Tôi phải sống 5
Nhận ra ý Chúa
Đêm đó, trong lúc tuyệt vọng, tôi ngồi trong màn cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin cho con biết ý Chúa muốn gì nơi con. Con đã tù 13 năm và chịu
bao nhiêu thứ cực hình. Các anh em khác chưa ai phải chịu cảnh khốn khổ như
con, nhưng đã được về tất cả, riêng con phải tiếp tục chịu cảnh này. Xin cho
con biết ý Chúa muốn gì nơi con.” Cầu nguyện xong, tôi ngồi yên lặng, và lúc đó
tôi có cảm tưởng như nghe một tiếng nói bên tai:“Cha muốn con tiếp tục ở đây với
những tù nhân khốn khổ còn lại, để con yêu thương, an ủi, giúp đỡ và chia xẻ đời
con với họ. Và cuối cùng, cha muốn con được cùng chết với họ ở đây trong môi
trường lao lý này.”
Thật là bất ngờ như một phép la! Tự nhiên một nỗi vui vô cùng lớn lao xâm chiếm
tâm hồn tôi. Một nỗi vui mà suốt cả cuộc đời tôi chưa bao giờ có được. Niềm vui
của người được chọn và trao cho một sứ mệnh mang tình yêu của Thiên Chúa đến
cho mọi người, nhất là những người tù cùng khổ. Tôi coi đây là sự mặc khải
riêng tư của Chúa đối với tôi. Bỗng chốc tôi thấy con người tôi khác hẳn. Tôi
không còn mong được ra về, cho dù một chút cũng không. Từ nay nhà tù là nơi tôi
sống, những tù nhân khốn khổ là anh em tôi để tôi yêu thương và an ủi họ, các
cán bộ là những người tôi phải cảm hóa và chỉ cho họ con đường đức tin và hy vọng.
Qua sáng ngày, tôi cảm thấy mình đả trở nên một con người khác, một con người
được giao sứ mạng làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa anh em. Việc đầu tiên
tôi làm trong buổi sáng hôm đó là ngồi xuống viết một lá thư cho chị tôi ở miền
Nam. Trong suốt 13 năm qua chị tôi đã lo lắng cho tôi. Những năm về sau này, chị
đã 2 lần lặn lội ra trại Thanh Cẩm thăm nuôi tôi. Nhưng vì lúc đó tôi đang bị
cùm trong nhà kỷ luật, nên lần đầu chị không được gặp tôi và lần sau được gặp
15 phút trong chuyến đi từ khi rời nhà đến lúc trở về vừa đúng 33 ngày! Trong
thơ tôi bảo chị từ nay đừng gửi quà cho tôi nữa, vì trong 13 năm qua gia đình
chẳng còn gì. Tôi cho biết lúc này tôi rất hạnh phúc và đầy đủ, chị không phải
lo nghĩ gì về tôi nữa.
Những ngày tiếp theo, tôi bắt đầu cuộc sống hạnh phúc trong tù. Trước hết,
tôi để ý chọn một số anh em để cho thành hình một nhóm nhỏ mà tôi tạm gọi là “Cộng
đoàn tình thương”. Mục đích của nhóm là an ủi và giúp đỡ những anh em khốn khổ,
đặc biệt là những người không có thân nhân gia đình thăm nuôi tiếp tế. Lúc đó
các anh em được tha về có để lại cho tôi khá nhiều thức ăn, đồ dùng, quần áo.
Tôi giao cho anh em trong nhóm đem phân phát giúp những người thực sự cần giúp
đỡ.
Lúc này nhóm anh em gần gũi với tôi nhất là những anh tù Trung Quốc, những người
đã sống chung với tôi thật lâu trong nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm. Giữa chúng tôi
có mối liên hệ tình cảm sâu xa. Lợi dụng lúc sống chung, tôi đã học tiếng Quan
Thoại với họ. Tôi đã cố gắng học không ngừng trong 2 năm và sau đó sống chung với
mấy anh Trung Quốc nên có thể thực tập mỗi ngày và khi lên tới trại Nam Hà tôi
đã nói rất thông thạo tiếng Quan Thoại. Tôi đã dùng ngôn ngữ này để dạy giáo lý
cho họ. Trong những ngày nghỉ, tôi thường tới các buồng thăm viếng anh em, nhất
là những người mới được Rửa tội trong tù. Riêng buồng 9 là buồng các vị tướng
lãnh ở, không ai được vào ra tiếp xúc. Nhưng lúc bấy giờ qua sự liên lạc khéo
léo với cán bộ trực trại, tôi lấy lý do xin qua học đàn Ghi-ta với bác Lê Minh
Đảo, nhưng thật ra là để giúp về mặt tinh thần cho các tướng lãnh này.
Ngày 28 tháng Năm 1988, tức là hai tháng sau đợt tha rầm rộ vào dịp Tết, trại
Nam Hà lại có biến cố lớn. Tất cả tù nhân miền Nam được đưa vô trại Hàm Tân
trong Nam, chỉ có 3 người còn lọt sổ ở lại. Ngoài tôi ra còn có Linh mục Nguyễn
Bình Tĩnh, Giáo phận Ban Mê Thuột, bị tình nghi dính líu tới nhóm Fulro và anh
Nguyễn Đức Khuân bị bắt vì tham gia phong trào Phục Quốc. Lúc ở trại Thanh Cẩm
anh sáng tác bản nhạc có đoạn gọi Hồ Chí Minh là con quỉ đỏ. Chẳng may bản nhạc
bị bại lộ, anh bị đánh tơi bời và sau đó đưa lên cùm trên kỷ luật chung với tôi
một thời gian khá lâu.
Nếu trại Nam Hà bắt đầu xác xơ kể từ sau đợt tha gần như “xóa sổ” hôm Tết, thì
bây giờ trở nên tê liệt khi tù chính trị miền Nam không còn nữa. Tình thế bất
ngờ tạo cho tôi thành một thứ “đại tư bản” trong tù. Số anh em được tha và số vừa
chuyển về Nam để lại cho tôi tất cả “tài sản” của họ. Nếu trước đây có thời kỳ
tôi không có cái quần để mặc, cái bát đựng thức ăn, cái lon Guigoz đựng nước uống
thì bây giờ tôi có hàng mấy trăm cái hòm, thùng thau, chén bát, bao bị, áo quần,
thuốc men v.v... không biết cơ man nào mà kể. Lúc này nhóm “Cộng đoàn tình
thương” của chúng tôi cũng đã bắt đầu lớn mạnh và số đồ dùng anh em để lại thật
đúng lúc. Anh em trong nhóm tôi thực tập cuộc sống chia sẻ với những người cùng
khổ, một điều mà họ không bao giờ nghĩ là có thể có trong môi trường này.
Sau khi trơ trọi một mình ở lại, tôi càng nhận rõ được sứ mệnh của mình hơn.
Lúc đó tôi được nhập vào đội chính trị miền Bắc với công tác đi đào thủy lợi.
Trong buồng tôi cũng có những anh Trung Quốc, tuy không cùng đội nhưng sống
chung buồng. Những anh Trung Quốc chỉ lao động bên trong trại, không được ra
ngoài. Từ đó, hàng đêm tôi dạy giáo lý và dâng Thánh Lễ trong buồng.
Một hôm, tôi Rửa tội cho 2 anh Trung Quốc và quyết định dâng Lễ công khai. Tối
hôm đó sau khi vào buồng, anh em nhộn nhịp cười nói, uống chè, hút thuốc lào
như thường lệ. Đúng giờ, tôi đứng lên vỗ tay mấy tiếng làm mọi người ngỡ ngàng,
sau đó tôi nói thật to để cả buồng cùng nghe:“Tôi xin anh em làm ơn giữ thinh lặng
trong chốc lát, tôi sắp sửa Rửa tội cho hai người bạn, và đây là một nghi lễ
tôn giáo rất quan trọng. Mặc dù anh em không phải là Thiên Chúa Giáo nhưng tôi
cũng xin anh em tôn trọng nghi lễ này. Tôi cũng nói với các anh em là khỏi báo
cáo với cán bộ vì việc tôi làm lễ công khai, ban giám thị đã biết.”
Điều rất lạ lùng, sau khi nghe tôi nói, cả buồng lặng yên và tôi cử hành nghi
thức Rửa tội cho 2 anh Trung Quốc một cách thật trang nghiêm, cảm động.
Sau đó, tôi sống chung một buồng với 10 anh tù Trung Quốc. Những anh Trung Quốc
này, trong những năm sau cùng ở Thanh Cẩm, đã được các Linh mục giúp rất nhiều,
cả về tinh thần lẫn vật chất, nên họ rất thân thiện và gần gũi với các Linh mục.
Riêng đối với cá nhân tôi, còn thân thiết với họ hơn vì đã sống chung với nhau
mấy năm trong kỷ luật và hơn nữa tôi còn nói được tiếng của họ. Đó cũng là yếu
tố nối kết tình thân. Khi lên trại Nam Hà và sống chung buồng, tôi dạy Giáo lý
cho một số anh Trung Quốc, trong đó có anh Chu Vạn Hồi.
Cho tới lúc đó, Chu Vạn Hồi vẫn chưa nói được tiếng Việt, chỉ bặp bẹ ít câu. Những
năm qua, khi sống gần các Linh mục, Chu Vạn Hồi đã tỏ ra thân ái, ngoan ngoãn
và biến đổi như một con người mới. Anh ta thường hay tâm sự với tôi và hối hận
vì các việc làm sai trái cướp bóc trước kia. Anh ta xin tôi giúp anh có niềm hy
vọng để sống vì lúc đó anh còn quá trẻ, mới vừa ngoài ba mươi tuổi.
Ngay từ ở Thanh Cẩm và sau này lên Nam Ha,ø tôi đã dành nhiều thời giờ để hướng
dẫn Chu Vạn Hồi và vài anh Trung Quốc khác. Tôi dùng nhiều gương các vị thánh
cũng đã có thời lầm lạc như Thánh Phaolô để nói với anh là Thiên Chúa sẽ thương
những con người lầm lạc biết hồi tâm thống hối. Sau thời gian tìm hiểu và thử
thách, tôi Rửa tội cho Chu Vạn Hồi trong một nghi lễ khá long trọng tại trại tù
Nam Hà. Anh chọn Tên Thánh là Phaolô, một vị Tông đồ của dân ngoại mà anh rất
sùng kính. Tôi cũng nhận Hồi làm đứa con tinh thần của tôi và Hồi rất sung sướng
về điều này.
Câu chuyện hãi hùng
Nếu việc Rửa tội cho Chu Vạn Hồi làm tôi cảm thấy hạnh phúc trong sứ mệnh Linh
mục, thì thái độ rất lạ lùng của Hồi trong đêm vừa Rửa tội xong đó đã làm tôi
ngạc nhiên. Khoảng 9 giờ tối hôm đó, Hồi tới chỗ tôi, nằm xuống bên cạnh, quay
sang ôm lấy vai tôi, gục đầu vào ngực tôi và bắt đầu khóc nức nở. Cử chỉ này của
Hồi làm tôi cảm động và ngạc nhiên. Tôi thắc mắc không hiểu nguyên nhân nào đã
khiến một tên cướp trước kia bây giờ lai có thái độ như vậy? Hay là anh khóc vì
quá vui mừng sau khi chịu phép Rửa tội? Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Chu Vạn Hồi, con làm sao vậy?
Nghe tôi hỏi, Hồi càng khóc to hơn. Nước mắt chảy ướt cả vai tôi và vai anh ta
run rẩy trong bàn tay tôi. Biết là Hồi có điều gì cảm động mãnh liệt nên tôi
không hỏi nữa nhưng dùng bàn tay phải xoa nhẹ trên đôi vai rất gầy của người bạn
tù ngoại quốc vốn là tên cướp mà bây giờ đã tìm thấy con đường Đức tin và lại
là con tinh thần của tôi. Sau cơn xúc động, Hồi ngước mặt lên nói trong nước mắt:
- Bố ơi! Có lần con đã sắp giết bố để ăn thịt rồi!
Nói xong được câu đó, Hồi khóc rống lên làm những anh em kế bên kinh ngạc,
nhưng không ai biết chúng tôi nói gì. Hình như cảm thấy nhẹ người sau câu đó, Hồi
trở nên khá bình tĩnh sau khi nước mắt đã chảy xuống nhiều. Tôi vẫn ôm vai nó hỏi:
- Chu Vạn Hồi, con nói gì? Sao lại giết bố? Bố không hiểu chuyện
gì cả?
Hồi trả lời tôi cách rành rọt từng tiếng một. Lúc đó, tôi đã
nói tiếng Quan Thoại rất sõi, nên hiểu hết những gì Hồi nói:
- Làm sao bố hiểu được chuyện này khi con và Lý Đức Nghĩa giữ kín
trong lòng từ nhiều năm qua. Bây giờ Lưu Tùng chết rồi, chỉ còn lại con và Lý Đức
Nghĩa. Con gọi nó lại đây để xin lỗi bố sau khi con kể lại đầu đuôi câu chuyện
mà bố đã biết qua một phần.
Nói xong, Hồi bước xuống đi gọi Nghĩa nằm tận cuối buồng. Tôi ngồi một mình
phân vân không hiểu Hồi muốn nói tới chuyện gì. Chuyện gì mà nó nói là tôi đã
biết một phần. Chu Vạn Hồi làm tôi rất thắc mắc. Khi cả hai trở lại, Hồi nói:
- Lý Đức Nghĩa, anh ngồi xuống đây. Đêm nay tôi đã là con của
Chúa, và người mà chúng ta vẫn gọi là Anh Lễ ngày trước bây giờ là bố của tôi.
Tôi phải kể lại câu chuyện của buồng 5 ở kỷ luật Thanh Cẩm năm xưa để xin bố
tôi tha thứ cho chúng mình.
Nghe nhắc tới đó, Nghĩa hiểu ngay câu chuyện nên có vẻ bối rối,
nói nhỏ với Hồi bằng tiếng Quan Thoại mà chính nó đã dạy cho tôi:
- Anh Hồi à, chuyện đã qua từ lâu rồi còn nhắc lại làm gì?
- Mặc dù là đã lâu, nhưng tôi không an tâm khi chưa thú tội với
người mà bây giờ tôi gọi là bố. Anh hãy ngồi xuống đây với tôi.
Nói xong, Hồi ngồi dịch sang một bên và kéo Nghĩa ngồi xuống.
Cả ba người chúng tôi ngồi dựa lưng vào tường, tôi ngồi giữa hai người. Chu Vạn
Hồi bắt đầu kể:
- Câu chuyện đã 8 năm qua rồi, nhưng con nhắc lại và tin chắc là bố
còn nhớ. Bố còn nhớ cái đêm thằng 'lưu manh' bị tụi con đập trong buồng 5, nó
la hét và cán bộ phải lên mang đi bệnh xá?
- Có, bố còn nhớ rõ lắm, chuyện đó xảy ra trong buồng 5 và bố ở buồng
4 kế bên nghe nó la hét thất thanh trong đêm và cán bộ lên đưa nó ra khỏi buồng
trong đêm.
- Đúng rồi, như vậy là bố còn nhớ.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Nhưng tại sao con muốn nhắc lại chuyện đó? Có gì đặc biệt không?
- Vì chuyện này có liên quan tới bố. Nếu lúc này bố không là bố của
con thì con không nhắc lại làm gì, nhưng bây giờ bố là cha mẹ con, con không thể
giữ trong lòng, nhưng phải nói ra, mặc dù đã nhiều năm qua rồi.
Tự nãy giờ Nghĩa chỉ ngồi yên cúi đầu, lúc biết là Hồi sẽ kể
hết đầu đuôi câu chuyện, Nghĩa quay sang tôi, nói:
- Anh Lễ, tôi xin lỗi!
Tôi nói với cả hai:
- Tôi chẳng hiểu gì cả. Hãy kể tôi nghe đi!
Chu Vạn Hồi khoanh tay, mắt nhìn lên trần nhà và bắt đầu câu
chuyện một cách chậm rãi, dĩ nhiên là bằng tiếng Quan Thoại:
- Lúc đó, con và Lý Đức Nghĩa vì quá tuyệt vọng và khổ sở đói khát
sau hơn chục năm tù, và lúc nào, ở đâu cũng bị nhốt trong kỷ luật. Chúng con muốn
chết, nhưng phải chết cách nào để cho mọi người biết là vì sự dã man của chế độ
Cộng sản Việt Nam mà chúng con phải làm như vậy. Chúng con quyết định gây tiếng
vang bằng cách giết và ăn thịt bất cứ một người tù Việt Nam nào bước vào buồng
5 lúc bấy giờ.
Chúng con đã định, sau
khi giết chết, sẽ moi bộ đồ lòng ăn trước, vẫn để xác chết nằm đắp chăn, cán bộ
điểm danh nhìn vào vẫn thấy đủ số và một người đang ngủ. Sau đó chúng con sẽ
lóc thịt và ăn dần cho tới khi bị phát hiện. Dĩ nhiên là tụi con sẽ bị bắn,
nhưng chúng con muốn dùng hành động man rợ này để tố cáo sự dã man của chế độ Cộng
sản Việt Nam. Vì thực tình lúc đó chúng con không còn thiết sống nữa. Trong buồng
có Lưu Tùng, nhưng dù sao nó cũng là người Trung Quốc nên chúng con không giết
nó. Nó ốm yếu như một cây sậy, giết lúc nào cũng được! Chúng con chỉ lấy phần
ăn của nó đi và chỉ cho nó ăn vừa đủ sống.
Hồi dừng lại, với tay lấy lon nước thấm giọng. Tôi ngồi yên lặng và rùng mình
khi nghe Hồi chầm chậm kể lại câu chuyện mà tôi đã biết được một phần, vì chính
tôi lúc đó đã can thiệp để cứu Lưu Tùng. Hồi tiếp:
- Chiều hôm đó, cán bộ đưa một thằng ‘lưu manh’ vào buồng con và
cơ hội đã tới. Vừa xỏ chân vào cùm xong là nó lăn ra ngủ. Điều này càng dễ dàng
cho chúng con thực hiện kế hoạch và chúng con nói tiếng Phổ thông với nhau nó
chẳng hiểu gì. Nó bị cùm với Lưu Tùng thớt bên kia và nằm phía ngoài. Thớt bên
này con nằm bên ngoài, Nghĩa nằm bên trong.
Chờ cho đèn điện trong buồng tắt, trong lúc nó đang ngủ
mê, con bước một chân xuống sàn lấy cái ống bẩu nước tiểu và đổ hết nước tiểu
ra. Cái ống bẩu đó dài và nặng, con dùng hết sức lực của hai cánh tay giáng một
phát cực mạnh vào đầu nó. Con nghĩ là nó sẽ chết ngay vì cú đập đầu bất ngờ
này, nhưng cái thằng nó khỏe. Ống bẩu vỡ tan tành, máu văng tung tóe nhưng nó
không chết mà lại hét to lên: “Báo cáo cán bộ! Báo cáo cán bộ!” Lúc đó con chồm
qua dùng hai tay bóp cổ nó như thế này... Con làm bố coi!
Anh ta dùng hai bàn tay bọc lấy phía sau cổ tôi. Hai ngón tay cái như thép của
nó ấn nhẹ vào dưới cổ phía trước của tôi. Nó chỉ ấn nhẹ, mà tôi có cảm tưởng
là cổ họng tôi đã vỡ ra. Tôi phải kéo tay nó. Hồi nói tiếp:
- Bố thấy đó, con chỉ ấn nhẹ mà bố không chịu nổi nhưng không hiểu
sao đêm đó con dùng hết sức lực ấn xuống mà nó không chết. Rõ ràng là ý Chúa
còn thương con, nếu nó chết thì con đâu có ngày hôm nay. Đây là điều lạ lùng.
Nhưng còn một việc lạ lùng khác mà con biết là Chúa cứu con, đó là khi
cán bộ nghe tiếng la hét chạy lên. Lúc đó, con chồm xuống đứng áng ngang cửa sổ
cố ý che đèn bấm cán bộ rọi vào buồng quan sát. Bất thần có một cán bộ võ trang
chọc thật mạnh lưỡi lê ở đầu súng vào buồng, đúng vào giữa thanh sắt song cửa sổ
tóe lửa. Theo phản xạ, con né sang một bên, và lưỡi lê chệch sang phía bên kia.
