ta mất chức trật tự
trong trại tù Thanh Cẩm cũng là một trong hai ngày vui mừng và hạnh phúc nhất
trong 13 năm tù của tôi! Ngày đầu tiên là ngày 2 tháng 8 năm 1978, ngày tôi được
chuyển ra khỏi trại trừng giới Cổng Trời!
11
Tầng Đầu Địa Ngục
Người ta thường nói:“Sống lâu lên lão làng!” Tôi cũng đã có lần thuộc dạng “lão
làng” vào năm 1982, sau khi nằm liên tiếp 3 năm trong nhà kỷ luật trại tù Thanh
Cẩm. Với cái vốn thời gian đó, tự nhiên tôi trở thành “đại ca” trong khu kỷ luật
lúc bấy giờ.
Kể từ khi tôi bị đưa lên cùm chân sau vụ vượt ngục bất thành ngày 2 tháng 5,
1979 cho tới lúc này, tôi cứ quanh đi quẩn lại trong 6 buồng của khu nhà kỷ luật.
Tôi giữ vai trò người quản gia, trong khi các người tù khác chỉ là những khách
vãng lai. Có người trụ lại một thời gian khá lâu đến hàng năm trời, nhưng cũng
có những người ngắn hơn, lên đây một thời gian chừng vài tháng hay tuần hoặc
vài ngày rồi trở xuống dưới “làng”. Cũng có người xuống “làng” ít lâu rồi lại
lên khu kỷ luật như dân Âu Châu đi nghỉ hè ở vùng bờ biển hàng năm! Riêng tôi
đã 3 năm rồi, nhưng chưa được đi “nghỉ hè” lần nào. Cũng chính vì được tiếp xúc
với nhiều đợt tù kỷ luật, chính trị cũng như hình sự, nên yếu tố “lão làng” của
tôi được nhiều người biết tới.
Nếu yếu tố “lão làng” không mang ý nghĩa gì đặc biệt đối với nhóm tù chính trị
thì ngược lại nó là vấn đề quan trọng, đôi lúc là nguyên tắc sống còn đối với
những người tù hình sự. Nên biết điều này, giữa những người tù hình sự với
nhau, sự kiêng nể các “đại ca” đã trở thành một thứ luật bất thành văn trong
tù. Có những anh vì coi thường hoặc chểnh mảng việc tuân giữ quy luật này nên
đã phải trả giá rất đắt. Suốt 4 năm qua tôi đã phải sống lăn lộn với tù hình sự
từ trại Cổng Trời về đây, nên đã có dịp chứng kiến nhiều trường hợp trả giá đó.
Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà các
tù nhân vi phạm bị “đại ca” ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù.
Nếu chỉ để cảnh cáo hoặc áp đảo tinh thần những “lính mới” để bắt phải đi vào
khuôn phép thì chỉ cần sử dụng “chưởng”, hoặc “bẻ ngà” . Trường hợp nặng hơn
thì bị “lấy cặp pha” , hoặc “xin cặp nạng” . Trường hợp nghiêm trọng và phải bảo
vệ chỗ đứng thì đối phương sẽ được “cất” . Những người tù hình sự có loại ngôn
ngữ riêng bằng tiếng lóng. Gần như tất cả mọi người đều có một tên đệm kèm theo
tên riêng. Và có một điều dường như ai cũng có thể biết được là họ chửi thề
luôn miệng!
Hiện tượng “ma cũ ăn hiếp ma mới” trong giới tù hình sự là điều rất phổ biến và
tự nhiên trong tù. Chắc hẳn nhiều người đã được nghe kể, và hơn nữa đã đọc những
sách viết về đời sống ngục tù đề cập tới hình thức “tìm chỗ đứng” của các tù
nhân cũ. Những anh tù mới vừa bước vào buồng sẽ bị những người cũ áp đảo bằng một
trận đòn mềm người và bị bắt buộc phải khuất phục dưới trướng. Nếu người tù mới
là tay hảo hán thì sau này sẽ “ngoi lên tìm chỗ đứng” bằng cách nào đó để nắm
vai trò lãnh đạo.
Việc ngoi lên tìm chỗ đứng này được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau,
nhưng điểm giống nhau duy nhất trong các cuộc tranh hùng đó là tính cách không
khoan nhượng, nói rõ hơn là một mất một còn. Vì thế, ngoài trường hợp những “đại
ca” có tầm cỡ cao, nghĩa là những tù nhân khét tiếng mà ai nghe tới cũng phải
cúi đầu chịu phục và dù ở đâu cũng có đàn em các cấp thì không nói, còn những
tay mới vừa ngoi lên tìm chỗ đứng trong tù, khi đi ngủ chỉ nhắm một mắt. Ý muốn
nói lúc nào cũng phải đề phòng kẻo bị thanh toán!
Dĩ nhiên các việc đó chỉ diễn ra trong giới tù hình sự. Dù vậy hoàn cảnh đã đẩy
đưa tôi, một tù nhân chính trị, vào vị thế được kiêng nể trong giới tù hình sự
tại khu kỷ luật này. Một sự việc xảy ra ngoài sức tưởng tượng mà trước đó tôi
chưa từng nghĩ tới. Nó đột biến xảy ra vào một buổi sáng nọ khi cán bộ mở cửa
và đẩy vào buồng tôi một anh tù hình sự còn trẻ măng, chừng ngoài 20 tuổi. Buồng
tôi lúc đó có 4 chỗ cùm nhưng chỉ có 3 người, tôi và hai anh tù Trung Quốc, còn
một chỗ cùm trống dành cho anh tù mới này.
Chợt nghe tiếng mở khóa buồng, tôi vội lấy tấm chăn che ngang người, vì lúc đó
cả 3 chúng tôi đều trần truồng. Anh tù mới vừa bị đẩy vào đứng chết trân giữa
buồng, vì từ ngoài sáng vào buồng tối làm anh quáng mắt. Anh ta cố gắng định thần
trong một buồng giam nóng như hỏa lò và chắc chắn là rất thối tha này. Còn tôi ở
đây đã lâu và nằm trong buồng đã quen với bóng tối nên tôi nhìn ra và thấy anh
ta hầu như rõ mồn một!
Người anh trông nhỏ thó với mái tóc húi cao. Anh ôm trên tay chiếc chiếu cuộn
tròn mà tôi biết bên trong là chăn và quần áo. Tay kia anh bưng một cái bát sắt
có hoa màu đỏ, có đĩa sắt đậy lại bên trên, nên tôi không biết trong bát có gì.
Dưới nách anh cặp một ống điếu cày có máng cái lon Guigoz lòng thòng. Trong lúc
anh tù mới đang chớp mắt nhìn quanh nhưng chưa thấy gì và nghe ba người chúng
tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Phổ thông làm anh tưởng buồng này tất cả đều
là tù Trung Quốc. Tôi nhận thấy trên mặt anh lộ ra vẻ sợ hãi. Có lẽ chưa kịp định
thần thì cán bộ đã rút thanh sắt, xỏ chân anh ta vào cùm, khóa cùm bên ngoài buồng
và đóng cửa bước ra. Cán bộ hành động nhanh như một cái máy, vì tôi biết anh ta
không chịu nổi mùi hôi thối và bầu khí nóng như lò hấp của buồng giam.
Ban ngày trong căn phòng kín như cái hộp sắt có mở lò sưởi này, chúng tôi gần
chết ngộp. Mỗi lần mở cửa là mỗi hồng ân trời ban, vì có không khí ùa vào buồng.
Lúc đó chúng tôi thi nhau hít thở, càng mạnh càng tốt, càng nhiều càng tốt và cố
rút vào buồng phổi không khí trong lành hiếm có để còn được tồn tại. Đợi cho
anh tù mới định thần xong, tôi lên tiếng:
- Mầy thấy rõ trong buồng chưa? Mệt thì nghỉ đi.
Nghe tiếng tôi, anh ta rất mừng vì biết tôi là người Việt nên lễ phép
nói:
- Em xin chào anh! Thưa anh có phải là anh 'Nể' (Lễ) không ạ!
Anh tù này nói thiệt là ngọng. Qua cách anh phát âm tên tôi, tôi hỏi:
- Sao mày biết tên tao?
- Ối giời! Anh ạ, đám bọn em có mấy thằng đi kỷ 'nuật' về, bọn chúng ca tụng
anh 'nắm'. Chúng bảo anh rất tốt!
Tôi phì cười:
- Xạo mầy! Mày tên là gì, làm sao mà bị đi cùm?
Có lẽ anh ta sợ, khi nghe giọng nói tôi cố tình tạo ra vẻ “đại ca”. Càng sợ hơn
nữa sau khi đã chớp mắt làm quen với bóng tối trong buồng và nhìn thấy hình dạng
tôi đang cởi trần, râu ria tua tủa rối ren vô trật tự, tóc tai bờm xờm đang ngồi
cùng với hai anh Tàu to con và trần truồng như nhộng. Cảnh này mới bước vô, ai
mà chẳng sợ. Anh ta trả lời cách khúm núm:
- Thưa anh, tên em là Huống. Em nhón một ít ‘nạc’ (lạc) của cán bộ, bị bể và đi
cùm. À, em xin mời anh dùng bát cơm anh ạ!
Vừa nói Huống vừa với tay cầm cái bát sắt, mở đĩa đậy ra và nhẹ nhàng đặt bát
cơm cạnh tôi.
Nhìn bát cơm, hai anh Trung Quốc lộ vẻ thèm thuồng tột độ. Bát cơm trắng quả là
một bữa đại yến trong buồng kỷ luật đói triền miên này. Ngồi nhìn cả ba anh tù,
tôi cảm thấy thương họ. Cuộc sống tù đày đã biến đổi họ thành những con người
không còn là chính con người thật của họ. Một người tù vừa bước vào cố nhịn phần
ăn sống còn của mình đổi lấy sự an toàn, còn hai người bạn Trung Quốc chỉ cần
được ăn và không cần biết gì khác! Tôi hỏi Huống.
- Cơm này ở đâu mày có?
- Em còn ống gạo mới thổi trưa ‘lay’.
- Gạo mày lấy đâu ra?
- Em 'nàm' điếu đổi gạo anh ạ. Bọn chúng vẫn gọi em ‘nà’ Huống “điếu cày” mà!
- Nếu đưa cơm cho tao thì mày lấy gì ăn?
- Em không đói đâu anh ạ!
Tôi đau lòng khi nghe câu đó, vì trong tù này ai mà không đói! Tôi
bảo:
- Huống! Tao giả vờ hù dọa mày cho vui, mày đừng nghĩ tao như một tay đầu gấu
hình sự. Ăn đi mày, ở đây thằng chó nào mà chẳng đói.
Huống ngạc nhiên khi nghe tôi nói như thế, nhưng nó cũng chưa dám ăn.
Tôi giục mấy lần nó mới dám bưng bát cơm lên, miệng lí nhí nói:“Em xin anh!”
Tôi ngồi nhìn Huống “táp” vội bát cơm mấy cái đã hết sạch. Trông nó cũng đói
không kém gì ba người chúng tôi trên khu kỷ luật này.
Kỹ thuật kiến trúc
Nhà kỷ luật Thanh Cẩm là một nơi được nghiên cứu và thiết kế cẩn thận để tăng
hiệu quả tối đa của tính chất độc ác trong việc trừng trị con người. Ở lâu
trong đó tôi mới có dịp quan sát kỹ và đi tới kết luận: Không thể có một đồ án
xây dựng nào tốt hơn khu nhà, mới vừa ba tuổi mà tôi là một trong số rất ít người
được vinh dự là những thân chủ đầu tiên này.
Khu kỷ luật là một nhà nóc bằng hình chữ nhật có sáu buồng. Ba buồng phía trước
trông ra một khoảng sân khá rộng và ba buồng phía sau mở cửa thông ra một lối
đi hẹp chừng 3 thước, dẫn tới chân một bức tường đá xanh. Tường nhà dày 40
phân, mái nhà được đúc bằng xi măng cốt sắt. Mỗi buồng vuông vức với 3 thước mỗi
chiều. Cửa sắt thật kiên cố và chỉ có một cửa sổ nhỏ 50 phân vuông chắn song sắt
to bằng cổ tay em bé. Điểm đặc biệt mà tôi khâm phục sáng kiến là các buồng
không phải cách nhau bằng một bức tường theo như cách hiểu thông thường, nhưng
buồng này cách buồng khác bằng một cái buồng xép bề ngang chừng một mét rưỡi,
có cánh cửa chặn kiên cố bên ngoài.
Như vậy khi muốn bước vào buồng kỷ luật phải qua 2 lần cửa, qua lần cửa gỗ vào
buồng xép rồi mở cửa sắt vào buồng giam. Hai buồng giam có cửa sắt đối diện
nhau. Tuy nhiên, vì nhu cầu có khoảng trống tráng xi măng trước cửa buồng nên
buồng 1 và buồng 6 nằm ở hai góc phía trước và phía sau chỉ cần qua một cửa sắt
là vào buồng, trong khi tất cả các buồng khác phải qua hai lần cửa. Cái buồng
xép nằm giữa hai buồng giam này là một sáng kiến thật độc đáo vì nó có ba công
dụng thật rõ rệt. Thứ nhất là an ninh, người tù muốn vượt ngục phải qua hai lần
cửa mới ra được. Thứ nhì là chặn không khí lại. Không khí muốn vào buồng giam
phải qua hai lần cửa. Và ý thứ ba quan trọng nhất, cái thanh sắt to từ trong buồng
giam xỏ qua các móng cùm ngoạm vào cổ chân những người tù được luồn qua một cái
lỗ trong tường ló đầu ra buồng xép này và có ống khóa to khóa lại ở đây.
Như thế người tù ngồi bên trong buồng không bao giờ có thể đụng chạm tới cái ống
khóa bên ngoài được. Chung quanh khu kỷ luật có tường cao ngăn cách với các khu
vực khác trong trại, trên bờ tường có hàng rào kẽm gai. Đây chỉ là tường khu vực,
chưa phải là bờ tường trại bằng đá xanh cao 5 thước bao bọc toàn thể trại tù
Thanh Cẩm. Chỉ có một lối ra vào duy nhất là cổng trại được xây theo kiểu mẫu
Khải Hoàn Môn (Arc de Triumple) của thành phố Paris bên Pháp. Cổng trại là
phòng ở của cán bộ trực trại và lúc nào cũng có lính canh.
Trong buồng có hai thớt nằm bằng xi măng hai bên một “phi đạo” ở giữa, mỗi thớt
cao 80 phân và rộng cũng 80 phân dành cho 2 người bị cùm. Thật sự tôi không nhớ
rõ chi tiết về kích thước của cái thớt này, chỉ biết lúc bấy giờ chúng tôi gọi
nó bằng cái tên khá dài:“Hai người thì thiếu, một người thì dư!” Như vậy sáu buồng
khu kỷ luật chỉ được trang bị đầy đủ cho 24 thân chủ. Có thời gian số người bị
kỷ luật đông hơn 24 thì mỗi buồng có thể nhận thêm một tù nhân nằm dưới “phi đạo”,
dĩ nhiên là không phải mang cùm. Ở kỷ luật mà không phải mang cùm cũng là một hồng
ân. Thỉnh thoảng cán bộ chiếu cố cho vài người được hưởng đặc ân này. Riêng tôi
không được hưởng quyền lợi này một đêm nào trong 1020 đêm ở nhà kỷ luật.
Thông thường những người đã ở lâu thì chỉ bị cùm một chân (cám ơn sự nhân đạo của
đảng!). Thời gian 3 tháng đầu bị cùm cả ngày lẫn đêm. Về sau chỉ cùm ban đêm, từ
lúc cho ăn chiều cho tới quãng 7 giờ sáng hôm sau. Ngược lại, “những
khách vãng lai”, tức là những người tù ở dưới “làng” bị phạt lên kỷ luật một thời
gian ngắn, họ bị cùm một chân cả ngày lẫn đêm. Tuy nhiên, thời gian “tham quan”
khu kỷ luật của họ chỉ kéo dài trong vòng một vài tuần lễ.
Buồng giam kín như bưng và tối đen. Chỉ phía ngoài gần cửa sổ có chút ánh sáng
lọt qua song sắt, còn phía trong lúc nào cũng tối om om. Dù vậy, chúng tôi cũng
không bị trở ngại vì đã quen với bóng tối. Từ bên trong buồng nhìn ra thấy bên
ngoài rất rõ, nhưng từ ngoài nhìn vào qua song sắt cửa sổ thì không thấy gì bên
trong. Nhất là những hôm nắng to người bên ngoài phải nhìn vào một lúc lâu mới
biết có bao nhiêu người trong buồng. Trần nhà rất thấp. Đứng trên bệ nằm, có thể
với tay gần đụng trần nhà, trên đó có bắt một bóng điện, ánh sáng leo lét và tắt
từ 10 giờ đêm về sau.
Nhà cầu “nổi”
Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre
to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại, tiểu tiện
vào đó. Trước mỗi lúc phát thức ăn trưa và chiều, một anh tù trực sinh vào từng
buồng bưng các ống bẩu phân và nước tiểu này ra đổ vào hố phân ở góc tường ngay
trước cửa buồng 3 nằm sát góc sân cập bờ tường phía trước. Hố phân này không có
nắp đậy và đó là vương quốc của ruồi xanh.
Việc sử dụng nhà cầu nỗi này không đơn giản, phải được chỉ dẫn và dĩ nhiên là
cũng phải có kinh nghiệm. Lúc đó tôi đã là “con ma ” trong khu kỷ luật rồi nên
thích nghi hết mọi hoàn cảnh để sống còn. Việc sử dụng cái cầu tiêu lạ đời này
không còn là vấn đề đối với tôi. Trái lại những “lính mới” thường gặp trở ngại
trong những lần đầu. Lúc bấy giờ yếu tố “lão làng” của tôi lại có giá trị vì
tôi phải mở một khóa cấp tốc hướng dẫn cách sử dụng loại nhà cầu “nỗi” này như
thế nào. Ban ngày lúc không phải cùm thì dễ hơn, nhưng lúc chân trong cùm mà buồn
đi cầu thì không phải là chuyện đơn giản và trường hợp này “không thầy đố mày
làm nên!”
Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai cái ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống
nước tiểu hứng phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau. Trong khi thi hành
bản năng sinh học tự nhiên của cơ thể con người, tù nhân phải ở thế đứng, hơi
rùn người xuống một chút như thế “xuống tấn” của võ sĩ thái cực đạo mới đúng thế.
Ống phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc phải là ống có đường
kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng, vì trong lúc “thi hành nghĩa vụ” của
bản năng, nói nôm na là “đi cầu”, người tù phải quàng tay ra sau để giữ cái ống
bẩu. Nếu ống này nặng quá thì kẹt đủ điều!
Có mấy lần ống này quá nặng, trong khi “đi cầu” ống đó càng lúc càng nặng vì phải
chứa thêm, chứa thêm và cuối cùng người tù không thể giữ ống bẩu sát vào mông
đã vuột tay làm đổ phân tung tóe trong buồng. Nếu lúc đó có người đang ngồi ăn
thì quả thật là bất tiện! Chúng tôi cố đi cầu vào buổi tối sau khi một chân đã
dính vào cùm, một phần để tránh hai bữa ăn của anh em và phần khác cũng kín đáo
hơn. Tuy nhiên, vào trường hợp bất khả kháng thì bất kể là ngày hay đêm, dù có
phải đại tiện ngay trước mặt những người lúc họ đang ngồi ăn cũng không ai lấy
thế làm phiền.
Vả lại, vì đã quen với cuộc sống tù quá ư là chật chội, bẩn thỉu và thiếu mọi
tiện nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng ai cảm thấy mùi thối tha
hôi hám gì trong cái buồng giam kín như cái thùng sắt này. Việc ai người ấy
làm, chẳng ai để ý tới ai. Trong khi một người đang đại tiện thì có thể một anh
khác đang ngồi ăn hoặc có người đang tập thể dục, ra cửa sổ hít thở, đang ngồi
cầu kinh, chơi cờ hay may vá. Có mấy lần một vài “lính mới” vì chưa rành sử dụng
ống bẩu nên làm vương vẩy đầy trên sàn nhà. Nhưng không hề gì, chốc nữa tới lúc
cho ăn, chúng tôi sẽ nhờ anh trực sinh quét và hốt đi!
Ban ngày không bị cùm, “đi cầu” đã khó, ban đêm khi đã xỏ chân vào cùm mà muốn
“đi cầu” thì quả là một cực hình! Lúc đó cần phải có một kỹ thuật cao hơn và những
“lính mới” thường không làm được. Phần vì vướng một chân vào cùm, phần khác cổ
chân họ còn nhiều thịt nên rất trở ngại trong cái móng cùm bằng sắt nhỏ hẹp.
Trong khi đối với tôi và những “thường trú nhân” của khu kỷ luật lúc bấy giờ, cổ
chân chúng tôi không to hơn cái ống bơm xe đạp bao nhiêu, nên việc xoay xở nhẹ
nhàng khéo léo và lành nghề như một nhà ảo thuật.
Vào mùa hè, trời Thanh Hóa nóng như thiêu như đốt. Nhất là những ngày có gió
Lào cộng vào, buồng kỷ luật biến thành cái hộp bằng sắt có mở lò sưởi ở số cao.
Gió Lào là ngọn gió từ bên Ai-Lao thổi qua dãy Trường Sơn miền Trung Việt Nam,
đưa hơi nóng từ dãy núi đá này qua các tỉnh miền Trung Việt. Hôm nào gió càng
to thì càng nóng. Buồng giam chỉ có một cửa sổ duy nhất và rất hẹp, gió không
thể lùa vào buồng được. Sức nóng hừng hực của mặt trời nung nóng nóc nhà bằng,
ban đêm tỏa hơi nóng xuống buồng giam đã vắt cạn tới giọt nước cuối cùng trong
thân thể gầy còm của chúng tôi.
Những đêm kinh hoàng như vậy, mỗi người trong buồng phải thủ sẵn một tô nước
trích ra từ tiêu chuẩn nước trong ngày và một mảnh vải ngâm vào đó. Thỉnh thoảng
lấy vải lau trên người cho da thịt tiếp xúc với sự mát lạnh của nước, sau đó vắt
nước trở lại vào tô. Làm đi làm lại nhiều lần suốt đêm như thế, khi nào kiệt sức
thì ngả xuống nằm một chốc rồi ngồi lên lau người tiếp. Sáng hôm sau nước trong
bát đen như nước cống. Trong cơn chết ngạt đó, tôi thấy thứ quý báu nhất trên đời
này không gì khác hơn là làn khí trong lành để con người có thể hô hấp và tồn tại.
Một điều mà dường như không mấy ai để ý tới. Đó là hồng ân đầu tiên mà Thiên
Chúa ban cho tạo vật. Lúc đó tôi cầu xin:“Lạy Chúa, nếu Chúa cho con có thể làm
phép lạ thì phép lạ đầu tiên con làm là cho có một cái lỗ bằng hộp sữa trổ ra
trên nóc buồng, để không khí có thể lưu thông và con có thể hô hấp hầu bảo vệ mạng
sống!” Tô quyết tâm là nếu sau này còn sống, tôi phải nói lên cho mọi người, biết
ơn và cảm tạ Chúa vì hồng ân cao cả của Ngài đã ban cho con người được có
đủ không khí trong lành để hít thở.
Trong hoàn cảnh nghẹt thở đó, nỗi niềm hối hận trào dâng. Tôi hối hận vì có những
lần trước kia tôi than thở oán trách vì bữa ăn không ngon, chai bia chưa đủ lạnh,
đĩa rau không đủ tươi, chiếc áo không đẹp, chiếc xe không đúng kiểu, nhà cửa
thiếu tiện nghi.... Và đặc biệt tôi muốn chia sẻ với những người may mắn, nhất
là dân các nước tư bản, sinh ra trong nhung lụa, lớn lên trong tiện nghi, cuộc
đời được bao quanh bởi thú vui và tiền của. Tôi muốn nói với những người may mắn
đó rằng:“Các người đang ở trên thiên đàng mà các người không biết. Vì thế xin đừng
bao giờ than trách về một vài bất tiện trong cuộc sống đã quá đầy đủ tiện nghi
của mình, nhưng hãy biết mở tay ra bố thí và thương đến những kẻ khốn cùng!”
Những lúc nóng nực quá sức chịu dựng, chúng tôi đều trần truồng ngày đêm. Một
phần vì mặc quần áo sẽ ướt đẫm và dán sát vào người không thể nào chịu được,
đàng khác, những người ở kỷ luật lâu như tôi không còn quần áo gì để mặc. Dường
như ai cũng giống nhau trong buồng giam kỷ luật, chúng tôi chỉ chừa đủ một quần
xé ống tới đầu gối và một cái áo xé tay tới sát nách, để khi cần phải ra ngoài
hoặc lên cơ quan làm việc, còn bao nhiêu đều phải xé ra lau chùi khi đại tiện.
Trong thời gian kỷ luật, chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần.
Tuy nhiên, nhiều khi cán bộ bận việc hay có gì bất thường thì phải chờ lâu tới
ba tuần, nhưng ít khi nào quá một tháng mà chưa được tắm. Vì quá ba tuần mà
chưa được tắm là bọn tù chúng tôi kêu la tru tréo điếc cả tai. Trong trường hợp
đó buộc lòng phải cho đi tắm, nếu không phải vì lòng nhân thì ít ra để khỏi phải
bị quấy rầy.
Thật ra đối với tôi lúc đó, việc được đi tắm sớm hay muộn hơn một tuần lễ không
có gì đáng quan tâm. Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi
ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi như lên hương. Hai con mắt hoạt
động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải
rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì ít
giấy bao xi-măng làm vở viết học chữ Tàu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố công học.
Cơn mưa trái mùa
Đêm đó Huống nằm chung thớt với tôi. Tôi nằm sát vách và Huống nằm bên ngoài.
Hai người nằm song song và đôi chân bị xỏ xâu cùm chung một song sắt. Tôi cùm
chân phải, Huống chân trái. Một lúc khá lâu, gần tới giờ tắt đèn đi ngủ, Huống
kêu đau bụng và buồn đi cầu. Tôi cảm thấy như sắp gặp rắc rối.
Tôi vội ngồi lên chỉ cách cho Huống xoay người, bước một chân không bị cùm xuống
sàn. Huống loay hoay cố gắng làm theo cách thức tôi bày, nhưng không được. Nó
không biết xoay ngược người bước xuống sàn và quay lưng ra cửa sổ như thế nào.
Tệ hơn nữa, trước đó 2 người đã đi đại tiện và các ống bẩu đã nặng hơn. Trong
lúc đang bối rối như vậy thì Huống đứng thẳng trên thớt và kêu lên:
- Anh ạ! Cố giúp em! Khẩn trương “nên” anh, em đau bụng ‘nắm’ rồi!
Tôi đáp lời nhanh:
- Mầy cố khắc phục, để tao bảo thằng Tàu nằm phía ngoài bên kia biểu diễn
cho mày coi. Bước xuống! Mày đứng thẳng người trên bệ nằm như thế thì ỉa đái
cái chó gì được! Sao không tuột quần xuống đi, còn xấu hổ à?
Tôi quay sang bảo anh Trung Quốc nằm bên ngoài ở thớt bên kia đứng xuống và biểu
diễn màn đi cầu trong cùm. Anh Tàu bước một chân xuống và chụp lấy cái ống bẩu
biểu diễn cách đi cầu với chân trong cùm một cách nhẹ nhàng và đẹp mắt. Bên này
Huống ta cố gắng tối đa để làm theo, nhưng mặt mày nhăn nhó kêu đau vì móng cùm
cày vào cổ chân trong lúc anh cố gắng xoay người. Cổ chân anh gần chảy máu mà vẫn
không xoay người bước một chân xuống sàn được, vì cổ chân anh ta to mà móng cùm
lại nhỏ. Những móng cùm to hơn một chút thì bọn tù kỷ luật chúng tôi đã thủ mỗi
người một chiếc như vật gia bảo của mình rồi, khách vãng lai phải chịu thiệt
thòi hơn. Thấy không cách gì Huống có thể bước xuống sàn khi chân bị cùm, tôi hỏi:
- Mầy có thể khắc phục tới sáng ngày không Huống?
- Chết mất anh ơi! Em chột dạ ‘nắm’ rồi, sắp sửa ra quần rồi anh ạ!
- Vậy mày đứng trên thớt làm được không?
- Em phải cố thôi! Em chột dạ ‘nắm’ rồi. Xin anh giúp chuyền ống bẩu cho em với!
- Ban sáng mày ăn gì mà chột dạ?
- Em ăn “nạc” sống và uống nước “nạnh” vào! Khổ thân em!
Tôi bực mình nhưng buồn cười quá nói to nhưng thật vui:
- Khổ gì mày? Khổ tao thì có!
Nghe tôi to tiếng, Huống tưởng tôi nạt nên sợ cuống cuồng vội vàng
nói:
- Em xin anh! Em van anh!
Thái độ của Huống “điếu cày” lúc này càng làm tôi tức cười không chịu được. Mặt
mày nó nhăn nhó, tay chân cuống cuồng. Thấy thế, tôi bước xuống cầm hai ống bẩu
lên và bảo nó:
- Vậy thì mày đứng trên bệ, tuột quần xuống, đứng dạng hai chân và rùn
người xuống như cái thế con chó đang đứng ỉa! Mầy có trông thấy con chó ỉa bao
giờ chưa?
Huống đáp vội vàng:
- Có, có! Em còn ‘nạ’ gì chó ỉa cơ chứ!
- Được rồi! Một tay cầm ống bẩu nhỏ hứng phía trước, tay kia cầm ống bẩu
to này áp sát vào sau mông. Phải nhớ áp thật sát vào mông nghe mậy, nhưng mầy
thuận tay nào?
- Em thuận tay phải!
- Vậy mầy dùng tay phải cầm ống bẩu phía sau, vì nó nặng và khó điều khiển
hơn cái hứng nước tiểu phía trước. Nhớ phải cầm thật chặt nghe chưa?
Tội nghiệp Huống! Anh ta vô cùng vất vả mới cầm được hai ống bẩu
cho đúng tư thế. Trong khi đó sự đòi hỏi càng lúc càng khẩn trương!
Chỉ dẫn cho Huống xong, tôi nằm dài thẳng người xuống và nhìn lên. Cái ống bẩu
“hậu vệ” của Huống đang chỉa thẳng vào mặt khiến tôi lo ngại. Tội nghiệp anh tù
hình sự đang đứng trong một tư thế khom người rất kỳ dị. Đôi chân dang rộng,
hai đầu gối co lại, người rùn xuống thấp và khom lưng cong người về phía trước.
Tôi chưa trông thấy con người đứng trong thư thế đó bao giờ nên không biết diễn
tả đó là cái thế gì! Nếu gọi thế “xuống tấn” trong thái cực đạo thì đôi chân phải
dang rộng hơn, thân người phải thẳng và phải rùn người xuống thấp hơn mới đúng
thế. Xem ra nó hơi giống cái thế của các vận động viên bơi lội trước khi lấy đà
phóng xuống hồ bơi, nhưng chỉ giống ở cái lưng cong còn đầu gối các vận động
viên phải thẳng, không thể như hai đầu gối của Huống trong lúc đang đứng ngay
trước mắt tôi đây được.
Vì đã sống lâu năm ở đây, chứng kiến quá nhiều cảnh tù kỷ luật đứng đi cầu “nổi”
bằng hai ống bẩu, nên tôi mường tượng tới cảnh con chó đứng ỉa. Cũng may là Huống
khá thông minh! Tôi vừa nói cái thế chó ỉa là anh ta hiểu ngay, nhưng lúc này
anh ta biểu diễn không đúng lắm vì một cổ chân còn vướng vào cùm. Nhưng phải
nói anh ta biểu diễn không đến nỗi tệ. Tay trái Huống cầm ống bẩu nhỏ và dài
phía trước coi bộ đã ổn, nhưng tay phải choàng ra phía sau dường như chưa làm
chủ được cái ống bẩu có đường kính khá to và nặng, vì bên trong đã có phân. Nằm
dưới nhìn lên, tôi thấy tình thế quá đe dọa, tôi lo sợ lên tiếng:
- Huống! Huống! Đừng cầm trên miệng ống, không được đâu! Cầm ở lưng chừng một
phần ba ống bẩu mới được. Mầy cầm như vậy làm sao thúc sát vào mông được!
Tôi càng lên tiếng anh ta càng lụp chụp. Tôi nghĩ rất nhanh, phải ngồi lên cầm
giúp nó mới được, bằng không sẽ phải lãnh đủ. Tôi ngồi bật dậy, một tay vừa đụng
tới ống bẩu, chưa kịp nắm lấy thì bất thần tôi nghe một âm thanh lạ lùng và sắc
nhọn như tiếng gió gào qua khe cửa: “Phụụụụụụt!” Đồng thời với cảm giác ấm và nặng
như trận mưa tưới thẳng vào mặt tôi, cùng lúc với cái vị vừa chua vừa đắng ở đầu
lưỡi! Tiếp theo là bản hòa âm ngay bên tai tôi, nhưng chẳng giọng nào ăn khớp với
giọng nào. Có tiếng thì quá trầm như ếch kêu “Uỳụụp! Uỳụụp! Uỳụup!” hòa với tiếng
rít cao vút từng mây “Rooét! Rooét! Rooét!”
Bằng hành động phản xạ, tôi đưa hai bàn tay che mặt và nhắm mắt lại nên không bị
nước bắn vào mắt. Nhưng từ tóc, đầu, mặt, hai mu bàn tay và dài xuống tới ngực
lãnh trọn những gì tự nãy giờ bị nhốt trong bụng và đã hành tội Huống.
Tôi chợt nhận ra phản xạ kỳ diệu của mi mắt. Nếu cái gì có thể làm nguy hại cho
tròng mắt là nó tự động khép lại. Nhưng đôi môi con người lại không có được sự
phản xạ đó. Nếu mi mắt chờ tới khi nhận lệnh của hệ thần kinh mới làm việc
thì hôm đó không biết đôi mắt tôi sẽ ra sao.
Biết là tai họa xảy ra, Huống vội vàng quay người lại hốt hoảng la lên:“Ối giời
ơi! Ối giời ơi!” Trong lúc đó, một chân anh bị vướng trong cùm, tay kia cầm ống
bẩu phía trước, bàn tay phía sau bị ướt đẫm trơn trợt làm ống bẩu nặng tuột rơi
xuống đổ tháo, cứt đái vương vãi nằm lăn lóc bét nhè trên chăn chiếu của hai
người! Tôi buột miệng kêu: “Trời ơi là trời! Biết nói làm sao đây?”
Sự việc xảy ra quá nhanh và bất ngờ khiến không ai kịp phản ứng gì. Hai người
tù Trung Quốc bị cùm thớt bên kia nhìn thấy sự thể vụt ngồi lên chỉ trỏ và dùng
tiếng tục tĩu nhất rong ngôn ngữ Trung Hoa để chửi Huống. Mặc dù Huống không hiểu
tiếng, nhưng qua cách biểu lộ thái độ giận dữ anh ta cũng hiểu được hai anh tù
ngoại quốc này muốn nói gì. Huống đứng chết trân run rẩy vì sợ hãi, luôn miệng
kêu: “Anh ạ, em ‘nạy’ anh! Em ‘nạy’ anh xin tha cho em!”
Có lẽ trong thâm tâm lúc đó người tù hình sự đáng thương này nghĩ là anh ta đã
phạm một lỗi lầm quá lớn trong tù là dám ỉa vào mặt “đại ca”, và tội này đáng
chết! Huống ngồi bệt ngay xuống, không kịp lau chùi gì cả. Anh vội vàng cởi các
nút áo ra mà tôi biết là để lau chùi cho tôi và chờ cuộc phán xét. Tôi cũng vội
vàng ngồi lên và cởi cái áo đang mặc ướt đẫm ra lau mặt và lau tóc tai. Thấy
tôi ngồi dậy, Huống quay lại chắp hai tay trước ngực lạy tôi như tế sao, đôi
tay run rẩy, miệng lẩm bẩm:
- Em van ‘nạy’ anh, xin tha cho em! xin tha cho em!
Tôi chợt cảm thương Huống! Anh ta có tội gì đâu! Để bù lại cho nỗi lo sợ và
thái độ van xin của anh, nên tôi buột miệng nói một câu hài hước làm Huống vô
cùng ngạc nhiên. Cả hai anh Trung Quốc cũng lấy làm lạ sau khi nghe tôi nói dịch
ra tiếng Phổ Thông:
-Tao cám ơn mầy Huống! Trong kỷ luật tháng tắm hai lần, bữa nay mầy cho tao tắm
thêm một lần nữa là ba!
Nói xong tôi cười xòa, tay vỗ lên vai Huống và tiếp:
- Đừng sợ! Mày chẳng có lỗi gì cả. Đâu ai muốn như thế này. Chẳng qua vì hoàn cảnh
mà anh em mình đành phải chịu!
Huống cảm động nói như muốn khóc:
- Em cám ơn anh! Em cám ơn anh thương em!
Vừa nói, nó vừa lấy áo mình lau người cho tôi. Tôi để yên cho nó làm việc đó,
vì muốn chứng tỏ là tôi không buồn giận gì Huống cả. Chỉ có nụ cười của sự rộng
lượng mới cứu vãn được tình thế lúc bấy giờ.
Lạ một điều là mặc dù lúc đó tôi bị phân người bê bết trên mặt mày đầu tóc,
trên áo quần và chăn mền, nhưng khi lau khô rồi, tôi lại chẳng nghe mùi thối tha
gì cả. Điều này làm tôi ngạc nhiên về sự kỳ diệu của sự bão hòa khứu giác. Vì nếu
trong hoàn cảnh đó mà khứu giác chúng tôi hoạt động một cách nhạy bén bình thường
thì làm sao chịu được?
Đó là một tai nạn lớn, nhưng trong cái rủi cũng có cái may! May là việc này xảy
ra chỉ còn cách năm ngày nữa là tới lượt chúng tôi được xuống sông Mã tắm giặt.
Nếu tai nạn này xảy ra sau khi mới được đi tắm và phải chờ tới 15 ngày sau thì
cũng hơi căng! Hôm ngày đi tắm, nước sông Mã thượng nguồn rất trong và mát đã
giúp tôi tẩy sạch mọi thứ nhơ bẩn trên người, và quần áo chăn chiếu cũng được
giặt giũ cẩn thận. Hôm đó tôi lại cảm thấy mình trở nên thơm tho và tươi mát.
Tuy nhiên, nhiều người khác lại không cảm thấy như tôi. Và câu chuyện sau đây
chứng minh cho điều đó.
Một buổi sáng kia, nhóm tù trong khu kỷ luật chúng tôi cũng được ra tập họp
chung với tất cả những người khác dưới sân trại để cán bộ kiểm tra lại hồ sơ của
từng người. Lâu ngày mới được ra sân và rất mừng khi gặp lại anh em. Tôi liền
chạy tới ngồi bên cha Cao Đức Thuận mà tôi gọi là “Bố Thuận”, lúc bấy giờ ở khu
kiên giam. Cha Thuận rất thương tôi và chúng tôi đã từng sống và ăn uống sinh
hoạt chung ở trại Cổng Trời. Lâu lắm không được gặp nhau, nên khi thấy cha Thuận,
tôi mừng quá. Vả lại hôm đó lại được tiếp xúc tự do, nên tôi chạy ùa ngay tới
bên cha Thuận đang ngồi chung với các Linh mục khác.
Điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là thái độ của cha Thuận sao tỏ ra quá lạnh nhạt
với tôi lúc đó. Tôi thực sự không hiểu sao con người nhân hậu đó lại mau thay
tâm đổi tính như vậy. Hay cuộc sống khổ đau trong ngục tù đã biến “Bố Thuận”
thành con người khác rồi chăng? Lúc đầu tôi ngỡ là cha sợ cán bộ vì tiếp xúc với
tù kỷ luật, nhưng khi nhìn lại, tôi thấy cán bộ cho tiếp xúc tự do. Thái độ cha
Thuận làm tôi buồn nhưng không hiểu lý do.
Mãi về sau này, sau khi được tha ra khỏi nhà kỷ luật về sống chung với anh em
Linh mục khác, tôi mới biết lý do. Vừa gặp lại tôi, ngài nói ngay: “Chú còn nhớ
hôm ra sân kiểm tra hồ sơ không? Thấy chú tôi mừng và thương quá sức. Không ngờ
con người chú quá tàn tạ và ra nông nỗi đó. Nhưng khi chú tới ngồi cạnh bên làm
tôi buồn nôn quá. Tôi suýt ói tại chỗ. Tôi không thể chịu nổi nên phải quay mặt
đi, nhưng càng quay đi chú lại càng sấn tới. Lúc đó tôi không tiện nói, sợ chú
buồn. Trời ơi! Người chú lúc đó thối tha và tanh tưởi như một đống phân, không
tưởng tượng được!”
Ăn để sống
Người ngoài nhận xét về tôi như vậy, nhưng cuộc sống trong buồng kỷ luật hằng
ngày, thực tình chúng tôi không cảm thấy gì là khó chịu, là dơ bẩn cả. Việc ăn uống
và tiêu tiểu cùng một chỗ trong nhiều năm liên tiếp khiến tôi không còn coi đó
là vấn đề. Trong buồng không có mấy hôm là không bị be bét phân người. Nhiều
hôm, các ống bẩu không chứa hết và giờ mở cửa cho ăn khá muộn nên làm phân
trong ống bẩu sình lên và tràn cả ra ngoài lối đi. Thậm chí có nhiều lúc, sau
khi bưng các ống bẩu trong buồng đem đổ vào hố phân xong, anh trực sinh trở lại
chia thức ăn cho buồng. Chia xong anh bưng tô canh vào để trên trành cửa sổ.
Nhìn tô canh thấy phân người nổi lều bều trên mặt, chúng tôi chỉ việc dùng muỗng
hớt ra vất đi và chia nhau húp! Thức ăn trong nhà kỷ luật chỉ có thế, chúng tôi
phải ăn để sống còn.
Tù nhân trong kỷ luật bị phạt đủ mọi mặt, nhưng nặng nhất vẫn là phạt cái dạ
dày. Khi đói người ta thèm nhất là chất ngọt và chất béo. Chất béo còn đỡ,
nhưng thèm đường thì thèm một cách kinh khủng, thèm điên dại, thèm ngày thèm
đêm, thèm cả trong giấc mơ, thèm cả trong trí nhớ và tự trách mình sao lúc thừa
thãi đường thì lại không ăn. Có lúc tôi tự trách mình, tại sao lúc các cửa
hàng, các chợ bán đầy đường, đường trắng, đường vàng, đường đỏ, đường cục, đường
tán và đủ loại đường mà mình quá dại dột, không mua vài ba ký lô, hoặc 5 ký, 10
ký, 20 ký để ăn một lần cho đã!!!
Nhắc tới “đường” tôi nhớ lại một chuyện rất đau lòng. Sau khi bị đánh bầm giập
vì vượt ngục trước đó vài tháng, tôi bị cùm chung với một số bạn tù trong buồng
kỷ luật. Một ngày kia, một anh bạn tù được người nhà từ Sài Gòn ra thăm nuôi.
Dĩ nhiên là người nhà đâu có hay anh đang bị cùm kỷ luật. Lần đó vì đang bị cùm
nên anh bạn không được ra nhà khách gặp thân nhân, nhưng được nhận hơn chục ký
thức ăn. Khi đưa thức ăn vào, cán bộ trực trại chỉ cho mang một ít thức ăn vào
buồng, còn lại phải để trong phòng xép bên ngoài. Cán bộ cho anh mang vào
một ít thức ăn tươi và một gói chừng hơn ký lô đường móng trâu. Lúc đó tất
cả đều đang đói và thèm thuồng đủ thứ.
Trong hoàn cảnh “lá rách đùm lá nát”, anh đã chia sẻ cho anh em trong buồng mỗi
người một ít thức ăn tươi và một thỏi đường khá lớn. Không gì hạnh phúc hơn
trong lúc này. Trống ngực tôi đánh như “trống chầu” khi đưa tay nhận phần chia
sẻ của người anh em bạn tù. Lòng tôi lâng lâng niềm xúc động. Miệng lắp bắp lời
cám ơn như em bé nhận được món quà quí mà em hằng ao ước. Tôi trịnh trọng đặt
miếng đường xuống như nâng niu viên ngọc quí! Cứ sợ rơi, hoặc giả tự dưng nó biến
mất thì chắc là tôi cũng “biến” theo.
Nhìn miếng đường mà tôi cứ mãi thầm cám ơn anh bạn vì lòng tốt bao la đã chia sẻ
cho tôi. Tôi nâng niu và mân mê nó cứ như là chưa bao giờ thấy hoặc sờ tới miếng
đường. Tạ ơn Trời và cám ơn lòng tốt của người anh em bạn tù, tôi từ từ đưa thỏi
đường lên miệng, cắn từng miếng một như đưa dần cả hồn sống và sức sống vào người
tôi. Cứ thế, tôi thưởng thức thỏi đường cho đến khi nó bao trùm thân thể tôi
trong đê mê và hạnh phúc! Tôi mút mấy ngón tay đã từng nâng niu thỏi đường như
không muốn một chút hương vị ngọt nào bị lãng phí bay vào không gian vô tận.
Sau giây phút đê mê, tôi thấy nhớ da diết thỏi đường mà tôi đã đánh mất vào
thân thể tôi. Tôi nhớ và thèm nó như điên dại!
Thật vô cùng quý cho mỗi người chúng tôi khi nhận được được những gì anh bạn
chia sẻ. Nhưng như tôi đã nói, trong cơn đói tột cùng đó tôi nghĩ có thể ăn một
lúc chừng 5 ký lô đường mới đã cơn thèm! Nghĩ thương cho anh bạn, chắc chắn anh
cũng thèm đường như tôi. Dĩ nhiên anh phải giữ lại cho riêng mình một phần quà
mà gia đình mang ra. Vì tế nhị nên anh không ngồi ăn trước mặt mấy bạn tù còn lại.
Đợi đến đêm anh mới âm thầm mở gói và nhẹ nhàng thưởng thức sự hạnh phúc như
thiên đàng mà chất ngọt của đường mang lại.
Khổ nỗi, tôi nằm bên cạnh anh, mỗi lần nghe anh cắn miếng đường là ruột gan tôi
lại quặn đau vì thèm khát. Tôi muốn phát điên vì thèm! Khi nghe tiếng anh nhai,
tự nhiên cơ thể tôi run bần bật như người lên cơn sốt rét vì thèm đường. Tôi
run mà không cách gì kềm lại được. Tôi cố nằm dịch ra, không chạm vào người sợ
anh biết là tôi đang run. Bản năng sinh tồn thúc giục tôi mãnh liệt là phải mở
miệng xin anh một chút đường để ăn cho đã cơn thèm, nhưng đồng thời lý trí tôi
cũng còn đủ nghị lực phản kháng bản năng sinh tồn. Trong khi cơ thể đang run bần
bật đó, tôi đã dùng hai ngón tay đút thật sâu vào hai lỗ tai để cố không nghe
tiếng nhai sát bên tai.
Lúc đó tôi để tâm trí về dĩ vãng và nhớ lại thời trước lúc tôi còn làm việc ở
Vĩnh Long. Một lần có dịp về Quận Chợ Lách chơi và ghé vào thăm gia đình cha
Oai là bạn tôi. Cha Oai có người anh làm chủ lò đường mía, lúc ra về anh biếu
tôi 10 ký đường hột xoài làm quà. Mang 10 ký đường về tôi cũng chẳng biết
làm gì với nó, mà để trong buồng thì đàn kiến lại tấn công. Tôi bèn gọi người
quen nhận giùm và khi cô cháu mang bao đường ra khỏi phòng tôi cám ơn rối rít.
Lúc nằm nhớ lại tôi tự nghĩ: “Việc cho đi bao đường đó là hành động dại dột nhất
mình đã làm trong đời!”
Mấy ngày sau anh bạn tù tốt bụng vẫn chia sẻ thức ăn cho chúng tôi, nhưng rồi lại
có chuyện xảy ra. Một hôm, sau khi chia thức ăn ban chiều xong và cùm chúng tôi
lại, hai anh trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát mở cửa buồng xép và ăn cắp
thức ăn của anh bạn tù, cho vào xoong đậy nắp lại và mang ra ngay trước những
con mắt chết đói của chúng tôi. Có lần anh bạn tù tức quá chịu không nổi, đứng
trong buồng nhìn hai tên trật tự ăn cắp thức ăn của mình mang ra, anh định la
lên “Quân ăn cắp!”, nhưng tôi ngăn lại vì biết hậu quả sẽ không lường được với
hai tên hung thần này (hiểu theo nghĩa thật chính xác) trong nhà tù Thanh Cẩm
lúc đó.
Trong khi tù đang chết đói thì thức ăn của anh bạn tù tốt bụng của chúng tôi lại
bị để trong buồng xép! Mỗi ngày khi cho ăn, anh bạn tù đã phải van xin năn nỉ
cán bộ mới cho nhỏ giọt một ít mang vào buồng. Mấy ngày sau đánh mùi được thức
ăn, bầy chuột đói trong trại tù chui vào tấn công ăn gần hết những gì hai tay
trật tự Thi - Phát còn để sót lại và đái ỉa be bét vào. Những ngày tiếp theo, lần
nào gặp cán bộ anh bạn tù cũng năn nỉ “xin quà” như một điệu nhạc buồn kéo dài.
Cho tới một hôm Bùi Đình Thi thi chấm dứt bi kịch này bằng câu nói ngắn gọn:“Quà
anh chuột ăn hết rồi!” Tôi nhớ mãi vẻ mặt đau thương của anh bạn tù khi nghe
câu nói đó. Mà ai lại không cảm thấy đau khổ và xót xa khi bị kẻ khác ăn cướp một
phần sự sống của mình? Trật tự Bùi Đình Thi nói đúng, quà của anh bạn đã bị chuột
ăn hết rồi, cả chuột bốn chân lẫn “chuột hai chân”. Loại “chuột hai chân” ăn mạnh
hơn nhưng nhân đạo hơn vì ăn mà không đái vào chỗ còn lại, còn loại bốn chân
thì “mất dạy” hơn, vừa ăn lại vừa đái vào!
Anh bạn tù là người đầu tiên được gia đình thăm nuôi trong nhà kỷ luật mới này,
và sáng kiến giữ quà lại trong buồng xép của cán bộ sĩ quan công-an người Mường
là trung úy Bộ, vô tình trở thành một tiền lệ. Một tiền lệ rất tai hại! Về sau
này tất cả những ai có gia đình thăm nuôi hoặc nhận quà gửi theo đường bưu điện
cũng phải chịu hệ thống này. Đám chuột đủ loại hoạt động mạnh hơn, trở nên mập
béo hơn! Đám tù kỷ luật chúng tôi lại chịu thêm một cực hình mới của cái cảnh
“Cám treo để heo nhịn đói!”
Người nhà chúng tôi từ miền Nam cách xa hàng ngàn cây số lặn lội ra tới đây
thăm nuôi và quà cáp gởi ra tới trại cho chúng tôi thì bị chặn lại để xó cho
“lũ chuột” hoành hành, trong lúc chúng tôi đang chết đói. Từ đó, những cái gật
đầu của cán bộ sau khi anh tù khổ chủ khép nép xin được ăn một tí quà của chính
mình được coi là một ân huệ!
Vì đói triền miên nên tất cả những người ở kỷ luật lâu ngày như tôi chỉ còn lại
có da bọc xương. Tôi vẫn còn nhớ được vài chi tiết về hình hài của mình lúc đó
và có thể dùng than vẽ lại con người có đầu gối to bằng rưỡi bắp đùi, bao nhiêu
xương sườn lòi ra hết và bụng lép như bụng nhái.
Lúc xỏ chân vào cùm xong, tôi thường ngồi nắm cổ chân nằm gọn giữa vòng tròn
ngón tay cái và ngón tay giữa, xoay đi xoay lại như đang nắm cái ống bơm xe đạp.
Khi nằm ngửa trên chiếu, tôi phải dùng hai mu bàn tay lót dưới mông vì hai mảnh
xương dẹp sau mông lòi ra, bén như một lưỡi dao mài sát thẳng xuống chiếu đau
không chịu được. Tìm đâu ra cái gì để lót bên dưới, trong khi áo quần còn không
có để mặc!
Cái lưỡi mèo
Thức ăn thì mùa nào thức ấy. Thông thường nhất là ngô, khoai và sắn, cơm trắng
rất hiếm. Có khi còn cho ăn cả bã đậu nữa. Những hôm như vậy, chúng tôi đành phải
nhịn đói vì không làm cách gì có thể tống món đó vào dạ dày cho được, mặc dù
đang đói mềm người. Có một dạo trại cho kỷ luật ăn bột luộc mà chúng tôi gọi là
“lưỡi mèo”, vì những miếng bột luộc này trông thật giống cái lưỡi mèo. Trong kỷ
luật tuy khổ nhưng thỉnh thoảng có cái vui của nó như chuyện lần đầu chúng tôi
được cho ăn bột luộc.
Chiều hôm đó tới giờ cho ăn, anh trực sinh mang vào buồng tôi, lúc đó là 5 người,
đặt lên thành cửa sổ cái nồi nhôm khá to hằng ngày vẫn dùng để đựng sắn, khoai.
Khi nhìn vào, chúng tôi chỉ thấy miếng bột luộc màu xám, to đúng bằng bao thuốc
lá! Chúng tôi nhìn nhau lắc đầu hỏi:“Thế này là thế nào?” Và chúng tôi nghĩ là
nhà bếp chia lộn phần ăn của một người cho buồng 5 người chúng tôi. Nghĩ thế
chúng tôi không chia ra và ngồi chờ lúc điểm danh sẽ khiếu nại với cán bộ. Mấy
tiếng đồng hồ sau đánh kẻng và cán bộ lên. Khi vừa tới buồng, tôi ngồi trong
cùm nói vọng ra thật to:
- Báo cáo cán bộ, tôi có thắc mắc!
Anh cán bộ ngạc nhiên, tới bên ngoài cửa sổ hỏi vọng vào, giọng sắc
như dao cạo:
- Gì thế?
- Báo cáo cán bộ, buồng này bị chia nhầm thức ăn.
Anh cán bộ tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Sao lại có thế. Nhầm thế nào?
Tôi nói giọng quyết liệt hơn:
- Báo cáo cán bộ, buồng này năm người mà chỉ cho một phần ăn. Chúng tôi
còn để đây chờ cán bộ giải quyết!
- Đâu, đưa tôi xem nào!
Tôi lẹ làng bước chân phải xuống sàn, chồm gần tới cửa sổ trong khi chân trái
đang dính trong cùm giơ thẳng về phía sau như tư thế của người đang tập
“Tai-Chi”. Tay tôi bưng cái bát sắt thủng đáy mà tôi đã vá lại bằng vỏ nhôm của
cây kem đánh răng và cái “bao thuốc lá” nằm gọn giữa lòng bát. Khi vừa nhìn thấy
miếng bột luộc, anh cán bộ nói ngay:
- Các anh này buồn cười! Đây là tiêu chuẩn cho 5 người! Nhầm thế ‘lào’
được?
Tôi ấp úng, trong lúc đưa một tay lên gãi đầu:
- Báo cáo cán bộ, nhưng...
- Nhưng cái gì? Cũng bằng ấy tiêu chuẩn bột, nhưng khi ‘‘lướng’’ thì to ra, còn
khi ‘‘nuộc’’ thì bé. Anh hiểu chưa?
Thấy tôi đứng lặng yên có vẻ chưa hiểu ra vấn đề, anh cán bộ vội kết thúc ngay
cuộc đối thoại bằng câu nói tạo hiệu quả rất nhanh. Vừa nói anh vừa với tay cầm
cái bát có “bao thuốc lá” nằm gọn lỏn bên trong và phán:
-Thế các anh có ăn không thì bảo?
Tôi sợ anh ta bực mình lấy “bao thuốc lá” đi thì khốn. Thà có ít
còn hơn không, nên đáp vội, vừa nói vừa rụt bát vào:
- Báo cáo cán bộ có, có, có! Chúng tôi ăn!
Người cán bộ mỉm cười bỏ đi. Tôi đoán không phải anh cười vì chúng tôi hiểu lầm
phần ăn của một hay năm người, nhưng có lẽ cười vì thái độ của tôi trong câu
nói sau cùng.
Những thường trú nhân
Khu kỷ luật trại tù Thanh Cẩm có thể coi như một cơ sở cư trú. Ngoài tôi ra như
một quản gia, còn lại ba hạng người khác làm thành nét sinh hoạt độc đáo của cơ
sở này. Ba hạng người đó là những thường trú nhân, những khách kiều cư là những
người tù Trung Quốc và cuối cùng là khách vãng lai. Thường trú nhân là những
người ở đây dài hạn. Có những người đến đây ngay từ ngày đầu với tôi, có người
mới dọn tới sau nhưng còn lưu lại sau khi một số có mặt ngay từ lúc đầu đã dọn
ra.
Có mặt ngay từ buổi đầu với tôi gồm có những người dính líu trong vụ vượt ngục
ngày 2 tháng 5 năm 1979 như các anh Nguyễn Sỹ Thuyên, Trịnh Tiếu và Linh mục
Nguyễn Công Định. Trong ba người này thì anh Trịnh Tiếu ở lâu nhất, có lẽ trên
dưới hai năm. Ngoài ra có Linh mục Phạm Quý Hòa dọn tới sau nhưng cũng ở đây thời
gian rất lâu, vì tội “bóp dái ngựa”. Ngoài những người tù Trung Quốc mà
tôi sẽ đề cập tới, thì có lẽ bốn người này sống trên kỷ luật lâu nhất, từ một tới
hai năm.
Về phía các Linh mục, ngoài cha Hòa và cha Định, tôi còn nhớ năm Linh mục khác
thuộc diện khách vãng lai là các cha Trần Văn Nghị, Nguyễn Công Thành, Phạm Hữu
Nam, Đinh Cao Thuấn và Mai Quang Bao, Riêng trường hợp Linh mục Phạm Chí Hùng
vì bị cưa chân nên gởi tạm và ở một mình trong phòng 6 khu kỷ luật một thời
gian khá lâu. Có chuyện lạ, Linh mục Phạm Hữu Nam lại được xách gói ra về trong
thời gian đang bị kỷ luật. Điều này làm tôi nhớ mãi, và sự kiện này càng củng cố
thêm câu nói:“Không ai hiểu được chuyện cách mạng làm”. Một Linh mục đang bị ở
khu kỷ luật mà lại được xách gói ra về! Đúng là chuyện lạ khó tin nhưng có thật!
Trước đó không lâu có trường hợp bất ngờ của anh Nguyễn Đức Cảnh, trước kia là
một phó Quận trưởng, dọn lên kỷ luật trong một đêm tối vào buồng tôi. Những
ngày tiếp theo anh buồn rầu và tỏ ra thất vọng một cách rõ rệt, khác với thái độ
chịu dựng của đa số người bị đi cùm. Tôi hỏi lý do, anh cho biết là dưới làng,
anh thuộc diện cải tạo rất tốt, không hề bỏ một ngày lao động, không hề phát biểu
linh tinh, chưa bao giờ vi phạm nội quy và các điều khoản “nếp sống văn hóa mới!”
Vì thành tích lẫy lừng như vậy nên anh tự nghĩ rằng trong đội anh nếu người được
tha về phải là Nguyễn Đức Cảnh, không thể rơi vào ai khác.
Vào thời đó, ngoài những dịp thông thường có đợt tha như Tết Tây, Tết Ta, lễ Quốc
Khánh, lễ Lao Động v.v... còn có những trường hợp “đột xuất” được gọi tên ra về,
và điều này càng kích thích nhiều người nuôi hy vọng.
Chiều tối hôm đó, trật tự Bùi Đình Thi vào buồng gọi:“Anh Nguyễn Đức Cảnh, mang
tất cả nội vụ ra! Cảnh ta nghe gọi tên mình, tưởng là được gọi ra về sướng như
lên mây xanh, mặt mày tái mét. Các anh em trong buồng bu quanh bắt tay chúc mừng.
Cảnh tay chân run rẩy vì niềm vui bất ngờ quá lớn, vội vàng phân phát tất cả thức
ăn và đồ đạc cho các bạn trong buồng. Anh còn thức ăn khá nhiều vì cô chị vợ mới
ra thăm nuôi mấy ngày qua, vợ anh đã vượt biên và đang ở Mỹ gửi tiền về khá rộng
rãi cho cô chị giúp thăm nuôi Cảnh.
Anh vẫy tay chào anh em và bước ra khỏi buồng, chỉ có mấy bộ quần áo trong cái
túi xách nhẹ tưng. Khi ra tới ngoài, trật tự Bùi Đình Thi đưa Cảnh thẳng lên kỷ
luật, mở cửa tống vào buồng 3 của tôi. Cảnh vào buồng kỷ luật mang tâm trạng của
con người vừa trên mây rớt xống. Vừa thất vọng, vừa bị cùm chân, vừa sử dụng cầu
tiêu ống bẩu, lại vừa không thể nào nuốt được mấy củ sắn luộc chấm nước muối
trong khu kỷ luật, trong khi tất cả thức ăn bổ béo từ Miền Nam đưa ra, Cảnh đã
phân phát hết rồi. Cái lon Guigoz là báu vật để đựng nước uống trong nhà kỷ luật
anh cũng không có, anh còn nói là vừa cho đi gần hai chục cái lon Guigoz.
Mấy ngày sau Cảnh như người mất hồn. Tới giờ cán bộ lên cho ăn, anh hỏi cán bộ
anh bị tội gì mà lên đây, cán bộ trả lời:“ Anh này buồn cười! Tội của anh mà
anh không biết thì làm sao người khác biết? Anh đừng có giả vờ! Cảnh ta điên đầu
vì câu trả lời kiểu huề tiền đó! Một hôm anh hỏi trật tự Bùi Đình Thi. Anh hỏi
mãi mới được Bùi Đình Thi chiếu cố và trả lời như sau: “Anh thì cải tạo tốt
nhưng anh lại quan hệ với người cải tạo không tốt”!
Lúc bấy giờ Cảnh mới vỡ lẽ ra. Mấy ngày trước trong buồng có một người tù nằm kế
bên anh, ăn nói linh tinh đụng chạm tới chính sách. Cảnh ngồi dựa lưng vào tường
nghe mà không chịu đi báo cáo. Có người khác lại báo cáo việc này với trật tự.
Thế là Cảnh bị vác chiếu đi cùm. Nếu tôi nhớ không lầm thì phải hơn một tháng Cảnh
mới được xuống làng để bắt đầu chu kỳ “cải tạo tốt” khác. Tôi còn nhớ mãi lúc Cảnh
buồn quá, luôn miệng hát đi hát lại bản nhạc có mấy câu sau đây:‘‘Ngày một ngày
hai tiễn biệt nhau. Chẳng được cùng nhau chung lối sầu. Nhớ chuyện thế gian cười
ngặt nghẽo. Cùng buồn những chuyện thế gian đau!’’
Anh Cảnh là một tín đồ Công giáo ngoan đạo, và tôi rất quý mến anh trong thời
gian sống chung trong khu kỷ luật.
Những khách kiều cư
Sự có mặt của 15 người tù Trung Quốc trong khu kỷ luật suốt thời gian tôi ở đó
cũng tạo cho cuộc sống có vẻ riêng biệt. Khi tôi ở kỷ luật được 3 tháng thì
toán tù Trung Quốc từ khu K2 chuyển vào đây. Trông họ rất bệ rạc, rách rưới,
lang thang lếch thếch, tay xách nách mang. Nhìn vào biết ngay là “ba tàu”!
Trong nhóm có vài anh rất cao và to. Có nhiều người gầy còm và vài anh nhỏ thó,
tạo thành một nhóm người đầu thừa đuôi thẹo. Tới nơi, họ được phân chia ra các
buồng kỷ luật và sống lẫn lộn với những người tù Việt Nam, cả chính trị lẫn
hình sự. Hỏi ra tôi mới biết những anh tù Trung Quốc này có người đã bị giam
hàng chục năm rồi và đã trải qua nhiều trại khác trước khi được chuyển về đây.
Tất cả đều mang chung tội danh là “Gián điệp Trung Quốc”.
Sống chung một thời gian, tôi biết có mấy anh qua biên giới để buôn bán thuốc
men, đồng hồ, vải vóc mà bị bắt. Cũng có vài anh vì hoàn cảnh chính trị phải chạy
thoát thân qua biên giới tìm cách trà trộn vào với đồng bào thiểu số, thay danh
đổi họ để tìm cách sinh sống. Có người tìm đường vượt biên qua Miến Điện. Có
anh là Vệ binh đỏ của Mao Trạch Đông trước kia, nay bị trả thù phải chạy trốn.
Đa số họ nói tiếng Phổ Thông. Một vài anh nói cả tiếng Quảng. Có mấy người biết
chút ít tiếng Việt học được trong các trại tù ở Việt Nam. Nói chung, họ rất tạp
nham về nhiều mặt. Vài anh thật hiền hậu dễ thương, nhưng cũng có mấy người gốc
là tướng cướp đã từng cướp của giết người và sống ngoài vòng pháp luật trước
khi bị bắt. Họ mang theo bản chất lưu manh, bạo tàn hung ác vào đây để đóng góp
thêm cho cái đáy địa ngục trần gian này. Sự đói khổ triền miên và bị cùm trong
những lò hấp người có tường rào bao bọc này đã làm vài người trong bọn họ phát
triển tột cùng bản chất dã man mà trước kia chưa có dịp mang ra thực hành. Nhất
là khi vào tù, có dịp sống chung một buồng và có thể cấu kết nhau để tạo sức mạnh,
họ trở thành những con người thật đáng sợ.
Những người tù xa tổ quốc này chỉ có một ý định duy nhất trong đầu là làm thế
nào để được sống còn. Họ làm hết cách để khỏi chết đói trong những nhà tù Việt
Nam có quá nhiều tù nhân chết vì đói này. Để có được miếng ăn, họ sẵn sàng trở
thành những tên nô lệ, nịnh bợ, đầy tớ cho những người tù có thể bố thí cho họ
một chút gì để ăn hoặc vật gì để dùng làm phương tiện kiếm ăn. Ngược lại, họ
cũng sẵn sàng dùng sức lực để áp đảo, đánh cướp, giết người hoặc bất cứ một
hành động bạo tàn nào khác để được có miếng ăn. Lúc bơ vơ và thất thế, họ tự biến
thành những con chó con, nhưng khi có vây cánh, họ sẽ biến ngay thành một bầy hổ
đói.
Trong bọn họ có những tay thật dữ dội, nhưng có những anh rất hiền tư,ø ốm yếu
mà mấy anh đầu gấu kia gọi là “kho dự trữ”. Ý muốn nói nếu họ không còn kiếm
chác được thức ăn nơi nào khác thì quay về với “kho dự trữ “ trong buồng này, bằng
cách trấn lột phần ăn trại phát cho đám tù ốm yếu. Khi nào bọn đàn anh còn cào
cấu được nơi khác thì tạm thời nhóm tù Trung Quốc trong “kho dự trữ” này còn được
ăn trọn phần ăn chết đói của trại phát mỗi ngày.
Trong khi đó, về phía những người tù Việt Nam nói chung và những tù chính trị
miền Nam chúng tôi nói riêng, mặc dù cũng đói khổ nhưng nếu sánh với những người
tù Trung Quốc này, chúng tôi còn may mắn hơn nhiều. Tù hình sự miền Bắc được
gia đình thăm nuôi tiếp tế. Họ chẳng có quà cáp gì nhiều. Hầu hết là một ít gạo,
ít ruốc, vài cái bánh chưng, một ít hoa quả , chè Tàu và vài bánh thuốc lào.
Quanh đi quẩn lại chỉ có chừng ấy, vì đồng bào miền Bắc rất nghèo. Của ăn ở nhà
còn không có lấy đâu tiếp tế nhiều cho chồng con trong tù.
Chúng tôi, những người tù miền Nam thì xa xôi hơn, nhưng về điều kiện kinh tế
thì khá hơn bà con miền Bắc. Những năm đầu, mặc dù chúng tôi chưa được gặp gia
đình nhưng thỉnh thoảng có nhận được quà gởi ra theo đường bưu điện, trong đó
có thực phẩm và thuốc men. Tuy số lần nhận quà rất hạn chế, mỗi 3 tháng được nhận
gói quà không quá 5 ký lô, nhưng chừng ấy cũng giúp rất nhiều cho những người
tù duy trì được sự sống. Nếu có những người gia đình khá giả thì nhận quà đều đặn
và có chất lượng. Ngược lại, có nhiều người không có thân nhân hoặc gia đình
khánh kiệt nên chẳng có quà cáp gì. Thỉnh thoảng lâu ngày được một gói nhỏ có
ít thức ăn.
Hoàn cảnh bắt đầu khá hơn khi có chính sách cho người nhà miền Nam được phép ra
Bắc thăm nuôi tù trại Thanh Cẩm. Chính sách này bắt đầu từ năm 1979, tức là 4
năm sau khi đợt tù miền Nam bị đưa ra Bắc. Đối với các trại khác tôi không biết
rõ. Có thể chính sách thăm nuôi xảy ra sớm hơn. Điều này cũng được coi như là
chính sách nhân đạo của đảng và nhà nước, nhưng cũng có thể được xem như một
chính sách lợi dụng, vì lúc đó cả nước đói khổ, chính phủ không còn đủ sức nuôi
tù và đã có quá nhiều tù nhân miền Nam chết đói trong các trại tù miền Bắc.
Khi có những đợt thăm nuôi thì đồng tiền và của cải bắt đầu vào trại. Do đó, vị
thế giai tầng xã hội trong tù lại được phân định rõ ràng. Những người có của sống
cao hơn, những người không có gì phải chịu lép vế. Nếu những năm trước tất cả
những người tù miền Nam bình đẳng nhau trong cảnh chết đói, thì nay của cải đã
nâng nhiều người lên bậc ông chủ. Đồng thời nó cũng giáng cấp nhiều người xuống
thành “lái xe”. Lái xe là tiếng dùng để chỉ những anh tù nghèo không có thăm
nuôi tiếp tế phải phục vụ cho những anh tù có của khác trong nhóm sinh hoạt
chung. Trong tình thế đó, nhóm “lái xe” rành nghề nhất là các anh tù Trung Quốc.
Học tiếng Phổ Thông
Đầu năm 1980, tôi sống chung buồng kỷ luật với hai anh Trung Quốc và một người
bạn tù miền Nam là anh Lê Thiên Bảo. Nhờ có Bảo nên trong buồng tôi có thế quân
bình và tôi không bị hai anh tù Trung Quốc áp đảo. Bảo là một Hoa kiều ở Chợ lớn,
bằng tuổi với tôi. Trước kia anh là võ sư huấn luyện viên Thái Cực Đạo của Tổng
Nha Cảnh sát Quốc gia. Anh đã cùng đi với tôi trên tàu Sông Hương ra Bắc, ở
chung trong trại Nam Hà, cùng bị đày đi Cổng Trời rồi cùng về trại Thanh Cẩm
này với tôi trong nhóm “48 Quyết Tiến”.
Lúc vào tù anh có dịp được sống gần với các Linh mục và nhận thấy đời sống bác
ái tốt đẹp của những con người tù đặc biệt này nên anh muốn tìm hiểu về Đạo
Chúa. Lúc anh em sống chung trong kỷ luật, tôi đã giúp anh về Giáo lý Công giáo
và sau này anh đã xin chịu phép Rửa tội. Với bản chất nhân hậu và tính nết hiền
hòa của một võ sư, anh rất được nhiều người quý mến và nể phục.
Anh Lê Thiên Bảo đồng thời cũng là người giỏi về ngôn ngữ. Anh nói cả tiếng Việt,
biết chữ Nho lẫn tiếng Phổ Thông và Quảng Đông. Ngày ngày, trong buồng Bảo nói
tiếng Việt với tôi và tiếng Phổ Thông với 2 anh Trung Quốc. Ba người họ nói tiếng
Phổ Thông với nhau nhanh như gió. Giọng líu lo như tiếng chim hót và nghe tiếng
nào tiếng nấy đều giống y như nhau. Lúc đó, tôi chưa biết một tiếng Tàu nào cả.
Khi nằm nghe họ nói chuyện, tôi thầm nghĩ trong lòng:“Trời! Bộ óc của con người
là cái gì mà người ta có thể hiểu được thứ ngôn ngữ quái đản này”.
Một trong hai người Trung Quốc là anh Lý Đức Nghĩa, gốc người Hồ Nam, nguyên là
một Vệ binh đỏ của Mao Trạch Đông. Sau khi Vệ binh đỏ thất thế và bị ruồng bắt,
anh ta phải bỏ nước chạy trốn qua Việt Nam sống bằng nghề lục lâm thảo khấu.
Cũng nên biết là khi Mao Trạch Đông nắm quyền ở Trung Quốc, ông ta muốn thanh
trừng các đồng chí cũ có thể tranh giành quyền lực với ông nên đã dùng sinh
viên học sinh là Vệ binh đỏ và phát động phong trào cách mạng văn hóa để có lý
do thanh trừng các cán bộ cao cấp trong hàng ngũ lãnh đạo. Nhiều đồng chí cũ của
Mao đã phải chết vì tay Vệ binh đỏ. Sau này khi phong trào Vệ binh đỏ lên cao
và lộng hành, Mao lại dùng quân đội tiêu diệt Vệ binh đỏ. Vì thế Lý Đức Nghĩa
phải trốn chạy thoát thân qua Việt Nam.
Anh ta sùng bái Mao Trạch Đông một cách điên cuồng và tỏ thái độ khinh bỉ Cộng
sản Việt Nam ra mặt. Anh ta nói Cộng sản Việt Nam là tớ phản thầy. Trước kia đội
Trung Quốc lên đầu, sau này chửi lại Trung Quốc. Nghĩa bị bắt vào tù hàng chục
năm nay với tội danh “gián điệp Trung Quốc”. Mặc dù sống trong tù Việt Nam lâu
năm nhưng anh ta không nói được một câu tiếng Việt nào. Tuy nhiên nghe thì anh
hiểu.
Anh chàng Lý Đức Nghĩa này người to cao và tính chất lưu manh hiện rõ ra tới
ngoài da! Nhất là cặp mắt của anh ta. Anh có cặp mắt thật trong và hẹp như mắt
sư tử. Mắt có đuôi dài và lúc nào cũng láo liên. Thỉnh thoảng liếc nhìn trộm.
Có lúc tôi nghĩ, họa sĩ nào muốn tìm người mẫu để vẽ đôi mắt lưu manh nhất thì
phải tìm tới anh chàng này. Lý Đức Nghĩa là một hiện tượng để lại trong tôi nhiều
điều khó quên, vì anh ta có nhiều cái “nhất” trong nhóm tù Trung Quốc. Nói tiếng
Phổ Thông đúng giọng nhất, vì quê hương anh rất gần Bắc kinh. Khéo tay nhất, chỉ
cần vất cho anh một mảnh vải, chừng tiếng đồng hồ sau anh đưa lại một cuộn chỉ
được xe bằng hai đầu ngón tay, đẹp không thua chỉ làm trong nhà máy. Ở dơ nhất,
anh ta chưa bao giờ cầm cái bàn chải đánh răng, nên khi anh cười để lộ hàm răng
trông giống như mảnh gỗ mục ngâm dưới nước lâu năm bị rong rêu và sò ốc bám tua
tủa! Có lần tôi hỏi:
- Nghĩa à, tao lấy làm lạ, tại sao mầy không đánh răng?
Nó trả lời tôi:
- Mao chù xí (Mao chủ tịch) có bao giờ đánh răng đâu mà cũng làm chủ tịch
Trung Quốc vĩ đại, cai trị hàng tỷ dân!
Thì ra anh chàng “Lỳ Tợ Dí” (Lý Đức Nghĩa) này sùng bái Mao Trạch
Đông một cách điên cuồng, ngay cả sùng bái cái việc Mao suốt đời không bao giờ
đánh răng! Và dĩ nhiên Lý Đức Nghĩa lưu manh nhất đám.
Lợi dụng hoàn cảnh sống chung với mấy anh Trung Quốc đó, và qua sự khuyến khích
của Lê Thiên Bảo, tôi quyết tâm học cho bằng được một ngôn ngữ mới, đó là tiếng
Phổ Thông. Tôi bắt đầu học nói trước và học viết sau, vì lúc đó trong buồng
không có bút giấy.
Tôi chọn thời điểm dễ nhớ là vào sáng ngày 1 tháng Giêng năm 1980 và câu nói tiếng
Quan Thoại đầu tiên là:“Chị tôi từ Sài Gòn ra thăm tôi”. Lý Đức Nghĩa giúp tôi
luyện giọng và Lê Thiên Bảo giúp tôi dịch nghĩa tiếng Việt và chữ Nho. Bước đầu
thật vất vả. Mỗi đêm, chân trong cùm, Lý Đức Nghĩa nằm kể chuyện về phong trào
Vệ binh đỏ bên Trung Quốc, Lê Thiên Bảo dịch lại, còn tôi chú ý lắng nghe từng
tiếng phát âm của Nghĩa. Thỉnh thoảng tôi kêu dừng lại để tôi tập phát âm cho
đúng những tiếng tôi muốn học.
Tôi muốn nhắc lại để nhớ ơn của Lý Đức Nghĩa và Lê Thiên Bảo. Nhờ hai người đó
tôi học được một ngôn ngữ mới mà có hàng tỷ người trên thế giới sử dụng. Tôi
quyết tâm học cho bằng được và cố gắng ngày đêm. Khi đã nói được chút ít, hàng
đêm tôi dùng ngôn ngữ này kể các câu chuyện trong Kinh Thánh cho các anh tù
Trung Quốc nghe và dặn chỗ nào tôi nói sai thì chặn lại để tôi sửa.
Sau hai năm miệt mài và lúc nào cũng có dịp sống chung buồng với một anh Trung
Quốc nào đó, nên ngay trong lúc còn ở khu kỷ luật tôi đã nói tiếng Quan Thoại
lưu loát, cả tiếng lóng, thành ngữ và chửi thề nữa! Nhớ lại đoạn đường đã trải
qua trong việc học ngôn ngữ này, tôi tưởng chừng như mình hạ một cây rừng xuống
để đẽo gọt thành cây cột nhà. Tôi đã phải làm việc trong hai năm trời. Đầu tiên
chặt các cành, lột vỏ cây, dùng rìu chém những chỗ nhô ra, dùng dao gọt lại,
dùng bào làm cho láng và cuối cùng là đánh bóng cây cột thật tròn và thẳng.
Lúc đầu tôi chỉ học nói, về sau học đọc và viết. Lúc chưa có phương tiện, tôi
phải dùng than vẽ chữ xuống nền nhà để học. Về sau này tới đời trật tự dễ dãi
hơn, tôi có thể xin được bút chì và khi đi tắm nhặt những bao xi măng ở đống
rác trước cửa trại về vuốt ra cho thẳng làm vở. Những người Trung Quốc sống
chung giúp tôi viết và đọc chữ Tàu. Có điều hơi thiệt thòi cho tôi là các anh
Trung Quốc chỉ biết “chữ đơn giản”, tức là loại chữ cải cách mà chế độ Cộng sản
Trung Quốc dùng. Trong khi “chữ cổ” thì khó và nhiều nét hơn, nhưng đa số sách
báo trên thế giới đều dùng chữ cổ. Học nói được tiếng Phổ Thông tôi coi là một
trong những sự đền bù xứng đáng cho những năm gian khổ mà tôi bị mất đi trong
nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm.
Số tù Trung Quốc lúc đầu khá đông nhưng về sau có nhiều người vượt ngục bị bắn
chết, có một số chết bệnh hoặc chết đói. Năm 1980, chỉ còn lại khoảng 15 người
sống vất vưởng trong kỷ luật và lệ thuộc vào sự giúp đỡ của anh em tù chính trị
miền Nam. Khi sống chung buồng với chúng tôi, họ tỏ ra ngoan ngoãn, nhưng khi sống
riêng họ với nhau, hoặc trong buồng nào họ có số đông để trở thành sức mạnh áp
đảo, họ trở thành thú dữ. Lúc đó, sự dã man của họ ngoài sự tưởng tượng của mọi
người.
Bầy ác thú trong cơn đói
Thời gian đó là vào cuối năm 1981. Anh trật tự lúc bấy giờ là Nguyễn Văn Bảy,
mà chúng tôi gọi là Bảy Chà vì nước da của anh ngăm đen. Một con người hiền hậu
và nhân từ. Anh được chọn làm trật tự không phải vì thành tích bất hảo, hoặc vì
cán bộ muốn anh trở thành quả đấm để trừng trị tù, nhưng có lẽ anh được chọn vì
cái bộ dạng rất “ngầu” của anh. Người anh to cao, da ngăm đen, ai chưa biết
anh, mới nhìn vào đã thấy nhợn. Anh cũng từ trại quân đội chuyển về đây. Trước
khi làm trật tự, anh có nhiệm vụ gánh phân trong trại nên còn được mệnh danh là
“Bảy Cứt!” Nếu mấy năm trước trật tự Bùi Đình Thi là một hung thần của khu kỷ
luật thì lúc này trật tự Bảy Chà là cứu tinh của chúng tôi. Tôi phải nói lên điều
này để bày tỏ lòng quý mến và biết ơn anh.
Lúc đó, tôi đang ở buồng bốn phía sau của khu kỷ luật cùng với vài người Việt
nam khác, thì trong buồng năm cách vách buồng tôi có ba anh Trung Quốc đó là
Chu Vạn Hồi, Lý Đức Nghĩa và Lưu Tùng. Chu Vạn Hồi trước kia là tên cướp. Nghĩa
gốc Vệ binh đỏ và sau này qua Việt Nam sống nghề lục lâm thảo khấu. Tùng lớn tuổi
là người hiền từ, ốm yếu như cây sậy, anh đi buôn vùng biên giới bị bắt. Sống
trong buồng, Tùng bị Hồi và Nghĩa trấn lột gần hết phần ăn nên càng ngày càng gầy
yếu, đi đứng không vững nhưng không dám lên tiếng.
Mặc dù tôi không sống trong buồng đó nhưng tôi còn lạ gì hai tên cướp Nghĩa và
Hồi mà trong hai năm qua tôi đã sống chung buồng khá nhiều lần. Có một lần đi tắm
chung dưới sông Mã, lợi dụng lúc vắng tôi hỏi Lưu Tùng có phải bị hai tên kia
cướp cơm không? Tùng không dám trả lời nhưng, mắt trước mắt sau và xòe bàn tay
phải ra cứa qua cứa lại dưới cổ. Tôi hiểu Lưu Tùng muốn nói gì qua dấu hiệu đó.
Sau đó tôi nói lại chuyện này với anh trật tự Bảy Chà và anh hứa là sẽ báo cáo
với cán bộ.
Mấy ngày sau, cán bộ đưa vào buồng 5 của mấy anh Trung Quốc này một anh tù hình
sự bị phạt lên kỷ luật. Những anh tù kỷ luật thuộc loại “vãng lai” này, khi bị
đưa lên kỷ luật họ bị cùm cả ngày lẫn đêm, nhưng chỉ một thời gian ngắn là được
xuống. Số khách vãng lai này cứ có lai rai, khi thì một anh, có lúc vài ba anh.
Vì thế việc anh tù hình sự vác chiếu vào buồng 5 lúc chiều cũng chẳng có gì
đáng chú ý. Quãng sau 10 giờ đêm hôm đó, khi đèn điện vừa tắt được một lúc và
ai nấy bắt đầu ngủ, bất thần tôi nghe một tiếng “Bùm” rất to từ buồng 5 vọng
ra, tiếp theo là tiếng la thất thanh và vang dội trong đêm vắng của anh tù hình
sự: “Báo cáo cán bộ, báo cáo cán bộ! Chúng nó giết tôi, chúng nó giết tôi! Cứu
tôi! Báo cáo cán bộ!”
Tiếng la hét nghe thật rùng rợn trong cảnh hãi hùng của con người sắp bị giết
chết làm tất cả tù nhân trong khu kỷ luật giật mình và nhốn nháo gọi chuyền qua
các buồng hỏi nhau coi chuyện gì xảy ra. Anh ta cứ gân cổ lên mà la như vậy cho
tới lúc sau có mấy cán bộ xách đèn bấm chạy lên. Tôi nghe tiếng quát tháo, tiếng
mở cửa buồng, tiếng cán bộ đe dọa mấy anh Trung Quốc và sau đó cán bộ đưa anh
tù hình sự ra khỏi buồng và khóa cửa lại, đi xuống.
Đối với tù trên khu kỷ luật, việc đánh nhau, la lối và báo cáo cán bộ là chuyện
thường xảy ra. Chính bản thân tôi trước đó không lâu cũng đã cùng với ông Lê
Văn Khương, nguyên Quản đốc trại tù Côn Sơn, đã phải ra tay trừng trị Lý Đức
Nghĩa vì anh ta cấu kết với một anh Hoa kiều khác trong buồng để cướp giật thức
ăn của một người tù già là ông Hoàng A Giú. Nhưng cách anh tù hình sự kêu la thất
thanh trong đêm đó làm tôi sinh nghi có chuyện gì rất nghiêm trọng, chứ không
phải cuộc đánh nhau thông thường. Nhưng rồi câu chuyện đó cũng chìm vào quên
lãng trong khu kỷ luật không mấy ngày là không có chuyện xảy ra này. Lúc đó tôi
đâu có ngờ là trong buồng 5 đêm đó xảy ra một sự việc thật khiếp đảm, ngoài sự
tưởng tượng của mọi người. Sự việc này lại có liên quan tới tính mệnh của tôi,
mà mãi về sau này tôi mới biết được.
Tuần sau, lại có cuộc đổi buồng trên khu kỷ luật. Lần này cán bộ trực trại tên
Thanh bảo tôi vào buồng 5 với ba anh Trung Quốc đó. Tôi nói với cán bộ Thanh là
tôi và Lý Đức Nghĩa mới đánh nhau hôm Tết như cán bộ đã biết. Nếu tôi vào buồng
đó chắc chắn sẽ có chuyện đáng tiếc xảy ra, và tôi xin cho tôi vào bất cứ buồng
nào trong khu kỷ luật, trừ ra buồng với Lý Đức Nghĩa. Nghe tôi trình bày, cán bộ
Thanh suy nghĩ một lúc rồi đưa tôi vào buồng 2 phía trước.
Những khách vãng lai
Trong ba năm giữ vai trò quản gia trong khu kỷ luật trại Thanh Cẩm, tôi đã tiếp
đón và tiễn chân rất nhiều người, tù chính trị cũng như hình sự và cả những người
tù Trung Quốc như tôi đã nói.
Chúng tôi thường xuyên bị xáo trộn quanh đi quẩn lại trong sáu buồng nên tôi có
dịp sống chung với nhiều người. Và nhờ đó tôi cũng theo dõi được tin tức sinh
hoạt dưới làng. Tôi cũng nhắn qua các anh em vãng lai khi xuống làng hỏi thăm
anh em bạn bè. Thỉnh thoảng những khách vãng lai cũng có mang lên cho các người
trên kỷ luật ít thức ăn, vài quả ớt hoặc ít thuốc lào, nhưng điều chúng tôi cần
nhất là áo quần và chăn chiếu.
Trong thời gian Bùi Đình Thi còn làm trật tự thì việc cho quần áo bị cấm hẳn. Mặc
dù cán bộ không bao giờ để ý chuyện này, nhưng nếu Bùi Đình Thi xét thấy là sẽ
no đòn với anh ta. Vì thế, mặc dù lúc đó tôi sống trần truồng, nhưng các khách
vãng lai khi xuống làng cũng không hề dám để lại thứ gì cho tôi. Khi Bùi Đình
Thi mất chức trật tự rồi, cuộc sống tôi khá hơn, nhất là được áo quần chăn chiếu
các anh em để lại. Từ khi anh Nguyễn Văn Bảy làm trật tự, tôi thấy cuộc sống
trên kỷ luật có được hai chữ “thoải mái”. Rất tiếc là anh được làm quá muộn.
Sau khi Bùi Đình Thi mất chức, tới anh Nguyễn Tấn Đạt. Khi Đạt về, tới anh
Danh. Anh Danh lên chưa kịp làm việc đã được về, rồi mới tới Bảy Chà thay thế.
Lúc anh Bảy Chà làm trật tự, tôi đã ở kỷ luật hơn hai năm rồi. Khách vãng lai
có người phải ở khá lâu, nhưng cũng có người chỉ vài hôm là được xuống đội. Khu
kỷ luật như tôi đã nói có “đủ chỗ” cho 24 người bị cùm, nhưng có lúc đắt khách
sẽ có những người không phải cùm, nhưng nằm giữa phi đạo. Trái lại, có khi rất
vắng, chỉ có những người thường trú và khách kiều cư. Vẻ tiêu điều hiện
rõ với một số phòng trống không.
Hoa lạc giữa rừng gươm
Có một lần rất đặc biệt, tôi được hân hạnh tiếp một người tù thuộc phái đẹp!
Chiều tối hôm đó, cán bộ đưa một người đàn bà vào buồng trống ở cạnh buồng tôi
để “gửi” nhờ qua đêm. Khi cán bộ đi xuống rồi, tôi gọi qua hỏi thăm và biết đó
là em dâu của anh Dương Văn Lợi. Sau khi anh Lợi cướp chiếc máy bay trực thăng
của Bộ Chính trị ngay tại phi trường Nội Bài ở Hà Nội và bay thành công qua
Trung Quốc vào năm 1981, cả nhà anh ở Hà Nội bị vạ lây.
Người em dâu của anh Lợi bị bắt và trên đường bị đưa tới một trại giam nào đó,
phải dừng chân qua đêm tại Thanh Cẩm. Khi biết tôi là bạn anh Lợi, chị mừng và
vui vẻ trả lời các câu hỏi của tôi liên quan tới anh Lợi. Khi gần đi ngủ, chị gọi
sang hỏi tôi với vẻ e lệ ngượng ngùng, làm ơn bảo chị cách thức đi cầu! Tôi cảm
thông vô cùng với tâm trạng người đàn bà khi phải hỏi một người đàn ông xa lạ về
chuyện này. Tôi đoán là một mình trong buồng bên, chị cũng đã xoay xở hết cách
nhưng không thành công với loại nhà cầu đặc biệt với hai cái ống bẩu trong buồng!
Tôi gọi sang tận tình hướng dẫn, nhưng không biết kết quả ra sao. Vì vấn đề quá
tế nhị nên tôi không tiện hỏi lại. Thực ra loại nhà cầu bằng hai ống bẩu này được
“vẽ kiểu” chỉ phù hợp cho giới mày râu mà thôi. Sáng hôm sau, vị khách quý thuộc
phái đẹp này được đưa đi rất sớm. Kể từ đó, khu kỷ luật Thanh Cẩm chúng tôi
không còn được hân hạnh đón tiếp khách vãng lai thuộc phái đẹp nữa.
Tướng cướp Bình Thanh
Cuộc sống của tôi trong kỷ luật bắt đầu được cải thiện sau hai năm vì nhiều lý
do, trong đó, sự ra đi của trật tự Bùi Đình Thi là lý do hàng đầu. Kế đến là được
chị tôi từ Vĩnh Long ra Bắc thăm hai lần. Lần đầu vào năm 1980, tôi không được
gặp mặt, chỉ được nhận 5 ký quà. Lần thứ hai, năm 1981, tôi được gặp mặt chị
tôi 15 phút và nhận quà khá hơn. Tội nghiệp chị tôi trong chuyến đi thứ hai
này, từ lúc rời nhà cho đến khi về tới nhà là 33 ngày, vì mưa bão làm sập cầu,
ngập đường. Việc tôi được gặp chị tôi là một nguồn an ủi tinh thần rất lớn. Hơn
nữa, có một ít thức ăn cần thiết cho sự phục hồi sức khỏe của tôi lúc đó. Ngoài
ra, các khách vãng lai khi trở xuống làng cũng để lại cho tôi áo quần, chăn chiếu
và đồ dùng. Nhờ đó, tôi không còn phải sống trần truồng như trước.
Thời trật tự Nguyễn Tấn Đạt, cũng là tù quân đội, anh lầm lì ít nói nhưng không
đánh người. Tới trật tự Nguyễn Văn Bảy, tôi mới thấy thực sự thoải mái cả cuộc
sống vật chất lẫn tinh thần. Mặc dù hoàn cảnh vẫn như cũ, trời Thanh Hóa vẫn nắng
như thiêu như đốt, gió Lào vẫn hừng hực lửa vào mù hè, buồng giam khu kỷ luật vẫn
mang tính chất khắc nghiệt của nó, nhưng lòng nhân đạo của con người hình như
đã thắng sự khắc nghiệt của thiên nhiên này.
Nếu trước đây hai năm, tôi có thể bị cán bộ và trật tự đánh đập bất cứ lúc nào
và bởi bất cứ lý do gì, thì lúc này, lớp cán bộ mới cũng không còn dữ dằn và
quá giáo điều như lớp trước. Những anh tù có nhiệm vụ trong ban thi đua cũng
thân ái, nhẹ nhàng và thỉnh thoảng còn tìm cách giúp cho anh em chúng tôi trên
khu kỷ luật một chút gì cho cuộc sống dễ chịu hơn. Một điều đáng nói nữa là lúc
đó chúng tôi đã được nhận quà gửi ra theo đường bưu điện mỗi 3 tháng một lần.
Với tất cả những yếu tố đó cộng lại, tôi có thể kết luận cuộc sống của tôi sau
hai năm trong kỷ luật đã bắt đầu “lên hương”, mặc dù đêm đêm vẫn phải xỏ chân
vào cùm sắt. Chính trong thời gian đó, tôi lại có dịp đón tiếp một đoàn khách đặc
biệt.
Một buổi sáng nọ, từ trong buồng 2 phía sân trước cùng với một anh Hoa kiều người
Chợ lớn tên Lý Tử, tôi nhìn ra cửa sổ thấy cán bộ và trật tự dẫn một toán tù
hình sự khoảnghơn chục anh đi vào khu kỷ luật. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là
nhóm tù này khỏe mạnh. Họ mang rất ít đồ đạc. Mỗi người chỉ có một ba-lô khoác
trên lưng. Họ ăn mặc gọn gàng và nhìn vào biết ngay là tù hình sự. Phần đông đều
nhỏ người, chỉ trừ một vài anh cao lớn. Đa số đội mũ cối, mang giày vải. Có mấy
anh mang dép nhựa, cũng có vài anh mang dép râu. Họ âm thầm bước đi không cười
nói, nhưng không tỏ ra thểu não và bệ rạc như khi tôi thấy toán tù Trung Quốc
nhập vào khu kỷ luật này trước đây.
Tôi chợt chú ý tới một anh đi ở cuối hàng, vì anh này có dáng vẻ và phong thái
khác hơn các người trong nhóm. Người anh to rắn chắc và rất tầm thước. Không
cao mà cũng không thấp. Vai anh rộng và hơi vòng một chút như vai con rùa. Nước
da trắng như một thư sinh. Nét mặt cân đối với đôi chân mày rậm hài hòa. Tóc
anh dầy, thật đen và húi cua. Anh có ít râu dưới cằm rất đen vì tương phản với
làn da trắng của anh. Anh ta đẹp trai. Tuổi lúc đó chừng ba mốt ba hai là cùng.
Anh mang ba lô trên lưng, chân mang giày vải, mặc quần tây màu nâu và áo bộ đội
màu cứt ngựa. Một tay anh cầm cái mũ lưỡi trai màu đen. Nếu bình thường gặp anh
một nơi nào khác có thể lầm anh là một cầu thủ đá bóng đi dượt bóng về, vì tướng
anh rất phù hợp với hình ảnh đó.
Cả bọn đứng lại giữa sân ngay trước cửa sổ buồng tôi, trong khi trật tự mở khóa
các buồng phía sau để phân bổ lính mới. Các anh nhớn nhác nhìn vào các buồng,
nhưng nhìn từ ngoài nắng chắc sẽ chẳng thấy gì. Tôi đứng sát vào song cửa sắt,
nhìn ra và nói một câu với các tù nhân mới:
- Hêlô! Thân ái chào các anh em mới tới! Các bạn từ trại nào chuyển
về?
Nghe tiếng tôi chào, mấy anh đứng gần quay lại nhìn về phía tôi và nheo mắt
nhìn vào trong buồng, nhưng tôi biết là họ không thấy gì vì trong buồng tối om.
Anh chàng đẹp trai nghe tôi chào, bước lại sát bên cửa sổ, tươi cười trả lời:
- Chào anh! Bọn chúng em từ xà lim Bộ chuyển về. Anh là người miền
à? Nghe giọng anh bọn em nhận ra ngay. Anh ở kỷ luật bao lâu rồi?
- Vâng, tôi người Sài Gòn và ở kỷ luật hơn hai năm rồi!
Anh chàng nghe thế vội hỏi:
- Lâu vậy! Anh bị gì?
Tôi đáp gọn:
- Trốn trại!
Anh có vẻ thích chí, cười thật tươi:
- Nhất anh! Phải thế chứ. Trước trong Nam anh làm gì?
- Linh mục!
Anh thanh niên nghe không rõ, hỏi lại và kề tai sát vào song sắt:
- Em nghe không ra, anh nói trước kia anh là gì?
- Anh là Linh mục, là cha đạo ấy mà!
- Em hiểu rồi, anh làm việc trong nhà thờ chứ gì? Cha đạo mà đi tù lại
vượt ngục! Nhất anh! Em là Bình Thanh, em rất muốn gặp anh. Thế tên anh là gì?
Vừa nói anh vừa cầm bàn tay tôi đang nắm song sắt cửa sổ. Trong khi đó
cán bộ cũng vừa đi lại. Tôi nói:
- Anh cũng muốn gặp Bình Thanh. Anh tên Lễ, cứ gọi là Anh Út.
- Vâng, anh Út!
Cán bộ phân bổ lính mới vào các buồng. Anh tù cao lớn đẹp trai tự giới thiệu là
Bình Thanh, qua buồng 3 kế bên tôi. Có hai lính mới vào buồng tôi và một số ra
các buồng phía sau.
Hai anh chàng vào buồng tôi khá nhỏ người, nói rặt giọng Hà Nội. Ngay từ phút đầu
đã tỏ ra rất lễ phép đối với tôi. Một anh nhỏ hơn, nước da ngăm đen là Bình Bưởi.
Anh kia gầy và cao hơn là Tiến Ngựa. Tù hình sự không anh nào là không có tên đệm
kèm theo. Vào buồng và dường như có vẻ mệt, hai anh cởi áo nằm nghỉ để lộ hai
thân hình xâm trổ đầy người. Bình Bưởi xâm cả lưng, bụng, hai đùi và hai cánh
tay nữa. Qua một vài câu nói tôi biết Bình Bưởi tuy nhỏ hơn nhưng là đàn anh. Sở
dĩ gọi là Bình Bưởi vì quê anh ở làng Bưởi, Hà Nội.
Hai anh cho biết nhóm này ở xà lim Bộ, tức từ Hà Nội, chuyển về khá đông, một số
lớn ở dưới làng. Khi tôi nhắc tới Bình Thanh mà tôi gặp và nói chuyện mấy câu
lúc nãy, Bình Bưởi chỉ đáp gọn một câu:
- Anh Bình Thanh là anh của bọn em. Anh ấy hay lắm đấy anh ạ!
Tôi đã sống chung với tù hình sự trên trại Cổng Trời và hiểu được “ngôn ngữ” và
quy luật sống trong tù của họ. Tiếng “anh” có một ý nghĩa rất quan trọng và ở
giai tầng trên, trong khi hai tiếng “anh em” chỉ những người trong nhóm và hàng
ngang. Tiếng “hay lắm” có nghĩa là đáng kính trọng, có tư cách và có vị thế
lãnh đạo. Mặc dù hai anh này chưa biết tôi, nhưng nghe qua cách Bình Thanh bày
tỏ thái độ với tôi lúc nãy, hai anh bắt đầu kính nể tôi.
Tới giờ cho ăn trưa, các buồng được ra sân một lúc để hít thở và dọn vệ sinh buồng.
Cửa vừa mở, tôi thấy Bình Thanh chạy bay ra và đảo một vòng như con ngựa bị cuồng
chân lâu ngày vừa mới xổng chuồng. Anh ta mặc quần đùi trắng, áo thun trắng,
mang giày vải để lộ đôi chân khỏe mạnh, rắn chắc. Ngực anh nở nang và hai cánh
tay to, một bên có xâm hình bàn tay cầm bó đuốc, bên kia là một cây kiếm. Tôi
đoán là thân người Bình Thanh xâm trổ nhiều lắm, nhưng vì anh ta mặc áo thun
nên không thấy hết được. Toàn thể con người anh ta toát ra sự cường tráng của
người đang ở thời kỳ sức lực dồi dào và cuồn cuộn lên trong các bắp thịt. Thấy
tôi bước ra, Bình Thanh chạy tới đưa cả hai tay ra nắm lấy hai tay tôi nói
nhanh:
- Anh chờ em tí, em vào coi hai thằng em ra sao rồi trở ra ngay!
Nói xong, anh ta chạy ngay vào buồng hỏi Bình Bưởi và Tiến Ngựa ra sao, có thoải
mái không, có cần gì không. Sau khi biết mọi việc tốt đẹp, Bình Thanh trở ra với
tôi, nói:
- Anh Út! Vừa gặp anh em đã quý anh. Bọn trong buồng bên kia đều nể phục
anh và nói là anh hay lắm. Em xin anh xem em như thằng em của anh nhá, anh Út!
Bình Thanh vừa nói vừa cầm bàn tay và nhìn vào mắt làm tôi rất cảm động. Lúc
này, đứng gần thấy anh ta rất đẹp và dễ thương. Môi trên hơi ngắn hơn môi dưới
một chút và khi nói chuyện hay đưa cằm ra phía trước trong cử chỉ thách thức.
Đôi mắt anh ta đẹp, nhưng nhìn kỹ trong đôi mắt ấy, như ẩn hiện đâu đó nét
hoang dại của loài sư tử. Tôi nắm tay Bình Thanh, nói:
- Bình Thanh! lúc nãy khi vừa trông thấy em anh đã quý. Từ nay em sẽ là
em của anh. Anh là con Út trong gia đình, bây giờ anh có người em.
Tôi vừa nói vừa kéo Bình Thanh vào đôi cánh tay vừa mới phục hồi sức khỏe của
tôi. Bình Thanh ôm lấy tôi thật chặt. Tôi cảm thấy niềm hạnh phúc dâng tràn
trong lòng. Tôi cũng ngạc nhiên vì chúng tôi đến với nhau và chấp nhận nhau thật
nhanh, không cần tìm hiểu thêm, không cần suy nghĩ, đắn đo. Tự nhiên, tôi thấy
nơi người thanh niên xa lạ vừa gặp lần đầu này có một dáng vẻ khác người. Từ
con người, lối ăn nói, cách bày tỏ tình cảm, sự chú ý săn sóc cho đàn em và qua
câu nói của Bình Bưởi, tôi biết Bình Thanh là một tên lưu manh, nhưng là một
tên lưu manh có tầm cỡ và bản lĩnh. Tôi thích mẫu người như anh, và tôi nhận
Bình Thanh làm người em kết nghĩa do một thứ trực giác thúc đẩy, không hề suy
nghĩ.
Những ngày tiếp theo, tôi thấy hiện tượng khá lạ lùng mà trong gần ba năm qua
khu kỷ luật này chưa bao giờ xảy ra. Đó là một vài anh tù hình sự dưới làng lén
leo qua những bức tường bao bọc chung quanh khu kỷ luật để tiếp tế lên cho Bình
Thanh và anh em. Thì ra, những anh hình sự khác ở dưới làng cũng nhận quyền và
tùng phục Bình Thanh đang bị cùm trong kỷ luật.
Những ngày sau, Bình Bưởi và các anh em trong nhóm cho tôi biết thêm về cuộc đời
và thành tích của Bình Thanh, làm tôi càng quý anh hơn. Sau này, khi sống chung
một buồng, tôi mới hiểu hết ý chí ngang tàng, cuộc sống lẫy lừng và tư cách đàn
anh đúng nghĩa của một “đại ca” trong giới giang hồ.
Theo lời các anh em trong nhóm, tên tuổi Bình Thanh được kính nể trong tù hình
sự miền Bắc. Anh tù nào nghe tới tên cũng nể phục. Bất cứ anh tù nào mới bị bắt
vào buồng và bị các đầu gấu khác bắt làm lễ ra mắt, chỉ cần nói có biết Bình
Thanh là được an toàn. Bình Thanh không phải loại đầu gấu hiểu theo nghĩa tầm
thường bắt nạt người yếu để kiếm ăn, nhưng là hạng anh hùng hảo hán, bênh vực
đàn em và nếu cần chịu chết đói cho những người đàn em được no.
Tôi nghe kể về tư cách đáng nể phục của Bình Thanh, nhưng sau này, khi anh em
tôi có dịp sống chung một buồng, tôi mới thấy rõ Bình Thanh là một hiện tượng của
xã hội. Dĩ nhiên, trong giới lưu manh có quy luật của nó và anh nào không tuân
giữ, đó sẽ bị Bình Thanh bắt khuất phục đến nơi đến chốn. Tuy nhiên, tự trong
thâm tâm, anh là con người trọng nghĩa khinh tài. Anh rất coi trọng nhân nghĩa
và bênh vực giới bị xã hội bất công đè bẹp.
Luật giang hồ
Tù hình sự có nguyên tắc và giai cấp rất rõ ràng, gồm các vị thế như sau: anh
em, người ngoài, bề dưới, kẻ thù. Một khi đã kết nghĩa anh em là sẽ sống chết
vì nhau, cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người ngoài là những người có thể
ngồi chung mâm nhưng không can thiệp vào chuyện của nhau. Bề dưới là phải tùng
phục bề trên vô điều kiện, nhưng bề trên đúng nghĩa là người biết thương bề dưới.
Kẻ thù là hạng người phải tiêu diệt bằng bất cứ giá nào và ở đâu. Trong nhóm tù
hình sự cùng về đây, chỉ có Bình Bưởi là anh em với Bình Thanh. Bình Bưởi nhỏ
con, ốm yếu và đi tù từ năm 12 tuổi nên Bình Thanh thương yêu và săn sóc cách đặc
biệt. Những anh còn lại, hoặc là người ngoài, hoặc bề dưới. Chỉ có một anh thuộc
diện kẻ thù, tôi sẽ nói sau.
Nhóm Bình Thanh tới được vài ngày thì có một anh tên là Thụ ở buồng phía sau có
gia đình vào tiếp tế. Anh này còn gọi là Thụ Con vì người nhỏ thó. Sau khi thăm
gặp về, Thụ phạm một lỗi lầm quá nghiêm trọng, đó là quy luật về sự phục tùng của
kẻ bề dưới. Có lẽ nó còn quá khờ hoặc là quá khinh suất nên thay vì làm theo
nguyên tắc là mang tất cả quà gia đình mới tiếp tế tới chỗ Bình Thanh và nói:
“Anh Bình, gia đình em vừa vào thăm cho ít quà, xin anh dùng chút quà mọn của
gia đình em.” Chắc chắn là Bình Thanh sẽ cười và nói:“ĐM, người nhà mày mang
vào thì mày liếm đi! Có thuốc lào không, cho anh em tao vài bi được rồi!”
Và mọi việc sẽ tốt đẹp. Đàng này, mãi tới chiều hôm đó, Thụ Con mới nắm một ít
thức ăn, một ít ruốc và mấy ấm chè tới biếu. Tôi nghe Bình Thanh quát:
- ĐM mày, tao đâu có chết đói mà mày làm thế. Mày làm nhục tao đấy à?
Mang về ngay!
Thụ còn đang đứng, Bình Thanh nổi nóng:
- ĐM, tao bảo mày cút ngay!
Thụ sợ quá, cầm gói thức ăn về. Mấy hôm liền, mặt mày Thụ tái mét vì sợ. Rủi
cho anh ta, vài ngày sau đổi buồng và cán bộ đưa Thụ vào buồng Bình Thanh. Thụ
đứng ngoài khóc rống lên và nhất định không vào, nhưng cuối cùng cán bộ đẩy anh
ta vào khóa cửa lại. Có thể dùng hình ảnh con nai tơ bị nhốt vào chuồng sư tử để
diễn ta nỗi sợ hãi của Thụ Con lúc bấy giờ. Biết như vậy, nên từ bên này, tôi gọi
qua cho Bình Thanh bảo đừng đánh thằng Thụ, tội nghiệp nó. Bình Thanh trả lời:
- Vâng, em nghe anh, em chẳng làm gì nó đâu!
Và Bình Thanh để cho Thụ được yên, chẳng đá động gì tới chuyện mấy hôm trước.
Nhưng có lẽ vì quá sức khiếp sợ, nên chiều hôm đó khi trật tự vừa mở cửa buồng
cho ăn, Thụ vụt chạy như bay xuống cổng trại báo cáo cán bộ trực xin cho đổi buồng,
lấy lý do là Bình Thanh cướp cơm của nó ăn! Chỉ có lý do đó mới đủ mạnh để mong
được đổi buồng. Nhưng nó không ngờ là nó đang đọc bản án cho chính mình. Cán bộ
dẫn nó lên và bắt nó vào buồng trở lại.
Khi cán bộ khóa cửa và đi xuống rồi, từ bên này tôi còn nghe được cơn thịnh nộ
của Bình Thanh. Khi cơn thịnh nộ nổi lên, Bình Thanh định giết chết thằng Thụ
Con vì lần đầu tiên trong đời bị nó làm nhục là nói anh ta cướp cơm của tù để
ăn. Một sự hạ nhục quá sức chịu đựng của Bình Thanh. Bên kia Bình Thanh vừa chửi
vừa “chưởng”, trong khi Thụ khóc lóc van lạy xin tha mạng. Tôi lại phải gọi
sang nói chữa là vì nó sợ quá nên nói bậy, đánh như thế nó biết tội rồi. Có tiếng
Bình Thanh trả lời:
- Anh coi đó, dám bảo em chấn cơm! Anh bảo thì em tha mạng cho nó,
nhưng em phải xin nó bộ ngà!
Nói xong, tôi nghe tiếng Bình Thanh:
- ĐM mầy!Anh tao bảo, tao mới tha tội chết cho mày. Nhưng hòn đá đây,
mày phải ghè cho hết bộ ngà, không chừa một chiếc nào. Mày tự làm hay muốn tao
làm?
Không còn cách gì hơn, Thụ Con phải tự tay dùng hòn đá đập gãy không còn sót một
chiếc răng nào! Chừng đó, Bình Thanh mới chịu tha cho. Lạ một điều là từ đó về
sau, Thụ Con theo hầu Bình Thanh như hình với bóng!
Nhân vật Sửu Què
Sau khi trật tự Đạt được tha về và trật tự Bảy Chà lên thay, cuộc sống chúng
tôi trên khu kỷ luật thoải mái hơn. Anh Bảy Chà còn lén cán bộ mở cửa cho chúng
tôi chạy ra sân chơi và còn giúp chuyển quà cáp từ buồng này qua buồng kia, hoặc
từ dưới làng lên kỷ luật. Đó là ân huệ mà lúc Bùi Đình Thi còn làm trật tự,
chúng tôi nằm mơ cũng không thấy. Khi tôi bị chuyển ra buồng 4 phía sau, Bình
Thanh vẫn ở buồng 3 phía trước chung với Tiến Ngựa và Sửu Què cùng nhóm với
nhau.
Một buổi trưa, cán bộ dẫn lên một người tù miền Nam là anh Nguyễn Đức Khuân vì
tội gửi thư chui bị bại lộ, trong thư lại có bản nhạc gọi Hồ Chí Minh là “con
quỷ đỏ”. Khuân bị một trận đòn trên bờ dưới ruộng, bị đi cùm và đẩy vô buồng của
Bình Thanh. Khuân là bạn rất thân của tôi, nên tôi gọi Bình Thanh và nói:
- Bình Thanh! Anh Khuân là bạn thân của anh đó. Hãy coi anh Khuân như
chính anh nhé!
Bình Thanh đáp vọng lại:
- Vâng! Em biết rồi anh Út!
Khuân là người vui vẻ, ăn nói có duyên và rất giỏi nhạc. Gặp Bình Thanh là người
thích tìm tòi học hỏi, nhất là các chuyện về miền Nam, nên hai người cũng tương
đắc và quý nhau. Bình Thanh kính Khuân như người anh, điều này, vô tình lại làm
Sửu Què khó chịu. Sửu bị ai đó đâm trúng gân chân nên đi hơi lệch, vì thế có
tên là Sửu Què. Anh ta có ân oán gì đó với Bình Thanh từ ở trại nào trước kia,
nhưng vào đây, Bình Thanh bỏ qua không muốn nhắc lại nữa. Một buổi trưa, trong
lúc Khuân đang kể chuyện và Bình Thanh đang hứng thú lắng nghe, Sửu Què không dằn
được cơn bực tức, đã chửi Khuân:
- ĐM, toàn nói phét!
Khuân nghe Sửu Què chửi, dừng lại không kể chuyện nữa, trong khi Bình Thanh
đùng đùng nổi giận. Thứ nhất, Sửu Què dám hỗn với Khuân là người tôi dặn Bình
Thanh hãy đối xử như với tôi. Do đó, khi chửi Khuân thì cũng như chửi tôi. Tội
này rất nặng! Điều thứ hai là Bình Thanh và Tiến Ngựa đang hứng thú nghe các
chuyện về miền Nam. Bị cụt hứng bất thần, Bình Thanh vùng dậy, rút con dao làm
bằng thanh sắt đập dẹp mà lúc nào cũng giấu trong gối, đè Sửu Què xuống, dí dao
vào cổ chửi và đòi đâm. Khuân phải can ngăn mãi mới xong. Nhưng từ lúc đó, bầu
khí trong buồng nặng nề, câm lặng và bực dọc. Sau đó, có lẽ vì số chết của Sửu
Què đã tới nên mới khiến anh ta đến bên Bình Thanh đang ngồi thở hồng hộc vì bực
tức, xin lỗi và nói:
- Anh Bình Thanh hãy nhìn vào cặp mắt tôi coi. Tôi có phải là con người
gian ác gì đâu mà anh nói tôi như thế!
Đang lúc bực tức và lại nghe Sửu Què biện bạch, Bình Thanh nhìn vào mắt nó và
nhớ lại ân oán năm xưa. Bình Thanh bèn đè cổ Sửu Què xuống, dùng con dao ngoáy
móc mắt Sửu Què làm anh ta kêu la vang dội cả khu kỷ luật. Khi cán bộ lên tới
nơi và mở được của buồng ra thì một con mắt của Sửu Què đã nằm dưới đất và Bình
Thanh đang đè ngoáy dao vào con mắt thứ hai. Nhờ Sửu Què giãy giụa quá nên con
mắt thứ hai chưa kịp móc thì cán bộ đã vào tới buồng và giải thoát cho anh ta.
Khi thấy cán bộ vừa chạy lên, Bình Thanh dùng con dao rạch một đường trên cánh
tay mình cho máu chảy ra. Lúc cán bộ bước vào buồng, Bình Thanh cầm con dao đưa
cho cán bộ coi và nói:
- Báo cáo cán bộ! Anh Sửu vào dây còn dấu được con dao trong ống điếu.
Lúc nãy, tôi đang ngủ say, không hiểu nguyên do gì anh ta đâm tôi. May mà tôi đỡ
kịp nên chỉ thương ở cánh tay, máu còn đang chảy, cán bộ xem này!
Tiến Ngựa vội thêm:
- Báo cáo cán bộ! Anh Sửu hăm dọa giết anh Bình từ lâu rồi. Lúc nãy, nếu
tôi không la lên kịp thì nó đã đâm anh Bình thủng tim rồi!
Đúng là miệng lưỡi của lưu manh có khác! Cán bộ nghe thế mắng cho Sửu Què một
trận, tịch thu con dao và đưa anh xuống trạm xá băng bó vết thương. Cán bộ
không nói gì Bình Thanh vì anh ta là “nạn nhân” chỉ tự vệ! Câu chuyện này chưa
chấm dứt ở đây.
Khi Sửu Què đang nằm bênh xá thì Bình Thanh nhắn đàn em dưới làng “cất” giùm Sửu
Què. Quãng nửa tháng sau, Sửu mang một mắt trở về làng, ở chung với đàn em của
Bình Thanh. Ngay đêm đầu tiên, khi Sửu đang ngồi uống chè trên sàn bên
kia, thì bên này, Tuấn Béo cầm con dao rừng nhảy phắt qua, chém một phát chẻ đầu
Sửu Què ra làm đôi, chết không kịp trối. Tuấn béo bị đưa lên kỷ luật ngay đêm
đó, nằm một mình một phòng riêng. Sau này, có tòa án lập ngay trong trại, xử Tuấn
Béo 18 năm tù.
Cuộc tương phùng
Sau vụ Sửu Què bị chém chết một thời gian, khu kỷ luật lại đổi buồng và cán bộ
chỉ định tôi vào buồng 5, nơi có ba anh Trung Quốc là Lý Đức Nghĩa, Chu Vạn Hồi
và Lưu Tùng đang ở. Nhưng tôi xin với cán bộ cho đi buồng khác. Trước đó mấy
ngày, tôi cũng biết vụ mấy anh Trung Quốc trong buồng này đánh một anh tù hình
sự tét đầu chảy máu. Anh ta đã la ầm lên trong đêm và cán bộ phải lên đưa anh
đi bệnh xá. Nhưng không phải vì chuyện đó mà tôi xin đổi buồng khác, vì lúc đó
tôi đâu có biết hết tính cách nghiêm trọng của vụ đánh người này. Tôi xin đi
nơi khác là vì mới vừa trừng trị Lý Đức Nghĩa khi nó cướp bánh chưng của một
người tù già. Sau vụ đó, chúng tôi bị đổi đi mỗi người một nơi, bây giờ mà gặp
lại trong một buồng chắc chắn sẽ có vấn đề lớn. Cán bộ nghe qua có lý và cho
tôi ra phía trước, vào buồng 2 với Bình Thanh và đưa Phi Tàu vào buồng 5 thay
tôi.
Được vào buồng 2 với Bình Thanh, tôi vô cùng sung sướng. Từ khi Bình Thanh về
đây đã hơn một tháng rồi, nhưng anh em tôi chỉ gặp được nhau trong các giờ mở cửa
cho ăn và lúc đi tắm dưới sông Mã. Lúc khác thì gọi nhau từ buồng này qua buồng
khác nói chuyện mà chưa bao giờ được sống chung buồng như anh em tôi mong muốn.
Khi thấy tôi ôm chăn chiếu theo cán bộ từ phía sau đi vòng ra phía trước và đứng
trước của buồng 2, Bình Thanh đứng bên trong nhìn ra mừng quá nói to:
- Bình Bưởi đâu? Đưa đôi giày vải đây cho anh! Anh phải ‘tả’ cho anh Út
một trận trước khi vào buồng này!
Bình Thanh nó trêu tôi như thế.
Trong lúc đứng chờ cán bộ mở cửa buồng, tôi nhớ lại trong sáu buồng của khu kỷ
luật này, không có buồng nào mà tôi chưa ở qua. Mỗi buồng đều có một kỷ niệm
riêng, nhưng chưa bao giờ tôi bước vào buồng nào với tâm trạng vui mừng và sung
sướng như lúc đang chờ để vào buồng 2 với người em kết nghĩa của tôi như lúc
này.
Tôi vừa bước vào, chưa kịp để đồ đạc xuống thì Bình Thanh đã ôm chầm lấy tôi và
hôn lấy hôn để lên tóc, lên trán, lên mặt tôi và anh em tôi ôm nhau một hồi
lâu. Sau đó, Bình Bưởi cũng tới ôm lấy tôi để nhận anh nhận em, trong khi Bình
Thanh quay lại bảo hai anh kia;
- Thằng Thịnh với thằng Trọng Loe, đây là anh tao! Chúng mày phải biết sống sao
cho phải.
Khi nghe Bình Thanh nói thế, tôi nghĩ đây chỉ là sự giới thiệu thôi. Tôi không
ngờ đó là một cái lệnh và lệnh rất nghiêm như tôi sẽ kể dưới đây.
Trong buồng lúc đó đã 4 người, tôi vào là 5, nên một người được cán bộ cho khỏi
phải cùm là Trọng, còn gọi là Trọng Loe vì mồm anh rất rộng. Trọng Loe lớn hơn
Bình Thanh chừng vài ba tuổi nhưng thuộc dạng bề dưới và không được ngồi ăn
chung. Còn anh kia tên Thịnh, mệnh danh là Thịnh Capitaine. Tôi không hiểu tại
sao anh có tên đệm tiếng Tây như vậy. Anh này cỡ tuổi với Bình Thanh nhưng người
ốm yếu hơn so với Bình Thanh. Thịnh thuộc diện người ngoài, được ngồi chung mâm
nhưng chẳng có liên hệ gì với nhau. Tôi nằm chung thớt cùm với Bình Thanh và nằm
bên trong.
Tôi cảm thấy mệt mỏi, vì mỗi lần chuyển buồng là phải khám xét đồ đạc, phải
khuân vác và nhiều chuyện lỉnh kỉnh khác. Mặc dù lúc đó người tôi đã khá hơn rất
nhiều, nhưng vì cùm lâu quá nên một chân tôi gần như bại liệt và điều kiện sống
trong kỷ luật đã làm thân thể tôi hao mòn. Tôi nằm xuống nghỉ ngơi và tự nhiên
cảm thấy lạ lùng cho cuộc đời tù của tôi. Lúc này, tôi là một Linh mục đang bị
nhốt chung buồng với một tướng cướp khét tiếng của miền Bắc và vài tên lưu manh
khác. Nhưng lạ lùng thay, đây là con người mà tôi yêu thương một cách đặc biệt.
Tôi thấy trong lòng dâng lên niềm vui khó tả khi nhìn thấy Bình Thanh đang ngồi
thu xếp các thứ đồ đạc của tôi cho gọn trong lúc tôi nằm nghỉ. Lần đầu tiên tôi
mới thấy Bình Thanh cởi trần, để lộ cái lưng rộng bè bè và bộ ngực nở nang, bụng
thon và cặp chân rắc chắc. Bình Thanh xâm trổ nhiều hơn tôi tưởng, cả trước ngực
và sau lưng. Phía trước là hình “lưỡng Long tranh Châu”, hai con rồng thật to
tranh nhau trái châu. Phía sau là hình Phật Bà Quan Âm chiếm trọn cái lưng. Bên
dưới có hình lư hương đang tỏa khói và bên dưới nữa là hai hàng chữ:
Khi tôi chết ai là người xây nấm mộ
Cỗ quan tài ai khóc tiễn đưa tôi?
Hai bên cánh tay cũng xâm hình ngọn đuốc tự do, bên kia là cây kiếm báu. Sống
lâu với tù hình sự, tôi nghiệm ra hai thứ để làm thành một anh tù thuộc diện
lưu manh. Đó là xâm trổ và chửi thề hai tiếng ĐM! Thiếu một trong hai thứ đó
không thể là một “lưu manh toàn diện” được.
Tư cách một đàn anh
Lúc mở cửa cho ăn, chúng tôi được ra ngoài chạy chơi, phơi áo quần và rửa buồng.
Những việc này chỉ có được từ khi anh Bảy Chà làm trật tự. Khi mang thức ăn vào
buồng, chính Bình Thanh đứng ra chia thức ăn. Trong buồng có 5 người nên Bình
Thanh chia ra làm 5 phần bằng nhau. Sau khi chia, anh gạt ngay 2 phần cho Trọng
Loe, nói:
- Mày làm nhiều, mày ăn nhiều!
Bốn người còn lại chỉ có 3 phần ăn để chung vào nhau và lúc nào
Bình Thanh cũng nói:
- Anh với Bình Bưởi 'liếm' đi! Em chết thế nào được!
Và Bình Thanh nhường phần ăn của mình cho anh và cho em, còn anh ta chỉ ăn một
chút để đừng chết đói. Sau này khi có ai cho thứ gì, nếu nhiều thì Bình Thanh
ăn một tí, còn ít thì Bình Thanh nói:
- Thôi anh với Bình Bưởi liếm đi!
Có lần, chị tôi từ miền Nam ra thăm trong khi tôi đang sống chung buồng với
Bình Thanh, khi trở vào buồng, tôi có mang theo một ít thức ăn. Bình Thanh chỉ
để lại một phần vừa đủ cho 5 người trong buồng ăn một bữa, còn lại bao nhiêu
phân chia từng gói nhỏ và đem phân phát cho tất cả các buồng trong khu kỷ luật.
Tới buồng nào anh cũng nói:
- Đây là quà của anh tao cho. Chị tao từ miền Nam mang ra, chúng mày ăn lấy thảo
với anh em tao!
Dĩ nhiên, chúng tôi cũng dành ra một chút quà để gửi qua cho các Linh mục đang ở
khu kiên giam Nhà Bằng, chỉ cách một bức tường với khu kỷ luật. Tôi rất hài
lòng với việc làm này của Bình Thanh, vì anh em tôi vẫn nói với nhau, kiếp tù
là khổ chung, làm gì để an ủi và cho nhau một chút niềm vui cũng là điều nên
làm. Khi làm như vậy, chính Bình Thanh cũng muốn mua nhân nghĩa và để mọi người
quý mến tôi.
Trong lần chị ra thăm đó, tôi được gặp chị 15 phút. Tôi đã nói với chị thật nhiều
về Bình Thanh là người em kết nghĩa. Tôi cũng nói là sẽ có ngày Bình Thanh tìm
tới thăm chị dưới một hình thức ngụy trang nào đó. Vì từ khi gặp nhau, chúng
tôi đã hoạch định một kế hoạch vượt ngục rồi.
Trong buồng, Trọng Loe thuộc diện bề dưới nên anh phải làm tất cả mọi việc như
quét lau sàn, lấy nước, giặt giũ ở giếng cạn phía sau, lấy áo quần phơi vào buồng
v.v... Nói chung, anh ta phải làm tất cả mọi việc trong buồng và lúc nào cũng để
mắt nhìn Bình Thanh coi có điều gì anh làm cho Bình Thanh bực mình hoặc trái ý
không. Mỗi lần Bình Thanh nói gì với anh, tôi thấy Trọng Loe mặt mày tái mét và
run rẩy. Tôi không ngờ anh ta sợ Bình Thanh đến độ như vậy.
Tôi cũng không ngờ Bình Thanh lại quá khắt khe đối với Trọng Loe nên có lần tôi
đã vô tình gây ra một việc làm tôi hối hận. Vì Trọng Loe biết Bình Thanh rất
quý và tôn trọng tôi nên anh ta cũng biết phải đối xử với tôi như thế nào rồi.
Nhưng một ngày kia, trong giờ mở cửa lấy thức ăn, tôi ra bể cạn phía sau giặt
áo. Nửa chừng, Bình Thanh gọi tôi vì có một đàn em dưới làng leo qua tường vào
khu kỷ luật và muốn chào tôi. Tôi nói với Trọng Loe đang xách nước kế bên:
- Trọng Loe, giặt giúp anh cái áo rồi phơi trên tường rào nhá!
Tôi không nghe anh ta đáp lại nên nghĩ là anh đã nhận lời nên để áo đó và chạy
ra phía trước. Việc Trọng Loe có vẻ lầm lì và không trả lời tôi làm tôi suy
nghĩ. Hay là tôi đã làm gì cho anh ta buồn chăng? Nhưng thấy chẳng có chuyện
gì, vì tôi đối với anh ta rất tốt. Chợt tôi nhớ lại trường hợp Sửu Què. Lúc đó,
vì Bình Thanh coi trọng Khuân làm cho Sửu Què tức bực mới sanh chuyện. Bây giờ,
có thể Trọng Loe bực tức vì Bình Thanh quý mến tôi chăng? Tôi cứ suy nghĩ điều
đó cho tới lúc vào buồng. Trong lúc Bình Thanh đang chia thức ăn, tôi nhìn ra
không thấy áo phơi đâu cả, mới hỏi Trọng:
- Trọng, áo anh nhờ giặt, em phơi đâu không thấy?
Trọng Loe trả lời với vẻ mặt đanh lại, tôi chẳng hiểu anh ta bực chuyện
gì:
- Anh không thấy em bận, lấy nước còn không kịp sao?
Câu trả lời móc họng quá bất ngờ của Trọng Loe làm tôi nổi giận. Vì trên nguyên
tắc, trong buồng này anh ta phải làm mọi việc cho tất cả mọi người, và bù lại
Bình Thanh cho anh ta hai phần ăn mỗi bữa. Nhưng tôi không bao giờ cậy thế anh
em hoặc dùng miếng ăn để sai khiến anh ta. Tôi đã hiểu và đau khổ quá nhiều với
tâm trạng của một người tù thất thế. Tôi thương cho thân phận của Trọng Loe, một
vợ 2 con, chẳng qua vào tù vì yếu đuối mà phải chịu lép vế dưới luật tôn ti trật
tự của giới lưu manh. Những việc có thể làm tôi đều làm và không sai khiến Trọng
như các anh khác trong buồng. Tôi nói với Trọng:
- Trọng, sao em trả lời với anh như thế? Anh biết em bận lấy nước chớ.
Nhưng nếu em không giặt áo giúp anh được em phải nói cho anh biết. Đàng này, em
không nói gì cả, anh tưởng em đã nhận lời. Nếu em bận, anh sẽ giặt lúc khác có
sao đâu!
Nãy giờ Bình Thanh đang chia thức ăn, vụt bật dậy như một cái lò xo, bước tới
chụp cái gối bó bằng chiếu, rút con dao dấu trong đó ra. Con dao này chỉ bé bằng
đầu ngón tay, làm bằng thanh sắt dài đập dẹp một đầu. Cầm dao trong tay, Bình
Thanh quát:
- ĐM mầy Trọng Loe, mầy quá đáng, mầy quá đáng! ĐM mầy, anh tao mà mầy
còn coi không ra gì thì tao mầy coi ra gì? Cái loại chó như mầy không đáng sống
trên đời.
Vừa nói, Bình Thanh vừa chụp ngực áo của Trong Loe quật nằm ngửa xuống bệ nằm,
tay phải giơ cao con dao định đâm xuống. Thấy vậy, cả ba người chúng tôi vôi
lao tới chụp lấy cánh tay Bình Thanh, nhưng anh ta quá khỏe, vung một phát hai
anh kia văng ra. Tôi vẫn nắm lấy cánh tay Bình Thanh, cố gỡ con dao ra, miệng
quát thật to:
- Bình Thanh! Bình Thanh! Tha cho nó. Em nghe anh, em làm như thế anh
mang tiếng ác!
Mặc dù trong cơn điên tiết nhưng nghe tôi nói thế, Bình Thanh chịu để cho tôi gỡ
lấy con dao ra khỏi tay và dùng hai bàn tay chụp cổ Trọng Loe dựng đứng lên. Lần
đầu tiên tôi thấy được cơn thịnh nộ của Bình Thanh. Đôi mắt Bình Thanh trở nên
hoang dại như đôi mắt hổ. Hàm răng rít lại, cằm dưới đưa ra xa. Các bắp thịt
trên người được vận dụng nổi lên cuồn cuộn. Hai tay nắm cổ Trọng Loe, lúc này
như một hình nộm, nhấc lên cao và quát vào mặt:
- ĐM mầy, nếu không vì anh tao, tao đã giết chết đồ chó đẻ mầy rồi! Mầy
hiểu chưa? Mầy hiểu chưa?
Vừa hỏi, Bình Thanh vừa lắc thân thể Trọng Loe lúc này như một cây sậy. Sau đó,
Bình Thanh xô anh ta ra xa, rồi chụp tay kéo thật mạnh lại trong lúc co cùi chỏ
lên kê đúng giữa ngực. Tôi nghe một tiếng “ự” và thấy máu tươi từ miệng Trọng
Loe trào ra, chảy lênh láng dưới sàn. Tiện tay, Bình Thanh xô Trọng Loe nằm sấp
lên vũng máu. Một cảnh tượng thật kinh hoàng diễn ra trước mắt tôi. Cái cảnh
lưu manh trị nhau trong tù!
Tôi đỡ Trọng Loe nằm lên bệ, lau chùi máu trên người và xức dầu cao cho anh ta.
Qua cơn kinh hoàng, Trọng Loe gượng mở mắt ra, nhìn tôi và nói nhỏ:
- Em cám ơn anh!
Tôi ngồi nhìn người bạn tù, cảm thấy hối hận và xót xa trong lòng, đáp lại:
-Trọng, anh xin lỗi em, em dừng oán trách!
Trọng Loe lắc đầu nhè nhẹ và nhắm nghiền đôi mắt.
Đêm đó, tôi trách Bình Thanh quá nặng tay với Trọng Loe khi tội nó không đáng bị
như thế, và việc nó bị đòn nặng làm tôi cảm thấy buồn và hối hận. Bình Thanh trả
lời:
- Anh là một nhà tu nên lúc nào cũng nói tới chuyện thương người. Bọn
lưu manh chúng em nó khác. Không thế, không trị được chúng nó đâu anh ạ! Anh biết
không, chưa bao giờ em rút “gươm ra khỏi vỏ” mà xỏ trở vào nếu chưa dính máu.
Chỉ trừ lần này vì anh mà em lỗi quy luật!
Sau đó, Bình Thanh nhắc lại chuyện của Bùi Đình Thi mà tôi đã kể
chi tiết cho Bình Thanh nghe. Cũng trong đêm đó, Bình Thanh nói:
- Anh thấy đó, thằng Trọng Loe nó chỉ hỗn với anh thôi, em đã trừng trị
nó như thế nào. Còn thằng Bùi Đình Thi, ĐM nó, cái số nó còn lớn! Nếu lúc này
nó còn ở tù, trại này hay bất cứ trại nào khác, thì thật là cái phúc cho em!
Nhưng em không giết loại người như nó, giết bẩn tay lắm. Em chỉ muốn xin nó cặp
pha và đôi đũa. Còn cất nó là mình vô tình làm phúc cho nó!
Tôi trả lời:
- Chuyện của Bùi Đình Thi đã ba năm qua. Lúc mới bị đòn, anh cũng điên
tiết lắm nhưng bây giờ anh đã nguôi ngoai rồi. Anh đã tha thứ cho nó, vì tha thứ
làm tâm hồn anh được thảnh thơi...
Bình Thanh cướp lời tôi:
- Sao anh lại nói thế? Tội nó làm sao tha thứ được anh?
Tôi đáp:
- Anh là một Linh mục. Anh là người rao giảng tình thương và sự tha thứ
mà Chúa Giêsu đã dạy và làm gương!
Bình Thanh nghe tôi nói thế cười bên tai:
- Anh à! Ông Chúa của anh buồn cười thật. Chắc chắn là ông ta không thể
là Chúa của em rồi!
Tôi nghiêm giọng:
- Bình Thanh! Anh không muốn em diễu cợt trong vấn đề này. Tôn giáo là vấn
đề lớn của con người trên mặt đất. Anh muốn em phải có thái độ tôn kính khi nói
đến tôn giáo. Bất kỳ một tôn giáo nào mình cũng phải tôn trọng cả. Em nói là em
tôn trọng anh, tại sao em lại xúc phạm tới Thiên Chúa là Đấng anh tôn thờ! Em
làm anh buồn.
Bình Thanh nghe tôi nói thế, quay sang ôm vai tôi nói:
- Anh Út! Em nói đùa thôi, em nói đùa cho vui. Em không có ý xúc phạm Đấng
Bề Trên đâu. Có điều anh nói tới việc tha thứ cho thằng Bùi Đình Thi làm em khó
hiểu quá. Khi nghe kể về hành động ác nhân của nó trong trại này và việc nó
hành hạ anh, nghe qua em đã nổi điên lên rồi. Hôm anh vào buồng, khi em ôm thân
thể chỉ còn bộ xương của anh làm em nhớ lại cảnh thằng Thi nó quần thảo anh làm
máu em sôi lên. Bây giờ, anh lại nói chuyện tha thứ cho tên sát nhân đó. Thực
em khó hiểu quá. Em là một thằng lưu manh, em không phải là một cha đạo như
anh!
- Nhưng em là em của anh.
- Anh nói đúng, vì là em của anh nên em phải làm nhiệm vụ của em.
Tôi hỏi lại:
- Nhiệm vụ gì?
- Nhiệm vụ báo thù cho anh.
Tôi thấy Bình Thanh cứ loanh quanh vấn đề này nên nói:
- Anh đã nói là anh tha thứ rồi thì còn thù gì nữa mà báo. Vả lại, báo
thù thì chuốc oán thôi, ích lợi gì?
Bình Thanh cãi lại:
- Anh tha là chuyện của anh, còn ân oán giang hồ là luật của cuộc đời, của
bọn lưu manh chúng em.
- Thế em không nghĩ là tình thương và sự tha thứ mang lại hạnh phúc cho
con người, còn ân oán giang hồ chỉ tạo thêm hận thù, ghen ghét làm khổ con người
sao?
Bình Thanh mỉa mai:
- Anh Út! Anh đang giảng đạo cho em đấy à?
- Đúng, anh đang giảng đạo cho em đây. Nếu anh không giảng cho em thì
còn giảng cho ai, vì anh thương em quá là thương!
Bình Thanh suy tư một lúc rồi nói:
- Anh Út ơi! Lúc này anh chưa giảng đạo cho em được đâu. Em sanh ra để
làm thằng lưu manh chứ đâu phải để làm con Chúa. Làm con Chúa mà bắt em tha thứ
thì em không thể nào làm con Chúa được.
Tôi nói rất nghiêm túc:
- Bình Thanh à! Có rất nhiều người lúc đầu cũng nói như em, nhưng có một
ngày rồi ơn Chúa đến để cải đổi tâm hồn họ và họ đã thành con Chúa.
Bình Thanh nói nghiêm trang:
- Em mong ngày đó đến với em.
Tôi nắm lấy bàn tay đứa em tướng cướp nói nhỏ:
- Anh cầu nguyện cho em.
Bình Thanh để tay trong tay tôi rất lâu, rồi nở nụ cười thật hồn
nhiên, nói:
- Em không ngờ đời em lại có người anh là một Linh mục!
Tôi đáp ngay:
-Anh cũng không ngờ đời anh lại có người em là một tướng cướp. Tướng cướp
Bình Thanh.
Hai anh em yên lặng một lúc, Bình Thanh thở dài nói:
- Đời, c'est la vie!
Tôi cười:
- Em học ở đâu được câu tiếng Pháp đó?
Bình Thanh trả lời:
-Thế anh không thấy câu đó xâm trên lưng em à?
Tôi nhớ lại trên lưng của Bình Thanh có xâm hình Phật Bà Quan âm rất to, bên dưới
là lư hương tỏa khói, kế đó là câu 'Đời, c'est la vie!' và bên dưới cùng là
câu: “Khi tôi chết ai là người xây nấm mộ? Cỗ quan tài ai khóc tiễn đưa tôi?”
Trọng Loe nằm liệt mấy ngày rồi trỗi dậy lo các việc thường ngày. Trong thời
gian anh nằm thì Bình Thanh quan tâm cho anh ta thức ăn, mà anh em dưới làng đã
gửi lên.
Kiếp sống giang hồ
Những ngày tháng cùm chung này là dịp để anh em tâm tình với nhau về cuộc đời
mình. Bình Thanh tên thật là Đỗ Thanh Bình, năm đó 33 tuổi, quê ở Hưng Yên, gia
đình khá giả. Bố là một Thiếu tá công an, mẹ là giáo viên. Lớn lên, Bình học rất
thông minh, văn hay chữ tốt và rất khéo tay. Lúc trưởng thành, Bình rất khỏe mạnh,
thân hình rắn chắc.
Về tâm tính, ngay từ bé đã bày tỏ chí khí hiên ngang, đôi lúc tới chỗ bạo động.
Trong một lần, lúc chưa được 20 tuổi, Bình đã can thiệp cho một người bị công
an chặn xe làm tiền trái phép. Cậu đánh anh công an máu me lênh láng nên bị bắt
nhốt vào đồn. Bố nghe tin, tới xin lãnh về. Nhưng bố vừa tới nơi đã thấy mọi
người rầm rộ đổ xô đi tìm, vì anh lợi dụng lúc người lích gác dẫn đi đại tiện
bên ngoài, đã đánh gục anh lính gác và chuồn khỏi nhà giam của đồn công an. Từ
đó, Bình không trở về nhà nữa, phiêu bạt khắp nơi, kết nạp băng đảng. Với tính
khí bạo động và chống lại sự đè nén bất công của xã hội, triệt tiêu giới cầm
quyền áp bức, bênh vực người cô thế, cộng với thân hình vạm vỡ và diện mạo khôi
ngô, Bình được nhiều anh em nể phục và sớm trở thành khuôn mặt có tên tuổi
trong giới giang hồ miền Bắc.
Vốn khéo tay và mưu lược, Bình tổ chức băng đảng, khi giả dạng bộ đội, khi giả
dạng công an với tất cả mọi thứ giấy tờ, chứng minh thư còn “thật hơn là giấy
thật!” Nhiều anh bộ đội, cả sĩ quan nữa, “nhảy dù” đi phép, đã phải chết cay chết
đắng vì bị “Thượng úy Bình Thanh” xét giấy tờ và tóm được giải vào đơn vị nhốt.
Có năn nỉ kiểu gì “Thượng úy Bình Thanh” cũng không tha!
Bình Thanh đứng đầu băng đảng cướp khi mới 26 tuổi và chuyên “mượn” các kho
hàng, xe vận tải của quân đội, các hợp tác xã, kho hàng của xí nghiệp quốc
doanh. Khi nào kẹt lắm hoặc vào mùa “giáp hạt” , mới phải hoạt động trên “bè
dài”. Cũng trong thời gian đóng giả làm trung úy chỉ huy một tốp lính lái
xe vận tải mà Bình Thanh gặp và yêu một cô gái trong đoàn văn công tên là Hường.
Bình Thanh kể lại tôi nghe câu chuyện tình bắt đầu rất nhẹ nhàng nhưng rồi càng
lúc càng sâu, và cũng vì lụy với giai nhân mà cuộc đời của một tướng cướp lẫy lừng
phải chịu đầy gian truân.
Câu chuyện bắt đầu vào buổi sáng kia, trong một lần “Trung úy bộ đội” Bình
Thanh và một anh bộ đội đi qua phố ở Hà Tĩnh và vào quán gọi thức ăn. Bàn
bên kia có mấy cô gái đẹp đang uống nước, trong đó có một cô chừng 20 tuổi,
xinh nhất đám. Bên này, Bình Thanh gọi với sang tán tỉnh và làm quen. Trong khi
đó, có năm anh bộ đội khác bước vào, kéo ghế ngồi bên cạnh bàn mấy cô gái. Có lẽ
mấy anh bộ đội này người địa phương nên quen biết mấy cô. Hơn nữa, có lẽ ỷ vào
số đông nên chặn ngang giữa đường và quay sang nói chuyện với các người đẹp,
không coi ông “Trung úy” mặt còn non choẹt và anh bộ độâi lạ mặt kia ra gì. Tướng
cướp Bình Thanh và tên lưu manh đàn em, không nói một tiếng nào, bước qua túm cổ
mấy anh bộ đội đánh luôn.
Vì bị tấn công bất ngờ, không kịp chống đỡ, nên ngay trong giây phút đầu, hai
trong năm anh bộ đội đã bị Bình Thanh đánh gục xuống bàn. Còn lại ba chọi với
hai. Cuộc ẩu đả bất ngờ làm bàn ghế trong quán vỡ tan tành. Mấy cô gái vội rút
vào trong đứng nhìn ra. Chỉ một lúc sau, ba anh bộ đội còn lại cũng nằm gục
trong quán dưới những cú đòn ác hiểm của một tướng cướp mà lúc đó ai cũng tưởng
là Trung úy bộ đội này. Bình Thanh bị tét môi, máu chảy khá nhiều, đưa cánh tay
lên quệt máu. Xong xuôi, anh móc túi lấy một số tiền lớn đặt lên bàn, có ý thường
sự hư hại bàn ghế trong quán, cúi nhặt nón cối đang nằm lăn lóc dưới sàn, bước
tới nghiêng mình chào người đẹp đang giương đôi mắt bồ câu ra nhìn, rồi đội nón
ra đi, trong lúc đó người đệ tử đứng ngoài cửa quán canh chừng. Chợt người đẹp
có đôi mắt chim câu lên tiếng:
- Ông sao ngược!
Bình Thanh nghe nói quay lại, không hiểu cô gái muốn nói gì. Lúc
đó cô gái cười thật nhí nhảnh và chỉ vào cái mũ cối trên đầu Bình Thanh nói:
- Ông sao ngược! Anh đội mũ ngược rồi. Ông sao quay về phía sau kìa! Ông sao
ngược kìa!
Thì ra trong lúc vội vã, hoặc là bị người đẹp “hớp hồn” khiến Bình Thanh không
còn để ý gì chung quanh nên đội mũ lộn ngược ra sau mà không hay biết! Ba tiếng
“Ông sao ngược” của người đẹp có đôi mắt chim câu trong một quán ăn buổi sáng
hôm đó, đã trở thành những nốt nhạc đầu tiên trong bản tình ca vô cùng thắm thiết
nhưng đầy nước mắt và đau thương giữa một giai nhân xứ Hà Tĩnh và một tướng cướp
hào hoa.
Giai nhân và tướng cướp
Cuộc tình của hai người càng ngày càng thắm thiết mặn nồng. Bình Thanh nhiều lần
đưa Hường ra thăm Hà Nội, nơi mà Hường chưa có dịp ra. Những lần đi xem phim,
xem kịch, xem xiếc với người tình sĩ quan đẹp trai và hào hoa đã làm Hường vô
cùng hãnh diện. Các loại quà cáp, áo quần, nữ trang mà Bình Thanh sắm sửa cho
đã làm cho Hường vốn đã đẹp lại càng đẹp hơn.
Từ đó, cuộc đời người con gái trong ban múa của đoàn Văn Công xứ Hà Tĩnh chỉ
toàn là màu hồng. Nhiều lần, bố mẹ nàng có đề cập tới việc tổ chức đám cưới cho
Hường và Bình, nhưng Bình cứ tìm cách nói khéo là chờ thêm một thời gian. Thực
ra, Hường chưa thấy cần thiết phải có đám cưới, một phần vì nghề nghiệp của
nàng, phần khác, cuộc sống mặn nồng của một người tình đối với nàng đã quá hạnh
phúc. Việc tổ chức đám cưới tất nhiên sẽ tới, nhưng còn phải một thời gian.
Thương cho Hường sống với người yêu gần hai năm trời mà không hề biết Bình
Thanh là người sống ngoài vòng pháp luật, cứ tưởng là một sĩ quan trong ngành vận
chuyển. Lúc nào cũng thấy có lính tráng đi theo, súng ống đầy người và lái những
xe tải chở đầy hàng hóa, nhưng thường là chở về đêm.
Cho tới một đêm nọ, trăng sáng thật tỏ, sau khi lái xe về nhà Hường xong, Bình
và cả bọn ra sông tắm trong lúc Hường làm cơm. Bữa cơm đã sẵn sàng nhưng chưa
thấy Bình trở lên nên Hường ra bờ sông gọi Bình và lính tráng về ăn cơm. Bình
đang tắm, nghe Hường gọi, cứ thế lội lên bờ, trong khi chỉ bận chiếc quần đùi
và áo thun trắng mà chẳng để ý gì. Vì áo thun trắng ướt, dính sát vào người nên
dưới ánh trăng, người Bình để lộ ra toàn bộ hình xâm trổ trên thân thể, cả trước
ngực lẫn sau lưng đều xâm kín hết. Đây là sự vô ý rất tai hại vì trong suốt thời
gian qua Bình đã chủ ý che giấu việc này bằng mọi cách và không bao giờ để cho
Hường thấy lúc anh đang cởi trần.
Hường vô cùng kinh ngạc với sự phát hiện bất ngờ này, khi nhìn thấy thân thể
Bình dưới ánh trăng sáng tỏ. Chừng đó, Hường mới té ngửa ra. Gạn hỏi mãi, cuối
cùng, Bình đành phải thú nhận tất cả sự thật. Bình là một tướng cướp giả dạng
sĩ quan ngành lái xe, vì bộ đội đâu được quyền xâm trổ như vậy. Hường khóc hết
nước mắt về chuyện này! Bình Thanh đã quỳ xuống trước mặt Hường, xin Hường tha
thứ:
- Vì quá yêu em, anh không dám nói sự thật. Anh sợ mất em!
Hường đau khổ vô cùng khi biết Bình Thanh là con người sống ngoài vòng pháp luật,
nhưng vì tình yêu đã quá mặn nồng nên từ đó, Hường đành phải chấp nhận là người
tình của tướng cướp Bình Thanh. Một chuyện mà chỉ có mình nàng biết.
Hai năm sau, lúc Bình Thanh 28 tuổi, bị “bể” trong vụ đánh cướp cửa hàng lương
thực tỉnh Hải Dương, anh bị bắt và bị kêu án 10 năm, giam ở một trại trong tỉnh
Quảng Ninh. Hường từ miền Trung lặn lội ra thăm Bình trong tù ở tận vùng cực Bắc.
Vào tù chưa đầy một năm, Bình Thanh vượt ngục. Công an theo dõi và biết anh có
người yêu ở Hà Tĩnh, nên cử người kiên nhẫn theo dõi Hường và cuối cùng đã vây
bắt được Bình Thanh ở Hà Tĩnh.
Lúc bị bắt, anh chống cự, bị người công an đánh nên anh tức khí, giật súng tháo
chạy, công an đuổi theo nhắm bắn, anh quay súng lại bắn chết công an, nhưng chạy
không thoát vì bị dân quân bắt được. Ra tòa, Bình Thanh bị kêu án mới 15
năm, hủy án cũ. Từ đó tới nay, 6 năm qua, Bình Thanh đã vượt ngục tất cả 5 lần.
Lần nào cũng thành công, nhưng rồi bị bắt lại vì tay anh hùng hảo hán này là
người rất nặng nghĩa tình và lụy sắc đẹp của giai nhân! Khi chuyển về Thanh Cẩm,
Bình Thanh còn mang bản án 15 năm vì mỗi lần vượt ngục lại bị tăng án. Nhưng
Bình Thanh nói với tôi:“Án thì án thế thôi, có nhà tù nào giam hãm được em đâu
anh”!
Nằm chung một thớt, cùng chung một cùm và nghe Bình Thanh kể lại chuyện cuộc đời
mình và Hường, tôi quá thương cho người con gái. Mặc dù chưa biết mặt, nhưng
lúc này, Hường đã là em dâu của tôi. Định mệnh đã đưa cô vào chiếc quán ăn năm
nào và cũng định mệnh đã khiến cô phát ra ba tiếng “Ông sao ngược” trong lần đó
để rồi đời người con gái đẹp phải dở dang vì yêu say đắm một tướng cướp. Và nếu
như sau nầy, Hường biết được đoạn cuối cuộc đời của Bình Thanh như tôi đã biết
thì nàng sẽ đau khổ tới đâu?
Anh Hùng Náo
Khi tôi từ chối vào buồng 5 với mấy anh Trung Quốc để vào buồng 2 với Bình
Thanh thì Phi Tàu, một anh Trung Quốc to lớn như đô vật, vào buồng đó thay tôi,
và anh này cũng không phải là tay vừa. Có điều là anh ta thâm trầm và mưu lược,
không quá lưu manh lộ liễu như Lý Đức Nghĩa. Có thêm Phi Tàu vào, số phận của
anh tù ốm yếu Lưu Tùng càng bi thảm hơn. Tôi có nói tình trạng này với trật tự
Bảy Chà, không biết anh Bảy có báo cáo lại cho cán bộ không vì vẫn chưa thấy đổi
buồng cho Lưu Tùng đi nơi khác.
Càng ngày tôi càng thấy Lưu Tùng xiêu vẹo hơn và tôi biết là đã tới tình trạng
báo động. Mấy anh Tàu kia kèm Lưu Tùng rất kỹ, sợ anh ta mách với cán bộ. Một bữa
nọ, trong giờ mở cửa cho ăn, thấy Lưu Tùng ngồi phơi nắng một mình ở góc sân và
chung quanh không có ai, vì mấy anh Tàu kia người thì lấy nước, người thì giặt
giũ đàng xa, tôi bước tới chỗ Lưu Tùng ngồi và hỏi bằng tiếng Phổ Thông:
- Lưu Tùng, có bị chấn cơm không?
Anh ta nói nhanh:
- Lỳ cớ, chiêu min! (Anh Lễ ơi, cứu mạng tôi!)
Tôi hỏi nhanh là cướp thế nào, anh cho biết hai ngày ăn được một bữa, còn 3 bữa
kia bị cướp. Tôi nói lại việc này với anh Bảy Chà, anh nói đã báo cáo cho cán bộ
rồi nhưng chưa được giải quyết. Thật ra thì cán bộ chẳng quan tâm gì tới việc
những người tù với nhau.
Tôi về buồng nói với Bình Thanh và mấy anh em khác là nếu cán bộ không can thiệp
thì mình phải ra tay cứu Lưu Tùng, nếu chờ cán bộ, chắc anh ta sẽ chết trước
khi được giải quyết. Trong gần ba năm qua, tôi đã biết rõ về sự dã man, độc ác
của ba anh tù Trung Quốc kia. Hơn nữa, hôm nay, chính tai tôi còn được nghe rõ
là hai ngày Lưu Tùng mới được một bữa ăn, trong khi người khác ăn mỗi ngày hai
bữa còn thấy đói.
Chúng tôi nói trước với anh trật tự Bảy là chiều hôm đó, để tránh rắc rối
cho anh, chỉ cần anh mở cửa các buồng xong, anh lánh mặt đi nơi khác chừng 15
phút. Trước đó, vào buổi trưa, tôi thấy Bình Thanh và 3 anh nữa, Bình Bưởi, Tiến
Ngựa, Thịnh Capitaine ăn mặc chỉnh tề. Riêng Bình Thanh mang giày vải vào và
chuẩn bị những chiếc vớ cẩn thận để làm “chưởng”. Trước giờ cho ăn chiều hôm
đó, khi anh Bảy vừa mở cửa buồng, 5 phía sau, thì nhóm 4 anh nầy chạy bay về
phía sau như toán lính đột kích, xông vô buồng 5. Một anh chận cửa, ba anh nhào
vô đánh Phi Tàu, Lý Đức Nghĩa và Chu Vạn Hồi tơi bời hoa lá. Bình Thanh dùng
“chưởng” quật cho Phi và Nghĩa nhừ cả người, máu me văng đầy tường. Chừng 15
phút sau, trật tự Bảy “biết được” chạy tới thì Phi Tàu và Nghĩa nằm như thây ma
bất động! Chu Vạn Hồi bị đánh ít hơn còn gượng đứng dậy đi được. Ngay chiều hôm
đó, buồng 5 được giải tán mỗi người một nơi, nhờ đó, Lưu Tùng kéo dài sự sống
được vài năm nữa.
Bình Thanh và tôi ở chung buồng khá lâu cho tới đầu năm 1982. Lúc gần Tết,
chúng tôi chuyển qua buồng 1 ở góc nhà. Buồng này chỉ có một cánh cửa thay vì
hai cánh như các buồng khác. Trong buồng, ngoài tôi và Bình Thanh ra còn có Thịnh
Capitaine và Minh Lùn.
Khi qua buồng 1, chúng tôi đã nghiên cứu hết mọi chi tiết và sẽ tổ chức vượt ngục
trong dịp trước Tết. Nếu ra ngoài thành công, tôi sẽ ở miền Bắc với Bình Thanh
một thời gian rồi xuôi Nam trước khi tìm đường ra nước ngoài. Nếu lần vượt ngục
trước thất bại vì toàn là người miền Nam, lần này với Bình Thanh, người đã vượt
ngục thành công 5 lần tại các trại miền Bắc, tôi cảm thấy rất yên tâm. Vả lại,
Bình Thanh rất khỏe và rành rẽ đường đi nước bước ở miền Bắc.
Trong buồng, chúng tôi đã chuẩn bị hết mọi thứ cần thiết, nhất là giấy đi đường
có đóng dấu ký tên hẳn hoi, chứng nhận là người của hợp tác xã đi lấy lá dong để
gói bánh chưng cho hợp tác xã. Tôi phải khâm phục tài khéo của Bình Thanh trong
việc tạo giấy tờ và con dấu giả. Trong buồng thì Bình Thanh đã làm một cái móng
cùm giả, còn giống hơn móng cùm thật. Bình Thanh luôn miệng nói với tôi:
- Ở những trại giam khác, kiên cố bằng mấy ở đây, em còn ra đi dễ dàng.
Trại này chỉ là đồ chơi!
Bình Thanh còn nói với tôi:
- Ra khỏi đây rỗi đi với em, anh không phải bận tâm một điều gì cả.
Tôi đang vui mừng về viễn ảnh sẽ vượt ngục ra ngoài và sống phiêu bạt ở miền Bắc
với Bình Thanh một thời gian, thì một buổi sáng kia, đúng 10 hôm trước khi
chúng tôi hành động, tôi được gọi ra khỏi nhà kỷ luật trước sự bàng hoàng của
hai anh em tôi.
Phút chia tay
Tôi được tha ra khỏi nhà kỷ luật sau gần ba năm cùm chân, từ tháng 5 năm 1979 tới
tháng 2 năm 1982. Tôi từ giã Bình Thanh ra đi mà trong lòng buồn vời vợi. Cán bộ
đưa tôi qua buồng 4 khu Kiên Giam “Nhà Bằng” sống với một số Linh mục. Tôi còn
nhớ ở buồng 4 đó, có cha Cao Đức Thuận, Lê Đức Triệu, Khổng Năng Bao. Khi tôi rời
buồng kỷ luật ra đi, Bình Thanh nhớ tôi nên lúc nào mở cửa cho ăn là Bình Thanh
cũng nhảy tót và leo qua hàng rào vào buồng kiên giam thăm tôi. Trật tự Bảy chỉ
đứng nhìn mà không cản vì anh biết là có cản cũng không được, nên Bảy đành phải
đứng canh cán bộ cho Bình Thanh nhảy rào qua với tôi.
Các Linh mục khác trong buồng 4 khu kiên giam lúc bấy giờ, rất ngạc nhiên về
tình cảm đặc biệt giữa tôi và Bình Thanh. Khi qua đây, tôi mới biết là trong dịp
trước Tết năm đó, cha Nguyễn Huy Chương, một Linh mục lớn tuổi nhất mà chúng
tôi gọi là Bố Chương, có cô cháu từ Sài Gòn ra thăm cho khá nhiều quà. Vì rất
thương tôi, Bố Chương biếu cho cán bộ một ít quà và nói:“Báo cáo cán bộ! Tôi
nghiệp anh Lễ bị cùm chân 3 năm rồi. Nhân dịp Tết xin cán bộ tha cùm cho anh Lễ
được qua sống với anh em chúng tôi!”.
Cũng vì lời xin đó mà cán bộ tha cho tôi. Bố Chương cứ nghĩ là đã làm một việc
rất tốt giúp tôi. Thực sự, đó là việc vô cùng tốt đẹp nếu lúc đó chúng tôi
không có kế hoạch vượt ngục từ khu kỷ luật, và ngày thực hiện kế hoạch đã gần kề.
Tôi tiếc vô cùng, nhưng cho đây cũng là ý Chúa.
Gạt lệ ra đi
Mười ngày sau, trong giờ cho ăn chiều, Bình Thanh leo rào qua ôm hôn tôi tha
thiết và nói:“Đêm nay em đi, anh cầu nguyện cho em. Em đến chào tạm biệt, và có
thể là vĩnh biệt anh!” Nói xong, anh em tôi ôm nhau khóc như mưa. Các người
khác trong buồng ngồi nhìn ngạc nhiên không biết nguyên nhân tại sao. Nhưng làm
sao tôi nói được lý do.
Trước đó, tôi đã cẩn thận dặn Bình Thanh, chuyến này về đừng bao giờ tìm cách
liên lạc với Hường, kẻo lại bị sa lưới như những lần trước. Hãy vào Nam gặp chị
Hai của tôi trước và các việc liên hệ với Hường về sau này chị Hai sẽ cho ý kiến
và thu xếp giúp cho. Tôi cũng giao cho Bình Thanh giữ một tấm hình gia đình của
chị dâu và các cháu mà chị Hai mang ra trong lần thăm nuôi vừa qua. Đây là bằng
chứng để nếu Bình Thanh có tới thăm, chị sẽ biết Bình Thanh là ai, vì mặc dù
tôi đã nói với chị về Bình Thanh nhưng chị chưa biết mặt người em này bao giờ.
Tôi cũng cẩn thận dặn mật mã để Bình Thanh viết thư vào trại cho tôi, nhưng chỉ
viết khi vào miền Nam, vì viết từ miền Bắc rất dễ bị nghi ngờ. Tôi dặn là trong
vòng ba tháng mà chưa vào Nam được thì phải viết thư vào cho tôi biết. Nếu sau
ba tháng mà không có tin gì từ miền Nam hoặc miền Bắc thì coi như Bình Thanh đã
chết. Tôi cũng đã đặn dò tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra để giúp Bình Thanh
về cuộc sống trong Sài Gòn mà Bình Thanh chưa bao giờ vào. Cuộc chia tay này cảm
động nói không nên lời.
Đêm đó, tôi nằm trong buồng 4 khu kiên giam, không chợp mắt một chút nào. Có
lúc tôi ngồi đọc kinh lần chuỗi, kêu xin Chúa và Đức Mẹ phù hộ cho Bình Thanh.
Tới nửa đêm vẫn chưa nghe tiếng súng báo động, tôi rất mừng vì biết giờ nào
Bình Thanh sẽ ra đi. Thời gian trôi qua đã lâu nhưng vẫn chưa nghe tiếng súng.
Tới gần sáng, vẫn chưa nghe. Tới giờ điểm danh cũng chưa nghe tiếng súng. Tôi
thầm thì tạ ơn Chúa và biết là Bình Thanh đã thoát. Tới giờ điểm danh sáng, tôi
ngồi trong buồng nhìn ra, thấy trật tự Bảy hớt hải chạy và báo cáo cán bộ có tù
vượt ngục. Có tiếng cán bộ chạy lên rần rật, sau đó là 3 tiếng súng báo động. Bấy
giờ trời đã sáng tỏ. Tôi nói ra thành tiếng “Tạ ơn Chúa!”
Chiều tối hôm đó, tôi thất kinh khi nghe tiếng ồn ào bên khu kỷ luật, tiếng
đánh đập, tiếng la hét. Sau đó, anh Bảy cho biết là Minh Lùn, trong nhóm vượt
ngục với Bình Thanh, bị bắt lại, đưa về trại và bị đánh đập tàn nhẩn và chết
trong khu kỷ luật. Còn Bình Thanh và Thịnh chưa nghe tin tức, chắc là thoát rồi!
Quãng hơn tháng sau, tôi được thư chị Hai tôi. Sau khi kể chuyện nhà cửa, chị
viết: “Chị quên nói với em là tuần trước cháu Hường trên đường đi công tác ghé
qua nhà thăm chị. Thấy ba người lạ mang súng vô nhà chị sợ! Chừng nhận ra Hường
chị mừng lắm! Bây giờ nó là trung úy rồi. Nó bảo lâu quá mới trở lại nên không
còn nhớ đường. Phải hỏi người ta chỉ vào nhà mình. Ba người ở lại ăn cơm rồi
đi. Hường nói tuần sau nó sẽ lên Thành Phố tìm thăm Thu. Nghe nói bây giờ
Thu đã dời nhà về Hố Nai.” Đọc thư chị, tôi mừng suýt nữa la lên. Tôi mừng vô hạn,
như vậy là Bình Thanh đã thoát vô Nam, đã gặp chị tôi và sẽ lên Hố Nai tìm người
quen mà chỉ có chúng tôi mới biết.
Chừng vài tháng sau, tôi nhận một thư của người cháu đi bộ đội tên Bùi Thanh Hường
ở Sài Gòn gửi ra thăm. Hường có nhắc lại lần xuống thăm chị tôi ở Vĩnh Long. Hường
kể lúc đầu chị Hai không nhận ra, chị tôi sợ mất hồn! Nhất là khi thấy súng ống,
đạn dược. Hường cho biết sau đó lên tìm người bạn ở Hố Nai và có cho ít quà lưu
niệm. Hường nói tiếp trong thư là:“Có lẽ cháu sẽ qua Campuchia một thời gian,
và sẽ viết cho chú khi thuận tiện”. Tôi đọc thư mừng lắm, nhưng chữ viết không
phải của Hường, vì tôi còn lạ gì nét chữ đẹp như rồng bay phương múa của Bình
Thanh.
Đó là thư đầu tiên và cũng là thư cuối cùng, vì từ đó, tôi không còn nghe thêm
gì về Bình Thanh nữa. Điều này làm tôi rất hoang mang. Nếu không liên lạc với
tôi, ít ra Bình Thanh cũng sẽ liên lạc với chị tôi, nhưng tuyệt nhiên không hề
có tin tức gì. Sáu năm sau, tức là năm 1988, khi rời trại Thanh Cẩm về lại
trại Nam Hà, tôi vẫn không nghe thêm một chút gì về Bình Thanh, một tướng cướp
ngang trời dọc biển trở thành người em kết nghĩa của tôi, và tôi vô cùng thương
mến.
Trại tù Thanh Cẩm nằm sâu trong vùng rừng núi âm u của tỉnh Thanh Hóa, mà tôi
đã sống ở đó 10 năm, đã dệt thành phần lớn kỷ niệm đời tù của tôi, trong đó, tướng
cướp Bình Thanh là một dây tơ thật đẹp.
12
Ngày Trở Về
Tính tới tháng Giêng năm 1988, tôi đã bước vào năm tù thứ 12, trong đó có 11
năm lê lết qua các trại tù khắc nghiệt miền Bắc.
Cho tới thời gian này, số tù nhân miền Nam ở rải rác trong các trại miền Bắc
không còn bao nhiêu. Ngoại trừ những người đã bỏ mình vì khổ ải, một số đông đã
được tha về và một số khác đã chuyển vào các trại trong miền Nam. Có những người
được về khá sớm ngay từ năm 1980. Từ đó, mỗi năm đều có những đợt phóng thích,
khi nhiều khi ít, năm nào cũng có. Ngoài những trường hợp được tha lẻ tẻ và bất
ngờ, mỗi năm thường có những mốc thời gian để các tù nhân chúng tôi mong đợi và
bàn tán. Những dịp để hy vọng đó là Tết Dương lịch, Tết Âm lịch, lễ Lao Động 1
tháng 5 và ngày Quốc Khánh 2 tháng 9. Trong năm còn có đợt tha nhân dịp sơ kết
và tổng kết, nhưng không nhiều lắm.
Hát lâu chầu mỏi
Thời điểm đó tôi đang ở trại Thanh Cẩm. Trại này cũng đã có một số rất đông được
về và một số chuyển vào trại Hàm Tân trong Nam. Con số tù miền Nam còn lại
trong trại Thanh Cẩm không tới 200 người, trong đó có 29 Linh mục. Nếu so sánh
với lúc đông nhất vào năm 1979 thì lúc này còn lại không tới một phần ba. Các
Linh mục ở khu kiên giam mới xây, cũng nhà nóc bằng rất kiên cố, nằm hướng ra cổng
trại. Khu nhà này chia ra 6 buồng liền nhau, có tường cao ngăn cách và có cổng
vào riêng biệt. Trước mỗi buồng có khoảng sân nhỏ tráng xi-măng sạch sẽ và có bể
nước dùng chung cho 2 buồng giáp nhau.
Bên trong cửa sắt của mỗi buồng là lối đi rộng 1 thước từ cửa cái dẫn vào tới
vách bên trong, chia ra một bên là nhà cầu có cửa vào và một bên là bệ nằm bằng
xi-măng cao khoảng 60 phân, đủ chỗ cho 6 người nằm sát cạnh nhau. Mỗi buồng có
một cửa sổ khá rộng chắn song sắt to, nhưng không to bằng song sắt nhà kỷ luật.
Cửa sổ này đủ rộng để cho buồng thoáng khí và cũng dễ dàng cho cán bộ nhìn vào
kiểm soát. Trên nguyên tắc, khu vực này “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, nhưng
trên thực tế không quá khắt khe như vậy.
Về phần mấy người tù Trung Quốc đang ở trong khu Nhà Bằng, tức là khu Kiên Giam
cũ. Những người tù ngoại quốc này đã bị giam hơn 15 năm rồi. Lúc đầu, nhóm của
họ khá đông, nhưng dần dần một số chết bệnh, một số chết đói, có mấy anh vượt
ngục bị bắn chết và bây giờ chỉ còn lại 10 người
Khi tôi rời khu kỷ luật qua sống bên kiên giam, và Bình Thanh vượt ngục di rồi,
trại Thanh Cẩm còn xảy ra hai vụ án mạng khác nữa, nhưng toàn là bên hình
sự. Vụ thứ nhất xảy ra ở khu kỷ luật khi Yên Con dùng tảng đá to đập đầu Chiến
Chàm chết ngay tại chỗ trong giờ phát thức ăn trưa, lúc Chiến Chàm đang ngồi
săn sóc đám rau muống anh trồng trước sân khu kỷ luật. Sau đó, Yên Con bị kêu
án tử hình, nhưng một thời gian sau giảm xuống còn chung thân.
Vụ khác xảy ra dưới làng sau đó ít lâu, khi Minh Con đâm Toản Quảng một nhát thấu
tim, chết không kịp trối. Anh Toản chết oan chỉ vì gia đình mới tiếp tế cho ít
lạc nên để trong hòm khóa lại. Đêm đó, Minh Con mò tới lấy trộm, cầm con
dao nhọn đang nạy hòm. Toản Quảng nghe động thức dậy, ôm chầm lấy Minh Con từ
phía sau. Minh Con bị tóm bất ngờ nên đâm ngược ra sau để giải vây, không ngờ
thọc mũi dao nhọn đúng ngay vào tim Toản làm anh ta chết ngay tức khắc! Sau đó,
Minh Con bị xử trong một phiên tòa thiết lập ngay trong trại, kêu án 18 năm. Cả
ba anh Chiến Chàm, Yên Con và Minh Con đều có ở chung buồng với tôi một thời
gian trên khu kỷ luật, trong đó Minh Con sống chung buồng với tôi lâu nhất.
Minh Con người nhỏ bé, lúc đó khoảng 18 tuổi, nhưng đã là lưu manh chuyên nghiệp
từ năm 12, ăn cắp lẹ như sóc và đi Trường Bộ, tức nhà tù Thiếu niên phạm pháp,
từ năm 13 tuổi.
Luật lệ trong tù tới lúc này cũng khá co giãn, không còn khắt khe như những năm
đầu. Người đời thường nói “hát lâu thì chầu mỏi”. Hoàn cảnh trong tù cũng vậy,
lúc đó, chúng tôi nhận thấy rõ tâm trạng mỏi mệt bao trùm trại Thanh Cẩm. Không
phải chỉ những người tù cảm thấy mỏi mệt mà ngay cả những cán bộ làm việc trong
tù cũng vậy.
Bầu khí căng thẳng, sắt máu, giáo điều và đầy hận thù của những năm đầu khi
chúng tôi mới được chuyển ra Bắc không còn nữa và cơn sốt thời cuộc sau khi cộng
sản chiếm miền Nam đã giảm cường độ một cách rõ rệt. Một điều ai cũng thấy là bầu
khí trong trại tù lúc này dễ thở hơn rất nhiều so với cái thời hắc ám của 10
năm về trước.
Cỏ dại được mù
- Hai anh nãy giờ nói cái gì?
- Anh Lễ, nãy giờ anh nói cái gì? Tiếp tục nói đi. Tôi nghe anh nói nhiều lắm, mà sao bây giờ anh câm? Nói đi! Nói nữa đi!
- Anh Lễ, lại đây! Hay anh muốn tôi xuống gọi cán bộ lên?
- Lần này tôi tha cho, nhưng hãy liệu thần hồn, tôi bắt được mấy anh nói chuyện phản động một lần nữa thì đừng có trách.
Tình thế đổi thay
- ĐM!Ăn sắn mà nói phét!
- Anh nào ăn nói bố láo thế hả? Anh nào? Anh nào?
Cây đa cũ, bến đò xưa
Vòng tròn khép kín
Gió thoảng trưa hè
- Gớm! Sao mà các anh lắm đồ đạc thế!
- Ối giời ơi! Chữ ký của anh sao mà ‘‘gớm’’ thế!
Sau khi hoàn tất công việc, cô ở nán lại trong sân, hỏi thăm chúng tôi một lúc rồi từ giã ra đi. Có mấy người bàn tán sau khi cô bước ra khỏi sân.
Giờ thứ hai mươi lăm
Sáng hôm sau, trại tù Nam Hà trở nên tưng bừng náo nhiệt chưa từng thấy. Hàng ngàn con người đi lại rộn ràng giữa các buồng và trong sân. Chỗ nào cũng vang dậy tiếng cười, tiếng nói, tiếng gọi nhau ơi ới. Tôi buồn bã ngồi một chỗ, tựa lưng vào tường, khoanh tay trước ngực và theo dõi cảnh người ta bắt tay từ giã, nhắn gửi, dặn dò nhau, trông chẳng khác nào một đàn ong vỡ tổ.
Anh em chia lìa
20/6/2003
Nguyễn Hữu Lễ
Nguồn: http://dactrung.net/
Theo http://diendan.vnthuquan.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét