Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2025

Tôi phải sống 50000

Tôi phải sống 5

Nhận ra ý Chúa
Đêm đó, trong lúc tuyệt vọng, tôi ngồi trong màn cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết ý Chúa muốn gì nơi con. Con đã tù 13 năm và chịu bao nhiêu thứ cực hình. Các anh em khác chưa ai phải chịu cảnh khốn khổ như con, nhưng đã được về tất cả, riêng con phải tiếp tục chịu cảnh này. Xin cho con biết ý Chúa muốn gì nơi con.” Cầu nguyện xong, tôi ngồi yên lặng, và lúc đó tôi có cảm tưởng như nghe một tiếng nói bên tai:“Cha muốn con tiếp tục ở đây với những tù nhân khốn khổ còn lại, để con yêu thương, an ủi, giúp đỡ và chia xẻ đời con với họ. Và cuối cùng, cha muốn con được cùng chết với họ ở đây trong môi trường lao lý này.”
Thật là bất ngờ như một phép la! Tự nhiên một nỗi vui vô cùng lớn lao xâm chiếm tâm hồn tôi. Một nỗi vui mà suốt cả cuộc đời tôi chưa bao giờ có được. Niềm vui của người được chọn và trao cho một sứ mệnh mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, nhất là những người tù cùng khổ. Tôi coi đây là sự mặc khải riêng tư của Chúa đối với tôi. Bỗng chốc tôi thấy con người tôi khác hẳn. Tôi không còn mong được ra về, cho dù một chút cũng không. Từ nay nhà tù là nơi tôi sống, những tù nhân khốn khổ là anh em tôi để tôi yêu thương và an ủi họ, các cán bộ là những người tôi phải cảm hóa và chỉ cho họ con đường đức tin và hy vọng.
Qua sáng ngày, tôi cảm thấy mình đả trở nên một con người khác, một con người được giao sứ mạng làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa anh em. Việc đầu tiên tôi làm trong buổi sáng hôm đó là ngồi xuống viết một lá thư cho chị tôi ở miền Nam. Trong suốt 13 năm qua chị tôi đã lo lắng cho tôi. Những năm về sau này, chị đã 2 lần lặn lội ra trại Thanh Cẩm thăm nuôi tôi. Nhưng vì lúc đó tôi đang bị cùm trong nhà kỷ luật, nên lần đầu chị không được gặp tôi và lần sau được gặp 15 phút trong chuyến đi từ khi rời nhà đến lúc trở về vừa đúng 33 ngày! Trong thơ tôi bảo chị từ nay đừng gửi quà cho tôi nữa, vì trong 13 năm qua gia đình chẳng còn gì. Tôi cho biết lúc này tôi rất hạnh phúc và đầy đủ, chị không phải lo nghĩ gì về tôi nữa.
Những ngày tiếp theo, tôi bắt đầu cuộc sống hạnh phúc trong tù.  Trước hết, tôi để ý chọn một số anh em để cho thành hình một nhóm nhỏ mà tôi tạm gọi là “Cộng đoàn tình thương”. Mục đích của nhóm là an ủi và giúp đỡ những anh em khốn khổ, đặc biệt là những người không có thân nhân gia đình thăm nuôi tiếp tế. Lúc đó các anh em được tha về có để lại cho tôi khá nhiều thức ăn, đồ dùng, quần áo. Tôi giao cho anh em trong nhóm đem phân phát giúp những người thực sự cần giúp đỡ.
Lúc này nhóm anh em gần gũi với tôi nhất là những anh tù Trung Quốc, những người đã sống chung với tôi thật lâu trong nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm. Giữa chúng tôi có mối liên hệ tình cảm sâu xa. Lợi dụng lúc sống chung, tôi đã học tiếng Quan Thoại với họ. Tôi đã cố gắng học không ngừng trong 2 năm và sau đó sống chung với mấy anh Trung Quốc nên có thể thực tập mỗi ngày và khi lên tới trại Nam Hà tôi đã nói rất thông thạo tiếng Quan Thoại. Tôi đã dùng ngôn ngữ này để dạy giáo lý cho họ. Trong những ngày nghỉ, tôi thường tới các buồng thăm viếng anh em, nhất là những người mới được Rửa tội trong tù. Riêng buồng 9 là buồng các vị tướng lãnh ở, không ai được vào ra tiếp xúc. Nhưng lúc bấy giờ qua sự liên lạc khéo léo với cán bộ trực trại, tôi lấy lý do xin qua học đàn Ghi-ta với bác Lê Minh Đảo, nhưng thật ra là để giúp về mặt tinh thần cho các tướng lãnh này.
Ngày 28 tháng Năm 1988, tức là hai tháng sau đợt tha rầm rộ vào dịp Tết, trại Nam Hà lại có biến cố lớn. Tất cả tù nhân miền Nam được đưa vô trại Hàm Tân trong Nam, chỉ có 3 người còn lọt sổ ở lại. Ngoài tôi ra còn có Linh mục Nguyễn Bình Tĩnh, Giáo phận Ban Mê Thuột, bị tình nghi dính líu tới nhóm Fulro và anh Nguyễn Đức Khuân bị bắt vì tham gia phong trào Phục Quốc. Lúc ở trại Thanh Cẩm anh sáng tác bản nhạc có đoạn gọi Hồ Chí Minh là con quỉ đỏ. Chẳng may bản nhạc bị bại lộ, anh bị đánh tơi bời và sau đó đưa lên cùm trên kỷ luật chung với tôi một thời gian khá lâu.
Nếu trại Nam Hà bắt đầu xác xơ kể từ sau đợt tha gần như “xóa sổ” hôm Tết, thì bây giờ trở nên tê liệt khi tù chính trị miền Nam không còn nữa. Tình thế bất ngờ tạo cho tôi thành một thứ “đại tư bản” trong tù. Số anh em được tha và số vừa chuyển về Nam để lại cho tôi tất cả “tài sản” của họ. Nếu trước đây có thời kỳ tôi không có cái quần để mặc, cái bát đựng thức ăn, cái lon Guigoz đựng nước uống thì bây giờ tôi có hàng mấy trăm cái hòm, thùng thau, chén bát, bao bị, áo quần, thuốc men v.v... không biết cơ man nào mà kể. Lúc này nhóm “Cộng đoàn tình thương” của chúng tôi cũng đã bắt đầu lớn mạnh và số đồ dùng anh em để lại thật đúng lúc. Anh em trong nhóm tôi thực tập cuộc sống chia sẻ với những người cùng khổ, một điều mà họ không bao giờ nghĩ là có thể có trong môi trường này.
Sau khi trơ trọi một mình ở lại, tôi càng nhận rõ được sứ mệnh của mình hơn. Lúc đó tôi được nhập vào đội chính trị miền Bắc với công tác đi đào thủy lợi. Trong buồng tôi cũng có những anh Trung Quốc, tuy không cùng đội nhưng sống chung buồng. Những anh Trung Quốc chỉ lao động bên trong trại, không được ra ngoài. Từ đó, hàng đêm tôi dạy giáo lý và dâng Thánh Lễ trong buồng.
Một hôm, tôi Rửa tội cho 2 anh Trung Quốc và quyết định dâng Lễ công khai. Tối hôm đó sau khi vào buồng, anh em nhộn nhịp cười nói, uống chè, hút thuốc lào như thường lệ. Đúng giờ, tôi đứng lên vỗ tay mấy tiếng làm mọi người ngỡ ngàng, sau đó tôi nói thật to để cả buồng cùng nghe:“Tôi xin anh em làm ơn giữ thinh lặng trong chốc lát, tôi sắp sửa Rửa tội cho hai người bạn, và đây là một nghi lễ tôn giáo rất quan trọng. Mặc dù anh em không phải là Thiên Chúa Giáo nhưng tôi cũng xin anh em tôn trọng nghi lễ này. Tôi cũng nói với các anh em là khỏi báo cáo với cán bộ vì việc tôi làm lễ công khai, ban giám thị đã biết.”
Điều rất lạ lùng, sau khi nghe tôi nói, cả buồng lặng yên và tôi cử hành nghi thức Rửa tội cho 2 anh Trung Quốc một cách thật trang nghiêm, cảm động.
Sau đó, tôi sống chung một buồng với 10 anh tù Trung Quốc. Những anh Trung Quốc này, trong những năm sau cùng ở Thanh Cẩm, đã được các Linh mục giúp rất nhiều, cả về tinh thần lẫn vật chất, nên họ rất thân thiện và gần gũi với các Linh mục. Riêng đối với cá nhân tôi, còn thân thiết với họ hơn vì đã sống chung với nhau mấy năm trong kỷ luật và hơn nữa tôi còn nói được tiếng của họ. Đó cũng là yếu tố nối kết tình thân. Khi lên trại Nam Hà và sống chung buồng, tôi dạy Giáo lý cho một số anh Trung Quốc, trong đó có anh Chu Vạn Hồi. 
 
Cho tới lúc đó, Chu Vạn Hồi vẫn chưa nói được tiếng Việt, chỉ bặp bẹ ít câu. Những năm qua, khi sống gần các Linh mục, Chu Vạn Hồi đã tỏ ra thân ái, ngoan ngoãn và biến đổi như một con người mới. Anh ta thường hay tâm sự với tôi và hối hận vì các việc làm sai trái cướp bóc trước kia. Anh ta xin tôi giúp anh có niềm hy vọng để sống vì lúc đó anh còn quá trẻ, mới vừa ngoài ba mươi tuổi.
Ngay từ ở Thanh Cẩm và sau này lên Nam Ha,ø tôi đã dành nhiều thời giờ để hướng dẫn Chu Vạn Hồi và vài anh Trung Quốc khác. Tôi dùng nhiều gương các vị thánh cũng đã có thời lầm lạc như Thánh Phaolô để nói với anh là Thiên Chúa sẽ thương những con người lầm lạc biết hồi tâm thống hối. Sau thời gian tìm hiểu và thử thách, tôi Rửa tội cho Chu Vạn Hồi trong một nghi lễ khá long trọng tại trại tù Nam Hà. Anh chọn Tên Thánh là Phaolô, một vị Tông đồ của dân ngoại mà anh rất sùng kính. Tôi cũng nhận Hồi làm đứa con tinh thần của tôi và Hồi rất sung sướng về điều này.
 
Câu chuyện hãi hùng
Nếu việc Rửa tội cho Chu Vạn Hồi làm tôi cảm thấy hạnh phúc trong sứ mệnh Linh mục, thì thái độ rất lạ lùng của Hồi trong đêm vừa Rửa tội xong đó đã làm tôi ngạc nhiên. Khoảng 9 giờ tối hôm đó, Hồi tới chỗ tôi, nằm xuống bên cạnh, quay sang ôm lấy vai tôi, gục đầu vào ngực tôi và bắt đầu khóc nức nở. Cử chỉ này của Hồi làm tôi cảm động và ngạc nhiên. Tôi thắc mắc không hiểu nguyên nhân nào đã khiến một tên cướp trước kia bây giờ lai có thái độ như vậy? Hay là anh khóc vì quá vui mừng sau khi chịu phép Rửa tội? Tôi ngạc nhiên hỏi:
   - Chu Vạn Hồi, con làm sao vậy?
Nghe tôi hỏi, Hồi càng khóc to hơn. Nước mắt chảy ướt cả vai tôi và vai anh ta run rẩy trong bàn tay tôi. Biết là Hồi có điều gì cảm động mãnh liệt nên tôi không hỏi nữa nhưng dùng bàn tay phải xoa nhẹ trên đôi vai rất gầy của người bạn tù ngoại quốc vốn là tên cướp mà bây giờ đã tìm thấy con đường Đức tin và lại là con tinh thần của tôi. Sau cơn xúc động, Hồi ngước mặt lên nói trong nước mắt:
   - Bố ơi! Có lần con đã sắp giết bố để ăn thịt rồi!
Nói xong được câu đó, Hồi khóc rống lên làm những anh em kế bên kinh ngạc, nhưng không ai biết chúng tôi nói gì. Hình như cảm thấy nhẹ người sau câu đó, Hồi trở nên khá bình tĩnh sau khi nước mắt đã chảy xuống nhiều. Tôi vẫn ôm vai nó hỏi:
   - Chu Vạn Hồi, con nói gì? Sao lại giết bố? Bố không hiểu chuyện gì cả?
    Hồi trả lời tôi cách rành rọt từng tiếng một. Lúc đó, tôi đã nói tiếng Quan Thoại rất sõi, nên hiểu hết những gì Hồi nói:
   - Làm sao bố hiểu được chuyện này khi con và Lý Đức Nghĩa giữ kín trong lòng từ nhiều năm qua. Bây giờ Lưu Tùng chết rồi, chỉ còn lại con và Lý Đức Nghĩa. Con gọi nó lại đây để xin lỗi bố sau khi con kể lại đầu đuôi câu chuyện mà bố đã biết qua một phần.
Nói xong, Hồi bước xuống đi gọi Nghĩa nằm tận cuối buồng. Tôi ngồi một mình phân vân không hiểu Hồi muốn nói tới chuyện gì. Chuyện gì mà nó nói là tôi đã biết một phần. Chu Vạn Hồi làm tôi rất thắc mắc. Khi cả hai trở lại, Hồi nói:
   - Lý Đức Nghĩa, anh ngồi xuống đây. Đêm nay tôi đã là con của Chúa, và người mà chúng ta vẫn gọi là Anh Lễ ngày trước bây giờ là bố của tôi. Tôi phải kể lại câu chuyện của buồng 5 ở kỷ luật Thanh Cẩm năm xưa để xin bố tôi tha thứ cho chúng mình.
    Nghe nhắc tới đó, Nghĩa hiểu ngay câu chuyện nên có vẻ bối rối, nói nhỏ với Hồi bằng tiếng Quan Thoại mà chính nó đã dạy cho tôi:
   - Anh Hồi à, chuyện đã qua từ lâu rồi còn nhắc lại làm gì?
   - Mặc dù là đã lâu, nhưng tôi không an tâm khi chưa thú tội với người mà bây giờ tôi gọi là bố. Anh hãy ngồi xuống đây với tôi.
    Nói xong, Hồi ngồi dịch sang một bên và kéo Nghĩa ngồi xuống. Cả ba người chúng tôi ngồi dựa lưng vào tường, tôi ngồi giữa hai người. Chu Vạn Hồi bắt đầu kể:
   - Câu chuyện đã 8 năm qua rồi, nhưng con nhắc lại và tin chắc là bố còn nhớ. Bố còn nhớ cái đêm thằng 'lưu manh' bị tụi con đập trong buồng 5, nó la hét và cán bộ phải lên mang đi bệnh xá?
   - Có, bố còn nhớ rõ lắm, chuyện đó xảy ra trong buồng 5 và bố ở buồng 4 kế bên nghe nó la hét thất thanh trong đêm và cán bộ lên đưa nó ra khỏi buồng trong đêm.
 
   - Đúng rồi, như vậy là bố còn nhớ.
    Tôi ngạc nhiên hỏi:
   - Nhưng tại sao con muốn nhắc lại chuyện đó? Có gì đặc biệt không?
   - Vì chuyện này có liên quan tới bố. Nếu lúc này bố không là bố của con thì con không nhắc lại làm gì, nhưng bây giờ bố là cha mẹ con, con không thể giữ trong lòng, nhưng phải nói ra, mặc dù đã nhiều năm qua rồi.
    Tự nãy giờ Nghĩa chỉ ngồi yên cúi đầu, lúc biết là Hồi sẽ kể hết đầu đuôi câu chuyện, Nghĩa quay sang tôi, nói:
   - Anh Lễ, tôi xin lỗi!
    Tôi nói với cả hai:
   - Tôi chẳng hiểu gì cả. Hãy kể tôi nghe đi!
    Chu Vạn Hồi khoanh tay, mắt nhìn lên trần nhà và bắt đầu câu chuyện một cách chậm rãi, dĩ nhiên là bằng tiếng Quan Thoại:
   - Lúc đó, con và Lý Đức Nghĩa vì quá tuyệt vọng và khổ sở đói khát sau hơn chục năm tù, và lúc nào, ở đâu cũng bị nhốt trong kỷ luật. Chúng con muốn chết, nhưng phải chết cách nào để cho mọi người biết là vì sự dã man của chế độ Cộng sản Việt Nam mà chúng con phải làm như vậy. Chúng con quyết định gây tiếng vang bằng cách giết và ăn thịt bất cứ một người tù Việt Nam nào bước vào buồng 5 lúc bấy giờ.
 
          Chúng con đã định, sau khi giết chết, sẽ moi bộ đồ lòng ăn trước, vẫn để xác chết nằm đắp chăn, cán bộ điểm danh nhìn vào vẫn thấy đủ số và một người đang ngủ. Sau đó chúng con sẽ lóc thịt và ăn dần cho tới khi bị phát hiện. Dĩ nhiên là tụi con sẽ bị bắn, nhưng chúng con muốn dùng hành động man rợ này để tố cáo sự dã man của chế độ Cộng sản Việt Nam. Vì thực tình lúc đó chúng con không còn thiết sống nữa. Trong buồng có Lưu Tùng, nhưng dù sao nó cũng là người Trung Quốc nên chúng con không giết nó. Nó ốm yếu như một cây sậy, giết lúc nào cũng được! Chúng con chỉ lấy phần ăn của nó đi và chỉ cho nó ăn vừa đủ sống.
Hồi dừng lại, với tay lấy lon nước thấm giọng. Tôi ngồi yên lặng và rùng mình khi nghe Hồi chầm chậm kể lại câu chuyện mà tôi đã biết được một phần, vì chính tôi lúc đó đã can thiệp để cứu Lưu Tùng. Hồi tiếp:
   - Chiều hôm đó, cán bộ đưa một thằng ‘lưu manh’ vào buồng con và cơ hội đã tới. Vừa xỏ chân vào cùm xong là nó lăn ra ngủ. Điều này càng dễ dàng cho chúng con thực hiện kế hoạch và chúng con nói tiếng Phổ thông với nhau nó chẳng hiểu gì. Nó bị cùm với Lưu Tùng thớt bên kia và nằm phía ngoài. Thớt bên này con nằm bên ngoài, Nghĩa nằm bên trong.
     Chờ cho đèn điện trong buồng tắt, trong lúc nó đang ngủ mê, con bước một chân xuống sàn lấy cái ống bẩu nước tiểu và đổ hết nước tiểu ra. Cái ống bẩu đó dài và nặng, con dùng hết sức lực của hai cánh tay giáng một phát cực mạnh vào đầu nó. Con nghĩ là nó sẽ chết ngay vì cú đập đầu bất ngờ này, nhưng cái thằng nó khỏe. Ống bẩu vỡ tan tành, máu văng tung tóe nhưng nó không chết mà lại hét to lên: “Báo cáo cán bộ! Báo cáo cán bộ!” Lúc đó con chồm qua dùng hai tay bóp cổ nó như thế này... Con làm bố coi!
Anh ta dùng hai bàn tay bọc lấy phía sau cổ tôi. Hai ngón tay cái như thép của nó ấn nhẹ vào dưới cổ phía trước của tôi. Nó chỉ ấn nhẹ,  mà tôi có cảm tưởng là cổ họng tôi đã vỡ ra. Tôi phải kéo tay nó. Hồi nói tiếp:
 
   - Bố thấy đó, con chỉ ấn nhẹ mà bố không chịu nổi nhưng không hiểu sao đêm đó con dùng hết sức lực ấn xuống mà nó không chết. Rõ ràng là ý Chúa còn thương con, nếu nó chết thì con đâu có ngày hôm nay. Đây là điều lạ lùng.
 Nhưng còn một việc lạ lùng khác mà con biết là Chúa cứu con, đó là khi cán bộ nghe tiếng la hét chạy lên. Lúc đó, con chồm xuống đứng áng ngang cửa sổ cố ý che đèn bấm cán bộ rọi vào buồng quan sát. Bất thần có một cán bộ võ trang chọc thật mạnh lưỡi lê ở đầu súng vào buồng, đúng vào giữa thanh sắt song cửa sổ tóe lửa. Theo phản xạ, con né sang một bên, và lưỡi lê chệch sang phía bên kia. Đúng là phép lạ Chúa cứu con, vì nếu con né phía ngược lại thì lưỡi lê sẽ chọc đúng vào tim! Bây giờ con mới hiểu là Chúa đã cứu con.
Hồi dừng lại, khoanh tay trước ngực ngước mắt lên trong thái độ tạ ơn. Xong anh kể tiếp:
 
   - Cán bộ mở cửa buồng đưa thằng ‘lưu manh’ đi xuống bệnh xá vì bị vỡ đầu máu me lênh láng. Khi cán bộ xuống rồi, con và Nghĩa bèn vắt máu từ cái chăn của nó được gần đầy bát máu. Tụi con dùng đóm tre đun bát máu thằng ‘lưu manh’ cho nóng lên và chia nhau uống! Lưu Tùng nhìn thấy cảnh đó run sợ nói không ra lời. Lúc bấy giờ đói quá con uống máu người mà không thấy tanh gì cả. Lạ một điều là uống máu người xong tụi con giống như bị nghiện, càng mong có dịp được uống nữa!
Tôi cảm thấy lạnh người khi nghe Chu Vạn Hồi và Lý Đức Nghĩa, hai người mà tôi rất thương mến trong những năm qua, lại là những kẻ đã từng uống máu người. Lúc này tôi mới lên tiếng:
   - Lúc nãy, con nói là con định giết bố, lúc nào?
   - Bố có nhớ lần đổi buồng ngay sau đó và cán bộ Thanh định đưa bố vào buồng 5 của con không?
    Tôi nhớ rất rõ việc đó, nên nói:
   - Có, nhưng bố không vào và xin cán bộ cho đi buồng khác vì bố và ông Khương mới đánh Lý Đức Nghĩa trước đó, nếu bố vào...
    Hồi cướp lời tôi:
    - Bố ơi! Đây là một phép lạ khác, phép lạ này còn lớn hơn nữa. Bố biết không, sau lần giết hụt anh tù hình sự mà không bị phát hiện, tụi con đã bàn lại kế hoạch và nạn nhân thứ hai không thể nào sống sót được. Chúng con đang mong đợi thì trưa hôm đó cán bộ đưa bố vào. Lúc bấy giờ, chúng con đã trở thành loài thú say máu người và sẽ giết để ăn thịt bất cứ người tù Việt Nam nào. Khi biết người đó là bố chúng con càng mừng hơn, vì giết và ăn thịt một người tù chính trị miền Nam có tên tuổi như bố thì cái chết của chúng con sẽ được thế giới biết tới nhiều hơn. Vả lại, Lý Đức Nghĩa rất mừng vì có dịp báo thù. Nó nói bố và ông Khương đánh nó hôm Tết vì nó cướp bánh chưng.
         Lúc bố đứng ngoài sân, trong buồng con và Nghĩa đã bàn kế hoạch với nhau thật nhanh, không thể bàn khi bố vào buồng vì bố biết tiếng Phổ Thông. Chúng con cũng đe Lưu Tùng, nếu nó làm một ám hiệu gì với bố nó sẽ chết ngay. Nhưng sau đó bố lại xin cán bộ không vào buồng con và cán bộ đưa Phi Tàu thay vào đó! Nếu bố vào buồng 5, tụi con đã giết bố rồi!
        Khi Phi Tàu vào nhập bọn, chúng con càng có sức mạnh và quyết tâm giết người ăn thịt hơn. Nhưng chưa có dịp ra tay thì một hôm bị thằng đại ‘‘lưu manh’’ Bình Thanh xông vào buồng đánh Phi Tàu và Nghĩa nằm liệt hàng tháng trời. Con cũng bị đánh, nhưng nhẹ hơn, và ngay chiều hôm đó bị đổi buồng mỗi đứa một nơi!
    Hồi dừng lại, nắm lấy bàn tay tôi hôn và nói:
   - Xin bố tha thứ cho con!
    Nãy giờ, Nghĩa ngồi yên cúi đầu, lúc này mới lên tiếng lần thứ hai:
   - Anh Lễ, tôi xin lỗi anh!
Tôi ngồi yên nhắm mắt và lạnh người khi hồi tưởng lại những tháng ngày đã qua trong 3 năm tôi lăn lộn trong kỷ luật Thanh Cẩm. Thật tôi không thể ngờ có những chuyện như vậy đã xảy ra.
Tôi nắm lấy tay hai người bạn tù Trung Quốc, những con người khốn cùng đã chia xẻ một phần cuộc đời của họ với tôi. Tôi nắm lấy bàn tay họ thật lâu và  ngồi yên, để cho hai hàng nước mắt tôi tuôn rơi. Thấy tôi ngồi yên, nước mắt chảy dài, Chu Vạn Hồi quay sang ôm lấy tôi và cả hai cùng khóc. Lúc đó, Nghĩa cúi đầu, miệng lẩm bẩm mấy câu tiếng Phổ Thông, một ngôn ngữ mà chính nó đã dạy cho tôi:
   - Lỳ cớ! Tui pủ xì!( Xin lỗi anh Lễ, xin lỗi!)
 
Chúa nói trong con
Hôm sau, tôi bị gọi lên gặp trại trưởng vì dâng Thánh Lễ công khai. Ông ta nạt nộ quát tháo, bảo tôi phải “câm miệng” lại, và còn dọa sẽ tống tôi vào cùm. Tôi trả lời rất khiêm tốn nhưng thẳng thắn:
   - Báo cáo cán bộ, tôi là một Linh mục, thì cho dù ở đâu tôi cũng phải làm nhiệm vụ Linh mục của tôi và việc làm của tôi không ảnh hưởng gì tới sự an ninh của trại. Cán bộ khỏi phải dọa nạt tôi. Việc cùm kẹp đánh đập tôi đã chịu quá quen trong tù rồi. Bây giờ còn lại hai điều tôi xin với cán bộ. Một là bắn tôi chết, hai là để tôi làm nhiệm vụ rao giảng lời Chúa. Tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người.
Thấy không thể lay chuyển được tôi, họ giao tôi lại cho cán bộ quản giáo. Hôm sau, cán bộ quản giáo gọi tôi tới, trách móc tôi việc dâng Lễ và giảng dạy công khai làm ban giám thị khiển trách anh. Cuối cùng anh nói:
   - Anh Lễ này, nếu anh không còn thương anh nữa thì xin anh thương tôi và vợ con tôi. Anh tiếp tục làm như thế, tôi là người gặp rắc rối trước tiên.
    Tôi trả lời:
   - Tôi cám ơn cán bộ đã thông cảm với tôi, cán bộ đã nói thế thì từ nay tôi sẽ không dâng Thánh Lễ công khai nữa, nhưng sẽ dâng Lễ âm thầm.
Các ngày Chúa Nhật và ngày nghỉ, nhóm chúng tôi ngồi quây quần ngoài sân và chia sẻ Lời Chúa với nhau. Lúc đầu, nhóm chỉ có những anh Trung Quốc nên tôi dùng tiếng Quan Thoại trong việc này, về sau có những người Việt nên tôi phải dùng hai thứ tiếng. Nhóm của chúng tôi càng ngày càng có nhiều người tham gia. Tôi dạy giáo lý và chuẩn bị Rửa tội cho 3 người trong thời gian sắp tới.
Lúc đó, đội của tôi do một anh thanh niên người Dân Tộc làm đội trưởng. Cũng nên biết trong tù chúng tôi gọi tất cả những người không phải là người Kinh bằng một tên chung là người “Dân Tộc”, ý nói là dân tộc thiểu số. Có thể họ mà người Mường, người Mán, người Thượng, người Nùng... Công việc của đội chúng tôi là đào kinh dẫn nước vùng đầm lầy chung quanh trại Nam Hà để cố biến vùng này thành khu vực có thể canh tác được. Một thời gian sau, cán bộ chỉ định tôi thay thế anh người Dân Tộc làm đội trưởng vì anh này viết chữ không rành! Chính trong thời gian này, khi không còn những tù chính trị miền Nam, tôi có dịp tiếp xúc nhiều với những cán bộ có phần hành chuyên môn trong trại.
 
Đội khai thác đá
Đội tôi làm thủy lợi một thời gian thì chuyển qua khai thác đá để bán cho các hợp tác xã xây dựng các nơi, nhất là ở Hà Nội. Trại Nam Hà nằm trong một thung lũng, chung quanh núi non bao bọc. Con đường từ Phủ Lý vào trại hai bên là núi đá cao, và đội chúng tôi khai thác đá trong các dãy núi cao lởm chởm này. Đánh đá là một công việc nặng nhọc và đầy nguy hiểm. Tôi nghe kể lại trước đây có mấy tù nhân đã bỏ mạng hoặc thương tật khi làm công việc này. Vì thế, khi lãnh trách nhiệm cho đội đánh mìn khai thác đá, tôi đã phải hết sức cẩn thận để bảo vệ cho anh em. Công việc của đội chúng tôi gồm các khâu như sau:
1. Chọn địa điểm đánh mìn: Việc này do chính tôi lựa chọn. Tôi phải tìm chỗ nào cho nổ mìn để có nhiều đá vỡ ra từ nhiều góc cạnh khác nhau, nhưng phải là nơi thuận tiện để người châm ngòi nổ có thể chạy nấp được.
2. Đục lỗ vào đá để nhét thuốc nổ: Mỗi ngày tôi chọn từ 8 tới 10 chỗ tùy theo số người lao động trong đội. Sau đó tôi phân công từng đôi một để họ đục lỗ trong đá bằng cái búa nặng chừng 1 ký lô và một cây sắt đầu dẹp, gọi là cây “choàng”. Một người cầm búa, một người cầm choàng. Làm sao trong ngày mỗi cặp phải đục một lỗ sâu 1 thước vào trong đá.
3. Nhét thuốc nổ và châm mìn: Đây là công việc nhẹ nhàng nhất nhưng lại là công việc nguy hiểm nhất. Tôi chọn một anh tù lanh lẹ và tháo vát làm công việc này. Trong khi cả đội lao động vất vả thì anh này lo dọn đường trên núi để chạy tới chỗ nấp an toàn sau khi châm mìn. Buổi chiều, sau khi các lỗ đục xong, anh lo việc nhồi thuốc nổ vào lỗ và phân chia dây cháy chậm tùy theo số lỗ và khoảng cách giữa các lỗ mìn cho hợp lý. Vì tiêu chuẩn dây cháy chậm chỉ có chừng ấy, anh phải phân ra để đốt và bảo đảm quả mìn đầu tiên không nổ trước khi anh chạy vào chỗ nấp đã chuẩn bị sẵn.  Có trường hợp anh tù bị nổ banh thây trước khi chạy tới chỗ nấp vì chia dây cháy chậm không hợp lý.
4. Khâu dọn đá: Sau khi nổ mìn làm vỡ ra các tảng đá thật to, một nhóm tù sẽ lên vần cho rơi xuống bãi và dùng búa tạ 5 ký đập cho vỡ ra thành những tảng đá nhỏ bằng quả dưa.
5. Khâu vác đá: Sau khi đá được đập ra thành cỡ vừa phải, những anh tù vác đá chất thành đống hình chữ nhật để đo thành từng khối giao cho các xe tải của hợp tác xã.
Phần tôi, trong vai trò đội trưởng, có nhiệm vụ phân công cho anh em và theo dõi quan sát, đốc thúc anh em làm việc, cũng như cố gắng đừng để tai nạn xảy ra. Chính tôi là người quyết định giờ cho nổ mìn, nên trước đó tôi và anh đội phó ra đường cái gần bên báo hiệu cho xe cộ và người đi bộ. Mỗi ngày chúng tôi cho nổ mìn buổi chiều trước khi các xe tải lấy đá và chừng một tiếng đồng hồ trước khi thu quân. Sau khi nổ mìn xong, toán dọn đá phải lên lăn những tảng đá to xuống để sáng ngày đội có việc làm.  Trong thời gian tôi làm đội trưởng, mọi việc diễn tiến tốt đẹp, không xảy ra một ai nạn nào. Chỉ có một lần duy nhất bị trục trặc và gây ra sự cãi vã gay gắt giữa cán bộ quản giáo và tôi.
Chiều hôm ấy, chúng tôi châm 10 lỗ mìn, nhưng chỉ nổ 9 tiếng và một quả bị lép. Đây là điều chúng tôi e ngại nhất, vì quả mìn lép có thể sẽ thúi luôn, hoặc có thể nổ lại bất cứ lúc nào, nhất là khi có sự chuyển động gần đó. Sau khi mìn nổ một lúc, cán bộ bảo tôi cho toán dọn đá lên. Tôi trả lời là còn một quả chưa nổ, nếu đội lên lúc này rất nguy hiểm, hẳn đợi lúc nữa.
Khoảng chừng 15 phút sau, cán bộ quản giáo lại giục tôi cho đội lên dọn đá, tôi cũng nói chưa an toàn, vả lại chỉ còn nửa giờ nữa là thu quân nên tôi xin cho đội ngồi nghỉ sáng mai hãy dọn đá. Cán bộ không nghe, cho là tôi muốn chống đối, anh nói rằng làm như thế đội sẽ không đạt được mức khoán của ban giám thị.
 
Tôi trả lời đây là sự trục trặc ngoài ý muốn, không phải vì đội lười biếng hoặc chống đối lao động. Mấy anh tù trong đội xanh mặt ngồi theo dõi cuộc cãi vã. Cuối cùng, cán bộ dọa sẽ đưa tôi lên ban giám thị, cho là tôi cãi lệnh cán bộ và có ý chống đối lao động. Dọa nạt tôi xong, anh ta trực tiếp ra lệnh cho đội lên dọn đá. Trong khi các anh tù còn đang do dự chưa biết nghe ai, tôi tới bên cán bộ nói thật bình tĩnh:
 
   - Báo cáo cán bộ, trước khi cán bộ trực tiếp ra lệnh cho đội, xin hãy cách chức đội trưởng của tôi. Nếu không tôi vẫn không đồng ý cho đội lên núi.
    Trong khi anh ta ngần ngừ và giận tím gan, nhưng không biết trả lời sao thì tôi nói thêm:
   - Nếu đội lên mà quả mìn lép phát nổ làm chết người, ai chịu trách nhiệm?
     Trong khi anh cán bộ trẻ tuổi nhưng rất hung hăng này định phản công, tôi đành phải chưng “kinh thánh” của họ ra, tôi nói tiếp:
   -Tôi còn nhớ bác Hồ có nói ‘Con người vốn quý’. Trong trường hợp này mạng sống con người phải quý hơn chỉ tiêu làm đá. Nếu cán bộ cho câu nói của bác Hồ là sai thì xin ký tên vào đây, rồi tôi cho đội lên!
Nói xong, tôi đưa cuốn sổ ghi công của đội và cây bút. Nhưng anh đã bỏ đi. Tôi cho đội ngồi nghỉ cho tới giờ thâu quân. Trong thời gian làm đội trưởng, tôi tìm hết cách để bảo vệ anh em trong đội, vì tôi nghĩ nếu tù mà không thương tù thì đợi ai vào đây thương mình?
 
Biểu lộ tình người
Đi lao động một thời gian, tôi bị một trận kiết lỵ thập tử nhất sinh. Cũng may có thuốc anh em vô Nam để lại nên tôi qua khỏi nhưng còn yếu chưa có thể theo đội đi lao động. Lúc đó cha Hiểu là đội phó thay tôi coi đội, còn tôi nghỉ ở nhà lo giúp anh trực sinh buồng làm vệ sinh khu vực chung quanh. Một buổi sáng rảnh rỗi, tôi ngồi trong nhà ăn, đọc tác phẩm “Chiến tranh và Hòa Bình” của Léon Tolstoi. Bộ sách giá trị này của một người bạn vô Nam để lại cho tôi.
Trong khi đang đọc thì Trung úy T., Sĩ quan an ninh của trại bước vào. Sẵn có óc cầu tiến và thích tìm hiểu, anh ta ngồi xuống với tôi và nói về tác phẩm này vì anh cũng đã đọc qua. Sau đó chúng tôi bàn về những tác phẩm hay mà anh ta đã đọc hoặc muốn đọc. Phần nhiều những sách anh nói tới, tôi đều đọc qua và chúng tôi bàn với nhau về chuyện văn chương rất tương đắc. Điều tôi nhận xét đầu tiên về người cán bộ này là anh thích văn chương, đọc sách nhiều, thích tìm hiểu nhưng chưa “tiêu hóa” được, đúng hơn là anh không đủ trình độ tiêu hóa những tư tưởng trong các tác phẩm anh đã đọc.
Sau lần nói chuyện, thỉnh thoảng anh lại vào chỗ tôi chơi và câu chuyện thường là xoay quanh những vấn đề trong một vài quyển sách mà anh đọc. Chúng tôi cùng bàn với nhau rất tương đắc. Anh đọc khá nhiều loại sách của các tác giả Tây phương và cả Tam Quốc Chí, Thủy Hử và nhiều sách khác nữa.
Thời gian sau, tôi khỏe lại và theo đội ra ngoài lao động nên ít khi gặp lại người cán bộ an ninh thích tìm hiểu về sách vở này. Một hôm, anh gọi tôi lên làm việc. Cũng nên biết qua, cán bộ an ninh trong trại quyền hạn rất lớn và khi gọi ai đi  “làm việc” thì hiểu là người đó không phải đi lao động. Sau khi xuất trại lao động xong, anh cho một cán bộ vào đưa tôi ra văn phòng của anh, nằm khá xa bên ngoài cổng trại.
Khi tôi bước vào, anh đón tôi bằng một nụ cười, mặc dù đó không phải là nụ cười hoàn toàn thân ái, nhưng cũng không phải là nụ cười giả tạo. Phải nói là nụ cười của hai người đã có những lần nói chuyện với nhau về một vấn đề không nằm trong phạm vi giữa cán bộ và tù nhân, đó là vấn đề văn chương. Hôm đó, anh mặc quần màu vàng của công an, áo sơ mi trắng ngắn tay. Phòng làm việc này khá nhỏ và đơn sơ, chỉ có một tủ nhỏ có lẽ chứa hồ sơ, một cái bàn nhỏ bên trên có bộ chén trà và bao thuốc lá thơm. Bên cạnh bao thuốc lá có một bìa đựng hồ sơ mà tôi đoán là hồ sơ của tôi.
Từ khi về lại trại Nam Hà tới giờ đã 5 tháng, nhưng tôi chưa bao giờ được gọi đi làm việc. Thật ra, cũng chẳng còn gì để mà họ khai thác. Những gì đã xảy ra trong 13 năm qua, họ đã biết quá rõ về tôi. Vả lại lúc này gần như tất cả những người tù miền Nam đã được về hết rồi, còn khai thác gì nơi tôi nữa. Nghĩ như vậy nên tôi rất bình thản, và nhất là tôi đã nhiều lần tiếp xúc với người cán bộ an ninh của trại này rồi. Sau khi pha trà và mời thuốc tôi một cách khá thân mật, anh ta nhẹ nhàng bảo tôi là những lần trước nói chuyện với tôi, anh thấy rất thích và hôm nay muốn để tôi ở nhà để nói chuyện tiếp.
Lối mở đầu câu chuyện của anh làm bầu khí giữa hai người trở nên nhẹ nhàng và tự nhiên. Chúng tôi ngồi uống trà nói chuyện. Phần đầu câu chuyện liên quan tới sách vở, sau đó bàn qua về các trào lưu tư tưởng Âu Châu. Anh hỏi tôi về ngày tàn của đế quốc La Mã, về cuộc cách mạng Pháp năm 1789, những điều này anh có đọc nhưng không hiểu hết. Sau một lúc nói chuyện rất tự nhiên, anh hạ giọng hỏi tôi:
   - Anh Lễ, một phần nào anh đã hiểu tôi, vậy tôi muốn nghe anh nói thật ý nghĩ của mình. Anh nghĩ thế nào về chủ nghĩa cộng sản?
Câu hỏi này của người Sĩ quan an ninh của trại làm tôi hơi đắn đo. Chưa bao giờ tôi gặp trường hợp như vậy cả. Anh ta nói đúng, một phần nào tôi đã hiểu được tư tưởng của người cán bộ có cái nhìn phóng khoáng này. Suy nghĩ một lúc, tôi nói rất thân ái:
   - Ông T. à, tôi không nghĩ là ông thăm dò tư tưởng tôi.
    Anh ta cười nhẹ, một cái cười có vẽ khổ tâm vì người đối thoại chưa tin nơi sự thành thật của mình, trong khi đã giãi bày cặn kẽ. Anh trả lời:
   - Anh Lễ, tôi đã đọc hồ sơ anh thật kỹ, và chính cũng vì hiểu anh nên tôi mời anh lên để nói chuyện riêng tư. Tôi còn phải thăm dò anh làm gì nữa.
Nói xong, anh ta lật bề kia của bìa đựng hồ sơ của tôi, cho tôi thấy hàng chữ nằm ngang:“Thành phần không thể cải tạo được”, đóng bằng nét mực đen. Đó là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy cái bìa hồ sơ cá nhân của tôi. Tôi buồn bã đáp lời:
   - Ông T. à! Ông hỏi thì tôi phải nói, cho dù sau đó ông có cùm tôi, tôi cũng vẫn nói.
    Tôi dừng lại một chập rồi nói tiếp:
   - Mà nói cho cùng, tôi đã quen với cảnh bị cùm rồi, còn gì phải sợ nữa! Tôi nói thật lòng, tôi vẫn nghĩ là chế độ cộng sản không thể tồn tại được ông ạ!
    Nói xong, tôi nhìn cán bộ T.. Anh ngồi yên, gật đầu nhè nhẹ và hỏi:
   - Anh căn cứ vào đâu mà nghĩ như thế?
   - Câu hỏi của ông quá rộng, tôi không thể kể hết nguyên nhân. Nhưng chỉ nguyên một việc chủ nghĩa cộng-sản chủ trương đi ngược lại với  bản chất tự nhiên của con người là nhu cầu chiếm hữu cũng đủ nói lên điều tôi khẳng định. Quyền tư hữu là một quyền căn bản thiết thân của con người, nó đi liền với bản năng của con người. Ai cố gắng tước bỏ điều đó là chống lại với khuynh hướng tự nhiên, mà hễ điều gì đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên thì không thể nào tồn tại được. Thực tế, quyền tư hữu con người có bị tước đoạt được hay không, ông là một đảng viên, ông hiểu rõ hơn tôi!
    Anh ta ngồi trầm ngâm sau câu trả lời khá dài của tôi. Một lúc sau anh ta nói, nói thật nhỏ chỉ vừa đủ hai người nghe:
   - Anh Lễ, anh hãy giữ suy nghĩ ấy trong lòng và đừng nói ra, không có lợi. Tôi cũng có suy nghĩ như anh. Nhưng anh biết hoàn cảnh tôi, tôi sinh ra và lớn lên trong chế độ. Anh Lễ, tôi quý anh, nên tôi thành thật khuyên anh là khi nào được về anh hãy tìm cách ra khỏi nước mà sống. Phần tôi, không làm gì khác hơn được. Vả lại, còn miếng cơm manh áo của gia đình vợ con tôi nữa!
Nghe anh nói, tôi rất cảm động. Vô tình tôi định cầm lấy bàn tay anh, nhưng chợt nhớ lại dù sao cũng còn bức tường ngăn cách giữa hai người mà lúc này chưa có thể vượt qua được, nên tôi dừng tay lại. Trong thâm tâm, tôi quý mến người cán bộ này hết sức và thương cho hoàn cảnh của anh. Từ đó, chúng tôi rất quý nhau. Bên ngoài chúng tôi bị hoàn cảnh ngăn cách nhưng bên trong chúng tôi đã coi nhau như bạn. Đúng hơn, anh ta coi tôi như một người anh.
 
Cộng đoàn tình thương
Trong thời gian này nhóm “Cộng đoàn tình thương” chúng tôi đang trên đà phát triển mạnh. Những anh tù tôi vừa Rửa tội xong đã trở nên những chiến sĩ đức tin rất nhiệt thành. Qua việc thực tập cuộc sống chia sẻ trong tù, các anh thấy có một lý tưởng để sống vì đây là một kinh nghiệm lạ lùng. Đối với các anh em đó, làm gì có cuộc sống chia sẻ trong môi trường chỉ biết có bắt nạt, lừa đảo, tranh giành, chém giết nhau vì miếng ăn như trong nhà tù này. Các anh em đã tìm thấy được niềm vui trong khi thực hiện các lời trong bài hát “Kinh Hòa Bình” của Thánh Phanxicô Assisiô mà tôi tập cho anh em hát. Cả những anh Trung Quốc cũng hát tiếng Việt, nhưng tôi dịch nghĩa sang tiếng Tàu cho họ: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.”
Đây là lúc tôi nhận thấy rõ rệt nhất những hoạt động của chức vụ Linh mục đạt được nhiều kết quả và Chúa đã làm nên những điều kỳ diệu đối với đám tù nhân khốn khổ của chúng tôi. Càng ngày tôi càng thấy yêu thích cuộc sống của tôi lúc bấy giờ. Một cuộc sống rất hạnh phúc mà trước kia lòng ước vọng tự do thúc đẩy quá mãnh liệt đã che lấp không cho tôi nhận ra đâu là ý Chúa muốn tôi phải làm.
Có những đêm tôi dạy giáo lý cho một số anh em, kể chuyện Kinh Thánh cho một số khác. Anh em vui vẻ, ngồi lắng tai nghe. Có nhiều người cảm động nói từ trước tới nay chưa bao giờ được nghe những lời như thế. Từ lâu nay, cứ tưởng Công Giáo là một cái gì ghê gớm và độc ác và nhơ bẩn như được diễn tả trong phim “Ngày Lễ Thánh” được nhà nước cho chiếu khắp nơi, hoặc trong cuốn sách “Gia-Tô Tây Dương Bí Lục” mà đảng cộng-sản phổ biến rộng rãi để nói về “nguồn gốc” và cách hành đạo của Thiên Chúa Giáo! Có những anh thành thật nói, nếu con không gặp cha làm gì con hiểu được con người phải có tình thương và sự tha thứ! Những nhận xét đơn sơ của các anh tù đó đã an ủi tôi và tôi cám ơn Chúa đã cho tôi được sống trong hoàn cảnh này. Điều làm tôi mừng và cảm thấy hạnh phúc là Chúa đã gọi tôi làm chứng nhân cho tình yêu Chúa ngay trong môi trường đầy hận thù này.
Lúc đó, có một số giáo dân ở xứ Bắc Hải trong Nam quyên góp gửi quà cho các Linh mục. Bây giờ tất cả được về, họ vẫn tiếp tục gửi quà cho tôi. Mỗi lần nhận được quà, tôi dành một phần, giao cho anh em trong nhóm “Tình thương” phân phát, bắt đầu từ những anh em túng thiếu nhất. Nói về phần nhân loại thì thực sự lúc đó tôi đang sống trong ngục tù, nhưng về phần tinh thần thì tôi phải nói thẳng là chưa bao giờ tôi thấy hiệu quả trong chức vụ Linh mục như lúc bấy giờ. Khi tôi ý thức và chọn con đường làm Linh mục lúc 20 tuổi là chính vì lý tưởng phục vụ tha nhân, và lúc này tôi đang được sống trọn vẹn cho lý tưởng mà tôi đã chọn.
Tôi vẫn biết không có gì là bền vững trong nhà tù. Di chuyển và thay đổi là chuyện thường xảy ra. Dù vậy, tôi vẫn mong cuộc sống như hiện tại kéo dài, vì tôi coi đây là chỗ mà tôi phải sống. Nếu ý Chúa muốn tôi phải chết ở đây, trong khi tôi đang thi hành chức vụ Linh mục như thế này, thì cũng là điều tôi mong muốn.
Về phía cán bộ, dần dần tôi không còn thấy họ là những con người đáng sợ và xa lạ nữa. Ngược lại, họ cũng chỉ là những người vì hoàn cảnh, vì cuộc sống mà khép mình vào một khuôn khổ, mà chính họ cũng không thấy thoải mái trong khuôn khổ này. Nếu những năm đầu, một số cán bộ đã hành sử quyền hạn thái quá làm cho tôi đôi lúc có ý tưởng ghét bỏ con người, thì giờ đây, sau hơn chục năm giao tiếp, tôi thấy các cán bộ là những người đáng thương hơn là đáng trách.
Có đáng trách chăng là một thể chế chính trị, chỉ biết phục vụ cho quyền lợi của đảng mà đã trói buộc cả một dân tộc vào trong guồng máy đó. Cơ chế đảng cộng sản như một con quái vật do con người sanh đẻ ra nó, nhưng khi sanh nó ra rồi, thì không cách gì có thể kềm chế được sự hung hãn của nó. Nó quay ra ăn thịt bất cứ ai, ngay cả người sanh đẻ ra nó.
Đối với tôi, điều quan trọng không phải là chúng ta tiêu diệt con người, ngay cả những con người đang phục vụ trong chế độ cộng sản. Điều chúng ta phải làm là bằng mọi cách loại bỏ cơ cấu chính quyền vô nhân được xây dựng trên một ý thức hệ ngoại lai lỗi thời. Chính ý thức hệ đó đã làm tan nát tình dân tộc của chúng ta. Ngay chính những người đang phục vụ đảng, cũng có người biết là họ đang đi sai con đường, nhưng khi đã dính chân vào tròng, họ không còn đường trở lui.
Trừ ra những kẻ chủ trương duy trì cơ cấu đảng để trục lợi, để đè đầu cỡi cổ dân tộc, để hối lộ, tham nhũng, vơ vét tài nguyên đất nước, những kẻ đó là tội đồ của dân tộc. Trong khi đó, đa số cán bộ ở cấp thấp là nạn nhân hơn là tội phạm. Tư tưởng này đã làm tôi thoải mái trong cuộc sống lúc bấy giờ và tôi nhìn tất cả đều là những người anh em. Cho dù là họ có thể không chấp nhận tôi, nhưng tôi vẫn nhận họ là những người anh em với tôi trong đại gia đình dân tộc.
Cũng trong thời gian này lại có một hiện tượng lạ xảy ra trong trại. Lúc đó, một anh Trung Quốc trong số con cái tôi tên Trịnh Minh Hoa, nguyên trước kia là một y sĩ bên Tàu, tự nhiên anh nổi tiếng về việc chẩn bệnh. Anh bắt mạch và đoán đúng những chứng bệnh mà không ai tìm ra. Các bệnh nhân sau đó đi bệnh viện kiểm chứng, các bác sĩ cũng nói y như vậy. Anh dùng cách bắt mạch, coi mắt, coi lưỡi và các móng tay của bệnh nhân và nói thật chính xác người đó mắc chứng bệnh gì. Bệnh nhân mua thuốc uống thì khỏi.
Tin lành đồn xa. Bắt đầu có nhiều cán bộ và gia đình họ vào nhờ anh Minh Hoa xem mạch bốc thuốc. Lúc đầu chỉ trong phạm vi trại Nam Hà, về sau này có những người từ các nơi xa cũng tới tìm anh. Anh Minh Hoa lại không nói được tiếng Việt nên tôi đóng vai trò người thông dịch. Lúc này Trung úy T. cũng có ý muốn nhờ tôi dạy Anh văn, nên nhân cơ hội tôi lo thông dịch giúp tiếng Quan Thoại, anh xin với cán bộ quản giáo cho tôi khỏi đi lao động. Từ đó tôi giao đội lại cho đội phó và ở nhà dạy tiếng Anh vào các buổi chiều cho Trung úy T.
Thời gian đó, Trung úy T. thường hay vào chỗ tôi chơi vào các giờ ban sáng. Thường là tôi pha chè (nước trà) mời và chúng tôi cùng ngồi uống chè bàn việc học Anh văn. Anh rất thích học nhưng vì thiếu căn bản nên không tiến bộ nhiều, nhất là việc luyện giọng buổi ban đầu rất khó khăn. Trung úy T. lúc đó quảng 35 tuổi, khổ người rắn chắc, da trắng, mắt hơi nâu và có nhiều râu như người lai Tây. Anh là người hay nói cười, tánh tình cởi mở, phóng khoáng. Gia đình anh ở Hà Nội, vợ là cô giáo và có một cháu gái 4 tuổi, đang ở với mẹ. Thỉnh thoảng anh đưa cháu xuống trại chơi vài hôm. Cháu rất xinh trong bộ đồ đầm màu trắng. Sự quan hệ giữa chúng tôi càng ngày càng mật thiết qua các lớp học tiếng Anh này.
Có những cán bộ làm việc lâu trong trại đã khá thân thiện với những người tù miền Nam ở đây trước tôi, trong đó có Trung úy Lực là cán bộ trực trại. Anh quen biết tôi nhiều trong thời gian tôi hay qua lại buồng 9 của các tướng lãnh trước kia. Thời gian đó, anh hay vào buồng ngồi đánh cờ tướng. Ngoài ra, người nữ cán bộ tài vụ mà tôi gặp ngay từ ngày đầu, sau này tôi biết tên là KT, thỉnh thoảng cũng vào chỗ tôi chơi. Nhất là sau ngày cô đi Nam trong dịp chuyển tù về trại Hàm Tân. Sự đi lại và tiếp xúc đó dần dần tạo nên sự cảm thông giữa người với người. Lúc đó, điều tôi nhận thấy rõ rệt là khoảng cách lằn ranh do ý thức hệ tạo ra càng lúc càng thu hẹp lại và lu mờ dần. Điều này càng củng cố lý luận của tôi, chỉ vì một chủ nghĩa ngoại lai mà dân tộc Việt Nam chúng tôi bị phân rẽ và nhìn nhau như kẻ thù. Trong thực tế, dân tộc chúng tôi là một, chẳng có vì lý do gì phải chia rẽ, hận thù hoặc chém giết nhau.
Tư tưởng này ám ảnh tôi từ những ngày tôi mới bị bắt vào tù qua các câu chuyện tôi không sao quên được. Khi đó, tôi đang ở trại Gia Ray, tỉnh Long Khánh. Hàng ngày, đội chúng tôi đi lao động khai hoang dọn đất chung quanh trại cho những đội trồng trọt canh tác. Thường thì chúng tôi lao động không xa khu vực nhà khách, tức là chỗ để thân nhân tù nhân lên thăm gặp. Như thế mặc dù không được tiếp xúc nhưng người nhà có thể thấy chúng tôi đang cuốc đất khai hoang gần bên.
Có một lần, tôi không nhớ vì chuyện gì mà một anh cán bộ võ trang rất trẻ, chừng 18 tuổi, tập trung cả đội lại đứng dọc theo vách sau nhà khách và chửi mắng chúng tôi thậm tệ trước mặt bao nhiêu thân nhân của tù đang đứng chờ trong nhà khách. Khi chửi, có lúc cao hứng anh gọi chúng tôi là “những con rận sống trong cạp quần của đàn bà! Cách mạng không bắn các anh vì sợ tốn một viên đạn của nhân dân!” Chúng tôi đứng yên trong hàng và cúi đầu nghe anh ta chửi, trong khi đó tôi thấy một số các bà các cô đứng trong nhà khách gần đó đưa tay gạt nước mắt.
 
Lúc đứng trong hàng, lòng tôi vô cùng đau xót vì thương anh cán bộ còn trẻ này được huấn huyện để chửi những con người đáng tuổi cha chú mình. Tôi chợt nghĩ nếu tôi có con thì anh ta đáng tuổi con trai lớn của tôi, và nếu anh ta sanh ra trong xứ đạo tôi có thể anh là một trong những học trò giúp lễ của tôi! Bỗng dưng tôi thương anh hết sức, và qua anh, tôi thương cho một thế hệ trẻ Việt Nam sanh ra và lớn lên trong chiến tranh tương tàn đã hành sử theo cái nhìn của những con người vì một chủ nghĩa ngoại lai mà quên đi tất cả tình dân tộc.  Anh đang phục vụ cho một thể chế chính trị đang chiến thắng, nhưng anh đâu có hiểu rằng thể chế nào rồi cũng sẽ qua đi, chỉ có dân tộc là trường tồn.
 
Cánh hoa đồng nội
Lúc này, tôi thường có dịp tiếp xúc với cô KT, người cán bộ tài vụ.  Sau chuyến vô miền Nam, cô có nhiều chuyện để nói với tôi. Tôi phải nhận là chuyến vào Nam lần đầu tiên đó đã làm cô thích thú. Cô đã thay đổi cái nhìn và lối suy nghĩ  rất nhiều. Một hôm, cô vào trại tìm tôi có việc liên quan tới tài chánh, sau đó cô hỏi trong Nam tôi ở tỉnh nào. Tôi nói ở Vĩnh Long, thuộc miền đồng bằng sông Cửu Long. Tôi kể với cô sơ qua về phong cảnh và sự trù phú của miền Tây. Cô rất chăm chú nghe nhưng có vẻ không hiểu lắm vì chuyến đi Nam vừa rồi của cô ít giờ quá, không có dịp đi thăm nhiều nơi, và nhất là không quen ai trong Nam. Cô vui vẻ hỏi tôi:
   - Anh ở Vĩnh Long nhưng có biết nhiều về thành phố Hồ Chí Minh không?
    Tôi bị dị ứng khi nghe ai gọi Sài Gòn bằng cái tên chính trị của nó. Mặc dù cô gọi tên đó một cách rất tự nhiên, tôi trả lời:
   - Cái thành phố mà cô vừa hỏi thì tôi không biết, nhưng tôi biết Sài Gòn rất rõ vì tôi học ở đó 7 năm.
Người nữ cán bộ tỏ ra bất ngờ trước câu trả lời của tôi. Cô nhìn tôi bằng đôi mắt mở to dưới hàng mi cong, nhưng liền đó cô tỏ ra nhạy cảm với tâm trạng tôi nên yên lặng, mỉm cười:
   - Anh Lễ này! Sao mà anh “gớm” thế? Thôi, đừng để những việc đó làm chúng ta mất vui. Tôi chẳng có ý gì đâu, tôi chỉ muốn nghe anh nói thêm về thành phố Hồ...thành phố Sài Gòn, mà phải nói là tôi rất thích trong lần vào đó. Lần đó, có mấy anh ở đây nhờ tôi tới thăm gia đình. Người nhà tiếp tôi nồng hậu lắm anh ạ. Tôi được tặng nhiều quà lắm. Lúc trở ra, cháu trai rất thích vì mẹ mang về nhiều đồ chơi.
Nói xong nàng nở nụ cười thật hồn nhiên của một cô gái quê Việt Nam thuần túy. Sau đó, nàng nói qua các nơi nàng đã có dịp ghé như Thủ Đức, Nhà Bè v.v... Những đêm ở Sài Gòn, cô ở và làm việc tại An Ninh Nội Chính, và hỏi tôi có biết nơi đó không. Tôi nói đã bị giam ở đó khi vừa bị bắt và tôi có bà cô ở đối diện bên kia đường.
Từ đó, KT hay vào thăm tôi vào buổi sáng trong giờ cả trại đi lao động, vì cô biết tôi bận lớp Anh văn ban chiều. Khi vào, trên tay nàng lúc nào cũng có quyển sổ tài chánh, nhưng có rất nhiều lần cuốn sổ ấy không được dùng vào việc gì. Những lần vào chơi, cô thích kể chuyện về chuyến đi Nam cho tôi nghe, nói là cho tôi đỡ nhớ nhà! Giọng nói rất nhẹ nhàng, dí dỏm, phù hợp với vóc dáng mảnh mai của nàng.
Lúc nào KT cũng mang tính cách đơn sơ và e lệ của một cô gái mới lớn, điều này trái ngược với tuổi đời trên dưới ba mươi của nàng. Mái tóc dài che phủ bờ vai. Về sau này, mái tóc được quấn ngược lên cao, vì buổi trưa hè hôm ấy, KT vào thăm và tôi khen quấn như thế đẹp. Cũng không mấy khi thấy nàng mặc sắc phục, vì có lần nàng mặc sắc phục, lúc vui miệng tôi nói:
   - Không hiểu tại sao, khi thấy cô mặc sắc phục công an tôi sợ lắm.
    Nàng làm ra vẻ nghiêm trang, hỏi tôi:
   - Tại sao anh lại sợ?
   - Tôi cũng chẳng biết tại sao! Có lẽ tại máu tôi không hợp với màu sắc này!
    KT không nói gì, yên lặng trong giây lát và nhìn tôi tỏ vẻ cảm thông vì nàng đã biết lịch sử đau thương của cuộc đời tù tội của tôi. Lúc sau nàng hỏi:
   - Anh Lễ này, nghe nói lúc ở trại Thanh Cẩm anh trốn trại và bị hành hạ kinh lắm phải không? Anh ở trại đó bao lâu nhỉ?
   - Vâng, lần đó tôi bị đánh nhiều và bị cùm 3 năm!
   - Kinh thế! Anh ở trại đó trong bao lâu?
   - Đúng mười năm cô ạ, từ 1978 tới 1988. Khi mới từ Nam ra năm 1977, tôi vào trại Nam Hà này. Sau đó, chuyển lên “Cổng Trời” mất một năm. Chừng chiến tranh biên giới xảy ra, tôi được đưa về Thanh Cẩm 1978, rồi lại về đây! Lúc tôi ở đây lần đầu, ông Thịnh mới là Thượng sĩ trực trại. Bây giờ gặp lại, ông ta đã là Thượng úy rồi. Cô KT này, mười một năm về trước, khi tôi ở trại này, lúc bấy giờ cô làm gì và ở đâu?
   - Năm đó tôi chưa vào ngành, còn ở nhà quê tại Vũ Lễ, Thái Bình.
Cô nói tiếp giọng nói thật buồn:
   - Anh Lễ, sau thời gian tiếp xúc với các anh miền Nam và nhất là sau chuyến đi này, tôi đã hiểu được các anh nhiều hơn. Sau khi có dịp nói chuyện nhiều với anh, tôi thật kính phục những con người như anh.
Đã từ lâu, tôi nhận thấy tình cảm đặc biệt của nàng đối với tôi qua cử chỉ, thái độ và cách nói năng. Càng ngày, tôi càng hiểu điều đó qua ánh mắt, nụ cười trong các câu chuyện nàng kể, nhất là qua sự ân cần giúp đỡ tôi trong các việc liên quan tới phần vụ của nàng, mặc dù trong tư thế quá khác biệt. KT là một cán bộ và đã có chồng con, nàng có một đứa con trai độ 6 tuổi. Còn tôi là một tù nhân, lại là một Linh mục và là kẻ đã gây ra quá nhiều sóng gió trong trại. Nhưng các thứ đó hình như không là trở ngại đối với tình cảm dạt dào của nàng.
Khoảng đầu tháng 6 năm 1988, lại có biến chuyển khác. Tất cả những người tù Trung Quốc được chuyển hết đi nơi khác. Tôi rất buồn khi phải chia tay với họ. Tôi đã ở chung và chia sẻ bao nhiêu đau khổ với họ trong những năm ở nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm. Những người tù ngoại quốc này thường sống dựa vào sự giúp đỡ tinh thần và vật chất của chúng tôi. Ngược lại, họ đã giúp tôi học và nói thông thạo tiếng Quan Thoại.
Tất cả những người Trung Quốc này đã bị giam 16 năm rồi. Về trại này, tôi đã Rửa tội cho 5 người và tôi coi họ như những người con tinh thần của tôi. Tôi đã giúp họ tìm thấy niềm vui trong cuộc đời khổ ải qua các việc bác ái trong nhóm “Cộng đoàn tình thương”. Trước đó, tôi cũng thường nói với họ, cuộc sống trong nhà tù thay đổi lúc nào không hay, tôi muốn gửi nơi anh em đức tin mà anh em đã lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội. Sau này, hãy mang đức tin đó gieo rắc nơi nào các anh em sẽ tới, nhất là có dịp mang về quê hương Trung Quốc của anh em. Việc ra đi của nhóm tù Trung Quốc làm tôi u sầu trong một thời gian rất lâu. Từ đó về sau, tôi không còn bao giờ nghe biết gì về họ nữa!
Sau khi nhóm tù Trung Quốc chuyển đi rồi, tôi cảm thấy rất trống vắng. Tôi vẫn ở nhà dạy tiếng Anh cho Trung úy T. Những buổi sáng rảnh rỗi, tôi thường giúp anh trực sinh buồng lo quét dọn vệ sinh, lấy nước sôi cho buồng, sau đó ngồi trong nhà ăn soạn bài vở cho giờ lớp ban chiều. Thường thì chỉ có mình Trung úy T. học, nhưng có mấy lần vài cán bộ khác cũng vào dự thính lớp tiếng Anh của tôi. Lúc bấy giờ đã cuối chầu, trại Nam Hà sao thật buồn tẻ. Số tù hình sự đông hơn tù chính trị miền Bắc.
 
Cuối chặng đường
Một buổi sáng giữa tháng 7 năm 1988, Trung Úy T. vào thăm tôi. Hồi này trình độ tiếng Anh của anh đã tương đối khá nên mỗi khi anh vào, chúng tôi tập chào nhau bằng tiếng Anh và đàm thoại vài câu ngắn và dễ. Anh tỏ ra rất thích thú khi bặp bẹ được vài câu tiếng Anh trong khi tất cả mọi cán bộ khác chẳng ai biết chút gì. Anh rất siêng học, chỗ nào không hiểu thường mang vào hỏi tôi và tỏ ra rất hứng thú khi có dịp thực tập với tôi.
Khác hơn mọi lần, sáng hôm đó, vừa ngồi với tôi một lúc, anh đứng lên từ giã, nói là đang chuẩn bị đi phép một thời gian và chúc tôi ở lại mạnh giỏi. Anh cũng không nhắc gì tới việc học tiếng Anh đang dở dang. Khi tôi nhắc việc này, anh yên lặng một lúc rồi nói cứ tạm thời nghỉ, khi anh về hẵng hay. Nhưng sau đó anh nói tiếp, nếu vì lý do gì không gặp lại thì tôi hãy nhớ lời anh dặn. Tôi hơi ngạc nhiên vì thấy có cái gì hơi khác trong lối nói của anh. Nếu chỉ đi phép vài ngày như những lần trước thì sao anh lại dặn dò tôi như thế. Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
   - Ông T., ông nói gì vậy? Bộ ông chuyển đi nơi khác à?
    Anh ta đáp tự nhiên:
   - Không hẳn đâu anh ạ! Nhưng làm sao biết được chuyện ngày mai!
    Nói xong anh đứng lên và nhìn tôi mỉm cười. Tôi nói tiếp:
  - Cho tôi gửi lời thăm gia đình ông, thăm cháu bé và cô.
    Anh ta gật đầu:
   - Cám ơn anh Lễ. Anh ở lại mạnh giỏi, tôi đi đây.
Nói xong, anh bước ra cửa khá nhanh, tôi theo sau tiễn chân. Trước khi khuất dạng vào hành lang dẫn ra sân trại, anh còn quay lại nhìn tôi mỉm cười và đưa bàn tay trái lên làm dấu hiệu từ giã rất nhẹ nhàng.
 
Khi cán bộ T. đi rồi, tôi quay vào buồng, vừa đi vừa thắc mắc về lối chào tạm biệt của anh. Những lần trước, khi về Hà Nội hoặc đi phép vài ngày anh cũng vào chào từ giã tôi và nói nghỉ học một vài hôm. Nhưng cách nói úp mở hôm nay của anh làm tôi đoán anh sẽ chuyển đi nơi khác. Ý nghĩ này làm tôi chợt buồn, rất buồn. Thì ra tôi quý mến người cán bộ này sâu đậm hơn là tôi tưởng! Nếu thực sự anh đi nơi khác thì tôi mất một người bạn quá tốt trong hoàn cảnh đặc biệt này. Tôi đã mất các anh em Linh mục, tôi đã mất những người bạn trong đợt chuyển vào Nam, tôi vừa mất những anh Trung Quốc mà tôi coi là con tinh thần của tôi, bây giờ nếu tôi mất Trung úy T. nữa, chắc chắn là tôi sẽ rất buồn. Tôi thầm cầu mong cho việc đó đừng xảy ra.
Trở vào nhà ăn, tôi ngồi xuống ghế vì cảm thấy hơi choáng váng khó chịu trong người. Quyển vở tôi soạn bài Anh văn chiều nay đang nằm trên mặt bàn. Tôi với tay gấp lại vì chiều nay không có lớp. Tôi ngồi thừ ra một hồi lâu và ôn lại kỷ niệm về người cán bộ an ninh mà tôi quý mến. Tôi hồi tưởng lại từ lần đầu gặp gỡ tới những ngày tháng chúng tôi gặp nhau trong lớp tiếng Anh. Tôi vẫn nhớ lời anh thường nói:“Anh Lễ, tôi cám ơn anh đã giúp tôi biết về tiếng Anh.”
Thời gian trước đó trong trại lại kháo láo nguồn tin,“sắp có đợt tha”! Cá nhân tôi chẳng mong được về và cũng chẳng để ý tới những diễn biến có dấu chỉ sẽ được phóng thích. Lần đầu tiên tôi nghe nói tới vấn đề này khi được thư của người bạn gửi vào cho biết đang có cuộc thương thuyết Mỹ-Việt. Phía Hoa Kỳ đại diện bởi Tướng hồi hưu John Vessey, đặc phái viên của Tổng thống Reagan, bàn về vấn đề bình thường hóa ngoại giao giữa hai nước. Một trong các điều kiện phía Mỹ đưa ra là yêu cầu Chính phủ Việt Nam phải thả hết những lãnh đạo tôn giáo còn trong tù. Anh em cho biết là tôi có hy vọng được về nhờ yếu tố này.
Ngoài ra, một số người về trước, qua Mỹ, cũng đã nhờ Tổ chức Ân Xá Quốc Tế can thiệp giúp để tôi được phóng thích. Tôi nghe chỉ để mà nghe, chẳng mong mỏi và cũng chẳng hy vọng, nhất là tôi không coi đó là điều cần thiết nữa. Lúc đó, tôi đang bận tâm củng cố lại nhóm “Cộng đoàn tình thương”, sau khi số anh em Trung Quốc nhiệt tình đã ra đi. Nhóm tù chính trị miền Bắc cũng rất hăng say trong hoạt động của nhóm trong lúc này.
Bấy giờ lại có một dấu hiệu khác. Khoảng tháng 6 năm 1988, có phái đoàn y tế của bộ về làm việc trong trại. Khi phái đoàn y tế vào trại, tôi được gọi lên và hỏi qua về bệnh tình, về thời gian cải tạo. Có điều rất buồn cười là anh cán bộ y tế lại méo mó nghề nghiệp. Khi biết tôi là một Linh mục anh hỏi tôi nghĩ gì về vụ phong thánh cho 117 Thánh Tử Đạo sẽ diễn ra vào ngày 19 tháng 6. Lúc đó, vấn đề phong thánh đang gây tranh luận. Trong tù, có báo Nhân Dân và qua đó, tôi được biết Nhà nước Việt Nam phản đối vụ này ghê lắm. Tôi trả lời với ông ta:
   - Tôi ở trong này không có đầy đủ thông tin nên tôi không có ý kiến gì, nhưng tôi cũng xin trả lời. Với tư cách là người Việt Nam, thân xác tôi thuộc quyền Chính phủ Việt Nam, nhưng với tư cách là một Linh mục, linh hồn tôi thuộc về Tòa Thánh. Bất cứ điều gì Tòa Thánh quyết định, tôi vâng theo.
    Nghe tôi nói thế, anh ta không hỏi thêm nữa.
Khi tôi về buồng, các anh em tới thăm và cho biết, khi phái đoàn y tế vào trại gọi ai là người đó được về. Nghe xong tôi chỉ cười nói:“Chừng nào dê đực đẻ con tôi mới được về!” Trong tù không có tin gì làm mọi người háo hức và săn đón cho bằng tin có đợt phóng thích, vì thế mấy ngày nay cả trại cứ bàn tán xôn xao về tin này.
Khi cán bộ T. đi phép được một ngày thì anh văn hóa tên Quỳnh, người Hải Phòng, có biệt danh là “Quỳnh Ngựa” vì mặt anh dài, nói với tôi sau khi từ cơ quan trở về:“Tôi nghe nói anh có tên trong đợt tha lần này.”
Đó là lần đầu tiên sau 13 năm tôi được nghe nói tôi có thể được tha về. Nhưng khổ nỗi, tin này đến với tôi trong lúc tôi không còn mong đợi nữa, nếu không muốn nói là thất vọng khi nghe tin đó. Vì nếu có về đi nữa thì cũng chỉ là chuyển từ một nhà tù nhỏ sang một nhà tù lớn. Khi bước ra khỏi đây để trở về xã hội bên ngoài, chưa chắc gì tôi đã yên thân. Trong khi đó, tôi đã tìm được ý nghĩa đích thực của cuộc đời phục vụ trong nếp sống ở đây.
Sáng hôm sau, trại xuất quân lao động nhưng tôi vẫn được nghỉ vì chưa bình phục hẳn sau trận kiết lỵ và cán bộ y tế cho tôi nghỉ dưỡng bệnh một thời gian dài. Buổi sáng trong trại rất vắng lặng, thỉnh thoảng thấy trực sinh các buồng đi lại dọn dẹp hoặc lấy nước sôi. Trong lúc tôi đang giúp anh trực sinh buồng quét sân thì cô KT bước vào.
Hôm nay cô vào sớm hơn thường lệ, trên tay không cầm quyển sổ quen thuộc, chỉ có một tờ giấy trắng được cuộn tròn lại như ống tre. Mỗi lần cô vào chơi đều mang lại cho tôi niềm vui với nụ cười rất tự nhiên và cách nói chuyện thật duyên dáng của cô. Thấy cô bước vào sân, tôi dừng tay và tiến ra tới đầu hồi nhà ăn của đội gần bên cửa ra vào sân, tiếp chuyện:
   - Sao mấy hôm nay không thấy cô đâu cả?
    KT trả lời có vẻ kín đáo:
   - Mấy hôm rồi tôi bận quá anh ạ!
    Tôi đùa lại bằng một câu có vẻ triết lý...vụn:
   - Có lần tôi đọc được câu:‘‘Người bận việc là người hạnh phúc!’’ Cô đang hạnh phúc đấy!
    Cô cười, đáp lại:
   - Gớm thật! Anh thì lúc nào cũng chữ với nghĩa! Tôi xin nhường cái hạnh phúc đó cho anh, tôi chỉ muốn được nghỉ ngơi thôi!
   - Cô không nhường thì tôi cũng đã có rồi, lúc nào tôi chẳng bận.
   KT tấn công:
   - Anh nói thế! Như hôm nay không lao động, anh bận gì nói tôi nghe nào?
   - Tôi bận mà cô không biết đó thôi.
    Cô trợn mắt nhìn tôi:
   - Anh bận gì?
   -Tôi bận suy nghĩ đến cô đi đâu từ mấy ngày nay!
    Cô cười bẽn lẽn:
   - Gớm! Anh nói thế!
   - Tôi biết ngay là cô không tin, đúng không?
   Nàng yên lặng một chút, khẽ e lệ, gật đầu:
  - Tôi tin!
    Tôi đùa vui:
   - Cô thấy chưa? Tôi đang bận nên lúc nào tôi cũng hạnh phúc!
    Sau câu nói đùa của tôi, cả hai cùng cười. Cô bước lại gần tôi và nói nhỏ nhẹ cách bí mật:
   - Anh Lễ này, anh khao đi!
Tôi đoán biết có cái gì khác thường trong thái độ của KT sáng nay. Nhất là sau những tin đồn “có đợt tha” trong mấy ngày qua và đặc biệt là anh “Quỳnh Ngựa” đã nói với tôi. Mặc dù đoán biết một phần nhưng tôi cũng giả vờ bình thản:
   -Thì lúc nào cô vào chơi mà tôi chẳng khao, khi thì uống chè, khi thi ăn kẹo...!
    Thấy tôi có vẽ không hiểu, cô hạ giọng nói nhỏ:
   - Anh Lễ này, anh có tên được về đấy!
Như vậy là chắc rồi. Cái tin đó cuối cùng đã đến với tôi. Cái tin mà cả chục năm trời qua, tôi mong đợi ngày đêm. Cái tin mà trước đây tôi cứ tưởng tượng nó rất ghê gớm và không có một biến cố vui mừng nào trong đời tôi có thể so sánh được! Nhưng lúc này khi nó đến, tôi lại đón nhận nó hết sức hững hờ và lạnh nhạt. Tôi hiểu điều đó nên cố không làm phật ý người đưa tin, người cán bộ mà tôi quý mến. Tôi yên lặng, lấy lại vẻ trang nghiêm:
- Tôi không tin.
Nghe tôi nói thế, KT tỏ vẻ cảm thông vì có lần tôi cũng nói cho cô biết là ngoài bìa hồ sơ tôi có hàng chữ: “Thành phần không thể cải tạo được”. Nàng mỉm cười kín đáo:
   - Anh Lễ, tôi cho anh coi cái này.
    Vừa nói cô vừa mở tờ giấy cuộn tròn trong tay ra trao cho tôi:
   - Anh coi nhưng không được tiết lộ cho tới khi công bố. Nếu anh nói ra thì tôi và anh chung một cùm đấy.
    Tôi đáp:
   - Như thế thì càng thích chứ sao!
   - Anh Lễ này! Lúc nào anh cũng đùa!
Vừa nói nàng vừa giả vờ giật lại không trao tờ giấy cho tôi. Đó là một phụ bản giấy đánh máy của Quyết Định tha. Có lẽ là bản thứ 3 hay thứ 4 gì đó, nét chữ không rõ nhưng đọc được dễ dàng. Trong danh sách có tên 14 người và tên tôi nằm ở sau cùng. Có cả tên cha Nguyễn Bình Tĩnh, anh Nguyễn Đức Khuân và một tu sĩ miền Bắc.
Tôi chăm chú đọc mảnh giấy khá lâu, không phải để coi có những ai nhưng vì lúc đó tôi đang ở trong một tâm trạng  hết sức lạ lùng. Tôi đọc đi đọc lại tên của tôi, nhưng tôi lại có cảm tưởng không phải là tôi mà là một cái tên rất quen thuộc. Tên trong tờ giấy này không thể là của tôi, vì chẳng bao giờ tôi nghĩ là tên tôi có thể nằm trong một mảnh giấy bắt đầu bằng hàng chữ “Quyết Định Tha” được. Thấy tôi cầm tờ giấy khá lâu, KT đưa tay đón lấy. Tôi trả lại nàng với tâm trạng bàng hoàng khiến nàng phải kêu lên:
   - Anh Lễ! Được tha mà trông anh sao lại buồn thế?
Tôi chỉ thinh lặng lắc đầu, vì nói sao cho nàng hiểu được tâm trạng tôi. Lúc đó tôi chợt nhớ tới Trung úy T. và những lời úp mở của anh khi từ giã tôi ngày hôm qua. Anh biết tôi được về nhưng không thể nói ra được và tôi đã đoán sai. Thay vì anh đổi đi thì tôi sẽ ra về trong thời gian anh đi vắng. Tôi đoán là anh cũng buồn như tôi.
 
Kẻ ở người đi
Đêm cuối cùng ấy, khi tôi đến từ giã anh em, nhất là những người con tinh thần tôi sinh họ lại trong đức tin, nước mắt chúng tôi chảy ra khá nhiều. Tôi ôm lấy từng người con vào lòng, như muốn truyền sức mạnh cho những người tôi đã Rửa tội và đức tin họ còn non nớt. Lúc ban chiều, tôi cũng đã đi các buồng để từ giã anh em trong nhóm “Cộng đoàn tình thương”. Tôi trao lại tất cả những gì tôi có cho người tôi chỉ định thay thế tôi điều khiển Cộng đoàn. Tâm trạng chúng tôi đêm ấy đau buồn vì biết là cha con sẽ chẳng còn bao giờ gặp lại nhau nữa!
Hôm sau, trại công bố chính thức, sau đó, những người được tha về ra cơ quan để lăn tay và ký tên vào giấy ra trại. Trong giấy ra trại có ghi:“Đương sự phải về trình diện chánh quyền địa phương trong thời hạn một tháng kể từ ngày ký”.
 
Xếp tờ giấy làm tư, tôi cho vào túi áo trước ngực được may phía bên trong, cài kim băng cẩn thận để ngăn ngừa trộm cắp.
Tôi bước sang phòng KT kế bên làm các thủ tục về tiền nong. Còn một số tiền ở nhà mới gởi ra cho tôi, KT chưa kịp ra bưu điện lãnh, tôi gửi lại cô làm quà cho cháu. Tôi là người cuối cùng lên cơ quan làm thủ tục, vì trước khi bước ra khỏi cổng trại, tôi phải dừng lại khá lâu để bắt tay từ giã quá nhiều anh em còn ở lại. Họ tiễn đưa tôi tới cổng trại và mỗi người cố nói với tôi một vài lời trước giờ chia ly. Riêng các anh em ở chung buồng, đêm qua chúng tôi đã thức với nhau gần suốt đêm.
Sau khi hoàn tất mọi việc, tôi khoác chiếc ba-lô nhẹ hẫng lên vai và bước ra khỏi phòng tài vụ. KT xếp sổ sách giấy tờ trên bàn, đứng lên đi vòng ra phía sau chiếc ghế dài bằng gỗ nặng chắc chắn, bước theo ra, tiễn chân  tôi. Chúng tôi đi song song bên nhau trong một hành lang dài và hẹp dẫn ra phía mặt tiền nhà nằm dọc theo đường cái.
Chúng tôi yên lặng bước đi, chẳng ai nói với ai câu gì, nhưng tôi có cảm tưởng chính sự thinh lặng trong lúc này lại nói lên nhiều hơn. Tự nhiên tôi chợt nhận ra, người con gái đang bước đi bên cạnh tôi lúc này không còn là người cán bộ tài vụ nữa, mà là người thân thiết của tôi. Nàng đã trở lại thành một người phụ nữ bình thường như bao nhiêu người phụ nữ khác với những xúc cảm tự nhiên trước lúc chia tay người thân và không còn hy vọng gặp lại.
Khi cả hai ra gần tới ngõ, tôi bất chợt dừng lại, quay sang nhìn KT và bắt gặp đôi mắt màu đen đang mở thật to nhìn tôi, hai hàng mi dài và cong. Nàng đang chớp mắt để che giấu sự xúc động. Tôi nhìn sâu vào mắt nàng, nói nhanh mấy câu giã từ:
   - Thôi giã biệt KT! Chúc cô và gia đình ở lại gặp nhiều may mắn. Xin cám ơn sự lo lắng và giúp đỡ của cô trong thời gian qua.
   - Anh Lễ! Đừng nói lời cám ơn! Những gì tôi làm là do lòng quý mến của tôi đối với anh. Cháu trai sẽ mừng khi nhận quà của anh. Anh được ra về tôi mừng lắm. Tôi thật không biết phải nói gì trong lúc này. Chúc anh lên đường bình yên, nhớ bảo trọng thân thể và cầu mong anh xây dựng một tương lai tốt đẹp. Về Nam, có gặp các anh ở trại này cho tôi hỏi thăm.
Vừa nói, nàng vừa tiến lại sát bên tôi trong một cung cách rất tự nhiên của người em gái trong lúc tiễn biệt người anh. Tôi nắm lấy và bóp nhẹ bàn tay bé nhỏ có các ngón thon dài của K.T. Nàng để yên bàn tay trong tay tôi. Tôi nghe tay nàng nóng, đang run nhẹ. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối tôi cầm lấy bàn tay nàng, mặc dù trong thời gian mấy tháng qua, đã nhiều lần gặp nhau. KT từ tốn quay lại trong tư thế mặt đối mặt và đặt bàn tay còn lại lên tay tôi, nắm chặt lấy và nâng thật chậm lên cao tới cằm. Mắt nàng ướt long lanh, chớp thật nhanh và đang ngước nhìn tôi trong lúc lập lại lời từ biệt. Giọng nàng nhẹ như hơi thở:
   - Anh đi bằng yên.
Tôi buông tay nàng ra. Chẳng nói thêm lời nào, tôi quay đi, xốc lại chiếc ba-lô trên vai và bước vội mấy bậc tam cấp lên đường cái. Vừa bước lên mặt đường, tôi nghe tiếng KT gọi với theo:
 
   - Anh Lễ, tôi nói cái này!
Tôi dừng bước, quay lại và đã thấy nàng đứng ngay sau lưng. Trong lúc hai người đứng giữa vùng ánh sáng của nắng ấm ban mai, tôi thấy nàng đẹp một cách thật hồn nhiên. Một vẻ đẹp kín đáo và đơn sơ của loài hoa dại trong đồng nội.
Thời gian qua, tôi vẫn nhận thấy nơi nàng sự duyên dáng qua thái độ đối xử và cách nói năng, nhưng hôm nay, tôi thấy nàng còn có một cái gì khác biệt hơn. KT mặc áo sơ-mi màu hoa cà, quần đen, tóc quấn ngược lên cao để lộ cái ót trắng ngần. Hình ảnh này tôi đã thấy nhiều trong những lần nàng vào khu giam thăm tôi trước đây. Nhưng sao hôm nay, tôi thấy nàng như một con người khác. Có lẽ nhờ vị thế ngăn cách giữa hai người không còn nữa, hay vì vẻ thân thương và gần gũi đã làm nàng xinh đẹp hơn mọi ngày? Tôi bỗng buột miệng nói lên ý nghĩ trong đầu:
   - Hôm nay tôi trông KT như một người khác!
    Nàng mở thật to đôi mắt đen láy, nhìn tôi cách ngạc nhiên hỏi lại:
   - Khác thế nào hở anh?
    Tôi đáp gọn:
   - Trông xinh hơn mọi ngày!
Mặt nàng tự nhiên đỏ ửng. Nàng vội ngoái đầu theo phản ứng tự nhiên, tỏ vẻ e thẹn và lắc lư người như để từ chối lời khen của tôi. Nàng bước tới gần, nói thật nhỏ, mặc dù gần đó chẳng có ai:
   - Sau này anh ở đâu và làm gì, anh nhớ thư cho biết nhé!
   - Viết thư từ, tôi sợ trở ngại cho công tác của cô.
   Nàng đáp nhanh:
   - Anh cứ viết thẳng về địa chỉ ở Thái Bình ấy, chẳng hề gì đâu!
Tôi ngần ngừ một lúc và gật đầu, trong lúc vẫy tay từ giã nàng và quay gót bước đi. Bên tai còn nghe vọng tiếng nói cuối cùng của nàng:
 
  - Anh đi bằng yên, nhớ nhá.
 
Quãng đường trước mặt
Tôi bước nhanh theo dọc con đường lớn chạy trước mặt dãy nhà dài dùng làm khu hành chánh của cơ quan, hướng về phía khu nhà của gia đình cán bộ nằm cách xa cổng trại khoảng vài trăm thước, để ra đường cái đón xe khách đi Phủ Lý, để từ đó lên Hà Nội. Ánh nắng chói chang và khung cảnh mới lạ làm tôi choáng ngộp. Tôi lầm lũi bước đi như người trong cơn mộng du đang lâng lâng giữa thực và mộng.
Tới chỗ chờ xe tôi dừng lại, quay nhìn trại Nam Hà lần cuối. Trại trông sao thật vắng lặng và buồn tênh, không ngờ nơi đó lại chôn giữ một phần lớn kỷ niệm của đời tôi. Lúc đứng đó tôi chợt nhận ra, trong số không biết là bao nhiêu chục ngàn tù nhân trong Nam bị đưa ra Bắc cách nay đã hơn một thập niên, tôi là người tù miền Nam cuối cùng bước ra khỏi trại giam miền Bắc! Tôi bỗng buột miệng nói:“Thời gian qua mau! Mới ngày nào mình ngỡ ngàng trên chuyến xe ca từ Hải Phòng đến đây trong đêm sương mù giá lạnh, mà bây giờ đã gần 12 năm! Đời người như một giấc chiêm bao....”
Có chiếc xe khách đang từ xa chạy tới. Tôi giơ tay lên đón.
Cuối Chuyện
 

Đèn đường vẫn hắt nhẹ những tia sáng yếu ớt vào phòng. Tiếng côn trùng rả rích gọi bạn về khuya. Đâu đây nghe tiếng gió đưa xào xạc như nhẹ rơi những cánh lá vàng không buồn sống. Tôi ngồi lên, bước tới bật đèn và nhìn đồng hồ trên tường, thấy đã gần hai giờ sáng. Vì nằm lâu nhưng không ngủ được nên thấy người hơi choáng váng. Tôi đưa hai bàn tay lên xoa mặt, đan các ngón tay vào đầu tóc rối bù vì trăn trở mãi trên gối.
Nhà Chung Hà Nội thật êm ắng. Thỉnh thoảng, vài tiếng thạch sùng tắc lưỡi tìm mồi đêm. Hình ảnh quá khứ cứ nhảy múa trong đầu. Cái nọ nối tiếp cái kia, có lúc lại đan chặt và dính trùm vào nhau như một vở bi hài kịch kéo dài. Tôi cảm thấy hơi nóng đầu như một bộ máy chạy liên tiếp mấy tiếng đồng hồ không nghỉ.
Tôi bước vào nhà tắm bật đèn lên. Nhà tắm và cầu tiêu chung trong một phòng lớn, có lẽ lớn hơn buồng giam bốn người trong khu kỷ luật trại Thanh Cẩm một chút, thật sạch sẽ, tường lát gạch men bóng láng. Trên tường có 2 cái giá máng khăn, một chiếc khăn tắm lớn và chiếc khăn mặt nhỏ được gấp làm tư cẩn thận. Trên bàn rửa mặt bằng men trắng kiểu cổ, có vòi nước máy và một chiếc khay nhỏ đựng bàn chải đánh răng, cây kem nhỏ, cái lược và dao cạo râu loại rẻ tiền nhưng mới toanh. Trong lúc đang dùng phương tiện trong nhà vệ sinh, tôi chợt mỉm cười khi nhớ tới hai cái ống bẩu bằng tre trong buồng kỷ luật trại Thanh Cẩm!
Sau khi rửa mặt, chải đầu và lau khô bằng chiếc khăn mặt thơm mùi bột giặt, tôi đứng ngắm mình trong gương, mỉm cười lần nữa. Lần này thì cười tươi hơn và nghĩ thầm: “Trông mình cũng chưa đến nỗi nào!” Mặc dù biết là rửa mặt xong sẽ rất khó ngủ lại nhưng lúc đó con người tôi quá bần thần, như người đang ốm nên phải rửa mặt mới dễ chịu được. Và thật vậy, sau khi rửa mặt, tôi thấy khỏe khoắn, dễ chịu và tươi mát ra.
Tôi không trở lại giường nhưng mở cửa ra hành lang, đứng tựa lan can nhìn xuống. Phố xá giờ này đang vắng tanh. Lâu lắm mới có tiếng xe máy và bóng vài người đi xe đạp thoáng qua phố chánh, nơi mà trưa hôm qua, bộ ba tướng sĩ tượng chúng tôi bỡ ngỡ bước vào Nhà Chung này. Bên kia đường, nơi chiều qua, các người trẻ tới khiêu vũ, giờ này không một bóng người. Tất cả đều trở nên yên lặng trong đêm tĩnh mịch.

Tờ giấy ra trại
Kể từ lúc cho vào túi tờ “Giấy Ra Trại” màu nâu rách mép và làm bằng chất liệu kém nhất mà tôi mới thấy lần đầu, cho tới giờ, thời gian qua đi chưa đầy 24 tiếng. Lúc vừa bước ra khỏi cơ quan của trại Nam Hà để đón xe lên Hà Nội sáng hôm qua, tôi cứ suy nghĩ vẩn vơ về tờ “Giấy Ra Trại”, đang nằm sâu trong túi áo ngực được may bên trong và cài hai lần kim băng, lúc nào cũng cồm cộm trên ngực.
Tôi suy nghĩ mãi về sự tương phản quá lớn lao giữa hình dạng và nội dung của nó. Khi người cán bộ đặt “Giấy Ra Trại” trên bàn và bảo ký tên vào, tôi ngạc nhiên đến bất lịch sự khi nhận cây bút, cúi khom người, kéo một hàng ngoằn ngoèo như con giun vào chỗ dành cho đương sự ký tên. Nói rõ hơn là mảnh giấy đó không đáng để tôi ký tên vào. Ngay lúc đó, tôi nghĩ mình như bị xúc phạm khi cơ quan trại Nam Hà cấp cho tôi một thứ giấy tờ có giá trị pháp lý lâu dài mà lại là một tờ giấy đen thủi đen thui, chất lượng còn kém hơn giấy bao xi măng và bìa thì rách nát như cái răng cưa. Như vậy có ý gì? Chẳng lẽ Nhà nước không có thể cấp cho tôi một tờ giấy ra trại bằng chất liệu thông thường khác hay sao?
Lúc nhận tờ giấy, tôi cầm thật nhẹ tay, chỉ sợ vô ý làm nó rách ra từng mảnh thì phiền! Tôi đã thầm nghĩ: Trời! Cuộc đời mình trong 13 năm tù đã đen và rách nát mà miếng giấy ra trại này nó còn đen và rách nát hơn cả đời mình! Nhưng tôi mỉm cười, tự an ủi: Ít ra, nó cũng có giá trị nhờ các hàng chữ đánh máy!
Trên đường từ trại Nam Hà qua phà Phủ Lý rồi lên Hà Nội, tôi không ghi nhận được nhiều hình ảnh. Lúc đó tâm trạng tôi còn lâng lâng và khá mệt mỏi nên chỉ nhắm mắt tựa đầu vào băng ghế xe suốt quãng đường. Nhưng từ lúc đặt chân xuống Hà Nội và nhất là sau khi vào Nhà Chung Hà Nội, tôi ghi nhận được nhiều hình ảnh và có nhiều cảm nghĩ. Từ Đức Hồng y Căn, Đức cha Sang, hai anh em  thầy Trác và thầy Trạc, Cha Sinh, và các Cha, các Thầy tôi gặp trong nhà cơm chiều tối hôm qua. Rồi khung cảnh Nhà Chung Hà Nội với lối kiến trúc cổ điển, cộng với nét sinh hoạt thứ tự lớp lang từ trên xuống dưới trong cơ sở này, đều là những kinh nghiệm lạ đối với tôi.
Tôi đứng thẳng người, ưỡn ngực về phía trước và hít một hơi thật dài và sâu. Làn không khí trong lành của thủ đô Hà Nội trong buổi sáng tinh sương lúc này làm tôi sảng khoái. Tôi bật thành tiếng:“Tạ ơn Chúa đã cho con có làn khí trong lành này để thở!”
Sau khi nói câu đó, tôi hồi tưởng lại những đêm mùa hè trong buồng giam khu kỷ luật trại Thanh Cẩm. Tình cảnh tôi lúc đó chẳng khác gì đang bị cùm trong một cái thùng sắt kín mít và đang mở lò sưởi ở số cao. Có những đêm gần chết ngạt vì không thể hít vào buồng phổi chất khí nóng hừng hực đó, không cách gì hơn, chúng tôi phải gào thét khan cả cổ gọi cán bộ lên vì có người gần chết ngạt. Khi cán bộ mở cửa buồng ra, làn không khí bên ngoài ập vào làm tôi sung sướng và hạnh phúc, tưởng là trên đời này không còn thứ hạnh phúc nào lớn lao hơn! Nhưng khi cánh cửa sắt buồng giam đóng lại rồi, đám tù nhân khốn khổ trần truồng và đang bị cùm chân lại phải trở về tình trạng cũ.
Lúc bấy giờ, trong cơn vật vờ của loài sinh vật đang cố gắng dùng hết khả năng thích ứng của cơ thể để bảo tồn sự sống đó, tôi đã quyết tâm nếu còn sống sót, về sau này, mỗi lần tôi có thể hít thở được vào buồng phổi làn khí trong lành, tôi phải tạ ơn Chúa vì hồng ân vĩ đại mà Ngài ban cho tôi. Tôi cũng quyết tâm phải chia sẻ kinh nghiệm này với tất cả mọi người:“Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân vĩ đại là Ngài đã ban cho ta có đủ không khí trong lành để thở.”
Tôi biết chắc là có người sẽ không nghe, không nhớ, thậm chí có người sẽ mỉm cười vì cho rằng tôi đã bất bình thường sau những năm tù tội kéo dài khi kêu gào nhân loại phải tạ ơn Chúa về một chuyện chẳng ra đâu! Vì hít thở không khí là một việc tự nhiên và vô thức của cơ thể, ngay cả lúc ngủ con người vẫn hô hấp thì làm gì phải bận tâm? Trong cuộc đời này còn quá nhiều chuyện lớn khác phải lo, phải nghĩ và phải tạ ơn khi mình có được. Tôi sẽ trả lời: “Thưa bạn, vì bạn chưa lâm vào cảnh của tôi nên bạn chưa cảm thấy làn không khí trong lành quý báu như tôi cảm nhận”.
Lúc này, đã gần ba giờ sáng và sau một ngày đi đường vất vả hôm qua, tôi vẫn chưa thấy buồn ngủ. Thì ra, làn  không khí trong lành lúc đó cộng với tâm trạng trong đêm đầu tiên được ra khỏi tù và sau khi đã rửa mặt, chải tóc và lau mặt bằng chiếc khăn trắng, sạch và thơm, ba yếu tố đó cộng lại đã làm tôi tỉnh hẳn ra. Tôi cảm thấy yêu đời, yêu cuộc sống này một cách mãnh liệt và quyết tâm  sống quãng thời gian thần tiên độc nhất vô nhị của đời mình trong lúc này thật tích cực. Tôi vẫn biết là quãng đường trước mặt sẽ còn nhiều thử thách, nhưng chuyện đó tính sau. Tôi không muốn những lo âu phiền muộn chưa xảy ra đó làm giảm đi cảm giác tuyệt vời tôi đang được hưởng trong lúc đứng một mình ở hành lang bên ngoài phòng khách của Nhà Chung Hà Nội này.
Đứng một lúc, tôi thấy mỏi chân nên vào phòng nhắc ghế ra ngồi. Đó là chiếc ghế mây khá to nhưng rất nhẹ, lòng ghế sâu và có chỗ tì tay hai bên. Tôi kê ghế sát vào hàng rào chắn phía trước để khi ngồi tôi có thể gác chân lên một trong những thanh của hàng rào trong một tư thế thoải mái nhất. Tôi nhẹ nhàng ngồi xuống ghế trong tư thế tự do, riêng tư, lười biếng và bất lịch sự, đầu ngửa về phía sau tựa hờ lên thành ghế, hai tay dang rộng, đôi chân duỗi thẳng gác lên một thanh của hàng rào. Trong tư thế đó, tôi đưa mắt nhìn cảnh vật trước mắt ẩn hiện cái được cái mất qua những ánh đèn điện bóng tròn của đường phố Hà Nội.
Tôi nhìn một cách bâng quơ nhưng không chú ý tới một điểm nào. Tôi muốn tận dụng phút giây thư giãn tinh thần trong lúc này sau mấy tiếng đồng hồ tôi nằm trăn trở trên giường nhưng không ngủ được khi những chuyện của hơn chục năm qua lần lượt hiện lên trong tâm trí tôi như một cuốn phim quay chậm. Trong lúc đang ngồi thoải mái tựa đầu vào thành ghế, tôi nhắm mắt lại và tự hỏi: Quãng đời 13 năm tù và những kinh nghiệm buồn vui mình đã trải qua đó có giá trị gì cho bản thân mình và cho người khác? Tôi ngồi yên và cố trả lời câu hỏi đó.
Đối với tôi, giai đoạn đó cho tôi khá nhiều điều hiểu biết.

Bài học của trường đời
Trước tiên, về phương diện tôn giáo, trong cảnh khốn cùng đó, tôi nhận thấy vai trò của một Linh mục thật vô cùng cần thiết để mang lại tình thương và niềm hy vọng trong khung cảnh mà hai thứ giá trị này rất hiếm, nếu không muốn nói là không có. Chính tình yêu và niềm hy vọng của chân lý Phúc Âm đã cho tôi điểm tựa và tôi chia sẻ hồng ân này với các bạn tù mà tôi có dịp sống chung.
Tôi nghĩ rằng, trong môi trường tù ngục đọa đày đó, tôi đã sống sứ mệnh Linh mục có nhiều kết quả hơn 6 năm trước ngày tôi vào tù, và có lẽ hơn cả những năm về sau này trong cuộc đời còn lại, mặc dù tôi chưa biết được cuộc đời rồi sẽ ra sao, ở đâu và làm gì. Hơn nữa, qua các biến cố xảy ra tưởng chừng như vô tình, nhưng sau này, tôi nhận ra đó chính là sự quan phòng của Thiên Chúa, và tôi luôn nghĩ rằng, trong hết mọi hoàn cảnh, luôn có bàn tay của Thiên Chúa che chở cuộc đời tôi.
Về con người, trước tiên tôi khẳng định là không than phiền hoặc oán trách gì những cán bộ làm việc trong tù. Tôi biết đa số họ làm việc vì cuộc sống và miếng cơm manh áo. Vai trò của một cán bộ trong tù cũng như bao nhiêu công việc của người dân khác đang làm nơi các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp khác. Đôi lúc, có vài cán bộ vì bản chất hung ác và được huấn luyện để phục vụ cho bộ máy kềm kẹp của đảng, làm cho cảnh sống tù đày chúng tôi khốn khổ, ngược lại, cũng có những cán bộ sống thân tình và biểu lộ lòng nhân đạo một cách rất cảm động.
Vào thời gian cuối cùng trước khi được tha về, tôi đã có dịp tiếp xúc thân mật hơn với nhiều cán bộ và tôi thấy họ là những người đáng thương hơn là đáng trách. Có người còn để lại trong lòng tôi sự quý mến và biết ơn sâu xa. Do đó, tôi không hề oán trách bất cứ một cán bộ nào tôi đã gặp trong suốt 13 năm tù, ngay cả những cán bộ đã từng chửi mắng, đánh đập hành hạ tôi cách này cách khác. Tôi cũng không hề oán trách những anh em tù đã ngược đãi và vì sự nhẹ dạ đã hãm hại tôi.
Điều đáng nói chính là chủ trương trong chế độ lao tù cộng sản. Chúng tôi vào tù với cái tên rất đẹp là “ Tập trung Cải tạo” kèm theo lời hứa “Chừng nào cải tạo tốt thì về!”. Và như vậy, chúng tôi bị tước đoạt quyền hy vọng là lý do sống của con người. Câu nói‘‘chừng nào cải tạo tốt thì về” đó, đã ngầm khuyến khích sự chia rẽ và phản bội nhau trong số tù chính trị miền Nam. Nói về tâm trạng tuyệt vọng lúc đó, sau khi vào tù, tôi nhớ lại có lần đọc ở đâu mấy câu thơ của thi sĩ Dante người Ý, tả cảnh địa ngục, tạm dịch như sau:


         Trên ngưỡng cửa địa ngục có khắc câu này:
“Hỡi những kẻ sắp bước vào đây
Hãy để niềm Hy Vọng lại bên ngoài!”
Sống trong tình trạng tù mù đó, tôi luôn nghĩ , nếu bị kêu án 5 năm, 10 năm hoặc 20 năm hay lâu hơn nữa, tôi vẫn vui hơn vì ít ra còn có một cái mốc thời gian để hy vọng. Đàng này không ai thực sự biết được số phận của mình ra sao! Không còn gì khốn khổ hơn tâm trạng của một con người sống trong tuyệt vọng!
Cái kiểu treo củ cà rốt trước mõm  con lừa đang kéo xe bằng luận điệu:‘‘Các anh đang chơi bóng đá và đang ở gần cuối của hiệp hai rồi, chỉ còn mấy phút cuối cùng nữa là có tiếng còi tan trận đấu! Cố gắng lên!” Chúng tôi nghe đến nhàm tai cách nói đó của cán bộ giảng huấn khắp các nơi, và các “trận bóng đá” này trại nào cũng có! Nhưng khổ nỗi, mấy phút cuối cùng của trận đấu lại là thời giờ bằng dây thun chất liệu tốt, có thể kéo giãn ra đến vô tận!
Trong hoàn cảnh đó, lời hứa mù mờ "cải tạo tốt được về” đã thành cơn cám dỗ cho một số người nhẹ dạ cố gắng cải tạo tốt. Có vài người còn muốn cải tạo “thật tốt!” Mà cách tốt nhất là quên đi mình là ai, quên đi những người đang mặc bộ đồng phục tù như mình là ai, để rồi phản bội lại chính mình và phản bội anh em đồng cảnh. Lời hứa mù mờ đó, theo tôi, là chủ trương thâm độc nhất của chế độ nhà tù cộng sản. Nó đã hành hạ tâm trí chúng tôi và đã gây ra bao nhiêu tác hại, khiến những con người khờ khạo tin vào lời hứa đó để hãm hại chính anh em mình.
Và như tôi đã nói, sự đau thương và nhục nhã mà tôi đã phải chịu 13 năm trong ngục tù cộng sản, không phải là cực hình trên thân xác như  sự hành hạ, cùm kẹp, đánh đập đói khát, trần truồng, chết ngạt, chửi mắng...như tôi đã nhớ lại, nhưng là tình trạng tuyệt vọng và nhất là khi phải chứng kiến và chịu đựng sự phản bội của một vài  người trong số tù chính trị miền Nam.
Cũng từ kinh nghiệm đó cho tôi hiểu biết hơn về lòng dạ con người. Khi con người lâm vào cảnh túng cùng và không còn được che giấu dưới những bộ y phục, những huy hiệu, cấp bậc, chức vụ trước kia, họ đã lộ nguyên hình là những con người. Khi con người sống chen chúc nhau trong cảnh khốn cùng, đói khát và tuyệt vọng trong thời gian dài hơn chục năm trời, đã cho tôi rút được bài học đắng cay sau đây:“Lòng nhân đạo của con người có giới hạn, nhưng sự ác độc của loài người thì vô tận, nhất là khi sự ác độc đó được dung dưỡng bởi hoàn cảnh xấu xa.”

Dân Tộc Việt Nam của tôi
Thời gian dài, nhất là 3 năm lăn lộn trong đáy địa ngục khu kỷ luật trại Thanh Cẩm, đã cho tôi cơ sở để nói rằng trong mỗi con người đều có phần THIỆN và phần ÁC ngang ngửa nhau, và tùy thuộc vào môi trường sống mà phát triển. Nếu con người được sống trong một môi trường đạo đức và luật pháp được tôn trọng thì phần THIỆN sẽ phát triển và đè bẹp phần ÁC. Ngược lại, nếu con người rơi vào hoàn cảnh xấu xa, hận thù và không luật lệ thì phần ÁC sẽ ngoi lên và ngự trị.
Trong tù, tôi đã chứng kiến và chịu đựng  những hành động ác độc của một số cán bộ và những người tù phản bội. Tôi biết một phần cũng do bản chất tàn bạo của họ, nhưng nếu không có sự dung dưỡng và khuyến khích của chế độ thì các việc đó đã không xảy ra, hoặc nếu có xảy ra, cũng không đi tới chỗ quá tàn nhẫn như thế. Từ nhận xét đó, tôi kết luận: “Không bao giờ oán trách con người, không bao giờ thù hận con người, không bao giờ tiêu diệt con người nhưng bằng mọi giá phải loại bỏ bất cứ chế độ xấu xa nào đã khuyến khích và dung dưỡng sự hận thù giữa người với người, và thay vào đó một xã hội lành mạnh để con người được phát triển phần LƯƠNG THIỆN của mình.”
Những năm tù cũng cho tôi có dịp chia sẻ và sống với nỗi đau thương chung của Dân tộc mà nếu không trải qua kinh nghiệm đó, có lẽ tôi không biết hoặc biết rất hời hợt về số phận đau thương của đồng bào Việt Nam. Qua đó, tôi thương  và gắn bó với Dân tộc tôi nhiều hơn.
Tôi cũng nghĩ rằng, sau này, tôi có bổn phận phải chia sẻ kinh nghiệm của đời tôi với nhiều đồng bào của tôi, nhất là với thế hệ trẻ Việt Nam là những người không bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh tương tàn do ý thức hệ gây ra.
Tôi muốn gửi lại cho thế hệ mai sau một lời tâm huyết là đừng bao giờ mê muội vì một chủ thuyết ngoại lai nào mà quên đi tình Dân Tộc, để rồi cảnh nồi da xáo thịt lại tái diễn. Thể chế chính trị nào rồi cũng sẽ qua đi, triều đại nào rồi cũng sẽ sụp đổ, chỉ có Dân Tộc là trường tồn. Lịch sử đã chứng minh, chế độ nào càng tàn ác, càng bạo ngược bao nhiêu thì càng mau sụp đổ bấy nhiêu. Không một chế độ nào dùng họng súng và nhà tù để cai trị mà vững bền được, chỉ có lòng nhân mới cảm hóa được con người.
Tôi vẫn biết là trên quê hương tôi tiếng súng đã im từ nhiều năm qua, nhưng trong lòng người dân Việt Nam, cuộc chiến vẫn chưa tàn, và cuộc chiến đó càng kéo dài bao nhiêu thì càng tác hại cho Dân Tộc tôi bấy nhiêu.

Cuộc chiến chưa tàn
Bên cạnh đó, tôi biết những hệ lụy của một cuộc chiến tương tàn kéo dài mấy chục năm trên quê hương và đã giết hại và làm khổ hàng triệu đồng bào ở cả hai miền Nam Bắc như là một vết thương còn đang chảy máu, khó mà có thể quên ngay được. Tôi vẫn biết sự căm tức và lòng hận thù nhau giữa những người Việt Nam bị lôi kéo vào cuộc chiến tương tàn ấy, còn đang cao ngút trời, khó mà có thể kêu gọi sự tha thứ ngay được.
Tôi kính trọng và cầu nguyện cho những người đã chết trong cuộc chiến tại Việt Nam. Tôi cảm thông nỗi khổ đau và căm hờn của tất cả những nạn nhân cả hai bên trong cuộc chiến. Tôi cảm thương cho số phận của những thương phế binh của cả hai bên trong cuộc chiến, đang phải kéo lê quãng đời còn lại trong cảnh tật nguyền, thiếu thốn và bị lãng quên. Tôi chia sẻ sự đau thương tủi hờn của các bạn tù chính trị của tôi trong các trại tù mang tính chất trả thù và tiêu diệt mang tên“trại cải tạo” của chế độ cộng sản sau khi quê hương đã im tiếng súng.
Chính bản thân tôi là một chứng nhân và cũng là một nạn nhân còn sống sót của chế độ lao tù đó. Tôi đã lăn lộn trong một giai đoạn đen tối của lịch sử  Trong đó, sự ác độc của con người được dung dưỡng và khuyến khích, và đã có những con người hành động ác độc  hơn loài ác thú thả lỏng dây cương. Có lúc, sự tàn ác của người đối với người đã vượt quá sự tưởng tượng và khả năng chịu đựng của con người.
Chính tôi, mặc dù là một Linh mục, tôi đã có lần phải buông ra những lời nguyền rủa gớm ghê, độc ác nhất mà lúc bình thường tôi không bao giờ dám nghĩ tới.  Đó là một thực tế đau lòng đã và có thể là còn đang xảy ra trên quê hương tôi, giữa những người Việt Nam với nhau.
Một câu hỏi được đặt ra cho tất cả mọi người Việt Nam, sau khi quê hương đã im tiếng súng, và mỗi người bắt buộc phải có một câu trả lời:
“ Đứng trước tình cảnh của Dân Tộc Việt Nam như thế, bạn phải làm gì, và làm như thế nào?”
Câu hỏi này được đặt ra cho tất cả mọi người Việt Nam, không phân biệt đang sống trong nước hay ở hải ngoại, không phân biệt đang ở vị thế cầm quyền hay là người dân bình thường, không phân biệt thuộc về phía nào trong cuộc chiến trước kia, không phân biệt là kẻ đã gây ra tội ác hay là nạn nhân của những tội ác do kẻ khác gây ra.

Can Đảm và Khoan Dung
Chúng ta biết rằng  Dân Tộc bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tương tàn vượt ra ngoài sự kiểm soát của mình. Toàn thể dân tộc Việt Nam là nạn nhân  của một trò chơi chính trị lớn. Khi hai miền Nam Bắc đã bị những thế lực ngoại bang dẫn đưa vào cuộc chiến rồi, lúc đó, dù có muốn dừng tay lại cũng không dừng được. Như thế, toàn thể dân tộc Việt Nam là những nạn nhân, là những người thua cuộc.
Đây là lúc người Việt Nam phải có can đảm đặt vấn đề một cách thẳng thắn và tìm phương cách giải quyết vấn đề trong tinh thần hiểu biết và thái độ bao dung như thế mới mong thoát ra khỏi sự ràng buộc của dây hận thù oan trái đang trói chặt thân thể Dân Tộc do hậu quả của bao năm chiến tranh tương tàn để lại.
Trong cuộc chiến không có tiếng súng này, dân tộc Việt Nam không còn chiến đấu vì một chế độ này hay chế độ khác. Không chiến đấu để khôi phục lại một chế độ vừa sụp đổ, cũng không chiến đấu để cố bảo vệ chế độ độc tài thối nát đang ngự trị trên quê hương. Đây phải là cuộc chiến của lương tri con người để chọn cái Đúng và loại bỏ cái Sai, để chọn cái Thiện và loại bỏ cái Ác cho con đường Dân Tộc phải đi.
Kẻ thù của dân tộc Việt Nam lúc này không còn phải là những con người đã đứng bên này hay bên kia chiến tuyến trong quá khứ, nhưng là bất cứ thể chế chính trị nào cướp đi quyền lợi tự nhiên của những thành phần Dân Tộc khác. Đã đến lúc lương tri tổng hợp của dân tộc Việt Nam phải nhận diện và loại bỏ bất cứ một chế độ bất nhân nào, cho dù là mang tên tuổi gì, chủ nghĩa gì mà trong đó các quyền sống căn bản của người dân bị những kẻ nắm quyền cướp đoạt. Một chế độ chính trị không phải tốt hay xấu vì tên gọi của nó, nhưng tốt hay xấu là do đường lối, chính sách, và cách hành xử của những kẻ cầm quyền.
Đây là một vấn đề khó khăn nhưng là vấn đề sống còn cho tương lai dân tộc Việt Nam. Không phải vì vấn đề quá lớn hoặc cảm thấy khó khăn mà chúng ta không muốn hoặc không có can đảm tìm một giải pháp cho vấn đề. Theo tôi nghĩ, không có một vấn đề gì mà chúng ta không thể giải quyết được trừ ra việc chúng ta không muốn giải quyết vấn đề.
Ngày nay xã hội Việt Nam sau một thời gian im tiếng súng giống như bề mặt của một đại dương chỉ hơi gợn sóng lăn tăn. Trong thực tế dưới đáy đại dương đó, đang có những đợt sóng ngầm chỉ chờ cơ hội bộc phát. Những đợt sóng ngầm này là kết tinh của bao nhiêu bất công, chém giết, cướp đoạt tài sản, hận thù, oan nghiệt đang tích lũy trong lòng dân tộc. Nhất là qua cảnh bất công gây ra bởi những kẻ đang nắm quyền. Họ tự coi là chủ nhân ông và giữ độc quyền lãnh đạo đất nước. Họ cấu kết nhau trong đồng phục đã nhạt màu của một chủ nghĩa ngoại lai để vơ vét tài sản của Dân Tộc. Họ đè đầu cỡi cổ thành phần thất thế và hút máu thành phần dân tộc khác qua nạn tham nhũng công khai và có hệ thống.
Những đợt sóng ngầm đó phải được loại ra khỏi lòng đại dương dân tộc Việt Nam càng sớm càng tốt. Vì càng kéo dài nó càng tích lũy sức tàn phá tinh thần dân tộc. Tôi có thể khẳng định là dần dần sẽ có những con người đang nằm trong guồng máy cai trị nói lên tiếng nói của lương tri. Có lúc họ sẽ thức tỉnh trước sự sai trái về con đường có hại cho Dân Tộc mà họ đã đi.
Tôi đã có dịp nghe được những tâm tư thầm kín này nơi một số cán bộ trong nhà tù trong thời gian cuối cùng trước khi tôi được tha về. Tôi biết hiện tượng này rất phổ biến và đang dày dò tâm can của một số người đang nằm trong bộ máy cầm quyền nhưng chưa tới lúc thuận tiện để họ có thể bày tỏ công khai. Khi hoàn cảnh cho phép để họ bày tỏ sự thức tỉnh, lúc đó họ là những người đáng quý và đáng kính trọng cho dù trước kia và ngay trong hiện tại họ đã ở đâu và làm gì. Họ sẽ là những người trong vị trí thuận lợi để đóng góp cho sự nghiệp tranh đấu cho cái THIỆN và loại bỏ cái ÁC ra khỏi chế độ cầm quyền.
Khi nguồn sức mạnh của ý chí quật cường và lương tri tổng hợp của dân tộc được khơi dậy sẽ không có một thế lực chính trị nào cho dù bạo ngược tới đâu có thể cưỡng lại được. Trong khi đó, những kẻ thù của Dân Tộc không mừng gì hơn là có những người lúc nào cũng chỉ gầm gừ chực loại nhau trong một bài toán không có đáp số và họ được rảnh tay để ngang nhiên tự tại nắm quyền. Theo tôi, chừng nào mà những người trong cuộc chiến trước kia biết nhận ra nhau, hiểu biết nhau và hợp tác nhau trong cuộc chiến tranh đấu cho cái THIỆN của dân tộc, chừng đó mới có thể nói tới việc đưa dân tộc Việt Nam chúng ta tới một tương lai tươi sáng.
Lúc đang đắm chìm trong suy tư về vấn đề này, tự nhiên tôi nhớ lại một câu chuyện đã nghe khá lâu, còn nhớ mãi. Năm 1966, khi tôi đang học năm Thần học thứ nhất tại Đại chủng viện Sài Gòn, có lần Linh mục Gérard Gagnon vào thăm và nói chuyện với tất cả chủng sinh. Cha Gagnon là Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, người Canada, đã sống ở Việt Nam trên 30 năm nên nói tiếng Việt lưu loát. Trong lần nói chuyện đó, ngài có kể lại câu chuyện, trong một lần ngài cỡi xe mô-tô từ Đà Lạt về Sài Gòn, tới khúc đường vắng, bị Việt cộng chặn lại, bắt dẫn vào rừng tuyên truyền. Cảnh Việt cộng chặn xe, bắt người vào rừng để tuyên truyền là chuyện thường xuyên lúc bấy giờ. Vì biết ngài là Linh mục nên người cán bộ tuyên truyền hỏi:
  - Anh nghĩ thế nào, Đạo Công Giáo của anh đã hoạt động gần hai ngàn năm rồi mà mới được mấy trăm triệu tín đồ, còn chủ thuyết cộng sản mới ra đời có 50 năm mà đã chiếm một phần ba nhân loại. Như thế, giữa đạo của anh và chủ thuyết cộng sản cái nào hay hơn?
   Cha Gagnon trả lời:
  -Tôi cũng không biết, nhưng phải đợi chủ thuyết cộng sản được gần hai ngàn tuổi  như đạo Công Giáo, lúc bấy giờ tôi mới trả lời anh được!
   Câu chuyện cha Gagnon kể tuy đã 20 năm rồi nhưng tôi còn nhớ rất rõ, vì tôi thích câu trả lời đầy ý nhị của ngài.
Trong khi ngồi nghĩ miên man, lúc đó tôi quyết định khi nào thuận tiện tôi sẽ ghi lại chi tiết những gì đã xảy ra trong tù và những suy tư của tôi qua những biến cố đó. Nếu tôi có ghi lại, không phải để than oán cuộc đời, cũng không phải để trách cứ con người. Tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm của tôi với nhiều người.
Tôi cũng muốn viết để bày tỏ lòng biết ơn những tâm hồn cao thượng trong số những anh em đồng cảnh và cả một vài cán bộ mà tôi đã gặp được trong tù. Tôi cũng viết để tưởng nhớ những người đã cùng sống với tôi và đã chết trong tù.
Nhưng quan trọng hơn cả là tôi muốn ghi lại như một bài học của lịch sử, gửi tới đồng bào Việt Nam mà tôi yêu mến, nhất là những người trong thế hệ trẻ, không phân biệt Nam hay Bắc, không phân biệt đang sống trong nước hay ở hải ngoại, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt bây giờ và trước kia thuộc về thể chế chính trị nào, không phân biệt đã từng đứng về phía nào trong cuộc chiến tương tàn trên quê hương, không phân biệt là nạn nhân hay là tác nhân đã gây nên nỗi khổ cho các nạn nhân, những lời tâm huyết sau đây:





Đồng bào Việt Nam thương mến,
Máu dân tộc Việt Nam đổ ra đã đủ rồi.
Vết tích đau thương còn lưu lại trên thân thể trong cuộc đời còn lại và trong tâm hồn của những thương phế binh của cả hai bên trong cuộc chiến tương tàn đã gây đau khổ đủ rồi.
Nỗi đau thương của người dân vô tội Việt Nam đã quá nhiều rồi.
Cơn điên loạn vì tôn thờ chủ nghĩa ngoại lai đã giết hại đồng bào đủ rồi.
Bom đạn của ngoại bang đã cày xé nát thân thể Mẹ Việt Nam quá nhiều rồi.
Sự nghi ngại nhau giữa các thành phần dân tộc, giữa các tôn giáo đã từng tác hại cho tình đoàn kết dân tộc đã quá nhiều rồi.
Lòng hận thù và lòng tham lam vô độ của những kẻ có thế lực qua các thời đại như con thú dữ thả lỏng dây cương, đã hoành hành và hãm hại thành phần thất thế và không có tiếng nói trong dân tộc đủ rồi. Hãy nhớ rằng thể chế chính trị nào rồi cũng sẽ qua đi, chỉ có Dân Tộc là trường tồn.”

Hãy để những dị biệt của quá khứ lại phía sau và cùng nhau xây dựng một tương lai sáng lạng cho Dân Tộc trong một xã hội Tự Do, Công Bằng và Phát Triển.
Và chủ yếu là tôi muốn gửi tâm tình thiết tha sau đây tới thế hệ trẻ Việt Nam





           Các bạn trong thế hệ trẻ thương mến,
Dân tộc chúng ta đã trải qua một giai đoạn u buồn đầy máu và nước mắt. Những người trong thế hệ trước, mặc dù có nhiều cố gắng  nhưng chưa mang lại được tình thương và sự đoàn kết dân tộc. Tôi ước mong điều đó sẽ thành tựu trong thế hệ của các bạn. Xin các bạn đừng để cho những biến cố đau thương của lịch sử trói buộc mình, hãy dùng lịch sử như một bài học để có thể  tránh tái diễn thảm cảnh cho dân tộc.
Hãy để cho những người chết được nghỉ yên. Hãy kính những anh hùng nhưng không sống vì ho. Lịch sử dân tộc là một cuộc hành trình tiếp diễn và mỗi thời đại sẽ sinh ra những anh hùng dân tộc mới. Theo tôi nghĩ, những anh hùng dân tộc thực sự  là những người có can đảm  vượt ra ngoài sự ràng buộc của quá khứ để hướng về tương lai với sự hiểu biết và khoan dung.
Đừng ngồi đó để ngâm nga lịch sử hay than van oán trách con người, nhưng hãy dùng lịch sử như ngọn đèn soi sáng con đường dân tộc ta phải đi.
Khi nhìn lại giai đoạn lịch sử cận đại, tôi thấy cuộc chiến tương tàn đầy máu và nước mắt kéo dài mấy mươi năm trên quê hương chúng ta, cuối cùng đã im tiếng súng. Nhưng trong lòng dân tộc Việt Nam, cuộc chiến vẫn chưa tàn. Điều thật trớ trêu là cuộc chiến đó  không có kẻ thắng mà chỉ có những  người thua, và những người thua cuộc đó chính  là DÂN TỘC VIỆT NAM. Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn ánh sáng của BÌNH MINH DÂN TỘC trong cuộc sống Công Bằng, Tự Do và Phát Triển.

Tôi ngồi trên ghế, gục đầu yên lặng khá lâu để cầu nguyện theo ý hướng đó.
Bước vào tương lai vô định.
Một lúc sau, tôi cảm thấy lạnh và nghĩ là tốt hơn nên vào phòng cố gắng ngủ một chút sau một ngày đi đường mệt nhọc. Vả lại, sáng ngày còn nhiều việc khác để làm. Tôi tính việc đầu tiên trong ngày là phải tìm đến làng Bưởi để dò hỏi tin tức về Bình Thanh mà sáu năm qua tôi không nghe biết tin tức gì. Tôi quay vào phòng, đóng cửa lại và leo lên giường ngồi đọc kinh. Đọc kinh xong tôi nằm xuống, quyết tâm sẽ dỗ giấc ngủ bằng câu nói:“Quên hết mọi chuyện! Phải ngủ cho khỏe để mai còn đi. Đừng có như cái đêm vừa được ra khỏi nhà kỷ luật!”
Vừa liên tưởng tới cái đêm được ra khỏi nhà kỷ luật ở trại Thanh Cẩm sáu năm về trước, đầu óc tôi lại căng thẳng và suy nghĩ.
Tôi nhớ lại đêm hôm đó vừa được chuyển từ kỷ luật qua khu kiên giam sống với một số Linh mục khác. Đêm đó, mọi người trong buồng ngủ say, nhưng sao tôi cứ trằn trọc mãi không ngủ được. Tôi nằm trăn trở từ bên này qua bên kia để cố dỗ giấc ngủ nhưng không tài nào chợp mắt. Khổ hơn nữa, khi phải nằm nghe tiếng ngáy đều của anh em trong buồng.
Tôi khó ngủ có lẽ vì nhiều lý do. Một phần vì tâm trạng người tù được tha cùm sau gần ba năm trong kỷ luật, tôi nằm tính lại đúng 1020 ngày đêm! Một phần nhớ em tôi là tướng cướp Bình Thanh ở chung buồng kỷ luật mà tôi vừa từ giã ra đi. Phần nữa, tôi cảm thấy thiếu một thứ gì đó rất quen thuộc. Chừng nhớ ra mới biết là thiếu cái móng cùm ngoạm vào cổ chân. Thì ra trong 1020 đêm liên tiếp đó, đêm nào tôi cũng đi ngủ với một chân xỏ vào cùm, và đêm nay cả hai chân nằm ngoài. Thừa một chân, tự nhiên sao cảm thấy nó vướng víu kỳ dị!
Tới quá nửa đêm vẫn chưa chợp mắt, tôi lò mò xuống ngồi ở lối đi trong buồng, hút thuốc lào. Nghe tiếng động, cha Lê Đức Triệu, tức nhạc sĩ Hoài Đức, cũng thức giấc và bước xuống ngồi hút thuốc với tôi. Cha Triệu mà tôi gọi là Bố Triệu, là tác giả bài Thánh ca Giáng Sinh “Cao Cung Lên” rất phổ biến. Người cao và gầy ốm, tướng đi khoan thai đĩnh đạc, bộ râu cằm không nhiều nhưng khá dài. Nhìn qua phong thái, cha giống như một tiên ông đạo cốt trong truyện tàu.
Trước đó, cha Triệu đã giúp phổ nhạc cho bài thơ tôi làm sau khi vào tù một năm. Tôi cũng chẳng biết người Linh mục nhạc sĩ này thực sự có hứng, hay vì nể nang trước lời tôi yêu cầu, mà phổ nhạc bài thơ lục bát 12 câu tôi soạn, có tựa đề khá trữ tình: “Đếm hạt mưa rơi!”, như sau:


           Phòng giam vắng lạnh về đêm,
Ngoài trời mưa đo  tăng thêm nỗi sầu.
Xa người xa đã bấy lâu
Đêm nay gởi nhớ thương sầu về ai?
Nhớ ai tôi nhớ đêm ngày,
Bao đêm thức trắng đắng cay mỏi mòn.
Nhạc buồn tiếng dế nỉ non!
Dế ơi!  Không ngủ dế còn gọi ai?
Hay lòng dế cũng đắng cay,
Thương vay khóc mướn cho hai cuộc đời?
Lặng nhìn đếm hạt mưa rơi,
Bao nhiêu giọt nước bấy lời nhớ thương!”
          Tôi không biết làm thơ và cũng chưa bao giờ làm thơ cả, mặc dù tôi rất thích thơ. Đêm đó, vào năm 1977, một mình trong xà lim trại Phan Đăng Lưu buồn quá, nhìn ra ngoài qua cái lỗ vừa đút lọt cái ca đựng nước trên cửa sắt buồng giam, bên ngoài lại mưa rỉ rả. Tôi bèn thử thời vận, đánh bạo ê a vài câu thơ đó, và cố nhớ trong lòng.
        Tôi chẳng biết nó có đúng niêm đúng luật gì hay không. Nếu quý vị nào thấy mấy câu thơ đó kỳ quá, xin cứ xé bỏ trang sách này cho tôi đỡ ngượng. Dù vậy, tôi cũng xin sự rộng lượng của độc giả, vì bài thơ con cóc này là bài thơ duy nhất tôi sáng tác trong 13 năm tù, và đúng hơn là trong cả đời tôi, ít ra là cho tới lúc này.
   Cha Triệu vui vẻ hỏi thật nhỏ:
  - Chú Lễ chưa ngủ à?
   Tôi trả lời:
  - Sao đêm nay con khó ngủ quá bố Triệu ơi! Cứ nằm lăn lộn trở trăn hoài!
   Cha Triệu vê bi thuốc lào vào nõ điếu, hỏi:
  - Sao khó ngủ? Bộ nóng lắm hả?
  - Không phải đâu bố, phòng này mát hơn bên kỷ luật nhiều!
   Bố Triệu ngửa mặt lên trời, nhả khói xong hỏi:
  - Thế sao không ngủ được?
  - Con ngủ bên kỷ luật bị cùm một chân quen rồi, qua đây thiếu cái móng cùm con thấy một chân bị thừa thãi và nhẹ tong. Cứ nằm quơ quơ  trên không hoài không biết để chân đó ở đâu!
   Nghe tôi nói cha Triệu bật cười thành tiếng, quên cả có người đang  nằm ngủ kế bên. Vẫn giữ nụ cười thoải mái và rạng rỡ, vị Linh mục nhạc sĩ nói:
  - Cái chú này! Thiệt tình tôi chẳng biết chú ra làm sao!                       
                
     
Trở về thực tại
Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Một giấc ngủ thật say, yên lành và không mộng mị. 
 
Có tiếng gõ cửa khá to, tôi giật mình choàng dậy, tưởng là đang còn trong tù, nghĩ vội:“Chết cha rồi, mình ngủ quên để cán bộ phải vào gọi, chắc là đội đã báo số xuất trại rồi!” Tôi ngồi bật dậy như cái máy, mở mắt ra và ngạc nhiên thấy khung cảnh lạ. Không biết  mình đang ở đâu. Nhưng một giây sau tôi nhận ra thực tại, nên vội tuột xuống giường và bước ra mở cửa phòng.
Khi vừa đưa tay chạm cái quả nắm bằng sứ trắng tinh trên cánh cửa phòng khách ở Nhà Chung Hà Nội, tôi cảm thấy lạnh nơi lòng bàn tay đồng thời với tâm trạng hạnh phúc của con người TỰ DO. Tôi cảm nhận giây phút sung sướng tuyệt vời lúc đó như đang được bay bổng lên chín tầng mây vì đây là lần đầu tiên sau 13 năm trời tôi được tự tay mở cửa buồng vào buổi sáng sau khi thức dậy.
Nhớ lại trong thời gian hơn chục năm trong tù, sáng nào tôi cũng nghe tiếng kẻng vang lên ở cổng trại, sau đó là tiếng chìa khóa khua rổn rẻng cộng với tiếng lòi tói va chạm vào cửa sắt. Có khi là tiếng rít chói tai của song sắt cài cửa to như cổ tay trẻ em, khi cán bộ hoặc người tù trật tự rút một cách mạnh bạo và hối hả thanh sắt đó ra khỏi các khoen sắt để mở cửa buồng giam.
Vì đã quen nghe âm thanh ấy như một điệu nhạc buồn mỗi buổi sáng nên lúc đó tôi không chú ý nhiều. Bây giờ nhớ lại tôi mới rùng mình ghê rợn. Lúc đó, sau khi cửa buồng giam mở ra, đám tù nhân chúng tôi xếp thành hàng một bước ra cho người ta đếm. Cảnh này giống y như ở một nông trại, mỗi sáng người chủ nông trại đếm lại từng con thú trong bầy súc vật đang từ chuồng chen lấn nhau ra. Cái khác nhau duy nhất là bầy súc vật có khi chạy nhảy vô trật tư,ï còn đám tù chúng tôi thì đi ngay hàng thẳng lối, đầu cúi gầm xuống. Mới sáng hôm qua đây tôi cũng còn sống trong khung cảnh “cúi đầu bước ra” ấy ở trại tù Nam Hà.
Lúc này, khi cách cửa phòng khách mở ra, tôi thấy bên ngoài ánh nắng ban mai đã chói chang và báo hiệu một ngày đẹp trời. Một thầy phòng bộ có mái tóc đầu đinh, mặc quần đen, áo sơ mi trắng ngắn tay, bỏ ngoài quần, chân mang săn-đan màu đen, đứng bên ngoài cửa tươi cười: “Chào cha! Chắc hôm qua cha đi đường mệt nên ngủ ngon, con đã gọi cửa khá lâu. Xin lỗi con phải đánh thức cha. Đức Hồng Y mời cha xuống ăn điểm tâm.”
Tôi không kịp nhìn đồng hồ trên tường, vội đáp lại: “Chào thầy...” và lí nhí thêm câu gì tôi cũng không nhớ. Nhưng tôi còn nhớ là lúc bước vội vào nhà tắm, tôi tự hỏi: “Ông này là Trác hay Trạc đây hả trời?!” 
                                                                                                                 Mùa Thu Năm Quý Mùi  2003
 


Phần Phụ Trương
Phụ Trương
Tôi Phải Sống
 
                    Phụ Trương Một:  
Cái chết của tướng cướp Bình Thanh.

 
Sau khi ra tù tôi ở lại miền Bắc nửa tháng. Trong thời gian này, tôi đã tìm tới làng Bưởi để tìm Bình Bưởi, dò hỏi tin tức về Bình Thanh, nhưng không ai biết. Bình Bưởi có thể biết nhưng người nhà cho hay là Bình Bưởi đã bị bắt lại vào tù rồi. Vì vậy, tôi không thể nào tìm ra manh mối. Sau đó, tôi đi thăm khá nhiều địa điểm du lịch ở nội thành Hà Nội và một số Giáo phận miền Bắc như Bắc Ninh, Hải Phòng, Bùi Chu và Thái Bình. Ngoài việc thăm các Giám mục và Linh mục để tìm hiểu về hoàn cảnh Giáo hội miền Bắc, tôi còn thăm một số bạn tù đã về trước tôi.
Sau đó, tôi xuôi tàu Thống Nhất về Sài Gòn vào đầu tháng 8 năm 1988. Về Sài Gòn tá túc ở nhà một người cô và có một lần lén về quê thăm mộ cha má . Má tôi đã chết 11 năm trước, khi tôi còn trong tù. Tôi không thể về nhà quê cách công khai vì sợ chính quyền địa phương có thể bắt lại bất cứ lúc nào, trong khi ở thành phố lớn như Sài Gòn dễ sống trà trộn hơn. Hoàn cảnh tôi lúc đó không thể sống ở lại quê hương vì tôi không được trả quyền công dân, không có hộ khẩu và dĩ nhiên là không được thi hành những công việc thuộc chức vụ Linh mục. Do đó, tôi đã trình bày hoàn cảnh với Giám mục Vĩnh Long, bấy giờ là Đức cha Nguyễn Văn Mầu, với những lý do trên và ý định vượt biên.
Tôi vượt biên bằng cách cải trang, thay danh đổi họ và đi đường bộ qua Campuchia. Từ Camphuchia, tôi qua Thái Lan bằng tàu đánh cá Thái và tới được trại tị nạn Banthat, nằm ngay sát biên giới Thái-Camphuchia vào tháng Giêng năm 1989. Vào trại tị nạn tôi ở chung nhà với hai thanh niên là hai anh em Văn và Võ mà lần đầu tiên tôi gặp trong trại này.
Một buổi trưa nọ, khi ba cha con tôi đang ngồi trong nhà, có một người đàn ông lạ mặt, khoảng ngoài 40, bước vào nhà. Anh mặc áo thun trắng, quần dài và người anh có nhiều vết xâm trổ, lòi ra từ hai cánh tay. Nhận xét đầu tiên của tôi không mấy tốt đẹp về con người này. Vì lúc đó, trại rất đông và anh ta ở khác khu, lại không phải là người Công giáo nên tôi chưa từng có dịp gặp và biết anh. Bước vào nhà, tôi chưa kịp mời ngồi thì anh ta đã lên tiếng hỏi:
    - Xin lỗi, anh là cha Lễ và có phải là cha Lễ ở Bưng Trường không?
     Tôi giật mình vì người đàn ông xa lạ này biết quá nhiều về tôi. Tôi trả lời:
    - Vâng, tôi là cha Lễ ở Bưng Trường đây. Nhưng sao anh lại biết tôi?
     Người đàn ông lạ mặt chẳng lộ vẻ gì khác trên mặt, vẫn giữ thái độ xa lạ nói tiếp:
    - Như vậy, chắc anh biết Bình Thanh?
     Tôi bật đứng lên, bước tới chụp lấy vai anh:
    - Anh nói gì? Anh biết Bình Thanh à? Trời! Tôi mong tin Bình Thanh đã 7 năm nay. Anh nói tôi nghe hiện nay Bình Thanh, em tôi ra sao?
     Tôi hỏi một thôi một hồi làm anh ta đứng chết trân, không trả lời tôi câu nào, nhưng chỉ nói:
    - Thế thì sáng ngày mai, quãng 9 giờ, mời anh tới chỗ tôi để chúng ta nói chuyện.
Nói xong, anh ta cho tôi số nhà và khu vực anh ở rồi quày quả bước ra trước sự ngạc nhiên của tôi và hai thanh niên trong nhà. Thái độ của người đàn ông lạ mặt này càng làm tôi nôn nóng hơn. Đêm đó, tôi lại trằn trọc không ngủ được, cứ băn khăn mãi về thái độ có vẻ bí mật của người đàn ông lạ mặt, làm tôi lo sợ về một hung tin liên quan tới Bình Thanh. Dầu sao, tôi cũng phải chuẩn bị tinh thần để đón nhận tin đó.
Hôm sau, tôi tới nhà anh ta theo giờ hẹn và thấy anh chỉ ngồi một mình, có đứa bé chừng 3 tuổi đang chơi ngoài sân. Thấy tôi tới, anh mời vào nhà ngồi xuống ghế có chiếc bàn ọp ẹp trước mặt. Anh ngồi đối diện và rót nước mời. Tôi móc bao thuốc lá mời lại. Anh rút một điếu, ngậm nơi môi và bật lửa cho tôi trước. Anh làm các việc này trong thinh lặng khác thường, không có gì là vội vã và cũng chẳng tỏ ra dấu gì đặc biệt khi mời một người khách tới nhà. Tôi chẳng hỏi han gì, vì mục đích hôm nay tôi tới đây đã rõ ràng không cần phải hỏi, không cần thúc giục. Tôi thấy có cái gì hơi khác lạ trong sự chần chừ của người chủ nhà lạ mặt này.
Sau khi kéo hơi thuốc lá đầu tiên, anh ta với lấy chén trà nhưng không uống, chỉ kê lên môi rồi hạ xuống. Tôi đoán chừng như anh ta có tâm sự gì khó nói, tôi càng đâm ra lo lắng hơn. Nãy giờ tôi vẫn ngồi thinh lặng đợi chờ. Anh ta đặt chén trà xuống bàn, vừa xoay xoay chén vừa nhìn thẳng vào tôi, và lên tiếng gọi tên tôi một cách rất bất ngờ:
    - Anh Út!
     Tôi giật mình, vì chỉ có Bình Thanh mới gọi tôi bằng tên này, ngoài ra, không ai biết được, nếu Bình Thanh không nói cho người đó biết.
     Thấy tôi giật mình sửng sốt, anh ta nói tiếp luôn: 
             
    - Anh Út, Bình Thanh đã chết rồi anh!
Tôi ngồi chết lặng! Hình như anh ta nói tiếp theo một câu gì nhưng tôi không còn nghe được nữa. Tâm trạng tôi lúc đó như người vừa bị  trúng đạn. Có một cái gì như một cú đập vào thái dương quá nặng làm tôi lảo đảo. Tôi gỡ điếu thuốc trên môi ra, dí vào cái đĩa gạt tàn trước mặt, gục đầu xuống trên hai tay đang ôm trán.
 Tôi ngồi chết lặng! Một lúc sau, nước mắt bỗng tuôn trào thành dòng. Càng lúc cơn xúc động càng lúc càng dâng cao, cổ tôi như bị tắc nghẽn. Tôi khóc thực sự, và không kềm hãm được trước mặt người đàn ông xa lạ vừa báo tôi một hung tin. Tôi vẫn ngồi tại chổ, cho tay vào túi quần, nhưng không có khăn tay, tôi kéo vạt áo sơ-mi, tháo cặp kính để lên mặt bàn và dùng vạt áo chùi nước mắt đang tuôn trào, không kềm hãm được.Tôi đứng dậy lảo đảo bước ra ngoài.
Ra tới đầu nhà, tôi bước tới, đứng dựa vào một thân cây, cúi đầu xuống và ôm mặt khóc như một đứa trẻ con. Tôi chưa nghe anh bạn nói lý do và Bình Thanh đã chết lúc nào nhưng tôi cũng có thể đoán ra là em tôi đã chết từ lâu rồi, và phải là cái chết không bình thường. Tự nhiên trong  lúc đó, tôi thấy lại con người của Bình Thanh đang vui vẻ, cười đùa, nói năng trước mặt như lúc anh em tôi còn sống chung trong tù. Tôi nhớ lại Bình Thanh có lần nói với tôi:“Em không bao giờ chết trên giường bệnh”. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao hôm qua anh bạn này không báo tin tại nhà tôi, mà lại mời tôi tới nhà anh, lúc không có người chung quanh.
Một lúc sau, anh chủ nhà bước ra mời tôi trở vào nhà. Tự nhiên, tôi thấy quý anh, vì lúc này, anh là người có thể chia sẻ với tôi nỗi đau quá bất ngờ này.
     Vừa ngồi xuống ghế, anh bắt đầu nói, không cần đợi tôi hỏi gì thêm:
    - Anh Út, tên em là Đạo, em là bạn của Bình Thanh. Em và một thằng bạn nữa cùng đi với Bình Thanh xuống Bưng Trường thăm chị Hai. Lần đó, chị Hai sợ cuống cuồng khi thấy bọn em đóng giả làm bộ đội bước vào nhà. Chắc là chị Hai đã kể lại chuyện này với anh?
     Tôi ngồi yên gật đầu. Đạo nói tiếp:
    - Bình Thanh đã chết lâu lắm rồi anh ạ, chỉ vài tháng sau khi tụi em xuống nhà thăm chị Hai thôi.
     Tôi trả lời là tôi cũng đoán biết như vậy, vì nếu Bình Thanh còn sống thì làm gì sáu, bảy năm rồi không tin cho anh. Đạo nói tiếp theo:
    - Bọn em quen nhau từ miền Bắc. Khi Bình Thanh vượt ngục ra gặp lại và một tháng sau bọn em tìm đường vô Nam, cũng đóng giả làm bộ đội. Bình Thanh quyết tâm phải xuống Vĩnh Long thăm chị Hai mà Bình Thanh đã coi là người chị từ sau khi kết nghĩa với anh trong tù. Bình Thanh nhắc về anh luôn với sự quý mến rất đặc biệt.
Sau đó, Đạo kể lại thời gian ở Sài Gòn, có mấy ngày Bình Thanh một mình đi Hố Nai, nói là đi vì một việc riêng. Lúc đó, Bình Thanh có ý hoạt động cầm chừng và chờ tôi về để cùng nhau vượt biên ra nước ngoài. Nhưng Bình Thanh cũng biết là tôi khó mà về sớm nên đã nghĩ tới việc trở ra Bắc lại để đánh cướp và giải thoát tù, vì Bình Thanh biết hết ngõ ngách và giờ giấc sinh hoạt trong trại tù Thanh Cẩm. Nhưng kế hoạch này, trước tiên, phải có nhiều tiền mới thực hiện được. Đó cũng là lý do cả bọn kéo qua Camphuchia bằng xe tải của bộ đội.
     Uống chút nước, Đạo kể tiếp:
    - Lúc đó, ở Nam Vang người Việt mình đông lắm và các băng đảng hoạt động rất mạnh, cả người Việt lẫn Campuchia. Các băng đảng phải loại nhau để làm chủ tình thế. Chẳng may trong một cuộc chạm súng với băng Việt khác gần Nam Vang, Bình Thanh bị thương nặng và chết ngày hôm sau trong lúc anh em vây quanh.
         Sau khi an táng Bình Thanh gần một ngôi chùa ngoài thủ đô Nam Vang, bọn em kéo về Việt Nam. Từ đó, em ở lại sinh sống trong Nam và cưới vợ, có một cháu trai anh thấy đó. Sau đó, bọn em vượt biên qua đây và không ngờ được gặp anh.
Ngồi nghe Đạo kể về cái chết của Bình Thanh, lòng tôi buồn vô hạn. Tôi hỏi thăm về Hường thì Đạo cho biết Bình Thanh nói với anh rằng, lúc còn trong tù, tôi dặn rất kỹ là khi vượt ngục ra, Bình Thanh đừng bao giờ gặp Hường, cho dù bất cứ nơi nào trong đất nước, vì Bình Thanh vượt ngục là người ta sẽ theo dõi Hường từng bước đi. Do đó, Bình Thanh chỉ báo tin cho Hường và thu xếp để cả hai ra nước ngoài, nhưng việc này còn phải chờ đợi tôi. Sau khi Bình Thanh chết, các anh em cũng không báo hung tin cho Hường, sợ Hường buồn khổ và làm liều!
Sau đó, chúng tôi trao đổi thêm nhiều điều tôi muốn biết về Bình Thanh và trước khi từ giã ra về, Đạo đứng lên nói nghiêm trang:
    - Anh Út, anh có tin là oan hồn của Bình Thanh xui khiến cho chúng mình gặp nhau ở đây không?
     Tôi đứng yên một lúc, đưa tay ra bắt lấy tay Đạo và nói thay cho câu trả lời:
    - Bình Thanh là con người rất nặng tình nặng nghĩa!
Đêm đó, trong căn nhà lá nhỏ của trại tị nạn tôi thức khuya, chong đèn ngồi một mình ở phòng ngoài trong khi hai anh em Văn và Võ ngủ bên trong. Hai thanh niên xa lạ này đã ở trại tị nạn một thời gian trước khi tôi tới trại Banthat. Ba cha con tôi sống chung nhà và rất thương yêu, quý mến, lo lắng cho nhau.
Tôi ngồi một mình đốt hết điếu thuốc này sang điếu khác, nhưng chỉ hút một hơi rồi để xuống cái gạt tàn trên bàn. Tin Bình Thanh chết làm tôi gần như kiệt lực. Ngày còn với nhau trong tù, anh em quyết định sẽ ra nước ngoài sinh sống và chừng đó Bình Thanh sẽ từ bỏ kiếp sống giang hồ mà hoàn cảnh trong đất nước đã tạo nên. Lúc này, tôi đã vượt biên qua Thái Lan, đang đứng trước ngưỡng cửa của thế giới tự do thì Bình Thanh không còn nữa.
 Tôi ngồi ôn lại từng kỷ niệm với Bình Thanh. Tôi nhớ lại hàng chữ xâm trổ sau lưng em tôi, bên dưới hình cái lư hương đang tỏa khói và trên cùng là hình Phật Bà Quan Âm thật to:“Khi tôi chết ai là người xây nấm mộ. Cỗ quan tài ai khóc tiễn đưa tôi”. Bình Thanh là một tướng cướp có thể bị nhiều người ghét bỏ và nguyền rủa, nhưng với riêng tôi, Bình Thanh là một trong những người tôi thương mến nhất trên đời. Là một tướng cướp, nhưng là một tướng cướp hào hiệp. Tình người của Bình Thanh đã mang đến cho tôi khoảng trời màu hồng trong cái đêm đen của đáy địa ngục trong khu kỷ luật trại tù Thanh Cẩm. Bình Thanh là một tướng cướp có nhiều hành động tàn ác, nhưng tàn ác vì hoàn cảnh mà không vì bản chất. Ngược lại, tôi đã chứng kiến và là nạn nhân của một vài người mang danh hiệu và chức vụ rất cao đẹp, nhưng vào tù lại hành động tàn ác không phải chỉ vì hoàn cảnh mà cả do bản chất nữa. Sánh với những con người này thì tướng cướp Bình Thanh đứng ở một nấc cao hơn trong  bậc thang giá trị làm người.
 Tôi đứng lên bước vào buồng trong, mở túi ra tìm cái bấm móng tay nhỏ, đã rỉ sét, mà Bình Thanh giao lại tôi như một vật kỷ niệm trong buổi chiều cuối cùng trước khi vượt ngục từ khu kỷ luật trại tù Thanh Cẩm 7 năm về trước. Cái bấm móng tay này lúc nào tôi cũng mang theo, ngay cả lúc ra đi vượt biên.
 Trở ra ghế ngồi và nhìn vật kỷ niệm nhỏ này khiến tôi nhớ lại từng chi tiết của buổi chiều cuối cùng còn thấy nhau. Trong giờ phát thức ăn ban chiều hôm đó, Bình Thanh trèo tường ngăn hai khu Kiên Giam và Kỷ Luật, qua gặp tôi và cho biết đêm đó sẽ đi và xin tôi cầu nguyện. Lúc đó, anh em tôi đã chảy nước mắt khi Bình Thanh ôm tôi nói:“Em từ giã anh và có thể là vĩnh biệt anh.” Lúc bấy giờ tôi cũng có cảm tưởng đó là lần cuối cùng anh em còn thấy nhau trên cõi đời.  Không ngờ điều tôi lo lắng đó đã trở thành sự thật.
Tôi lại nhớ tới một kỷ vật khác, và giở bàn chân trái lên, kề đèn lại để nhìn cho rõ cái dấu xâm trổ rất nhỏ gần mắt cá phía trong. Dấu xâm chữ “H” chỉ to bằng đầu ngón tay mà tự tay Bình Thanh đã xâm cho tôi trong buồng 2 khu kỷ luật trại tù Thanh Cẩm vào năm 1982. Lúc đó, Bình Thanh nói:“Em xâm cho anh cái dấu này trên bàn chân, chỗ dễ nhìn thấy nhất để mỗi khi xỏ chân vào cùm anh cũng nhìn thấy, và sau này nếu anh còn có dịp mang giày, khi xỏ chân vào giày anh cũng thấy cái dấu chữ “ H”, nghĩa là “ HẬN”, để nhắc anh nhớ thời gian này.”
Cái dấu xâm trổ đó dĩ nhiên là còn trên bàn chân tôi và sẽ theo tôi suốt đời, nhưng cái ý nghĩa của nó đã đổi khác. Chữ “H” ở đây không còn là “HẬN” nữa, nhưng tôi coi đó là bắt đầu của chữ “HOPE” trong tiếng Anh, là niềm “Hy Vọng”.
Vì qua những kinh nghiệm đau thương mà tôi đã từng trải, tôi Hy Vọng vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc Việt Nam và sẽ không để cho sự hận thù của hoàn cảnh lịch sử trói buộc.
Có tiếng bước chân nhè nhẹ phía sau lưng, tôi quay lại, thấy Võ từ trong buồng bước ra đến bên tôi nói nhỏ:
    - Khuya lắm rồi sao cha chưa ngủ? Để con dọn ghế bố cho cha.
Trong hai anh em thì Võ gần gũi tôi nhất. Nó lo lắng từng miếng ăn giấc ngủ cho tôi. Tôi thương nó nhất và cũng bị tôi la rầy nhiều nhất! Vừa nói, Võ vừa bước lại gần bàn viết nhỏ hẹp của tôi trong căn nhà lá ọp ẹp mà ba cha con tôi sống. Võ xê dịch bàn ra một chút để lấy chỗ bước vào phía trong mắc màn cho tôi. Vừa mắc màn, Võ hỏi tôi bằng cái giọng rề rề cố hữu:
    - Con thấy từ sáng tới giờ, hình như cha có chuyện gì rất buồn. Chuyện gì vậy cha?
     Tôi lắc đầu trả lời:
    - Bây giờ khuya rồi, sáng ngày cha kể con nghe.
Ngồi nhìn Võ đang với tay mắc màn trên chiếc ghế bố cho tôi, tự nhiên tôi nhớ tới Bình Thanh. Hoàn cảnh đã đưa đẩy tôi vào tù gặp Bình Thanh và cũng lại hoàn cảnh đưa đẩy tôi tới trại tị nạn Thái Lan và gặp Võ. Tôi biết là tôi sẽ còn gắn bó với anh thanh niên xa lạ này lâu dài, vì những ngày tháng sống chung, tôi rất thương Võ, và coi như đứa con trai của tôi.
 
 
                                   *****
 
nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#22 
sóng trăng 16.02.2007 09:35:03 (permalink)
.
 
Phụ Trương hai:   
Những cuộc gặp gỡ
 
 
A. Gặp lại các bạn tù.
 
Tôi sống trong trại tị nạn Thái Lan một năm rưỡi, cho tới giữa năm 1990, qua định cư và làm việc tại thành phố Auckland, nước Tân Tây Lan (New Zealand), một quốc gia quần đảo trong vùng Nam Thái Bình Dương. Tôi đến đây theo lời mời của Giám Mục Denis Browne, Giám mục Giáo phận Auckland, để phụ trách Cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Giáo phận này.
Hai năm sau, 1992, tôi bắt đầu đi khá nhiều nơi trên thế giới để cùng với đồng bào Việt Nam hải ngoại tranh đấu cho Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo tại Việt Nam. Trong thời gian đi lại nhiều nơi, tôi có dịp gặp lại rất đông những người tôi đã từng quen biết trước kia trong nhiều lãnh vực. Có những người bà con, đồng hương, bạn học, giáo dân trong các giáo xứ ở Việt Nam ngày trước, những người ở trại tị nạn với tôi và những người đã từng ở tù chung với tôi trong nhiều trại tù khác nhau từ Nam ra Bắc. Đặc biệt nhất là hai người đã cùng tôi chịu đựng gian khổ trong kỷ luật, sau khi vượt ngục bất thành tại trại Thanh Cẩm ở miền Bắc năm 1979, là anh Trịnh Tiếu và anh Nguyễn Sỹ Thuyên.
 Anh Trịnh Tiếu tới Mỹ và định cư tại Sacramento. Anh hoạt động rất hăng say và có uy tín trong Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Sacramento. Anh giữ chức vụ Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị, trong khi một chiến hữu rất tích cực khác là anh Trần Văn Ngà, giữ chức Chủ tịch Ban Chấp Hành.
Nhưng chẳng may, mấy năm sau anh Tiếu bệnh và qua đời vài ngày trước Tết năm 1996. Vì cận ngày Tết, tôi không thể có mặt trong đám tang anh, nhưng sau đó, tôi qua làm Lễ Giỗ 100 ngày cho anh. Hiện nay, chị Phi Nga là người vợ sau của anh Tiếu và con gái là cháu Thảo Trâm đang sống ở Sacramento. Ngoài ra, hai người con đời hôn nhân trước của anh là Trịnh Xuân Thọ và Trịnh Thị Trúc Mai đang sống ở Virginia, Hoa Kỳ.

Anh Nguyễn Sỹ Thuyên qua Mỹ và định cư tại San Jose. Tôi có tới thăm anh tại đó. Sau một thời gian có lẽ vì cuộc sống quá cô đơn và buồn tẻ nên anh đã quay trở lại Việt Nam.

Trong số những người ở tù chung, đa số khi gặp lại, chúng tôi rất mừng và đầy tình thân ái vì cùng chung cảnh khổ và cũng đã từng giúp nhau, chia sẻ với nhau trong cảnh khốn cùng. Thứ tình nghĩa này rất sâu đậm mà người ngoài cuộc nhiều khi khó có thể cảm thông được. Gặp lại nhau, tất cả anh em bạn tù rất vui mừng và đầy thân ái. Nhất là khi ngồi nhắc lại các tình huống trong thời gian tù mà chúng tôi sống với nhau.
 Nhân cơ hội này, tôi cũng muốn bày tỏ sự vui mừng và biết ơn khi các anh em đã giúp tôi khi vừa vượt biên tới trại tị nạn Thái Lan năm 1989, và sau này đã ân cần tiếp đón tôi trong nhiều năm qua. Tất cả các anh em đều là những người tôi quý mến, cho dù một số người tôi chưa được dịp biết trong tù nhưng vì sống chung trại nên sau này chúng ta vẫn nhận nhau là những người anh em.
Tôi đã gặp một số đông anh em tại nhiều Tiểu bang của Hoa Kỳ, một số tại Canada, Pháp và vài anh em ở Úc Châu là nước láng giềng với tôi. Trong khuôn khổ cuốn sách này, tôi không thể kể ra hết tên từng người. Ngoài hai anh Trịnh Tiếu và Nguyễn Sỹ Thuyên, tôi muốn nhắc tới với sự biết ơn và quý mến hai anh Nguyễn Văn Bảy (Bảy Chà, Virginia) và Nguyễn Tiến Đạt (San Barnadino. CA) là những người đã giúp tôi rất nhiều lúc tôi đang bị cùm trong nhà kỷ luật. Xin các anh em còn lại nhận lòng quý mến và biết ơn của tôi.
 
 
B. Gặp thân nhân anh Đặng Văn Tiếp
 
Ngay từ khi ra tù về tới Sài Gòn, tôi đã cố công dò hỏi tìm chị Hoàng Thị Huyền Thanh và anh Đặng Văn Thụ, hai người mà anh Tiếp đã nói với tôi rất nhiều trong thời gian anh em tôi sống chung nhau ở Cổng Trời và sau này trong khu Kiên Giam, trại Thanh Cẩm.
          Có người chỉ, tôi tìm đến gia đình ông Hoàng Xuân Tửu để hỏi thăm nhưng được cho biết là chị Huyền Thanh cũng như anh Thụ đã sống ở nước ngoài. Tôi nghĩ là không có cơ hội được gặp, vì lúc đó tôi chưa biết là có thể ra khỏi Việt Nam được không. Sở dĩ tôi quyết tìm ra manh mối gia đình vì anh Đặng Văn Tiếp và tôi đã kết nghĩa anh em. Tôi muốn tìm gặp những người thân yêu mà tôi chưa một lần được gặp gỡ này để nói lại những gì tôi đã biết về những ngày sau cùng của anh Tiếp và nhất là bí ẩn về cái chết của anh Tiếp mà người ngoài không bao giờ có thể biết được.
Cũng may, sau đó tôi vượt biên thành công qua trại tị nạn Thái Lan vào đầu năm 1989. Lúc ở trại tị nạn Thái Lan, tôi có gặp anh Thành là bạn luật sư với anh Đặng Văn Tiếp, vì Tiếp cũng là một luật sư. Anh Thành có nhắc với tôi nhiều kỷ niệm về anh Tiếp. Tôi cố dò hỏi tin tức và gửi lời nhắn đăng trên báo Việt Nam bên Mỹ, bên Pháp với hy vọng ai đó có thể giúp tôi tìm ra manh mối liên lạc với những người mà tôi rất muốn tìm kiếm, nhưng cũng chẳng có kết quả gì. Sau đó, tôi tới định cư tại New Zealand vào giữa năm 1990.
Năm 1992, tôi có dịp qua Mỹ lần đầu tiên để tham dự Đại Hội của Hội Đồng Việt Nam Tự Do theo lời mời của Tiến sĩ Lê Phước Sang. May mắn trong dịp đó, tôi tìm gặp được gia đình anh Đặng Văn Thụ tại Maryland, chị Hoàng Thị Huyền Thanh ở Paris bay qua Mỹ, và các người khác trong gia đình họ Đặng.
Về phía gia đình họ Đặng, trên Thụ còn có anh Đặng Văn Giám, sau đó có chị Đặng Thị Nhâm và sau cùng là Đặng Văn Thủy ở Virginia. Về phía chị Huyền Thanh, còn có chị Hoàng Thị Bích Đào ở California và anh Hoàng Văn Khuê ở bên Pháp với chị. Từ đó, hai gia đình nhận tôi là một thành phần trong gia đình và ngược lại tôi cũng coi hai gia đình về phía anh Thụ cũng như về phía chị Huyền Thanh là gia đình của tôi. Về sau này, mỗi khi qua vùng phía Đông Hoa Kỳ tôi đều ở tại nhà của gia đình anh chị Thụ - Liên và ba cháu Sâm, Bi và Bé mà tôi rất thương mến. Khi qua Pháp chị Thanh cũng thương và lo cho tôi như một người em.
 Qua anh Tiếp, tôi đã nhận được tình cảm mới trong hai gia đình. Cái chết của anh Tiếp là nỗi đau đớn chung của chúng tôi. Mặc dù chúng tôi đau đớn vì mất người thân yêu, nhưng chúng tôi biết là cái chết của anh Tiếp đã mang lại rất nhiều ý nghĩa. Đầu tiên hết là bày tỏ tính nghĩa khí và hiên ngang của con người không chịu khuất phục trước bạo quyền. Cái chết của anh Tiếp còn mang lại ý nghĩa của sự nối kết tình thân.
Ngày 2 tháng 5 năm 1999, gia đình chúng tôi tổ chức Lễ Giỗ 20 năm ngày anh Đặng Văn Tiếp qua đời tại nhà anh Thụ ở Bethesda, Maryland. Lần đó, tôi được các anh chị cho phép đứng ra thay mặt cả họ, cám ơn tất cả quý khách và bạn bè thân hữu. Tôi đã nói:“Đời người ai cũng chết một lần, không chết cách này thì cũng chết cách khác. Anh Tiếp đã chọn một cái chết để làm bài học cho nhiều người. Anh chết để mang lại tình thân. Anh cũng không ra đi trong cô đơn, vì anh đã nằm chết trên chính thân thể của một người em. Hôm nay, đã 20 năm qua rồi, nhưng tôi biết  anh đang mỉm cười nhìn thấy cảnh này. Mọi người đến đây vì thương anh và mến anh”. 
 
 
C. Những cuộc gặp gỡ bất đắc dĩ
 
Nhưng đau đớn thay, cũng có những trường hợp gặp lại nhau trong sự cay đắng, phũ phàng!
  
 Khi tôi phải gặp lại anh Bùi Đình Thi, thì quả là một điều nặng nề và đau khổ cho cả hai. Trong chuyến đi Âu Châu năm 1995, tôi có ghé qua California một thời gian để thăm viếng bạn bè, đa số là các bạn cựu tù chính trị. Khi vừa gặp tôi ai cũng hỏi là tôi đã gặp Bùi Đình Thi hiện ở Santa Ana chưa? Anh ta và gia đình đã tới Mỹ theo diện HO.
 Từ đó, tên tuổi Bùi Đình Thi là đề tài chính trong câu chuyện của anh em cựu tù nhân chính trị. Khi sang Pháp và một số nước Âu Châu, tôi có gặp một số anh bạn tù, họ cũng lôi đề tài này ra nói, mặc dù có người không hề ở chung trại Thanh Cẩm với tôi. Trên đường về, tôi có ghé lại Orange County một lần nữa và lần này, tôi đã có dịp nói chuyện với anh ta qua điện thoại. Việc gặp lại Bùi Đình Thi làm tôi khổ tâm, vì bao nhiêu kỷ niệm đau thương của 15 năm trước trong nhà tù Thanh Cẩm mà tôi đã cố chôn vùi, bây giờ lại bừng sống dậy trong tôi.
Để bày tỏ sự tha thứ cho Bùi Đình Thi, năm sau, khi trở lại Mỹ, tôi đã đích thân tới thăm và bắt tay anh vào buổi chiều tối ngày 9 tháng 9 năm 1996, tại nhà của anh ở Westminster. Cùng đi với tôi, có anh Lê Sơn và Nguyễn Tiến Đạt là hai người cũng đã ở tù chung trong trại Thanh Cẩm và biết rất rõ những việc Bùi Đình Thi đã làm trong thời gian giữ chức trật tự trại tù Thanh Cẩm.
Tôi muốn mời hai người bạn tù này chứng kiến cảnh tôi gặp Bùi Đình Thi, phần khác cũng phải nói thẳng ra là tôi không dám đi một mình . Để đánh dấu sự kiện này, anh Nguyễn Tiến Đạt có chụp một vài tấm hình mà hiện tôi còn giữ. Lần đó, ngồi đối diện nhau tại chiếc bàn nhỏ, bên cạnh là Lê Sơn, có vợ của Bùi Đình Thi đang đứng kế bên, tôi có hỏi:“Anh Thi, tôi tới đây tức là tôi đã tha thứ tất cả cho anh. Nhưng còn một thắc mắc ám ảnh tôi mãi mà tôi không sao giải tỏa được và hôm nay tôi muốn hỏi anh, ‘‘Tại sao anh cố ý giết tôi?’’ Giữa tôi và anh không hề biết nhau, không thù không oán, hơn nữa tôi là một Linh mục còn anh là một giáo dân. Tại sao anh quyết tâm giết tôi?” Lúc đó Bùi Đình Thi cúi đầu khá lâu mới ngẩng mặt lên nói nhỏ: “Thưa cha, con khó nói lắm!” Tôi đáp: “Nếu anh không nói được thì tôi không ép, nhưng như thế thì sự thắc mắc này sẽ theo tôi cho tới ngày tôi chết!” Chúng tôi ở lại nhà Bùi Đình Thi chừng nửa giờ đồng hồ. Trên đường về, tâm hồn tôi thấy nhẹ.
Nhưng khổ nỗi, Bùi Đình Thi không những chỉ đánh đập một mình tôi mà còn đánh đập nhiều người khác, trong đó có vài ba Linh mục. Nặng nề nhất là anh đã giết chết hai người tù miền Nam là Thiếu tá Dân Biểu Đặng Văn Tiếp và anh Lâm Thành Văn. Vì thế, sự xuất hiện của Bùi Đình Thi cũng như việc ngang nhiên sinh sống ngay bên cạnh các gia đình, anh em, thân nhân, bạn bè của những nạn nhân mà anh đã giết được coi như hành động thách thức lương tâm tất cả mọi người.
Riêng tôi, trong suốt gần 20 năm qua, nhiều lần tôi định ngồi ghi lại vụ sát nhân thật dã man trong nhà tù cộng sản mà tôi vừa là nhân chứng vừa là một trong những nạn nhân may mắn còn sống sót. Nhưng mỗi lần cầm bút để ghi lại, tôi vẫn phân vân tự hỏi: “Có ích lợi gì không việc khơi lại đống tro tàn của quá khứ? Việc ghi lại này sẽ có tác dụng như thế nào đối với thủ phạm, đối với các bạn tù, đối với thân nhân của các nạn nhân và các người quen biết tôi, đối với thân nhân và những người quen biết thủ phạm và cả đối với những người sẽ đọc câu chuyện này? Với tư cách là một Linh mục, tôi có nên ghi lại những điều mà tôi biết sẽ gây nên những đau xót hay công phẫn nơi nhiều người hay không.
 Sau thời gian dài suy nghĩ và nói chuyện với nhiều người, tôi thấy đã đến lúc phải nói lên tất cả sự thật của vụ sát nhân đó để làm sáng tỏ những khúc mắc đang âm ỉ làm nhức nhối tâm hồn của nhiều người, và để rút ra một bài học cho những người chỉ vì những suy nghĩ nông nổi mà đã hành động bất chấp lương tri để mưu cầu những lợi ích thấp hèn. Khi phải ngồi viết lại những dòng này, lòng tôi đau đớn vô cùng. Tôi dùng chữ “phải ngồi viết lại” vì trước đây tôi đã cố chôn vùi câu chuyện kinh hoàng này vào dĩ vãng. Trước đó, tôi nghĩ rằng người chết thì đã chết rồi, còn thủ phạm thì đang ung dung sống dưới sự che chở của chế độ cộng-sản tại Việt Nam. Nếu tôi viết lên câu chuyện này ở nước ngoài, có thể còn bị mang tiếng là vu cáo người vắng mặt.
 Nay thủ phạm đã được đến Hoa Kỳ, tôi không còn ngại bị hiểu lầm là vu cáo người vắng mặt, và tôi sẽ gửi cho đương sự một bản của bài viết này. Nhiều anh em bạn tù đã thúc giục tôi phải nói lên sự thật để xác định một thái độ, dù đó là một thái độ bao dung.
Tôi đã tha thứ cho Bùi Đình Thi, mặc dù những hậu quả mà anh ta đã gây ra trên thân thể tôi khi ở trại Thanh Cẩm nay vẫn còn nguyên vẹn đó. Nhưng tôi và một số anh em vẫn nghĩ rằng tôi có trách nhiệm phải tường thuật mọi chuyện đã xảy ra để giúp anh ta có sự sám hối , và những người khác khi ở vào vị thế của anh ta, đừng vì những suy nghĩ nông cạn mà gây ra đau khổ cho đồng loại.
Mặc dù tôi đã tha thứ, nhưng tha thứ không có nghĩa là che giấu hoặc chối bỏ sự thật. Tôi phải kể lại, vì chuyện này có liên quan tới nhiều người và nhiều giới khác nhau. Hơn nữa, đây còn là một bổn phận buộc tôi phải nói lên, như một nhân chứng trước tòa án của lương tâm con người. Tôi phải nói lên trước công luận thế giới về thực chất của chế độ nhà tù cộng sản. Chính vì những lý do đó mà tôi gọi câu chuyện này là "Một Vấn Đề của Lương Tâm". Xin đọc chi tiết trong tập Bút Ký này.
Tôi viết bài đó như là nén hương lòng thắp lên trước bàn thờ hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn, để vong linh hai anh được nhẹ nhàng ở thế giới bên kia. Tiếp đến, qua bài đó, tôi xin gởi đến những anh em tù nhân đã từng bị hành hạ đánh đập như tôi, để chia sẻ những tổn thương mà chúng tôi phải gánh chịu trong suốt cả cuộc đời còn lại. Tôi cũng muốn viết lên câu chuyện đó như những lời phân ưu của tôi gởi tới thân nhân của những người đã chết trong ngục tù cộng sản về những đau thương mà quý vị đã phải gánh chịu.
Tôi viết lên chi tiết vụ vượt ngục ngày 2 tháng 5 năm 1979, về cái chết của hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn và về những lần Bùi Đình Thi đánh đập tôi. Sau đó tôi xác định thái độ của cá nhân tôi. Tôi tha thứ cho Bùi Đình Thi, nhưng còn những nạn nhân mà anh đã giết chết và đánh đập thì anh phải đến van xin sự tha thứ, qua bức thư tôi gửi cho anh dưới đây kèm theo với bài viết:
 
Anh Bùi Đình Thi,
 
 Tôi biết chắc là trước sau gì rồi anh cũng sẽ đọc bài này. Mặc dù tôi không thể dùng ngòi bút vẽ lại thật giống con người và lòng dạ của anh, cũng như phác họa này có thể coi như một cái gương cũ khá lu mờ, để anh nhìn vào đó mà nhận ra chính mình. Khi đọc những gì tôi đã viết trên, có thể có người cho rằng, mặc dù đã hơn 17 năm qua, sự oán giận trong lòng tôi vẫn còn. Tôi biết có người sẽ chỉ trích tôi và tôi có thể viết khác hơn để khỏi bị chỉ trích như thế, nhưng tôi muốn ghi lại một cách trung thực các việc đã xẩy ra trong trại tù Thanh Cẩm. Tôi biết sau khi đọc câu chuyện này, sẽ có người không tin, cho là tôi bịa đặt ra câu chuyện. Điều này cũng dễ hiểu thôi vì họ không thể nào ngờ có chuyện thương tâm như thế. Ngay cả chính tôi cũng không ngờ! Còn có nhiều thiếu sót về các hành động của anh trong câu chuyện này và chỉ có hai người biết rõ những thiếu sót đó là anh và tôi. Tôi còn nhớ và nhớ rất rõ nhiều chuyện về anh, không phải tôi cố ý hoặc ghét bỏ gì anh, nhưng xin anh hiểu cho, dù có muốn quên đi tôi cũng không thể nào quên được vì tôi là nạn nhân trực tiếp của anh. Những gì mà tôi đã bỏ qua cũng có thể được giải thích một cách khá dễ dàng: Tôi muốn viết bài này không phải với mục đích để hài tội anh, nhưng với mục đích nói lên một số tình trạng bi thảm đã xẩy ra trong nhà tù cộng sản, trong đó có sự tiếp tay của anh, mặc dù ở đó, anh và tôi cũng như các anh em khác đều là nạn nhân.
 
      Trong suốt những năm qua, gần như lúc nào tôi cũng nhớ anh. Cái tên của anh đã đi liền với cuộc đời tôi! Mỗi khi có ai nhắc tới chuyện tù tội là tôi nhớ đến anh. Mỗi khi trở trời trái gió, cơ thể tôi đau nhức như dần, là tôi nhớ đến anh. Mỗi năm làm Lễ Giỗ anh Tiếp và anh Văn, tôi lại nhớ đến anh nhiều hơn. Nhiều lần trong giấc mơ tôi cũng thấy anh, và từ khi nói chuyện với anh qua điện thoại vào tháng Tám năm 1995 tại Santa Ana, tôi gần như không quên anh được. Có điều lúc này tôi nhớ không phải để tức giận như những ngày đầu sau khi anh đánh đập tôi, mà nhớ để cầu nguyện và xin ơn tha thứ cho anh. Cũng qua điện thoại hôm đó, vợ anh khóc lóc xin tôi nói giùm với các nạn nhân khác của anh, mà phần lớn đang có mặt tại Mỹ, xin họ tha thứ cho anh. Tôi sẽ làm chuyện đó, nhưng tôi cũng xin dùng câu chuyện này để nói với anh một vài lời.
Chắc anh còn nhớ rất rõ cái ngày anh và tên cán bộ có đôi mắt xước, đánh đấm tôi dữ dội vì tôi cho thằng Hà cái áo vàng?  Tôi biết anh nhớ chuyện này rất rõ vì trong lần nói chuyện qua điện thoại, tôi có hỏi là lúc đó anh suy nghĩ như thế nào mà anh đánh đập tôi quá tàn nhẫn như vậy? Anh ngần ngừ một lúc lâu, sau cùng anh không trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi mà anh lại nói: “Thưa cha, con chỉ nhớ là con đánh cha có một lần, khi cha cho thằng Hà cái áo!”
Anh biết không? Sáng hôm đó, sau khi anh đánh tôi gần chết, may mà tôi tháo chạy được vô buồng, tôi đã chụp lấy cái móng cùm, nhảy lên bệ nằm, đứng thách thức và chờ đợi anh. Bản năng sinh tồn bắt buộc tôi phải có hành động quyết liệt như thế, vì nếu không có hành động quyết liệt đó, tôi không còn đến ngày hôm nay. Lúc đó, tôi đã thật sự sẵn sàng! Đã 17 năm qua rồi mà mỗi lần nhớ lại cảnh ấy tôi vẫn còn rùng mình! Tôi cám ơn anh lúc đó đã kịp thời dừng chân lại. Nếu anh bước vô buồng, chắc chắn là tôi sẽ đập nát đầu anh ra, vì anh đã hành tôi phát điên lên và dồn tôi vào con đường cùng. Dĩ nhiên, sau khi tôi đập vỡ sọ anh thì cộng sản cũng sẽ giết tôi. Cái chết thì tôi đã sẵn sàng chấp nhận, nhưng những hậu quả tiếp theo có thể không lường được và rất đáng buồn. Hình ảnh một Linh mục giết một bạn tù bao giờ cũng là một hình ảnh khó dung tha được, nhất là khi bạn tù đó là một tín đồ Công giáo và tôi là người có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho anh và mọi người. Người đời không biết lý do, sẽ nguyền rủa và gọi tôi là Linh mục sát nhân. Cộng sản được cơ hội tốt nhất để phỉ báng các tôn giáo, nhất là Công giáo. Gia đình tôi cũng như bạn bè và những người thân yêu của tôi sẽ tủi nhục khi có ai nhắc đến tên tôi. Giáo hội Công giáo đau buồn vì có một Linh mục vào tù không kềm chế được tính nóng nảy, đã giết chết một con chiên tín hữu của mình để rồi bị lãnh án tử hình. Tôi cám ơn Chúa và cám ơn anh đã không để hậu quả đó xảy ra bằng việc anh dừng chân ngoài cửa mà không xông vào buồng để tóm lấy tôi!
Tâm tôi đã trở lại an bình từ lâu rồi. Chính tình thương và sự tha thứ đã đem an bình đến cho tôi và làm cho cuộc sống tôi tốt đẹp lại sau những năm tháng dài bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần. Mỗi lần nhớ tới anh, tôi lại đọc lời kinh nguyện cho anh và tôi vẫn ước mong anh có lúc hồi tâm suy nghĩ và sám hối tội lỗi của mình. Thời gian mười mấy năm qua chắc cũng đủ dài để anh nhận ra được những tội ác anh đã gây ra trong nhà tù Thanh Cẩm. Tôi tin rằng, đến nay, anh đã nhận ra được ác tâm của cán bộ cộng sản đã nhờ bàn tay anh để giết chết những người không cùng tư tưởng với họ. Họ đã dùng tay anh để đánh đập, hành hạ và giết chết những chiến hữu trước đây đã cùng đứng chung một chiến tuyến với anh. Họ đã nhờ tay anh để đánh đập và hành hạ các Linh mục mà trước kia và ngay cả lúc này, anh dùng chữ "cha" để gọi họ. Khi mấy cán bộ võ trang định nhảy vào đánh anh Tiếp, Chuẩn úy Lăng phụ trách về an ninh đã gọi giựt lại và bảo: “Hãy để cho chúng nó thanh toán nhau!” Họ muốn bắt chước Philatô ngày xưa để nói: “Ta vô tội trong việc giết những người này. Các anh cứ xử sự với nhau”. Họ không muốn lãnh tiếng xấu là đã đối xử hung ác với các tù nhân chính trị mà luôn luôn họ tuyên bố là sẽ được đối xử khoan hồng. Tôi xin hỏi anh, chế độ đó đã đền ơn cho anh được những gì? Có lẽ lúc đó anh nghĩ rằng nếu anh hành động như thế, anh sẽ được về sớm. Anh muốn đổi sự tự do của anh bằng chính máu của các chiến hữu trước đây của anh. Tôi tin rằng nay anh đã nhận ra đó là một sự lầm lẫn lớn, việc anh phải xin được đến định cư tại Hoa Kỳ đã chứng minh cho điều đó.
Có lẽ cái hình phạt nặng nề nhất đối với anh là cái nhìn của các bạn bè khi gặp lại anh ở bất cứ nơi nào tại Việt Nam hay tại Hoa Kỳ. Tôi nghe nói lúc nào anh cũng muốn chạy trốn tất cả. Điều đó chứng tỏ là anh cũng biết tên anh đã được khắc ghi trong lòng những người ở trại Thanh Cẩm bằng một nét mực đen. Tên của anh cũng đã được ghi vào “lịch sử đen” của trại tù Thanh Cẩm. Tôi rất thương cho vợ anh. Khi nói chuyện với tôi qua điện thoại, chị ấy đã khóc lóc:
 
“Cha ơi! Từ ngày chồng con được về, gia đình con như sống trong địa ngục. Con có nghe người ta nói là trong tù chồng con đã đánh đập các cha, bây giờ nghe cha nói con mới biết thêm là chồng con giết người! Con không ngờ là ảnh đã làm chuyện đó, và con biết là chúng con bị Chúa phạt!”Lời khóc than của chị đã xác nhận những gì từ lâu tôi nghĩ về anh và gia đình anh là đúng, mặc dù tôi không bao giờ mong việc đó xảy ra.
 
            Anh Bùi Đình Thi, hôm nay tôi viết cho anh không phải trong tâm trạng đầy uất hận và sợ hãi của lúc đang sống với anh trong trại Thanh Cẩm, mà viết với tâm hồn thanh thản của một người đã lấy lại được sự an lành, cả trên thể xác lẫn trong tâm hồn. Các thương tích do anh gây ra trên thân xác và trong tâm hồn tôi đã hóa thành sẹo. Tối hôm đó, chúng tôi ở nhà anh Lê Sơn tại Fullerton, khi anh Nguyễn Tiến Đạt gọi anh, sau đó trao máy điện thoại cho tôi và nói: “Cậu Bảy nói chuyện với Bùi Đình Thi đi!” Khi cầm ống nghe, tôi vẫn chờ đợi anh gọi tôi như lúc ở trại Thanh Cẩm, nên tôi lên tiếng: “Chào anh Thi, tôi là Lễ thăm anh đây!” Khi anh ngần ngừ chưa xác định được người bên kia đầu dây, tôi phải nói thêm: “Chắc lâu rồi anh không còn nhớ. Tôi là thằng Nguyễn Hữu Lễ, vượt ngục và bị cùm trong nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm đó, anh nhớ ra chưa?” Lúc đó anh trả lời: “Cha Lễ đó hả, cha có khỏe không?” Câu trả lời của anh làm tôi ngạc nhiên vì không ngờ anh đã dùng lối xưng hô “cha, con”ù một cách rất tự nhiên. Tôi thấy thương anh và cảm động vì anh đã gọi tôi bằng tiếng “cha”.
Không phải tôi ham thích khi có ai xưng hô theo tước hiệu của tôn giáo này, nhưng với anh, tôi thực sự sung sướng vì tôi còn được nghe tiếng gọi ấy từ cửa miệng của anh. Lúc đó tôi nghĩ rằng từ nay tôi có trách nhiệm đối với anh.
Lúc này, sau 17 năm qua đi, tôi đang nói với anh bằng tâm tình của một Linh mục muốn nói với một tín hữu, một người anh em có chung với tôi một Phép Rửa, một Niềm Tin và một Niềm Hy Vọng. Tôi muốn thông đạt lại với anh chân lý của Phúc Âm: “Tình Yêu của Thiên Chúa bao giờ cũng lớn hơn tội lỗi con người”. Qua điện thoại, anh nói là anh hối hận về những việc làm sai trái của anh. Như thế, anh đã đưa ra một lời thú tội và nếu anh thật lòng sám hối, anh sẽ được lãnh ơn tha thứ.
Về phần tôi, anh hãy yên tâm vì tôi đã tha thứ tất cả cho anh. Nhưng trong thời gian làm Trật Tự trại Thanh Cẩm, anh không chỉ hành hạ cá nhân tôi mà còn đánh đập nhiều người khác, chẳng hạn các Linh mục Mai Quang Bao, Phạm Quý Hòa và Phạm Hữu Nam. Nhưng việc anh phải chịu hậu quả nặng nề và lâu dài nhất là việc anh giết chết hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn. Đó là một món nợ máu mà anh đang mắc với các nạn nhân của anh cũng như đối với thân nhân, bằng hữu và chiến hữu của họ. Muốn được tha thứ, anh cũng phải nhìn nhận tội lỗi của mình và trực tiếp xin được tha thứ. Những người anh đã đánh đập, nhất là các Linh mục, tôi nghĩ họ cũng bỏ qua cho anh, nhưng dù sao anh cũng phải xin tha thứ. Gia đình Lâm Thành Văn, tới nay tôi chưa nhận được tin tức gì, nhưng thế nào tôi cũng sẽ liên lạc được và thông báo cho anh biết sau. Với gia đình anh Đặng Văn Tiếp, từ sau ngày liên lạc được năm 1992, họ đã coi tôi như là một thành phần trong gia đình. Tôi hiểu được sự đau đớn và mất mát thật lớn lao mà anh đã gây ra cho gia đình họ Đặng. Riêng đối với chị Huyền Thanh, người vợ sắp cưới của anh Tiếp, chị đã phải sống trong u sầu, đau xót và thương tiếc, kể từ khi nghe tin anh Tiếp bị anh giết tới nay. Khi nghe anh qua Mỹ, sự đau khổ của chị ấy lên đến cùng cực! Xác anh Tiếp được chôn vùi sơ sài tại đồi tranh gần K2, tôi tin rằng anh còn nhớ nơi này. Khoảng một năm sau, nhờ có người giúp đỡ, người nhà anh đã lén đến Thanh Cẩm bốc mộ anh và đưa hài cốt anh về an táng tại Nam Định, là cố hương của anh.
Anh Thi! Tuy giờ này nắm xương tàn của Lâm Thành Văn và Đặng Văn Tiếp đã nằm yên trong lòng đất, nhưng tôi nghĩ rằng vong linh của họ vẫn còn vương vấn bên anh. Để giúp hai anh ấy được siêu thoát, anh cũng cần đốt một nén hương, thành tâm xin họ tha thứ cho anh. Nếu có thể được, anh xin phép thân nhân cho anh được đến lạy trước bàn thờ anh Tiếp. Tôi có thể đi với anh để làm chuyện này. Tôi tin rằng, sau khi làm chuyện đó, thân nhân của anh Tiếp được giảm bớt ưu sầu, và anh cùng với gia đình anh có thể được sống bình an hơn trên đất Mỹ. Những người khác nhận thấy sự thành tâm thống hối của anh, họ cũng sẽ tha thứ cho anh. Tôi sẽ giúp anh trong việc này, vì đây là một trong những nhiệm vụ của linh mục.
 
Tôi cũng gửi tới các bạn cựu tù nhân chính trị, nhất là bạn tù Thanh Cẩm mấy lời như sau:
 
  Các anh em thân mến,
 
Tôi cảm thông thật sâu xa tâm trạng của những nạn nhân bị Bùi Đình Thi đánh đập trong tù. Tôi cũng chia sẻ sự đau khổ với gia đình và bạn bè của hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn. Bản thân tôi là một nạn nhân may mắn còn sống sót. Dù vậy, tôi cũng xin bày tỏ tâm tình sau đây:
 Trong trại tù cũng như sau khi ra ngoài xã hội, các anh em đã từng tỏ dấu khinh bỉ và có khi nguyền rủa những người khi ở trong trại đã làm “ăn-ten” báo cáo gian dối để hại anh em và lập công với cán bộ cộng sản. Dĩ nhiên, lúc đó, chúng ta không thể chấp nhận và dung tha cho những kẻ đã hành hạ và giết chết anh em thay cho cán bộ cộng sản.
Nhưng những gì chúng ta suy nghĩ và uất hận khi còn ở trong trại tù đã dần dần phôi phai đi với thời gian. Những người có hành vi bất xứng khi ở trong trại, nay bất chợt gặp anh em ở một nơi nào đó, tuy anh em không tiếp đón họ một cách ân cần và thân mật như những anh em khác, nhưng ít ai còn nghĩ rằng phải bắt những người này đền tội như khi còn ở trong trại. Riêng các hành động của Bùi Đình Thi, một số anh em đã nghĩ rằng ít ra cũng bắt anh ta phải chịu một hình phạt nào đó, vì không thể để cho một tên sát nhân sống ung dung tự tại như vậy được. Tuy nhiên, cho đến hôm nay, mặc dầu không ai muốn tiếp xúc với anh ta, tôi thấy rằng hình như không ai còn muốn đòi nợ máu nơi anh ta nữa mà chỉ muốn Bùi Đình Thi có một hành vi sám hối nào đó.
 
             Tôi nghĩ rằng, Bùi Đình Thi đang chịu một thứ hình phạt rất nặng nề đó là mặc cảm tội lỗi, vì thế luôn luôn phải tìm cách lẩn tránh anh em, ngay cả khi đã đến được Hoa Kỳ. Tôi tin rằng, hình ảnh của hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn luôn theo đuổi Bùi Đình Thi trong suốt 17 năm qua, như cặp mắt đã nhìn Cain trong Thánh Kinh, sau khi Cain đã giết người em của mình là Abel. Đối với Bùi Đình Thi, không có gì đáng sợ bằng hai hình ảnh đó. Theo tôi nghĩ, mặc dù Bùi Đình Thi hung ác tự bản chất, nhưng nếu không có cán bộ cai ngục dung dưỡng và lợi dụng anh ta để thực hiện ý đồ thâm độc của chúng, thì anh ta không có dịp để bộc lộ tính chất ác độc của anh ta một cách dữ dằn như vậy.
 
             Francis Bacon đã nói: “Một người khi báo thù thì chỉ ngang hàng với kẻ thù của mình, nhưng khi bỏ hết những thù hận, họ là người trên”. Những gì Bùi Đình Thi đã chịu 17 năm qua, tôi nghĩ rằng đã tạm đủ, nay, nếu anh ta thật lòng sám hối và muốn làm một cái gì để chuộc lại lỗi lầm của mình, tôi xin các anh em cũng sẵn sàng bỏ qua. Bằng tình thương và sự tha thứ, chúng ta không những tìm được sự bình an trong tâm hồn mình, mà còn đem lại bình an cho một con người đã quay trở lại và cả gia đình anh ta nữa.
Xin tình yêu và bình an của Thiên Chúa đến trên tất cả chúng ta.
 
Sau đó, tôi có nhờ Linh mục Mai Khải Hoàn, lúc bấy giờ là người phụ trách Cộng đoàn Công giáo nơi Bùi Đình Thi và gia đình anh sống, chuyển giúp cho anh một bản.
 Khi bài viết của tôi phổ biến, có một số người muốn có thái độ với Bùi Đình Thi, nhưng tôi đã cản ngăn tất cả vì chủ trương của tôi trong vấn đề này là tha thứ và tha thứ vô điều kiện, và câu chuyện này sau đó trở nên lắng dịu. Gia đình và thân nhân của anh Đặng Văn Tiếp cũng không muốn có thái độ gì với Bùi Đình Thi. Mặc dù Bùi Đình Thi có gọi điện thoại nhắn vào máy mấy lần cho anh Đặng Văn Thụ ở Maryland, nhưng Thụ không muốn tiếp xúc với người đã giết anh mình. Ngày 2 tháng 5 năm 1999, gia đình cùng thân nhân và bạn bè của anh Đặng Văn Tiếp tổ chức lể giỗ 20 năm ngày chết của anh tại nhà anh Thụ ở Bethesda, Maryland. Dịp này, tôi cũng nói lên thái độ của cá nhân tôi và gia đình họ Đặng mà qua anh Tiếp, đã coi tôi như một người trong gia đình. Chúng tôi không muốn nhắc tới Bùi Đình Thi.
Cho tới năm 2001, Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển đưa vụ này ra trước Sở Di Trú Hoa Kỳ. Những người có trách nhiệm trong cơ quan Di trú có phỏng vấn tôi thêm vài chi tiết liên quan tới bài viết của tôi. Có mấy nhà báo tiếng Việt và tiếng Anh ở California cũng phỏng vấn tôi về vụ này. Tôi chỉ trả lời những gì tôi biết, tôi đã viết ra và đó là sự thực.
Lúc đó, câu chuyện lại trở nên nóng và nhiều người bàn tán. Có người cho tôi biết là một vài bài báo tiếng Việt lên tiếng “lý luận” rằng, câu chuyện tôi viết về hành động của Bùi Đình Thi trong trại tù Thanh Cẩm là câu chuyện tưởng tượng, thực tế làm gì có chuyện như vậy!
 
Tôi không có giờ đọc các bài báo đó, nhưng điều này không làm tôi ngạc nhiên vì ngay cả chính tôi là người trong cuộc mà đôi lúc còn không thể ngờ có chuyện như thế xảy ra thì một vài người nào đó ngồi nhà “suy luận” thì làm sao có thể tin được! Như thế những người đã viết các bài báo đó không có gì đáng trách cả, mà ngược lại, chúng tôi rất đồng quan điểm với nhau là việc làm của Bùi Đình Thi lúc làm trật tự trong trại tù Thanh Cẩm, vượt ra ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Có lẽ cũng còn nhiều người nghĩ như vậy, nhưng chỉ có một vài người muốn viết ra.
Ngược lại, thái độ của Bùi Đình Thi thật đáng trách!
Lúc đó, anh lại công khai chối bỏ hết qua khứ! Bùi Đình Thi lên tiếng trên báo chí và đài phát thanh ở California nói là anh chẳng có làm gì sai trái trong khi làm trật tự trại tù Thanh Cẩm. Và còn thách thức là ai có thể đưa ra bằng chứng anh đã đánh người trong trại Thanh Cẩm! Một lần nữa, anh lại bắt buộc tôi phải có nhận xét về con người anh, một điều mà tôi không bao giờ muốn. Nếu trước kia khi làm trật tự trong tù cộng sản đã có những hành động độc ác, thì qua Mỹ, anh lại là con người điêu ngoa khờ khạo. Điêu ngoa vì anh đã thẳng thừng chối bỏ hết tội ác anh đã gây ra làm đau khổ cho bao nhiêu người, bao nhiêu gia đình. Khờ khạo vì anh quên rằng có rất nhiều nạn nhân và chứng nhân đang sống chung quanh anh và biết hết các việc anh đã làm. Hơn nữa, trong những xứ tự do với hệ thống thông tin ngày nay, việc kiểm chứng không có gì là khó. Và anh buộc tôi phải trưng ra bằng chứng!
Tôi thiết nghĩ, giữa tôi và Bùi Đình Thi đã biết nhau quá nhiều rồi, chúng tôi chẳng cần bằng chứng gì với nhau, vì bằng chứng rõ rệt nhất mà cả hai người chúng tôi đều biết là cái thân thể đầy tật nguyền thương tích của tôi do hậu quả những trận đòn của anh. Nhưng vì sự việc đã ra công khai và để một số người khỏi phải hoang mang, tôi nói chuyện này với một nan nhân khác của Bùi Đình Thi là Linh mục Phạm Quý Hòa, hiện đang sống ở New Caledonia. Cha Hòa có gửi một số giấy tờ mà tôi kèm theo đây. Khi đưa ra bằng chứng này, tôi cũng muốn nhắn với các bạn nào đã viết báo trước kia rằng: “Thưa các bạn, các bạn đã viết rất đúng! Ngồi nhà suy luận như các bạn thì chuyện Bùi Đình Thi giết đồng cảnh và đánh đập các bạn tù, kể cả các Linh mục là ngoài sức tưởng tượng và không thể nào xảy ra được. Nhưng thưa các bạn, thực tế cuộc đời không đơn giản như mình suy luận. Chính tôi cũng vậy, trước khi đi tù,  tôi cũng  khờ khạo,  cho đến nỗi nghĩ rằng tù chính trị miền Nam ai cũng là người tốt cả. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, tôi đã chứng kiến cảnh những người bạn tù trẻ và cương trực rượt đánh bọn ăn-ten, có người vỡ đầu, có kẻ què chân. Chừng đó tôi bắt đầu sáng mắt ra, và khi rơi vào tay Bùi Đình Thi rồi, tôi mới biết là lòng nhân đạo của con người có giới hạn, nhưng sự ác độc của loài người quả là vô tận. Những hành động của Bùi Đình Thi mà tôi kể lại khá chi tiết vì chuyện đó xảy ra cho chính bản thân tôi làm sao tôi không biết? Nếu trước kia, khi đọc bài đó các bạn cho là chuyện khó tin, thì nay hy vọng là sau khi đọc qua thủ bút bằng chứng của nạn nhân khác, các bạn sẽ nói ‘Chuyện khó tin nhưng có thật!’’
Các bằng chứng này sẽ được in trong phần hình ảnh, nhưng vì chữ viết tay khó đọc, nên tôi đánh máy lại vào đây và bản viết tay thư này của Linh mục Phạm Quý Hòa và một số chứng từ khác cũng sẽ được in để rộng đường dư luận. Việc phải đưa ra các bằng chứng này là một việc làm ngoài ý muốn của tôi.
 
Linh Mục Phạm Quý Hòa
Eglise du Christ Roi
10, rue Berthelot
2è Vallée du Tir
98800 NOUMEA
Ph/Fax.27.20.29                                                       Nouméa 22-06-01
Nouvellle Calédonie.
(Pacifique du Sud)
 
 Cha Nguyễn hữu Lễ thân mến,
Qua báo chí và do 1 người cháu từ Hoa Kỳ cho biết thì U.B cứu người vượt biển sẽ đưa ra tòa tên Bùi Đình Thi để tước quyền tỵ nạn, rồi trục xuất về Việt Nam, vì lúc ở trong trại Thanh cẩm, Thi đã làm tay sai đắc lực cho Cộng sản và cùng với tên Trương minh Phát đã đánh chết anh Đặng Văn Tiếp, rồi còn tiếp tục hành hạ anh Lâm Thành Văn đến chết bằng cách bỏ đói. Ngoài hai người tù bị chết, hai tên hung thần Thi và Phát còn đánh đập tàn nhẫn nhiều người khác như cha Nguyễn hữu Lễ, ông Nguyễn Sĩ Thuyên và Trịnh Tiếu trong vụ trốn trại ngày 2-5-1979. Đó là vụ tôi biết rõ, vì lúc xảy ra, tôi đang ở buồng 3 khu kiên giam trại Thanh Cẩm cùng khu với các nạn nhân vừa nêu. Nhưng vừa rồi cha gọi điện thoại cho tôi và báo tin cho biết là tên Thi đã chối tất cả tội ác nó đã đối xử với anh em bạn tù. Do đó cha yêu cầu tôi biên cho cha một lá thơ làm chứng rằng tôi có biết rõ vụ đó. Vậy đây tôi xin đáp lời yêu cầu của cha.
Nhưng trước tiên, tôi xin được nói về tôi là nạn nhân của tên Thi và Phát, sau đó sẽ nói lại về các người khác.
 Thời gian hai tên Thi và Phát làm trật tự là thời gian kinh hoàng nhất trong suốt 10 năm tôi bị giam tại trại Thanh Cẩm. Hai tên này đối xử với anh em rất tàn ác. Chúng đánh đập bất cứ ai, già trẻ lớn bé nó đánh tất, đánh bất cứ vì lý do gì, hễ nó muốn đánh là nó đánh, không cần biết cái cớ nó đánh đúng hay không. Có một lần tên Phát đã đánh tôi tại buồng 3 Kiên giam. Vì quá uất ức trước sự tàn ác của nó, nên tôi đã đánh lại tên Phát. Sau đó tên Phát đã chạy xuống báo cáo với cán bộ trực là Thiếu úy Vân. Lập tức, ông Vân và 2 cán bộ võ trang cùng với tên Thi kéo lên, lôi tôi ra ngoài cổng khu kiên giam, rồi tên Bùi đình Thi khóa hai tay tôi lại sau lưng không cho tôi đỡ đòn, thế là hai tên mặc sức đấm đá tôi túi bụi, trước sự hiện diện của ông Vân và 2 tên võ trang. May mà nhờ ông Vân bảo thôi, nên hai tên Thi- Phát mới ngưng tay, không thì tôi cũng đã bỏ xác tại khu kiên giam như anh Đặng Văn Tiếp. Sự việc xảy ra lúc 6 giờ chiều ngày 26-7-1979.
Trước ngày này chừng một tuần thì hai tên Thi Phát cũng đã đánh cha Mai Quang Bao ở buồng 4 Kiên giam một trận tơi bời. Số là cha Mai Quang Bao bị nhốt ở buồng 4 Kiên giam cùng chung buồng với anh Nguyễn Đức Khuân. Anh Khuân có nhận được bưu kiện từ gia đình trong Nam gởi ra. Một bữa nọ, giờ mở cửa phát cơm sáng, cha Mai Quang Bao lợi dụng xin tên Phát qua buồng 3 để xin đốt đèn hút thuốc, luôn tiện anh Khuân có gởi qua biếu cha già Chương một gói bột Bích Chi nhỏ. Khi cha Bao chuyền túi bột qua cửa sổ thì chẳng may tên Phát thấy. Thế là sau khi đã phát cơm cho 2 khu xong thì tên Thi và Phát trở lên buồng 4 lại, có cả cán bộ đi theo, mở cửa lôi cổ cha Bao ra, đóng cửa lại, đoạn hai tên Thi Phát đấm đá cha Bao túi bụi, nghe đùi đụi như đấm vào 1 tấm ván cửa, làm vang cả qua phòng bên cạnh cũng nghe thấy. Đánh chán tay tụi nó kéo cha Bao qua cùm bên khu kỷ luật.
Sau đây tôi nói rõ hơn về vụ tên Thi đánh chết bạn tù sáng ngày 2-5-1979. Vụ này xảy ra khi tôi ở buồng 3 Kiên giam, cùng khu với các nạn nhân của Thi Phát. Đêm 1 rạng 2 -5-1979 các bạn tù là cha Định, cha Lễ, anh Tiếp, anh Văn, và ông Tiếu, ông Thuyên ở buồng 1. Các bạn này đã đào tường để trốn, chỉ trừ cha Định. Nhưng cuộc vượt ngục thất bại, nên sáng ngày 2-5-1979 các bạn đã bị bắt lại. Thế là hai tên hung thần Thi Phát trút đổ tất cả sự sục sôi căm tức lên đầu các bạn trốn trại. Chúng đã đánh chết anh Đặng Văn Tiếp ngay sáng ngày 2-5-1979. Còn cha Nguyễn hữu Lễ và ông Nguyễn Sĩ Thuyên thì bị hai tên Thi Phát đánh, đá, đạp, bầm dập thân xác, đến nỗi hai người phải chết ngất từ 6 giờ sáng ngày 2-5-1979 đến sáng hôm 3- 5- 79 mới tỉnh lại. Đánh đập bầm giập xong, khi hai người đã bất tỉnh không đi được thì tên Thi cầm chân kéo nạn nhân như kéo 1 con chó chết vào cùm ở khu kỷ luật.
 
Còn ông Trịnh Tiếu và anh Lâm Thành Văn thì chúng lôi đi cùm ở nhà đen, tức nhà kỷ luật cũ. Đến ngày 6 -5-79 thì tôi được biết là anh Văn cũng đã chết, vì bị thấm đòn và bị tên Thi không cho ăn, nên chết đói; vì anh Văn bị bịnh đau bao tử, không ăn sắn được, nên phải ăn cháo, mà Thi đem cháo từ nhà bếp lên, xong hất đổ ra chỗ đổ phân tù, chứ không cho anh Văn ăn. Tôi biết được vậy là vì sau đó tôi ở chung với ông Trịnh Tiếu bên khu kỷ luật mới, nên nghe ông kể lại.
 
Tất cả những gì tôi viết trên đây đều là sự thật. Sở dĩ Bùi Đình Thi chối các tội ác nó đã gây ra cho anh em bạn tù là vì hắn đã đi học tập cải tạo nên thầy nó là bọn cộng sản đã dạy cho nó phải nói láo, phải chối tội đã phạm, như chính tên phát ngôn viên bộ ngoại giao Hà Nội Phan Thúy Thanh đã nói với phóng viên hãng AP rằng: “Việt Nam kiên quyết khẳng định không hề tra tấn bất cứ một tù nhân chiến tranh nào”. Thầy nào trò nấy mà!
 
Chẳng những tên Bùi Đình Thi đáng trục xuất về với Việt cộng, mà tôi xin đề nghị với Ủy Ban là phải vận động các Đoàn thể chính tri viết kiến nghị lên Quốc Hội và Chính Phủ Mỹ phải ra luật trục xuất tất cả mọi tên mang danh tỵ nạn để hoạt động cho Cộng sản việt Nam trên đất Mỹ, như tên Trần Trường chẳng hạn. Vì như thế thì đâu còn đúng với danh nghĩa và quy ước về người tỵ nạn. Tôi rất mong các đoàn thể chính trị nghiên cứu đề nghị này.
Thưa cha Lễ. Đó là tôi nói đúng như tôi biết xin cha tùy nghi sử dụng. Chúc cha khỏe và thành công.
 
Mến.
(Ký tên)
 
Đây, thêm một nhân chứng sống trong nhà tù Thanh cẩm thời gian xảy ra vụ Bùi- đình -Thi làm trật tự  2-5-1979. Muốn biết thêm chi tiết xin liên lạc với Linh-mục Phạm-quí-Hòa tại địa chỉ trên.
 
Một lá thư khác đề ngày 30-7-01 của cha Hòa  như sau:
 
Nouméa 30-7-01
Thăm cha Lễ và anh Xuân
Và tất cả các bạn Thanh Cẩm.
 
Tôi xin gởi lời thăm cha Lễ và tất cả các bạn. Chúc cha và các bạn luôn khỏe mạnh. Phần tôi không được khỏe lắm.
Xin gởi tới các bạn bản sao mà hôm nay tôi gởi cho ông Peter Nguyễn ở Los Angeles theo lời yêu cầu của ông, để các bạn dễ theo dõi.
Trong bì này tôi gởi 2 xấp. 1 xấp là do ông Peter Nguyễn Fax qua cho tôi. Còn 1 xấp là do tôi sửa chữa lại.
Số là vào lúc 11 giờ ngày 17-7-01, 1 cú điện thoại gọi cho tôi từ Mỹ. Người gọi không nói tên và nghề nghiệp gì, chỉ nói là muốn nói chuyện với cha Hòa. Tôi xưng: Tôi là cha Hòa đây. Người bên kia hỏi: cha có biết Bùi Đình Thi đánh và mấy người chết ở Thanh Cẩm?Vâng tôi biết Bùi Đình Thi đánh và chính Bùi Đình Thi đã đánh tôi. Tôi kể lại cho người đầu dây nghe và họ ghi lại. Sau cuộc điện đàm, người đó hỏi cha có E-mail không? Không, tôi chỉ có Fax. Nhưng Fax của tôi lại bị hỏng. Chỉ nhận được mà không gởi đi được. Cuộc điện đàm chấm dứt. Sau chừng nửa tiếng, thì tôi nhận được Fax mà người lúc nãy phỏng vấn tôi. Tôi xin kèm theo đây bản Fax mà ông đối thoại hồi nãy đã gởi cho tôi.. Trong đó có nói là cứ sửa chữa rồi kể thêm rồi gởi lại cho ông ở Los Angeles theo địa chỉ ở cuối thư Fax.
Tôi thấy bản ông ta ghi có nhiều điểm sai, không rõ. Nên tôi đã làm lại 1 bản mới , đồng thời kể thêm truyện cha Mai Quang Bao bị Thi- Phát đánh tại trước cửa buồng 4 Kiên giam Thanh Cẩm. Xong tôi đem ra tòa Thị Trưởng Nouméa  xác nhận chữ ký của tôi, rồi gởi lại cho ông Peter Nguyễn theo địa chỉ ở cuối thư Fax. Tôi xin gởi cha và các bạn biết, để tùy nghi mà ứng xử.
Trong thư gửi cho cha Lễ hôm 22-6-01, nơi trang 2 tôi đã vô ý viết sai một con số khi kể lại việc cha Lễ bị Thi Phát đánh chết ngất.Thay vì ngày 2 tháng 5 năm 79 thì tôi đã viết lộn là ngày 2 tháng 7 năm 79.
Sau khi phát hiện ra chỗ sai thì tôi có gọi điện thoại cho anh Xuân để bảo sửa lại thì Tổng Đài điện thoại  cho biết là số điện thoại đó không còn được sử dụng nữa. Vậy nếu thật sự anh Xuân đã đổi số điện thoại thì xin anh vui lòng cho biết số mới để tiện việc liên lạc khi cần. Nhất là trong vụ Bùi(thối thì có!) này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ chỉ huy và các đơn vị lẻ tẻ rải rác khắp thế giới.
Ở trong 1 thư Fax có hàng ghi: Opreration “TWO FACES” Phải chăng nay là một chiến dịch tống cổ hết  mọi tên tay sai của VC về với bố chúng nó. Nếu có như vậy thì Hòa này hoan hô hết mình. Xin các bạn cố sức hoạt động để mở mắt cho bọn Mỹ Mù, cứ nhắm mắt nhận bừa tất cả vào đất Mỹ để tự vỗ ngực xưng mình là nhân đạo! Xin các bạn gào thét vào tai tụi mỹ cái chân lý này:  “Nhân đạo là tự sát".
Nếu tụi Mỹ mù biết mở mắt ra thì sẽ khám phá ra hàng chục ngàn Trần Trường còn ẩn mặt chứ không chỉ có 1 Trần Trường đâu. Không biết bao giờ thì tụi Mỹ nó hết ngu!
Chào tạm biệt cha Lễ , anh Xuân và tất cả các bạn. Chúc tất cả khỏe.
Mến
(Ký tên)  Hòa
 
Ngoài hai lá thư viết tay này, Linh mục Phạm Quý Hòa cũng có  một bản tường thuật dài 2 trang bằng Anh ngữ  gởi Sở Di Trú Hoa Kỳ, một bản sao gửi cho tôi và cũng được in trong phần hình ảnh này.
Bản tường thuật bằng Anh ngữ của Linh mục Phạm Quý Hòa gởi Sở Di Trú Hoa Kỳ:
 
My name is PHAM, Hoa Quy. I was born on 04/20/1930, in Ha tinh, Vietnam. I became a priest in 1960. I am a citizen and national of New Caledonia (France). I am presently residing in New Caledonia.
I met a man called BUI Thi Dinh(BUI) at Camp Thanh Cam. BUI was  al TRAT TU VIEN(Head of prisoners)in the camp. Another prisoner named TRUONG Phat Minh assisted BUI.
I remember an incident that  happened to me on 07/26/1979, at approximately 6:00 PM, in Camp Thanh Cam. BUI's assistant TRUONG was doing the evening security roll call in the camp. TRUONG opened the door to my cell and entered to check the toilet area. As he walked past me, TRUONG suddenly hit at my knee very badly with his wooden hammer. Once he finished checking the toilet area, and as he was leaving the cell, TRUONG stared at me with furious eyes,. I also stared back at him with a scornful smile, and he did't like the way I looked at him, so TRUONG came back into the cell in order to hit me again. But as he raised the hammer, I immediately got up and attacked him to protect myself. TRUONG was terrified running out of the cell. As I was chasing TRUONG, I called upon a friend named LE, Bao Thien, another prisoner in the same cell to come and help me. A policeman standing there ordered me to return into the cell, and told TRUONG to shut the door. Later, TRUONG returned with BUI and a Lieutenant named VAN, from communist army. TRUONG opened the door, pulled me out, and they started to beat me. BUI held my arms behind me anh punched me repeatedly in the back and hip, while TRUONG hit me in the face, chest and stomach. They hit me constinuously until the Lieutenant told them “it was eneough”. After that, they pulled me into the cell and closed the door.
I remember another incident that happened approximately one week before that. At that time BUI and TRUONG also beat Father MAI, Bao Quang very heavily. Father MAI was a Priest belonging to the diocese of Bui Chu. He was locked in cell 4 with a fellow prisoner named KHUAN, Nguyen Duc. During the lunch time of food distribution, Father MAI asked TRUONG to go to cell 3 to have a smoke. Taking advantage of this. MAI passed to Father NGUYEN, Chuong Huy a small pocket of rice powder, gift of NGUYEN, Khuan Duc. But TRUONG saw what he did. When the food distribution was over, TRUONG returned with BUI, opened the door to cell 4 and pulled Fr MAI out. TRUONG and BUI started to beat Father MAI, very heavily. The beating  was so severe that the sound  of each hit could be heard from the surrouding ceells, including mine, which all had closed doors. When they finished, TRUONG and BUI took Father MAI toput him to lock his legs. When passing my cell(cell 3), I saw that Father MAI's face was swollen, and that he was bleeding from the nose.
I remember another incident that happpened on or about May 2 1979. I remember that day well. On that day, 5 people attempted to escape:
1.NGUYEN Thuyen Si, a high school professor.
2.TRINH Tieu, an old Colonel in the Republic of Vietnam  army
3.DANG Tiep Van, a congressman from the Republic of Vietnammade
4.LAM Van Thanh, a bus owner and driver
5.NGUYEN Le Huu, a Catholic Priest
 
They were all in cell 1 which was located next to my cell(i.e.cell 3). I could hear them digging the entire night before they finally dug through the wall. Their escape was discovered in the morning of May 2, 1979, when the guards made the morning security roll call. Father NGUYEN Le Huu, DANG Tiep Van, and NGUYEN Thuyen Si had made it out of the camp, and they were down river when the guards arrested them.
From my cell, I could hear BUI and the guards cursing and beating the escapees when they got back into the camp. DANG Tiep Van died that day as  a result of  of the extreme beating he receiandved. Rev.NGUYEN Le Huu and another escapees were beaten  very heavily as well; Rev. NGUYEN Le Huu and NGUYEN Thuyen Si, lost consciousness for almost a day. After the beating, TRINH Tieu who was left in the same cell with LAM Van Thanh, told me later when he was locked with the same cell as me, that LAM Van Thanh had died as a result  of the beating and starvation. TRINH Tieu told me that everyone in the camp including BUI knew that LAM Van Thanh had stomach problems and could only eat soup. After the escape attempt, BUI had to take food to them, but BUI threw the soup away instead of giving it to LAM Van Thanh. LAM Van Thanh died on May 6 1979.
I was released from the re-education camp on 11/3/1987. I subsequently escaped from Vietnam by boat to the Philippines.
 
I am available and I am willing to testify against BUI if needed.
 
I have read the foregoing statement, consisting of 2 pages. I state that the answers made herein are true and correct to the best of my knowledge and belief., and that this statement is a full, true and correct record mine interview on the date indicated by the above-named officers of the Immigration and Naturalization Service. I have initiallled each page of this statement.
 
Signature:
                     PHAM Hoa Quy
Interpreter : *
 
*****
 
 
Phụ Trương ba:
 
 Hoạt động tại hải ngoại
 
 
Từ năm 1992 về sau, đồng thời với các bổn phận tôn giáo tại Tân Tây Lan (New Zealand), tôi cũng đã đi lại nhiều quốc gia trên thế giới khá nhiều lần để gặp gỡ đồng hương và vận động cho phong trào Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo tại Việt Nam. Tôi đã gặp gỡ thân ái với các chức sắc và làm việc chung với các tôn giáo bạn, vì tôi quan niệm rằng các tôn giáo là sức mạnh của ý chí dân tộc Việt Nam và việc ngồi lại làm việc giữa các tôn giáo là bước đầu tiên để tạo sự đoàn kết và phát huy sức mạnh của đân tộc. Tôi vững tin vào chân lý này: “Thể chế chính trị nào cũng chỉ tồn tại một giai đoạn rồi sẽ qua đi, chỉ có dân tộc là trường tồn.”
Trong chiều hướng đó, tôi cố gắng ghi lại trong tập Bút Ký tiếp theo về bước đường tôi đã trải qua trong hơn 10 năm ở hải ngoại sát cánh với đồng hương, với các chức sắc trong tôn giáo bạn và với những người yêu chuộng tự do của các Chính phủ, Quốc hội các nước tự do trên thế giới trong cố gắng nói lên nguyện vọng của toàn dân Việt Nam. Dân tộc tôi ước mong cuộc sống Tự Do, Công Bằng và Phát Triển.
 
 
                        ***
 
 
nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
#23 
sóng trăng 26.02.2007 05:27:06 (permalink)
.
 
Theo bước chân người linh mục

tâm bút Trần Trung Ðạo
Kính tặng Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ

Tôi là người Phật Tử nhưng phải thú nhận rằng ít khi tôi ngồi nghe hết một bài thuyết pháp của các chư tôn đức Phật Giáo, ngay cả khi bổn sư tôi còn tại thế. Kính thầy, đúng ra là sợ thầy lắm tôi mới ngồi năm mười phút rồi kiếm chuyện mà đi. Không phải các thầy tôi giảng không hay, không cao siêu sâu sắc, nhưng bởi vì lòng tôi còn quá nhiều vọng động, mấy mươi năm chưa có một ngày yên. Thân trú tại chùa mà tâm thì trôi lang thang trên nhánh sông đời với trăm bến bờ xuôi ngược.
Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Trung, chinh chiến triền miên và thiên tai dồn dập. Tuổi thơ tôi được ru bằng tiếng súng đêm đêm vọng về bên kia sông Thu Bồn. Mỗi buổi sáng trên con đường ra quận đều có người khiêng xác chết đi qua và khiêng xác chết đi về. Ngày đó, tôi quá nhỏ để có một ý niệm rõ ràng về Quốc Gia hay Cộng Sản nhưng có một điều tôi biết chắc họ là người Việt Nam. Tôi từng chứng kiến cảnh người anh họ là lính nghĩa quân, đào huyệt chôn một người em là du kích Cộng Sản, và chính anh họ tôi cũng ngã xuống sau đó vài ngày khi những người du kích khác về đặt mìn ngay giữa đường ra quận. Cả hai đều chết. Cô tôi chôn họ cạnh nhau trên một mảnh đất sau vườn để bà tiện bề hương khói. Mỗi đêm rằm nhìn qua cửa sổ, tôi thấy cô tôi khóc, chiếc bóng cô tôi rung rinh dưới ánh trăng tròn. Cỏ trên hai ngôi mộ đều xanh hơn, có lẽ vì thấm quá nhiều nước mắt của một bà mẹ Việt Nam bất hạnh.
Từ đó, những điều tôi cần biết không phải là sau khi tôi chết tôi sẽ đi về đâu, Thiên Đàng hay Cực Lạc? Tôi là ai và tôi sẽ là ai sau cõi đời nầy? Tôi tiếp tục làm người hay làm trâu ngựa? Là một người có niềm tin tôn giáo nhưng thú thật rất ít khi tôi nghĩ đến những điều, tôi cho là, xa xôi đó. Câu hỏi lớn nhất là tại sao đất nước tôi lại phải chịu đựng nhiều chết chóc khổ đau như thế. Tôi cũng không mơ ước gì to lớn, cao xa. Như một nhà nghèo cơm không có đủ ăn, áo không đủ mặc làm sao dám mơ nhà cao cửa rộng, giấc mơ của tôi vô cùng gần gũi và đơn giản, rằng máu Việt Nam đừng chảy nữa trên quê hương tôi đã quá nhiều thống khổ. Năm mười ba tuổi tôi từ giã quê nghèo ra đi. Tôi đi mang theo những câu hỏi, những ám ảnh triền miên về cuộc chiến và đất nước.
Mãi tới hôm nay sau nhiều năm lưu lạc tôi mới được nghe một bài pháp trọn vẹn từ đầu. Điều khác nhau duy nhất, bài pháp tôi nghe không phải do các thầy tôi giảng, nhưng do một vị Linh Mục Công Giáo mà tôi chưa hề quen biết: Cha Nguyễn Hữu Lễ. Đối với tôi, tôn giáo nào đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho con người thì tôn giáo đó là tôn giáo của tôi và bất cứ ai đeo đuổi mục tiêu đem lại an lạc, tự do, cơm áo cho đồng bào tôi người đó là Thầy tôi, là Cha tôi. Trong suốt hai giờ ngồi nghe Cha nói, tôi tự nhiên cảm thấy rằng tôi là một người cùng một đạo với Cha, đạo tình người, đạo dân tộc, đạo Việt Nam.
Cha Nguyễn Hữu Lễ nói với chúng tôi: "Trước khi làm một Linh Mục, tôi là một người Việt Nam". Câu nói là một chân lý hiển nhiên và không có gì khó khăn để nói. Thế nhưng, không phải ai cũng nói được và làm được như Cha. "Trước khi là một Thượng Tọa tôi là người Việt Nam", "Trước khi là một Giám Mục tôi là người Việt Nam", "Trước khi là một Mục Sư tôi là người Việt Nam", "Trước khi là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, tôi là người Việt Nam", "Trước khi là một người theo đạo Cao Đài, tôi là người Việt Nam". Đức Giáo Hoàng cũng đã từng tuyên bố một câu tương tự rằng ngài sẵn sàng về lại Ba Lan để đấu tranh cho nhân quyền của đồng bào ngài khi nhà cầm quyền Cộng Sản Ba Lan đe đọa đàn áp Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan mà ngài ủng hộ tinh thần. Mang trọng trách lãnh đạo tinh thần của gần một tỉ người trên thế giới, câu nói của ngài chưa hẳn hàm chứa ý nghĩa một hành động nhưng là một cách để biểu hiện lòng yêu nước của ngài và đồng thời là một thách thức vô cùng lớn lao đối với nhà cầm quyền Cộng Sản Ba Lan.
Hơn bao giờ hết mỗi người Việt chúng ta phải biết đặt mình trọn vẹn trong ý nghĩa câu nói và thái độ cao cả của Đức Giáo Hoàng. Điều đó có nghĩa rằng, mỗi người Việt Nam phải biết đặt mình trong số phận của đất nước dù chúng ta đang ở bất cứ một cương vị nào trong xã hội hay trong tôn giáo. Hơn bao giờ hết, những người Việt Nam yêu thương đất nước mình phải biết nói lớn lên như Cha Nguyễn Hữu Lễ, biết sống vì đất nước như Cha Nguyễn Hữu Lễ, biết quý cái tổ mà chúng ta đã được ấp thành người như Cha Nguyễn Hữu Lễ, dù chiếc tổ đó làm bằng rơm rạ Việt Nam chứ không phải bằng nệm ấm chăn êm nước Mỹ, biết thương củ sắn cha trồng, củ khoai mẹ mót như Cha Nguyễn Hữu Lễ thay vì vong thân trong bơ sữa quê người.
Tôi đứng dậy ca ngợi Cha và xưng con với Cha bằng tất cả lòng kính yêu và kính trọng mặc dù như đã thưa, tôi không phải là một tín đồ Thiên Chúa Giáo. Chúng tôi không quen biết nhau và Cha cũng chẳng cần được ca ngợi. Ngày mai tôi sẽ trở về với đời sống của một chuyên viên kỹ thuật lo đi làm kiếm cơm nuôi vợ nuôi con và Cha sẽ về lại xứ Tân Tây Lan xa xôi ngàn dặm. Hai bờ đại dương cách trở, biết Cha còn có dịp trở lại nơi đây nữa hay không. Dù mai đây tôi có thể không còn cơ hội gặp lại Cha, nhưng viên than hồng mà Cha đã nhuốm lên trong lòng tôi chắc sẽ còn ấm mãi.
Cha Nguyễn Hữu Lễ kể lại một câu chuyện mà Cha đã thưa với Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Thượng Thủ của Phật Giáo Việt Nam: "Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có Đạo. Chúng ta có Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành nhưng trong quá khứ chúng ta chẳng những không biết giữ gìn ơn phước mà Thượng Đế ban cho, trái lại tự mình cứa da thịt của mình. Tôi mong rằng những điều đó sẽ không bao giờ xảy ra lần nữa". Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ tuy không nói ra nhưng người nghe có thể hiểu ngay là Cha muốn nhắc những xung khắc tôn giáo bắt đầu từ chính biến 1963. Cám ơn Cha đã nhắc. Tôi không nghĩ Cha cho đó là xung đột giữa hai tôn giáo. Tôi cũng thế. Ngày đó tôi còn quá nhỏ để hiểu những gì xảy ra cho đất nước tuy nhiên tôi thành thật tin không có xung khắc tôn giáo tại Việt Nam nhưng đó chỉ là xung khắc giữa một số người, một nhóm người có quyền lực chính trị hay tinh thần trong giai đoạn mà ý thức dân chủ vừa thai nghén. Những xung đột phe nhóm, đặc biệt với sự khai thác tận tình của Cộng Sản, đã đẩy đất nước Việt Nam vào thảm họa rẽ chia và thù hận. Nhìn lại lịch sử của các tôn giáo tại Việt Nam, chúng ta ghi nhận rằng phần lớn các tôn giáo lớn được truyền vào Việt Nam cùng lúc với những biến động lịch sử lớn của đất nước. Phật Giáo được truyền vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc tức khoảng thế kỷ thứ hai tây lịch. Một số không ít các vị tổ Phật giáo là người Trung hoa hoặc theo ngã Trung hoa mà vào Việt Nam. Thiên Chúa Giáo được truyền vào Việt Nam nhiều nhất thời Tây thuộc. Tin Lành được xem là tôn giáo mới mẻ nhất và phát triển mạnh trong thời gian người Mỹ có mặt tại Việt Nam. Ảnh hưởng và vai trò của tôn giáo trong dòng phát triển văn hóa dân tộc cũng như trong quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước khác nhau tùy theo mỗi thời kỳ lịch sử. Cũng như số phận đất nước, tôn giáo có khi thịnh khi suy nhưng sự hưng thịnh của một tôn giáo hay nói khác hơn là sự phát triển về số lượng và ảnh hưởng tinh thần của một tôn giáo nào đó chưa bao giờ trong lịch sử đã dẫn đến sự tiêu diệt một tôn giáo khác.
Trong thời đại Lý Trần, thời đại vàng son của Phật giáo Việt Nam, nhiều nhà sư đã tham gia trực tiếp vào việc trị nước chăn dân như Quốc Sư Vạn Hạnh, Thiền Tổ Trúc Lâm, v.v... Hầu hết vua chúa không những đều là Phật tử và còn là tổ sư của các Thiền tông lớn như thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chẳng hạn. Tuy giữ vị trí đặc biệt thời bấy giờ nhưng không phải vì thế mà Phật giáo trở thành lực lượng thống trị xã hội như trường hợp các quốc gia Hồi giáo miền cận đông. Trái lại các tôn giáo khác vẫn tồn tại và có ảnh hưởng quan trọng trong mọi sinh hoạt văn hóa xã hội từ các triều đại phong kiến cho mãi tới ngày nay.
Trong lịch sử Việt Nam cận đại có xuất hiện thêm của nhiều tôn giáo khác như Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Tin Lành, v.v...Và mặc dù các biến động chính trị đã tạo ra một số ngộ nhận, các tôn giáo cũng đã tồn tại bên nhau với sự tương kính. Nhiều tôn giáo một thời gian đã võ trang quân đội như Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, v.v... nhưng mục tiêu của việc võ trang là để chống Thực Dân và Cộng Sản chứ không phải nhằm chống lại các tôn giáo bạn hay để bành trướng tôn giáo mình qua con đường võ lực. Nhìn qua một số quốc gia như Ấn Độ, các nước vùng Trung Đông, Ái Nhĩ Lan,v.v... chúng ta thấy rằng sự thù địch tôn giáo tại các quốc gia nầy đã dẫn đến việc tàn sát nhau một cách dã man. Hiểu điều đó để thấy cái may mắn rất lớn cho dân tộc ta, mặc dù hoàn cảnh lịch sử vô cùng phức tạp, các tôn giáo vẫn chưa hề có những tranh chấp nào đáng tiếc.
Chính biến năm 1963, như Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ ngầm nhắc nhở, cũng không phải là một xung đột tôn giáo, nhưng dù sao cũng đã làm thiệt hại lớn lao cho nền dân chủ trong giai đoạn phôi thai của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Cùng trong lúc đó biến cố nầy lại là một chiến thắng lớn cho đảng Cộng Sản Việt Nam. Biến cố chính trị của những năm đầu của thập niên 60 tại miền Nam, đã giúp cho CSVN từ một nhóm du kích vừa mới được khai sinh trong rừng núi thành một lực lượng bán công khai và hoạt động hữu hiệu ở thành phố.
Những cuộc đảo chánh, chỉnh lý để tranh quyền đoạt lợi giữa các tướng lãnh trong những năm sau đó đã giúp cho Cộng sản cơ hội vàng son để gầy dựng các cơ sở hạ tầng tại các trung tâm dân cư và đô thị. Căn nhà dân chủ tại miền Nam vừa mới xây dựng chưa được bao lâu đã phải bị tàn phá trước cơn bão lốc chính trị triền miên của thời đại. Số phận dân tộc Việt Nam giống như trái bóng tròn trên sân cỏ. Đây là một bài học lớn cho các thế hệ đang đấu tranh vì tự do dân chủ hiện nay cũng như cho các nhà lãnh đạo đất nước mai sau. Học quá khứ không phải để sống, để ngủ trên quá khứ nhưng để tránh những lỗi lầm, những vết xe đổ của quá khứ.
Tôi tin rằng những điều mà thế hệ tôi và các thế hệ em tôi muốn biết, ít ra trong lúc này, không phải là Đức Giám Mục Ngô Đình Thục là ai, Hòa Thượng Trí Quang là ai, ông Ngô Đình Nhu là ai, ông Ngô Đình Cẩn là ai. Điều chúng tôi muốn biết là bao giờ các em bé Việt Nam bất hạnh ở quê nhà có được một căn nhà để ở, một ngôi trường để học thay vì phải lê lết bụi bờ, ăn cơm thừa canh cặn trên các bến xe đò khắp ba miền nước Việt. Chúng tôi muốn biết những bà mẹ Việt Nam khổ nhọc bao giờ mới hết sắp hàng bán máu đổi gạo nuôi con tại các trung tâm hiến máu ở Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn.
Chúng tôi muốn biết bao giờ những người chị Việt Nam mới hết đứng giữa công viên trong đêm ba mươi Tết để bán thân mình mua áo mới cho con.
Chúng tôi muốn biết bao giờ nước Việt được lấy tên ra khỏi danh sách những quốc gia nghèo nàn và chậm tiến nhất thế giới.
Tủi nhục biết bao nhiêu khi hàng năm chúng ta phải đọc trên báo cáo của cơ quan Liên Hiệp Quốc tên nước Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến nằm bên cạnh của các nước Phi Châu còn sinh sống trong thời kỳ bộ lạc. Hãy để việc giải thích các biến cố lịch sử lại cho các nhà sử học và đi làm những điều công ích cho đồng bào bất hạnh. Thay vì xát muối vào vết thương của dân tộc, xin đoàn kết nhau để cùng tranh đấu cho một đất nước tự do, dân chủ và thịnh vượng.
Một đất nước Việt Nam tương lai phải là căn nhà của mọi tôn giáo sống chung như một đại gia đình Việt Nam tương kính, thương yêu nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Các tôn giáo sẽ là những cột kèo, sẽ là những mái vách gìn giữ cho căn nhà đạo đức dân tộc thêm bền bỉ với thời gian và khi cần, sẽ cùng nhau chống đỡ sức công phá của văn hóa ngoại bang xâm lược. Cha Nguyễn Hữu Lễ nói khá nhiều về tuổi trẻ trong một hội trường mấy trăm người nhưng chỉ có hai người bạn trẻ. Chắc Cha chẳng mấy làm vui. Đi đây đi đó nhiều, hơn ai hết, Cha có lẽ cũng biết rằng tuổi trẻ hiếm hoi có mặt trong các buổi hội thảo chính trị của cộng đồng và các đoàn thể đấu tranh. Thỉnh thoảng lắm mới có vài cô chú trẻ nhiệt tình ráng đến, thì được xướng danh như là Tổng Hội Sinh Viên nầy, phong trào thanh niên nọ cho buổi hội thảo thêm phần trẻ trung, đa diện, chứ thật ra chưa chắc họ đã hiểu các chú các bác nói gì.
Lý do đơn giản bởi vì họ không sống cuộc đời các chú bác đã sống, không đi qua con đường mà các chú bác đã đi qua, và không học tại các trường mà các chú bác đã học. Các chú các bác thường đổ lỗi cho các bạn trẻ hay dị ứng với hai chữ chính trị, lơ là trước nỗi đau đất nước và nhiều chú bác còn đi hơi xa khi cho rằng con cháu mình đã bị Cộng Sản giật dây.
Tôi cũng đi rất nhiều, tham gia hàng chục trại hè, tâm tình với mấy chục hội sinh viên, trao đổi hàng ngàn thư điện toán (email) qua lại với các bạn trẻ, ăn ở với họ, hát hò với họ và khóc cười với họ. Tôi hiểu ra một điều rằng là tuổi trẻ không lơ là trước nỗi đau của đất nước, trái lại họ rất yêu đất nước Việt Nam, ngay cả nhiều em chưa một lần đặt chân đến. Tuổi trẻ cũng không dị ứng với các vấn đề chính trị và tuổi trẻ không thích chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam. Vấn đề khác biệt giữa hai thế hệ, vì thế, không nằm ở mục đích nhưng là phương pháp để giải quyết vấn nạn Việt Nam. Thành thật mà nói tôi không nghĩ các bạn trẻ hôm nay có thể đồng ý với các bậc cha mẹ, chú bác ngay cả trong định nghĩa căn bản của một vài danh từ quen thuộc như chính trị, dân chủ, tự do, đối thoại, tranh luận mà các bậc chú bác hay dùng.
Trong vài năm qua, tôi cũng có dịp tiếp xúc với các cộng đồng người Việt, học hỏi được rất nhiều từ các bác các chú, các bậc đàn anh. Tôi thương vết hằn trên trán cha và đau với niềm đau trong lòng mẹ. Tôi đã ngồi suốt đêm để nghe một bác HO kể lại cuộc đời tù ngục đầy đau xót của bác. Đời của bác HO mà tôi quen là một cuộc đời kiểu mẫu của một thanh niên Việt Nam sinh ra giữa thời chinh chiến, chịu đựng quá nhiều mất mát khổ đau. Hình ảnh của bác với mái tóc hoa râm, dáng người xiêu vẹo, đứng trên góc đường mỗi sáng chờ xe chở đi làm tiền mặt, chiều chở trả về chỗ cũ, ghé tiệm mua một bó rau rồi về lụi cụi nấu cơm ăn, đã nhiều lần làm tôi đau nhói. Lẽ ra giờ nầy, các chú các bác đang sống trên một quê hương thanh bình, bên con bên cháu, với một tâm hồn thảnh thơi lắng đọng của tuổi về chiều thay vì phải mang nỗi buồn đi lang thang trên xứ người xa lạ.
Tôi đã thức nhiều đêm để làm thơ thương xót một người lính già ngã xuống trên xa lộ 101 ở San Jose. Bác chết đi không một phát súng chào, không vợ không con, không có ngay cả một người họ hàng xa nhất. Sở cảnh sát không cho người quen của bác nhận xác về chôn cất. Bác nằm cô đơn lạnh lùng trong nhà xác bịnh viện hơn một tháng để chờ người vợ cũ từ Việt Nam đồng ý ký thư ủy nhiệm cho bạn bè bác quyền nhận xác về chôn.
Bất cứ ai trải qua con đường mà các chú các bác đã phải đi qua đều không tránh khỏi mang theo trong lòng những hờn căm u uất đó. Nỗi đau của các chú các bác là nỗi đau chung của dân tộc. Tuy nhiên, với tất cả sự khiêm cung và kính trọng, tôi xin thưa tôi rất đồng ý với Cha Nguyễn Hữu Lễ khi ngài cho rằng lực lượng chính để giải phóng đất nước ra khỏi xích xiềng Cộng Sản hiện nay và đưa đất nước lên ngang tầm thiên niên kỷ không phải là các cha các chú nhưng là tuổi trẻ Việt Nam.
Sau hơn 25 năm lưu vong, một thế hệ trẻ Việt Nam tài ba về mọi lãnh vực đã hình thành tại hải ngoại. Không phải vài trăm, vài ngàn nhưng có thể lên đến hàng mấy trăm ngàn. Các trường đại học lớn của Mỹ như Harvard, MIT không cho phép sinh viên Việt Nam miễn điểm và hưởng đặc quyền thiểu số vì họ quá giỏi. Sinh viên Việt Nam thường được xếp ngang hàng với sinh viên da trắng xuất sắc, và dĩ nhiên bỏ xa sinh viên thuộc các dân tộc khác. Trong muôn vạn điều buồn, ít ra chúng ta còn có một niềm vui.
Tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại, mặc dù, là những chuyên gia kinh tế, chuyên gia kỹ thuật được cưng chìu trong xã hội Mỹ, hưởng thụ một đời sống trung lưu hay cao hơn nhưng trong đáy tâm hồn họ dải đất hình cong chữ S Việt Nam vẫn đậm đà soi bóng.
Giới trí thức trẻ Việt Nam tại hải ngoại là những người yêu nước cô đơn, đứng bên nầy giòng sông sâu chia rẽ, phân hóa trong cộng đồng người Việt và các thế hệ cha anh. Nhiều trong số họ đã cố đến với cộng đồng, với sinh hoạt Việt Nam để mong góp một bàn tay xây dựng cộng đồng người Việt và yểm trợ cho các phong trào đấu tranh vì tự do dân chủ của đồng bào trong nước nhưng cuối cùng cũng phải bó tay trước những ngăn cách quá sâu và những hiện tượng tiêu cực quá nhiều trong cộng đồng người Việt. Nhiều trong số các bạn trẻ đó đã bỏ cộng đồng mà đi.
Xin hãy đến với tuổi trẻ và giao cho họ trách nhiệm cứu lấy đất nước và dựng xây đất nước.
Xin đặt những nhu cầu của đất nước lên trên nỗi đau riêng của mỗi chúng ta.
Xin hãy nhìn xa hơn vào tương lai đất nước để thấy những nhu cầu của đất nước không phải chỉ để thỏa mãn những oan ức của thế hệ hôm nay mà thôi nhưng còn là trách nhiệm đối với an nguy của dân tộc trong hàng ngàn năm tới. Xin đừng bắt tuổi trẻ phải hô những khẩu hiệu mà họ hoàn toàn không hiểu gì về nội dung, thay vào đó, hãy đến và nói với họ bằng ngôn ngữ thời đại họ, trao cho họ con tim, tặng cho họ tấm lòng để họ làm hành trang trên hành trình dân chủ hóa đất nước.
Tuổi trẻ cũng sinh ra và lớn lên trong giai đoạn đen tối của đất nước, do đó, họ cũng có những khó khăn riêng của thế hệ họ về ngôn ngữ, về giáo dục và cả về văn hóa. Xin hãy thông cảm với những khó khăn mà tuổi trẻ phải đương đầu. Hãy đi và sống với tuổi trẻ để thấy rằng họ đáng thương và đáng quý hơn chú bác cha anh đang nghĩ về họ. Và nhất là, xin đừng quên phía sau bụi cây, những con chồn, con cáo khôn lanh quỷ quyệt đang chờ đón tuổi trẻ Việt Nam như đang chờ những miếng mồi ngon. Đừng bao giờ ném họ và tài năng của họ vào nanh vuốt kẻ thù.
Tôi ngồi viết bài nầy nhưng lòng miên man nghĩ đến Cha Nguyễn Hữu Lễ. Hôm qua đọc báo nghe tin Cha đi đây đi đó vận động cho Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo. Xin cầu mong ngài luôn mạnh khỏe và cám ơn Mẹ Việt Nam vẫn còn có những người con hiếu thảo đang nặng lòng cùng đất nước. Nhờ những hy sinh đó, những tấm lòng đó mà "non nước sẽ ngàn thu" như Thượng Tướng Trần Quang Khải dặn dò sau khi ngài cầm quân từ Thanh Hóa về giải phóng Thăng Long gần một ngàn năm trước. Tôi ngồi viết bài nầy trong lúc quê tôi đang trong mùa lụt lớn. Quê hương miền Trung của tôi vốn đã nghèo chắc sẽ nghèo hơn. Những bản tin xé lòng đứt ruột được gởi ra nước ngoài từ nửa vòng trái đất. Một gia đình ở Huế cột chung nhau chặt để hoặc cùng sống với nhau hay nếu phải chết họ sẽ chết bên nhau. Cả gia đình cuối cùng đã chết bên nhau. Một bà mẹ Quảng Trị phải buông tay theo giòng nước để con mình khỏi phải bận tâm và lo tìm đường sống. Một người cha Quảng Nam bám trên ngọn cây nhìn căn nhà tranh của mình sụp cuốn theo vợ và ba đứa con thơ. Đất miền Trung, đất của đau thương và nghèo khó, đất của bão lụt thiên tai. Người miền Trung, những con người yêu đất, những con người, qua bao nhiêu thế hệ, dù đói khát cam go, dù gian lao vất vả, vẫn không chịu bỏ đi, vẫn cố bám lấy nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Người miền Trung, sống với tình yêu đất và tháng 11 năm 1999, 570 người con của miền Trung nước Việt đã chết trên mảnh đất hiển linh và đầy thống khổ Việt Nam. Thân xác của 570 đồng bào ruột thịt đã trở về với lòng đất mẹ.
Đêm nay, từ vùng đất tạm dung nước Mỹ, tôi ngồi một mình trong phòng vắng, ngưỡng vọng về quê hương xứ Việt xa xôi, thắp nén hương lòng tưởng niệm đồng bào tử nạn. Xin cầu nguyện cho hương linh đồng bào được yên nghỉ trong cõi bình an miên viễn, giữa hồn thiêng sông núi và trong tình thương của tổ tiên giòng giống Lạc Hồng.
Dù cuộc sống nơi xứ người còn đầy gian lao vất vả nhưng tôi không bao giờ quên giọt nước mắt mà tôi đang nhỏ xuống trên quê người lận đận đêm nay là nước mắt Việt Nam. Nước mắt của tôi xin hòa chung với nước mắt của hàng triệu đồng bào thống khổ ở quê hương, xin hòa chung với nước sông Thạch Hãn, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Vệ để làm xanh thêm cây cỏ và cho quê hương sớm được hồi sinh.
Xin hương linh đồng bào quá cố phò hộ cho những đồng bào còn sống sót sau trận bão lụt vừa qua để họ sớm có được chén cơm để ăn, căn nhà để ở, sớm có cơ hội gầy dựng lại cuộc đời sau vô vàn mất mát.
Xin hương linh đồng bào quá cố phò hộ cho dân tộc Việt Nam sớm có một ngày được sống trong tự do, được thở không khí thanh bình, qua đi thời đại của độc tài, hận thù, rẽ chia, ghen ghét, xin phò hộ cho các thế hệ Việt Nam mai sau được sống trong dân chủ, tự do, no ấm, biết yêu thương nhau và che chở cho nhau.
Trần Trung Đạo
 
 
http://dactrung.net/truyen/noidung.aspx?BaiID=ALQxpwm4KcBx5zYMJq1S1g%3d%3d
#24 
sóng trăng 26.02.2007 06:46:38 (permalink)
.
 
Nặng Với Quê Hương Một Tấm Lòng
Giới thiệu bút ký
 Tôi Phải Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
Trần Trung Đạo

Cách đây hơn 4 năm, cũng tại thành phố Boston này, lần đầu tiên tôi có duyên được nghe Linh mục Nguyễn Hữu Lễ nói về những áp bức nhân quyền và đấu tranh tôn giáo đang diễn ra tại Việt Nam. Dựa theo những ý chính trong buổi nói chuyện của Cha, tôi đã viết thành một bài tâm bút có tên "Theo Bước Chân Người Linh Mục". Trong bài viết, tôi nhiều lần lập lại câu nói ngày nay đã trở thành quen thuộc của Cha Nguyễn Hữu Lễ: "Trước khi trở thành linh mục, tôi là người Việt Nam". Câu nói đó thật ra không phải là một khám phá thiên tài nhưng trái lại rất bình thường. Ai cũng có thể nói được và ai cũng biết đó là sự thật. Tuy nhiên biết đúng và sống đúng với những điều mình biết nhiều khi là chuyện khác nhau. Tôi nghĩ rằng, hơn bao giờ hết, những người Việt Nam yêu thương đất nước mình không phải chỉ biết nói lớn như Cha Nguyễn Hữu Lễ, nhưng còn biết sống vì đất nước như Cha Nguyễn Hữu Lễ, biết quý cái tổ mà chúng ta đã được ấp thành người, dù chiếc tổ đó làm bằng rơm rạ Việt Nam chứ không phải bằng chăn êm nệm ấm xứ người.
Tôi nhận rất nhiều điện thư hồi đáp về bài viết Theo Bước Chân Người Linh Mục. Đa số hồi đáp rất tích cực. Bài viết đã dựng nên một nhịp cầu cảm thông, không những chỉ giữa cá nhân tôi và Cha, không những giữa các thế hệ Việt Nam ở hải ngoại, mà cả nhiều tín đồ của hai tôn giáo lớn. Bởi vì chúng ta, trước khi trở thành bất cứ một cương vị nào trong xã hội hay trong tôn giáo, đều là người Việt Nam, và trước hết phải có bổn phận đối với sinh mệnh của dân tộc Việt Nam. Tôi vẫn nhớ bài viết của võ sư Việt Võ Đạo Nguyễn Tiến Hóa đọc trong một Thánh Đường: "Con xin mượn lời của Cha Nguyễn Hữu Lễ trong câu: Trước khi làm linh mục, tôi là người Việt Nam trong bài Theo Bước Chân Người Linh Mục của Trần Trung Đạo, để xác tín: tất cả chúng ta đang hiện diện trong ngôi thánh đường nhỏ bé này đều là người Việt Nam. Vì thế, ngoài bổn phận thiêng liêng đối với Thiên Chúa, chúng ta còn một bổn phận thứ hai không kém phần quan trọng: Đó là tình yêu quê hương và tổ quốc Việt Nam". Tôi trích dẫn câu nói của võ sư Nguyễn Tiến Hóa bởi vì cá nhân ông, mặc dù không bị tù đày như Cha Lễ, cũng là một trong những biểu tương của sự chịu đựng và lòng yêu nước. Võ sư Nguyễn Tiến Hóa đến được bến bờ tự do năm 1981 với một giá rất đắt. Ông đã bỏ lại trên biển cả một vợ, hai con, một người em dâu và người cháu ruột, cùng tất cả những người trên tàu, hầu hết là anh em bà con trong dòng họ. Ông đã bị bệnh tâm thần hết gần tám năm sau chuyến hải hành đầy máu và nước mắt đó. Nhưng tinh thần dân tộc, qua môn phái Việt Võ Đạo, đã giúp ông vượt qua cửa chết để trở về với đường sống trong tình người Việt Nam.
Trong số những hồi đáp tôi cũng nhận được là một câu hỏi của một nữ sinh viên Việt Nam: "Cám ơn anh đã nhắc lại câu nói của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, trước khi trở thành linh mục ông là người Việt Nam. Thế nhưng tôi thắc mắc là sau khi trở thành linh mục rồi, ông có còn là người Việt Nam nữa hay không?" Tôi trả lời cô, theo tôi, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ chịu đựng gian lao tù tội không phải vì ông là linh mục nhưng là vì cái tội ông đã yêu thương mảnh đất từng nuôi ông lớn, vì cái tội ông kính trọng các truyền thống đạo đức, tôn giáo tốt đẹp mà tổ tiên ông đã để lại, vì cái tội ông đã đeo đuổi cuộc đấu tranh cho một xã hội công bằng bác ái, dân chủ, tự do cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau. Tóm lại ông bị tù đày vì ông là người Việt Nam yêu nước. Dù sao, câu trả lời cũng chỉ dựa theo hiểu biết giới hạn của tôi về những chịu đựng, gian nan mà Linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã trải qua trong nhà tù Cộng Sản. Hôm nay, tôi tin rằng cô nữ sinh kia và quý đồng hương quan tâm ở trong cũng như ngoài nước, đã nhận được câu trả lời rõ ràng hơn và đầy đủ chi tiết hơn về hành trình gian khổ của Cha Nguyễn Hữu Lễ, được tích chứa trong bút ký dài 650 trang, Tôi Phải Sống, của ông.
Hồi ký, trong trường hợp này là bút ký, là một thể văn quen thuộc trong văn chương Anh Mỹ. Bước vào một nhà sách Mỹ, hồi ký bao giờ cũng chiếm một số lượng lớn so với nhiều thư mục khác. Các tổng thống, các nhà chính trị, các kinh tế gia, các văn nghệ sĩ nổi danh, các nhân vật từng tạo nên thời thế đều muốn để lại cho đời sau những bài học sống động qua những thiên hồi ký viết về cuộc đời của chính họ. Trong dòng văn học Việt Nam lưu vong, hồi ký cũng đã trở nên thể văn phổ biến bằng một lý do tương tự. Các nhà lãnh đạo chính trị, quân sự Việt Nam sau mùa bão lửa dài của đất nước, đã có cơ hội nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, có cơ hội ghi lại những biến cố mà họ đã chủ động tham gia hay chứng kiến, để qua đó các thế hệ Việt Nam mai sau có cơ hội học hỏi những kinh nghiệm thành công và cả không thành công của các thế hệ ông cha.
Hồi ký rất cần thiết và rất giá trị. Nhưng có lẽ điều khó khăn và cần thiết nhất của một hồi ký là giữ được đặc tính khách quan, không phải chỉ khi mô tả bối cảnh đất nước, khi viết về người khác mà quan trọng hơn khi viết về chính tác giả. Nếu không, các thế hệ Việt Nam tương lai khi vẽ lại hình ảnh đất nước qua những hồi ký của ông cha, họ sẽ phải bâng khuâng và đặt nhiều nghi vấn. Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20, theo họ biết, phải là thời đại của nhiễu nhương, thống khổ, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, chết giữa rừng sâu, chết trong lao tù, chết ngoài biển cả, thì trái lại, trong nhiều hồi ký, các tác giả viết về mình như là những anh hùng, những gương hy sinh cao cả, những nhà lãnh đạo vô cùng tận tụy với nhân dân, những chính khách suốt đời thanh liêm trong sạch. Không ít tác giả viết rất nhiều về những đóng góp của họ vào việc xây dựng đất nước nhưng không nhắc gì đến những đóng góp khác của họ vào việc làm sụp đổ đất nước. Bức tranh Việt Nam, mà các tác giả đó vẽ nên, là một khu vườn toàn kỳ hoa dị thảo rực rỡ sắc màu giữa một bầu trời quê hương đầy sao sáng. Và trong bầu trời đó, không ngôi sao nào chịu thừa nhận mình là ngôi sao xấu. Con cháu chúng ta sẽ hỏi, các ông các bà đã đứng đâu trong cảnh máu xương của dân tộc? Các ông các bà đã làm gì trước những điêu linh thống khổ của Việt Nam trong thế kỷ 20?
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã vượt qua những chướng ngại quá khứ nặng nề đó. Ngay khi cầm bút viết dòng đầu tiên "Kính dâng lên Mẹ Việt Nam", ông đã không có ý định viết để đổ thừa, không có ý định viết để khoe khoang thành tích tù đày, và cũng không có ý định về mình hay viết cho mình. Linh mục Nguyễn Hữu Lễ viết cho những người Việt Nam còn biết đau nỗi đau của đất nước dù họ đang ở đâu trên trái đất này. Linh mục Nguyễn Hữu Lễ muốn tặng cho các thế hệ Việt Nam tương lai một cơ hội để nhìn khuôn mặt còm cõi của nhau, để nếm mùi nước mắt cùng mặn đang lăn trên má của nhau. Cuộc đời trầm luân thống khổ của ông từ trước cổng trời cho đến tầng cuối của địa ngục nhân gian, nói cho cùng, không phải là lý do của tác phẩm nhưng đó chỉ là cái cớ cho cuộc hành trình chữ nghĩa của ông mà thôi. Ông đã dùng khổ đau của mình để gióng kêu tiếng kêu trầm thống của dân tộc Việt Nam.
Tập bút ký được chia làm 3 phần. Phần thứ nhất với tiểu đề Cuộc Đời và Bóng Đen. Trong phần này tác giả mô tả hình ảnh đầu đời của ông, sinh ra từ một gia đình nông dân và lớn lên trong bóng mát của ngôi nhà thờ Bưng Trường nhỏ nhoi xinh xắn, thuộc vùng quê của tỉnh Vĩnh Long. Thời thơ ấu của tác giả giống như các trẻ em miền Tây, gắn liền với đồng ruộng, với những đàn cá tung tăng trên sông rạch và những đàn chim, đàn chuột trên đồng. Cho đến khi 10 tuổi, lần đầu tiên cậu bé Lễ chứng kiến cảnh cốt nhục tương tàn xảy ra cho chính gia đình cậu khi hai người bà con, một đi lính cho Pháp và một đi kháng chiến chống Pháp đã giết nhau trên bờ ruộng. Thảm cảnh như một cơn bão nhỏ, tuy qua đi, nhưng tâm hồn của cậu bé Lễ cũng từ đó không còn vô tư trong trắng nữa. Cậu miên man suy nghĩ về lý do, về chính nghĩa, về Việt Minh, về thực dân Pháp. Họ là ai, họ từ đâu đến, bao giờ chiến tranh sẽ tàn trên quê hương cậu? Một ước muốn hiến dâng và tinh thần phục vụ con người, cũng từ đó, bắt đầu nhen nhúm trong lòng cậu. Tháng 8 năm 1963, cậu xin phép cha mẹ, từ giã đời sống của một thiếu niên trong gia đình nông dân êm ấm để trở thành một chủng sinh với tâm nguyện trở thành Linh Mục Thiên Chúa Giáo.
Khoảng thời gian ba năm, từ khi ông được thụ phong linh mục vào năm 1972 cho đến 1975, linh mục hai mươi bảy tuổi Nguyễn Hữu Lễ đã chứng kiến một thực tế xã hội miền Nam chiến tranh điêu linh với tất cả các phó sản tiêu cực do cuộc chiến tạo ra. Ông đã chứng kiến những bất công xã hội, nạn tham nhũng lộng hành trong các quận huyện hẻo lánh. Ông nhìn thấy cảnh máu Việt Nam đổ trên những cánh đồng lúa Việt Nam. Dù bên này hay bên kia, như ông đã viết trong Tôi Phải Sống, những giọt máu bất hạnh đó "đều có chung một huyết thống đó là Dòng Máu Việt Nam." Trên hành trình phục vụ, ông đã chọn đứng về phía những kẻ bị áp bức, những người dân thấp cổ bé miệng, những con người bị ngược đãi không được ai quan tâm chăm sóc. Ông không được ưa chuộng trong hàng linh mục thời bấy giờ, bởi vì ông thẳng thắng chống lại những kẻ gây nên hay bao che cho những bất công sai trái, dù họ là ai.
Biến cố ba mươi tháng Tư năm 1975 đã làm thay đổi khuôn mặt đất nước. Ba mươi tháng Tư như một nhát dao chém xuống cuộc đời đầy hy vọng của tuổi thanh niên. Ba mươi tháng Tư như cơn bão quét ngang qua những ngọn cây xanh vừa mới đâm chồi. Chiến tranh chết chóc đã được thay bằng nghèo đói, ngục tù. Tiếng rú của đạn bom được thay bằng tiếng khua của xiềng xích. Hàng trăm ngàn người bỏ nước ra đi. Biển cả. Rừng sâu. Non mờ. Núi thẳm. Tiếng xích T54 tưởng như đã nghiền nát bao ước vọng đang đâm chồi nẫy lộc trong lòng vị linh mục trẻ. Những gian truân sau cuộc đổi đời tưởng đã xô ông ngả gục. Nhưng không. Nhà thơ Phùng Quán đã vịn thơ mà đứng dậy, còn ông, ông không làm thơ nhưng vẫn có một niềm tin son sắt vào chân lý của tình thương dân tộc. Ông đã vịn niềm tin dân tộc mà đứng dậy. Trong bóng đêm đất nước, ngọn diêm nhỏ của hy vọng trong lòng ông vẫn sáng. Ông tiếp tục chọn đứng về phía dân tộc, đi về phía dân tộc và tìm cách cứu dân tộc khỏi nanh vuốt vô thần. Ông bị bắt trong khi đang chuẩn bị những bước thăm dò đầu tiên trong con đường dài đó.
Từ buổi chiều cuối tháng 5 năm 1976 cho đến cuối năm 1988 là thời gian mà tác giả Nguyễn Hữu Lễ gọi là Chiếc Lá Giữa Dòng. Ông đã dành trên 400 trang trong phần 2 của tập bút ký, để kể lại hơn 12 năm trôi nổi giữa dòng đời, từ trại tạm giam đầu tiên ở Ban Mê Thuộc đến An Ninh Nội Chính, Phan Đăng Lưu, Gia Rây, Nam Hà, Cổng Trời, Thanh Cẩm.
Nếu độc giả nào nói với tôi rằng vị đó có thể đọc một mạch toàn bộ tác phẩm dày 650 trang của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ như đọc một truyện dài đầy ly kỳ gay cấn, tôi sẽ không tin. Mặc dù rất dể bị cuốn hút vào câu chuyện hồi hộp và đầy bi tráng của ông, tôi đã nhiều lần phải dừng lại, để sách xuống và bước ra vườn. Tôi cần được thở, cần một chút gió và cần lấy lại bình tĩnh trước khi cùng đi với tác giả cho đến bước cuối cùng trong hành trình gian khổ của ông. Trước mắt tôi, hình ảnh của Linh mục Vũ Đức Khâm đang dọn mình rửa tội trong những lời kinh đọc vội vàng của Cha Lễ. Trước mắt tôi hình ảnh một tù nhân Nguyễn Hữu Lễ ốm yếu trong manh áo rách tả tơi, nằm co ro trong ngục đá của trại Cổng Trời, giữa cái rét căm căm của mùa đông Việt Bắc. Trước mắt tôi thân hình đẫm máu của cố Dân Biểu Đặng Văn Tiếp và tiếng kêu đau xót của ông gởi về miền Nam xa xôi cho người mẹ già đang chờ đợi ông "Chắc con chết mất mẹ ơi" trước khi tắt thở dưới bàn tay độc ác của Bùi Đình Thi. Và bao nhiêu câu chuyện khác, chi tiết khác đã làm trái tim tôi nặng hơn, làm lòng tôi chùng xuống.
Tôi rất thường ca ngợi từ bi, bác ái và kêu gọi lòng nhân bản, bao dung trong những bài thơ, bài viết, bài nói chuyện của mình. Nhưng khi đọc tác phẩm Tôi Phải Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ tôi cảm thấy nghi ngờ sự thành thật và giá trị đạo đức trong lời kêu gọi của chính mình. Tôi chưa bước vào tù. Tôi chưa hề cầm súng. Tôi chưa ai hề bị ai đánh đập, chửi mắng, lăng mạ, bỏ đói, rẻ khinh. Việc nhân danh những điều tốt đẹp nhất trên đời, vì thế, đối với tôi là một việc dể dàng. Nhưng liệu tôi có thể tiếp tục ca ngợi từ bi, bác ái sau khi bị biệt giam suốt ba năm trong phòng kỹ luật ở trại tù độc ác nhất thế gian như trại tù Cộng Sản hay không? Liệu tôi còn có thể tiếp tục kêu gọi bao dung tha thứ sau khi bị đánh chết đi sống lại suốt ngày đêm hay không? Tôi không dám hứa. Nhưng Cha Lễ đã chịu đựng được, đã đứng lên được, không chỉ đứng lên như một linh mục, không chỉ đứng lên như một người Việt Nam, nhưng còn là một Linh Mục trung thành với lý tưởng cao cả của mình và như một người Việt Nam có con tim đầy ắp lòng nhân bản, vẫn ôm chặt vào lòng mảnh quê hương khốn khổ của ông.
Thưa quý vị. Trong tác phẩm Anna Karenina, văn hào Nga Leon Tolstoy đã viết: "Những kẻ có hạnh phúc thường giống nhau, nhưng đau khổ thì mồi người mỗi khác." Thi hào Nguyễn Du của Việt Nam cũng đã từng viết: "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay." Tại sao lại "mỗi người mỗi khác" ? Tại sao lại "ai có qua cầu mới hay"? Bởi vì, một lý do, niềm vui khi có một căn nhà đẹp, một người vợ hiền, một người chồng gương mẫu, một công việc tốt, một gia đình êm ấm bao giờ cũng dể dàng được thấy, được chia xẻ, được biểu lộ ra ngoài. Thế nhưng sự khổ đau thì khác. Đặc tính lớn của khổ đau là chịu đựng, riêng tư và câm nín. Khổ đau chỉ thức dậy khi mọi người đã ngủ yên. Khổ đau nhức nhối nhiều hơn trong những đêm vắng lặng. Khổ đau là những lời rên không để lại một âm vang, là những tiếng khóc không làm rơi nước mắt. Một lý do khác, quan trọng hơn, không giống như một vết đau trên xác thịt, mức độ thuyên giảm theo thời gian của một vết thương tâm linh thường tùy thuộc vào sự chịu đựng, khả năng để vượt thoát, hoài bảo để hướng đến những mục đích cao đẹp hơn, của kẻ bị thương. Saddam Hussein có một thời thơ ấu gian nan, bị người thân ruồng bỏ và lớn lên chỉ để trả thù đời, để trở thành một nhà độc tài hung bạo, giết người bằng hơi ngạt, bằng tra tấn dã man. Nelson Mandela chịu đựng gần 30 năm dài trong lao tù khốn khổ trên một hoang đảo xa xôi, nhưng vẫn giữ được tấm lòng nhân hậu, biết đến khi cần phải đến và biết đi khi cần phải ra đi, biết chọn cho mình cách sống khiêm cung, giản dị ngay cả khi trở thành Tổng Thống. Cái đẹp của một viên kim cương không phải chỉ nhờ vào sự trong sáng, rực rỡ bên ngoài nhưng còn tích chứa trong đó bao gian lao vất vả, mồ hôi nước mắt của những người thợ mỏ.
Nhà thơ Tô Thùy Yên đã viết trong bài thơ tổng kết một chặng đường tù đày đầy bi tráng của ông:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Sau mười năm tù tội, nhà thơ trở về. Hành trang của nhà thơ không phải là hận thù mang nặng trĩu trên vai nhưng là một lượng từ tâm bát ngát. Cám ơn cuộc đời, cám ơn cỏ cây, sông núi. Nhà thơ vẫn tìm được niềm an ủi ngay giữa lúc cô đơn tẻ lạnh nhất của một kiếp con người.
Suốt 650 trang trong tác phẩm của một linh mục Công Giáo Việt Nam, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, cũng để mô tả một điều tương tự, rằng, từ trong tầng cuối cùng của địa ngục trần gian đen tối, ông đã tìm thấy một viên kim cương tình thương, bao dung, nhân bản mà dân tộc Việt Nam đang cần có. Từ vết thương đã mọc lên những bông hoa tuyệt mỹ của lòng bác ái và tâm hồn hướng thiện. Linh mục Nguyễn Hữu Lễ bước ra khỏi trại tù không phải như một kẻ được tha nhưng là một người chiến thắng. Đất nước đang lầm than nhưng đất nước vẫn còn đó và tấm thân của tác giả tuy trầy trụa, đau thương nhưng hơi thở chưa tắt và niềm tin chưa chết. Ông vẫn hãnh diện nói lớn rằng:
Lưng ta đời chém hàng trăm nhát
Còn đây nguyên vẹn một con tim
Để kết thúc tác phẩm, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ viết: "Những năm tù cũng cho tôi có dịp chia xẻ và sống với nỗi đau thương chung của Dân Tộc, mà nếu không trải qua kinh nghiệm đó, có lẽ tôi không biết hoặc biết rất hời hợt về số phận đau thương của đồng bào Việt Nam. Qua đó, tôi thương và gắn bó với dân tộc tôi nhiều hơn." Đúng vậy, tôi rất đồng ý với Cha. Mẫu số chung tinh thần dân tộc vượt lên trên mọi hiệp định, mọi vĩ tuyến, mọi chia cách, mọi tôn giáo, thế hệ, trong hay ngoài nước. Cái chung tinh thần đó, có thể đang sôi sục trong lòng Cha hay tạm ngủ quên trong lòng tôi, lòng anh chị nhưng chắc chắn đã và đang hiện hữu trong mỗi người Việt Nam quan tâm đến vận mệnh đất nước. Nếu chúng ta biết đánh thức cái chung tinh thần đó dậy, sống trọn vẹn với cái chung đó, tôi tin rằng đại gia đình dân tộc Việt Nam sẽ sớm một ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Dân tộc Việt Nam không hề đặt bút ký thỏa ước Patenotre, hiệp ước Geneve hay hiệp định Paris. Tất cả chỉ là sự áp đặt của các đế quốc đã diễn ra dưới nhiều hình thức trong những thời điểm khó khăn của vận mệnh đất nước. Trong hơn một thế kỷ qua, dân tộc Việt Nam liên tục là nạn nhân đáng thương, bị xâm lược bởi các ý thức hệ ngoại lai vong bản. Không một người Việt Nam yêu nước nào muốn thấy quê hương chìm đắm và tiếp tục chìm đắm trong lạc hậu, độc tài triền miên như hiện nay.
Buổi sáng hôm nay, khi ngồi viết phần kết luận cho bài viết về tác phẩm Tôi Phải Sống của Cha Nguyễn Hữu Lễ, tôi chợt nhớ ra, tôi đang sống trong một ngày quan trọng của lịch sử Việt Nam. Hôm nay là ngày 1 tháng 11. Tôi tự nhủ, giờ này, những ngôi chùa Phật Giáo chắc đang có lễ cầu siêu cho hương linh các thánh tử đạo đã dâng hiến nhục thể để tranh đấu cho quyền bình đẳng tôn giáo trong mùa Pháp Nạn 1963. Giờ này, trong nhiều thánh đường Việt Nam chắc cũng có lễ cầu nguyện cho anh linh cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và các bào đệ của ông. Và giờ này, những mái tóc bạc Việt Nam của thế hệ 1963, nếu còn sống, đang ngồi ôn lại câu chuyện buồn lịch sử trong căn nhà riêng ở California, Paris, Berlin hay trên khung gát hẹp Việt Nam nào đó. Bốn mươi năm đã trôi qua. Tôi tự hỏi trong số những người đang nhìn lui, nhìn lại 40 năm trước, liệu có ai đang nhìn vào 40 năm sắp tới hay không. Quá khứ quan trọng nhưng không ai có thể sống bằng quá khứ. Trong lòng tôi chợt dấy lên một ước mơ. Tôi mơ một ngày không xa, tiếng chuông chùa ngân vang trong buổi sáng ngày 1 tháng 11 mỗi năm, không phải chỉ để cầu nguyện cho anh linh của Bồ Tát Quảng Đức, nữ sinh Quách Thị Trang, sinh viên Nhất Chi Mai, v.v. mà thôi, nhưng còn cầu nguyện cho anh linh của cố Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa và các bào đệ của ông được yên nghĩ trong cõi vĩnh hằng. Và tương tự, hòa nhịp trong tiếng chuông nhà thờ đang đổ chậm, không chỉ là lời cầu nguyện cho cố tổng thống Ngô Đình Diệm và hai bào đệ Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn mà còn cho những người Phật Tử, những người Việt Nam không phải là Công Giáo, đã chết trong mùa bão lửa 1963. Trong chúng ta, có thể có người còn e ngại để nói lên điều đó, nhưng trong đáy lòng, tôi tin, đều ấp ủ một giấc mơ chung tuyệt vời như thế. Bởi vì, cuối cùng, máu là máu Việt Nam, nước mắt là nước mắt Việt Nam và tương lai là tương lai của dân tộc Việt Nam, đúng như Cha Nguyễn Hữu Lễ đã kết luận trong tác phẩm của ông: "Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn ánh sáng của Bình Minh Dân Tộc". Trong cùng tâm thức đó, tôi xin được trân trọng giới thiệu đến quý vị và độc giả bốn phương tập bút ký Tôi Phải Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ.
Trần Trung Đạo
http://dactrung.net/truyen/noidung.aspx?BaiID=N%2fciY8OnCEInKS6mRPQGNA%3d%3d
#25 
sóng trăng 04.03.2007 13:29:13 (permalink)
.
 
THỜI ĐIỂM LINH MỤC NGUYỄN HỮU LỄ: TÔI PHẢI SỐNG.
Lm. Trần Cao Tường


Mùa thu đến, lá mùa thu úa vàng rơi lả tả trong gió lạnh. Lá nào mất, lá nào còn? Mỗi chiếc lá thu rơi như một công án phá vỡ "breakthrough" cái màn vô minh, phá vỡ cái vô thường, nổ tung cái hữu hạn của một kiếp người, nổ tung cái thành trì tưởng rằng đỉnh cao với những so đo thắng thua hơn thiệt, miếng to miếng bé, để mở ra một khoảng trống mênh mang, để mở ra một nhãn quan mới trong một tầm nhìn mới. Mỗi chiếc lá thu rơi gợi lên những bâng khuâng, những trăn trở, những bồng bềnh xa vắng...
Bao nhiêu người đã nằm xuống, mà tôi vẫn còn sống. Có liên hệ gì đến tôi không? Tôi phải sống? Bạn phải sống? Sống mà làm gì? Sao chúng ta lại vẫn hiện hữu trên mặt đất này? Phải có một mục đích và một lý do nào chứ?!
Sống trên đời nhiều chuyện ghê gớm quá,
Vậy mà ta sống có kỳ không?
(thơ Tô Thùy Yên)
TỪ ĐÁY CÙNG ĐỊA NGỤC ĐEN KHỦNG KHIẾP
Đấy, tôi phải vòng vo một chút vậy để diễn tả cái xúc động không sao diễn tả được của tôi khi gặp lại linh mục Nguyễn Hữu Lễ bằng xương bằng thịt người (chứ không phải hình ảnh một con thú vật đang bị hành hạ vẫn lởn vởn trong đầu), và dự buổi ra mắt sách "Tôi Phải Sống.".
Cách đây cả mười năm gì đó, trên chuyến máy bay từ California về New Orleans, tôi đã đọc một loạt bài viết "Một Vấn Đề của Lương Tâm" (tức chương 7, chương 8 và chương 9 trong sách "Tôi Phải Sống" bây giờ). Từ đó tôi cứ bị ám ảnh hoài, như một tiếng nghẹn trong đời không sao phát ra được lời, về hình ảnh một linh mục bị một bộ máy theo đúng bài bản cố ý biến con người thành khốn nạn hơn những con vật trần truồng trong cõi đen kịt đáy cùng địa ngục khủng khiếp nhất của một kiếp người. Cái bộ máy huấn luyện này khủng khiếp đến nỗi có thể biến cả một con chiên hiền thành một con sói dữ, khi dùng cái bao tửđể chôn sống tinh thần, tạo ra được một cõi ác để tước đoạt lẽ sống khi "tước đoạt quyền hy vọng là lý do sống của con người." (trang 596).
"Khi con người sống chen chúc nhau trong cảnh khốn cùng, đói khát và tuyệt vọng trong thời gian dài hơn chục năm trời, đã cho tôi rút được bài học sau đây: "Lòng nhân đạo của con người có giới hạn, nhưng sự ác độc của loài người thì vô tận, nhất là khi sự ác độc đó được dung dưỡng bởi hoàn cảnh xấu xa." (trang 597) Cuốn sách dày 650 trang với cái hình bìa rất gợi cảm nói lên tất cả nội dung bên trong. Cái màu đen kịt thật rùng rợn. Màu đen của chết chóc. Màu đen của hận thù. Màu đen của tuyệt vọng, của đường hầm tối không một kẽ sáng, không một lối thoát. Màu đen khủng khiếp này đang muốn nuốt chửng cả mấy cái bông hoa hướng dương có vẻ đang rũ héo cố hút lấy một vài giọt nước cuối cùng để sống còn giữa một vũng máu đỏ.
Tôi mở cuốn sách với cái cảm giác màu đen ghê rợn này. Rùng mình. Nổi da gà. Bị hút thật mạnh, tôi đọc một hơi từ trang đầu đến trang cuối cùng, không bỏ sót một hàng. Rôì lại đọc lại, chầm chậm, giữa hai hàng chữ. Tôi ít khi đọc một cuốn sách nào kiểu như thế. Thử tập đặt mình một phần nào vào chính cái rung cảm của người viết qua những "chặng đường thương khó" của đất nước mình từ những ngày hống hách của những người Tây trắng và cái vòng đai những tai to mặt lớn trâng tráo bất công đè nén người dân quê thấp cổ bé miệng, đến những cái xác bị mổ bụng trôi sông mà trẻ con miền thơ ấu gọi là "thằng chổng." Tôi chảy nước mắt.
Tôi biết nhiều người đọc "Tôi Phải Sống" đã khóc. Không phải chỉ thương người viết, thương bao người bị tù đầy trong tuyệt vọng, mà thương cả cái dân tộc khổ đau quằn quại của mình. đầy máu. đầy nước mắt. Người mình bị các thế lực xâu xé hành hạ, rồi các "ông thần nhiều râu" đến từ phương tây lại dạy cho người mình biết đỉnh cao mà hành hạ nhau, chú Sáu giết dượng Tư anh em trong nhà, móc mắt nhau, mổ bụng nhau, chặt đầu nhau, chôn sống nhau, làm tế vật tế "thần nhiều râu." Râu đỏ hay râu xanh. Bị đẩy vào những hệ thống, như những móc xích, cứ thế mà chạy, không sao ra khỏi, không cần dùng đầu nữa, chất nhân tính biến mất dần, lòng nhân ái và cái tâm lương thiện bị thui chột dần!
Chả lẽ dân tộc mình đã đến thời mạt vận hết đường ngóc đầu lên được?! Chả lẽ dân tộc mình cứ mãi phải nuốt nhục cúi đầu trước cộng đồng nhân loại đang tiến quá xa về mọi phương diện?! Nghe những vụ buôn con gái Việt Nam sang Tàu mà đau. Con mình đấy chứ, cháu mình cả đấy chứ!!!
"Cuối cùng rồi trên quê huơng ta đã im tiếng súng, nhưng trong lòng dân tộc Việt nam cuộc chiến vẫn chưa tàn. Mộtđiều trớ trêu là mặc dù đã im tiếng súng nhưng cuộc chiến đó không có kẻ thắng mà chỉ có những người thua. Những người thua cuộc chính là toàn thể dân tộc Việt nam.” (trang 605)
ĐẾN THỊ KIẾN PHỤC SINH
Từ lâu tôi vẫn nghĩ, thế nào rồi từ những đầy đọa cùng tột, từ những xâu xé tương tàn phi lý ghi đậm một vết nhơ nhất của lịch sử dân tộc mình, cũng sẽ nẩy sinh ra những tác phẩm lớn, có sức bật sáng và đánh thức, mở cửa thay chuyển cả một hướng đi, và hồi sinh như bông hoa hướng dương mọc lên từ nấm mồ thối tha và đen kịt. Cuộc tái lập quốc cuả dân Do Thái vào năm 1948 đã chỉ thành hình từ một cuốn sách mỏng cuả Herzl: Quốc Gia Do Thái. Cuốn sách này manh nha từ cuối thế kỷ 19 tại Âu châu, đã là linh hồn cho phong trào Sion phục hưng đất nước.
Nhưng cái tinh thần này lại bắt nguồn tự Bộ Kinh Dân Tộc của họ, mà bây giờ đã là một phần của Cựu Ước trong Bộ Kinh Thánh của đạo Chúa. Điển hình là Thị Kiến Phục Sinh của tiên tri Ezekiel trong cảnh lưu đày thảm khốc vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
Không ai có thể tin nổi trạng huống của dân Do Thái lưu đầy bi thảm và tuyệt vọng như một đống xương khô nằm rải rác khắp cánh đồng như kiểu "Killing Fields” mà lại có một chút hy vọng nào được!
Thế mà tiên tri Ezekiel và đám môn đệ của ông đã dám tin vào một cuộc phục sinh Do Thái. Sở dĩ ông có niềm tin ấy là vì dưới con mắt ông, đấng Toàn Năng vẫnđang dẫn đầu cuộc hành trình của dân tộc ông, mặc dầu đang đi qua đêm đen hãi hùng, đang mò mẫm qua vùng mồ mả đầy xác chết và xương trắng ngổn ngang.
Lịch sử của dân tộc Do Thái phải có một ý nghĩa, mặc dù dưới con mắt của nhiều người là phi lý chán chường. Cái hướng lịch sử này đang được mở tới theo một con đường huyền bí, nói theo kiểu người mình là do Ông Trời xếp đặt, đúng thời, đúng điểm. Ta về ta dựng mây lên Trời xe mây lại một bên hòn Lèn.
Đã đến thời điểm chiếc xe lịch sử chuyển bánh thì không một sức mạnh nào cản ngăn được nữa. Ezekiel đã thành công trong việc khắc sâu niềm tin này vào tâm khảm những kẻ lưu đầy khi họ phải đương đầu với một tương lai mịt mù đen tối của dân tộc họ:
Tay quyền phép Đức Giavê chạm đến,
Thần Khí Người chợt giáng xuống mênh mông,
Ngài đem tôi đặt chính giữa cánh đồng,
Ôi ghê rợn đầy xương khô rải rác.
Ngài hỏi tôi ”Xương có nhập với xác?”
Tôi trả lời ”Ngài biết rất tỏ tường”.
Rồi bảo tôi ”truyền sấm chỉ trên xương,
Ta cho chúng Thần Linh và sức sống.
Ta cho gân là sinh lực chuyển động, Ta cho thịt mọc lấp kín xương người,
Ta căng da và khí lực bởi trời,
Cho dương sức chúng trở về cõi thế.
để chúng biết một mình Ta Chúa Tể”
Vâng lời Ngài tôi tuyên sấm trên xương,
Sấm truyền xong, kìa huyên náo lạ thường,
Các bộ xương đã từ từ ráp nối,
Cả thịt da mọc đùn lên tựa thổi,
Nhưng vẫn là những đống xác vô tri.
Ngài lại bảo ”Truyền sấm đến tử thi,
Để Thần Khí Ta nhập vào xác ấy”.
Dứt lời truyền, cả đoàn người đứng dậy
Đông đảo thay người người sát vai chen.
Ngài bảo ” đó toàn thể Israel,
Ta cho chúng phục sinh từ cõi chết.”
Chúng nhủ thầm "Xương héo khô gần hết,
Hy vọng gì sắp mục nát tiêu ma.”
Ngài bảo chúng "Ta mở mộ ngươi ra,
Cứu ngươi sống làm dân Ta tuyển chọn,
Đưa ngươi đến đất lành Ta đã chọn,
Nơi sữa mật triền miên chảy không ngơi,
Cho Thần Lực nguyên khí sống muôn đời,
Ta thi hành lời sấm truyền đã hứa.
(Ezekiel 37:1-14; Hoàng Vũ chuyển thành thơ)
Quả thực, người Do Thái đã dựng lại quê hương của họ từ một niềm tin, từ một Bộ Kinh Tin làm nên Bộ Kinh Dân Tộc của họ. Và người diễn lên viễn tượng cho một cuộc dựng lại quê hương chính là Ezekiel.
HOA ƠI TÊN GÌ CÓ PHẢI HOA HƯỚNG DƯƠNG?
Cách đây mấy năm, nhạc sĩ Phạm Duy trong "Ngụ Ngôn Mùa Xuân" đã thấy một viễn kiến một người đội khăn tang đi chôn xác. Cả triệu xác chết không phải là phi lý, nhưng đang thành hoa màu cho muà xuân mới của dân tộc. Người đội khăn tang cũng đang chôn luôn các chủ nghĩa giết người, chôn "cả tội hèn của chúng ta." Tiếng hát Thái Hiền rất truyền cảm đang vang lên êm ả như một lời vỗ về ru con, ru những trẻ em bất hạnh trên khắp nẻo đường quê hương.
Người đi trong mùa đông đội khăn tang
mang tình thương theo người phu đi vùi lấp mộ phần...
Chôn mộ xong nghe mùa xuân đang rộn rã tới gần.
Mai đây nấm mồ một nụ vàng sẽ hé
Hoa ơi tên gì có phải hoa hướng dương?
Hoa ơi tên gì hoa tình yêu đó em...
Phải đọc tới Cuối Chuyện, người ta mới thấy được khá rõ điều tác giả muốn nói trong suốt những bước ngoặt ngoèo tại sao "Tôi Phải Sống."
Toàn tập Bút Ký rất giá trị này không chỉ nhằm nói lên cõi ác tối đen thăm thẳm trong những năm tù đầy của mình và của biết bao người như nhiều người đã nói, mặc dù rất khủng khiếp, nhưng chính là để cho thấy sự vượt thắng của cái Thiện, của Nhân Ái, của Thứ Tha, của Tình Thương của Đấng vẫn dẫn đầu hướng đi lịch sử đời mình và của cả dân tộc. Chính chất Nhân Ái này mới có đủ nhựa sống làm hồi sinh những bông hoa hướng dương kia, mà mới là chất keo gắn liền tình dân tộc, mở ra viễn kiến chung cho dân tộc. Chính bông Hoa Tình Yêu luôn hướng về Mặt Trời mới có thể còn chất sống mà vươn lên.
"Trước tiên, về phương diện tôn giáo, trong cảnh khốn cùng đó, tôi nhận thấy vai trò của một linh mục thật vô cùng cần thiết để mang lại tình thương và niềm hy vọng trong khung cảnh mà hai thứ giá trị này rất hiếm, nếu không muốn nói là không có. Chính tình yêu và niềm hy vọng của chân lý Phúc Âm đã cho tôi điểm tựa và tôi chia sẻ hồng ân này với các bạn tù mà tôi có dịp sống chung. Tôi nghĩ rằng, trong môi trường tù ngục đọa đầy d-ó, tôi đã sống sứ mệnh linh mục có nhiều kết quả hơn sáu năm trước ngày tôi vào tù... Hơn nữa, qua biến cố xảy ra tưởng như vô tình, nhưng sau này, tôi nhận ra đó chính là sự quan phòng của Thiên Chúa, và tôi luôn nghĩ rằng, trong hết mọi hoàn cảnh, luôn có bàn tay Thiên Chúa che chở cuộc đời tôi." (trang 595)
"Không bao giờ oán trách con người, không bao giờ thù hận con người, không bao giờ tiêu diệt con người, nhưng phải bằng mọi cách loại bỏ bất cứ chế độ xấu xa nào đã khuyến khích và dung dưỡng sự hận thù giữa người với người, và thay vào đó một xã hội lành mạnh để con người được phát triển phần Lương Thiện của mình.” " Không một chế độ nào dùng họng súng và nhà tù để cai trị mà vững bền được, chỉ có lòng nhân mới cảm hóa con người."
Như thế " Tôi Phải Sống" không phải là một tập bút ký mang màu sắc chính trị nào cả, mà là một lời chứng hùng hồn về sức mạnh của Tình Thương thắng được bạo tàn, mở ra một viễn kiến về một bình minh dân tộc, vượt lên trên được mọi xung khắc để góp phần khai triển bộ Kinh Tin dân tộc.
"KHI CON NGƯỜI TÌM RA LẼ SỐNG."
(Man's Search For Meaning)
Từ trong trại "tập trung sát tế" thời Đức Quốc Xã, Viktor Frankl đã tìm ra lẽ sống còn và giúp nhiều bạn tù Do Thái đứng vững giữa những đấy đọa tột cùng.
Frankl bị mất hết người thân trong gia đình, thân xác bị lột trần, nhân phẩm bị tước đoạt, mà vẫn còn là mình, mà vẫn cứ là mình. Và ông đã để lại cho nhân loại một cuốn sách mỏng nhưng mang giá trị siêu việt về tâm lý, tâm linh và giáo khoa. Đó là cuốn " Khi Con Người Tìm Ra Lẽ Sống," (Man's Search For Meaning) với khám phá về Logotherapy.
Khám phá đó là: Con người khác con vật ở chổ biết tự thức về bản ngã của mình, mang tự do căn bản để chọn lựa thái độ sống mình vẫn cứ là mình trong bất cứ hoàn cảnh nào. Khi mọi thứ quyền khác bị tước đoạt thì mình vẫn còn cái quyền căn bản đó. Và khi con người đã tìm ra lý do để sống, thì không một quyền lực nào hay hoàn cảnh nghiệt ngã nào lay chuyển nổi. Sở dĩ có những người phải tự tử vì thấy đời buồn chán, phi lý và tẻ lạnh. Hãy bắt đầu làm một cái gì cho mình và giúp người khác được thì tìm ra được lẽ sống. Stephen Covey đã áp dụng thành công vào trong chương trình "The Seven Habits of Highly Effective People" rất nổi tiếng ngày nay.
So sánh như vậy ta mới thấy "Tôi Phải Sống" quả là một tác phẩm lớn và giá trị về văn chương cũng như đường hướng. Chuyện kể của Viktor Frankl rất khô khan và đầy tính lý luận. Đang khi "Tôi Phải Sống" lại rất sống động hào hứng đọc mà không rời ra nổi.
Những chuyện "Ngày xưa còn bé" kể lại lần đầu được đi Sài gòn thì tuyệt quá. Tôi có cảm tưởng chuyện "Tô Phở Đầu Đời" hay hơn Phở Tráng trong Miếng Ngon Hà Nội của Vũ Bằng xa. Hạnh phúc dân mình giản đơn vậy đó mà người ta lại đưa cho bánh vẽ cùng với những trái bom. Nhiều người đọc "Tôi Phải Sống" với một cung cách hơi lạ đời: cứ xụt xùi thương cảm khóc một hồi rồi lại phá ra cười. Cái cười thật tinh vi hóm hỉnh lẫn xả láng. Cười xong rồi lại khóc! Khổ sở vậy đấy mà cứ phải đọc! Trong "Tôi Phải Sống," nhiều lần những tù nhân khốn khổ đã dùng những cái cười để gọi là ngạo nghễ "cười vào mặt nhân gian." Cười để thấy rằng những người đang hành hạ mình thực ra chẳng có quyền gì trên mình cả. Như chuyện Lm. Phạm Quý Hòa "bị ngựa đá," chuyện Lm. Trần Văn Nghị vì quá thương tình cho anh em một cái khăn tay mà bị đánh nhừ tử rồi bị cùm bảy ngày đêm. Thế mà vẫn nhe răng cười hề hề...
Một khi đã thấy được lẽ để sống, thấy được một sứ mạng để đi tới thì không gì chế ngự được nữa. Đó là trường hợp khi 28 anh em linh mục được thả về mà tác giả phải ở lại một mình. Cái cảm giác bị bỏ rơi cô đơn tuyệt vọng quá xót xa thân phận mình.
Nhưng "qua sáng ngày, tôi cảm thấy mình đã trở nên một con người khác," khi nhận ra tiếng Chúa: "Cha muốn con tiếp tục ở lại đây với những tù nhân khốn khổ còn lại, để con yêu thương, an ủi, giúp đỡ và chia xẻ đời con với họ..." (trang 552)
TÌM RA LẼ SỐNG TRONG MỘT NHÀ TÙ MỚI
Hồi còn làm học trò từ nhà quê lên "du học" tại Sài gòn, mỗi lần từ giã Bố tôi thường dặn: " Ra đường có ai hạ nhục con, con đừng nổi giận đánh lại hoặc nguyền rủa họ. Hãy dành sức mà làm một cái gì cho con có thể ngẩng đầu lên. Hãy dành sức mà làm một cái gì ý nghĩa hơn cho đời."
Bây giờ bước vào trường đời tôi vẫn còn phải học nhiều lắm. Và đọc "Tôi Phải Sống," tôi càng thấm thía câu Bố dặn cũng như câu Mẹ ru văng vẳng trong tâm:
Ầu ơ, Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi.
Con đi trường học mẹ đi trường đời.
Trong những ngày cuối tại trại tù Nam Hà ngoài Bắc, có người báo tin sắp có tên trong danh sách được tha, cậu Đức Mẫm ngày xưa hay Cậu Bảy Nguyễn Hữu Lễ ngày nay đã tỏ ra chẳng mấy hào hứng. "Vì nếu có về đi nữa thì cũng là chuyển từ một nhà tù nhỏ sang một nhà tù lớn. Khi bước chân ra khỏi đây để trở về xã hội bên ngoài chắc gì tôi đã yên thân. Trong khi đó, tôi đã tìm được ý nghĩa đích hực của cuộc đời phục vụ trong nếp sống ở đây." (trang 582)
Không phải là vô tình mà tác giả đã mở đầu bằng chuyện khi ra khỏi nhà tù nhỏ. Vào tòa giám mục Hà nội thì gặp ngay thầy Trác rồi thầy Trạc. Hai người này giống nhau quá không sao phân biệt được, anh em sinh đôi mà. Chưa chi mà đã lẫn ông này với ông kia. Đêm hôm đó, đêm đầu tiên ra khỏi tù mà lại trằn trọc không sao ngủ được. Thế là một cuốn phim từ tuổi thơ cho đến lúc này quay chậm lại trước mắt. Bố cục và diễn tiến cuốn sách như thế thật tuyệt. Đời người như một giấc mơ qua đêm. Buồn đau vật vã rồi cũng qua đi như thế. Nhưng có cái gì đó vẫn còn lại. Sáng hôm sau, lại cũng một trong hai thầy lên gõ cửa mời xuống ăn sáng. Tập Bút Ký đã kết xem ra rất đột ngột, như có người gõ cửa gọi dẫn mình đi vào một nhà tù lớn. Và đây là câu cuối cùng thật dí dỏm:
"Tôi không kịp nhìn đồng hồ trên tường, vội đáp lại: "Chào thầy..." và lí nhí thêm câu gì tôi không nhớ, nhưng còn nhớ là lúc bước vội vào nhà tắm tôi tự hỏi: "Ông này là Trác hay Trạc đây hả trời?!" (trang 610)
Thì ra chúng ta tất cả cũng đang ở trong một loại nhà tù mới, tinh vi hơn và, biết đâu, còn cằn cỗi đen kịt khủng khiếp hơn. Hoa chưa chắc đã mọc lên nổi. Vì bị tước đi nhiều chất người. Bên kia hay bên này. Ở cái thời còn kháng chiến, Doãn Quốc Sỹ trong "Ba Sinh Hương Lửa" đã chợt nhận ra: " Bên kia không óc, bên này không tim." Duy vật hay duy con vật thì cũng vậy. Sau một cuộc chiến không có kẻ thắng mà chỉ có người thua là cả dân tộc, chúng ta lại trở thành những nạn nhân của một vòng hệ lụy nghiệt ngã hận thù vay trả trả vay không có lối thoát và không có đáp số. Vết thương tâm lý này lại đẩy xa hơn tới hiện tượng "giận chó đá mèo, giận cá băm thớt." Người bị thương phải giẫy giụa làm người khác bị thương theo. Và cứ thế lây lan, trong gia đình, trong cộng đồng. Kẻ thù luôn ẩn mặt. Hiện tượng phân hóa nơi các cộng đồng cũng do đó. Chẳng ai nói ai nghe vì thiếu viễn kiến chung. Vậy là mình lại quằn quại một lần nữa bởi chính những vết bầm mưng mủ mà mình không d-ủ can d-ảm buông xả nổi, thành những đợt sóng ngầm "càng kéo dài nó càng tích lũy sức tàn phá tinh thần dân tộc." (trang 602)
Biết đâu mình cũng đang bị quẳng vào một vòng xích mới, trở thành một tên tù mới có mặc quần jean và áo Polo hẳn hòi, nhưng chất nhạy cảm nhân ái có thể đã bị tê liệt mất đi kháng thể, lương tri có thể đã bị gậm nhấm, khi tôi không còn cảm thấy đau cái đau tột cùng của anh em tôi, tim và óc đã bị cả một hệ thống "trật tự mới" móc đi, mà tiếng thời mới gọi là sức ép xã hội (society pressure). Có những lúc tôi chả cảm thấy liên đới trách nhiệm gì với những người đã bị hành hạ, hay ngay cả với những người mê muội một thời đã đang tâm hành hạ anh em mình, với những người d-ã nằm xuống bỏ xác nơi góc rừng u tối hay trong lòng biển cả mênh mông... Chả lẽ họ chết một cách lãng xẹc như vậy hay sao?! Và đây là lúc tôi cảm thấy thật sâu xa thế nào là cần thiết của một cuộc "Sám Hối Tập Thể"
HỒN DÂN TỘC ĐÂU RỒI?
Một thế hệ đã nằm xuống đã trở thành hoa màu cho một thế khác phải mọc lên. Làm một cái gì cho người mình ngóc đầu lên đi chứ! Khi còn sống, triết gia Kim Định hay nói vậy. "Tôi Phải Sống," cũng đặt ra câu hỏi: "Đứng trước tình cảnh của dân tộc Việt nam như thế, bạn phải làm gì, và làm như thế nào?"
Câu hỏi đặt ra cho người khác mà cũng là đặt ra cho chính mình. "Đừng ngồi đó để ngâm nga lịch sử và than van oán trách, nhưng hãy dùng lịch sử như một bài học để có thể tránh tái diễn tảm cảnh cho dân tộc... Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn ánh sáng của Bình Minh Dân Tộc.” Giữa cảnh đen kịt tù mù của cả một bài toán không đáp số, dân tộc mình còn gặp được túc duyên mà cùng thấy được một viễn kiến chung, một con đường đi tới, thì có phúc biết chừng nào. Và điều này người mình vẫn gọi là cái Đức, cái HỒN DÂN TỘC, là kết tinh của biết bao xương máu, tim óc trăn trở và tinh thần khảng khái quyết giữ cho được chất người, chất nhân ái của dòng tộc mình, dù phải lấy cả mạng sống mình mà đối đầu với những đầy đọa có bài bản đẩy con người đến bên vực cầm thú. điều này ta thấy được rất rõ trong lời khẳng định: " Khi nguồn sức mạnh của ý chí quật cường và lương tri tổng hợp của dân tộc được khơi dậy sẽ không có một thế lực chính trị nào dù bạo ngược tới đâu có thể cưỡng lại được." (trang 602)
Tôi xúc động và hãnh diện biết bao vì thấy dòng máu nòi giống mình có quá nhiều người đã góp phần trồng cây đức đó, những người đã bị bầm dập đầy đọa, nhưng vẫn cứ nhất định ngẩng đầu lên lấy mạng sống mình làm mố cầu bác cho thế hệ sau bước tới. Nhìn như vậy, chúng ta mới cảm thấy mình mắc nợ nhiều quá. Món nợ nào rồi cũng đến lúc phải trả. Người ra đi cũng như người người ở lại. Và cũng chính vì thế mà nhiều người đang nhìn thấy "Tôi Phải Sống" quả là một tác phẩm lớn, mang tính lương tri nhân bản lấy lại phẩm giá cho chủng loại người, và góp phần thổi sinh khí cho một Việt Nam phục sinh trong một viễn kiến chung. Với sức hút nổi bật như thế, chẳng ai lạ gì, "Tôi Phải Sống" đã trở thành một hiện tượng lạ với số sách bán chạy nhất trong lịch sử văn học Việt Nam từ xưa đến nay trong nước cũng như ngoài nước.
Vì "Tôi Phải Sống" không phải chỉ được viết bằng óc, bằng tim, mà bằng máu, bằng chính mạng sống. Và nhất là bằng con đường tìm ra lẽ sống.
Vì chính lúc bị dồn vào đáy vực của cái chết, linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã hét lên ba đợt:
TÔI PHẢI SỐNG...
TÔI PHẢI SỐNG...
TÔI PHẢI SỐNG...
Tiếng hét này vẫn tiếp tục vang lên trong tim mỗi người Việt khi mình cứ phải cúi đầu chung phận với một Việt Nam nghèo khổ nhục nhằn trước đà tiến của ngay cả những nước láng giềng thua mình xa mấy chục năm về trước. Bây giờ đã chậm lắm rồi. Nhưng vẫn chưa quá muộn để bắt đầu.
Tôi Phải Sống để làm chứng một chuyện gì. Tôi Phải Sống để biết rằng tôi có một sứ mạng, một ơn gọi, một món nợ phải trả cho dân tộc tôi, cho sự hiện hữu của tôi trên mặt đất này, làm một điều gì có ý nghĩa hơn cho đời. Đó là lẽ sống.
Tại sao tôi phải sống? Tại sao bạn phải sống? Và tại sao chúng ta vẫn còn tiếp tục sống? Đặt câu hỏi tức là đang tìm ra cho mình câu trả lời làm lẽ sống.
Hình bìa "Tôi Phải Sống" đang được đặt ngay trước mặt tôi đây như công án để chiêm nghiệm.
Lẽ sống của mỗi người là nhận lấy trách nhiệm góp giọt máu trong tim của mình tưới cho những bông hoa hướng dương kia hồi sinh, bật sáng được lối đi cho đàn con bước tới trong một viễn kiến chung: mùa xuân đang rộn rã tới gần. Hoa ơi tên gì? Hoa Tình Yêu đó. Dòng sinh mệnh dân tộc đang chảy tới đó.
Đúng vậy. "Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn ánh sáng của Bình Minh Dân Tộc”.
20/6/2003
Nguyễn Hữu Lễ
Nguồn: http://dactrung.net/
Theo http://diendan.vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những tác giả cách tân thơ lục bát ngoài nước Việt

Những tác giả cách tân thơ lục bát ngoài nước Việt “Lục bát mãi mãi là một tài sản thiêng liêng của nền văn hóa Việt. Chừng nào thế giới c...