Đúng là phép lạ Chúa cứu con, vì nếu con né phía ngược lại thì lưỡi lê sẽ chọc
đúng vào tim! Bây giờ con mới hiểu là Chúa đã cứu con.
Hồi dừng lại, khoanh tay trước ngực ngước mắt lên trong thái độ tạ ơn. Xong anh
kể tiếp:
- Cán bộ mở cửa buồng đưa thằng ‘lưu manh’ đi xuống bệnh xá vì bị
vỡ đầu máu me lênh láng. Khi cán bộ xuống rồi, con và Nghĩa bèn vắt máu từ cái
chăn của nó được gần đầy bát máu. Tụi con dùng đóm tre đun bát máu thằng ‘lưu
manh’ cho nóng lên và chia nhau uống! Lưu Tùng nhìn thấy cảnh đó run sợ nói
không ra lời. Lúc bấy giờ đói quá con uống máu người mà không thấy tanh gì cả.
Lạ một điều là uống máu người xong tụi con giống như bị nghiện, càng mong có dịp
được uống nữa!
Tôi cảm thấy lạnh người khi nghe Chu Vạn Hồi và Lý Đức Nghĩa, hai người mà tôi
rất thương mến trong những năm qua, lại là những kẻ đã từng uống máu người. Lúc
này tôi mới lên tiếng:
- Lúc nãy, con nói là con định giết bố, lúc nào?
- Bố có nhớ lần đổi buồng ngay sau đó và cán bộ Thanh định đưa bố
vào buồng 5 của con không?
Tôi nhớ rất rõ việc đó, nên nói:
- Có, nhưng bố không vào và xin cán bộ cho đi buồng khác vì bố và
ông Khương mới đánh Lý Đức Nghĩa trước đó, nếu bố vào...
Hồi cướp lời tôi:
- Bố ơi! Đây là một phép lạ khác, phép lạ này còn lớn hơn nữa.
Bố biết không, sau lần giết hụt anh tù hình sự mà không bị phát hiện, tụi con
đã bàn lại kế hoạch và nạn nhân thứ hai không thể nào sống sót được. Chúng con
đang mong đợi thì trưa hôm đó cán bộ đưa bố vào. Lúc bấy giờ, chúng con đã trở
thành loài thú say máu người và sẽ giết để ăn thịt bất cứ người tù Việt Nam
nào. Khi biết người đó là bố chúng con càng mừng hơn, vì giết và ăn thịt một
người tù chính trị miền Nam có tên tuổi như bố thì cái chết của chúng con sẽ được
thế giới biết tới nhiều hơn. Vả lại, Lý Đức Nghĩa rất mừng vì có dịp báo thù.
Nó nói bố và ông Khương đánh nó hôm Tết vì nó cướp bánh chưng.
Lúc bố đứng ngoài sân, trong
buồng con và Nghĩa đã bàn kế hoạch với nhau thật nhanh, không thể bàn khi bố
vào buồng vì bố biết tiếng Phổ Thông. Chúng con cũng đe Lưu Tùng, nếu nó làm một
ám hiệu gì với bố nó sẽ chết ngay. Nhưng sau đó bố lại xin cán bộ không vào buồng
con và cán bộ đưa Phi Tàu thay vào đó! Nếu bố vào buồng 5, tụi con đã giết bố rồi!
Khi Phi Tàu vào nhập bọn, chúng con
càng có sức mạnh và quyết tâm giết người ăn thịt hơn. Nhưng chưa có dịp ra tay
thì một hôm bị thằng đại ‘‘lưu manh’’ Bình Thanh xông vào buồng đánh Phi Tàu và
Nghĩa nằm liệt hàng tháng trời. Con cũng bị đánh, nhưng nhẹ hơn, và ngay chiều
hôm đó bị đổi buồng mỗi đứa một nơi!
Hồi dừng lại, nắm lấy bàn tay tôi hôn và nói:
- Xin bố tha thứ cho con!
Nãy giờ, Nghĩa ngồi yên cúi đầu, lúc này mới lên tiếng lần
thứ hai:
- Anh Lễ, tôi xin lỗi anh!
Tôi ngồi yên nhắm mắt và lạnh người khi hồi tưởng lại những tháng ngày đã qua
trong 3 năm tôi lăn lộn trong kỷ luật Thanh Cẩm. Thật tôi không thể ngờ có những
chuyện như vậy đã xảy ra.
Tôi nắm lấy tay hai người bạn tù Trung Quốc, những con người khốn cùng đã chia
xẻ một phần cuộc đời của họ với tôi. Tôi nắm lấy bàn tay họ thật lâu và
ngồi yên, để cho hai hàng nước mắt tôi tuôn rơi. Thấy tôi ngồi yên, nước mắt chảy
dài, Chu Vạn Hồi quay sang ôm lấy tôi và cả hai cùng khóc. Lúc đó, Nghĩa cúi đầu,
miệng lẩm bẩm mấy câu tiếng Phổ Thông, một ngôn ngữ mà chính nó đã dạy cho tôi:
- Lỳ cớ! Tui pủ xì!( Xin lỗi anh Lễ, xin lỗi!)
Chúa nói trong con
Hôm sau, tôi bị gọi lên gặp trại trưởng vì dâng Thánh Lễ công khai. Ông ta nạt
nộ quát tháo, bảo tôi phải “câm miệng” lại, và còn dọa sẽ tống tôi vào cùm. Tôi
trả lời rất khiêm tốn nhưng thẳng thắn:
- Báo cáo cán bộ, tôi là một Linh mục, thì cho dù ở đâu tôi cũng
phải làm nhiệm vụ Linh mục của tôi và việc làm của tôi không ảnh hưởng gì tới sự
an ninh của trại. Cán bộ khỏi phải dọa nạt tôi. Việc cùm kẹp đánh đập tôi đã chịu
quá quen trong tù rồi. Bây giờ còn lại hai điều tôi xin với cán bộ. Một là bắn
tôi chết, hai là để tôi làm nhiệm vụ rao giảng lời Chúa. Tôi phải vâng lời
Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người.
Thấy không thể lay chuyển được tôi, họ giao tôi lại cho cán bộ quản giáo. Hôm
sau, cán bộ quản giáo gọi tôi tới, trách móc tôi việc dâng Lễ và giảng dạy công
khai làm ban giám thị khiển trách anh. Cuối cùng anh nói:
- Anh Lễ này, nếu anh không còn thương anh nữa thì xin anh thương
tôi và vợ con tôi. Anh tiếp tục làm như thế, tôi là người gặp rắc rối trước
tiên.
Tôi trả lời:
- Tôi cám ơn cán bộ đã thông cảm với tôi, cán bộ đã nói thế thì từ
nay tôi sẽ không dâng Thánh Lễ công khai nữa, nhưng sẽ dâng Lễ âm thầm.
Các ngày Chúa Nhật và ngày nghỉ, nhóm chúng tôi ngồi quây quần ngoài sân và
chia sẻ Lời Chúa với nhau. Lúc đầu, nhóm chỉ có những anh Trung Quốc nên tôi
dùng tiếng Quan Thoại trong việc này, về sau có những người Việt nên tôi phải
dùng hai thứ tiếng. Nhóm của chúng tôi càng ngày càng có nhiều người tham gia.
Tôi dạy giáo lý và chuẩn bị Rửa tội cho 3 người trong thời gian sắp tới.
Lúc đó, đội của tôi do một anh thanh niên người Dân Tộc làm đội trưởng. Cũng
nên biết trong tù chúng tôi gọi tất cả những người không phải là người Kinh bằng
một tên chung là người “Dân Tộc”, ý nói là dân tộc thiểu số. Có thể họ mà người
Mường, người Mán, người Thượng, người Nùng... Công việc của đội chúng tôi là
đào kinh dẫn nước vùng đầm lầy chung quanh trại Nam Hà để cố biến vùng này
thành khu vực có thể canh tác được. Một thời gian sau, cán bộ chỉ định tôi thay
thế anh người Dân Tộc làm đội trưởng vì anh này viết chữ không rành! Chính
trong thời gian này, khi không còn những tù chính trị miền Nam, tôi có dịp tiếp
xúc nhiều với những cán bộ có phần hành chuyên môn trong trại.
Đội khai thác đá
Đội tôi làm thủy lợi một thời gian thì chuyển qua khai thác đá để bán cho các hợp
tác xã xây dựng các nơi, nhất là ở Hà Nội. Trại Nam Hà nằm trong một thung
lũng, chung quanh núi non bao bọc. Con đường từ Phủ Lý vào trại hai bên là núi
đá cao, và đội chúng tôi khai thác đá trong các dãy núi cao lởm chởm này. Đánh
đá là một công việc nặng nhọc và đầy nguy hiểm. Tôi nghe kể lại trước đây có mấy
tù nhân đã bỏ mạng hoặc thương tật khi làm công việc này. Vì thế, khi lãnh
trách nhiệm cho đội đánh mìn khai thác đá, tôi đã phải hết sức cẩn thận để bảo
vệ cho anh em. Công việc của đội chúng tôi gồm các khâu như sau:
1. Chọn địa điểm đánh mìn: Việc này do chính tôi lựa chọn. Tôi phải tìm chỗ nào
cho nổ mìn để có nhiều đá vỡ ra từ nhiều góc cạnh khác nhau, nhưng phải là nơi
thuận tiện để người châm ngòi nổ có thể chạy nấp được.
2. Đục lỗ vào đá để nhét thuốc nổ: Mỗi ngày tôi chọn từ 8 tới 10 chỗ tùy theo số
người lao động trong đội. Sau đó tôi phân công từng đôi một để họ đục lỗ trong
đá bằng cái búa nặng chừng 1 ký lô và một cây sắt đầu dẹp, gọi là cây “choàng”.
Một người cầm búa, một người cầm choàng. Làm sao trong ngày mỗi cặp phải đục một
lỗ sâu 1 thước vào trong đá.
3. Nhét thuốc nổ và châm mìn: Đây là công việc nhẹ nhàng nhất nhưng lại là công
việc nguy hiểm nhất. Tôi chọn một anh tù lanh lẹ và tháo vát làm công việc này.
Trong khi cả đội lao động vất vả thì anh này lo dọn đường trên núi để chạy tới
chỗ nấp an toàn sau khi châm mìn. Buổi chiều, sau khi các lỗ đục xong, anh lo
việc nhồi thuốc nổ vào lỗ và phân chia dây cháy chậm tùy theo số lỗ và khoảng
cách giữa các lỗ mìn cho hợp lý. Vì tiêu chuẩn dây cháy chậm chỉ có chừng ấy,
anh phải phân ra để đốt và bảo đảm quả mìn đầu tiên không nổ trước khi anh chạy
vào chỗ nấp đã chuẩn bị sẵn. Có trường hợp anh tù bị nổ banh thây trước
khi chạy tới chỗ nấp vì chia dây cháy chậm không hợp lý.
4. Khâu dọn đá: Sau khi nổ mìn làm vỡ ra các tảng đá thật to, một nhóm tù sẽ
lên vần cho rơi xuống bãi và dùng búa tạ 5 ký đập cho vỡ ra thành những tảng đá
nhỏ bằng quả dưa.
5. Khâu vác đá: Sau khi đá được đập ra thành cỡ vừa phải, những anh tù vác đá
chất thành đống hình chữ nhật để đo thành từng khối giao cho các xe tải của hợp
tác xã.
Phần tôi, trong vai trò đội trưởng, có nhiệm vụ phân công cho anh em và theo
dõi quan sát, đốc thúc anh em làm việc, cũng như cố gắng đừng để tai nạn xảy
ra. Chính tôi là người quyết định giờ cho nổ mìn, nên trước đó tôi và anh đội
phó ra đường cái gần bên báo hiệu cho xe cộ và người đi bộ. Mỗi ngày chúng tôi
cho nổ mìn buổi chiều trước khi các xe tải lấy đá và chừng một tiếng đồng hồ
trước khi thu quân. Sau khi nổ mìn xong, toán dọn đá phải lên lăn những tảng đá
to xuống để sáng ngày đội có việc làm. Trong thời gian tôi làm đội trưởng,
mọi việc diễn tiến tốt đẹp, không xảy ra một ai nạn nào. Chỉ có một lần duy nhất
bị trục trặc và gây ra sự cãi vã gay gắt giữa cán bộ quản giáo và tôi.
Chiều hôm ấy, chúng tôi châm 10 lỗ mìn, nhưng chỉ nổ 9 tiếng và một quả bị lép.
Đây là điều chúng tôi e ngại nhất, vì quả mìn lép có thể sẽ thúi luôn, hoặc có
thể nổ lại bất cứ lúc nào, nhất là khi có sự chuyển động gần đó. Sau khi mìn nổ
một lúc, cán bộ bảo tôi cho toán dọn đá lên. Tôi trả lời là còn một quả chưa nổ,
nếu đội lên lúc này rất nguy hiểm, hẳn đợi lúc nữa.
Khoảng chừng 15 phút sau, cán bộ quản giáo lại giục tôi cho đội lên dọn đá, tôi
cũng nói chưa an toàn, vả lại chỉ còn nửa giờ nữa là thu quân nên tôi xin cho đội
ngồi nghỉ sáng mai hãy dọn đá. Cán bộ không nghe, cho là tôi muốn chống đối,
anh nói rằng làm như thế đội sẽ không đạt được mức khoán của ban giám thị.
Tôi trả lời đây là sự trục trặc ngoài ý muốn, không phải vì đội lười biếng hoặc
chống đối lao động. Mấy anh tù trong đội xanh mặt ngồi theo dõi cuộc cãi vã. Cuối
cùng, cán bộ dọa sẽ đưa tôi lên ban giám thị, cho là tôi cãi lệnh cán bộ và có
ý chống đối lao động. Dọa nạt tôi xong, anh ta trực tiếp ra lệnh cho đội lên dọn
đá. Trong khi các anh tù còn đang do dự chưa biết nghe ai, tôi tới bên cán bộ
nói thật bình tĩnh:
- Báo cáo cán bộ, trước khi cán bộ trực tiếp ra lệnh cho đội, xin
hãy cách chức đội trưởng của tôi. Nếu không tôi vẫn không đồng ý cho đội lên
núi.
Trong khi anh ta ngần ngừ và giận tím gan, nhưng không biết
trả lời sao thì tôi nói thêm:
- Nếu đội lên mà quả mìn lép phát nổ làm chết người, ai chịu trách
nhiệm?
Trong khi anh cán bộ trẻ tuổi nhưng rất hung hăng này
định phản công, tôi đành phải chưng “kinh thánh” của họ ra, tôi nói tiếp:
-Tôi còn nhớ bác Hồ có nói ‘Con người vốn quý’. Trong trường hợp
này mạng sống con người phải quý hơn chỉ tiêu làm đá. Nếu cán bộ cho câu nói của
bác Hồ là sai thì xin ký tên vào đây, rồi tôi cho đội lên!
Nói xong, tôi đưa cuốn sổ ghi công của đội và cây bút. Nhưng anh đã bỏ đi. Tôi
cho đội ngồi nghỉ cho tới giờ thâu quân. Trong thời gian làm đội trưởng, tôi
tìm hết cách để bảo vệ anh em trong đội, vì tôi nghĩ nếu tù mà không thương tù
thì đợi ai vào đây thương mình?
Biểu lộ tình người
Đi lao động một thời gian, tôi bị một trận kiết lỵ thập tử nhất sinh. Cũng may
có thuốc anh em vô Nam để lại nên tôi qua khỏi nhưng còn yếu chưa có thể theo đội
đi lao động. Lúc đó cha Hiểu là đội phó thay tôi coi đội, còn tôi nghỉ ở nhà lo
giúp anh trực sinh buồng làm vệ sinh khu vực chung quanh. Một buổi sáng rảnh rỗi,
tôi ngồi trong nhà ăn, đọc tác phẩm “Chiến tranh và Hòa Bình” của Léon Tolstoi.
Bộ sách giá trị này của một người bạn vô Nam để lại cho tôi.
Trong khi đang đọc thì Trung úy T., Sĩ quan an ninh của trại bước vào. Sẵn có
óc cầu tiến và thích tìm hiểu, anh ta ngồi xuống với tôi và nói về tác phẩm này
vì anh cũng đã đọc qua. Sau đó chúng tôi bàn về những tác phẩm hay mà anh ta đã
đọc hoặc muốn đọc. Phần nhiều những sách anh nói tới, tôi đều đọc qua và chúng
tôi bàn với nhau về chuyện văn chương rất tương đắc. Điều tôi nhận xét đầu tiên
về người cán bộ này là anh thích văn chương, đọc sách nhiều, thích tìm hiểu
nhưng chưa “tiêu hóa” được, đúng hơn là anh không đủ trình độ tiêu hóa những tư
tưởng trong các tác phẩm anh đã đọc.
Sau lần nói chuyện, thỉnh thoảng anh lại vào chỗ tôi chơi và câu chuyện thường
là xoay quanh những vấn đề trong một vài quyển sách mà anh đọc. Chúng tôi cùng
bàn với nhau rất tương đắc. Anh đọc khá nhiều loại sách của các tác giả Tây
phương và cả Tam Quốc Chí, Thủy Hử và nhiều sách khác nữa.
Thời gian sau, tôi khỏe lại và theo đội ra ngoài lao động nên ít khi gặp lại
người cán bộ an ninh thích tìm hiểu về sách vở này. Một hôm, anh gọi tôi lên
làm việc. Cũng nên biết qua, cán bộ an ninh trong trại quyền hạn rất lớn và khi
gọi ai đi “làm việc” thì hiểu là người đó không phải đi lao động. Sau khi
xuất trại lao động xong, anh cho một cán bộ vào đưa tôi ra văn phòng của anh, nằm
khá xa bên ngoài cổng trại.
Khi tôi bước vào, anh đón tôi bằng một nụ cười, mặc dù đó không phải là nụ cười
hoàn toàn thân ái, nhưng cũng không phải là nụ cười giả tạo. Phải nói là nụ cười
của hai người đã có những lần nói chuyện với nhau về một vấn đề không nằm trong
phạm vi giữa cán bộ và tù nhân, đó là vấn đề văn chương. Hôm đó, anh mặc quần
màu vàng của công an, áo sơ mi trắng ngắn tay. Phòng làm việc này khá nhỏ và
đơn sơ, chỉ có một tủ nhỏ có lẽ chứa hồ sơ, một cái bàn nhỏ bên trên có bộ chén
trà và bao thuốc lá thơm. Bên cạnh bao thuốc lá có một bìa đựng hồ sơ mà tôi
đoán là hồ sơ của tôi.
Từ khi về lại trại Nam Hà tới giờ đã 5 tháng, nhưng tôi chưa bao giờ được gọi
đi làm việc. Thật ra, cũng chẳng còn gì để mà họ khai thác. Những gì đã xảy ra
trong 13 năm qua, họ đã biết quá rõ về tôi. Vả lại lúc này gần như tất cả những
người tù miền Nam đã được về hết rồi, còn khai thác gì nơi tôi nữa. Nghĩ như vậy
nên tôi rất bình thản, và nhất là tôi đã nhiều lần tiếp xúc với người cán bộ an
ninh của trại này rồi. Sau khi pha trà và mời thuốc tôi một cách khá thân mật,
anh ta nhẹ nhàng bảo tôi là những lần trước nói chuyện với tôi, anh thấy rất
thích và hôm nay muốn để tôi ở nhà để nói chuyện tiếp.
Lối mở đầu câu chuyện của anh làm bầu khí giữa hai người trở nên nhẹ nhàng và tự
nhiên. Chúng tôi ngồi uống trà nói chuyện. Phần đầu câu chuyện liên quan tới
sách vở, sau đó bàn qua về các trào lưu tư tưởng Âu Châu. Anh hỏi tôi về ngày
tàn của đế quốc La Mã, về cuộc cách mạng Pháp năm 1789, những điều này anh có đọc
nhưng không hiểu hết. Sau một lúc nói chuyện rất tự nhiên, anh hạ giọng hỏi
tôi:
- Anh Lễ, một phần nào anh đã hiểu tôi, vậy tôi muốn nghe anh nói
thật ý nghĩ của mình. Anh nghĩ thế nào về chủ nghĩa cộng sản?
Câu hỏi này của người Sĩ quan an ninh của trại làm tôi hơi đắn đo. Chưa bao giờ
tôi gặp trường hợp như vậy cả. Anh ta nói đúng, một phần nào tôi đã hiểu được
tư tưởng của người cán bộ có cái nhìn phóng khoáng này. Suy nghĩ một lúc, tôi
nói rất thân ái:
- Ông T. à, tôi không nghĩ là ông thăm dò tư tưởng tôi.
Anh ta cười nhẹ, một cái cười có vẽ khổ tâm vì người đối thoại
chưa tin nơi sự thành thật của mình, trong khi đã giãi bày cặn kẽ. Anh trả lời:
- Anh Lễ, tôi đã đọc hồ sơ anh thật kỹ, và chính cũng vì hiểu anh
nên tôi mời anh lên để nói chuyện riêng tư. Tôi còn phải thăm dò anh làm gì nữa.
Nói xong, anh ta lật bề kia của bìa đựng hồ sơ của tôi, cho tôi thấy hàng chữ nằm
ngang:“Thành phần không thể cải tạo được”, đóng bằng nét mực đen. Đó là lần đầu
tiên tôi được nhìn thấy cái bìa hồ sơ cá nhân của tôi. Tôi buồn bã đáp lời:
- Ông T. à! Ông hỏi thì tôi phải nói, cho dù sau đó ông có cùm
tôi, tôi cũng vẫn nói.
Tôi dừng lại một chập rồi nói tiếp:
- Mà nói cho cùng, tôi đã quen với cảnh bị cùm rồi, còn gì phải sợ
nữa! Tôi nói thật lòng, tôi vẫn nghĩ là chế độ cộng sản không thể tồn tại được
ông ạ!
Nói xong, tôi nhìn cán bộ T.. Anh ngồi yên, gật đầu nhè nhẹ
và hỏi:
- Anh căn cứ vào đâu mà nghĩ như thế?
- Câu hỏi của ông quá rộng, tôi không thể kể hết nguyên nhân.
Nhưng chỉ nguyên một việc chủ nghĩa cộng-sản chủ trương đi ngược lại với
bản chất tự nhiên của con người là nhu cầu chiếm hữu cũng đủ nói lên điều tôi
khẳng định. Quyền tư hữu là một quyền căn bản thiết thân của con người, nó đi
liền với bản năng của con người. Ai cố gắng tước bỏ điều đó là chống lại với
khuynh hướng tự nhiên, mà hễ điều gì đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên thì
không thể nào tồn tại được. Thực tế, quyền tư hữu con người có bị tước đoạt được
hay không, ông là một đảng viên, ông hiểu rõ hơn tôi!
Anh ta ngồi trầm ngâm sau câu trả lời khá dài của tôi. Một
lúc sau anh ta nói, nói thật nhỏ chỉ vừa đủ hai người nghe:
- Anh Lễ, anh hãy giữ suy nghĩ ấy trong lòng và đừng nói ra, không
có lợi. Tôi cũng có suy nghĩ như anh. Nhưng anh biết hoàn cảnh tôi, tôi sinh ra
và lớn lên trong chế độ. Anh Lễ, tôi quý anh, nên tôi thành thật khuyên anh là
khi nào được về anh hãy tìm cách ra khỏi nước mà sống. Phần tôi, không làm gì
khác hơn được. Vả lại, còn miếng cơm manh áo của gia đình vợ con tôi nữa!
Nghe anh nói, tôi rất cảm động. Vô tình tôi định cầm lấy bàn tay anh, nhưng chợt
nhớ lại dù sao cũng còn bức tường ngăn cách giữa hai người mà lúc này chưa có
thể vượt qua được, nên tôi dừng tay lại. Trong thâm tâm, tôi quý mến người cán
bộ này hết sức và thương cho hoàn cảnh của anh. Từ đó, chúng tôi rất quý nhau.
Bên ngoài chúng tôi bị hoàn cảnh ngăn cách nhưng bên trong chúng tôi đã coi
nhau như bạn. Đúng hơn, anh ta coi tôi như một người anh.
Cộng đoàn tình thương
Trong thời gian này nhóm “Cộng đoàn tình thương” chúng tôi đang trên đà phát
triển mạnh. Những anh tù tôi vừa Rửa tội xong đã trở nên những chiến sĩ đức tin
rất nhiệt thành. Qua việc thực tập cuộc sống chia sẻ trong tù, các anh thấy có
một lý tưởng để sống vì đây là một kinh nghiệm lạ lùng. Đối với các anh em đó,
làm gì có cuộc sống chia sẻ trong môi trường chỉ biết có bắt nạt, lừa đảo,
tranh giành, chém giết nhau vì miếng ăn như trong nhà tù này. Các anh em đã tìm
thấy được niềm vui trong khi thực hiện các lời trong bài hát “Kinh Hòa Bình” của
Thánh Phanxicô Assisiô mà tôi tập cho anh em hát. Cả những anh Trung Quốc cũng
hát tiếng Việt, nhưng tôi dịch nghĩa sang tiếng Tàu cho họ: “Chính lúc quên
mình là lúc gặp lại bản thân.”
Đây là lúc tôi nhận thấy rõ rệt nhất những hoạt động của chức vụ Linh mục đạt
được nhiều kết quả và Chúa đã làm nên những điều kỳ diệu đối với đám tù nhân khốn
khổ của chúng tôi. Càng ngày tôi càng thấy yêu thích cuộc sống của tôi lúc bấy
giờ. Một cuộc sống rất hạnh phúc mà trước kia lòng ước vọng tự do thúc đẩy quá
mãnh liệt đã che lấp không cho tôi nhận ra đâu là ý Chúa muốn tôi phải làm.
Có những đêm tôi dạy giáo lý cho một số anh em, kể chuyện Kinh Thánh cho một số
khác. Anh em vui vẻ, ngồi lắng tai nghe. Có nhiều người cảm động nói từ trước tới
nay chưa bao giờ được nghe những lời như thế. Từ lâu nay, cứ tưởng Công Giáo là
một cái gì ghê gớm và độc ác và nhơ bẩn như được diễn tả trong phim “Ngày Lễ
Thánh” được nhà nước cho chiếu khắp nơi, hoặc trong cuốn sách “Gia-Tô Tây Dương
Bí Lục” mà đảng cộng-sản phổ biến rộng rãi để nói về “nguồn gốc” và cách hành đạo
của Thiên Chúa Giáo! Có những anh thành thật nói, nếu con không gặp cha làm gì
con hiểu được con người phải có tình thương và sự tha thứ! Những nhận xét đơn
sơ của các anh tù đó đã an ủi tôi và tôi cám ơn Chúa đã cho tôi được sống trong
hoàn cảnh này. Điều làm tôi mừng và cảm thấy hạnh phúc là Chúa đã gọi tôi làm
chứng nhân cho tình yêu Chúa ngay trong môi trường đầy hận thù này.
Lúc đó, có một số giáo dân ở xứ Bắc Hải trong Nam quyên góp gửi quà cho các
Linh mục. Bây giờ tất cả được về, họ vẫn tiếp tục gửi quà cho tôi. Mỗi lần nhận
được quà, tôi dành một phần, giao cho anh em trong nhóm “Tình thương” phân
phát, bắt đầu từ những anh em túng thiếu nhất. Nói về phần nhân loại thì thực sự
lúc đó tôi đang sống trong ngục tù, nhưng về phần tinh thần thì tôi phải nói thẳng
là chưa bao giờ tôi thấy hiệu quả trong chức vụ Linh mục như lúc bấy giờ. Khi
tôi ý thức và chọn con đường làm Linh mục lúc 20 tuổi là chính vì lý tưởng phục
vụ tha nhân, và lúc này tôi đang được sống trọn vẹn cho lý tưởng mà tôi đã chọn.
Tôi vẫn biết không có gì là bền vững trong nhà tù. Di chuyển và thay đổi là
chuyện thường xảy ra. Dù vậy, tôi vẫn mong cuộc sống như hiện tại kéo dài, vì
tôi coi đây là chỗ mà tôi phải sống. Nếu ý Chúa muốn tôi phải chết ở đây, trong
khi tôi đang thi hành chức vụ Linh mục như thế này, thì cũng là điều tôi mong
muốn.
Về phía cán bộ, dần dần tôi không còn thấy họ là những con người đáng sợ và xa
lạ nữa. Ngược lại, họ cũng chỉ là những người vì hoàn cảnh, vì cuộc sống mà
khép mình vào một khuôn khổ, mà chính họ cũng không thấy thoải mái trong khuôn
khổ này. Nếu những năm đầu, một số cán bộ đã hành sử quyền hạn thái quá làm cho
tôi đôi lúc có ý tưởng ghét bỏ con người, thì giờ đây, sau hơn chục năm giao tiếp,
tôi thấy các cán bộ là những người đáng thương hơn là đáng trách.
Có đáng trách chăng là một thể chế chính trị, chỉ biết phục vụ cho quyền lợi của
đảng mà đã trói buộc cả một dân tộc vào trong guồng máy đó. Cơ chế đảng cộng sản
như một con quái vật do con người sanh đẻ ra nó, nhưng khi sanh nó ra rồi, thì
không cách gì có thể kềm chế được sự hung hãn của nó. Nó quay ra ăn thịt bất cứ
ai, ngay cả người sanh đẻ ra nó.
Đối với tôi, điều quan trọng không phải là chúng ta tiêu diệt con người, ngay cả
những con người đang phục vụ trong chế độ cộng sản. Điều chúng ta phải làm là bằng
mọi cách loại bỏ cơ cấu chính quyền vô nhân được xây dựng trên một ý thức hệ
ngoại lai lỗi thời. Chính ý thức hệ đó đã làm tan nát tình dân tộc của chúng
ta. Ngay chính những người đang phục vụ đảng, cũng có người biết là họ đang đi
sai con đường, nhưng khi đã dính chân vào tròng, họ không còn đường trở lui.
Trừ ra những kẻ chủ trương duy trì cơ cấu đảng để trục lợi, để đè đầu cỡi cổ
dân tộc, để hối lộ, tham nhũng, vơ vét tài nguyên đất nước, những kẻ đó là tội
đồ của dân tộc. Trong khi đó, đa số cán bộ ở cấp thấp là nạn nhân hơn là tội phạm.
Tư tưởng này đã làm tôi thoải mái trong cuộc sống lúc bấy giờ và tôi nhìn tất cả
đều là những người anh em. Cho dù là họ có thể không chấp nhận tôi, nhưng tôi vẫn
nhận họ là những người anh em với tôi trong đại gia đình dân tộc.
Cũng trong thời gian này lại có một hiện tượng lạ xảy ra trong trại. Lúc đó, một
anh Trung Quốc trong số con cái tôi tên Trịnh Minh Hoa, nguyên trước kia là một
y sĩ bên Tàu, tự nhiên anh nổi tiếng về việc chẩn bệnh. Anh bắt mạch và đoán
đúng những chứng bệnh mà không ai tìm ra. Các bệnh nhân sau đó đi bệnh viện kiểm
chứng, các bác sĩ cũng nói y như vậy. Anh dùng cách bắt mạch, coi mắt, coi lưỡi
và các móng tay của bệnh nhân và nói thật chính xác người đó mắc chứng bệnh gì.
Bệnh nhân mua thuốc uống thì khỏi.
Tin lành đồn xa. Bắt đầu có nhiều cán bộ và gia đình họ vào nhờ anh Minh Hoa
xem mạch bốc thuốc. Lúc đầu chỉ trong phạm vi trại Nam Hà, về sau này có những
người từ các nơi xa cũng tới tìm anh. Anh Minh Hoa lại không nói được tiếng Việt
nên tôi đóng vai trò người thông dịch. Lúc này Trung úy T. cũng có ý muốn nhờ
tôi dạy Anh văn, nên nhân cơ hội tôi lo thông dịch giúp tiếng Quan Thoại, anh
xin với cán bộ quản giáo cho tôi khỏi đi lao động. Từ đó tôi giao đội lại cho đội
phó và ở nhà dạy tiếng Anh vào các buổi chiều cho Trung úy T.
Thời gian đó, Trung úy T. thường hay vào chỗ tôi chơi vào các giờ ban
sáng. Thường là tôi pha chè (nước trà) mời và chúng tôi cùng ngồi uống chè
bàn việc học Anh văn. Anh rất thích học nhưng vì thiếu căn bản nên không tiến bộ
nhiều, nhất là việc luyện giọng buổi ban đầu rất khó khăn. Trung úy T. lúc đó
quảng 35 tuổi, khổ người rắn chắc, da trắng, mắt hơi nâu và có nhiều râu như
người lai Tây. Anh là người hay nói cười, tánh tình cởi mở, phóng khoáng. Gia
đình anh ở Hà Nội, vợ là cô giáo và có một cháu gái 4 tuổi, đang ở với mẹ. Thỉnh
thoảng anh đưa cháu xuống trại chơi vài hôm. Cháu rất xinh trong bộ đồ đầm màu
trắng. Sự quan hệ giữa chúng tôi càng ngày càng mật thiết qua các lớp học tiếng
Anh này.
Có những cán bộ làm việc lâu trong trại đã khá thân thiện với những người tù miền
Nam ở đây trước tôi, trong đó có Trung úy Lực là cán bộ trực trại. Anh quen biết
tôi nhiều trong thời gian tôi hay qua lại buồng 9 của các tướng lãnh trước kia.
Thời gian đó, anh hay vào buồng ngồi đánh cờ tướng. Ngoài ra, người nữ cán bộ
tài vụ mà tôi gặp ngay từ ngày đầu, sau này tôi biết tên là KT, thỉnh thoảng
cũng vào chỗ tôi chơi. Nhất là sau ngày cô đi Nam trong dịp chuyển tù về trại
Hàm Tân. Sự đi lại và tiếp xúc đó dần dần tạo nên sự cảm thông giữa người với
người. Lúc đó, điều tôi nhận thấy rõ rệt là khoảng cách lằn ranh do ý thức hệ tạo
ra càng lúc càng thu hẹp lại và lu mờ dần. Điều này càng củng cố lý luận của
tôi, chỉ vì một chủ nghĩa ngoại lai mà dân tộc Việt Nam chúng tôi bị phân rẽ và
nhìn nhau như kẻ thù. Trong thực tế, dân tộc chúng tôi là một, chẳng có vì lý do
gì phải chia rẽ, hận thù hoặc chém giết nhau.
Tư tưởng này ám ảnh tôi từ những ngày tôi mới bị bắt vào tù qua các câu chuyện
tôi không sao quên được. Khi đó, tôi đang ở trại Gia Ray, tỉnh Long Khánh. Hàng
ngày, đội chúng tôi đi lao động khai hoang dọn đất chung quanh trại cho những đội
trồng trọt canh tác. Thường thì chúng tôi lao động không xa khu vực nhà khách,
tức là chỗ để thân nhân tù nhân lên thăm gặp. Như thế mặc dù không được tiếp
xúc nhưng người nhà có thể thấy chúng tôi đang cuốc đất khai hoang gần bên.
Có một lần, tôi không nhớ vì chuyện gì mà một anh cán bộ võ trang rất trẻ, chừng
18 tuổi, tập trung cả đội lại đứng dọc theo vách sau nhà khách và chửi mắng
chúng tôi thậm tệ trước mặt bao nhiêu thân nhân của tù đang đứng chờ trong nhà
khách. Khi chửi, có lúc cao hứng anh gọi chúng tôi là “những con rận sống trong
cạp quần của đàn bà! Cách mạng không bắn các anh vì sợ tốn một viên đạn của
nhân dân!” Chúng tôi đứng yên trong hàng và cúi đầu nghe anh ta chửi, trong khi
đó tôi thấy một số các bà các cô đứng trong nhà khách gần đó đưa tay gạt nước mắt.
Lúc đứng trong hàng, lòng tôi vô cùng đau xót vì thương anh cán bộ còn trẻ này
được huấn huyện để chửi những con người đáng tuổi cha chú mình. Tôi chợt nghĩ nếu
tôi có con thì anh ta đáng tuổi con trai lớn của tôi, và nếu anh ta sanh ra
trong xứ đạo tôi có thể anh là một trong những học trò giúp lễ của tôi! Bỗng
dưng tôi thương anh hết sức, và qua anh, tôi thương cho một thế hệ trẻ Việt Nam
sanh ra và lớn lên trong chiến tranh tương tàn đã hành sử theo cái nhìn của những
con người vì một chủ nghĩa ngoại lai mà quên đi tất cả tình dân tộc. Anh
đang phục vụ cho một thể chế chính trị đang chiến thắng, nhưng anh đâu có hiểu
rằng thể chế nào rồi cũng sẽ qua đi, chỉ có dân tộc là trường tồn.
Cánh hoa đồng nội
Lúc này, tôi thường có dịp tiếp xúc với cô KT, người cán bộ tài vụ. Sau
chuyến vô miền Nam, cô có nhiều chuyện để nói với tôi. Tôi phải nhận là chuyến
vào Nam lần đầu tiên đó đã làm cô thích thú. Cô đã thay đổi cái nhìn và lối suy
nghĩ rất nhiều. Một hôm, cô vào trại tìm tôi có việc liên quan tới tài
chánh, sau đó cô hỏi trong Nam tôi ở tỉnh nào. Tôi nói ở Vĩnh Long, thuộc miền
đồng bằng sông Cửu Long. Tôi kể với cô sơ qua về phong cảnh và sự trù phú của
miền Tây. Cô rất chăm chú nghe nhưng có vẻ không hiểu lắm vì chuyến đi Nam vừa
rồi của cô ít giờ quá, không có dịp đi thăm nhiều nơi, và nhất là không quen ai
trong Nam. Cô vui vẻ hỏi tôi:
- Anh ở Vĩnh Long nhưng có biết nhiều về thành phố Hồ Chí Minh
không?
Tôi bị dị ứng khi nghe ai gọi Sài Gòn bằng cái tên chính trị
của nó. Mặc dù cô gọi tên đó một cách rất tự nhiên, tôi trả lời:
- Cái thành phố mà cô vừa hỏi thì tôi không biết, nhưng tôi biết
Sài Gòn rất rõ vì tôi học ở đó 7 năm.
Người nữ cán bộ tỏ ra bất ngờ trước câu trả lời của tôi. Cô nhìn tôi bằng đôi mắt
mở to dưới hàng mi cong, nhưng liền đó cô tỏ ra nhạy cảm với tâm trạng tôi nên
yên lặng, mỉm cười:
- Anh Lễ này! Sao mà anh “gớm” thế? Thôi, đừng để những việc đó
làm chúng ta mất vui. Tôi chẳng có ý gì đâu, tôi chỉ muốn nghe anh nói thêm về
thành phố Hồ...thành phố Sài Gòn, mà phải nói là tôi rất thích trong lần vào
đó. Lần đó, có mấy anh ở đây nhờ tôi tới thăm gia đình. Người nhà tiếp tôi nồng
hậu lắm anh ạ. Tôi được tặng nhiều quà lắm. Lúc trở ra, cháu trai rất thích vì
mẹ mang về nhiều đồ chơi.
Nói xong nàng nở nụ cười thật hồn nhiên của một cô gái quê Việt Nam thuần túy.
Sau đó, nàng nói qua các nơi nàng đã có dịp ghé như Thủ Đức, Nhà Bè v.v... Những
đêm ở Sài Gòn, cô ở và làm việc tại An Ninh Nội Chính, và hỏi tôi có biết nơi
đó không. Tôi nói đã bị giam ở đó khi vừa bị bắt và tôi có bà cô ở đối diện bên
kia đường.
Từ đó, KT hay vào thăm tôi vào buổi sáng trong giờ cả trại đi lao động, vì cô
biết tôi bận lớp Anh văn ban chiều. Khi vào, trên tay nàng lúc nào cũng có quyển
sổ tài chánh, nhưng có rất nhiều lần cuốn sổ ấy không được dùng vào việc gì. Những
lần vào chơi, cô thích kể chuyện về chuyến đi Nam cho tôi nghe, nói là cho tôi
đỡ nhớ nhà! Giọng nói rất nhẹ nhàng, dí dỏm, phù hợp với vóc dáng mảnh mai của
nàng.
Lúc nào KT cũng mang tính cách đơn sơ và e lệ của một cô gái mới lớn, điều này
trái ngược với tuổi đời trên dưới ba mươi của nàng. Mái tóc dài che phủ bờ vai.
Về sau này, mái tóc được quấn ngược lên cao, vì buổi trưa hè hôm ấy, KT vào
thăm và tôi khen quấn như thế đẹp. Cũng không mấy khi thấy nàng mặc sắc phục,
vì có lần nàng mặc sắc phục, lúc vui miệng tôi nói:
- Không hiểu tại sao, khi thấy cô mặc sắc phục công an tôi sợ lắm.
Nàng làm ra vẻ nghiêm trang, hỏi tôi:
- Tại sao anh lại sợ?
- Tôi cũng chẳng biết tại sao! Có lẽ tại máu tôi không hợp với màu
sắc này!
KT không nói gì, yên lặng trong giây lát và nhìn tôi tỏ vẻ cảm
thông vì nàng đã biết lịch sử đau thương của cuộc đời tù tội của tôi. Lúc sau
nàng hỏi:
- Anh Lễ này, nghe nói lúc ở trại Thanh Cẩm anh trốn trại và bị
hành hạ kinh lắm phải không? Anh ở trại đó bao lâu nhỉ?
- Vâng, lần đó tôi bị đánh nhiều và bị cùm 3 năm!
- Kinh thế! Anh ở trại đó trong bao lâu?
- Đúng mười năm cô ạ, từ 1978 tới 1988. Khi mới từ Nam ra năm 1977,
tôi vào trại Nam Hà này. Sau đó, chuyển lên “Cổng Trời” mất một năm. Chừng chiến
tranh biên giới xảy ra, tôi được đưa về Thanh Cẩm 1978, rồi lại về đây! Lúc tôi
ở đây lần đầu, ông Thịnh mới là Thượng sĩ trực trại. Bây giờ gặp lại, ông ta đã
là Thượng úy rồi. Cô KT này, mười một năm về trước, khi tôi ở trại này, lúc bấy
giờ cô làm gì và ở đâu?
- Năm đó tôi chưa vào ngành, còn ở nhà quê tại Vũ Lễ, Thái Bình.
Cô nói tiếp giọng nói thật buồn:
- Anh Lễ, sau thời gian tiếp xúc với các anh miền Nam và nhất là
sau chuyến đi này, tôi đã hiểu được các anh nhiều hơn. Sau khi có dịp nói chuyện
nhiều với anh, tôi thật kính phục những con người như anh.
Đã từ lâu, tôi nhận thấy tình cảm đặc biệt của nàng đối với tôi qua cử chỉ,
thái độ và cách nói năng. Càng ngày, tôi càng hiểu điều đó qua ánh mắt, nụ cười
trong các câu chuyện nàng kể, nhất là qua sự ân cần giúp đỡ tôi trong các việc
liên quan tới phần vụ của nàng, mặc dù trong tư thế quá khác biệt. KT là một
cán bộ và đã có chồng con, nàng có một đứa con trai độ 6 tuổi. Còn tôi là một
tù nhân, lại là một Linh mục và là kẻ đã gây ra quá nhiều sóng gió trong trại.
Nhưng các thứ đó hình như không là trở ngại đối với tình cảm dạt dào của nàng.
Khoảng đầu tháng 6 năm 1988, lại có biến chuyển khác. Tất cả những người tù
Trung Quốc được chuyển hết đi nơi khác. Tôi rất buồn khi phải chia tay với họ.
Tôi đã ở chung và chia sẻ bao nhiêu đau khổ với họ trong những năm ở nhà kỷ luật
trại Thanh Cẩm. Những người tù ngoại quốc này thường sống dựa vào sự giúp đỡ
tinh thần và vật chất của chúng tôi. Ngược lại, họ đã giúp tôi học và nói thông
thạo tiếng Quan Thoại.
Tất cả những người Trung Quốc này đã bị giam 16 năm rồi. Về trại này, tôi đã Rửa
tội cho 5 người và tôi coi họ như những người con tinh thần của tôi. Tôi đã
giúp họ tìm thấy niềm vui trong cuộc đời khổ ải qua các việc bác ái trong nhóm
“Cộng đoàn tình thương”. Trước đó, tôi cũng thường nói với họ, cuộc sống trong
nhà tù thay đổi lúc nào không hay, tôi muốn gửi nơi anh em đức tin mà anh em đã
lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội. Sau này, hãy mang đức tin đó gieo rắc nơi nào
các anh em sẽ tới, nhất là có dịp mang về quê hương Trung Quốc của anh em. Việc
ra đi của nhóm tù Trung Quốc làm tôi u sầu trong một thời gian rất lâu. Từ đó về
sau, tôi không còn bao giờ nghe biết gì về họ nữa!
Sau khi nhóm tù Trung Quốc chuyển đi rồi, tôi cảm thấy rất trống vắng. Tôi vẫn ở
nhà dạy tiếng Anh cho Trung úy T. Những buổi sáng rảnh rỗi, tôi thường giúp anh
trực sinh buồng lo quét dọn vệ sinh, lấy nước sôi cho buồng, sau đó ngồi trong
nhà ăn soạn bài vở cho giờ lớp ban chiều. Thường thì chỉ có mình Trung úy T. học,
nhưng có mấy lần vài cán bộ khác cũng vào dự thính lớp tiếng Anh của tôi. Lúc bấy
giờ đã cuối chầu, trại Nam Hà sao thật buồn tẻ. Số tù hình sự đông hơn tù chính
trị miền Bắc.
Cuối chặng đường
Một buổi sáng giữa tháng 7 năm 1988, Trung Úy T. vào thăm tôi. Hồi này trình độ
tiếng Anh của anh đã tương đối khá nên mỗi khi anh vào, chúng tôi tập chào nhau
bằng tiếng Anh và đàm thoại vài câu ngắn và dễ. Anh tỏ ra rất thích thú khi bặp
bẹ được vài câu tiếng Anh trong khi tất cả mọi cán bộ khác chẳng ai biết chút
gì. Anh rất siêng học, chỗ nào không hiểu thường mang vào hỏi tôi và tỏ ra rất
hứng thú khi có dịp thực tập với tôi.
Khác hơn mọi lần, sáng hôm đó, vừa ngồi với tôi một lúc, anh đứng lên từ giã,
nói là đang chuẩn bị đi phép một thời gian và chúc tôi ở lại mạnh giỏi. Anh
cũng không nhắc gì tới việc học tiếng Anh đang dở dang. Khi tôi nhắc việc này,
anh yên lặng một lúc rồi nói cứ tạm thời nghỉ, khi anh về hẵng hay. Nhưng sau
đó anh nói tiếp, nếu vì lý do gì không gặp lại thì tôi hãy nhớ lời anh dặn. Tôi
hơi ngạc nhiên vì thấy có cái gì hơi khác trong lối nói của anh. Nếu chỉ đi
phép vài ngày như những lần trước thì sao anh lại dặn dò tôi như thế. Tôi ngạc
nhiên hỏi lại:
- Ông T., ông nói gì vậy? Bộ ông chuyển đi nơi khác à?
Anh ta đáp tự nhiên:
- Không hẳn đâu anh ạ! Nhưng làm sao biết được chuyện ngày mai!
Nói xong anh đứng lên và nhìn tôi mỉm cười. Tôi nói tiếp:
- Cho tôi gửi lời thăm gia đình ông, thăm cháu bé và cô.
Anh ta gật đầu:
- Cám ơn anh Lễ. Anh ở lại mạnh giỏi, tôi đi đây.
Nói xong, anh bước ra cửa khá nhanh, tôi theo sau tiễn chân. Trước khi khuất dạng
vào hành lang dẫn ra sân trại, anh còn quay lại nhìn tôi mỉm cười và đưa bàn
tay trái lên làm dấu hiệu từ giã rất nhẹ nhàng.
Khi cán bộ T. đi rồi, tôi quay vào buồng, vừa đi vừa thắc mắc về lối chào tạm
biệt của anh. Những lần trước, khi về Hà Nội hoặc đi phép vài ngày anh cũng vào
chào từ giã tôi và nói nghỉ học một vài hôm. Nhưng cách nói úp mở hôm nay của
anh làm tôi đoán anh sẽ chuyển đi nơi khác. Ý nghĩ này làm tôi chợt buồn, rất
buồn. Thì ra tôi quý mến người cán bộ này sâu đậm hơn là tôi tưởng! Nếu thực sự
anh đi nơi khác thì tôi mất một người bạn quá tốt trong hoàn cảnh đặc biệt này.
Tôi đã mất các anh em Linh mục, tôi đã mất những người bạn trong đợt chuyển vào
Nam, tôi vừa mất những anh Trung Quốc mà tôi coi là con tinh thần của tôi, bây
giờ nếu tôi mất Trung úy T. nữa, chắc chắn là tôi sẽ rất buồn. Tôi thầm cầu
mong cho việc đó đừng xảy ra.
Trở vào nhà ăn, tôi ngồi xuống ghế vì cảm thấy hơi choáng váng khó chịu trong
người. Quyển vở tôi soạn bài Anh văn chiều nay đang nằm trên mặt bàn. Tôi với
tay gấp lại vì chiều nay không có lớp. Tôi ngồi thừ ra một hồi lâu và ôn lại kỷ
niệm về người cán bộ an ninh mà tôi quý mến. Tôi hồi tưởng lại từ lần đầu gặp gỡ
tới những ngày tháng chúng tôi gặp nhau trong lớp tiếng Anh. Tôi vẫn nhớ lời
anh thường nói:“Anh Lễ, tôi cám ơn anh đã giúp tôi biết về tiếng Anh.”
Thời gian trước đó trong trại lại kháo láo nguồn tin,“sắp có đợt tha”! Cá nhân
tôi chẳng mong được về và cũng chẳng để ý tới những diễn biến có dấu chỉ sẽ được
phóng thích. Lần đầu tiên tôi nghe nói tới vấn đề này khi được thư của người bạn
gửi vào cho biết đang có cuộc thương thuyết Mỹ-Việt. Phía Hoa Kỳ đại diện bởi
Tướng hồi hưu John Vessey, đặc phái viên của Tổng thống Reagan, bàn về vấn đề
bình thường hóa ngoại giao giữa hai nước. Một trong các điều kiện phía Mỹ đưa
ra là yêu cầu Chính phủ Việt Nam phải thả hết những lãnh đạo tôn giáo còn trong
tù. Anh em cho biết là tôi có hy vọng được về nhờ yếu tố này.
Ngoài ra, một số người về trước, qua Mỹ, cũng đã nhờ Tổ chức Ân Xá Quốc Tế can
thiệp giúp để tôi được phóng thích. Tôi nghe chỉ để mà nghe, chẳng mong mỏi và
cũng chẳng hy vọng, nhất là tôi không coi đó là điều cần thiết nữa. Lúc đó, tôi
đang bận tâm củng cố lại nhóm “Cộng đoàn tình thương”, sau khi số anh em Trung
Quốc nhiệt tình đã ra đi. Nhóm tù chính trị miền Bắc cũng rất hăng say trong hoạt
động của nhóm trong lúc này.
Bấy giờ lại có một dấu hiệu khác. Khoảng tháng 6 năm 1988, có phái đoàn y tế của
bộ về làm việc trong trại. Khi phái đoàn y tế vào trại, tôi được gọi lên và hỏi
qua về bệnh tình, về thời gian cải tạo. Có điều rất buồn cười là anh cán bộ y tế
lại méo mó nghề nghiệp. Khi biết tôi là một Linh mục anh hỏi tôi nghĩ gì về vụ
phong thánh cho 117 Thánh Tử Đạo sẽ diễn ra vào ngày 19 tháng 6. Lúc đó, vấn đề
phong thánh đang gây tranh luận. Trong tù, có báo Nhân Dân và qua đó, tôi được
biết Nhà nước Việt Nam phản đối vụ này ghê lắm. Tôi trả lời với ông ta:
- Tôi ở trong này không có đầy đủ thông tin nên tôi không có ý kiến
gì, nhưng tôi cũng xin trả lời. Với tư cách là người Việt Nam, thân xác tôi thuộc
quyền Chính phủ Việt Nam, nhưng với tư cách là một Linh mục, linh hồn tôi thuộc
về Tòa Thánh. Bất cứ điều gì Tòa Thánh quyết định, tôi vâng theo.
Nghe tôi nói thế, anh ta không hỏi thêm nữa.
Khi tôi về buồng, các anh em tới thăm và cho biết, khi phái đoàn y tế vào trại
gọi ai là người đó được về. Nghe xong tôi chỉ cười nói:“Chừng nào dê đực đẻ con
tôi mới được về!” Trong tù không có tin gì làm mọi người háo hức và săn đón cho
bằng tin có đợt phóng thích, vì thế mấy ngày nay cả trại cứ bàn tán xôn xao về
tin này.
Khi cán bộ T. đi phép được một ngày thì anh văn hóa tên Quỳnh, người Hải Phòng,
có biệt danh là “Quỳnh Ngựa” vì mặt anh dài, nói với tôi sau khi từ cơ quan trở
về:“Tôi nghe nói anh có tên trong đợt tha lần này.”
Đó là lần đầu tiên sau 13 năm tôi được nghe nói tôi có thể được tha về. Nhưng
khổ nỗi, tin này đến với tôi trong lúc tôi không còn mong đợi nữa, nếu không muốn
nói là thất vọng khi nghe tin đó. Vì nếu có về đi nữa thì cũng chỉ là chuyển từ
một nhà tù nhỏ sang một nhà tù lớn. Khi bước ra khỏi đây để trở về xã hội bên
ngoài, chưa chắc gì tôi đã yên thân. Trong khi đó, tôi đã tìm được ý nghĩa đích
thực của cuộc đời phục vụ trong nếp sống ở đây.
Sáng hôm sau, trại xuất quân lao động nhưng tôi vẫn được nghỉ vì chưa bình phục
hẳn sau trận kiết lỵ và cán bộ y tế cho tôi nghỉ dưỡng bệnh một thời gian dài.
Buổi sáng trong trại rất vắng lặng, thỉnh thoảng thấy trực sinh các buồng đi lại
dọn dẹp hoặc lấy nước sôi. Trong lúc tôi đang giúp anh trực sinh buồng quét sân
thì cô KT bước vào.
Hôm nay cô vào sớm hơn thường lệ, trên tay không cầm quyển sổ quen thuộc, chỉ
có một tờ giấy trắng được cuộn tròn lại như ống tre. Mỗi lần cô vào chơi đều
mang lại cho tôi niềm vui với nụ cười rất tự nhiên và cách nói chuyện thật
duyên dáng của cô. Thấy cô bước vào sân, tôi dừng tay và tiến ra tới đầu hồi
nhà ăn của đội gần bên cửa ra vào sân, tiếp chuyện:
- Sao mấy hôm nay không thấy cô đâu cả?
KT trả lời có vẻ kín đáo:
- Mấy hôm rồi tôi bận quá anh ạ!
Tôi đùa lại bằng một câu có vẻ triết lý...vụn:
- Có lần tôi đọc được câu:‘‘Người bận việc là người hạnh phúc!’’
Cô đang hạnh phúc đấy!
Cô cười, đáp lại:
- Gớm thật! Anh thì lúc nào cũng chữ với nghĩa! Tôi xin nhường cái
hạnh phúc đó cho anh, tôi chỉ muốn được nghỉ ngơi thôi!
- Cô không nhường thì tôi cũng đã có rồi, lúc nào tôi chẳng bận.
KT tấn công:
- Anh nói thế! Như hôm nay không lao động, anh bận gì nói tôi nghe
nào?
- Tôi bận mà cô không biết đó thôi.
Cô trợn mắt nhìn tôi:
- Anh bận gì?
-Tôi bận suy nghĩ đến cô đi đâu từ mấy ngày nay!
Cô cười bẽn lẽn:
- Gớm! Anh nói thế!
- Tôi biết ngay là cô không tin, đúng không?
Nàng yên lặng một chút, khẽ e lệ, gật đầu:
- Tôi tin!
Tôi đùa vui:
- Cô thấy chưa? Tôi đang bận nên lúc nào tôi cũng hạnh phúc!
Sau câu nói đùa của tôi, cả hai cùng cười. Cô bước lại gần
tôi và nói nhỏ nhẹ cách bí mật:
- Anh Lễ này, anh khao đi!
Tôi đoán biết có cái gì khác thường trong thái độ của KT sáng nay. Nhất là sau
những tin đồn “có đợt tha” trong mấy ngày qua và đặc biệt là anh “Quỳnh Ngựa”
đã nói với tôi. Mặc dù đoán biết một phần nhưng tôi cũng giả vờ bình thản:
-Thì lúc nào cô vào chơi mà tôi chẳng khao, khi thì uống chè, khi
thi ăn kẹo...!
Thấy tôi có vẽ không hiểu, cô hạ giọng nói nhỏ:
- Anh Lễ này, anh có tên được về đấy!
Như vậy là chắc rồi. Cái tin đó cuối cùng đã đến với tôi. Cái tin mà cả chục
năm trời qua, tôi mong đợi ngày đêm. Cái tin mà trước đây tôi cứ tưởng tượng nó
rất ghê gớm và không có một biến cố vui mừng nào trong đời tôi có thể so sánh
được! Nhưng lúc này khi nó đến, tôi lại đón nhận nó hết sức hững hờ và lạnh nhạt.
Tôi hiểu điều đó nên cố không làm phật ý người đưa tin, người cán bộ mà tôi quý
mến. Tôi yên lặng, lấy lại vẻ trang nghiêm:
- Tôi không tin.
Nghe tôi nói thế, KT tỏ vẻ cảm thông vì có lần tôi cũng nói cho cô biết là
ngoài bìa hồ sơ tôi có hàng chữ: “Thành phần không thể cải tạo được”. Nàng
mỉm cười kín đáo:
- Anh Lễ, tôi cho anh coi cái này.
Vừa nói cô vừa mở tờ giấy cuộn tròn trong tay ra trao cho
tôi:
- Anh coi nhưng không được tiết lộ cho tới khi công bố. Nếu anh
nói ra thì tôi và anh chung một cùm đấy.
Tôi đáp:
- Như thế thì càng thích chứ sao!
- Anh Lễ này! Lúc nào anh cũng đùa!
Vừa nói nàng vừa giả vờ giật lại không trao tờ giấy cho tôi. Đó là một phụ bản
giấy đánh máy của Quyết Định tha. Có lẽ là bản thứ 3 hay thứ 4 gì đó, nét chữ
không rõ nhưng đọc được dễ dàng. Trong danh sách có tên 14 người và tên tôi nằm
ở sau cùng. Có cả tên cha Nguyễn Bình Tĩnh, anh Nguyễn Đức Khuân và một tu sĩ
miền Bắc.
Tôi chăm chú đọc mảnh giấy khá lâu, không phải để coi có những ai nhưng vì lúc
đó tôi đang ở trong một tâm trạng hết sức lạ lùng. Tôi đọc đi đọc lại tên
của tôi, nhưng tôi lại có cảm tưởng không phải là tôi mà là một cái tên rất
quen thuộc. Tên trong tờ giấy này không thể là của tôi, vì chẳng bao giờ tôi
nghĩ là tên tôi có thể nằm trong một mảnh giấy bắt đầu bằng hàng chữ “Quyết Định
Tha” được. Thấy tôi cầm tờ giấy khá lâu, KT đưa tay đón lấy. Tôi trả lại nàng với
tâm trạng bàng hoàng khiến nàng phải kêu lên:
- Anh Lễ! Được tha mà trông anh sao lại buồn thế?
Tôi chỉ thinh lặng lắc đầu, vì nói sao cho nàng hiểu được tâm trạng tôi. Lúc đó
tôi chợt nhớ tới Trung úy T. và những lời úp mở của anh khi từ giã tôi ngày hôm
qua. Anh biết tôi được về nhưng không thể nói ra được và tôi đã đoán sai. Thay
vì anh đổi đi thì tôi sẽ ra về trong thời gian anh đi vắng. Tôi đoán là anh
cũng buồn như tôi.
Kẻ ở người đi
Đêm cuối cùng ấy, khi tôi đến từ giã anh em, nhất là những người con tinh thần
tôi sinh họ lại trong đức tin, nước mắt chúng tôi chảy ra khá nhiều. Tôi ôm lấy
từng người con vào lòng, như muốn truyền sức mạnh cho những người tôi đã Rửa tội
và đức tin họ còn non nớt. Lúc ban chiều, tôi cũng đã đi các buồng để từ giã
anh em trong nhóm “Cộng đoàn tình thương”. Tôi trao lại tất cả những gì tôi có
cho người tôi chỉ định thay thế tôi điều khiển Cộng đoàn. Tâm trạng chúng tôi
đêm ấy đau buồn vì biết là cha con sẽ chẳng còn bao giờ gặp lại nhau nữa!
Hôm sau, trại công bố chính thức, sau đó, những người được tha về ra cơ quan để
lăn tay và ký tên vào giấy ra trại. Trong giấy ra trại có ghi:“Đương sự phải về
trình diện chánh quyền địa phương trong thời hạn một tháng kể từ ngày ký”.
Xếp tờ giấy làm tư, tôi cho vào túi áo trước ngực được may phía bên trong, cài
kim băng cẩn thận để ngăn ngừa trộm cắp.
Tôi bước sang phòng KT kế bên làm các thủ tục về tiền nong. Còn một số tiền ở
nhà mới gởi ra cho tôi, KT chưa kịp ra bưu điện lãnh, tôi gửi lại cô làm quà
cho cháu. Tôi là người cuối cùng lên cơ quan làm thủ tục, vì trước khi bước ra
khỏi cổng trại, tôi phải dừng lại khá lâu để bắt tay từ giã quá nhiều anh em
còn ở lại. Họ tiễn đưa tôi tới cổng trại và mỗi người cố nói với tôi một vài lời
trước giờ chia ly. Riêng các anh em ở chung buồng, đêm qua chúng tôi đã thức với
nhau gần suốt đêm.
Sau khi hoàn tất mọi việc, tôi khoác chiếc ba-lô nhẹ hẫng lên vai và bước ra khỏi
phòng tài vụ. KT xếp sổ sách giấy tờ trên bàn, đứng lên đi vòng ra phía sau chiếc
ghế dài bằng gỗ nặng chắc chắn, bước theo ra, tiễn chân tôi. Chúng tôi đi
song song bên nhau trong một hành lang dài và hẹp dẫn ra phía mặt tiền nhà nằm
dọc theo đường cái.
Chúng tôi yên lặng bước đi, chẳng ai nói với ai câu gì, nhưng tôi có cảm tưởng
chính sự thinh lặng trong lúc này lại nói lên nhiều hơn. Tự nhiên tôi chợt nhận
ra, người con gái đang bước đi bên cạnh tôi lúc này không còn là người cán bộ
tài vụ nữa, mà là người thân thiết của tôi. Nàng đã trở lại thành một người phụ
nữ bình thường như bao nhiêu người phụ nữ khác với những xúc cảm tự nhiên trước
lúc chia tay người thân và không còn hy vọng gặp lại.
Khi cả hai ra gần tới ngõ, tôi bất chợt dừng lại, quay sang nhìn KT và bắt gặp
đôi mắt màu đen đang mở thật to nhìn tôi, hai hàng mi dài và cong. Nàng đang chớp
mắt để che giấu sự xúc động. Tôi nhìn sâu vào mắt nàng, nói nhanh mấy câu giã từ:
- Thôi giã biệt KT! Chúc cô và gia đình ở lại gặp nhiều may mắn.
Xin cám ơn sự lo lắng và giúp đỡ của cô trong thời gian qua.
- Anh Lễ! Đừng nói lời cám ơn! Những gì tôi làm là do lòng quý mến
của tôi đối với anh. Cháu trai sẽ mừng khi nhận quà của anh. Anh được ra về tôi
mừng lắm. Tôi thật không biết phải nói gì trong lúc này. Chúc anh lên đường
bình yên, nhớ bảo trọng thân thể và cầu mong anh xây dựng một tương lai tốt đẹp.
Về Nam, có gặp các anh ở trại này cho tôi hỏi thăm.
Vừa nói, nàng vừa tiến lại sát bên tôi trong một cung cách rất tự nhiên của người
em gái trong lúc tiễn biệt người anh. Tôi nắm lấy và bóp nhẹ bàn tay bé nhỏ có
các ngón thon dài của K.T. Nàng để yên bàn tay trong tay tôi. Tôi nghe tay nàng
nóng, đang run nhẹ. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối tôi cầm lấy bàn tay
nàng, mặc dù trong thời gian mấy tháng qua, đã nhiều lần gặp nhau. KT từ tốn
quay lại trong tư thế mặt đối mặt và đặt bàn tay còn lại lên tay tôi, nắm chặt
lấy và nâng thật chậm lên cao tới cằm. Mắt nàng ướt long lanh, chớp thật nhanh
và đang ngước nhìn tôi trong lúc lập lại lời từ biệt. Giọng nàng nhẹ như hơi thở:
- Anh đi bằng yên.
Tôi buông tay nàng ra. Chẳng nói thêm lời nào, tôi quay đi, xốc lại chiếc ba-lô
trên vai và bước vội mấy bậc tam cấp lên đường cái. Vừa bước lên mặt đường, tôi
nghe tiếng KT gọi với theo:
- Anh Lễ, tôi nói cái này!
Tôi dừng bước, quay lại và đã thấy nàng đứng ngay sau lưng. Trong lúc hai người
đứng giữa vùng ánh sáng của nắng ấm ban mai, tôi thấy nàng đẹp một cách thật hồn
nhiên. Một vẻ đẹp kín đáo và đơn sơ của loài hoa dại trong đồng nội.
Thời gian qua, tôi vẫn nhận thấy nơi nàng sự duyên dáng qua thái độ đối xử và
cách nói năng, nhưng hôm nay, tôi thấy nàng còn có một cái gì khác biệt hơn. KT
mặc áo sơ-mi màu hoa cà, quần đen, tóc quấn ngược lên cao để lộ cái ót trắng ngần.
Hình ảnh này tôi đã thấy nhiều trong những lần nàng vào khu giam thăm tôi trước
đây. Nhưng sao hôm nay, tôi thấy nàng như một con người khác. Có lẽ nhờ vị thế
ngăn cách giữa hai người không còn nữa, hay vì vẻ thân thương và gần gũi đã làm
nàng xinh đẹp hơn mọi ngày? Tôi bỗng buột miệng nói lên ý nghĩ trong đầu:
- Hôm nay tôi trông KT như một người khác!
Nàng mở thật to đôi mắt đen láy, nhìn tôi cách ngạc nhiên hỏi
lại:
- Khác thế nào hở anh?
Tôi đáp gọn:
- Trông xinh hơn mọi ngày!
Mặt nàng tự nhiên đỏ ửng. Nàng vội ngoái đầu theo phản ứng tự nhiên, tỏ vẻ e thẹn
và lắc lư người như để từ chối lời khen của tôi. Nàng bước tới gần, nói thật nhỏ,
mặc dù gần đó chẳng có ai:
- Sau này anh ở đâu và làm gì, anh nhớ thư cho biết nhé!
- Viết thư từ, tôi sợ trở ngại cho công tác của cô.
Nàng đáp nhanh:
- Anh cứ viết thẳng về địa chỉ ở Thái Bình ấy, chẳng hề gì đâu!
Tôi ngần ngừ một lúc và gật đầu, trong lúc vẫy tay từ giã nàng và quay gót bước
đi. Bên tai còn nghe vọng tiếng nói cuối cùng của nàng:
- Anh đi bằng yên, nhớ nhá.
Quãng đường trước mặt
Tôi bước nhanh theo dọc con đường lớn chạy trước mặt dãy nhà dài dùng làm khu
hành chánh của cơ quan, hướng về phía khu nhà của gia đình cán bộ nằm cách xa cổng
trại khoảng vài trăm thước, để ra đường cái đón xe khách đi Phủ Lý, để từ đó
lên Hà Nội. Ánh nắng chói chang và khung cảnh mới lạ làm tôi choáng ngộp. Tôi lầm
lũi bước đi như người trong cơn mộng du đang lâng lâng giữa thực và mộng.
Tới chỗ chờ xe tôi dừng lại, quay nhìn trại Nam Hà lần cuối. Trại trông sao thật
vắng lặng và buồn tênh, không ngờ nơi đó lại chôn giữ một phần lớn kỷ niệm của
đời tôi. Lúc đứng đó tôi chợt nhận ra, trong số không biết là bao nhiêu chục
ngàn tù nhân trong Nam bị đưa ra Bắc cách nay đã hơn một thập niên, tôi là người
tù miền Nam cuối cùng bước ra khỏi trại giam miền Bắc! Tôi bỗng buột miệng
nói:“Thời gian qua mau! Mới ngày nào mình ngỡ ngàng trên chuyến xe ca từ Hải
Phòng đến đây trong đêm sương mù giá lạnh, mà bây giờ đã gần 12 năm! Đời người
như một giấc chiêm bao....”
Có chiếc xe khách đang từ xa chạy tới. Tôi giơ tay lên đón.
Cuối Chuyện
Đèn đường vẫn hắt nhẹ những tia sáng yếu ớt vào phòng. Tiếng côn trùng rả rích
gọi bạn về khuya. Đâu đây nghe tiếng gió đưa xào xạc như nhẹ rơi những cánh lá
vàng không buồn sống. Tôi ngồi lên, bước tới bật đèn và nhìn đồng hồ trên tường,
thấy đã gần hai giờ sáng. Vì nằm lâu nhưng không ngủ được nên thấy người hơi
choáng váng. Tôi đưa hai bàn tay lên xoa mặt, đan các ngón tay vào đầu tóc rối
bù vì trăn trở mãi trên gối.
Nhà Chung Hà Nội thật êm ắng. Thỉnh thoảng, vài tiếng thạch sùng tắc lưỡi tìm mồi
đêm. Hình ảnh quá khứ cứ nhảy múa trong đầu. Cái nọ nối tiếp cái kia, có lúc lại
đan chặt và dính trùm vào nhau như một vở bi hài kịch kéo dài. Tôi cảm thấy hơi
nóng đầu như một bộ máy chạy liên tiếp mấy tiếng đồng hồ không nghỉ.
Tôi bước vào nhà tắm bật đèn lên. Nhà tắm và cầu tiêu chung trong một phòng lớn,
có lẽ lớn hơn buồng giam bốn người trong khu kỷ luật trại Thanh Cẩm một chút,
thật sạch sẽ, tường lát gạch men bóng láng. Trên tường có 2 cái giá máng khăn,
một chiếc khăn tắm lớn và chiếc khăn mặt nhỏ được gấp làm tư cẩn thận. Trên bàn
rửa mặt bằng men trắng kiểu cổ, có vòi nước máy và một chiếc khay nhỏ đựng bàn
chải đánh răng, cây kem nhỏ, cái lược và dao cạo râu loại rẻ tiền nhưng mới
toanh. Trong lúc đang dùng phương tiện trong nhà vệ sinh, tôi chợt mỉm cười khi
nhớ tới hai cái ống bẩu bằng tre trong buồng kỷ luật trại Thanh Cẩm!
Sau khi rửa mặt, chải đầu và lau khô bằng chiếc khăn mặt thơm mùi bột giặt, tôi
đứng ngắm mình trong gương, mỉm cười lần nữa. Lần này thì cười tươi hơn và nghĩ
thầm: “Trông mình cũng chưa đến nỗi nào!” Mặc dù biết là rửa mặt xong sẽ rất
khó ngủ lại nhưng lúc đó con người tôi quá bần thần, như người đang ốm nên phải
rửa mặt mới dễ chịu được. Và thật vậy, sau khi rửa mặt, tôi thấy khỏe khoắn, dễ
chịu và tươi mát ra.
Tôi không trở lại giường nhưng mở cửa ra hành lang, đứng tựa lan can nhìn xuống.
Phố xá giờ này đang vắng tanh. Lâu lắm mới có tiếng xe máy và bóng vài người đi
xe đạp thoáng qua phố chánh, nơi mà trưa hôm qua, bộ ba tướng sĩ tượng chúng
tôi bỡ ngỡ bước vào Nhà Chung này. Bên kia đường, nơi chiều qua, các người trẻ
tới khiêu vũ, giờ này không một bóng người. Tất cả đều trở nên yên lặng trong
đêm tĩnh mịch.
Tờ giấy ra trại
Kể từ lúc cho vào túi tờ “Giấy Ra Trại” màu nâu rách mép và làm bằng chất liệu
kém nhất mà tôi mới thấy lần đầu, cho tới giờ, thời gian qua đi chưa đầy 24 tiếng.
Lúc vừa bước ra khỏi cơ quan của trại Nam Hà để đón xe lên Hà Nội sáng hôm qua,
tôi cứ suy nghĩ vẩn vơ về tờ “Giấy Ra Trại”, đang nằm sâu trong túi áo ngực được
may bên trong và cài hai lần kim băng, lúc nào cũng cồm cộm trên ngực.
Tôi suy nghĩ mãi về sự tương phản quá lớn lao giữa hình dạng và nội dung của
nó. Khi người cán bộ đặt “Giấy Ra Trại” trên bàn và bảo ký tên vào, tôi ngạc
nhiên đến bất lịch sự khi nhận cây bút, cúi khom người, kéo một hàng ngoằn
ngoèo như con giun vào chỗ dành cho đương sự ký tên. Nói rõ hơn là mảnh giấy đó
không đáng để tôi ký tên vào. Ngay lúc đó, tôi nghĩ mình như bị xúc phạm khi cơ
quan trại Nam Hà cấp cho tôi một thứ giấy tờ có giá trị pháp lý lâu dài mà lại
là một tờ giấy đen thủi đen thui, chất lượng còn kém hơn giấy bao xi măng và
bìa thì rách nát như cái răng cưa. Như vậy có ý gì? Chẳng lẽ Nhà nước không có
thể cấp cho tôi một tờ giấy ra trại bằng chất liệu thông thường khác hay sao?
Lúc nhận tờ giấy, tôi cầm thật nhẹ tay, chỉ sợ vô ý làm nó rách ra từng mảnh
thì phiền! Tôi đã thầm nghĩ: Trời! Cuộc đời mình trong 13 năm tù đã đen và rách
nát mà miếng giấy ra trại này nó còn đen và rách nát hơn cả đời mình! Nhưng tôi
mỉm cười, tự an ủi: Ít ra, nó cũng có giá trị nhờ các hàng chữ đánh máy!
Trên đường từ trại Nam Hà qua phà Phủ Lý rồi lên Hà Nội, tôi không ghi nhận được
nhiều hình ảnh. Lúc đó tâm trạng tôi còn lâng lâng và khá mệt mỏi nên chỉ nhắm
mắt tựa đầu vào băng ghế xe suốt quãng đường. Nhưng từ lúc đặt chân xuống Hà Nội
và nhất là sau khi vào Nhà Chung Hà Nội, tôi ghi nhận được nhiều hình ảnh và có
nhiều cảm nghĩ. Từ Đức Hồng y Căn, Đức cha Sang, hai anh em thầy Trác và
thầy Trạc, Cha Sinh, và các Cha, các Thầy tôi gặp trong nhà cơm chiều tối hôm
qua. Rồi khung cảnh Nhà Chung Hà Nội với lối kiến trúc cổ điển, cộng với nét
sinh hoạt thứ tự lớp lang từ trên xuống dưới trong cơ sở này, đều là những kinh
nghiệm lạ đối với tôi.
Tôi đứng thẳng người, ưỡn ngực về phía trước và hít một hơi thật dài và sâu.
Làn không khí trong lành của thủ đô Hà Nội trong buổi sáng tinh sương lúc này
làm tôi sảng khoái. Tôi bật thành tiếng:“Tạ ơn Chúa đã cho con có làn khí trong
lành này để thở!”
Sau khi nói câu đó, tôi hồi tưởng lại những đêm mùa hè trong buồng giam khu kỷ luật
trại Thanh Cẩm. Tình cảnh tôi lúc đó chẳng khác gì đang bị cùm trong một cái
thùng sắt kín mít và đang mở lò sưởi ở số cao. Có những đêm gần chết ngạt vì
không thể hít vào buồng phổi chất khí nóng hừng hực đó, không cách gì hơn,
chúng tôi phải gào thét khan cả cổ gọi cán bộ lên vì có người gần chết ngạt.
Khi cán bộ mở cửa buồng ra, làn không khí bên ngoài ập vào làm tôi sung sướng
và hạnh phúc, tưởng là trên đời này không còn thứ hạnh phúc nào lớn lao hơn!
Nhưng khi cánh cửa sắt buồng giam đóng lại rồi, đám tù nhân khốn khổ trần truồng
và đang bị cùm chân lại phải trở về tình trạng cũ.
Lúc bấy giờ, trong cơn vật vờ của loài sinh vật đang cố gắng dùng hết khả năng
thích ứng của cơ thể để bảo tồn sự sống đó, tôi đã quyết tâm nếu còn sống sót,
về sau này, mỗi lần tôi có thể hít thở được vào buồng phổi làn khí trong lành,
tôi phải tạ ơn Chúa vì hồng ân vĩ đại mà Ngài ban cho tôi. Tôi cũng quyết tâm
phải chia sẻ kinh nghiệm này với tất cả mọi người:“Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì hồng
ân vĩ đại là Ngài đã ban cho ta có đủ không khí trong lành để thở.”
Tôi biết chắc là có người sẽ không nghe, không nhớ, thậm chí có người sẽ mỉm cười
vì cho rằng tôi đã bất bình thường sau những năm tù tội kéo dài khi kêu gào
nhân loại phải tạ ơn Chúa về một chuyện chẳng ra đâu! Vì hít thở không khí là một
việc tự nhiên và vô thức của cơ thể, ngay cả lúc ngủ con người vẫn hô hấp thì
làm gì phải bận tâm? Trong cuộc đời này còn quá nhiều chuyện lớn khác phải lo,
phải nghĩ và phải tạ ơn khi mình có được. Tôi sẽ trả lời: “Thưa bạn, vì bạn
chưa lâm vào cảnh của tôi nên bạn chưa cảm thấy làn không khí trong lành quý
báu như tôi cảm nhận”.
Lúc này, đã gần ba giờ sáng và sau một ngày đi đường vất vả hôm qua, tôi vẫn
chưa thấy buồn ngủ. Thì ra, làn không khí trong lành lúc đó cộng với tâm
trạng trong đêm đầu tiên được ra khỏi tù và sau khi đã rửa mặt, chải tóc và lau
mặt bằng chiếc khăn trắng, sạch và thơm, ba yếu tố đó cộng lại đã làm tôi tỉnh
hẳn ra. Tôi cảm thấy yêu đời, yêu cuộc sống này một cách mãnh liệt và quyết
tâm sống quãng thời gian thần tiên độc nhất vô nhị của đời mình trong lúc
này thật tích cực. Tôi vẫn biết là quãng đường trước mặt sẽ còn nhiều thử
thách, nhưng chuyện đó tính sau. Tôi không muốn những lo âu phiền muộn chưa xảy
ra đó làm giảm đi cảm giác tuyệt vời tôi đang được hưởng trong lúc đứng một
mình ở hành lang bên ngoài phòng khách của Nhà Chung Hà Nội này.
Đứng một lúc, tôi thấy mỏi chân nên vào phòng nhắc ghế ra ngồi. Đó là chiếc ghế
mây khá to nhưng rất nhẹ, lòng ghế sâu và có chỗ tì tay hai bên. Tôi kê ghế sát
vào hàng rào chắn phía trước để khi ngồi tôi có thể gác chân lên một trong những
thanh của hàng rào trong một tư thế thoải mái nhất. Tôi nhẹ nhàng ngồi xuống ghế
trong tư thế tự do, riêng tư, lười biếng và bất lịch sự, đầu ngửa về phía sau tựa
hờ lên thành ghế, hai tay dang rộng, đôi chân duỗi thẳng gác lên một thanh của
hàng rào. Trong tư thế đó, tôi đưa mắt nhìn cảnh vật trước mắt ẩn hiện cái được
cái mất qua những ánh đèn điện bóng tròn của đường phố Hà Nội.
Tôi nhìn một cách bâng quơ nhưng không chú ý tới một điểm nào. Tôi muốn tận dụng
phút giây thư giãn tinh thần trong lúc này sau mấy tiếng đồng hồ tôi nằm trăn
trở trên giường nhưng không ngủ được khi những chuyện của hơn chục năm qua lần
lượt hiện lên trong tâm trí tôi như một cuốn phim quay chậm. Trong lúc đang ngồi
thoải mái tựa đầu vào thành ghế, tôi nhắm mắt lại và tự hỏi: Quãng đời 13 năm
tù và những kinh nghiệm buồn vui mình đã trải qua đó có giá trị gì cho bản thân
mình và cho người khác? Tôi ngồi yên và cố trả lời câu hỏi đó.
Đối với tôi, giai đoạn đó cho tôi khá nhiều điều hiểu biết.
Bài học của trường đời
Trước tiên, về phương diện tôn giáo, trong cảnh khốn cùng đó, tôi nhận thấy vai
trò của một Linh mục thật vô cùng cần thiết để mang lại tình thương và niềm hy
vọng trong khung cảnh mà hai thứ giá trị này rất hiếm, nếu không muốn nói là
không có. Chính tình yêu và niềm hy vọng của chân lý Phúc Âm đã cho tôi điểm tựa
và tôi chia sẻ hồng ân này với các bạn tù mà tôi có dịp sống chung.
Tôi nghĩ rằng, trong môi trường tù ngục đọa đày đó, tôi đã sống sứ mệnh Linh mục
có nhiều kết quả hơn 6 năm trước ngày tôi vào tù, và có lẽ hơn cả những năm về
sau này trong cuộc đời còn lại, mặc dù tôi chưa biết được cuộc đời rồi sẽ ra
sao, ở đâu và làm gì. Hơn nữa, qua các biến cố xảy ra tưởng chừng như vô tình,
nhưng sau này, tôi nhận ra đó chính là sự quan phòng của Thiên Chúa, và tôi
luôn nghĩ rằng, trong hết mọi hoàn cảnh, luôn có bàn tay của Thiên Chúa che chở
cuộc đời tôi.
Về con người, trước tiên tôi khẳng định là không than phiền hoặc oán trách gì
những cán bộ làm việc trong tù. Tôi biết đa số họ làm việc vì cuộc sống và miếng
cơm manh áo. Vai trò của một cán bộ trong tù cũng như bao nhiêu công việc của
người dân khác đang làm nơi các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp khác. Đôi lúc, có
vài cán bộ vì bản chất hung ác và được huấn luyện để phục vụ cho bộ máy kềm kẹp
của đảng, làm cho cảnh sống tù đày chúng tôi khốn khổ, ngược lại, cũng có những
cán bộ sống thân tình và biểu lộ lòng nhân đạo một cách rất cảm động.
Vào thời gian cuối cùng trước khi được tha về, tôi đã có dịp tiếp xúc thân mật
hơn với nhiều cán bộ và tôi thấy họ là những người đáng thương hơn là đáng
trách. Có người còn để lại trong lòng tôi sự quý mến và biết ơn sâu xa. Do đó,
tôi không hề oán trách bất cứ một cán bộ nào tôi đã gặp trong suốt 13 năm tù,
ngay cả những cán bộ đã từng chửi mắng, đánh đập hành hạ tôi cách này cách
khác. Tôi cũng không hề oán trách những anh em tù đã ngược đãi và vì sự nhẹ dạ
đã hãm hại tôi.
Điều đáng nói chính là chủ trương trong chế độ lao tù cộng sản. Chúng tôi vào
tù với cái tên rất đẹp là “ Tập trung Cải tạo” kèm theo lời hứa “Chừng nào cải
tạo tốt thì về!”. Và như vậy, chúng tôi bị tước đoạt quyền hy vọng là lý do sống
của con người. Câu nói‘‘chừng nào cải tạo tốt thì về” đó, đã ngầm khuyến khích
sự chia rẽ và phản bội nhau trong số tù chính trị miền Nam. Nói về tâm trạng
tuyệt vọng lúc đó, sau khi vào tù, tôi nhớ lại có lần đọc ở đâu mấy câu thơ của
thi sĩ Dante người Ý, tả cảnh địa ngục, tạm dịch như sau:
Trên ngưỡng cửa địa ngục có khắc
câu này:
“Hỡi những kẻ sắp bước vào đây
Hãy để niềm Hy Vọng lại bên ngoài!”
Sống trong tình trạng tù mù đó, tôi luôn nghĩ , nếu bị kêu án 5 năm, 10 năm hoặc
20 năm hay lâu hơn nữa, tôi vẫn vui hơn vì ít ra còn có một cái mốc thời gian để
hy vọng. Đàng này không ai thực sự biết được số phận của mình ra sao! Không còn
gì khốn khổ hơn tâm trạng của một con người sống trong tuyệt vọng!
Cái kiểu treo củ cà rốt trước mõm con lừa đang kéo xe bằng luận điệu:‘‘Các
anh đang chơi bóng đá và đang ở gần cuối của hiệp hai rồi, chỉ còn mấy phút cuối
cùng nữa là có tiếng còi tan trận đấu! Cố gắng lên!” Chúng tôi nghe đến
nhàm tai cách nói đó của cán bộ giảng huấn khắp các nơi, và các “trận bóng đá”
này trại nào cũng có! Nhưng khổ nỗi, mấy phút cuối cùng của trận đấu lại là thời
giờ bằng dây thun chất liệu tốt, có thể kéo giãn ra đến vô tận!
Trong hoàn cảnh đó, lời hứa mù mờ "cải tạo tốt được về” đã thành cơn cám dỗ
cho một số người nhẹ dạ cố gắng cải tạo tốt. Có vài người còn muốn cải tạo “thật
tốt!” Mà cách tốt nhất là quên đi mình là ai, quên đi những người đang mặc bộ đồng
phục tù như mình là ai, để rồi phản bội lại chính mình và phản bội anh em đồng
cảnh. Lời hứa mù mờ đó, theo tôi, là chủ trương thâm độc nhất của chế độ nhà tù
cộng sản. Nó đã hành hạ tâm trí chúng tôi và đã gây ra bao nhiêu tác hại, khiến
những con người khờ khạo tin vào lời hứa đó để hãm hại chính anh em mình.
Và như tôi đã nói, sự đau thương và nhục nhã mà tôi đã phải chịu 13 năm trong
ngục tù cộng sản, không phải là cực hình trên thân xác như sự hành hạ,
cùm kẹp, đánh đập đói khát, trần truồng, chết ngạt, chửi mắng...như tôi đã nhớ
lại, nhưng là tình trạng tuyệt vọng và nhất là khi phải chứng kiến và chịu đựng
sự phản bội của một vài người trong số tù chính trị miền Nam.
Cũng từ kinh nghiệm đó cho tôi hiểu biết hơn về lòng dạ con người. Khi con người
lâm vào cảnh túng cùng và không còn được che giấu dưới những bộ y phục, những
huy hiệu, cấp bậc, chức vụ trước kia, họ đã lộ nguyên hình là những con người.
Khi con người sống chen chúc nhau trong cảnh khốn cùng, đói khát và tuyệt vọng
trong thời gian dài hơn chục năm trời, đã cho tôi rút được bài học đắng cay sau
đây:“Lòng nhân đạo của con người có giới hạn, nhưng sự ác độc của loài người
thì vô tận, nhất là khi sự ác độc đó được dung dưỡng bởi hoàn cảnh xấu xa.”
Dân Tộc Việt Nam của tôi
Thời gian dài, nhất là 3 năm lăn lộn trong đáy địa ngục khu kỷ luật trại Thanh
Cẩm, đã cho tôi cơ sở để nói rằng trong mỗi con người đều có phần THIỆN và phần
ÁC ngang ngửa nhau, và tùy thuộc vào môi trường sống mà phát triển. Nếu con người
được sống trong một môi trường đạo đức và luật pháp được tôn trọng thì phần THIỆN
sẽ phát triển và đè bẹp phần ÁC. Ngược lại, nếu con người rơi vào hoàn cảnh xấu
xa, hận thù và không luật lệ thì phần ÁC sẽ ngoi lên và ngự trị.
Trong tù, tôi đã chứng kiến và chịu đựng những hành động ác độc của một số
cán bộ và những người tù phản bội. Tôi biết một phần cũng do bản chất tàn bạo của
họ, nhưng nếu không có sự dung dưỡng và khuyến khích của chế độ thì các việc đó
đã không xảy ra, hoặc nếu có xảy ra, cũng không đi tới chỗ quá tàn nhẫn như thế.
Từ nhận xét đó, tôi kết luận: “Không bao giờ oán trách con người, không bao giờ
thù hận con người, không bao giờ tiêu diệt con người nhưng bằng mọi giá phải loại
bỏ bất cứ chế độ xấu xa nào đã khuyến khích và dung dưỡng sự hận thù giữa người
với người, và thay vào đó một xã hội lành mạnh để con người được phát triển phần
LƯƠNG THIỆN của mình.”
Những năm tù cũng cho tôi có dịp chia sẻ và sống với nỗi đau thương chung của
Dân tộc mà nếu không trải qua kinh nghiệm đó, có lẽ tôi không biết hoặc biết rất
hời hợt về số phận đau thương của đồng bào Việt Nam. Qua đó, tôi thương
và gắn bó với Dân tộc tôi nhiều hơn.
Tôi cũng nghĩ rằng, sau này, tôi có bổn phận phải chia sẻ kinh nghiệm của đời
tôi với nhiều đồng bào của tôi, nhất là với thế hệ trẻ Việt Nam là những người
không bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh tương tàn do ý thức hệ gây ra.
Tôi muốn gửi lại cho thế hệ mai sau một lời tâm huyết là đừng bao giờ mê muội
vì một chủ thuyết ngoại lai nào mà quên đi tình Dân Tộc, để rồi cảnh nồi da xáo
thịt lại tái diễn. Thể chế chính trị nào rồi cũng sẽ qua đi, triều đại nào rồi
cũng sẽ sụp đổ, chỉ có Dân Tộc là trường tồn. Lịch sử đã chứng minh, chế độ nào
càng tàn ác, càng bạo ngược bao nhiêu thì càng mau sụp đổ bấy nhiêu. Không một
chế độ nào dùng họng súng và nhà tù để cai trị mà vững bền được, chỉ có lòng
nhân mới cảm hóa được con người.
Tôi vẫn biết là trên quê hương tôi tiếng súng đã im từ nhiều năm qua, nhưng
trong lòng người dân Việt Nam, cuộc chiến vẫn chưa tàn, và cuộc chiến đó càng
kéo dài bao nhiêu thì càng tác hại cho Dân Tộc tôi bấy nhiêu.
Cuộc chiến chưa tàn
Bên cạnh đó, tôi biết những hệ lụy của một cuộc chiến tương tàn kéo dài mấy chục
năm trên quê hương và đã giết hại và làm khổ hàng triệu đồng bào ở cả hai miền
Nam Bắc như là một vết thương còn đang chảy máu, khó mà có thể quên ngay được.
Tôi vẫn biết sự căm tức và lòng hận thù nhau giữa những người Việt Nam bị lôi
kéo vào cuộc chiến tương tàn ấy, còn đang cao ngút trời, khó mà có thể kêu gọi
sự tha thứ ngay được.
Tôi kính trọng và cầu nguyện cho những người đã chết trong cuộc chiến tại Việt
Nam. Tôi cảm thông nỗi khổ đau và căm hờn của tất cả những nạn nhân cả hai
bên trong cuộc chiến. Tôi cảm thương cho số phận của những thương phế binh của
cả hai bên trong cuộc chiến, đang phải kéo lê quãng đời còn lại trong cảnh tật
nguyền, thiếu thốn và bị lãng quên. Tôi chia sẻ sự đau thương tủi hờn của các bạn
tù chính trị của tôi trong các trại tù mang tính chất trả thù và tiêu diệt mang
tên“trại cải tạo” của chế độ cộng sản sau khi quê hương đã im tiếng súng.
Chính bản thân tôi là một chứng nhân và cũng là một nạn nhân còn sống sót của
chế độ lao tù đó. Tôi đã lăn lộn trong một giai đoạn đen tối của lịch sử
Trong đó, sự ác độc của con người được dung dưỡng và khuyến khích, và đã có những
con người hành động ác độc hơn loài ác thú thả lỏng dây cương. Có lúc, sự
tàn ác của người đối với người đã vượt quá sự tưởng tượng và khả năng chịu đựng
của con người.
Chính tôi, mặc dù là một Linh mục, tôi đã có lần phải buông ra những lời nguyền
rủa gớm ghê, độc ác nhất mà lúc bình thường tôi không bao giờ dám nghĩ tới.
Đó là một thực tế đau lòng đã và có thể là còn đang xảy ra trên quê hương tôi,
giữa những người Việt Nam với nhau.
Một câu hỏi được đặt ra cho tất cả mọi người Việt Nam, sau khi quê hương đã im
tiếng súng, và mỗi người bắt buộc phải có một câu trả lời:
“ Đứng trước tình cảnh của Dân Tộc Việt Nam như thế, bạn phải làm gì, và làm
như thế nào?”
Câu hỏi này được đặt ra cho tất cả mọi người Việt Nam, không phân biệt đang sống
trong nước hay ở hải ngoại, không phân biệt đang ở vị thế cầm quyền hay là người
dân bình thường, không phân biệt thuộc về phía nào trong cuộc chiến trước kia,
không phân biệt là kẻ đã gây ra tội ác hay là nạn nhân của những tội ác do kẻ
khác gây ra.
Can Đảm và Khoan Dung
Chúng ta biết rằng Dân Tộc bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tương tàn vượt
ra ngoài sự kiểm soát của mình. Toàn thể dân tộc Việt Nam là nạn nhân của
một trò chơi chính trị lớn. Khi hai miền Nam Bắc đã bị những thế lực ngoại bang
dẫn đưa vào cuộc chiến rồi, lúc đó, dù có muốn dừng tay lại cũng không dừng được.
Như thế, toàn thể dân tộc Việt Nam là những nạn nhân, là những người thua cuộc.
Đây là lúc người Việt Nam phải có can đảm đặt vấn đề một cách thẳng thắn và tìm
phương cách giải quyết vấn đề trong tinh thần hiểu biết và thái độ bao dung như
thế mới mong thoát ra khỏi sự ràng buộc của dây hận thù oan trái đang trói chặt
thân thể Dân Tộc do hậu quả của bao năm chiến tranh tương tàn để lại.
Trong cuộc chiến không có tiếng súng này, dân tộc Việt Nam không còn chiến đấu
vì một chế độ này hay chế độ khác. Không chiến đấu để khôi phục lại một chế độ
vừa sụp đổ, cũng không chiến đấu để cố bảo vệ chế độ độc tài thối nát đang ngự
trị trên quê hương. Đây phải là cuộc chiến của lương tri con người để chọn cái
Đúng và loại bỏ cái Sai, để chọn cái Thiện và loại bỏ cái Ác cho con đường Dân
Tộc phải đi.
Kẻ thù của dân tộc Việt Nam lúc này không còn phải là những con người đã đứng
bên này hay bên kia chiến tuyến trong quá khứ, nhưng là bất cứ thể chế chính trị
nào cướp đi quyền lợi tự nhiên của những thành phần Dân Tộc khác. Đã đến lúc
lương tri tổng hợp của dân tộc Việt Nam phải nhận diện và loại bỏ bất cứ một chế
độ bất nhân nào, cho dù là mang tên tuổi gì, chủ nghĩa gì mà trong đó các quyền
sống căn bản của người dân bị những kẻ nắm quyền cướp đoạt. Một chế độ chính trị
không phải tốt hay xấu vì tên gọi của nó, nhưng tốt hay xấu là do đường lối,
chính sách, và cách hành xử của những kẻ cầm quyền.
Đây là một vấn đề khó khăn nhưng là vấn đề sống còn cho tương lai dân tộc Việt
Nam. Không phải vì vấn đề quá lớn hoặc cảm thấy khó khăn mà chúng ta không muốn
hoặc không có can đảm tìm một giải pháp cho vấn đề. Theo tôi nghĩ, không có một
vấn đề gì mà chúng ta không thể giải quyết được trừ ra việc chúng ta không muốn
giải quyết vấn đề.
Ngày nay xã hội Việt Nam sau một thời gian im tiếng súng giống như bề mặt của một
đại dương chỉ hơi gợn sóng lăn tăn. Trong thực tế dưới đáy đại dương đó, đang
có những đợt sóng ngầm chỉ chờ cơ hội bộc phát. Những đợt sóng ngầm này là kết
tinh của bao nhiêu bất công, chém giết, cướp đoạt tài sản, hận thù, oan nghiệt
đang tích lũy trong lòng dân tộc. Nhất là qua cảnh bất công gây ra bởi những kẻ
đang nắm quyền. Họ tự coi là chủ nhân ông và giữ độc quyền lãnh đạo đất nước. Họ
cấu kết nhau trong đồng phục đã nhạt màu của một chủ nghĩa ngoại lai để vơ vét
tài sản của Dân Tộc. Họ đè đầu cỡi cổ thành phần thất thế và hút máu thành phần
dân tộc khác qua nạn tham nhũng công khai và có hệ thống.
Những đợt sóng ngầm đó phải được loại ra khỏi lòng đại dương dân tộc Việt Nam
càng sớm càng tốt. Vì càng kéo dài nó càng tích lũy sức tàn phá tinh thần dân tộc.
Tôi có thể khẳng định là dần dần sẽ có những con người đang nằm trong guồng máy
cai trị nói lên tiếng nói của lương tri. Có lúc họ sẽ thức tỉnh trước sự sai
trái về con đường có hại cho Dân Tộc mà họ đã đi.
Tôi đã có dịp nghe được những tâm tư thầm kín này nơi một số cán bộ trong nhà
tù trong thời gian cuối cùng trước khi tôi được tha về. Tôi biết hiện tượng này
rất phổ biến và đang dày dò tâm can của một số người đang nằm trong bộ máy cầm
quyền nhưng chưa tới lúc thuận tiện để họ có thể bày tỏ công khai. Khi hoàn cảnh
cho phép để họ bày tỏ sự thức tỉnh, lúc đó họ là những người đáng quý và đáng
kính trọng cho dù trước kia và ngay trong hiện tại họ đã ở đâu và làm gì. Họ sẽ
là những người trong vị trí thuận lợi để đóng góp cho sự nghiệp tranh đấu cho
cái THIỆN và loại bỏ cái ÁC ra khỏi chế độ cầm quyền.
Khi nguồn sức mạnh của ý chí quật cường và lương tri tổng hợp của dân tộc được
khơi dậy sẽ không có một thế lực chính trị nào cho dù bạo ngược tới đâu có thể
cưỡng lại được. Trong khi đó, những kẻ thù của Dân Tộc không mừng gì hơn là có
những người lúc nào cũng chỉ gầm gừ chực loại nhau trong một bài toán không có
đáp số và họ được rảnh tay để ngang nhiên tự tại nắm quyền. Theo tôi, chừng nào
mà những người trong cuộc chiến trước kia biết nhận ra nhau, hiểu biết nhau và
hợp tác nhau trong cuộc chiến tranh đấu cho cái THIỆN của dân tộc, chừng đó mới
có thể nói tới việc đưa dân tộc Việt Nam chúng ta tới một tương lai tươi sáng.
Lúc đang đắm chìm trong suy tư về vấn đề này, tự nhiên tôi nhớ lại một câu chuyện
đã nghe khá lâu, còn nhớ mãi. Năm 1966, khi tôi đang học năm Thần học thứ nhất
tại Đại chủng viện Sài Gòn, có lần Linh mục Gérard Gagnon vào thăm và nói chuyện
với tất cả chủng sinh. Cha Gagnon là Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, người Canada,
đã sống ở Việt Nam trên 30 năm nên nói tiếng Việt lưu loát. Trong lần nói chuyện
đó, ngài có kể lại câu chuyện, trong một lần ngài cỡi xe mô-tô từ Đà Lạt về Sài
Gòn, tới khúc đường vắng, bị Việt cộng chặn lại, bắt dẫn vào rừng tuyên truyền.
Cảnh Việt cộng chặn xe, bắt người vào rừng để tuyên truyền là chuyện thường
xuyên lúc bấy giờ. Vì biết ngài là Linh mục nên người cán bộ tuyên truyền hỏi:
- Anh nghĩ thế nào, Đạo Công Giáo của anh đã hoạt động gần hai ngàn năm
rồi mà mới được mấy trăm triệu tín đồ, còn chủ thuyết cộng sản mới ra đời có 50
năm mà đã chiếm một phần ba nhân loại. Như thế, giữa đạo của anh và chủ thuyết
cộng sản cái nào hay hơn?
Cha Gagnon trả lời:
-Tôi cũng không biết, nhưng phải đợi chủ thuyết cộng sản được gần hai
ngàn tuổi như đạo Công Giáo, lúc bấy giờ tôi mới trả lời anh được!
Câu chuyện cha Gagnon kể tuy đã 20 năm rồi nhưng tôi còn nhớ rất
rõ, vì tôi thích câu trả lời đầy ý nhị của ngài.
Trong khi ngồi nghĩ miên man, lúc đó tôi quyết định khi nào thuận tiện tôi sẽ
ghi lại chi tiết những gì đã xảy ra trong tù và những suy tư của tôi qua những
biến cố đó. Nếu tôi có ghi lại, không phải để than oán cuộc đời, cũng không phải
để trách cứ con người. Tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm của tôi với nhiều người.
Tôi cũng muốn viết để bày tỏ lòng biết ơn những tâm hồn cao thượng trong số những
anh em đồng cảnh và cả một vài cán bộ mà tôi đã gặp được trong tù. Tôi cũng viết
để tưởng nhớ những người đã cùng sống với tôi và đã chết trong tù.
Nhưng quan trọng hơn cả là tôi muốn ghi lại như một bài học của lịch sử, gửi
tới đồng bào Việt Nam mà tôi yêu mến, nhất là những người trong thế hệ trẻ,
không phân biệt Nam hay Bắc, không phân biệt đang sống trong nước hay ở hải ngoại,
không phân biệt tôn giáo, không phân biệt bây giờ và trước kia thuộc về thể chế
chính trị nào, không phân biệt đã từng đứng về phía nào trong cuộc chiến tương
tàn trên quê hương, không phân biệt là nạn nhân hay là tác nhân đã gây nên nỗi
khổ cho các nạn nhân, những lời tâm huyết sau đây:
Đồng bào Việt Nam thương mến,
Máu dân tộc Việt Nam đổ ra đã đủ rồi.
Vết tích đau thương còn lưu lại trên thân thể trong cuộc đời còn lại và trong
tâm hồn của những thương phế binh của cả hai bên trong cuộc chiến tương tàn đã
gây đau khổ đủ rồi.
Nỗi đau thương của người dân vô tội Việt Nam đã quá nhiều rồi.
Cơn điên loạn vì tôn thờ chủ nghĩa ngoại lai đã giết hại đồng bào đủ rồi.
Bom đạn của ngoại bang đã cày xé nát thân thể Mẹ Việt Nam quá nhiều rồi.
Sự nghi ngại nhau giữa các thành phần dân tộc, giữa các tôn giáo đã từng tác hại
cho tình đoàn kết dân tộc đã quá nhiều rồi.
Lòng hận thù và lòng tham lam vô độ của những kẻ có thế lực qua các thời đại
như con thú dữ thả lỏng dây cương, đã hoành hành và hãm hại thành phần thất thế
và không có tiếng nói trong dân tộc đủ rồi. Hãy nhớ rằng thể chế chính trị nào
rồi cũng sẽ qua đi, chỉ có Dân Tộc là trường tồn.”
Hãy để những dị biệt của quá khứ lại phía sau và cùng nhau xây dựng một tương
lai sáng lạng cho Dân Tộc trong một xã hội Tự Do, Công Bằng và Phát Triển.
Và chủ yếu là tôi muốn gửi tâm tình thiết tha sau đây tới thế hệ trẻ Việt Nam
Các bạn trong
thế hệ trẻ thương mến,
Dân tộc chúng ta đã trải qua một giai đoạn u buồn đầy máu và nước mắt. Những
người trong thế hệ trước, mặc dù có nhiều cố gắng nhưng chưa mang lại được
tình thương và sự đoàn kết dân tộc. Tôi ước mong điều đó sẽ thành tựu trong thế
hệ của các bạn. Xin các bạn đừng để cho những biến cố đau thương của lịch sử
trói buộc mình, hãy dùng lịch sử như một bài học để có thể tránh tái diễn
thảm cảnh cho dân tộc.
Hãy để cho những người chết được nghỉ yên. Hãy kính những anh hùng nhưng không
sống vì ho. Lịch sử dân tộc là một cuộc hành trình tiếp diễn và mỗi thời đại sẽ
sinh ra những anh hùng dân tộc mới. Theo tôi nghĩ, những anh hùng dân tộc thực
sự là những người có can đảm vượt ra ngoài sự ràng buộc của quá khứ
để hướng về tương lai với sự hiểu biết và khoan dung.
Đừng ngồi đó để ngâm nga lịch sử hay than van oán trách con người, nhưng hãy
dùng lịch sử như ngọn đèn soi sáng con đường dân tộc ta phải đi.
Khi nhìn lại giai đoạn lịch sử cận đại, tôi thấy cuộc chiến tương tàn đầy máu
và nước mắt kéo dài mấy mươi năm trên quê hương chúng ta, cuối cùng đã im tiếng
súng. Nhưng trong lòng dân tộc Việt Nam, cuộc chiến vẫn chưa tàn. Điều thật trớ
trêu là cuộc chiến đó không có kẻ thắng mà chỉ có những người thua,
và những người thua cuộc đó chính là DÂN TỘC VIỆT NAM. Hãy để cho bóng tối
đi qua và cùng nhau hướng về nguồn ánh sáng của BÌNH MINH DÂN TỘC trong cuộc sống
Công Bằng, Tự Do và Phát Triển.
Tôi ngồi trên ghế, gục đầu yên lặng khá lâu để cầu nguyện theo ý hướng đó.
Bước vào tương lai vô định.
Một lúc sau, tôi cảm thấy lạnh và nghĩ là tốt hơn nên vào phòng cố gắng ngủ một
chút sau một ngày đi đường mệt nhọc. Vả lại, sáng ngày còn nhiều việc khác để
làm. Tôi tính việc đầu tiên trong ngày là phải tìm đến làng Bưởi để dò hỏi tin
tức về Bình Thanh mà sáu năm qua tôi không nghe biết tin tức gì. Tôi quay vào
phòng, đóng cửa lại và leo lên giường ngồi đọc kinh. Đọc kinh xong tôi nằm xuống,
quyết tâm sẽ dỗ giấc ngủ bằng câu nói:“Quên hết mọi chuyện! Phải ngủ cho khỏe để
mai còn đi. Đừng có như cái đêm vừa được ra khỏi nhà kỷ luật!”
Vừa liên tưởng tới cái đêm được ra khỏi nhà kỷ luật ở trại Thanh Cẩm sáu năm về
trước, đầu óc tôi lại căng thẳng và suy nghĩ.
Tôi nhớ lại đêm hôm đó vừa được chuyển từ kỷ luật qua khu kiên giam sống với một
số Linh mục khác. Đêm đó, mọi người trong buồng ngủ say, nhưng sao tôi cứ trằn
trọc mãi không ngủ được. Tôi nằm trăn trở từ bên này qua bên kia để cố dỗ giấc
ngủ nhưng không tài nào chợp mắt. Khổ hơn nữa, khi phải nằm nghe tiếng ngáy đều
của anh em trong buồng.
Tôi khó ngủ có lẽ vì nhiều lý do. Một phần vì tâm trạng người tù được tha cùm
sau gần ba năm trong kỷ luật, tôi nằm tính lại đúng 1020 ngày đêm! Một phần nhớ
em tôi là tướng cướp Bình Thanh ở chung buồng kỷ luật mà tôi vừa từ giã ra đi.
Phần nữa, tôi cảm thấy thiếu một thứ gì đó rất quen thuộc. Chừng nhớ ra mới biết
là thiếu cái móng cùm ngoạm vào cổ chân. Thì ra trong 1020 đêm liên tiếp đó,
đêm nào tôi cũng đi ngủ với một chân xỏ vào cùm, và đêm nay cả hai chân nằm
ngoài. Thừa một chân, tự nhiên sao cảm thấy nó vướng víu kỳ dị!
Tới quá nửa đêm vẫn chưa chợp mắt, tôi lò mò xuống ngồi ở lối đi trong buồng,
hút thuốc lào. Nghe tiếng động, cha Lê Đức Triệu, tức nhạc sĩ Hoài Đức, cũng thức
giấc và bước xuống ngồi hút thuốc với tôi. Cha Triệu mà tôi gọi là Bố Triệu, là
tác giả bài Thánh ca Giáng Sinh “Cao Cung Lên” rất phổ biến. Người cao và gầy ốm,
tướng đi khoan thai đĩnh đạc, bộ râu cằm không nhiều nhưng khá dài. Nhìn qua
phong thái, cha giống như một tiên ông đạo cốt trong truyện tàu.
Trước đó, cha Triệu đã giúp phổ nhạc cho bài thơ tôi làm sau khi vào tù một
năm. Tôi cũng chẳng biết người Linh mục nhạc sĩ này thực sự có hứng, hay vì nể
nang trước lời tôi yêu cầu, mà phổ nhạc bài thơ lục bát 12 câu tôi soạn, có tựa
đề khá trữ tình: “Đếm hạt mưa rơi!”, như sau:
Phòng giam vắng lạnh
về đêm,
Ngoài trời mưa đo tăng thêm nỗi sầu.
Xa người xa đã bấy lâu
Đêm nay gởi nhớ thương sầu về ai?
Nhớ ai tôi nhớ đêm ngày,
Bao đêm thức trắng đắng cay mỏi mòn.
Nhạc buồn tiếng dế nỉ non!
Dế ơi! Không ngủ dế còn gọi ai?
Hay lòng dế cũng đắng cay,
Thương vay khóc mướn cho hai cuộc đời?
Lặng nhìn đếm hạt mưa rơi,
Bao nhiêu giọt nước bấy lời nhớ thương!”
Tôi không biết làm thơ
và cũng chưa bao giờ làm thơ cả, mặc dù tôi rất thích thơ. Đêm đó, vào năm
1977, một mình trong xà lim trại Phan Đăng Lưu buồn quá, nhìn ra ngoài qua cái
lỗ vừa đút lọt cái ca đựng nước trên cửa sắt buồng giam, bên ngoài lại mưa rỉ rả.
Tôi bèn thử thời vận, đánh bạo ê a vài câu thơ đó, và cố nhớ trong lòng.
Tôi chẳng biết nó có đúng niêm đúng
luật gì hay không. Nếu quý vị nào thấy mấy câu thơ đó kỳ quá, xin cứ xé bỏ
trang sách này cho tôi đỡ ngượng. Dù vậy, tôi cũng xin sự rộng lượng của độc giả,
vì bài thơ con cóc này là bài thơ duy nhất tôi sáng tác trong 13 năm tù, và
đúng hơn là trong cả đời tôi, ít ra là cho tới lúc này.
Cha Triệu vui vẻ hỏi thật nhỏ:
- Chú Lễ chưa ngủ à?
Tôi trả lời:
- Sao đêm nay con khó ngủ quá bố Triệu ơi! Cứ nằm lăn lộn trở trăn hoài!
Cha Triệu vê bi thuốc lào vào nõ điếu, hỏi:
- Sao khó ngủ? Bộ nóng lắm hả?
- Không phải đâu bố, phòng này mát hơn bên kỷ luật nhiều!
Bố Triệu ngửa mặt lên trời, nhả khói xong hỏi:
- Thế sao không ngủ được?
- Con ngủ bên kỷ luật bị cùm một chân quen rồi, qua đây thiếu cái móng
cùm con thấy một chân bị thừa thãi và nhẹ tong. Cứ nằm quơ quơ trên không
hoài không biết để chân đó ở đâu!
Nghe tôi nói cha Triệu bật cười thành tiếng, quên cả có người
đang nằm ngủ kế bên. Vẫn giữ nụ cười thoải mái và rạng rỡ, vị Linh mục nhạc
sĩ nói:
- Cái chú này! Thiệt tình tôi chẳng biết chú ra làm
sao!
Trở về thực tại
Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Một giấc ngủ thật say, yên lành và không mộng
mị.
Có tiếng gõ cửa khá to, tôi giật mình choàng dậy, tưởng là đang còn trong tù,
nghĩ vội:“Chết cha rồi, mình ngủ quên để cán bộ phải vào gọi, chắc là đội đã
báo số xuất trại rồi!” Tôi ngồi bật dậy như cái máy, mở mắt ra và ngạc nhiên thấy
khung cảnh lạ. Không biết mình đang ở đâu. Nhưng một giây sau tôi nhận ra
thực tại, nên vội tuột xuống giường và bước ra mở cửa phòng.
Khi vừa đưa tay chạm cái quả nắm bằng sứ trắng tinh trên cánh cửa phòng khách ở
Nhà Chung Hà Nội, tôi cảm thấy lạnh nơi lòng bàn tay đồng thời với tâm trạng hạnh
phúc của con người TỰ DO. Tôi cảm nhận giây phút sung sướng tuyệt vời lúc đó
như đang được bay bổng lên chín tầng mây vì đây là lần đầu tiên sau 13 năm trời
tôi được tự tay mở cửa buồng vào buổi sáng sau khi thức dậy.
Nhớ lại trong thời gian hơn chục năm trong tù, sáng nào tôi cũng nghe tiếng kẻng
vang lên ở cổng trại, sau đó là tiếng chìa khóa khua rổn rẻng cộng với tiếng
lòi tói va chạm vào cửa sắt. Có khi là tiếng rít chói tai của song sắt cài cửa
to như cổ tay trẻ em, khi cán bộ hoặc người tù trật tự rút một cách mạnh bạo và
hối hả thanh sắt đó ra khỏi các khoen sắt để mở cửa buồng giam.
Vì đã quen nghe âm thanh ấy như một điệu nhạc buồn mỗi buổi sáng nên lúc đó tôi
không chú ý nhiều. Bây giờ nhớ lại tôi mới rùng mình ghê rợn. Lúc đó, sau khi cửa
buồng giam mở ra, đám tù nhân chúng tôi xếp thành hàng một bước ra cho người ta
đếm. Cảnh này giống y như ở một nông trại, mỗi sáng người chủ nông trại đếm lại
từng con thú trong bầy súc vật đang từ chuồng chen lấn nhau ra. Cái khác nhau
duy nhất là bầy súc vật có khi chạy nhảy vô trật tư,ï còn đám tù chúng tôi thì
đi ngay hàng thẳng lối, đầu cúi gầm xuống. Mới sáng hôm qua đây tôi cũng còn sống
trong khung cảnh “cúi đầu bước ra” ấy ở trại tù Nam Hà.
Lúc này, khi cách cửa phòng khách mở ra, tôi thấy bên ngoài ánh nắng ban mai đã
chói chang và báo hiệu một ngày đẹp trời. Một thầy phòng bộ có mái tóc đầu
đinh, mặc quần đen, áo sơ mi trắng ngắn tay, bỏ ngoài quần, chân mang săn-đan
màu đen, đứng bên ngoài cửa tươi cười: “Chào cha! Chắc hôm qua cha đi đường mệt
nên ngủ ngon, con đã gọi cửa khá lâu. Xin lỗi con phải đánh thức cha. Đức Hồng
Y mời cha xuống ăn điểm tâm.”
Tôi không kịp nhìn đồng hồ trên tường, vội đáp lại: “Chào thầy...” và lí nhí
thêm câu gì tôi cũng không nhớ. Nhưng tôi còn nhớ là lúc bước vội vào nhà tắm,
tôi tự hỏi: “Ông này là Trác hay Trạc đây hả trời?!”
Mùa Thu Năm Quý Mùi 2003
Phần Phụ Trương
Phụ Trương
Tôi Phải Sống
Phụ
Trương Một:
Cái chết của tướng cướp Bình Thanh.
Sau khi ra tù tôi ở lại miền Bắc nửa tháng. Trong thời gian này, tôi đã tìm tới
làng Bưởi để tìm Bình Bưởi, dò hỏi tin tức về Bình Thanh, nhưng không ai biết.
Bình Bưởi có thể biết nhưng người nhà cho hay là Bình Bưởi đã bị bắt lại vào tù
rồi. Vì vậy, tôi không thể nào tìm ra manh mối. Sau đó, tôi đi thăm khá nhiều địa
điểm du lịch ở nội thành Hà Nội và một số Giáo phận miền Bắc như Bắc Ninh, Hải
Phòng, Bùi Chu và Thái Bình. Ngoài việc thăm các Giám mục và Linh mục để tìm hiểu
về hoàn cảnh Giáo hội miền Bắc, tôi còn thăm một số bạn tù đã về trước tôi.
Sau đó, tôi xuôi tàu Thống Nhất về Sài Gòn vào đầu tháng 8 năm 1988. Về Sài Gòn
tá túc ở nhà một người cô và có một lần lén về quê thăm mộ cha má . Má tôi đã
chết 11 năm trước, khi tôi còn trong tù. Tôi không thể về nhà quê cách công
khai vì sợ chính quyền địa phương có thể bắt lại bất cứ lúc nào, trong khi ở
thành phố lớn như Sài Gòn dễ sống trà trộn hơn. Hoàn cảnh tôi lúc đó không thể
sống ở lại quê hương vì tôi không được trả quyền công dân, không có hộ khẩu và
dĩ nhiên là không được thi hành những công việc thuộc chức vụ Linh mục. Do đó,
tôi đã trình bày hoàn cảnh với Giám mục Vĩnh Long, bấy giờ là Đức cha Nguyễn
Văn Mầu, với những lý do trên và ý định vượt biên.
Tôi vượt biên bằng cách cải trang, thay danh đổi họ và đi đường bộ qua
Campuchia. Từ Camphuchia, tôi qua Thái Lan bằng tàu đánh cá Thái và tới được trại
tị nạn Banthat, nằm ngay sát biên giới Thái-Camphuchia vào tháng Giêng năm
1989. Vào trại tị nạn tôi ở chung nhà với hai thanh niên là hai anh em Văn và
Võ mà lần đầu tiên tôi gặp trong trại này.
Một buổi trưa nọ, khi ba cha con tôi đang ngồi trong nhà, có một người đàn ông
lạ mặt, khoảng ngoài 40, bước vào nhà. Anh mặc áo thun trắng, quần dài và người
anh có nhiều vết xâm trổ, lòi ra từ hai cánh tay. Nhận xét đầu tiên của tôi
không mấy tốt đẹp về con người này. Vì lúc đó, trại rất đông và anh ta ở khác
khu, lại không phải là người Công giáo nên tôi chưa từng có dịp gặp và biết
anh. Bước vào nhà, tôi chưa kịp mời ngồi thì anh ta đã lên tiếng hỏi:
- Xin lỗi, anh là cha Lễ và có phải là cha Lễ ở Bưng Trường
không?
Tôi giật mình vì người đàn ông xa lạ này biết quá nhiều
về tôi. Tôi trả lời:
- Vâng, tôi là cha Lễ ở Bưng Trường đây. Nhưng sao anh lại
biết tôi?
Người đàn ông lạ mặt chẳng lộ vẻ gì khác trên mặt, vẫn
giữ thái độ xa lạ nói tiếp:
- Như vậy, chắc anh biết Bình Thanh?
Tôi bật đứng lên, bước tới chụp lấy vai anh:
- Anh nói gì? Anh biết Bình Thanh à? Trời! Tôi mong tin Bình
Thanh đã 7 năm nay. Anh nói tôi nghe hiện nay Bình Thanh, em tôi ra sao?
Tôi hỏi một thôi một hồi làm anh ta đứng chết trân,
không trả lời tôi câu nào, nhưng chỉ nói:
- Thế thì sáng ngày mai, quãng 9 giờ, mời anh tới chỗ tôi để
chúng ta nói chuyện.
Nói xong, anh ta cho tôi số nhà và khu vực anh ở rồi quày quả bước ra trước sự
ngạc nhiên của tôi và hai thanh niên trong nhà. Thái độ của người đàn ông lạ mặt
này càng làm tôi nôn nóng hơn. Đêm đó, tôi lại trằn trọc không ngủ được, cứ băn
khăn mãi về thái độ có vẻ bí mật của người đàn ông lạ mặt, làm tôi lo sợ về một
hung tin liên quan tới Bình Thanh. Dầu sao, tôi cũng phải chuẩn bị tinh thần để
đón nhận tin đó.
Hôm sau, tôi tới nhà anh ta theo giờ hẹn và thấy anh chỉ ngồi một mình, có đứa
bé chừng 3 tuổi đang chơi ngoài sân. Thấy tôi tới, anh mời vào nhà ngồi xuống
ghế có chiếc bàn ọp ẹp trước mặt. Anh ngồi đối diện và rót nước mời. Tôi móc
bao thuốc lá mời lại. Anh rút một điếu, ngậm nơi môi và bật lửa cho tôi trước.
Anh làm các việc này trong thinh lặng khác thường, không có gì là vội vã và
cũng chẳng tỏ ra dấu gì đặc biệt khi mời một người khách tới nhà. Tôi chẳng hỏi
han gì, vì mục đích hôm nay tôi tới đây đã rõ ràng không cần phải hỏi, không cần
thúc giục. Tôi thấy có cái gì hơi khác lạ trong sự chần chừ của người chủ nhà lạ
mặt này.
Sau khi kéo hơi thuốc lá đầu tiên, anh ta với lấy chén trà nhưng không uống, chỉ
kê lên môi rồi hạ xuống. Tôi đoán chừng như anh ta có tâm sự gì khó nói, tôi
càng đâm ra lo lắng hơn. Nãy giờ tôi vẫn ngồi thinh lặng đợi chờ. Anh ta đặt
chén trà xuống bàn, vừa xoay xoay chén vừa nhìn thẳng vào tôi, và lên tiếng gọi
tên tôi một cách rất bất ngờ:
- Anh Út!
Tôi giật mình, vì chỉ có Bình Thanh mới gọi tôi bằng
tên này, ngoài ra, không ai biết được, nếu Bình Thanh không nói cho người đó biết.
Thấy tôi giật mình sửng sốt, anh ta nói tiếp
luôn:
- Anh Út, Bình Thanh đã chết rồi anh!
Tôi ngồi chết lặng! Hình như anh ta nói tiếp theo một câu gì nhưng tôi không
còn nghe được nữa. Tâm trạng tôi lúc đó như người vừa bị trúng đạn. Có một
cái gì như một cú đập vào thái dương quá nặng làm tôi lảo đảo. Tôi gỡ điếu thuốc
trên môi ra, dí vào cái đĩa gạt tàn trước mặt, gục đầu xuống trên hai tay đang
ôm trán.
Tôi ngồi chết lặng! Một lúc sau, nước mắt bỗng tuôn trào thành dòng. Càng
lúc cơn xúc động càng lúc càng dâng cao, cổ tôi như bị tắc nghẽn. Tôi khóc thực
sự, và không kềm hãm được trước mặt người đàn ông xa lạ vừa báo tôi một hung
tin. Tôi vẫn ngồi tại chổ, cho tay vào túi quần, nhưng không có khăn tay, tôi
kéo vạt áo sơ-mi, tháo cặp kính để lên mặt bàn và dùng vạt áo chùi nước mắt
đang tuôn trào, không kềm hãm được.Tôi đứng dậy lảo đảo bước ra ngoài.
Ra tới đầu nhà, tôi bước tới, đứng dựa vào một thân cây, cúi đầu xuống và ôm mặt
khóc như một đứa trẻ con. Tôi chưa nghe anh bạn nói lý do và Bình Thanh đã chết
lúc nào nhưng tôi cũng có thể đoán ra là em tôi đã chết từ lâu rồi, và phải là
cái chết không bình thường. Tự nhiên trong lúc đó, tôi thấy lại con người
của Bình Thanh đang vui vẻ, cười đùa, nói năng trước mặt như lúc anh em tôi còn
sống chung trong tù. Tôi nhớ lại Bình Thanh có lần nói với tôi:“Em không bao giờ
chết trên giường bệnh”. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao hôm qua anh bạn này không
báo tin tại nhà tôi, mà lại mời tôi tới nhà anh, lúc không có người chung
quanh.
Một lúc sau, anh chủ nhà bước ra mời tôi trở vào nhà. Tự nhiên, tôi thấy quý
anh, vì lúc này, anh là người có thể chia sẻ với tôi nỗi đau quá bất ngờ này.
Vừa ngồi xuống ghế, anh bắt đầu nói, không cần đợi tôi
hỏi gì thêm:
- Anh Út, tên em là Đạo, em là bạn của Bình Thanh. Em và một
thằng bạn nữa cùng đi với Bình Thanh xuống Bưng Trường thăm chị Hai. Lần đó, chị
Hai sợ cuống cuồng khi thấy bọn em đóng giả làm bộ đội bước vào nhà. Chắc là chị
Hai đã kể lại chuyện này với anh?
Tôi ngồi yên gật đầu. Đạo nói tiếp:
- Bình Thanh đã chết lâu lắm rồi anh ạ, chỉ vài tháng sau
khi tụi em xuống nhà thăm chị Hai thôi.
Tôi trả lời là tôi cũng đoán biết như vậy, vì nếu Bình
Thanh còn sống thì làm gì sáu, bảy năm rồi không tin cho anh. Đạo nói tiếp theo:
- Bọn em quen nhau từ miền Bắc. Khi Bình Thanh vượt ngục ra
gặp lại và một tháng sau bọn em tìm đường vô Nam, cũng đóng giả làm bộ đội.
Bình Thanh quyết tâm phải xuống Vĩnh Long thăm chị Hai mà Bình Thanh đã coi là
người chị từ sau khi kết nghĩa với anh trong tù. Bình Thanh nhắc về anh luôn với
sự quý mến rất đặc biệt.
Sau đó, Đạo kể lại thời gian ở Sài Gòn, có mấy ngày Bình Thanh một mình đi Hố
Nai, nói là đi vì một việc riêng. Lúc đó, Bình Thanh có ý hoạt động cầm chừng
và chờ tôi về để cùng nhau vượt biên ra nước ngoài. Nhưng Bình Thanh cũng biết
là tôi khó mà về sớm nên đã nghĩ tới việc trở ra Bắc lại để đánh cướp và giải
thoát tù, vì Bình Thanh biết hết ngõ ngách và giờ giấc sinh hoạt trong trại tù
Thanh Cẩm. Nhưng kế hoạch này, trước tiên, phải có nhiều tiền mới thực hiện được.
Đó cũng là lý do cả bọn kéo qua Camphuchia bằng xe tải của bộ đội.
Uống chút nước, Đạo kể tiếp:
- Lúc đó, ở Nam Vang người Việt mình đông lắm và các băng đảng
hoạt động rất mạnh, cả người Việt lẫn Campuchia. Các băng đảng phải loại nhau để
làm chủ tình thế. Chẳng may trong một cuộc chạm súng với băng Việt khác gần Nam
Vang, Bình Thanh bị thương nặng và chết ngày hôm sau trong lúc anh em vây
quanh.
Sau khi an táng Bình Thanh gần
một ngôi chùa ngoài thủ đô Nam Vang, bọn em kéo về Việt Nam. Từ đó, em ở lại
sinh sống trong Nam và cưới vợ, có một cháu trai anh thấy đó. Sau đó, bọn em vượt
biên qua đây và không ngờ được gặp anh.
Ngồi nghe Đạo kể về cái chết của Bình Thanh, lòng tôi buồn vô hạn. Tôi hỏi thăm
về Hường thì Đạo cho biết Bình Thanh nói với anh rằng, lúc còn trong tù, tôi dặn
rất kỹ là khi vượt ngục ra, Bình Thanh đừng bao giờ gặp Hường, cho dù bất cứ
nơi nào trong đất nước, vì Bình Thanh vượt ngục là người ta sẽ theo dõi Hường từng
bước đi. Do đó, Bình Thanh chỉ báo tin cho Hường và thu xếp để cả hai ra nước
ngoài, nhưng việc này còn phải chờ đợi tôi. Sau khi Bình Thanh chết, các anh em
cũng không báo hung tin cho Hường, sợ Hường buồn khổ và làm liều!
Sau đó, chúng tôi trao đổi thêm nhiều điều tôi muốn biết về Bình Thanh và trước
khi từ giã ra về, Đạo đứng lên nói nghiêm trang:
- Anh Út, anh có tin là oan hồn của Bình Thanh xui khiến cho
chúng mình gặp nhau ở đây không?
Tôi đứng yên một lúc, đưa tay ra bắt lấy tay Đạo và
nói thay cho câu trả lời:
- Bình Thanh là con người rất nặng tình nặng nghĩa!
Đêm đó, trong căn nhà lá nhỏ của trại tị nạn tôi thức khuya, chong đèn ngồi một
mình ở phòng ngoài trong khi hai anh em Văn và Võ ngủ bên trong. Hai thanh niên
xa lạ này đã ở trại tị nạn một thời gian trước khi tôi tới trại Banthat. Ba cha
con tôi sống chung nhà và rất thương yêu, quý mến, lo lắng cho nhau.
Tôi ngồi một mình đốt hết điếu thuốc này sang điếu khác, nhưng chỉ hút một hơi
rồi để xuống cái gạt tàn trên bàn. Tin Bình Thanh chết làm tôi gần như kiệt lực.
Ngày còn với nhau trong tù, anh em quyết định sẽ ra nước ngoài sinh sống và chừng
đó Bình Thanh sẽ từ bỏ kiếp sống giang hồ mà hoàn cảnh trong đất nước đã tạo
nên. Lúc này, tôi đã vượt biên qua Thái Lan, đang đứng trước ngưỡng cửa của thế
giới tự do thì Bình Thanh không còn nữa.
Tôi ngồi ôn lại từng kỷ niệm với Bình Thanh. Tôi nhớ lại hàng chữ xâm trổ
sau lưng em tôi, bên dưới hình cái lư hương đang tỏa khói và trên cùng là hình
Phật Bà Quan Âm thật to:“Khi tôi chết ai là người xây nấm mộ. Cỗ quan tài ai
khóc tiễn đưa tôi”. Bình Thanh là một tướng cướp có thể bị nhiều người ghét bỏ
và nguyền rủa, nhưng với riêng tôi, Bình Thanh là một trong những người tôi
thương mến nhất trên đời. Là một tướng cướp, nhưng là một tướng cướp hào hiệp.
Tình người của Bình Thanh đã mang đến cho tôi khoảng trời màu hồng trong cái
đêm đen của đáy địa ngục trong khu kỷ luật trại tù Thanh Cẩm. Bình Thanh là một
tướng cướp có nhiều hành động tàn ác, nhưng tàn ác vì hoàn cảnh mà không vì bản
chất. Ngược lại, tôi đã chứng kiến và là nạn nhân của một vài người mang danh
hiệu và chức vụ rất cao đẹp, nhưng vào tù lại hành động tàn ác không phải chỉ
vì hoàn cảnh mà cả do bản chất nữa. Sánh với những con người này thì tướng cướp
Bình Thanh đứng ở một nấc cao hơn trong bậc thang giá trị làm người.
Tôi đứng lên bước vào buồng trong, mở túi ra tìm cái bấm móng tay nhỏ, đã
rỉ sét, mà Bình Thanh giao lại tôi như một vật kỷ niệm trong buổi chiều cuối
cùng trước khi vượt ngục từ khu kỷ luật trại tù Thanh Cẩm 7 năm về trước. Cái bấm
móng tay này lúc nào tôi cũng mang theo, ngay cả lúc ra đi vượt biên.
Trở ra ghế ngồi và nhìn vật kỷ niệm nhỏ này khiến tôi nhớ lại từng chi tiết
của buổi chiều cuối cùng còn thấy nhau. Trong giờ phát thức ăn ban chiều hôm
đó, Bình Thanh trèo tường ngăn hai khu Kiên Giam và Kỷ Luật, qua gặp tôi và cho
biết đêm đó sẽ đi và xin tôi cầu nguyện. Lúc đó, anh em tôi đã chảy nước mắt
khi Bình Thanh ôm tôi nói:“Em từ giã anh và có thể là vĩnh biệt anh.” Lúc bấy
giờ tôi cũng có cảm tưởng đó là lần cuối cùng anh em còn thấy nhau trên cõi đời.
Không ngờ điều tôi lo lắng đó đã trở thành sự thật.
Tôi lại nhớ tới một kỷ vật khác, và giở bàn chân trái lên, kề đèn lại để nhìn
cho rõ cái dấu xâm trổ rất nhỏ gần mắt cá phía trong. Dấu xâm chữ “H” chỉ to bằng
đầu ngón tay mà tự tay Bình Thanh đã xâm cho tôi trong buồng 2 khu kỷ luật trại
tù Thanh Cẩm vào năm 1982. Lúc đó, Bình Thanh nói:“Em xâm cho anh cái dấu này
trên bàn chân, chỗ dễ nhìn thấy nhất để mỗi khi xỏ chân vào cùm anh cũng nhìn
thấy, và sau này nếu anh còn có dịp mang giày, khi xỏ chân vào giày anh cũng thấy
cái dấu chữ “ H”, nghĩa là “ HẬN”, để nhắc anh nhớ thời gian này.”
Cái dấu xâm trổ đó dĩ nhiên là còn trên bàn chân tôi và sẽ theo tôi suốt đời,
nhưng cái ý nghĩa của nó đã đổi khác. Chữ “H” ở đây không còn là “HẬN” nữa,
nhưng tôi coi đó là bắt đầu của chữ “HOPE” trong tiếng Anh, là niềm “Hy Vọng”.
Vì qua những kinh nghiệm đau thương mà tôi đã từng trải, tôi Hy Vọng vào một
tương lai tươi sáng cho dân tộc Việt Nam và sẽ không để cho sự hận thù của hoàn
cảnh lịch sử trói buộc.
Có tiếng bước chân nhè nhẹ phía sau lưng, tôi quay lại, thấy Võ từ trong buồng
bước ra đến bên tôi nói nhỏ:
- Khuya lắm rồi sao cha chưa ngủ? Để con dọn ghế bố cho cha.
Trong hai anh em thì Võ gần gũi tôi nhất. Nó lo lắng từng miếng ăn giấc ngủ cho
tôi. Tôi thương nó nhất và cũng bị tôi la rầy nhiều nhất! Vừa nói, Võ vừa bước
lại gần bàn viết nhỏ hẹp của tôi trong căn nhà lá ọp ẹp mà ba cha con tôi sống.
Võ xê dịch bàn ra một chút để lấy chỗ bước vào phía trong mắc màn cho tôi. Vừa
mắc màn, Võ hỏi tôi bằng cái giọng rề rề cố hữu:
- Con thấy từ sáng tới giờ, hình như cha có chuyện gì rất buồn.
Chuyện gì vậy cha?
Tôi lắc đầu trả lời:
- Bây giờ khuya rồi, sáng ngày cha kể con nghe.
Ngồi nhìn Võ đang với tay mắc màn trên chiếc ghế bố cho tôi, tự nhiên tôi nhớ tới
Bình Thanh. Hoàn cảnh đã đưa đẩy tôi vào tù gặp Bình Thanh và cũng lại hoàn cảnh
đưa đẩy tôi tới trại tị nạn Thái Lan và gặp Võ. Tôi biết là tôi sẽ còn gắn bó với
anh thanh niên xa lạ này lâu dài, vì những ngày tháng sống chung, tôi rất
thương Võ, và coi như đứa con trai của tôi.
*****
nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#22 ![](data:image/png;base64,iVBORw0KGgoAAAANSUhEUgAAAA8AAAAPCAYAAAA71pVKAAAAAXNSR0ICQMB9xQAAAAlwSFlzAAAOxAAADsQBlSsOGwAAABl0RVh0U29mdHdhcmUATWljcm9zb2Z0IE9mZmljZX/tNXEAAADlSURBVDjLY2hsbGTAhYGAEa88Po1BiRz/8RmAV+OkFar/8RmAU+OsTepgzW2zlHEagKExOInj/6qDlv/nbDL5P3WNxv+eRbgNwNB49HbU/y2nnf6vPmwFN6B/iTYYoxsA1xyRJvj/0M1gON52OhDsgnmbzcF41noLMI6I4PyPTfO/4ER+MPaP4fp/4Hro/w3HnMAafaM5QPgfCANt/4c3tEGKQc7ffNITrpnoqIJpBjmdZM0gZ5+8m/v/0LXY/8t2O5CmGejv/xeflIINANlOsuYLj0vB+ODVWNI0I4c8DJOUMYjBAC1YfW8VoI7zAAAAAElFTkSuQmCC)
sóng trăng 16.02.2007
09:35:03 (permalink)
.
Phụ Trương hai:
Những cuộc gặp gỡ
A. Gặp lại các bạn tù.
Tôi sống trong trại tị nạn Thái Lan một năm rưỡi, cho tới giữa năm 1990, qua định
cư và làm việc tại thành phố Auckland, nước Tân Tây Lan (New Zealand), một quốc
gia quần đảo trong vùng Nam Thái Bình Dương. Tôi đến đây theo lời mời của Giám
Mục Denis Browne, Giám mục Giáo phận Auckland, để phụ trách Cộng đồng Công giáo
Việt Nam tại Giáo phận này.
Hai năm sau, 1992, tôi bắt đầu đi khá nhiều nơi trên thế giới để cùng với đồng
bào Việt Nam hải ngoại tranh đấu cho Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo tại Việt Nam.
Trong thời gian đi lại nhiều nơi, tôi có dịp gặp lại rất đông những người tôi
đã từng quen biết trước kia trong nhiều lãnh vực. Có những người bà con, đồng
hương, bạn học, giáo dân trong các giáo xứ ở Việt Nam ngày trước, những người ở
trại tị nạn với tôi và những người đã từng ở tù chung với tôi trong nhiều trại
tù khác nhau từ Nam ra Bắc. Đặc biệt nhất là hai người đã cùng tôi chịu đựng
gian khổ trong kỷ luật, sau khi vượt ngục bất thành tại trại Thanh Cẩm ở miền Bắc
năm 1979, là anh Trịnh Tiếu và anh Nguyễn Sỹ Thuyên.
Anh Trịnh Tiếu tới Mỹ và định cư tại Sacramento. Anh hoạt động rất hăng
say và có uy tín trong Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Sacramento. Anh giữ chức vụ Chủ
tịch Hội Đồng Quản Trị, trong khi một chiến hữu rất tích cực khác là anh Trần
Văn Ngà, giữ chức Chủ tịch Ban Chấp Hành.
Nhưng chẳng may, mấy năm sau anh Tiếu bệnh và qua đời vài ngày trước Tết năm
1996. Vì cận ngày Tết, tôi không thể có mặt trong đám tang anh, nhưng sau đó,
tôi qua làm Lễ Giỗ 100 ngày cho anh. Hiện nay, chị Phi Nga là người vợ sau của
anh Tiếu và con gái là cháu Thảo Trâm đang sống ở Sacramento. Ngoài ra, hai người
con đời hôn nhân trước của anh là Trịnh Xuân Thọ và Trịnh Thị Trúc Mai đang sống
ở Virginia, Hoa Kỳ.
Anh Nguyễn Sỹ Thuyên qua Mỹ và định cư tại San Jose. Tôi có tới thăm anh tại
đó. Sau một thời gian có lẽ vì cuộc sống quá cô đơn và buồn tẻ nên anh đã quay
trở lại Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét