Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2025

Cánh đồng Chum - Thiên hùng ca Hmong 2

Cánh đồng Chum
Thiên hùng ca Hmong 2

Chương 7 (tt)
Điện Biên Phủ.
Sáng ngày 20 tháng 11 năm 1953, 2 tiểu đoàn Pháp nhẩy dù xuống mép Tây của lòng chảo hình bàn chân người gọi là Điện Biên Phủ. Vị trí này bao quanh bởi các ngọn núi cao, 1 bức tường thành thiên nhiên – hay một cái bẫy – tùy theo quan điểm của bạn. Những thửa ruộng vuông vắn san sát nhau tạo thành từng ô hình học che phủ khắp thung lũng đến tận chân núi. Chỉ có một phá cách hằn lên sự đều đặn hình học này là dòng sông Namyoum chảy ngoằn ngoèo xuống giữa lòng chảo và lộ 41 chạy dọc theo bờ sông, tiếp tục xuyên suốt qua Lào cách đó chỉ 15 dặm.
Trời đã mưa tầm tã suốt hơn 1 tuần khi họ nhẩy xuống. Lượng nước mưa làm mực nước sông Namyoum ngả màu cà phê sữa vì cuốn theo đất cát trên các sườn núi, biến thung lũng thành một biển bùn lầy. Toán quân nhẩy dù khó nhọc vượt qua vũng lội ấy, cất những vị trí phòng thủ chống đỡ những cuộc tấn kích. Điện Biên Phủ là bộ chỉ huy của trung đoàn chính quy 148 biệt lập. Nhưng theo tiên đoán tình báo Pháp, chỉ có một tiểu đoàn của trung đoàn 148 hiện diện tại đó đối đầu với nhẩy dù. Trận chiến kéo dài vài giờ cho đến khi quân Pháp gọi không yểm. Sau khi tổn thất nặng, tiểu đoàn Việt Minh rút về hướng Nam, bỏ Điện Biên Phủ.
Đến cuối tháng gần 2000 lính Pháp được tăng phái vào lực lượng 2 tiểu đoàn ban đầu, và đến đầu năm 1954, thêm 13000 binh sĩ nữa, trong số đó có 200 tình nguyện quân Hmong, đến để xây dựng công sự chiến đấu và một phi trường nhỏ, dài 1000 mét. Toán công nhân xây dựng đặt bộ chỉ huy ở cực Nam thung lũng, lập 5 đồn phòng thủ quanh căn cứ và 4 tiền đồn. Các đồn được đặt tên Claudine, Eliane, Huguette, Francoise, Isabelle, Beatrice, Gabrielle và Anne Marie. Các tên này là danh sách các tình nhân của tư lịnh căn cứ, phản ảnh tính hiếu sắc của ông.
Sự đồn trú Điện Biên Phủ quan trọng với người Pháp vì 3 lý do. Đầu tiên, những đồi núi bao quanh là vùng sản xuất thuốc phiện. Việt Minh đã thu hoạch gần 1 triệu Mỹ kim hàng năm để chu cấp quân đội. Pháp định cắt đứt nguồn lợi này của Việt Minh.
Thứ hai, Cộng Sản dùng lộ 41 làm đường rút quân sang Lào mỗi khi thua trận. Hơn 1 lần Pháp đã bao vây các sư đoàn Việt Minh và để họ rút sang Lào, hy sinh một lực lượng nhỏ cản hậu. Người Pháp cũng muốn Việt Minh ra khỏi Lào. Chỉ vài tháng trước, Việt Minh đã đưa các thành phần thiện chiến của 3 sư đoàn lên lộ 41, phát động cuộc tổng tấn công xâm chiếm. Mặc dù bị đẩy lui, Cộng Sản để lại một lực lượng nhỏ ở các tỉnh Đông Bắc Lào với ý đồ rõ rệt là lập một đầu cầu cho các cuộc xâm lấn mai sau. Các chiến lược gia quân sự Pháp ở Hà Nội kết luận rằng một cứ điểm phòng thủ kiên cố ở Điện Biên Phủ sẽ ngăn chận mọi di chuyển vào Lào, biến sự có mặt của họ tại đây thành vô dụng. Để làm vui lòng các chính khách, Pháp mới ký kết hiệp ước hữu nghị với Lào, cam kết bảo vệ Lào khỏi các cuộc xâm lăng trong tương lai. Bảo vệ lời hứa của quốc gia là bổn phận của quân đoàn viễn chinh Pháp.
Thứ ba và cũng là lý do quan trọng nhất, viên tư lịnh quân đoàn, tướng Henri Navarre, định giương một cái bẫy nhử Việt Minh. Chiếm đóng trong khu vực của Việt Minh, Navarre hy vọng dụ các sư đoàn của Việt Minh xuất đầu lộ diện trong một trận quyết chiến. Với Điện Biên án ngữ ngả đường thông sang Lào, Navarre định triệt đường rút quân của địch và tiêu diệt đoàn quân không ngõ thoát.
Kế hoạch của Navarre là một hành động tuyệt vọng mong đoạt được một chiến thắng càng sớm càng tốt. Công chúng Pháp đã bắt đầu chống chiến tranh. Không phải chỉ mới đây, công dân Pháp từ lâu đã ngờ vực sự khôn ngoan trong việc duy trì nên thuộc địa ở Đông Dương. Từ năm 1947, một thăm dò dư luận toàn quốc tiết lộ rằng 42/100 người Pháp được phỏng vấn nghiêng về giải pháp điều đình với Cộng Sản; 8/100 ngắn gọn muốn rút chân khỏi Đông Dương, chỉ 36/100 muốn tiếp tục chiến tranh bằng mọi giá. Năm 1953, con số phản chiến tăng đáng kể.
Trong đầu óc công chúng Pháp, chiến tranh Đông Dương biến thành la sale guerre (chiến tranh phi nghĩa,) cuộc chiến không vinh dự, một xung đột quá nhiều tổn thất. Sinh viên bắt đầu nhất tề biểu tình chống đối. Thanh niên trốn quân dịch. Tân binh đào ngũ ngay khi được đưa vào hoạt động, một số nhảy khỏi tàu ở cảng Marseilles. Sự tôn trọng các quân nhân xuống đến mức thấp nhất. Hình ảnh công dân Pháp phỉ nhổ vào mặt những quân nhân Pháp hồi hương từ Việt Nam không phải điều hiếm thấy, vì sự tàn bạo của họ đối với người Việt Nam và dù với tàn bạo, họ không thể chiến thắng.
Điềm xấu càng rõ nét là cuộc xung đột quan điểm trong phiên họp Quốc Hội Pháp chỉ 1 tháng trước khi Navarre bắt đầu đưa quân vào Điện Biên Phủ. Trong cuộc bàn bạc, mọi đại biểu thiên về giải pháp đàm phán một cách rõ rệt và chỉ bất đồng ý kiến làm thế nào để thực hiện. Navarre cần một chiến thắng lớn để xoay chiển tình thế.
Đối với Việt Minh, chiến lược của Navarre là một quà tặng Trời cho. Ngay hồi đầu năm 1951, họ đã thăm dò sức mạnh của Pháp trong khu vực, những đồn bót cô lẻ rải rác cuối chặng đường tiếp tế bấp bênh, xa cách các phi trường quân sự. Những thâm nhập trước khiến Cộng Sản kết luận rằng trận quyết chiến tối hậu phải ở trong khu vực cô lập này, nơi người Pháp phải đương đầu với những khó khăn tiếp vận và tiếp viện không thể vượt qua được. Cộng Sản đã và đang kéo dài thì giờ, chờ thời cơ cho cái gọi là trận chiến quyết định. Thời cơ ấy đã đến khi người Pháp ào ạt đổ quân xuống Điện Biên Phủ.
Ý tưởng Điện Biên Phủ bị địch quân áp đảo không hề có trong đầu óc của Navarre. Để hoàn thành điều này, tư lịnh của địch, tướng Giáp phải huy động vài sư đoàn và nhiều cỗ đại pháo. Navarre thấy rằng không thể tưởng tượng một lực lượng như thế có thể vận chuyển qua hàng trăm dặm núi rừng dù chuẩn bị với thời gian vô hạn.
Vậy mà điều này xảy ra. Hàng trăm ngàn dân công đắp đường, 1 ngàn xe vận tải (200 xe do Trung Cộng viện trợ, chiếm được của Mỹ trong chiến tranh Đại Hàn) và 260000 dân công khuân vác gạo, Cộng Sản có thể chuyển vận 230 cỗ trọng pháo, hàng ngàn tấn thực phẩm, hàng trăm ngàn viên đạn lên những đỉnh núi ngó xuống Điện Biên Phủ. Giáp cũng huy động 80000 bộ binh, đủ để áp đảo lực lượng trú phòng, vỏn vẹn 15000 binh sĩ. Nó là sự tương quan lực lượng vô cùng chênh lệch đúng ý muốn của Giáp.
Xa hẳn vùng chiến trường, Hồ Chí Minh nói chuyện với một ký giả Anh trong bộ tư lịnh. Viên ký giả hỏi về tin đồn một trận chiến ở một nơi gọi là Điện Biên Phủ. Trước khi trả lời, Hồ lột cái mũ cối lật ngửa trên mặt bàn. Ông thọc bàn tay xuống lòng mũ. “Điện Biên Phủ là một thung lũng và nó bị bao quanh bởi những ngọn núi. Đoàn quân viễn chinh Pháp ở đây.” Tiếp theo, Hồ lần ngón tay trỏ quanh mép mũ. “Và chúng tôi ở trên những ngọn núi. Họ không thể vượt thoát.”
Giáp mô tả Điện Biên Phủ theo cách của ông. Người Pháp chặt đầu em của ông, treo vợ ông bằng 2 ngón tay cái, tra tấn đến chết và bỏ đói con gái ông chết trong tù. Ở bộ tư lịnh tiền phương trên núi khu vực Điện Biên Phủ, ông cả quyết với ban tham mưu:”Chúng ta chẹn ngang họng quân Pháp.”
Đó là thời cơ lý tưởng cho một chiến thắng quyết định. Trong vòng 1 tháng, Pháp, Anh, Sô Viết và Trung Cộng hội nghị ở Geneva về vấn đề Đông Dương. Đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ sẽ cho phe Cộng Sản ưu thế trên bàn hội nghị.
Người Pháp định tiếp tế quân phòng ngự bằng không vận, nhưng các đại bác phòng không Việt Minh làm cho phương tiện này trở thành nhỏ giọt. Thiếu lương thực, thuốc men, đạn dược, binh sĩ trú phòng chịu đựng các cuộc tấn kích trọng pháo của địch giấu trong các hang động trên núi quanh đồn trại. 3 ngàn trái đạn rót vào tuyến phòng thủ trong vòng 1 giờ. Một binh sĩ trong bịnh viện dã chiến, cặp mắt vẫn còn vẻ hoảng sợ, nói với bác sĩ chuyện xảy ra cho anh ta ở Beatrice, 1 trong những tiền đồn:”Nếu thiếu tá bác sĩ có thể thấy địch, hàng ngàn và hàng ngàn bọn địch, đạp lên những xác đồng đội, chết bởi hỏa lực chúng tôi. Rồi thì hàng ngàn viên đạn trọng pháo – Sau trận pháo kích, một nửa hầm trú ẩn của chúng tôi sụp đổ.
Các cuộc tấn công của Việt Minh theo một chiến thuật đơn giản và giống nhau. Các tổ đặc công mang theo mìn Bangalore (phá hàng rào) hay đeo chất nổ quanh mình, xông vào hàng rào kẽm gai và kích hỏa. Khi chọc thủng một lỗ hổng, binh sĩ nhất loạt xông vào. Đàng sau là quân yểm trợ có nhiệm vụ bắn che cho đội xung phong, cũng vượt qua phòng tuyến nếu đợt tấn công có kết quả, bắn áp đảo cho toán xung phong rút lui nếu thất bại.
Các đợt tấn công biển người tiếp tục mỗi ngày. Các tiền đồn thất thủ. Tổn thất Pháp càng cao. Bịnh viện nhỏ của căn cứ gồm 42 giường, 4 feet sâu dưới lòng đất, không thể chứa hết các thương binh. Các băng ca xếp khít nhau trong chiến hào có mái che chờ giải phẫu. Vì số binh sĩ tử trận quá nhiều, các bác sĩ dã chiến buộc các thương binh, kể cả người bị cưa chân tay mà vẫn có thể cầm súng, trở lại vị trí chiến đấu thay cho người chết.
Gần cuối cuộc chiến, một súng liên thanh 4 nòng, bắn không ngừng suốt vài ngày, vỏ đạn văng ra, chất cao đến 3 feet. Ngày 7 tháng Năm, Pháp tổn thất hàng ngàn người, hàng trăm xác chồng chất như củi súc trên nóc nhà xác, một hố vuông lớn cạnh bệnh viện. Mất tất cả mọi tiền đồn, chu vi căn cứ thu hẹp lại bằng cỡ sân túc cầu. Thuốc men, lương thực, đạn dược cạn kiệt vì thiếu tiếp tế. Tình trạng này, Cộng Sản chỉ việc bước vào tiếp thu doanh trại.
Khi giờ cuối đã điểm, con số binh sĩ Pháp tử trận lên đến non 5000. Việt Minh chất gấp 5 lần con số đó. Thật là tổn thất khủng khiếp để đạt chiến thắng, nhưng Cộng Sản sẵn sàng trả bất cứ giá nào để thắng một trận đánh kết thúc chiến tranh.
Tin bại trận bay đến Geneva nơi cuộc đàm phán đang diễn ra. Nó thay đổi mọi sự và cho Cộng Sản sức thương thuyết họ cần có để chấm dứtsự cai trị Pháp ở Đông Dương. Yếu tố thời cơ của Cộng Sản hoàn toàn chính xác.
Bộ đội Vàng Pao tiếp cứu Điện Biên Phủ nhưng quá trễ.
Người Mỹ nhúng tay vào Đông Nam Á.
Bại trận ở Điện Biên Phủ buộc Pháp phải nhượng bộ rất nhiều ở Geneva: Việt Nam cắt đôi ở vĩ tuyến 17 và Bắc Việt được thừa nhận như một quốc gia độc lập, tạm thời ngăn cách Cộng Sản ở miền Bắc. Người Mỹ hy vọng đó là một cô lập khu vĩnh viễn dù nó không có vẻ như thế. Cuối hội nghị Geneva, một trong nhóm đại biểu Bắc Việt khoác lác rằng nếu chiến tranh kéo dài 1 năm nữa, Việt Minh có thể chiếm trọn toàn cõi Việt Nam, Lào và Cambodia. Tự tin và ngạo mạn như thế, Việt Minh khó lòng chịu nằm yên ở miền Bắc lâu dài.
Người Mỹ không chịu đựng được chiến thắng của Cộng Sản. Eisenhower lúc này làm tổng thống và cũng quyết tâm như Truman trong vấn đề chống Cộng, minh họa cuộc chiến đấu trong những kích thước vĩ đại:” tự do chống lại nô lệ, ánh sáng chống lại bóng tối.” Eisenhower minh định rằng Mỹ không bị hiệp định Geneva ràng buộc và không nhân nhượng sự gây hấn của Cộng Sản ở Đông Nam Á. Biểu dương quyết tâm này, chỉ 2 thánh sau hiệp định Geneva, Mỹ thành lập Tổ chức Liên Phòng Đông Nam Á. (SEATO, South-East Asia Treaty Organization.)
Trong khi tạo dáng theo khuôn mẫu NATO (Minh ước Bắc Đại Tây Dương) như một tổ chức tương trợ phòng thủ, các thành viên Tổ chức Liên Phòng Đông Nam Á không là đồng minh tự nhiên, liên kết bởi cùng chung biên giới và quan tâm với hiểm họa xâm lăng của Liên Bang Sô Viết. 8 thành viên Tổ chức Liên Phòng Đông Nam Á gồm Mỹ, Úc, Anh, Pháp, Tân Tây Lan, Pakistan, Thái Lan và Phi Luật Tân, chỉ Thái Lan là một nước Đông Nam Á. Nam Việt Nam, Lào, Cambodia không có tên trong danh sách vì những khoản cấm trong hiệp định Geneva năm 1954. Tổ chức Liên Phòng Đông Nam Á được thiết tưởng vô hiệu hóa khoản cấm này qua minh ước đối phó mọi gây hấn quân sự ở Đông Nam Á. Điều khó khăn là, khác với NATO (Minh ước Bắc Đại Tây Dương), liên minh phòng thủ mới này không có điều khoản nào về quân đội thường trực. Đây là một khiếm khuyết nghiêm trọng và là sự ngầm hiểu rằng Mỹ gánh vác trách nhiệm quân sự, dù chính quyền Eisenhower hăng hái thăm dò các biện pháp khác để không cần đến giải pháp quân sự.
Một năm trước khi Điện Biên Phủ thất thủ, Eisenhwer đã khuyên Pháp huấn luyện, trang bị và tuyển dụng những thành phần trong quân đội quốc gia Việt Nam để chiến đấu chống Việt Minh. Sự làm ngơ của Pháp về đề nghị này, sau này được các chuyên gia quân sự Mỹ coi như một trong những nhân tố góp phần vào sự bại trận của họ. Với sự thành lập khối Liên phòng Đông Nam Á, ý tưởng huấn luyện lực lượng bản xứ đẩy lùi phiến Cộng ở Đông Nam Á lại được lưu ý. Ý tưởng này cộng hưởng với khái niệm tự nhận của Mỹ như kẻ thù của thực dânchủ nghĩa. Cũng vậy, nếu nó thành công, sẽ không cần sự có mặt của quân đội Mỹ trong khu vực.
Bắt đầu năm 1955, Mỹ phát triển các chương trình viện trợ kinh tế, quân sự ở Thái Lan, Nam Việt Nam và Lào. Hàng triệu Mỹ kim đổ ra để tăng gấp đôi quân đội và tăng cường không lực hoàng gia Thái Lan. Tại Nam Việt Nam, tướng John O’Daniel, giám đốc phái bộ cố vấn quân sự Mỹ (MAAG, Military Assistance Advisory Group) đặt kế hoạch xây dựng một quân đội gồm 7 sư đoàn Nam Việt Nam.
Mỹ cũng đã viện trợ cho Lào dưới các điều khoản cam kết trong hiệp ước ký kết năm 1950, nhưng với số lượng nhỏ bé và điều hành theo may rủi. Khi Đại Sứ Charles Yost đến Vientaine năm 1954, chỉ có một viên chức ngoại vụ trong nước, không nhân viên ophụ tá và phải tự đánh máy lấy. Nản hơn nữa, Yost phát hiện tòa nhà Đại Sứ nơi ông sẽ làm việc vừa lắm chuột lại vừa dột.
Năm sau, Hoa Thịnh Đốn ủy nhiệm một cơ quan công tác vụ (USOM, United States Operations Mission) cho Lào. Công việc của USOM là đảm nhiệm điều hành viện trợ cho Lào, dự kiến sẽ tăng một cách đáng kể. Bộ chỉ huy của cơ sở là một cái lều dựng trong một đồng cỏ ở Vientaine. Ngoại trưởng John Foster Dulles tham quan sau đó để điều tra sự tiến triển. Kinh hoảng vì tình trạng thô sơ và nhân viên quá ít ỏi không đủ xử lý công tác, ông lập tức ra lịnh tăng ngân quỹ và thêm nhân viên.
Nhân viên USOM tăng từ 12 lên 82 người. Hàng triệu Mỹ kim thêm vào ngân sách đổ vào trong nước, lên đến 300 triệu tính đến năm 1960, vượt trội viện trợ bình quân đầu người hơn các nước khác. Nó đánh dấu khởi đầu của 18 năm can thiệp quân sự Mỹ, tốn kém hàng tỉ Mỹ kim và lôi cuốn nước Mỹ vào trong cuộc chiến tranh bí mật.
Tạo bất công.
Dù Lào là một nước nông nghiệp, chỉ một phần nhỏ trong hàng triệu Mỹ kim viện trợ cho Lào sử dụng trong nông nghiệp. Giữa năm 1955 – 1959, chỉ non 1.4 triệu dành cho nông trại kiểu mẫu, gia tăng thu hoạch vụ mùa hay cải tạo đất màu. Mặt khác, quân đội hoàng gia Lào nhận 200 triệu Mỹ kim viện trợ. Cuối thập niên 1950 – 1960, quân đội hoàng gia Lào từ một lực lượng 17000 người ô hợp, trang bị kém thành một quân đội hiện đại 25000 tay súng, được cho là một lực lượng quân sự ngoại quốc duy nhất trên thế giới được Mỹ cấp dưỡng hoàn toàn. Phí tổn cho sự phát triển nàylớn hơn con số Hoa Thịnh Đốn muốn thú nhận. Một ngân khoản lớn được chuyển qua CIA theo yêu cầu của bộ Quốc Phòng, ếm nhẹm bớt tổng số chi phí khỏi sự dò xét của Quốc Hội. Hoa Thịnh Đốn còn “rửa tiền” (thủ đoạn làm mất lai lịch ngân khoản) các tài khoản lớn qua chương trình nhập cảng hàng hoá.
Nó như thế này. Thay vì đưa thẳng tiền cho chính phủ Lào, Hoa Thịnh Đốn ký thác ngân hàng Mỹ dưới trương mục bộ Tài Chánh Lào. Điều này làm cho quân lực hoàng gia Lào in những kiện tiền Kip để chi dụng cho phát triển chính phủ và lương bổng quân đội mà không gây lạm phát. Mỗi 35 Kip được in ra, Mỹ ký thác thêm vào 1 Mỹ kim vào trong tài khoản bí mật Lào, chủ yếu nâng đỡ tiền Kip với đồng Mỹ kim theo tỷ giá 35/1. Trương mục phát triển cho quân lực hoàng gia Lào tài sản trị giá trên đồng Mỹ kim, nhờ đó các nhà đầu tư ngoại quốc bán hàng hóa cho Lào và nhận trao đổi bằng đồng Kip.
Chỉ những người bàng quan không nằm trong kế hoạch tài chánh này hoàn toàn không hiểu vì đâu sự phát triển kinh tế Lào được tiếp sức bằng nguồn tiền bạc bí mật cung cấp ngày càng nhiều. Quyền lãnh chúa (quyền in tiền chi dụng cho trái khoản chính phủ) thiết tưởng vô dụng. Nước Đức thử dùng phương sách in tiền đầu thập niên 1920 với kết quả tai hại. Trong thời hạn 2 năm, giá trị đồng Mark của Đức giảm 55000 phần trăm, chủ yếu là mất hẳn giá trị. Chẳng ngạc nhiên, kinh tế Đức sụp đổ. Thí nghiệm thất bại của Đức thiết tưởng là một minh chứng một chính sách rồ dại cho mọi quốc gia mọi thời, dù thế, có vẻ vẫn chính sách in tiền ấy, một cách khó hiểu, mang lại sinh khí cho kinh tế Lào mà không bị hiệu quả xấu.
Thực ra có một công việc nhập cảng hàng hóa thực sự trong kế hoạch rửa tiền ngụy trang dưới chương trình nhập cảng hàng hóa. Người Lào có giấy phép nhập cảng có thể đổi tiền Kip sang đồng Mỹ kim theo tỷ giá 35 trên 1 ở ngân hàng quốc gia Vientaine (do Mỹ thành lập cho chương trình nhập cảng hàng hóa), nơi chính phủ Mỹ ký thác nhiều triệu Mỹ kim bảo đảm cho mọi giao dịch tài chánh, hy vọng Mỹ kim sẽ được dùng để mua sản phẩm ngoại quốc, nhất là sản phẩm Mỹ. Với hàng hóa tuôn đổ vào Lào, và những xe bò chở đồng tiền Kip lưu hành trong nước để mua chúng, mức sinh hoạt ở Lào lên cao, làm Cộng Sản chủ nghĩa mất sức hấp dẫn.
Theo thống kê, lợi tức bình quân tăng mau chóng với gần 86/100 tăng nhờ viện trợ Mỹ. Nhưngthực tế dàng sau những con số thống kê vẽ nên một hình ảnh hoàn toàn khác. Lợi tức thực sự (lợi tức đã điều chỉnh vì lạm phát) của người dân Lào gần các thành phố lớn đều đi xuống. Trong vòng 2 năm, giá gạo tăng 112/100; giá thịt gà tăng 300/100.
Lạm phát có thể dò tìm nguyên nhântrực tiếp vì bộ Tài Chánh tràn ngập đất nước với tiền Kip. Dù một thỏa ước bất chính thức để quản lý việc in tiền Kip theo số Mỹ kim viện trợ, số tiền Kip lưu hành thường xuyên vượt quá tỷ lệ 35/1. Phản ảnh sự bất quân phân này, một thị trường chợ đen mọc lên với tỷ giá trao đổi là 120 Kip ăn 1 Mỹ kim.
Các nhà nhập cảng lợi dụng sự bất tương xứng giữa tỷ giá chính thức và chợ đen để làm giàu. Họ mang 35000 Kip đổi lấy 1000 Mỹ kim để mua hàng hóa ngoại quốc. Hàng hóa này bán ra ngoài thị trường với tỷ giá 120 Kip ăn 1 Mỹ kim. Thu được 120000 từ vốn ban đầu 35000, đổi ở ngân hàng quốc gia được 3400 Mỹ kim, lời 240/100.Nói theo phát biểu của một nhà báo:”Các nhà nhập cảng Lào đã tìm được bí mật chế biến vàng.”
Chỉ một số ít người Lào biết cách hối lộ mới có thể được cấp giấy phép nhập cảng. Người ta hy vọng rằng tăng mức nhập cảng giúp nâng cao mức sinh hoạt, nhưng người dân Lào quá nghèo không đủ sức mua hàng hóa đổ vào trong nước. Ngay cả giới quý tộc giàu có cũng không thấy xe Buicks, Cadillacs, Fords dùng ở chỗ nào vì quá ít đường lộ cho xe chạy. Radio và truyền hình cũng là hàng hóa vô dụng vì lào không có điện lực. Có 1 máy điện nhỏ ở Vientaine chạy dầu cặn, nhưng hoàn toàn dùng thắp sáng đại lộ Lan Xang, đường phố chính của thủ đô. Không có đường giây từ nhà máy điện đến nhà riêng hay công xưởng, nơi thắp sáng bằng đèn dầu mỗi đêm. Vô dụng với người giàu và ngoài tầm tay người nghèo, mọi hàng hóa nhập cảng được chuyển qua sông Mekong bán ở Thái Lan, nơi có sẵn xa lộ tối tân và khán giả truyền hình có thể mở xem vài đài. Ít nhất cũng có vài đài truyền hình ở Bangkok.
Ngay cả tiền dành cho những việc công ích như làm đường sá cũng thất thoát. Hoa Thịnh Đốn dành hàng triệu Mỹ kim cho việc sửa chữa đường sá, nhưng cuối cùng tiền ấy lọt vào túi những thương gia Mỹ, giỏi lừa bịp hơn việc san đất, trải nhựa làm đường. Công ty Universal Construction được thành lập vội vã ở Bangkok bởi 2 thương gia hiểu biết về cách làm ăn trong khu vực. Dùng hối lộ, họ trúng những mối thầu hàng triệu, không xây cất được gì hết và vẫn được cấp thêm khế ước xây cất. Haynes Miller, một thanh tra, phát hiện nhiều điểm bất hợp quy cách và báo cáo về Hoa Thịnh Đốn. Thượng cấp của ông, Đại Sứ Parsons ra lịnh Miller về Mỹ, gán tội vấn đề tư cách cá nhân khiến Miller phải chuyển công tác.
Hoạch định lén lút cấp tiền cho quân đội Lào và phòng vệ bằng cách nâng cao mức sinh hoạt dân Lào, chương trình nhập cảng hàng hóa làm giàu một thiểu số trên sự thiệt thòi của đa số. Tai hại đặc biệt là giới quý tộc trở nên giàu có một sớm một chiều, như cávc sĩ quan cao cấp trong quân đội hay các bộ trưởng trong chính phủ.
Trước thời kỳ viện trợ, khoảng cách giàu nghèo ở Lào nhỏ nhất Đông Nam Á. Những người giàu có không quá giàu và người nghèo không quá nghèo. Điều này là một thành đạt đáng kể của thế giới, nơi các viên chức, theo lời Gunnar Myrdal, kỳ vọng khai thác địa vị của mình để trục lợi cho mình, cho gia đình và cho nhóm của mình.
Chương trình nhập cảng hàng hóa chấm dứt chủ nghĩa biệt lệ Lào (quốc gia giàu nghèo không quá chênh lệch.) Giới quý tộc Lào xây những biệt thự sang trọng bên bờ sông Mekong và di chuyển bằng xe hơi có tài xế lái. Đầy tớ giúp việc nhà ngày càng cao giá đến nỗi lương bổng của họ lên đến 130/100. Trong khi đó, lạm phát gặm mòn múc sinh hoạt của thứ dân Lào, nới rộng khoảng cách giàu nghèo. Năm 1955, một nông dân Lào có thể mang 1 con lợn ra chợ và mang về một cái áo sơ mi cho mình, một cho con và một váy cho vợ. Năm 1957, lạm phát giảm sức mua của ông ta đến mức mang một con lợn ra chợ, ông chỉ mua được một cái áo sơ mi cho chính ông.
Viện trợ Mỹ tạo ra bất công thay vì loại trừ bất công. Tội tham nhũng quá phổ biến khiến chính phủ chỉ thị cho các viên chức chịu khó đi chùa, đi nhà thờ để chứng minh với mọi người rằng công chức chính quyền quan tâm đến đời sống tinh thần hơn lợi lộc vật chất. Cộng Sản không thể tuyên truyền giỏi hơnnếu họ muốn tuyên truyền như thế.
Tham nhũng trong quân đội.
Tham nhũng do viện trợ Mỹ lan từ chính quyền sang quân đội. Tiền không đến tay binh sĩ. Không kể một số rất ít ngoại lệ, trước năm 1954, các sĩ quan trong quân lực hoàng gia Lào toàn là người Pháp. Bây giờ toàn người Lào. Một sớm một chiều, các hạ sĩ quan trở thành đại tá hay tướng. Thiếu hẳn truyền thống quân đội hướng dẫn, nhiều người để cho tư lợi khiển chế sự làm việc.
Quân đội chia thành các tiểu đoàn và lên danh sách lương bổng nhưng các sĩ quan chỉ huy thường không tuyển mộ tân binh để huấn luyện hoặc phục vụ đất nước. Tiền trả cho các lính ma này lọt vào túi các sĩ quan cao cấp. Công án nổi tiếng là trường hợp tướng Kot., tư lịnh quân khu 4 ở miền Nam. Ông cất 2 tòa lâu đài ở Pakse và mua sắm máy cày cho nông trại bằng tiền của thiết tưởng trả cho binh sĩ. Những binh sĩ này không hề có mặt, chỉ có trong danh sách.
Làm đầy danh sách quân nhân và bỏ túi tiền trả cho lính ma là công việc thường xảy ra trong những năm cuối của đế quốc La Mã. Mất nhiều thế kỷ để cho quân đội hùng mạnh nhất thời cổ đắm chìm trong nhũng lạm. Quân đội hiện đại Lào, chỉ non một thập niên, bắt đầu tham nhũng ngay khi có viện trợ quân sự Mỹ. Kỳ diệu nhưng không phải điều kỳ diệu tốt.
Ngay cả khi binh sĩ thực sự tòng quân, họ được huấn luyện rất ít. Theo hiệp định Geneva, 5000 lính Pháp biệt phái cho cơ quan tổ chức cảnh sát hoàng gia(The Mission d’Organization de la Gendarmerie Royale) chịu trách nhiệm huấn luyện quân đội Lào. Hai trại huấn luyện được đặt kế hoạch nhưng chỉ có một hoạt động và luôn thiếu nhân viên điều hành. Đã mất trắng thuộc địa, Pháp không coi việc huấn luyện binh sĩ Lào là ưu tiên. Bất cứ trường hợp nào, binh sĩ Pháp biệt phái cho bộ chỉ huy cảnh sát bận rộn việc bỏ Lào để đối phó vấn đề ở Algeria, nơi các chiến sĩ Ả Rập đối địch với nửa triệu binh sĩ Pháp. Mất Đông Dương, Bắc Phi chính là chỗ thăng tiến binh nghiệp. Tốn thì giờ lo liệu việc giấy tờ thuyên chuyển sang Bắc Phi khiến họ ít thì giờ huấn luyện tân binh Lào.
Người Pháp rốt cuộc thừa nhận sự không tiến triển đối với số phận quân đội Lào năm 1961, khi họ bãi bỏ trại huấn luyện và rút lui quân đội khỏi Lào. Một lực lượng nhỏ còn ở lại, về hưu và trở thành thợ máy, chủ nhà hàng, buôn bán ma túy v.v... Một số ít hơn làm việc cho CIA.
Phòng thẩm định viện trợ (PEO)
Từ khởi đầu, Hoa Thịnh Đốn không định giao cho quân đội Pháp toàn quyền huấn luyện binh sĩ Lào. Để đưa quân đội Mỹ vào bối cảnh, năm 1955 Hoa Thịnh Đốn lập ra văn phòng thẩm định chương trình (PEO, Programs Evaluation Office). Mặt hình thức, nó trực thuộc phái bộ Viện Trợ Hoa Kỳ (USOM, United States Operations Mission), tổ chức quản trị việc phân phối viện trợ kinh tế cho Lào. Trong thực tế, PEO là một chương trình viện trợ quân sự do chuẩn tướng hồi hưu Rothwell H. Brown làm giám đốc cùng với một ban nhân viên gồm các quân nhân chuyên nghiệp, tất cả xóa tên trong danh sách quân đội, và ngụy trang thành nhân viên sở Ngoại Vụ - dù nhiều người trên tay, sau lưng vẫn còn xâm những khẩu hiệu như “Sư đoàn 3 muôn năm,” sự hóa trang không hoàn toàn khéo cho lắm.
PEO thường than phiền về điều khoản trong hiệp định Geneva, giao cho Pháp quyền huấn luyện các đơn vị quân đội hoàng gia Lào. Một trong những than phiền là Pháp không quen với đại liên 12.7 ly của Mỹ và đại bác không giật 57 ly. Nó khó là một phản đối hợp lý vì đại liên 12.7 (còn gọi là đại liên 50) đã là trang bị tiêu chuẩn cho các đơn vị Pháp từ năm 1942 và đại bác 57 ly đã thông dụng từ cuối thập niên 1940. Dù không nói ra, sự thực là Pháp đã bị đánh bại ở Việt Nam, một bằng chứng là binh sĩ Pháp thiếu tư cách huấn luyện quân đội Lào.
Người Pháp không làm công tác huấn luyện nhiều. PEO xác định điều này sau các chuyến thanh sát. Binh sĩ Lào chiến đấu tồi khi đụng trận với Pathet Lào và luôn bị Bắc Việt đánh bại. Thất vọng hơn nữa, tiếp liệu và đạn dược cấp cho các đơn vị chiến đấu không đến tay người lính; tiền bạc tự nhiên biến mất.
Sau 3 năm ngoại cuộc, nhìn người Pháp thờ ơ khơng ngó ngàng gì hết, PEO quyết định nhúng tay trực tiếp. Chuẩn tướng John Heintges, người thay thế Rothwell Brown làm giám đốc chương trình này vào tháng Hai năm 1959, thuyết phục bộ Quốc Phòng cấp cho 500 cán bộ quân sự để huấn luyện và chỉ huy binh sĩ hoàng gia Lào trên các chiến trường. Heitges tuyển mộ một đơn vị binh sĩ Phi Luật Tân thiện chiến, tất cả là cựu quân nhân dầy kinh nghiệm chống phiến Cộng trên lãnh thổ của họ, huấn luyện binh sĩ Lào những kỹ thuật chống phiến loạn. Ông cũng mang lại các toán biệt kích thuộc lực lượng 7 ở trại Bragg. Hoạt động dưới mã danh “Ngôi sao trắng”, họ được chia thành 2 nhóm: một tiểu đoàn chiến đấu tinh nhuệ và một nhóm huấn luyện gồm 12 toán huấn luyện dã chiến (FTT, Field Training Teams). Một toán huấn luyện dã chiến gồm từ 8 đến 12 người, đào tạo binh sĩ Lào và các lực lượng bán quân sự và chỉ huy họ trực tiếp chiến đấu trong các trận đánh.
Biện pháp trực tiếp này cũng không làm tăng khả năng chiến đấu của binh sĩ Lào. Các toán “Ngôi sao trắng” thường thấy tính khí Lào không thích hợp với chiến tranh. Họ làm mọi chuyện để tránh chiến đấu và dùng chiến thuật gây náo động (bắn súng lớn hay gây ồn ào huyên náo khi hành quân) để báo động cho quân địch, hy vọng địch quân sẽ né họ. Lính Lào thuộc 1 toán “Ngôi sao trắng” bỏ chạy khi chiến đấu xảy ra quá thường xuyên đến nỗi một viên chức PEO tặng họ một huy hiệu đơn vị vẽ hình đôi giày quần vợt cho dễ chạy. Sau một tháng thất vọng trên chiến trường, 1 cố vấn Mỹ nhận xét về họ: “Chỉ vài tháng trước, lính Lào chạy quăng vũ khí; bây giờ họ tiến bộ đến mức chạy có mang theo vũ khí.”
Nhưng tình trạng khác hoàn toàn khi “Ngôi sao trắng” huấn luyện người thiểu số. Người thiểu số hăng hái học tập và rất nóng ruột muốn chiến đấu. Đại tá Arthur “Bull” Simons, chỉ huy trưởng “Ngôi sao trắng”, bắt đầu chuyển thêm các toán huấn luyện vào vùng rừng núi Đông Bắc làm việc với người Hmong và cao nguyên Bolovens trong vùng cán chảo Nam Lào huấn luyện bộ tộc Khmu.
Năm 1961 người thiểu số đã chứng tỏ họ là những chiến sĩ ở Lào có khả năng đánh bại Cộng Sản trên trận địa. Trong vùng cán chảo, 5 FTT (toán huấn luyện và chỉ huy) tỗ chức một lực lượng Khmu gồm 600 tay súng thành các đại đội khinh binh. Binh sĩ Khmu truy kích và đánh đuổi Pathet Lào ra khỏi cao nguyên Bolovens. Phấn khởi hơn nữa, là các bộ lạc Hmong miền Bắc Lào. Trong một trận đánh dữ dội ở Cánh Đồng Chum, 1 đại đội Hmong, đụng độ một lực lượng Bắc Việt trội hẳn về quân số và trang bị tối tân hơn, gây tổn thất nặng cho địch. Những thành công này, phóng đại bởi những thất vọng về quân đội hoàng gia Lào, khó mà không nhận biết và cuối cùng buộc các cố vấn quân sự Mỹ giao phó cho quân đội hoàng gia Lào những chiến dịch kém quan trọng và chuyển mọi nỗ lực yểm trợ về phía người thiểu số, đặc biệt người Hmong. Chương sử đẫm máu và định mệnh ác nghiệt giáng xuống dân tộc này kể từ đây.
Chương 8
Ủng hộ lầm.
Opuvanna Phouma.
Xin nhắc lại. Sau khi đức vua Sisavang từ khước độc lập và chấp nhận sự bảo hộ của Pháp năm 1945 vì lo sợ đoàn quân Trung Hoa tràn qua Lào giải giáp quân đội Nhật, các chính khách Lào như hoàng tử Phetsarath, hoàng thân Souphanouvong và Souvanna Phouma sang Thái Lan với chính phủ lưu vong Issara (Lào tự do). Khác với Souphanouvong, một đảng viên Cộng Sản và Phetsarath, không hy vọng gì nắm lại chức phó vương, vẫn ở lại Thái Lan, Souvanna Phouma hưởng ứng chiêu dụ của Pháp, về nước chấm dứt giai đoạn lưu vong năm 1949, mau chóng trở lại chính trường Lào. Trong vòng 2 năm ông trở thành thủ tướng; 2 năm nữa ông kết thúc cuộc điều đình với Pháp trao trả độc lập hoàn toàn cho Lào. Đã quen thuần hóa người Pháp, ông dốc nỗ lực thuần hóa Pathet Lào.
Ba anh em hoàng thân Phetsarath, Souvanna Phouma, Souphanouvong với 3 chính kiến khác nhau.
Souvanna cho rằng Pathet Lào là những người quốc gia khoác bộ áo Cộng Sản, đồng minh với Việt Nam vì tiện lợi hơn là niềm tin vào ý thức hệ. Tổng tuyển cử quốc gia ấn định vào năm 1955. Nếu ứng cử viên Pathet Lào chiếm được vài chỗ, nó có thể hợp thức hóa chính phủ bao gồm mọi thành phần và thuyết phục pathet Lào cắt đứt mọi quan hệ với Việt Nam và tránh khỏi một cuộc nội chiến.
Giữa năm 1954, Souvanna gặp Souphanouvong ở Kang Khay trên Cánh Đồng Chum. Souvanna khuyên người em cùng cha khác mẹ đề cử vài ứng viên cho cuộc tuyển cử sắp đến và ám chỉ rằng sẽ có một chức vị cao dành sẵn cho Souphanouvong trong chính phủ liên hiệp. Dù Souphanouvong không hứa hẹn gì hết, Souvanna cũng tràn trề lạc quan. Không may cho ông, Pathet Lào không những tẩy chay cuộc tuyển cử mà còn gia tăng các hoạt động quân sự chống lại quân đội hoàng gia.
Cuối năm 1957, Thái tử Phetsarath trở về nước chấm dứt cuộc đời lưu vong. Chức phó vương cũ đã được phục hồi và dành sẵn cho ông như một mồi nhử về nước. Tại vị, ông khuyên 2 em hòa giải những xung khắc. Sau nhiều cuộc hội họp, Souvanna và Souphanouvong ký một thỏa ước sát nhập Cộng Sản vào chính phủ. Souphanouvong giữ một chức bộ trưởng và Souvanna trông đợi cuộc tuyển cử vào tháng Năm năm 1958 đầy tin tưởng.
Pathet Lào dùng tệ trạng tham nhũng trong chính phủ làm nòng cốt cho vận động tranh cử. Hàng năm nhiều triệu Mỹ kimđổ vào trong nước và mọi người trong chính phủ tìm cách bớt xén. Ngay cả Souvanna Phouma, người chỉ mặc những bộ đồ lớn may cắt ở Paris, nhúng tay vào việc tham nhũng. Ông là một trong những người giàu nhất Lào, một thành đạt đáng kể vì thời còn là một công chức, ông chỉ lãnh 2500 Mỹ kim 1 năm. Souvanna làm chủ một phần lớn trong 2 ngân hàng, một hãng hàng không, làm chủ nhiều mẫu đất, nhiều biệt thự, chung cư ở Vientaine và Luang Prabang, và nhiều bất động sản bên Pháp. Những tài sản này sinh sản lợi tức chồng chất hàng năm. Năm 1964, danh sách tài sản của Souvanna ở Pháp không thôi đã trị giá 2.25 triệu Mỹ kim.
Nỗ lực chống chế của chính phủ nhằm bác bẻ tố giác tham nhũng của Pathet Lào bị ngăn trở bởi sự gian lận bầu cử của CIA. Nhân viên CIA đi khắp các thôn làng ở miền quê, mua phiếu cho ứng cử viên thân Mỹ. Các nhân viên CIA cũng cung cấp tín dụng cho ứng viên khuynh hữu để họ có thể mua chuộc cử tri bằng quà tặng hay tiền mặt. Một phần trong nỗ lực mua phiếu là một chương trình gọi là Liều Thuốc Khỏe. Nhân viên CIA tuyết phục dân làng rằng Mỹ là những người tốt bụng bằng cách bỏ tiền của đào giếng, xây đập ngăn lụt và sửa chữa đường sá.
Cộng Sản phô bày việc mua phiếu như những bằng chứng hiểm độc. Khi đếm phiếu, Cộng Sản đạt được 1/3 tổng số phiếu và chiếm được hơn nửa số ghế trong Quốc Hội. Hoàng thân đỏ Souphanouvong đắc cử với tỷ số phiếu cao nhất so với bất kỳ các ứng cử viên khác. Trong phiên họp đầu, Quốc Hội bầu ông làm chủ tịch ngành lập pháp.
Một nơi Cộng Sản ít được dồn phiếu nhất là Xiêng Khoảng, nơi Touby tranh cử 1 ghế Quốc Hội với một địch thủ do Faydang vận động, tên Lo Foung. Chú ý Faydang chỉ ủng hộ họ Lo mà thôi. Touby dễ dàng đánh bại tay sai Faydang bởi uy tín và công lao của ông nhiều năm với Hmong.
Kết quả tuyển cử làm CIA và viên chức bộ Ngoại Giao Mỹ thất vọng trong công cuộc lèo lái Lào khỏi Cộng Sản chủ nghĩa. Những người chống Cộng vẫn chiếm đa số trong 59 ghế ở Quốc Hội, nhưng sức mạnh chính trị đầy bất ngờ của Pathet Lào khiến tương lai nhóm khuynh hữu có vẻ đen tối.
Chính quyền Eisenhower hoàn toàn chống lại mọi hình thức liên hiệp với Cộng Sản. Phát ngôn viên cho lập trường này là Walter Robertson, thứ trưởng Ngoại Giao đặc trách Viễn Đông Sự Vụ. Robertson nêu ra việc Cộng Sản chiếm Tiệp Khắc năm 1948 như một minh họa rõ rệt về hậu quả việc cho phép Cộng Sản trong chính phủ. Trong cuộc tuyển cử 1946 ở Czechoslovakia, Cộng Sản chiếm 1/3 số phiếu, tương đương với số phiếu Cộng Sản Lào trong cuộc tuyển cử 1958. Chỉ cần 2 năm sau, Cộng Sản ở Czechoslovakia phế bỏ chính phủ và đưa Klement Gottwald, lãnh đạo đảng Cộng Sản Tiệp làm chủ tịch.
Chủ trương của Hoa Thịnh Đốn là trong chiến tranh lạnh, mọi người phải theo một phe. Trung lập không thể chấp nhận được. Eisenhower tuyên bố khó tưởng tượng một con người đầu óc tỉnh táo lại có thể đứng tách rời khỏi cuộc chiến đấu toàn thế giới giữa những người bảo vệ chính phủ đặt nền tảng trên tự do và nhân vị và những người coi nhân dân như một tài sản của nhà nước. Phó tổng thống Nixon công kích lập trường trung lập như đặt ngang hàng tự do với chuyên chế. John Foster Dulles, bộ trưởng Ngoại Giao chính phủ Eisenhower vắn tắt: Trung lập là vô nhân đạo.
Đại sứ J. Graham Parsons nhờ chống Cộng mà được thăng chức thứ trưởng Ngoại Giao. Hoa Thịnh Đốn cử Horace Smith thay thế chức đại sứ. Khi Smith nhậm chức tháng Ba năm 1958, người ta tưởng ông sẽ tiếp tục đường lối chống trung lập kịch liệt của Parson. Điều này có thể xẩy ra nếu Smith không có chuyện gấu ó với Henry Hecksher, giám đốc mới CIA trụ sở tại Vientaine.
Hecksher thay Milton Clark, người đơn độc biến trụ sở CIA ở Vientaine thành một mạng lưới tình báo thượng thặng, thu hoạch những tin tức chính trị, quân sự đáng tin cậy trong nước. Đại sứ Parsons dựa vào nguồn tình báo này để hoạch định chính sách và bao gồm luôn cả Clark trong các phiên họp soạn thảo chính sách. Khi Hecksher thay Clark, Đại Sứ Parsons tiếp tục để cho CIA làm việc độc lập, ngang hàng với đại sứ hơn là thuộc cấp. Điều này thay đổi khi Horace Smith lãnh chức đại sứ. Smith đòi kiểm soát CIA và loại Hecksher khỏi công việc bàn thảo chính sách. Hecksher không chịu và cả hai bắt đầu cãi vã.
Smith thách đố Hecksher và CIA đảm đương việc đánh bại chủ trương trung lập dưới bất cứ hình thức nào. Nặng lòng đố kỵ hơn là suy xét công minh, Smith bắt đầu ủng hộ nỗ lực của Souvanna Phouma duy trì một chính phủ liên hiệp, tức trung lập. Vấn đề này, Smith lẻ loi một mình. Sau lưng ông, toàn thể nhân viên tòa Đại Sứ ngả về phe CIA, tức phe Hoa Thịnh Đốn. Mặc Smith phản đối, Hoa Thịnh Đốn cắt viện trợ. Để tiếp tục viện trợ, Quốc Hội Lào phế bỏ Souvanna Phouma và cử Phoui Sananikone lên thay, một hữu khuynh cực kỳ bảo thủ, thề sinh tử chống ý tưởng liên hiệp.
Để bảo đảm Souvanna Phouma không còn quanh quẩn xúi giục thí nghiệm với ý tưởng trung lập, Sananikone phong Souvanna Phouma làm Đại Sứ Lào tại Pháp. Smith cũng được sắp xếp để rời nhiệm sở dù 1 năm nữa Winthrop Brown mới đến Vientaine thay thế chức đại sứ. Ba Đại Sứ trong vòng 1 năm khiến người ta có thể suy đoán Hoa Thịnh Đốn không nắm vững tình hình tại Lào.
Được Hoa Thịnh Đốn nâng đỡ, thủ tướng mới, ông Phoui Sananikone tìm cớ loại trừ các đại biểu Cộng Sản trong Quốc Hội. Đầu tiên Sananikone cần thêm nhiều quyền hành. Tháng 12 năm 1958, các đơn vị Bắc Việt xâm lăng Lào và lập đồn trại ở tỉnh savanakhet. Sananikone lợi dụng cơ hội, đòi quyền độc tài trong vòng 1 năm để huy động quốc gia chuẩn bị đối phó với cuộc tổng tấn công xâm lăng có thể xảy ra. Bắc Việt không có ý định xâm chiếm Lào bằng vũ lực – ít nhất chưa phải lúc. Ý đồ của họ là chiếm đóng vùng biên giới để xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh.
Một điều khoản trong hiệp định 1957 là sát nhập Pathet Lào vào chính phủ. Về quân sự gồm 2 tiểu đoàn Pathet Lào vào quân đội hoàng gia Lào. Cả 2 tiểu đoàn này vẫn hoạt động biệt lập với quân đội chính phủ. Sananikone đã có cớ thanh lọc Cộng Sản. Ông ra hạn trong vòng 24 tiếng những đơn vị biệt lập phải chấp nhận sát nhập hay giao nạp vũ khí. Nếu bất tuân, ông sẽ viện cớ thanh toán bọn Cộng Sản trong chính phủ, kể cả các dân biểu Cộng Sản.
Quân đội hoàng gia Lào bao vây 1 trong 2 tiểu đoàn Pathet Lào đóng quân tại Xieng Ngeun phía Nam Luang Prabang. Hết đường thoát, chỉ huy trưởng tiểu đoàn Pathet Lào tuân hành lịnh sát nhập. Tiểu đoàn còn lại, đóng ở Cánh Đồng Chum trong một đồn binh cũ Pháp bỏ lại ở Thong HaiHin, có mưu đồ khác.
Sau khi đại đội của ông bị giải tán năm 1953, nhiệm vụ mới của Vang Pao là làm việc với tình nguyện quân Hmong. Ông thành lập một đại đội gồm các cựu binh sĩ biệt kích Malo chuyên đón đánh Pathet Lào và Bắc Việt tìm cách xâm nhập Xiêng Khoảng. Trong một trận đánh gần Nong Het, Vang Pao bị thương nặng lở chân. Ông hồi phục đúng lúc dẫn lực lượng của mình xâm nhập Bắc Việt giải cứu tù binh Pháp thất trận Điện Biên Phủ.
Đầu năm 1955, Vang Pao lại thất nghiệp. Pháp triệt binh ở Đông Dương và giải tán các tổ chức du kích Malo để chấp hành hiệp định Geneva. Malo chính thức giải tán vào tháng Tư. Người Pháp khuyên quân đội Làosát nhập các đơn vị du kích (có lẽ là các đơn vị thiện chiến nhất nước) vào trong quân đội chính quy, nhưng người Lào bất đắc dĩ lắm mới làm theo. Sự nhượng bộ duy nhất là họ chấp nhận đơn vị tình nguyện của Vang Pao như lực lượng bán quân sự, bổ nhiệm thành tiểu đoàn tình nguyện 21 liên hệ lỏng lẻo với quân đội chính quy.
Vang Pao chỉ huy tiểu đoàn 21 được 1 năm, rồi được triệu về bộ chỉ huy trại quân sự Chinaimo. Đó là cơ hội bỏ rơi mọi thứ liên hệ đến công việc biệt kích Hmong và thăng tiến nghiệp vụ như một sĩ quan quân đội hoàng gia. Sau Chinaimo, Vang Pao trở lại cánh Đồng Chum chỉ huy trường huấn luyện hạ sĩ quan ở Khang Khay. Một năm sau, ông được thăng chức thiếu tá, quyền chỉ huy tiểu đoàn 10 bộ binh quân đội hoàng gia, chỉ huy sở cách Thong Hai Hin vài dặm, nơi tiểu đoàn 2 Pathet Lào đang nhận lịnh sát nhập vào quân đội hoàng gia Lào.
Vang Pao viếng trại Pathet Lào để thăm dò ý đồ của họ. Ông thấy trại đang bận rộn chuẩn bị cho một cuộc hành quân. Lính gác trong quân phục tác chiến chặn ông ngoài cổng. Súng máy nạp đạn sẵn sàng. Trong trại, ông thấy những sĩ quan Bắc Việt và một đơn vị toàn người Hmong thuộc quyền chỉ huy của Tou Thao Saychou, tư lịnh tương lai của toàn thể lực lượng Hmong của Pathet Lào. Vang Pao chỉ biết tên của Tou Thao Saychou chứ không biết mặt. Saychou cùng với Faydang chống Pháp và nghe đồn là một sĩ quan cao cấp. Đại tá Niem Chan, người Việt lai Thái, chỉ huy trại này. Niem Chan có vẻ trốn tránh khi Vang Pao hỏi về kế hoạch của ông ta. Vang Pao rời trại, đinh ninh rằng một cuộc hành quân đang tiến hành và báo cáo lên thượng cấp.
Vang Pao đóng quân trên đỉnh núi ngó xuống Thong Hai Hin. Một đơn vị quân đội hoàng gia Lào do đại úy Kettsana Vongsuvan đã chẹn con đường lên Ban Mone, con đường dự kiến tiểu đoàn 2 Pathet Lào tẩu thoát. Quá nửa đêm, Vang Pao thấy lửa cháy phía dưới. Ông phái thám báo dò xét và biết Cộng Sản đốt trại bỏ trốn. Vang Pao ra lịnh truy kích, hy vọng đuổi Niem Chan vào ổ mai phục của đại úy Kettsana.
Kettsana để cho tiểu đoàn 2 qua khỏi không thèm bắn một phát. Vang Pao sửng sốt rồi giận tím mặt. Kettsana đổ thừa việc để sổng quân địch là vì đạo Phật của ông ta cấm giết người. Nó là cớ thông thường cho tính nhát nhúa tạo chiến thắng cho Cộng Sản. Kettsana sau này bị ám sát tại nhà ở Phong Savan bởi binh sĩ Pathet Lào, sắc tộc Lào và cũng theo đạo Phật.
Vang Pao dẫn tiểu đoàn 10 dầm mưa rượt bén gót Niem Chan. Ba lần ông bắt kịp quân địch, hạ sát 3 sĩ quan Pathet Lào và bắn Niem Chan bị thương ở chân. Rồi thì Pathet Lào bứt xa hơn về phía biên giới Việt Nam. Vang Pao không ngăn được khâm phục sức chạy của tiểu đoàn Cộng Sản này. Hmong không thể chạy nhanh hơn. Đây là sự khâm phục của một người nổi tiếng về sức dẻo dai chịu đựng. Một trong những truyền thống của khóa sinh trường sĩ quan Dong Hene là chạy 2.5 dặm với đầy đủ quân trang quân dụng. Vang Pao phá kỷ lục, về tới mức trong vòng 14 phút. Chỉ lính Hmong mới có thể theo kịp ông. Chỉ có ít Hmong trong tiểu đoàn 10 do ông chỉ huy. Đa số là người Lào và họ hay đòi nghỉ mệt. Vang Pao buộc phải để họ nghỉ và tiếp nhận tiếp liệu từ phi cơ thả dù xuống.
Sự trì hoãn này Làm Niem Chan bỏ rơi tiểu đoàn 10 khá xa. Tiểu đoàn Pathet Lào phải băng qua rặng núi biên giới để vào Việt Nam. Vang Pao đi vòng lên núi Gà Gáy (Chant du Coq), nơi có một độc đạo dẫn thẳng vào Việt Nam. Ông tin Niem Chan sẽ băng ngang đây. Nếu ông đến đó trước, nó là điểm lý tưởng cho một ổ phục kích. Nhưng vì nghỉ mệt quá nhiều và quá lâu, khi ông đến thì Niem Chan đã qua và được một đơn vị đặc công (tương đương với biệt kích Mỹ, thiện chiến và cảm tử) Bắc Việt hộ tống. Khi tiểu đoàn 2 Pathet Lào thoát sang Việt Nam, đặc công đóng chốt chặn hậu ngăn cản Vang Pao đuổi theo.
Vang Pao tin rằng ông có thể đẩy lui quân Bắc Việt khỏi đỉnh núi nhưng ông không thể làm 1 mình. Ông cần có thêm trợ thủ. Không một người Lào dám tình nguyện. Họ sợ đặc công Bắc Việt hơn là sợ vị chỉ huy trưởng của họ. Họ coi Vang Pao thuộc giai cấp hạ đẳng; từ lúc ông chỉ huy tiểu đoàn, uy quyền của ông đối với họ rất mong manh. Nếu Vang Pao ra lịnh cho họ xông lên đèo, họ sẽ làm loạn. May cho ông, 1 trong số người Hmong tình nguyện, một sĩ quan phụ tá tên Ly Ndjouava.
Vang Pao và Ly Ndjouava leo lên núi, luân phiên bắn che cho nhau khi chạy từ mô đá này đến gốc cây khác. Họ tìm thấy đặc công, 2 người một hố mỗi hố cách nhau 20 mét. Hai đặc công hố đầu tiên thấy họ và giương súng bắn, ló đầu và vai. Vang Pao và Lý Ndjouava đốn gục cả hai. Vang Pao dẫn Ly đến hố kế, bắn hạ thêm 2 đặc công nữa và cứ thế, diệt địch từ hố này sang hố khác như thể tập tác xạ ở quân trường. Sau khi hạ sát 12 đặc công, bọn cảm tử …bỏ chạy.
Mất hàng giờ để dỗ ngọt tiểu đoàn của ông lên núi. Lúc này Niem Chan đã cao chạy xa bay về thị trấn Muong Sen, cam tâm làm tay sai cho Bắc Việt, chờ dịp đem giặc về giết đồng bào mình.
Cộng Sản tấn công.
Tìm một con dê tế thần, bộ Tư Lịnh quân đội hoàng gia Lào đổ lỗi cho tướng Kittirath Sang, tư lịnh quân khu II làm cho Niem Chan trốn thoát. Ông ta bị truất chức và đại tá Bouddavong Khamkhong lên thay. Mặt chính trị, Sananikone đổ lỗi cho đại biểu Cộng Sản trong Quốc Hội về hành động phản trắc của tiểu đoàn 2 Pathet Lào với tội danh âm mưu ngăn cản đơn vị này sát nhập vàp quân đội. Ông hạ lịnh quản thúc tại gia các đại biểu Cộng Sản. Suốt từ đó cho đến 8 tháng sau, binh sĩ võ trang canh gác tư gia của họ ở Vientaine 24 tiếng một ngày.
Pathet Lào trả lời bằng súng đạn. Trận chiến đầu tiên bùng nổ tại Sầm Nứa, nơi Cộng Sản thao tác để đè bẹp mọi cứ điểm quân đội hoàng gia và cô lập tỉnh lỵ. Chỉ huy bởi các sĩ quan Việt Nam, Pathet Lào đóng góp có 2000 binh sĩ cho chiến dịch, dùng khéo léo, mưu mẹo bù vào chỗ thiếu người. Đồn lũy phòng thủ của chính phủ hầu hết là vách đất trộn rơm bao quanh bởi một hệ thống chiến hào và hoàn toàn lệ thuộc vào tuyển mộ từ dân quân địa phương. Cán bộ Bắc Việt gieo hoang mang bằng cách tung tin đồn trong những thị trấn lân cận về quân số đông đảo của lực lượng Cộng Sản, tạo thêm bằng chứng bằng cách mua trữ số lượng lớn lương thực cho các tiểu đoàn hù dọa này. Dân chúng các thôn làng, thị trấn bỏ nhà cửa trốn vào trong rừng. Tin các trị trấn bỏ hoang đến tai binh sĩ chính phủ. Họ rủ nhau bỏ trại, một số bắn sau lưng sĩ quan chỉ huy trước khi bỏ ngũ.
Dù với tình trạng đào ngũ hàng loạt, cuộc tấn công của Pathet Lào hầu hết chết yểu. Phát động chiến dịch vào mùa mưa, Cộng Sản di hành khó nhọc và chậm, nếu cần, khó có thể tăng viện kịp thời. Bất ngờ, các đồn trại quanh thành phố Sầm Nứa chống trả kịch liệt. Dù Pathet Lào chiến đấu anh dũng trong điều kiện thời tiết bất lợi và thiếu quân số để đánh bật quân chính phủ, không lực hoàng gia Lào với những máy bay vận tải cũ kỹ C-47, Beavers, bay qua các rặng núi dưới những cơn mưa mùa như thác lũ, tiếp viện quân dụng và tăng viện binh sĩ xuớng phi trường cỏ ngoại ô tỉnh lỵ. Khi chiến dịch thất bại, Pathet Lào phân tán lực lượng và tung các cuộc càn quét, quấy phá ở các tỉnh trong nước, dụng ý tạo ấn tượng họ làm chủ miền quê.
Trong giai đoạn cuới chiến dịch tấn công, từ tháng Tám đến tháng Chín năm 1959, Pathet Lào trở lại Sầm Nứa 1 lần nữa thử chiếm các đồn trại. Chỉ 2 đồn thất thủ là Muong Het và Xieng Kho. Cả 2 đồn này cách biên giới Việt Nam chỉ một tầm ném. Trọng pháo Bắc Việt bên kia biên giới pháo kích nhiều ngày. Mỉa mai, khi trọng pháo chấm dứt, tiểu đoàn 2 Pathet Lào, đơn vị chạy thoát khỏi tay Vang Pao ở Thong Hai Hin năm ngoái, do đại tá Hmong Tou Thao Saychou chỉ huy, mở cuộc tấn công dứt điểm.
Thông tin giữa Vientaine và các đồn trại bị tấn công rất kém. Không thể biết tường tận tình hình, Vientaine tưởng tượng thêm vào cho phong phú. Có tin đồn một cuộc đại xâm lấn có quy mô ngang với cuộc xâm lăng năm 1953 của Việt Minh với nhiều sư đoàn. Tức giận, Sananikone bắt tất cả đại biểu Cộng Sản đã bị quản thúc tại gia từ trước, chở đến giam giữ tại trại tù cảnh sát Phone Kheng ở ngoại thành về tội phản quốc để họ sống như những thường phạm hình sự thay vì ngồi chơi uống trà như trước.

Ban điều hành tòa Đại Sứ Mỹ hoan nghênh hành động này. Từ lâu họ vận động Hoa Thịnh Đốn viện trợ quân sự cho nhóm khuynh hữu. Tư thế cứng rắn của Sananikone chính là cử động cần thiết để Hoa Thịnh Đốn mở hầu bao.. Ngay lập tức, 25 triệu Mỹ kim viện trợ cho quân đội hoàng gia. Sau này khi sự việc diễn tiến, nó chứng tỏ Mỹ tốn tiền vô ích.
Nhóm hữu khuynh đảo chánh.
Khi Pathet Lào tấn công, Sananikone “xin” quyền độc tài 1 năm. Thời hạn ấy chấm dứt vào tháng 12 năm 1959. Ông yêu cầu Quốc Hội gia hạn thêm cho đến tháng Tư năm sau, khi bắt đầu cuộc tuyển cử mới. Ông được thỏa nguyện nhưng lần này, có những bất mãn của phe khuynh hữu.
Một nhóm chính khách trẻ và sĩ quan quân đội tổ chức Hội Đồng Bảo Vệ Quyền Lợi Quốc Gia (CDNI, Committee for the Defense of the National Interest) công khai chỉ trích thủ tướng chính phủ quá lần lữa trong việc tổ chức một quân đội hùng mạnh đối phó với sự đe dọa quân sự của Pathet Lào. Chủ tịch Hội Đồng là đại tá Nousavan Phoumi, một nhân viên CIA. Giám đốc CIA ở Vientaine là Hecksher ủng hộ Hội Đồng từ thủa ban đầu và gây áp lực buộc Hội Đồng tổ chức một mặt trận thống nhất để đòi hỏi ảnh hưởng lớn hơn trong chính phủ.
Nổi giận vì sự táo bạo của Hội Đồng, Sananikone thanh lọc các thành viên Hội Đồng trong nội các, kể cả Phoumi, người nắm giữ bộ trưởng bộ Quốc Phòng. Với sự ủng hộ ngầm của CIA, Phoumi ra lịnh cho binh sĩ chiếm các công sở vào ngày 25 tháng 12 năm 1959, sau này lịch sử gọi là cuộc đảo chánh Giáng Sinh. Sananikone ở nhà lúc ấy, nhìn binh sĩ trong quân phục ngụy trang rằn ri qua cửa sổ đang bố trí quanh tư thất của ông và nhìn các xe tăng M-8 đậu trước sân. Ông quyết định về hưu non. Phoumi thay thế Sananikone bằng một chính khách lão thành Vientaine, ông Abhay Kou.
Phoumi cũng muốn lãnh đạo chính phủ. CIA cũng đồng ý như vậy nhưng Đại Sứ Smith thì không. Nhắc lại viên Đại Sứ này vì ganh ghét CIA mà ủng hộ chính phủ trung lập, bất chấp đường lối Hoa Thịnh Đốn. Đây là một trong họa hoằn vài lần Hoa Thịnh Đốn ủng hộ Smith trong chức vụ đại sứ. Bộ ngoại Giao lo lắng về tai tiếng. Lào được thiết tưởng là một thể chế dân chủ. Cho phép dùng quân đội lật đổ chính phủ làm sao ăn nói với nhân dân trong nước và dư luận thế giới. Phoumi phải bằng lòng điều khiển chính phủ từ trong hậu trường.
Tuyển cử ấn định vào tháng Tư năm 1960. Để bảo đảm Cộng Sản không chiếm được ghế nào, Phoumi nâng trình độ học vấn của cử tri lên như một điều kiện hợp lệ. Nói khác đi, không có học không được đi bầu. Thêm vào đó, ông vẽ lại địa hạt cử tri ở các tỉnh Đông Bắc sao cho giảm thiểu sức mạnh lá phiếu của Cộng Sản và tăng lệ phí ứng cử sao cho vượt khỏi túi tiền các ứng viên có thể lo liệu. Những biện pháp này khiến cho tổng số cử tri hợp lệ còn có 25000 người và loại trừ hầu hết đối thủ. Trong số 59 ghế Quốc Hội, Cộng Sản chỉ có thể đưa ra 9 ứng viên tranh cử. Quyết tâm không để yên bất cứ sự gì không vừa ý, Phoumi dùng thủ đoạn tuyển cử năm 1958 và với sự tài trợ của CIA, phái những toán sĩ quan quân đội đi khắp thôn làng mua phiếu. CIA cũng hăng say không kém. Một nhân viên tòa Đại Sứ thấy vài viên chức CIA phân phối những bị tiền cho các trưởng làng.
Với các chính khách Cộng Sản trong tù, hay trốn tránh ở các tỉnh miền Bắc, họ khó vận động tranh cử. – dù có vận động tranh cử cũng không hề gì, vì nhóm khuynh hữu gian lận thả cửa trong vấn đề bỏ phiếu. Một ứng cử viên Pathet Lào ở miền Nam nhận được 4 phiếu dù rằng trong gia đình ông, có 5 người đi bầu.
Cố vấn Mỹ của Phoumi thoả mãn với kết quả cuộc đầu phiếu. Không hài lòng Pathet Lào trả lời bằng một loạt khủng bố mà tổng kết chỉ là vài tổ chức ám sát các viên chức chính phủ, viên chức ngoại giao Mỹ. Cộng Sản âm mưu giết một viên chức. Mục tiêu là một viên chức Mỹ nhưng tên sát thủ làm hỏng việc, vô tình giết lầm phải một viên chức Liên Hiệp Quốc. Kẻ khủng bố tử tế đến nỗi để một lá thư xin lỗi người vợ nạn nhân vì nhầm lẫn.
Phoumi nhận thấy đã đúng thời điểm xét xử Souphanouvong và các chính khách Cộng Sản đang bị giam giữ trong nhà lao Phone Kheng. Khi quan tòa không tìm thấy cơ sở hợp pháp để truy tố những người này trong phiên xử sơ bộ, Phoumi âm mưu ám sát tù nhân bằng giả tạo ra một âm mưu vượt ngục. Souphanouvong biết tin nhờ một người coi tù thân Cộng. Pathet Lào mau chóng hối lộ lính gác tù. Cửa mở khóa và bọn lính gác nhìn đi chỗ khác khi Souphanouvong và các đại biểu Cộng Sản khác vượt ngục. Vài tháng sau, cả bọn có mặt ở căn cứ Pathet Lào tại Sầm Nứa.
Cộng Sản dùng cuộc vượt ngục để tuyên truyền, khoe rằng Souphanouvong kêu gọi lương tâm cách mạng của lính gác, “giáo dục một cách dễ hiểu về ý nghĩa chính trị, thực trạng Lào và nhu cầu đất nước,” một bài học đầy đủ về suy luận chính trị công dân, đặt nền tảng trên truyền thống và ý thức xã hội. Nhiều năm sau, câu chuyện bịa đặt này vẫn lưu truyền, trở nên phóng đại hơn theo thời gian:”Toàn câu chuyện về cuộc vượt ngục và công cuộc chuẩn bị ý thức hệ của Souphanouvong trong tình trạng ngặt nghèo nhà tù, đáng là một thiên tiểu thuyết vĩ đại về lòng can đảm, chí mạo hiểm ngoài sức tưởng tượng. Một lần nữa, nó làm chứng cho cá tính phi thường của một ông hoàng biến thành nhà cách mạng.
Dù cuộc vượt ngục là một thất bại của chính phủ, Phoumi vẫn thỏa mãn với mọi sự điễn ra. Cộng Sản bị cấm trong chính trường và lãnh tụ của họ đang tại đào. Nhóm hữu khuynh nắm quyền hoàn toàn. Các viên chức lãnh đạo Mỹ chúc mừng họ vì rốt cuộc, đã có những tiến triển cụ thể.
Kong Lê.
Chương 8 (tt)
Chỉ 4 tháng sau tuyển cử, phe hữu khuynh đột nhiên mất hết quyền bính và một đại tá nhỏ thó trong quân lực hoàng gia 26 tuổi với gương mặt non choẹt, lên nắm quyền, tuyên bố các phần tử hữu khuynh và các cố vấn Mỹ của họ là kẻ thù dân tộc.
Đại tá Kong Lê chỉ huy tiểu đoàn 2 nhẩy dù thuộc quân lực hoàng gia. Được công nhận là đơn vị ưu tú nhất quân đội, tiểu đoàn 2 được mệnh danh là “lữ đoàn lửa.” Đã nhiều lần tiểu đoàn nêu gương anh dũng trong các cuộc giao tranh với Cộng Sản, cả trong vùng núi non trùng điệp Sầm Nứa, nơi Kong Lê có 2 chuyên viên chống phiến Cộng Phi Luật Tân, thuộc CIA trực tiếp cố vấn và trong rừng rậm phía Nam Lào, khu vực cán chảo.
Tiểu đoàn 2 Dù do Mỹ thành lập. Kong Lê thụ huấn một khóa học đặc biệt ở trường Biệt Động Quân Đội Mỹ tại Phi Luật Tân để chuẩn bị cho ông chỉ huy một đơn vị thiện chiến. Ông không thấy quá trình cuộc huấn luyện là một kinh nghiệm đẹp. Ông cảm thấy các huấn luyện viên coi người Lào như một sắc tộc hạ đẳng. Điều này làm ông suy nghĩ. Trên bối cảnh toàn cầu, Lào chỉ là con chốt trong Chiến Tranh Lạnh. Người Mỹ chẳng tử tế gì với nước Lào hoặc nhân dân Lào. Từ đó, Kong Lê mưu đồ đảo chánh. Ông đã có kinh nghiệm làm đảo chánh vì đã 1 lần, Phoumi dùng “tiểu đoàn lửa” chiếm đóng các công sở dịp đảo chánh Giáng Sinh. Sau này, Phoumi còn cho Kong Lê biết kế hoạch (do CIA soạn thảo)chiếm đóng Vientaine. Mọi sự được tính toán từng chi tiết. Phoumi không hề ngờ rằng Kong Lê có thể phản mình vì viên đại tá trẻ Kong Lê cưới cháu gái Phoumi làm vợ.
Kong Lê ở Vientaine đầu tháng 8 năm 1960, sau một trận đánh cam go ở miền Nam Lào. Tiểu đoàn của ông đóng quân trong những lều bẩn thỉu trên một bãi lầy ngoại ô thành phố. Kong Lê phàn nàn về tình trạng tồi tệ của doanh trại và binh sĩ chưa được trả lương quá 2 tháng. Ông được hứa hẹn cung cấp vật liệu xây cất doanh trại nhưng chờ mãi không thấy. Thay vào đó, tiểu đoàn được lịnh trở lại chiến trường Vang Viêng phía Tây Bắc thủ đô đương đầu với Pathet Lào. Đơn vị của ông đã chiến đấu liên tục suốt 1 năm và là đơn vị thực sự chiến đấu trong hàng ngũ các lực lượng quân đội hoàng gia. Lịnh tiếp tục chiến đấu là giọt nước làm tràn bát nước đầy.
Ngoại trừ lực lượng cảnh sát, Vientaine không có đơn vị nào khác bảo vệ. Các viên chức cao cấp chính phủ cũng như các tướng lãnh quân đội luôn ở Luang Prabang.Vua Sisavang Vong đã chết 1 năm trước sau 54 năm trị vì. Thái tử Savang Vatthana kế vị trong buổi lễ đăng quang sơ sài ở chùa Hotmam Sapha vào tháng 10 năm 1959, với đông cung thái tử ngồi bệt trên thảm trong chiếc áo dài trắng giản dị, đối diện các nhà sư, các em hướng đạo và các nhà ngoại giao lột giày, xếp bằng trên nền chính điện. Chỉ có một nghi thức còn lại để hoàn tất lễ đăng quang: Lễ hỏa táng đức vua Sisavang Vong đã băng hà. Trong khi Kong Lê giận dữ trên bãi lầy ngoại ô Vientaine, hầu như mọi thành phần chính trị, quân sự Lào tụ họp trong cung điện hoàng gia ở Luang Prabang để tham dự lễ quốc táng.
Ngày 9 tháng Tám năm 1960, binh sĩ Kong Lê chiếm đài phát thanh, các công sở, nhà máy điện Vientaine và phi trường. Chiếm đoạt đài phát thanh là mục tiêu quan trọng nhất cho cuộc đảo chánh. Kong Lê đã phân phát radio mua bằng viện trợ Mỹ cho binh sĩ thuộc cấp.Truyền lịnh hành quân qua làn sóng truyền thanh, ông chỉ huy các trung đội, tiểu đội lần lượt tiến chiếm các mục tiêu. Một đơn vị chiếm trại binh Chinaimo ngoại ô Vientaine và trưng dụng các thiết vận xa, chiến xa ở đó. Một đơn vị đặc phái đến tòa lâu đài của tướng Sounthone Patthammavong, tổng tham mưu quân lực hoàng gia, đặt ông dưới sự quản thúc tại gia. Chỉ có sự chống đối ở trại quân đội. Hai binh sĩ bắn vào lực lượng Kong Lê và bị hạ sát.
Toàn thể cuộc hành quân diễn ra vài tiếng đồng hồ. Kong Lê đọc diễn văn trước quốc dân trên đài phát thanh, trình bày lý do đảo chánh:”Lãnh đạo chính phủ và lực lượng võ trang đã hơn 1 lần tuyên bố rằng những kẻ hối lộ, tham nhũng, sống trên mồ hôi nước mắt kẻ khác và những kẻ trục lợi trên sự thiệt hại của người khác phải bị trừng trị. Nhưng những kẻ xấu này vẫn tiếp tục tồn tại. Khi Kong Lê nói, quân xa đi khắp ngả đường thành phố, phân phát truyền đơn lên án những người hợp tác với Mỹ là những kẻ phản quốc “người bán chúng ta cho Mỹ.”
Hai ngày sau, trước một đám đông ngồi trên các dãy ghế của sân vận động Vientaine, Kong Lê biện hộ chủ trương trung lập là con đường chắc chắn dẫn đến hòa bình cho “tổ quốc chúng ta,” mà sau này ông cắt nghĩa là một chủ nghĩa bài Mỹ hiểm độc. “Người Mỹ mua chuộc chính phủ, các tướng lãnh, gây chiến tranh và chia rẽ trong chúng ta.” Kong Lê nhấn mạnh rằng việc đánh đuổi kẻ bán nước ra khỏi tổ quốc càng sớm càng tốt là bổn phận của chúng ta.” Để tăng cường ủng hộ, ông thả tù và ra lịnh cho các phạm nhân, một số ít chính trị phạm còn lại toàn tội phạm hình sự, diễn hành các đường phố, mang những biểu ngữ chống Mỹ.
Lo ngại sự an toàn của công dân Mỹ, Hoa Thịnh Đốn ra lịnh triệt thoái 700 nhân viên dân sự, quân sự và gia đình của họ. Một số người sợ những xe hơi của họ bỏ lại sẽ bị phá hoại, mang theo cả xe hơi lên phà băng qua sông Mekong, đến Thái Lan, 6 xe một chuyến, do USAID (US Agency for International Development), cơ quan phát triển quốc tế Mỹ tổ chức và điều hành việc vận chuyển. Khi người Mỹ khởi hành, Kong Lê dùng đài phát thanh làm diễn đàn riêng lăng mạ các bộ trưởng chính phủ về tội tham nhũng. Trong bầu không khí đầy đe dọa, tất cả các quan chức cũ tránh khỏi thủ đô. Một số ít cần phải ra đường, họ để xe hơi và tài xế ở nhà và tự lái một chiếc xe cũ mượn tạm của ai đó làm phương tiện di chuyển. Sự khích động trên đường phố và những công kích hằn học trên đài phát thanh diễn tả cái tầm hạn hẹp chính trị của Kong Lê. Không biết làm thế nào thể hiện chủ nghĩa trung lập, ông ta giao cho Souvanna Phouma việc lập nội các chính phủ.
Hoa Thịnh Đốn dĩ nhiên hoảng sợ về những cuộc biểu tình bài Mỹ, đặc biệt không hài lòng với Winthrop Brown, người kế nhiệm đại sứ Smith ở Lào. Cuối cùng Brown và Smith cũng thuộc loại cá mè một lứa. Việc giao du thân mật với Souvanna Phouma và có thiện cảm với phe nhóm trung lập được coi như nguyên nhân gây đảo chánh. Ông ta cần được thay thế bằng một đại sứ khác sau một thời gian thích hợp. Ngay bây giờ, chỉ có một giải pháp duy nhất là ngưng viện trợ kinh tế cho Lào và chờ thời.
Sarit Thanarat, thủ tướng Thái Lan và bà con của Phoumi có ý đồ sâu xa hơn. Ông huy động binh sĩ nhẩy dù chuẩn bị tiến chiếm thủ đô Lào. Các viên chức Mỹ hay tin, khuyên Sarit hủy bỏ cuộc hành quân ấy. Tuy nhiên, Hoa Thịnh Đốn bằng lòng cho Sarit phong tỏa bến phà Nong Khai là mạch máu kinh tế Vientaine. Hàng chục ngàn tấn hàng viện trợ Mỹ trên lộ trình Lào chất đống ở các nhà kho Bangkok, Thái Lan. Nạn thiếu hụt thực phẩm ngày một trầm trọng ở Vientaine và các thành phố lớn khác. Ngoại trừ một tỉnh là Savanakhet, bộ tư lịnh lực lượng Phoumi. Sarit bảo đảm hàng hóa và vật liệu quân sự tiếp tục đến tay Phoumi, vừa là bà con, vừa là đồng minh chống Cộng.
Souvanna quay sang Sô Viết yêu cầu viện trợ. Máy bay vận tải Nga nườm nượp hạ cánh xuống phi trường Wat Tay chở đầy thực phẩm. Sau đó, một tòa đại sứ Sô Viết cấp tốc mọc lên ở thủ đô và với khinh hoàng của người Mỹ, Souvanna bắt đầu đàm phán với Pathet Lào.
Vì đại sứ Brown không được tin cậy, cựu đại sứ Graham Parsons, một kẻ thù của ý tưởng trung lập, được triệu hồi đến Vientaine để nói chuyện cùng Souvanna. Parsons tìm ông thủ tướng Souvanna từ nhà riêng cho đến văn phòng, khuyên ông chấm dứt thỏa hiệp với Cộng Sản và cho phép phe nhóm khuynh hữu chống Cộng có mặt trong chính phủ. Dù Souvanna từ chối không chịu cắt đứt đàm phán với Cộng Sản, ông đồng ý cho thành phần hữu khuynh trong nội các. Sự nhượng bộ này đủ thuyết thục bộ Ngoại Giao Mỹ ủng hộ chính phủ Souvanna.
Phoumi nắm quyền.
Mặc dù Hoa Thịnh Đốn chính thức bằng lòng, CIA đánh giá tân nội các không thể chấp nhận được. Desmond FitzGerald, giám đốc ngành công tác mật của cơ quan, bật đèn xanh cho Gordon Jorgensen, tân giám đốc phân bộ CIA tại Vientaine, lập mưu lật đổ chính phủ. Để chứng tỏ tài năng, Jorgensen dò tìm trong các tướng lãnh hữu khuynh quân lực hoàng gia và chọn Phoumi Nosavan, dày dạn kinh nghiệm đảo chánh, mưu đồ một cuộc phản đảo chánh, đuổi Souvanna và Kong Lê ra khỏi chính quyền.
Phoumi Nosavan ở Savanakhet thuộc khu vực cán chảo với binh sĩ quân khu III và cố vấn bởi Jack Hasey, một cựu lính viễn chinh Pháp nay làm việc cho CIA. 4 nhân viên phòng thẩm định chương trình viện trợ (PEO) đến bộ tư lịnh của Phoumi hội thảo, đặt kế hoạch phản đảo chánh. Liền sau đó, các chuyên viên phản phiến loạn đến từ quân đội Thái Lan. CIA tiếp tế quân phục, vũ khí, đạn dược, thiết giáp và trọng pháo. Mọi thứ đều đầy đủ và sẵn sàng. Phoumi còn có sự ủng hộ của tất cả các chỉ huy trong quân đội, đã không được trả lương từ khi Mỹ cắt viện trợ.. Phoumi có tiền trả lương mà chính phủ nợ họ, nguồn từ CIA, mang đến Savanakhet bằng trực thăng, xếp thành từng xấp Mỹ kim đựng trong hộp khẩu phần tác chiến cá nhân ration C.
Tháng 12 năm 1960, chỉ 4 tháng sau cuộc đảo chánh của Kong Lê, Phoumi dẫn quân lên Vientaine, đi cùng với một toán binh sĩ Mỹ. Đoàn quân của ông đến ngoại ô Vientaine nhằm ngày 13 tháng 12. Trận chiến diễn ra suốt 36 giờ quanh khu vực một nhà thờ Công Giáo. Binh sĩ Kong Lê chiếm tầng hai ngôi trường thuộc khuôn viên nhà thờ. Lính Phoumi ở trong nghĩa trang bên kia đường, nấp bắn đằng sau những bia mộ.
Bị đánh bật ra khỏi trường học, lực lượng Kong Lê rút lui vào thủ đô. Trận chiến trên đường phố mang một sắc thái riêng của Lào. Cả hai phe mặc quân phục giống nhau, do Mỹ cung cấp. Để phân biệt bạn thù, quân đội Phoumi đeo băng tay trắng và binh sĩ Kong Lê đeo băng tay đỏ. Dân chúng thủ sẵn băng tay trắng và đỏ chờ dịp đeo tùy theo tình hình chiến trận.
Phoumi có đại bác 104 ly không giật do Mỹ cung cấp. Kong Lê có trọng pháo của Sô Viết và pháo thủ Bắc Việt điều khiển. Cả hai phe bắt đầu khai hỏa những cỗ súng lớn này. Cuộc pháo kích sát hại 600 dân sự và làm đổ nát hoàn toàn những khu phố thủ đô. Sự tàn phá chỉ làm chậm việc không thể tránh khỏi. Bị áp đảo quân số và nguy cơ bị tràn ngập, Kong Lê chôn mìn phá sập cư xá nhân viên Mỹ. Sau đó ông tập họp 1200 binh sĩ cùng với trọng pháo Sô Viết chạy lên hướng Bắc về phía Vang Vieng.

Phoumi hoàn toàn làm chủ tình thế. Giống như thường xảy ra ở Á Châu, Mỹ ủng hộ lầm người. Phoumi chỉ là một kẻ đầy tham vọng. Dù gia đình ông giàu nhất Savanakhet, ông vẫn không thuộc hoàng tộc và điều này ngăn trở con đường danh vọng của ông. Chỉ còn lại con đường quân đội. Phoumi được OSS (tiền thân CIA) huấn luyện và trở nên một chiến sĩ tự do trong tổ chức Lào Issara. Souphanouvong đã chiêu dụ ông gia nhập Pathet Lào nhưng Phoumi cho rằng ông là một quân nhân chuyên nghiệp, không muốn dây dưa chính trị, Souphanouvong giúp ông gặp gỡ Việt Minh. Phoumi được Việt Minh huấn luyện chiến tranh du kích 2 năm, chuẩn bị một cuộc đời chiến sĩ cách mạng. Nó là một động cơ nghề nghiệp chứ không phải ý thức hệ. Rồi thì năm 1949 Phoumi đứng trước một chọn lựa đầy định mạng. Chính phủ Lào Issara trở về Lào và những cựu chiến sĩ tự do được sát nhập vào quân đội quốc gia của Pháp. Là một kẻ cơ hội chủ nghĩa, điều quan tâm duy nhất của ông là theo phe thắng, nhưng lúc này khó mà biết giữa Việt Minh và Pháp, ai thắng ai bại. Nghe kể lại, Phoumi rút thăm bằng 2 cọng rơm, rút phải cọng dài, và về Vientaine thay vì sang Hà Nội.
Người Pháp cho ông làm chức hạ sĩ quan, thăng cấp trung úy năm 1950 và 4 năm sau lên thiếu tá. Khi người Mỹ thay thế, Phoumi mau chóng nắm chức tham mưu trưởng quân đội hoàng gia, một thăng tiến nhanh như sao xẹt nhờ vào liên hệ bà con. Bộ trưởng Quốc Phòng, Kou Voravong là bà con Phoumi. Sarit Thanarat, một tướng lãnh cao cấp nhất Thái Lan (và sau này cai trị Thái Lan) cũng có liên hệ huyết thống với Phoumi với chú trọng đặc biệt tới binh nghiệp của Phoumi.
Thành công trong binh nghiệp, Phoumi không để ý đến chính trị cho đến khi hoàng tử Boun Oum chọn ông làm tùy viên quân sự. Một hoàng tử dong dỏng cao, khắc khổ, thừa kế ngai vàng của vương quốc Champassak, nay không còn nữa. Ông là một mẫu người được ký giả Mỹ ưa chộng, mô tả ông là John Wayne của Lào. Cảnh quan chính trị lúc ấy là Boun Oum đang là ngôi sao sáng và Phoumi bám vào bâu áo của ông. Nhưng sự liên hệ sớm trở thành con chó vẫy đuôi. Phoumi học cách ra vẻ chống Cộng điên cuồng để lấy lòng người Mỹ và được trả công hậu hĩnh. Với sự ủng hộ của Mỹ và nhất là CIA, Phoumi không cần sự đỡ đầu của hoàng tử Boun Oum nữa. Tấn tuồng cuối cùng chấm dứt sự giám hộ của Boun Oum là bổ nhiệm vị hoàng tử làm thủ tướng, dùng Boun Oum như một con rối do mình điều khiển đàng sau và làm dụng cụ tuyên truyền cho chủ trương quân phiệt của ông.
Ngay sau cuộc đảo chánh, cố vấn Mỹ của Phoumi thỉnh cầu ông truy kích Kong Lê và tiêu diệt lực lượng ông ta, nhưng Phoumi từ chối. Ông muốn tận hưởng men chiến thắng với những lễ hội liên hoan. Ông cũng không muốn rời Vientaine trong tay viên sĩ quan đại biểu, đại tá Kouprasith Abhay. Abhay đóng vai trò chính trong cuộc đảo chánh, đóng góp lực lượng riêng của mình trước khi Phoumi đến. kẻ này là một đồng minh nhưng cũng đầy tham vọng. Sợ Abhay sẽ giải phóng thủ đô một lần nữa nếu mình vắng mặt, Phoumi muốn củng cố quyền lực trước khi rời Vientaine ra chiến tuyến.
Sự lần lữa khiến Cộng Sản có thời gian tiếp xúc Kong Lê và chiêu dụ ông vào hàng ngũ của họ, không phải với tư cách một đảng viên Cộng Sản nhưng như một đồng minh chống Phoumi vả phe nhóm khuynh hữu của hội đồng bảo vệ quyền lợi quốc gia (CDNI, Committee for the Defense of the National Interest.) Sô Viết bắt đầu không vận các tiếp liệu quân dụng cho lực lượng Kong Lê và Pathet Lào. Theo ước lượng của tình báo Mỹ, người Nga thực hiện 184 phi vụ tiếp tế. Một viên chức Sô Viết sau này tiết lộ rằng đó là chiến dịch tiếp vận quy mô nhất của Mát Cơ Va kể từ Đệ Nhị Thế Chiến. Người Nga chuyên chở vũ khí cũng như đặc công Bắc Việt. Trọn đại đội binh sĩ chính quy Bắc Việt hòa nhập vào lực lượng nhỏ bé của Kong Lê, bộ chỉ huy đặt tại mép Nam Cánh Đồng Chum.
Dù Phoumi được thụ huấn quân sự rất nhiều, gồm cả trường đại học chiến tranh cao đẳng của Pháp, ông ta không phải là một nhà chiến thuật khéo léo. Khi ông ta bắt đầu chuyển quân truy nã phe trung lập, ông thực hiện với nhịp độ nhàn nhã, di chuyển 65 dặm trong vòng 29 ngày. Tốc độ này một phần do Phoumi đổ thừa cho đoàn chiến xa do Mỹ viện trợ, dẫn đầu đoàn quân. Việc này buộc ông lệ thuộc vào tình trạng con đường vốn thích hợp với xe bò hơn xe tăng, tạo cơ hội cho Kong Lê có thì giờ chôn mìn chống chiến xa dọc con đường truy kích.
Cuộc tiến quân của Phoumi cũng chậm lại bởi lòng ngại chiến đấu của binh sĩ. Có nhiều tường trình không căn cứ về những sư đoàn Bắc Việt, gồm sư đoàn 316 từng tham chiến trận Điện Biên Phủ, tiến vào Lào. Việc chạm trán với vài thành phần Bắc Việt trong lực lượng Kong Lê là chuyện khác nhưng viễn ảnh đụng độ với các sư đoàn chính quy thiện chiến Việt Nam khiến binh sĩ và sĩ quan quân đội hoàng gia Lào chỉ muốn quay lại Vientaine cho an toàn.
Có nhiều vụ đào ngũ. Một đơn vị dẫn đầu bằng chiến xa di chuyển chậm chạp trên lộ 13, lọt ổ phục kích gần Hin Heup. Đội quân tăng tốc độ và thoát khỏi ổ phục kích với thiệt hại nhẹ. Tiến thêm 5 cây số, đội quân lại lọt vào ổ phục kích khác. Lần này địch quân nhắm kỹ hơn và thiệt hại nhiều hơn. Sau này vị chỉ huy đội quân tường thuật:”Viên sĩ quan tình báo của tôi quyết định rằng Vientaine có nhiều cái vui hơn sự hiểm nghèo dọc đường 13 và hắn ta biến mất.” Khi chiến trận gia tăng cường độ, sự biến mất trở nên truyền nhiễm, đặc biệt các đơn vị không có sĩ quan chỉ huy, những kẻ ở lại hậu phương, la cà trong các ổ điếm mỗi ngày. Sự việc có thể khác đi nếu có các vị chỉ huy tài giỏi, can trường, dù các cố vấn Mỹ trên chiến trường không ngăn được nhận xét “không thể cứu vãn được sự bất tài – và thường hèn nhát – của quân đội hoàng gia Lào.
Tâm trạng này không qua tai mắt báo chí. Cuối tháng Một năm 1961, một bài báo trong tạp chí Time mô tả trận đánh như một quân đội gồm 30000 binh sĩ được Mỹ yểm trợ bị một lực lượng gồm 300 người do một cựu đại úy quân đội hoàng gia chỉ huy, đánh đuổi. Phoumi không thể thắng trên chiến địa nhưng ông có thể cấm tạp chí Time lưu hành trên đất Lào.
Tù binh Mỹ đầu tiên.
Cường độ chiến tranh chậm lại vào tháng Hai, tạo cơ hội cho 2 bên củng cố lực lượng. Để biết rõ địch tình, Mỹ dùng máy bay trinh sát SC-47 cải tiến để chụp hình Cánh Đồng Chum. SC-47 sau gần một tháng quần đảo trên cánh đồng chụp hình bằng máy chụp K-17 hiện đại và dùng máy dò sóng tìm kiếm tín hiệu hướng dẫn máy bay vận tải Ilyushin-14 của Sô Viết, lên xuống phi trường Xiêng Khoảng. Triệt hạ đài phát sóng này là ưu tiên số một. Ilyushin chuyên chở từng kiện AK-47, xe tải quân sự Molotova, thiết giáp, và phòng không 37 ly tìm mục tiêu bằng ra đa, được các chuyên viên kỹ thuật Bắc Việt đi theo để sử dụng.
Hình ảnh từ những chuyến bay trinh sát cho thấy Cộng Sản không chỉ tăng cường sức mạnh của họ. Một lực lượng viên chức cũng xâm nhập vào Cánh Đồng Chum. Sô Viết đã cất một tòa đại sứ nhỏ ở Khang Khay. Người Trung Hoa có một trụ sở kinh tế và văn hóa ở Khang Khay cầm đầu bởi 1 sĩ quan Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân. Khiêm nhượng hơn, nhưng cũng rõ rệt, là một trạm thông tin nhỏ của Bắc Việt tọa lạc ở cuối khu thương mại ở Phong Savan, gần bịnh viện dã chiến mới của Bắc Việt.
Ngày 23 tháng Ba năm 1961, trinh sát cơ SC-47 lại bay trên cánh đồng dò tìm tín hiệu hướng dẫn không lưu Sô Viết. Khi máy bay bay qua Phong Savan, súng phòng không mới viện trợ khai hỏa bên dưới. Một viên đạn trúng vào cánh phải máy bay làm cháy bình xăng. Lửa cháy lan về phía thân máy bay. Phi hành đoàn đổ xô tìm trang bị nhẩy dù. Chỉ có đại tá Lawrence Bailey Jr. chui lọt qua cửa trước khi cánh máy bay đứt lìa và SC-47 chúi mũi xuống mặt đất.
Bailey không là một thành viên trong phi hành đoàn. Phận sự của ông trong chức vụ tùy viên quân sự là lái chiếc máy bay 2 động cơ Beechcraft, chở đại sứ Brown và các nhân viên đại sứ khác đi họp ở Thái Lan và Nam Việt Nam. Bailey quá giang chiếc SC-47 đi Sài Gòn khi chiếc Beechcraft của ông đang được tân trang máy mới. Chuyến bay được coi như nhàn rỗi, một lướt qua cánh đồng chụp vài tấm hình và dò xét tín hiệu rồi thẳng hướng Sài Gòn. Bailey là người duy nhất đeo dù vì chỉ có 1 dù lưng trên máy bay. Phi hành đoàn thích dù ngực hơn vì dễ mặc và ít vướng. Dù này chứa ở cánh. Xui xẻo là cánh SC-47 gẫy rời trước khi phi hành đoàn cần đến dù.
Khi Bailey nhẩy khỏi phi cơ, ông bị lọt vào trong những mảnh vụn máy bay trên không. Một mảnh máy bay va vào hông trái, làm ông gẫy tay. Không thể điều khiển dù, ông phó mặc cho luồng gió. Ông đặt chân lên một bãi cỏ, cạnh một con trâu. Con trâu hoảng chạy để lại mình ôngnằm ngửa trên cánh đồng. Chân ông sưng lên khiến ông không thể đứng được. Chỉ còn 1 tay lành lặn, ông dùng dây dù cột cánh tay gẫy vào ngực.
Một máy bay xuất hiện ở chân trời, bay theo đường bay tìm kiếm. Đó là chiếc DeHavilland L-20 Beaver phái đến tìm kiếm chiếc SC-47. Chiếc Beaver biến mất mà không thấy Bailey. Vài giờ sau, Bailey nghe tiếng binh sĩ nói chuyện. Khoảng hơn chục người xuất hiện trên đỉnh đồi. Họ thuộc lực lượng Trung Lập của Kong Lê, hầu hết là thiếu niên, sợ Bailey hơn là Bailey sợ chúng. Toán binh sĩ cẩn thận bao vây Bailey.
Sau khi đè nén được hoảng sợ bằng cách bắn thị uy, bọn lính lục soát, tịch thu bóp, dao, thuốc lá và giày. Bọn lính cười khoe nhau chiến lợi phẩm. Chúng đưa Bailey đến bịnh viện dã chiến Bắc Việt ở Phong Savan. Ở đó, Bailey được bó bột cánh tay gẫy và chăm sóc các vết thương khác.
Bailey nằm ở nhà thương một tuần. Khi ông mơ màng trên giường dưới ảnh hưởng thuốc giảm đau, một sĩ quan tình báo thẩm vấn ông về vị trí Đệ Thất Hạm Đội và những chuyện khác ông không biết. Bailey chơi trò sáng tác ra những lời khai, mỗi ngày lại khai khác nhau. Một phái viên Tin Hoa Xã đến phỏng vấn và giảng cho Bailey về chủ nghĩa Đế Quốc Mỹ.
Khi bác sĩ bịnh viện quyết định ông đã hồi phục đủ sức khỏe để di chuyển, Bailey được bay đến Sầm Nứa và nhốt trong một phòng giam canh gác cẩn mật với chế độ ăn uống chết đói. Suốt vài tuần, sĩ quan Pathet Lào đến thẩm vấn về tin tức chiến tranh. Sau đó các sĩ quan này biến mất để lại Bailey lẻ loi với lính gác mà ông đoán là những dân quê trong quân phục hơn là binh sĩ chuyên nghiệp. Bailey là tù binh Mỹ đầu tiên của Pathet Lào và họ không biết phải làm gì với tù binh. Suốt hơn 1 năm rưỡi sau đó ông bị giam trong gian phòng chật hẹp, canh gác cẩn mật nhưng hoàn toàn bị bỏ quên không ai đoái hoài.
Vụ SC-47 bị bắn hạ làm Hoa Thịnh Đốn mất đi khả năng duy trì một nguồn tin tình báo đều đặn về hoạt động địch, rất cần thiết cho những quyết định về chính sách đối phó. Hoa Thịnh Đốn mau chóng thay SC-47 bằng phi cơ phản lực RT-33, hiện đại hơn, ít nguy hiểm hơn. Những hình chụp từ RT-33 tiết lộ Cộng Sản tiếp tục dồn nhân lực, vật liệu cho một trận đánh lớn.
Cuộc tấn công mới của Cộng Sản.
Cuộc tấn công khởi động vào đầu tháng Tư năm 1961. Thành phần tham dự gồm binh sĩ Kong Lê và 7 tiểu đoàn Bắc Việt, Pathet Lào dễ dàng đè bẹp lực lượng Phoumi trong mỗi trận đánh. Phoumi tháo lui một cách hỗn loạn về phía thủ đô. Trong vòng 1 tháng, Cộng Sản chiếm hầu hết Cánh Đồng Chum và chuẩn bị làm đường dẫn đến 5 tỉnh Bắc Lào.
Sự thất thủ Cánh Đồng Chum là một lo ngại nghiêm trọng vì nó là 1 trong số ít ỏi khu vực Bắc Lào có thể sử dụng xe tăng Sô Viết. Nó còn là trục lộ giao thông chính trong hệ thống đường sá thô sơ của Lào, đặt địch quân trong tư thế kiểm soát tất cả giao thông đường bộ Bắc Lào và khai thông một nối kết với Bắc Việt ( Đường 6, 7 chạy từ biên giới Bắc Việt tới Cánh Đồng Chum). Có một nguy cơ khác nữa. Phía Tây cánh đồng, đường 7 nối với đường 13, dẫn đến Luang Prabang và Vientaine. Nếu Cộng Sản kiểm soát ngã tư này, họ có thể tổ chức tấn công thủ đô chính trị quốc gia hay chuyển sang hướng Bắc tiến chiếm đế đô của vương quốc.
Như thể đoán trước sự lo ngại của Mỹ, trong tuần lễ thứ hai của cuộc tấn công, Pathet Lào và Trung Lập Kong Lê chiếm Sala Phu Khun ở yếu điểm chiến lược nơi đường 7 và 13 giao nhau. Phoumi bị dồn vào chân tường. Cố vấn Mỹ cũng thế. Theo lịnh trực tiếp của tổng thống Kennedy, Phòng Thẩm Định Chương Trình Viện Trợ bỏ cái vỏ khoác dân sự, công khai đảm đương vai trò Cố Vấn Quân Sự Mỹ (MAAG, US Military Assistence Advisory Group). Biệt kích Mỹ cởi bỏ bộ đồ thể thao, mặc vào bộ quân phục và dẫn đầu binh sĩ hoàng gia Lào nhập trận.
Trong một cuộc hành quân không kỵ (dùng trực thăng câu xe tăng đến trận địa) trực thăng CIA vận chuyển cố vấn biệt kích Mỹ và 2 tiểu đoàn Lào đến Muong Kassy, Bắc Vientaine, truy cản địch quân, đã tiến qua Sala Phu Khun, tạo áp lực lên đường 13. Hai trung đoàn Lào được bố trí làm lực lượng hậu tập nhưng ngày theo ngày trôi qua, địch càng gần mà 2 trung đoàn chưa thấy tăm hơi đâu cả. Cô lập và thiếu quân số, sĩ quan biệt kích không còn cách nào hơn là ra lịnh rút lui.
Xa hơn về hướng Nam, cố vấn Mỹ dùng mọi cách thúc đẩy 2 trung đoàn Lào tiến đến địa điểm hậu tập theo kế hoạch. Đến ngày 22 tháng Tư, 2 trung đoàn chỉ vừa đến Vang Vieng. Ở đó 1 trung đoàn Pathet Lào có chiến xa yểm trợ xáp chiến với quân chính phủ và tràn ngập thị trấn. Cố vấn Mỹ cố gắng tổ chức cuộc triệt thoái chiến thuật nhưng binh sĩ Lào bỏ chạy tán loạn trong hoảng sợ, bỏ lại cố vấn Mỹ vối quân địch.
Đại úy Walter Moon và toán biệt kích trong xe thiết giáp dẫn đầu các trung đoàn khi Cộng Sản tung một đợt tấn công. Đạn pháo kích rơi vào đoàn quân. Có cả súng cá nhân bắn từ 2 bên đường. Moon nhìn cả trung đoàn chạy từ đường lộ vào rừng, bỏ lại toán cố vấn Mỹ. Ông quày xe tăng hướng Nam, chạy thẳng vào ổ phục kích. Đạn súng máy và lựu đạn sát hại 2 người trên xe và làm xe chết máy. Moon và trung sĩ Orville ballenger bỏ xe nhảy xuống hố. Lính Pathet Lào bao vây xung quanh. Trong vòng vài ngày, Moon và Ballenger ở Lat Hoang trên Cánh Đồng Chum, nhốt trong một trạm viện trợ nông nghiệp USAID (US Agency for International Development, cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ). Vì Moon nhiều lần âm mưu bỏ trốn, Cộng Sản xử tử ông. Ballenger trở thành tù binh chiến tranh.
Khi Pathet Lào bận rộn truy quét quân đội hoàng gia và bắt giữ tù binh Mỹ, Bắc Việt tấn công cứ điểm phòng ngự của quân hoàng gia gần Paksane, một thị trấn ven sông. Giống như ở vang Vieng, lính chính phủ bỏ chạy về phía mekong. Sự thảm bại nhục nhã lần thứ 2 này làm tiêu tan mọi kỳ vọng của Mỹ về khả năng ngăn chận Cộng Sản của quân đội hoàng gia Lào.
Hồi trước, tháng Chín năm 1959, Phòng Thẩm Định Viện Trợ bắt đầu huấn luyện, trang bị cho du kích Hmong. Phòng Thẩm Định Viện Trợ đã thiết lập một trung tâm huấn luyện gần Khang Khay trên Cánh Đồng Chum và cố vấn Mỹ làm việc với các đơn vị Hmong trên chiến trường. Vang Pao chỉ huy một trong những đơn vị này, một chức vụ mới sau khi mất chức tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 10 bộ binh. Đầu năm 1960, cố vấn Mỹ chọn Vang Pao làm chỉ huy các lực lượng bộ tộc Hmong. Để gia tăng uy tín của ông với Hmong, Phòng Thẩm Định Viện Trợ trực thăng vận thực phẩm, tiếp liệu cho Vang Pao dùng phân phối cho các cộng đồng Hmong.
Sự đầu tư của Phòng Thẩm Định Viện Trợ vẫn tương đối nhỏ so với tài nguyên khổng lồ cung ứng cho quân đội vô tích sự hoàng gia Lào. Tất cả viện trợ ấy cạn dần sau cuộc đảo chánh của Kong Lê. Mọi nỗ lực viện trợ dồn cho lực lượng Phoumi ở Savanakhet và nhu cầu hành quân tấn công nhóm Trung Lập ở Vientaine. Nó gây ấn tượng cho Vang Pao rằng người Mỹ là một nguồn yểm trợ khó tin cậy và nếu cần có một quân đội Hmong, ông phải tự mình xây dựng nó, không nhờ vào Mỹ.
Chương 9
Đại tá billy phát hiện Vang Pao.
Cuộc đảo chánh của Kong Lê đặt nhóm Trung Lập vào vị trí nắm chính quyền chỉ được 4 tháng. Trong thời kỳ ngắn ngủi này, Cộng sản thừa cơ chiếm Sầm Nứa và Xiêng Khoảng, một khu vực được phân chia thành quân khu II. 3 tiểu đoàn của Khong Vongnarath chỉ huy ở Sầm Nứa là mục tiêu của Pathet Lào. Khi cuộc tấn công bắt đầu, Vongarath lập tức lui quân về hướng nam để tránh bị tiêu diệt. Cộng quân đuổi kịp. Vongnarath ra lịnh đào công sự và chiến đấu. Khi cuộc chạm súng diễn ra, ông gọi Vientaine xin tiếp ứng. Bộ tư lịnh hoàng gia bây giờ nhận lịnh trực tiếp từ thủ tướng Souvanna Phouma, người hoàn toàn trông cậy vào viện trợ Sô Viết để tồn tại. Vongnarath nhận chỉ thị phải tự lo liệu lấy. Vây khổn bởi địch quân, cắt đứt tiếp viện và tổn thất nặng, ông đầu hàng.
Sâu hơn về hướng nam Cánh Đồng Chum, một sĩ quan hoàng gia khác theo dõi tình hình của Vongnarath trên máy vô tuyến. Đại tá Khambou Boussarath không cảnh giác quá mức khi được tin Vongnarath đầu hàng. Không giống Vongnarath, Boussarath ngả về phe Trung lập. Với Souvanna Phouma đề nghị hòa giải với Cộng sản, Boussarath nghĩ Pathet Lào và Bắc Việt coi ông như đồng minh hơn là kẻ địch. Boussarath bắt đầu suy xét lại ức đoán này khi hàng ngàn người tị nạn từ Sầm Nứa đổ về cánh Đồng Chum. Người tị nạn kể lại nỗ lực phối hợp của Cộng Sản nhằm thiết lập bộ máy hành chính kiểm soát Sầm Nứa.
Ngay khi người tị nạn đến, các đơn vị Bắc Việt xuất hiện trên cánh đồng, rõ ràng nhằm bao vây lực lượng Boussarath. Bousarath cầu viện Vang Pao huy động lực lượng Hmong. Vì Boussarath có lý do chủng tộc để khinh miệt Vang Pao, đây chỉ là phương sách phải dùng trong tuyệt vọng. Vang Pao án binh bất động không phải vì ác cảm giữa Boussarath và ông. Ông rất muốn ra tay dậy cho Cộng Sản một bài học về sự kiên cường chiến đấu của giống nòi ông. Hàng ngàn tay súng sẵn sàng dưới quyền ông chỉ chờ một lịnh truyền. Ông khoanh tay nhìn vì mọi sự chưa đến lúc. Con rồng Bắc Lào chưa cựa mình.
Kế hoạch tái lập lực lượng Malo của Vang Pao.
Khi Kong Lê chiếm chính quyền, vang pao đã quan sát Pathet Lào củng cố lực lượng ở Sầm Nứa với linh tính. Rõ ràng chúng lợi dụng rối ren chính trị để chiếm Cánh Đồng Chum. Nếu Phoumi án binh ở Nam Lào, không gì có thể ngăn cản chúng. Kế hoạch Vang Pao là tổ chức quân dội du kích Hmong ngăn chận Cộng Sản khi chúng xâm nhập cánh đồng, cắt đứt hậu cần và ghìm chúng tại đấy. Nhân lực có sẵn từ các làng mạc Hmong xung quanh. Đúng thời điểm, hàng ngàn dân làng sẽ được dời đến những vị trí chiến lược, tổ chức thành đơn vị du kích, cấp phát vũ khí, huấn luyện quân sự và bắt đầu nhập trận.
Ý tưởng đó không mới mẻ gì. 7 năm trước Vang Pao đã phục vụ trong đội du kích Malo của Pháp, do một cựu sĩ quan đặc vụ Pháp tên Max Mesnier tổ chức. Mesnier lập 6 trại ở những vị trí chiến lược quanh Cánh Đồng Chum: Một ở phía Tây Nong Het, một ở Đông Nam cánh đồng và 4 trại ở Phou Dou, Muong Hiem, Tha Lin Noi, Muong Ngan. Xuất phát hành quân từ những trại này, Mesnier và du kích Malo của ông dễ dàng kiểm soát nhất cử nhất động của Pathet Lào, Việt Minh và đẩy lùi địch về biên giới Việt Nam. Hồi tưởng lại sự thành công của Malo, Vang pao mượn ý tưởng Mesnier với chút ít thay đổi. Thay vào 6 trại, Vang Pao chọn 7, dù 5 trong số chỉ vài dặm gần với những trại cũ của Mesnier.
Không giống Mesnier, người có thể trông nhờ vào yểm trợ tiếp vận của GCMA (Groupement de Commandos Mixtes Aéroportés, Biệt kích dù), Vang Pao phải tự lo liệu. Yểm trợ của PEO (Phòng Thẩm Định Viện Trợ) hầu hết không còn và ông không thể kỳ vọng gì ở sự trợ giúp của quân đội hoàng gia. Tái lập lực lượng du kích Malo chỉ có thể thực hiện được nếu có sự ủng hộ của Hmong, đặc biệt những kẻ cư ngụ phía Đông cánh đồng, vì du kích được tuyển mộ từ họ, kẻ am hiểu địa hình địa vật và là nguồn cung cấp lương thực, an toàn khu, tiếp liệu và tình báo hoạt động địch. Vấn đề nan giải là lôi kéo họ vào kế hoạch vì Vang Pao thiếu uy tín, cũng như quyền lực bảo đảm sự trung thành của họ. Ông được Hmong khâm phục vì là một sĩ quan Hmong duy nhất trong quân đội Lào, nhưng đó là niềm tự hào củng tộc, thế thôi. Thực ra ông không được cảm tình sâu rộng của quần chúng, đặc biệt trong số những người có uy tín. Chiếm cảm tình những người này thật là khó.
Sau này khi thống lĩnh các lực lượng Hmong và với sự yểm trợ tận tình của CIA, phải mất một thời gian Vang Pao mới có thể đạt được sự kính trọng ngang với Touby ở đỉnh cao sự nghiệp chính trị của nhân vật này. Vinton Lawrence, một viên chức CIA làm việc với Vang Pao khi quân đội Vang Pao trong giai đoạn còn non yếu, lắm lúc ngạc nhiên vì sự coi thường Vang Pao của người dân Hmong. “Tuyệt đối không có sự tôn kính Vang Pao trong quần chúng Hmong. Họ có thể đến trước mặt Vang Pao, quát tháo vào mặt điều này điều nọ.” Rồi đến một ngày chỉ một số ít Hmong, tất cả là bạn cùng chí hướng, dám cả gan nhiếc mắng Vang Pao trước công chúng. Tuy nhiên ở thời sớm sủa này Vang Pao đau đớn biết rằng ông thiếu uy tín. Nhiều kẻ coi ông như kẻ mới gặp thời. Cũng vậy, thị tộc của ông có lắm lỗi lầm quá khứ. Nhưng quan trọng nhất, vì ông từ Nong Het và thuộc hạ của Touby, Hmong ở Cánh Đồng Chum không tin tưởng ông.
Sinh trong một gia đình nghèo nhưng Vang Pao được đỡ đầu bởi Chao Saykham (tỉnh trưởng tương lai Xiêng Khoảng), lo liệu cho đi học ở trường tư thục tiểu học Nong Het. Khi còn niên thiếu, Vang Pao thuyết phục Touby nhận ông làm thông dịch viên và giao liên cho biệt kích Pháp, một chức vụ giúp ông một địa vị trong lực lượng cảnh sát Lào do Pháp bảo hộ. Nơi đây, ông được các sĩ quan Pháp cất nhắc và gửi học khóa dự bị sĩ quan quân đội tại Dong Hene. Luôn luôn Vang Pao thăng tiến nhưng không bao giờ ông thỏa mãn. Tham vọng vủa ông gây nhiều phê phán trong lịch sử.
Khi Vang Pao vi phạm phong tục bằng cách chôn xác phụ thân bên vệ đường lộ (theo lời khuyên của một pháp sư), một bô lão họ Ly coi đó như là hành động cố ý kiêu ngạo; một ngôi mộ tầm thường không đủ xứng với cha của kẻ ngạo mạn Vang Pao. Trước mộ, ông lão họ Ly mắng chửi:”Vang Pao là thằng ngu nếu nó nghĩ nó sẽ là một lãnh tụ vĩ đại.” Lời cằn nhằn này dẫn đến một hài kịch nhầm lẫn. Bà dì của Vang Pao bị bịnh lãng tai, kể lại rằng cụ trưởng tộc họ Ly tiên tri rằng vang Pao sẽ trở thành một lãnh tụ vĩ đại. Khi kiến làm tổ trên mộ và làm thành một tổ kiến khổng lồ cao đến 14 bộ (feet), vang pao coi đó là điềm ông lão họ Ly chính là vị tiên tri. Nhiều năm sau khi Vang Pao nắm quyền tư lịnh quân khu II, thống lĩnh các lực lượng Hmong và họ Ly sa sút, Vang Pao cấp dưỡng hưu bổng cho vị trưởng tộc họ Ly sống sung sướng với thuốc phiện đầy đủ. Chỉ đến khi sắp chết, ông lão mới tiết lộ sự thật với Vang Pao, người coi câu chuyện là một hài kịch và không oán giận.
Thêm vào tham vọng, Vang Pao cũng tai tiếng vì mang họ Vang. Triệt để ngoại hôn theo phong tục, Hmong chỉ lấy người khác họ. Bất cứ một sự vi phạm nào, ngay cả giữa bà con xa được coi như loạn luân và bị khai trừ khỏi dòng họ và xã hội Hmong. Trong mọi thị tộc, chỉ dòng họ Vang là phạm điều cấm kỵ này. Những kẻ phạm tội chính thuộc thị tộc Vang ở Sam Thong và Long Cheng, kẻ dễ chấp nhận tội loạn luân gây tai tiếng các thị tộc khác và nhơ nhuốc lây cho tất cả họ Vang.
Rồi thì sinh quán Vang Pao ở Nong Het. Hmong ở Phong Savan, Nong Pet, Pha Kha, và những làng Hmong khác trên Cánh Đồng Chum gọi Hmong ở Nong Het là “Pla Law”, nghĩa là bọn tham lam, vì họ hay quịt nợ. Sống gần biên giới Việt Nam, đôi khi họ trốn sang Việt Nam để trốn nợ. Hmong ở Nong Het không thể tín nhiệm.
Nhưng điều nhơ nhuốc nhất với Vang Pao, ít nhất đối với dân Hmong trên Cánh Đồng Chum là sự liên hệ với LyFoung Touby. Cuối thập niên 1940, Touby chỉ định Ly Pa Ngcha thu thuế khu vực Đông cánh đồng. Trong vòng 1 thập niên, Pa Ngcha gieo thù oán với toàn thể Hmong trong khu vực khiến người dân thù hận lây sang cả Touby, mối thù hận theo truyền thống chỉ dành cho bọn quan chức bạo ngược người Lào. Touby dùng Pa ngcha, một quý tộc họ Ly để lấy lòng giới quý tộc họ Ly. Touby giàu có và uy quyền nhưng ông thuộc giới bình dân. Ông Touby đến Lào trong vai trò đầy tớ một thương gia Trung Hoa, một nghề nghiệp hèn kém nhất đối với Hmong.Các tộc trưởng họ Ly không dính dáng đến nghề ấy. Cha Touby, Ly Foung, phấn đấu suốt một đời để nâng địa vị xã hội của gia đình, dồn hết hy vọng vào Touby. Ngay cả khi Touby đạt được đỉnh cao danh vọng, giới quý tộc họ Ly vẫn coi gia đình ông là người ngoại tộc.
Với tư cách cá nhân, Touby không thèm để ý việc dòng họ Ly có trọng mình hay không. Ông ta không quan tâm đến gia phả. Điều ông kính phục đó là tài năng chính trị và sự khôn ngoan, đó chính là lý do ông ít khi tham dự lễ hội tất niên của thị tộc. Không những nhàm chán, Touby còn thấy ghê tởm cảnh tượng bọn bần dân nịnh bợ bọn quý tộc. Mỗi dịp năm mới, ông luôn ở Vientaine tham dự cuộc họp mặt các trí thức Pháp, Lào nơi luôn có những bàn thảo sôi nổi về chính trị.
Nhưng là một chính khách, Touby không thể làm ngơ rằng thành kiến xã hội của quý tộc có sự phân nhánh chính trị. Hỏng việc vì phải nhận lịnh từ tầng lớp thấp kém hơn, các trưởng tộc Ly thỉnh thoảng bất phục tùng sự lãnh đạo của ông., gây ra những làn sóng chống đối trong hệ thống phẩm trật xã hội họ Ly. Để tôn trọng truyền thống và cũng tạo ơn huệ làm đòn bẩy chính trị, Touby bắt đầu dùng một số nhà quý tộc họ Ly, gồm cả Ly Pa Ngcha, vào trong bộ máy hành chính của mình.
Trong tất cả thuộc hạ, Ly Pa Ngcha là kẻ tệ nhất. Trong mỗi kỳ thu thuế, Pa Ngcha bắt mỗi làng phải mổ lợn, gà khoản đãi. Ông ta làm nhục phụ nữ vô tội vạ và thu dụng gia súc dùng vào việc tổ chức lễ hội Tết ở Nong Het. Theo thông lệ, viên chức thu thuế phải tự lo liệu vấn đề phu khuân vác để thu thuế bằng những nén bạc hay thuớc phiện lên sở thuế quận hạt. Pa Ngcha trái lại, buộc dân làng làm công tác này, rời gia đình hàng nhiều tuần mà không trả lương. Pa Ngcha còn yêu sách những chuyện vô lý, chẳng hạn con đường ông đi phải sạch sẽ, không rác rưởi. Nếu vi phạm, ông phạt vạ hoặc đánh đập.
Bổ nhiệm Pa Ngcha không chỉ là sai lầm chính trị độc nhất của Touby. Sau 1957, khi làm đại biểu quốc hội, Touby bỏ rơi mọi lên hệ địa phương, làm ngơ cho tham nhũng, bóc lột cấu kết với Pa Ngcha lan tràn khắp quận của ông. Viên chức Hmong bắt đầu đánh thuế bất hợp pháp, chiếm đoạt tài sản, ngược đãi dân làng tùy ý. Sự nhũng lạm xoi mòn uy tín, quyền lực chính trị Touby tuy vẫn độc tôn trong khu vực Xiêng Khoảng và Nong Het.
Thiết tưởng không đáng kính trọng vì ở Nong Het, bại hoại luân thường vì họ Vang và phản trắc liên hệ với Touby, Vang Pao ít hy vọng thuyết phục Hmong trên Cánh Đồng Chum hưởng ứng cuộc chiến tranh du kích do ông tổ chức. Phải có những người uy tín làm công việc đó cho ông. Vang Pao nhờ Yang Youa Tong.
Chúng ta đã đọc về Youa Tong lúc ông còn là trung gian thu mua thuốc phiện cho chính quyền Pháp và trở nên giàu nhất Hmong ở Lào, sống trong nhà Tây và là người Hmong đầu tiên có xe hơi. Bây giờ gần 2 thập niên trôi qua, Youa Tong không giàu như xưa nữa. Năm 1950, một người Pháp chuyên buôn bán thuốc phiện với Youa Tong, mang thuốc phiện sang Sài Gòn và không bao giờ trở lại. Ba năm sau, dùng một thiếu phụ Việt Nam làm trung gian với Sài Gòn, Youa Tong định gỡ vốn bằng cách dốc hết vốn liếng dành dụm, hàng ngàn Mỹ kim bằng nén bạc, mướn 15 người phụ tá thu mua hết tất cả thuốc phiện vốn liếng cho phép. Giống như gã người Pháp, người đàn bà Việt Nam này cũng ẵm tất cả thuồc phiện trốn mất. Youa Tong bỏ nghề và trở thành một thương gia thường cho đến khi LyFoung Touby bổ nhiệm ông làm hạt trưởng Hmong (nai kong) trên Cánh Đồng Chum.
Vang Pao và Youa Tong là bà con và thân phụ 2 ông là bạn thân với nhau – Sự mật thiết này khiến Youa Tong nhận lời làm phát ngôn viên cho Vang Pao. Ông ta là một sứ giả lý tưởng. Từng mua thuớc phiện khắp mọi làng trong khu vực và nức tiếng công bằng, không chỉ trong lãnh vực thuốc phiện mà ngay cả lãnh vực hạt trưởng hành chính. Đối với Youa Tong, nó giống như trở lại nghề thu mua thuốc phiện ngày xưa, lặn lội rừng sâu núi thẳm đến từng bản làng, gặp lại bạn cũ, trao đổi chuyện mới lạ. Nhưng thay vì mua thuốc phiện, ông quảng bá kế hoạch: Theo hiệu lịnh Vang Pao, gần 70000 Hmong từ 200 làng sẽ thu dọn di chuyển đến gần những trại du kích Malo cũ; những địa điểm này sẽ trở thành trung tâm yểm trợ, huấn luyện chiến tranh du kích để khu trừ Cộng Sản, ngăn chận hậu cần và cắt đứt liên lạc địch.
Thêm vào Hmong trên cánh đồng, Vang Pao còn có nguồn yểm trợ phía mép Nam Cánh đồng, hầu hết mới di cư từ Nong Het, Pak Lak, Keng Khoai, và Phac Boun. Đợt di cư này xảy ra sau cuộc đảo chánh của Kong Lê, khi Pathet Lào bắt đầu tập trung lực lượng ở biên giới Việt Nam, cách Nong Het chỉ một ngày hành quân. Sợ rằng Cộng Sản vượt biên sang cướp bóc các làng, Hmong ùn ùn bỏ chạy về phía Đông Nam cánh đồng, dựng lều ở một trạm cứu trợ USAID ở Lat Houang, nơi sẵn thực phẩm và vật liệu cứu trợ. Nhiều di dân thuộc thị tộc Thao và tộc trưởng là Thao Sao Chia. Một nhà chính trị lỗi lạc, Sao Chia mau chóng thiết lập quyền lãnh đạo tất cả Hmong ở mép Nam Cánh Đồng Chum. Đó là điều may mắn cho Vang Pao. Là bạn cố tri và bà con thân thích (vợ hai của Vang Pao họ Thao), Sao Chia cam kết yểm trợ tận tình quân đội du kích Vang Pao, dù chỉ là quân đội trong dự kiến.
Thu phục Touby.
Khi Cộng Sản tràn ngập cánh Đồng Chum và bao vây những tiểu đoàn của Boussarath, thời điểm hành động đã đến. 70000 Hmong đã sẵn sàng nhờ vào uy tính chính trị của Yang Youa Tobng và Thao sao Chia. Nhưng Vang pao do dự. Ông muốn Touby nhập cuộc. Không may, Touby công khai đồng minh với Souvanna Phouma và phe Trung Lập, nắm 2 chức vụ trong nội các Souvanna là bộ trưởng Tư Pháp và bộ Y Tế Xã Hội. Trong khi Vientaine tìm mọi cách hòa giải với Pathet lào, Touby khó ủng hộ phong trào du kích chiến đấu chống Cộng. Giải pháp duy nhất là tìm cách khiến Touby từ bỏ phe Trung Lập. Như phép lạ, trong vòng vài tuần, Touby chia tay với Souvanna Phouma và bỏ 2 chức bộ trưởng. Hiếm thấy một người từ bỏ danh vọng vì quyền lợi sắc tộc như ông.
Nhiều năm sau khi nhớ lại, Vang Pao cắt nghĩa cuộc vận động thu phục Touby. Theo Vang Pao, áp lực chính trị thủ đô làm Touby quên bẵng dân tộc ông ở Xiêng Khoảng và những chuyện xảy ra trên Cánh Đồng Chum. Vang Pao dùng bùa phép triệu hồn Touby về Xiêng Khoảng để mục kích tận mắt những gì xảy đến cho đồng bào ông.:”Touby ở Vientaine và chúng ta không có cách gì liên lạc với thủ đô. Chúng tôi nhờ pháp sư Ya Shao ở Khang Kho triệu hồn tổ tiên về làm Touby bỏ tất cả đi theo lý tưởng của chúng tôi. Chúng tôi tế lễ dâng tổ tiên bằng một con bò đực trắng, một con đen.”
Vang Pao cũng mê tín dị đoan như mọi Hmong khác nhưng ông cũng biết vận dụng mê tín vào mục đích chính trị dễ dàng như một giáo chủ thời Phục Hưng. Lễ gọi hồn là một mưu kế. Ông không cần Shao Ya gởi thông điệp thiêng liêng đến Touby. Một phi công quân lực hoàng gia Lào lái trực thăng mỗi ngày từ Vientaine đến Xiêng Khoảng phân phối và thu nhận thông báo. Nhiều tuần trước khi Touby trở về Xiêng Khoảng, đã có rất nhiều thư từ trao đổi giữa Vang Pao và Touby. Vang pao tường thuật hoạt động Cộng Sản trong vùng và Touby tiết lộ sự ngày càng rạn vỡ của chính thể Souvanna Phouma.

Viễn ảnh Cộng Sản chiếm Xiêng Khoảng cuối cùng thuyết phục Touby về sự điên rồ của chủ trương Trung Lập và sự cần thiết tổ chức một lực lượng du kích Hmong. Có lẽ chính lúc này, Vang Pao tiết lộ rằng Youa Tong và Sao Chia đã chuẩn bị sẵn sàng và chỉ cần một hiệu lịnh là khởi sự. Điều Vang Pao mong mỏi ở Touby là cam kết trung thành với ông để yểm trợ kế hoạch. Touby không hoàn toàn tin rằng ông có thể thuyết phục các đồng chí trung kiên của ông ủng hộ một chiến tranh du kích. Đã bỏ bẫng chính trị địa phương nhiều năm, ông sợ uy tín của ông đã suy suyển. Mọi việc phải phối hợp khéo léo để thành công. Kế hoạch của Touby là khuyên Vang Pao tổ chức đại hội các trưởng làng và quý tộc ở thành phố Xiêng Khoảng để thỉnh cầu dân ý và chọn một đường lối nhất trí hành động. Rồi Vang Pao sẽ đến diễn thuyết trước công chúng thuyết phục họ về sự cần thiết phải võ trang tự vệ.
Sự đóng góp của Vang Pao cho kế hoạch là dùng Yang Ya Shao để “được phép” động viên. Nếu vong hồn tổ tiên đưa Touby đến Xiêng Khoảng để kêu gọi Hmong chiến đấu, ai dám cãi lại thiên mệnh? Theo đức tin Hmong, cố tình chọc giận thần linh sẽ mang lại xui xẻo, côn trùng và dịch bịnh.
Vang Pao đón Touby ở phi trường thành phố Xiêng Khoảng với một lễ tế 2 con bò đực, 1 trắng 1 đen mà pháp sư Ya Shao đã hứa với tổ tiên. Với sư hài lòng và đồng ý của thần linh, Touby và Vang Pao đến đại hội gặp gỡ các trưởng tộc. Cuối cuộc họp, một sự ủng hộ hầu như nhất trí cho vang Pao chiêu tập quân đội du kích và cam kết từ các trưởng làng về yểm trợ tình báo, lương thực, tiếp liệu và tân binh.
Kham Sai, tỉnh trưởng Xiêng Khoảng cũng tham dự đại hội. (Trong xã hội kỳ thị chủng tộc ở Lào, cấp tỉnh trưởng trở lên đều người Lào.) Ông mê say kế hoạch của Vang Pao, coi đó như con đường tiến thân về chính trị của riêng mình. Với tình hình chính trị quốc gia rối ren hiện tại, và các phe nhóm tìm cách liên minh với nhau đầy mánh khóe trục lợi, Kham Sai tin rằng thời cơ tranh đấu cho nền tự trị ở Xiêng Khoảng đã điểm. Với tư cách cá nhân, ông khuyến khích Touby liên minh với Phoumi dùng lực lượng Hmong làm hậu thuẫn cho một Xiêng Khoảng độc lập chính trị trong tương lai.
Touby cũng liên minh với Phoumi, nhưng không rõ có thỏa thuận gì về việc tự trị ở Xiêng Khoảng hay không, dù Hmong tin rằng một thỏa thuận đã được ký kết và đó là bước đầu cho một quốc gia Hmong tự trị, ước mơ ngàn đời mà hạt giống Pa Chay đã gieo trên cánh đồng máu. Tin đồn đó cả Vang Pao lẫn Touby không muốn cải chính. Điều được biết rõ rệt là Touby yêu cầu Vang Pao gởi một thông tư cho Phoumi, tuyên bố ý định thành lập lực lượng du kích Hmong, dự kiến lớn hơn, hùng mạnh hơn tổ chức Malo-Servan trước đây.
Phoumi nhận tin với cảm giác lẫn lộn. Chống Cộng thì tốt thôi nhưng một quân đội Hmong độc lập khó có thể kiểm soát. Phoumi nhận xét Hmong là dân tộc sơ khai và khó tin cậy. Ông ta muốn Vang Pao chỉ huy lực lượng quân đội hoàng gia Lào trên cánh đồng. Sau một trao đổi thông điệp, Phoumi bằng lòng một thỏa thuận. Ông cho phép Vang Pao tuyển mộ tình nguyện quân nhưng cũng ra lịnh vang Pao chỉ huy trại binh hoàng gia gần Lat Houang trên mép Đông Nam Cánh Đồng Chum.
Vang Pao đến Lat Houang với 350 Hmong. Binh sĩ của ông võ trang sơ saì. Vang Pao chỉ có thể tìm được 34 khẩu súng cũ cho binh sĩ của mình, một số là súng săn cổ của Pháp. Binh sĩ lào ở lat Houang không phản đối sự chỉ huy của Vang Pao. Tuy nhiên, vì cẩn thận, Vang Pao mở những thùng súng mới của trại phân phát cho binh sĩ Hmong.
Binh sĩ ở Lat Houang không được trả lương hàng nhiều tháng. Để lấy lại lòng trung thành của họ, Vang Pao bay đến bộ tư lịnh của Phoumi ở Savanakhet để đòi tiền cho họ. Trước khi Phoumi trao 200000 kip (tiền CIA), ông đề nghị Vang Pao nắm chức tư lịnh quân khu II gồm Xiêng Khoảng và Sầm Nứa. Một sĩ quan cấp đại tá hay cao hơn tương xứng với chức tư lịnh quân khu. Vang Pao chỉ là thiếu tá. Phoumi minh định rằng Vang pao nắm chức vụ nhưng không được thăng cấp.
Chương 9 (tt)
đại tá billy phát hiện vang pao.
Cuộc đời binh nghiệp của Vang Pao.
Vang Pao thăng cấp liên tục khi Pháp nắm chính quyền, lên đến chức đại úy trong vòng vài năm. Các chỉ huy Pháp lưu tâm đặc biệt đến ông, mặc những phản đối của các sĩ quan Lào, cho rằng dân tộc hạ đẳng Hmong không thích hợp với chức vụ sĩ quan quân đội. Vang Pao được huấn luyện cao đẳng sĩ quan và thăng cấp mau chóng, đôi khi sĩ quan Pháp trả lời giùm những bài thi viết bằng tiếng Pháp để đảm bảo lỗi chính tả không cản trở con đường binh nghiệp của ông. Nhưng sau khi Pháp về nước, 4 năm trôi qua khi quân đội hoàng gia đang xây dựng và cải tổ, thay thế sĩ quan Pháp bằng sĩ quan Lào. Một sớm một chiều, những sĩ quan trung cấp Lào trở thành tướng lãnh. Những trung úy quèn bỗng nhiên thành đại tá. Trung sĩ thành trung úy và đại úy. Trong lúc đó, Vang Pao vẫn nguyên chức đại úy.
Thành kiến sắc tộc một phần là nguyên do. Với sắc tộc Lào nắm quân đội, ít binh sĩ người thiểu số được thăng cấp cao. Đây là một thực trạng của người Khmu và Hmong, ô nhục trong văn hóa Lào như dòng giống man rợ. Đã lên cấp đại úy, Kong Lê là một ngoại lệ trong hàng ngàn người Khmu trong quân đội. Khi Vang Pao lên chức thiếu tá, ông có vẻ không thể được thăng cấp cao hơn nữa – vì một lý do khác hơn là thành kiến chủng tộc.
Vang Pao đã bị kỷ luật cuối năm 1959 vì biển thủ tiền lương binh sĩ Hmong thành lập hồi đầu năm như lực lượng dân quân tự vệ do ông chỉ huy. Đơn vị này là một phần của Phòng Thẩm Định Viện Trợ (PEO) dành cho người thiểu số. Biệt kích Mỹ huấn luyện binh sĩ Hmong sử dụng vô tuyến và vũ khí hiện đại. Những phần tử của đơn vị được trả lương hàng tháng, nhưng Vang Pao giữ vài tháng lương của họ. Một binh sĩ gặp Vang Pao chất vấn lương bổng bị ông bắn vào chân.
Sự kiện này là việc đầu tiên trong bản liệt kê dài về cung cánh đối xử tàn bạo của Vang Pao làm hoen ố cuộc đời binh nghiệp của ông. Nếu không, ông có một sự nghiệp quân sự sáng chói không thua những danh tướng trong lịch sử thế giới. Sau này khi chỉ huy quân đội Hmong của mình, ông xử bắn một số sĩ quan ngay tại chỗ. Ông bắn 1 người giữa trán về tội bán gạo CIA cho Pathet Lào và bắn vào ngực một sĩ quan khác can tội ăn cắp tiền lương binh sĩ không có phép của ông. Vang Pao đối xử với tù binh cũng tàn nhẫn không kém. Ông bỏ họ trong thùng phi 55 gallons chôn dưới đất, một kiểu tra tấn tâm lý các tù binh Bắc Việt và Pathet Lào, buộc khai báo thông tin về đơn vị của họ. Vang Pao gửi những tù binh khác đến trung tâm thẩm vấn của ông ở Pha Khao, nơi họ bị tra tấn tàn nhẫn trước khi bị xử bắn. Năm 1965, khi một nhân viên CIA “đòi hỏi” Vang Pao cho phép chuyên viên thẩm vấn Mỹ lấy cung tù binh, Vang Pao mang tù ra, bắn tại chỗ trước mặt người Mỹ. CIA hiểu và thay đổi thái độ. “Thưa trung tướng, ý tôi muốn nói là tôi thành thật biết ơn nếu ông cho phép chúng tôi thẩm vấn tù binh.”
Nhưng năm 1959 Vang Pao chưa tiến xa hơn đến mức làm mọi việc mà không bị khép tội. Lúc ấy, Boussarath chỉ huy quân đội tỉnh. Ông lỗ mãng ra lịnh Vang Pao trả tiền lương cho binh sĩ Hmong mà Vang Pao cố tình giữ vài tháng. Sự khiển trách công khai trước hàng quân khiến Vang Pao đem lòng căm giận. vài ngày sau, 30 binh sĩ của Vang Pao phục kích Boussarath khi ông đến Lat Houang bằng xe jeep. Boussarath tống ga thoát chạy khi nghe tiếng súng đầu tiên. Đạn bắn đuổi theo ghim lỗ chỗ vào xe. May mắn, ông đến Lat Houang bình an vô sự.
Boussarath liên lạc vô tuyến với Vientaine báo cáo âm mưu ám sát. Tướng Ouane Rattikone, tổng tham mưu trưởng quân đội, bay đến Xiêng Khoảng sáng hôm sau để gặp Vang Pao. Theo một tường thuật, sau khi đọc cáo trạng, Vang pao phủ phục trước vị tướng, khóc lóc thảm thiết, xin thứ tội. May cho Vang Pao, ông không bị cách chức. Có lẽ một phần vì hình ảnh thống hối hèn hạ, nhưng có lẽ nhờ vào sự can thiệp của biệt kích Mỹ đang chịu trách nhiệm huấn luyện du kích Hmong. Dù thế nào, sự cố làm hoen ố danh tiếng Vang Pao với tư lịnh tối cao quân đội hoàng gia. Cảm giác chung là cuộc đời binh nghiệp của vang Pao đã chấm dứt.
Vang Pao không chấp nhận phán quyết này. Ông từ chối chức tư lịnh quân khu II mà không thăng cấp do Phoumi đề nghị. Sĩ quan hoàng gia tài năng rất hiếm. Ông tin rằng nếu ông từ chối, ông sẽ được thăng cấp. Vang Pao nhận 200000 kip tiền lương binh sĩ, trở lại lat Houang để xem có thể biến đổi binh sĩ Lào dưới quyền thành một đơn vị chiến đấu hiệu quả và thử họ trên chiến trường. Cơ hội không bao giờ đến.
Vang Pao ở Nam Chat.
Vang Pao đã theo dõi tình hình chuyển quân của Kong Lê trên Cánh Đồng Chum và được biết ý định của Kong Lê là tấn công doanh trại quân đội hoàng gia ở Nam Chat. Vang Pao chuyển tin tức tình báo này lên Vientaine và được lịnh chỉ huy doanh trại ấy chống cự với phe Trung Lập. Vang Pao không trả lời cho đến khi được thăng cấp mà ông cho là ông xứng đáng.
Dù cơ hội thử thách binh sĩ ở Lat Houang không còn nữa, trung tá Vang Pao bây giờ đối đầu với một thử thách lớn lao hơn: Biến binh sĩ chưa từng chiến đấu ở Nam Chat trong tư thế sẵn sàng ứng chiến với cuộc tấn công sắp đến. Dưới cặp mắt kinh hoàng, ông thấy doanh trại hỗn loạn hoàn toàn. Đại tá Don Sasorith Sourith, tư lịnh quân khu II có mặt trong trại và đang trong trạng thái bấn loạn. Ông ta vừa được tin 3 tiểu đoàn Bắc Việt vừa phối hợp với lực lượng Kong Lê. Sourith cho rằng Nam Chat sẽ thất thủ và sẵn sàng tháo chạy. Tinh thần chủ bại của ông lan truyền khắp trại. Binh sĩ Lào sẵn sàng bỏ chạy với trái pháo đầu tiên rót vào căn cứ.
Có 2 khẩu đại bác 105 ly trong trại. Vang Pao ra lịnh cho sĩ quan pháo binh dời 2 khẩu súng vào vị trí gần phi trường chuẩn bị phản pháo. Viên sĩ quan đột nhiên quên hết những năm huấn luyện và trả lời ông ta không biết sử dụng trọng pháo 105 ly. Vang Pao chửi viên sĩ quan hèn nhát và tự mình chuyển đại bác vào vị trí tác chiến.
Căn cứ cần thêm thời gian để tổ chức phòng thủ. Vang Pao chất 6 thùng chất nổ lên một trực thăng cứu thương và ra lịnh cho phi công bay về Lat Ngone, một làng cách trại 6 dặm. Chiến xa Kong Lê phải sử dụng cây cầu của làng để qua sông. Nếu phá cầu, đoàn cơ giới sẽ bị trì hoãn nhiều giờ. Viên phi công trực thăng giúp 1 tay xuống những thùng chất nổ. Xong xuôi, viên phi công đứng chờ Vang Pao mang chất nổ xuống cầu, gắn ngòi nổ, đốt ngòi và chạy. Thành phần dẫn đầu của Kong Lê vừa xuất hiện khi cây cầu bắn tung lên không trung.
Khi Vang Pao trở lại Nam Chat, ông thấy đại tá Sourith và hầu hết binh sĩ đã trốn mất. vang Pao tìm được 5 tình nguyện quân giúp ông đặt 2 cỗ đại bác lên 2 xe Dodge và 200 trái đạn, chở lên ngã tư đường 7 và đường 4. Ở đây, Vang Pao chờ quân Kong Lê. Có tiếng động cơ rầm rì từ xa trong đám bụi mù. Vang Pao khai hỏa về phía đoàn quân đang tiến. Ông giữ các khẩu đại bác bắn liên tục, kéo dài 200 viên đạn trong vòng 4 tiếng đồng hồ.
Hết đạn, ông trở lại Nam Chat, lúc này không một bóng người. Mỉa mai cho Vang Pao là ngày ông thăng cấp trung tá, ông không có người lính nào để chỉ huy hết. Ông ăn mừng cấp bậc mới bằng cách một mình khiêng mìn và một mình bắn đại bác. Không có lính để chỉ huy, ông đành theo đoàn binh sĩ hoàng gia, viên chức chính phủ và cả tỉnh trưởng Kham Sai rút lui dọc theo đường 4, một con đường đất gập ghềnh thiếu tu bổ.
Đại tá Sourith đã lấy lại phong độ sau khi bỏ binh sĩ ở Nam Chat chỉ huy cuộc triệt thoái.. Khi đoàn quân đến làng Tha Vieng, ông tập họp tàn quân độ 2 tiểu đoàn lập một tuyến phòng thủ rồi dẫn tất cả số còn lại, đa số dân sự, chạy về hướng Nam, lập thêm tuyến phòng thủ thứ hai ở Tha Thom, cách Tha Vieng 15 dặm.
Thành lập quân đội riêng.
Vang Pao là 1 trong các sĩ quan ở lại tuyến phòng thủ Tha Vieng. Để củng cố vị trí, ông tung thám báo đến những làng Hmong lân cận chiêu mộ tình nguyện quân.Ông có ngay 1000 người và gia đình của họ tụ họp và sẵn sàng chiến đấu. Bây giờ ông đã bắt liên lạc vô tuyến với tướng Phoumi, hứa sẽ tử thủ phòng tuyến và yêu cầu một ân huệ. Gia đ2nh vang Pao ở Tha Vieng. Ông muốn di tản gia đình lên Vientaine bằng máy bay.Phoumi tiếp xúc CIA tìm phương tiện. Hôm sau, một trực thăngcủa hàng không Air Rmerica đến đón các vợ và con Vang Pao đi Vientaine.
Dù tình nguyện quân Vang Paochính thức là lực lượng phụ thuộc của phòng tuyến Tha Vieng của Sourith, Vang Pao bắt đầu nẩy ý tưởng dùng họ như nòng cốt của quân đội Hmong tương lai. Ông chỉ phải nhắn Touby, Yang Youa Tong, Thao Sao Chia để khởi sự. Nếu ông đánh Cộng Sản theo cách của ông với những chiến sĩ du kích Hmong kiên cường, ông có thể đánh bại chúng. Nó cũng có lẽ là cơ hội duy nhất có thể làm lu mờ Phoumi và những tướng lãnh Lào đánh giặc sau bàn giấy.
Nhiều năm, thực tế phũ phàng làm giao động lương tâm Vang Pao, một khó chịu trong đầu khó có thể quên. Đó là cơ hội duy nhất ghi đậm dấu trong quân sử bằng cách lãnh đạo Hmong trên chiến trường. Nó gây hứng khởi cho ý tưởng tái lập lực lượng du kích Malo. Dù thế, Vang Pao không thể bỏ rơi nguyện vọng để đạt thành tích xuất sắc chỉ huy binh sĩ Lào trong quân đội chính quy. Nó là một tham vọng dai dẳng hướng dẫn ông, đi ngược với lý trí, nhận lời Phoumi chỉ huy binh sĩ Lào, đầu tiên ở Lat Houang, sau đó ở Nam Chat. Cũng dễ cắt nghĩa quyết định này. Binh sĩ Lào có thể chiến đấu tốt nếu có chỉ huy giỏi. Họ từng chiến đấu tốt dưới sự chỉ huy của Pháp ngày xưa và trong vài trường hợp đơn lẻ, dưới sự chỉ huy của một số sĩ quan Lào tài giỏi. Trong thâm tâm, ông còn biết binh sĩ Lào không chấp nhận dưới quyền chỉ huy một sĩ quan Hmong như ông, dù là sĩ quan giỏi.
Trước khi gia nhập quân đội, Vang Pao đã phục vụ 4 năm trong ngành cảnh sát quốc gia do Pháp điều hành. Nguyên thủy nó là tổ chức cảnh sát quốc gia nhưng cuối thập niên 1940, nó cải biến thành lực lượng bán quân sự chống phiến Cộng. Công tác mới của cảnh sátcho vang Pao cơ hội thăng tiến binh nghiệp. Ông được bổ nhậm đồn trú ở bót cảnh sát Muong Ngan, gần biên giới Việt Nam. Đại úy Fret, chỉ huy đồn cảnh sát nhận ra ngay phụ tá của mình là một biệt kích bẩm sinh. Fret để Vang Pao tự do hành quân du kích chống Pathet Lào và Bắc Việt. Chỉ huy 1 trung đội Hmong, Vang Pao diệt gọn một đơn vị Việt Minh và tịnh thu những tài liệu tiết lộ tổ chức Việt Minh và hoạt động của họ trong khu vực. Để tưởng thưởng, Fret dành một chỗ cho Vang Pao trong trường huấn luyện ứng viên sĩ quan quân đội hoàng gia Lào.
Sau khi tốt nghiệp, Vang Pao đến trình diện đại đội 14 bộ binh ở Muong Hiem. Nhờ đồn trú trong khu vực Hmong, công tác của ông là tổ chức, phát triển mạng lưới tình báo ở các làng và tuyển mộ tân binh Hmong cho quân đội. Ngày xưa các viên chức chính phủ đã hạ độc giếng nước, Vang Pao phải mất một thời gian để lấy lại lòng tin của dân làng. Cuối cùng hệ thống tình báo cũng thành lập và 73 Hmong đã đầu quân. Trộn lẫn tân binh Hmong vào đại đội gây căng thẳng sắc tộc. Ngươìi Lào đòi thuyên chuyển đi nơi khác. Chỉ huy trưởng đại đội, đại úy Cocosteguy, giải quyết bằng cách chia Hmong thành 1 đơn vị đặc biệt trong đại đội, do Vang Pao chỉ huy.
Sự kiện này báo trước khó khăn cho tương lai nghề nghiệp của Vang Pao trong quân đội. Nếu Lào không chịu khoác chung áo lính với Hmong, họ chắc chắn bất tuân sự chỉ huy của một sĩ quan Hmong. Có lẽ đây là thời điểm phát hiện của ông, một phát hiện đen tối rằng ông không thể thành công rực rỡ trong binh nghiệp nếu chỉ huy những đơn vị Lào. Hoặc sự phát hiện đến trễ hơn: Sau khi đại đội 14 giải tán; binh nghiệp của ông tạm dừng lại khi ông chỉ huy Hmong; sau khóa huấn luyện đặc biệt ở Phi Luật Tân và trở lại quân đội chỉ huy trường huấn luyện hạ sĩ quan ở Khang Khay sau khi đảm nhận chức chỉ huy một đơn vị đa số người Lào, tiểu đoàn 10 bộ binh quân lực hoàng gia.
Từ khởi đầu ấy, binh sĩ Lào tiểu đoàn 10 không muốn nhận lệnh từ vị chỉ huy Hmong. Vang Pao đã phát huy quyền hạn của mình đến cực điểm trong cuộc truy kích tiểu đoàn 2 Pathet Lào làm phản và có những âm hưởng sau đó. Sau cuộc hành quân, binh sĩ của ông hùng hổ và rồi làm loạn. Vang Pao sợ cho tính mạng mình. Tạm rời chức vụ, ông tạm trú với 1 đơn vị biệt kích Mỹ ở Khang Khay. Sau đó, ông được giao phó tiếp tục công việc với tình nguyện quân Hmong.
Nếu Vang Pao được an bài để chỉ huy Hmong, ít ra họ cũng là những chiến sĩ du kích thiên bẩm và du kích chiến là Vang Pao tin rằng ông có năng khiếu. Năm 1952, tốt nghiệp trường sĩ quan Dong Hene, người Pháp gởi Vang Pao sang Hà Nội 2 tuần để quabn sát sự vận hành của bộ tổng tham mưu quân đội Pháp. Những gì ông thấy gây trở ngại cho ông. Người Pháp khư khư vào những mưu lược cổ truyền và những trận đánh kinh điển, loại chiến tranh dẫn đến bại trận Điện Biên Phủ. Với cương vị hạ sĩ quan cảnh sát, Vang Pao dẫn Hmong chiến đấu và đánh bại người Việt Nam dùng chiến thuật du kích, một tài năng thiên bẩm của sắc tộc Hmong. Ông tìm ra những địa thế hiểm trở, và dụ kẻ địch mạnh hơn vào ổ phục kích. Khi nào trận chiến có vẻ thất thế, ông rút lên núi, đi 6-8 dặm một giờ, đôi khi không nghỉ suốt vài ngày. Địch quân sẽ bỏ cuộc vì không thể theo kịp hoặc sẽ lọt vào nơi Vang Pao chọn sẵn, quá mệt mỏi để phát hiện mình lọt bẫy.
Các sử gia quân sự đặt tên chiến lược này là chiến thuật Fabian, 1 kỹ thuật dùng 2000 năm trước bởi một danh tướng La Mã tên Quintus Fabius Maximus, cũng có tên là Cunctator (người hoãn binh). Vị tướng này không chịu giao chiến với quân địch mạnh hơn chio đến khi quân Carthaginians mệt mỏi vì truy kích. Nhưng Fabius thành công 1 lần bởi vì Hannibal không thể trông cậy vào tiếp viện. Bắc Việt không phải Carthage vốn cách La Mã 1 đại dương mà sát bên nách Lào và khả năng tiếp viện hầu như vô tận. Chống lại Bắc Việt, chiến lược Fabian có thể thắng các trận chiến nhưng không thể thắng cuộc chiến tranh.
Cuối cùng quyết tâm xây dựng quân đội riêng, Vang Pao gởi thông điệp cho Yang Youa Tong và Thao Sao Chia mời họ đến Tha Vieng. Ông muốn hội ý một lần chót trước khi ra lịnh cho Hmong trên Cánh Đồng Chum di dân đến 7 yếu điểm chiến lược bao quanh cánh đồng. Kế hoạch của ông là dùng binh sĩ Hmong dưới quyền ở Tha Vieng làm nòng cốt cho lực lượng du kích Hmong tương lai. Sau khi lập căn cứ cho binh sĩ, ông bắt đầu tổ chức, huấn luyện các tình nguyện quân tụ họp ở các cứ điểm cũ của du kích Malo.
Ngay lúc này, nhu cầu cấp bách nhất là vũ khí. Thung lũng Tha Vieng phẳng và rộng, lý tưởng cho một phi trường. Vang Pao huy động 300 dân làng lân cận san các bờ đê ngăn ruộng, lấp chỗ trũng làm phi trường. Khi lao công làm việc, Vang Pao gọi cho Phoumi ở Savanakhet yêu cầu tiếp tế vũ khí, tiếp liệu quân trang quân dụng cho tân binh. Ông cam kết với Phoumi rằng luôn trung thành với quân đội và Hmong của ông vẫn là một thành phần trong quân đoàn của đại tá Sourith và nếu vũ khí, tiếp liệu có thể phân phối đến Tha Vieng, Hmong sẽ là lá chắn bảo vệ lực lượng Sourith ở Tha Thom.
Vang Pao không hy vọng nhiều từ Phoumi. Mọi thứ đều đổ dồn cho Sourith ở Tha Thom: tiếp liệu, trọng pháo, binh sĩ tăng viện. Ông nghi rằng Phoumi và các tướng lãnh khác ở Vientaine đã có chủ ý thí bỏ lực lượng Hmong ở Tha Vieng và như thế, gửi tiếp liệu đến Tha Viêng cầm bằng đổ tiền của xuống sông xuống biển. Điều Vang Pao không được biết là Phoumi bị áp lực từ tòa đại sứ cũng như CIA buộc phải chuyển nhượng bớt vật liệu cho các lực lượng bán quân sự. Vài ngày sau khi Vang Pao xin vũ khí và tiếp liệu, 1 đại tá Thái Lan và một viên chức Mỹ dung mạo kỳ cục với cái đầu vuông có vẻ to quá so với cần cổ; nói giọng Texas và tự giới thiệu là đại tá Billy.
Đại tá Billy và lực lượng Không Cảnh.
William "Bill" Lair bắt đầu công tác dã ngoại ( tức công tác rời bàn giấy đi thực tế tại hiện trường) năm 1951 ở Bangkok, Thái Lan. Ông quan tâm đặc biệt về chống phiến loạn và thuyết phục thượng cấp ở Thái Lan cho phép ông làm việc với người Thái để phát triển một lực lượng biên phòng chính quy. Lực lượng này được đặt tên là Tuần cảnh không viện (PARU, The Police Aerial Reinforcement Unit. Từ bây giờ xin gọi tắt là lực lượng Không Cảnh). năm 1960, nó tiến triển thành một đơn vị bán quân sự thiện chiến nhất Đông Nam Á.
Bộ chỉ huy Không Cảnh đặt bản doanh ở Hua Hin, một thị trấn hải cảng cực nam bán đảo Thái Lan, một khoảng cách xa từ địa bàn hoạt động của họ nơi vùng bắc Thái Lan. Tại đó có những ngọn núi dùng làm địa hình huấn luyện người thiểu số, đa số là Thái Lan Hmong, sử dụng vũ khí và kỹ thuật chiến đấu phòng thủ biên giới chống thổ phỉ và phiến cộng. Chiến dịch thành công vượt bực mà các viên chức CIA gọi lực lượng không cảnh này là một tuyệt phẩm của họ. Lực lượng không cảnh được đỡ đầu trực tiếp từ Desmond Fitz Gerald, giám đốc Viễn Đông Sự Vụ CIA và tổng giám đốc CIA, ông Allen W. Dulles. Cả hai viên chức này không quản ngại bỏ thì giờ thị sát các bộ chỉ huy của tổ chức.
Cuối năm 1950, lực lượng Không Cảnh đã hầu như hoàn tất mục tiêu bình định vùng Bắc Thái Lan và Lair (nhắc lại lần chót, nhân viên CIA đặc trách huấn luyện lực lượng Không Cảnh dưới quyền Desmond Fitz Gerald, giám đốc Viễn Đông Sự Vụ) không còn việc gì để làm. Ông nẩy ý định huấn luyện người thiểu số miền núi tại Lào (thay vì Thái Lan đã bình định). Năm năm trước, tướng Phao Siyanon, tư lịnh Không Cảnh Thái đã đề nghị ý kiến này lúc Không Cảnh còn mang tên là Vệ binh hoàng gia (Royal Guards). Lúc ấy kế hoạch của Phao Siyanon không ai ủng hộ vì không tìm đâu ra ngân sách. Coi như quá nhiều tham vọng quyền bính, Phao Siyanon bị huyền chức và buộc phải lưu vong. Bây giờ đến lượt Lair đề xuất ý kiến này.
Lair có thêm uy tín khi CIA yêu cầu ông sử dụng lực lượng Không Cảnh Thái Lan làm cố vấn quân sự cho quân đội Phoumi Nosavan trong cuộc đảo chánh Giáng Sinh 1960 tại Vientiane. Với hoàn cảnh thuận lợi, Lair thuyết phục Gordon Jorgensen, giám đốc CIA tại Lào, cho phép Không cảnh Thái làm việc với người thiểu số Lào. Lair biết rằng PEO (Programs Evaluation Office, tổ chức CIA ngụy trang thành một văn phòng theo dõi tình hình cứu trợ người thiểu số) đã huấn luyện người Hmong từ năm 1959. Lair nói rằng việc dùng Không Cảnh Thái tại Lào, được việc hơn lại ít tốn kém hơn. Hơn nữa, Thái giống Lào về ngoại hình nên có thể che mắt thế giới rằng CIA không trực tiếp nhúng tay vào. CIA biết trước rằng Lào sẽ trung lập. Sau này, ngày 11 tháng 6 năm 1962, đại biểu 14 nước trong đó có Mỹ, Nga, Pháp đã ký kết một hiệp ước công nhận Lào trung lập và phải rút hết người ngoại quốc khỏi Lào trong vòng 75 ngày.
Trong lúc Gordon Jorgensen còn do dự, Lair đơn phương lập một văn phòng Không Cảnh Thái tại Vientiane và duy trì lực lượng này tại Lào để yểm trợ tướng Phoumi Nosavan (lập trường quốc gia hữu khuynh) chống đảo chánh tại thủ đô Lào, sẵn sàng hành động một khi Gordon Jorgensen gật đầu chấp thuận. Lair cũng xúc tiến việc tìm gặp các lãnh tụ Hmong để thăm dò sự hợp tác của họ. Hồi còn ở Thái Lan, Lair đã nghe tiếng một sĩ quan can trường, tài giỏi trong quân lực hoàng gia Lào (Royal Laotian Army). Xin bạn đọc nhớ tên vị sĩ quan này. Ông tên Vang Pao. Một mãnh tướng làm thay đổi cuộc chiến Đông Dương, một khắc tinh của tướng Vũ Lập, Lê Trọng Tấn, Võ Nguyên Giáp và là một sát tinh của các sư đoàn 312, 316, 325 bộ đội Bắc Việt. Lair ngỏ ý với các viên chức CIA ở Lào rằng ông muốn diện kiến Vang Pao. Ngày 31 tháng 12 năm 1960, sau vụ đảo chánh của tướng Phoumi với sự trợ giúp ngầm của Không Cảnh Thái đánh đuổi lực lượng chủ trương trung lập của tướng Kong Lê đêm Giáng Sinh, Lair được thông báo là Vang Pao đang trú quân tại một nơi gọi là Tha Vieng. Lair xin phép Gordon Jorgensen đi gặp Vang Pao. Gordon Jorgensen cho phép nhưng không cho phép Lair ở qua đêm tại Tha Vieng. Người Mỹ không muốn Cộng Sản bắt được Lair làm tù binh, nhân chứng sống về sự can thiệp trắng trợn của Mỹ.
Lair tổ chức một toán 5 người thuộc Không Cảnh Thái đến Tha Vieng bằng trực thăng và chỉ thị họ thông báo ngay nếu tìm được Vang Pao. Phần Lair thì ở lại Vientiane chờ tin từ đại tá Pranet Ritchenchai, tư lịnh Không Cảnh Thái. Qua hôm sau, Pranet tìm được Vang Pao. Lair nhảy lên trực thăng và gặp Pranet tại Tha Vieng.
Vang Pao gặp Lair trong bộ quân phục kaki, giầy vải và chiếc mũ rộng vành, quân trang tiêu chuẩn của biệt kích Pháp (lúc này Pháp đã về nước theo hiệp ước Geneve sau thất trận Điện Biên Phủ). Ở Vang Pao rất dễ nhận thấy toát ra một niềm tự tin sôi sục. Với Lair, Vang Pao là một Thành Cát Tư Hãn quy mô nhỏ. Sau một vòng thị sát quanh dinh trại, Lair hỏi Vang Pao rằng ông có thể tuyển mộ được bao nhiêu tay súng. Vang Pao đã chuẩn bị từ trước bằng cách liên hệ với hai phụ tá đặc trách tuyển mộ ở khắp bản làng, Youa Tong Yang và Sao Chia Thao. Vang Pao trả lời rằng ông có thể có ít nhất 10 ngàn tay súng.
Lair tràn ngập tin tưởng. Ông đã thấy hàng trăm Hmong cặm cụi sẻ đất san đồng làm phi đạo, những toán du kích đeo súng săn, răm rắp thi hành chỉ thị Vang Pao. Mọi người cật lực làm việc cho Vang Pao. Có lẽ Vang Pao chiêu mộ hàng chục ngàn người. Lair hỏi Vang Pao cần những thứ gì. Vang Pao đưa ra một liệt kê: 5 ngàn súng cá nhân, một số súng máy, tiếp liệu và quân trang cho binh sĩ với một số phụ trội cho những tân binh dự kiến. Lair gật đầu nhưng không hứa hẹn gì cả.Ông đã cộng tác với đại tá Pranet Ritchenchai, tư lịnh không cảnh Thái hàng chục năm vùng bắc Thái. Chưa bao giờ họ thấy một vị chỉ huy như Vang Pao. Với con mắt nghề nghiệp, Vang Pao là một ước ao chỉ có trong mơ, nay trở thành sự thật.
Trở về Vientiane, Lair đi thẳng đến trụ sở CIA để nói về Vang Pao với Jorgensen, giám đốc CIA tại Lào. Tại đấy Lair may mắn gặp cả Desmond Fitz Gerald, giám đốc Viễn Đông Sự Vụ CIA nữa. Fitz Gerald đấn Vientiane hội ý với Jorgensen về vai trò CIA trong tương lai tại Lào. Đó là một sự kiện bất ngờ ngoài dự tính.
Lair nói với Fitz Gerald về Vang Pao và bày tỏ mối tin tưởng rằng viên đại tá Hmong này có thể tổ chức một đạo binh du kích với quân số đáng kể, một lực lượng mà Bắc Việt chưa từng thử sức. Dùng chiến thuật đánh và rút lui, du kích Hmong sẽ gây cho Bắc Việt một trở ngại khó chống đỡ, một kẻ địch khó thanh toán. Tiếp tế cho lực lượng này chắc ít tốn kém hơn quân đội chính quy hoàng gia Lào, vừa hèn nhát vừa tham nhũng. CIA có thể trang bị Hmong các loại vũ khí thặng dư thời đệ nhị thế chiến. Không Cảnh của Lair, tất cả người Á Châu nào hao hao giống người Lào, có thể huấn luyện họ. Nó chắc chắn phải là một công tác mật toàn hảo. Người Mỹ không bao giờ nhúng tay vào. Người Mỹ vô can. Hoàn toàn chối tội.
Fitz Gerald tỏ vẻ quan tâm nhưng cũng lo ngại. Nó mang ý nghĩa một hướng chiến lược mới của CIA tại Lào và chính sách mới của chính phủ Mỹ. Qua hôm sau, Fitz Gerald nói với Lair rằng ông thích đề nghị của Lair và yêu cầu Lair đệ trình một đề án. Lair tức tốc gởi một công diện 18 trang phác họa kế hoạch của ông. Lair không mong mỏi sẽ được trả lời ngay. Trái với dự đoán, Lair nhận được điện văn phúc đáp trong vòng vài ngày. CIA đã đệ trình lên Eisenhower, lúc này trong thời kỳ gần hết nhiệm kỳ tổng thống, thỉnh cầu chấp thuận. Eisenhower bằng lòng. Điều này đủ thuyết phục Allen Dulles, tổng giám đốc CIA, với tư cách cá nhân, chấp thuận kế hoạch. Chiến dịch được đặt tên là "Momentum", "Động Lượng".
Nó bắt đầu như một chương trình thử nghiệm. Lair được ủy quyền huấn luyện, trang bị cho 1 ngàn binh sĩ. Ông phải tự lo liệu lấy, không có sự giám sát cũng như chịu trách nhiệm với thượng cấp. Ông cũng không có bổn phận báo cáo mỗi ngày cho văn phòng CIA ở Vientiane hay Bangkok. Ngân sách điều hành được trích ra từ một tài khoản đặc biệt do ông kiểm soát. Nếu công việc trôi chảy, ông có quyền huấn luyện, trang bị cho nhiều đợt tuyển mộ tân binh Hmong theo kế hoạch.
Quá nóng lòng khởi sự, Lair trở lại Tha Vieng gặp Vang Pao thêm một lần nữa. Lần này, Youa Tong Yang và Sao Chia Thao, 2 sĩ quan đặc trách tuyển mộ tân binh và vài tộc trưởng khác cũng hiện diện. Vai trò 2 sĩ quan này rất quan trọng. Họ có uy tín với Hmong khắp nơi. Chính Vang Pao không thể tuyển mộ Hmong nếu không có họ. Tất cả mọi người buộc Lair, nhân danh chính phủ Mỹ, đưa ra những bảo đảm cho Hmong nếu Hmong ủng hộ kế hoạch quân đội du kích của Vang Pao. Lair hứa hẹn vũ khí, tiếp liệu, huấn luyện nếu Hmong chiến đấu hữu hiệu trong công cuộc chống Pathet Lào và Bắc Việt. Ngoài ra, Lair cũng hứa hẹn một an toàn khu nếu Hmong và Mỹ hoàn toàn chiến bại.
Lair bàn thảo với Fitz Gerald vấn đề "an toàn khu" trước khi ông ta rời Vientiane bay về Washington. Lair khuyến cáo Fitz Gerald rằng nếu CIA bảo trợ một quân đội du kích Hmong, CIA có bổn phận cung cấp một an toàn khu, nơi Hmong có thể nương náu nếu rủi ro chiến cuộc không được như ý muốn. Trong đầu của Lair, nơi đó là tỉnh Sayaboury nằm phía tả ngạn sông Mekong, một dẻo đất thuộc Lào, tuy ở những nơi khác, phía bên trái sông Mekong đều thuộc lãnh thổ Thái Lan. hai nước dùng con sông làm biên giới thiên nhiên. Sẽ có cuộc thương lượng với chính phủ Thái cho phép Hmong trú ngụ và bảo vệ họ trong trường hợp Cộng sản vượt sông tràn sang Sayaboury truy kích họ. Đó chỉ là ý kiến. CIA không hứa như vậy và Lair cũng không được quyền hứa như vậy. An toàn khu đó chỉ là bánh vẽ. Tuy nhiên, Lair trái lịnh thượng cấp. Ông ta hứa bằng miệng rằng sẽ dành riêng tỉnh Sayaboury cho Hmong. Hmong ngây thơ, mê say một quốc gia độc lập, lại một lần nữa như nhiều lần trong lịch sử, đổ xương máu chiến đấu cho Mỹ, tin tưởng vào an toàn khu của một đồng minh phản trắc. Và Vang Pao, "đấng cứu độ" bộ tộc Hmong, đem cả dân tộc mình gồm non 200 ngàn người đối chọi với hơn 70 ngàn bộ đội Bắc Việt, chặn đứng các sư đoàn 325, 316, 312 của tướng Vũ Lập, sau này là tướng Lê Trọng Tấn suốt hơn 15 năm máu lửa.
Các tộc trưởng Hmong muốn lời hứa phải rành rành trên giấy trắng mực đen. Lair thảo một bản thỏa ước hứa hẹn nội trong vài ngày sẽ cung cấp vũ khí, đạn dược trang bị cho 500 binh sĩ. Lair, Vang Pao, Youa Tong Yang, đại tá Pranet (không cảnh Thái) cùng ký tên trên thỏa ước đó. Mặc dầu văn kiện này không đề cập gì đến "an toàn khu" nhưng nhiều Hmong suy diễn thành Mỹ đảm bảo một vương quốc Hmong độc lập nếu Hmong thắng Cộng Sản và một an toàn khu nếu thua. Dần dần niềm tin vào thỏa ước ấy ngày càng lan rộng đến nỗi tất cả Hmong thiết tưởng nó là một sự kiện chắc chắn, không cần bàn cãi. Năm 1997, Hmong tị nạn trên đất Thái, đang trong nguy cơ trục xuất về Lào, gửi một lá thơ cho tổng thống Bill Clinton, kính cẩn nhắc nhở đến văn kiện ký kết với đại tá Billy Lair ( Họ nói là vào tháng 11 năm 1959. Thực ra,nó nhằm tháng Giêng năm 1961) rằng chính phủ Mỹ sẽ chăm lo cho Hmong vì sự hợp tác chống Cộng với Mỹ trong chiến tranh tại Lào. Như đã hèn nhát bỏ rơi quân dân miền nam Việt Nam trước đây, Clinton chối bỏ trách nhiệm với họ, viện cớ văn kiện không đả động gì đến bổn phận Mỹ sau chiến tranh.
Ý tưởng an toàn khu là lỗi của Lair vì ông ta cố ý hứa hẹn bằng miệng rằng chính phủ Mỹ sẽ thu xếp một chốn dung thân cho Hmong nếu cần thiết. Tuy thế, Vang Pao cũng chịu một phần trách nhiệm. Vì lý do chính trị, Vang Pao khuyến khích Hmong tin lời hứa miệng của có giá trị chính thức, cổ võ nó như lợi khí yểm trợ cho quân đội của ông, bảo đảm với những người còn ngờ vực rằng nếu Mỹ thất trận và chúng ta gặp nguy hiểm – không thể dung thân ở Lào – Mỹ sẽ tìm chỗ cho chúng ta nương náu. Sau này khi ý tưởng “an toàn khu” không còn là lợi khí chính trị nữa, Vang Pao ém nhẹm chuyện ấy. Nhưng với Lair, nó vẫn còn là một cối đá đạo đức đè nặng lên lương tâm của ông hằng nhiều năm. Đôi khi, ông muốn thể hiện lời hứa ấy nhưng lần nào cũng bị Vang Pao ngăn trở vì e rằng một an toàn khu ở Sayaboury sẽ xoi mòn quyết tâm Hmong trong công cuộc chiến đấu.
Khác với lời hứa an toàn khu, lời hứa một quốc gia Hmong độc lập không đến từ miệng của Lair. Một trong những câu hỏi đầu tiên Lair hỏi Vang Pao trong cuộc gặp gỡ ban đầu là ông ta muốn tự trị về chính trị hay không? Washington muốn Lào vẹn toàn lãnh thổ và không Cộng Sản chứ không bị chia cắt cho Hmong và không muốn CIA bảo đảm cho một phong trào Hmong ly khai. Đỡ khổ tâm cho Lair, Vang Pao tuyên bố trung thành với hoàng gia và chối bỏ mọi quan tâm đến ý tưởng tự trị. Có lẽ đây là cảm giác thực sự của Vang Pao lúc ấy. Sau đó ít lâu, khi thấy vấn đề tự trị có thể động viên Hmong yểm trợ quân đội của ông, Vang Pao dò xét ý tưởng ấy và cổ động niềm tin rằng Mỹ sẽ thành lập một quốc gia Hmong tự trị khi Cộng Sản bị đánh bại, tạo ấn tượng rằng điều này cũng được ghi trong thỏa ước tưởng tượng với Mỹ.
Như Lair đã hứa hẹn, CIA phân phối vài thùng vũ khí và 4 máy liên lạc vô tuyến đến Tha Vieng cùng với một hướng dẫn viên Mỹ cắt nghĩa cách sử dụng. Số vũ khí ấy chỉ đáp ứng một phần nhỏ cần thiết và quá trễ. Bắc Việt đã đánh hơi, lần mò đến. Ngày 13 tháng Giêng năm 1961, lực lượng Kong Lê (trung lập) phối hợp với lực lượng Pathet Lào, các bộ phận của sư đoàn 325 Bắc Việt tiến gần Tha Vieng để dàn các khẩu đại pháo. Không có đại bác và không yểm, Vang Pao bất đắc dĩ rút lui. Ông định xuôi nam về Tha Thom để nhập với lực lượng của Sourith (quân đội hoàng gia Lào). Quyết định này trì hoãn sự thành lập quân đội du kích Hmong đến vô tận.
Đó là lần cuối cùng Vang Pao do dự trong vấn đề ấy. Khi ông biết Tha Thom cũng bị tấn công và gắng hết sức bám trụ dù có chiến đấu cơ T-6 do phi công Thái Lan yểm trợ, ông củng cố quyết tâm và dẫn đoàn du kích vào núi. Sắt thép đã đúc khuôn.
Cuộc chiến không thể thắng.
Khi được biết rõ ràng quân đội hoàng gia Lào hoàn toàn không có giá trị quân sự gì, quay lại với Hmong là điều không tránh khỏi. Đó là chính sách cố hữu trong chính quyền Eisenhower tin cậy vào những lực lượng bản xứ để chống lại phiến cộng ở Lào. Chỉ còn phương pháp cuối cùng tránh khỏi thất bại là đưa quân đội Mỹ sang tham chiến, điều không thể chấp nhận. Eisenhower không chống đối đưa quân tham chiến ở nước ngoài, nhưng chống những cuộc viễn chinh không thể thắng. Ông nhận xét vấn đề tiếp vận (Cộng Sản gọi là hậu cần) trong cuộc chiến ở vùng rừng rậm không có biển như Lào sẽ bị sa lầy như cuộc chiến ở Đại Hàn. Eisenhower đắc cử nhờ vào lời hứa chấm dứt chiến tranh ở Đại Hàn. Ông không muốn rời chức vụ sau khi đưa nước Mỹ vào cuộc chiến khác ở đông nam Á.
Ngũ Giác Đài cũng thối chí không kém về việc đưa quân sang Lào, nhưng với những lý do khác. Quốc hội đã cắt giảm ngân sách quốc phòng sau chiến tranh Đại Hàn. Cùn nhụt vì chuẩn bị cho cuộc xung đột với Sô Viết ở Âu Châu, bộ tư lịnh hỗn hợp muốn điều độngtài nguyên quân sự ít ỏi vào mục đích nàythay vì lãng phí nó vào cuộc chiến tranh xa xôi ở Á Châu. Do đó, ý tưởng người Lào tự phòng thủ rất thuyết phục.
Ngay cả lịch sử cũng biện hộ cho việc sử dụng lực lượng bản xứ. Trong thế kỷ 20, phiến quân chỉ đắc thế một khi chống lại quân đội thực dân. Dấy loạn chống lại chính quyền địa phương phòng thủ bởi dân cư địa phương hay những nhóm chủng tộc lớn luôn không hiệu quả (trừ trường hợp Trung Hoa năm 1949 và Cu ba năm 1959). Một cách khả dĩ, một quân đội gồm toàn chủng tộc Lào, chính phủ hoàng gia Lào sẽ khẳng định xu thế lịch sử.
Tất nhiên hiệu năng đen tối của quân lực hoàng gia Lào đúng hơn, chọc thủng một lỗ hổng trong lý lẽ này. Trông cậy vào lực lượng Hmong thế chỗ lực lượng Lào là không đếm xỉa những bài học lịch sử. Họ chiếm non 15/100 dân số. Thêm vào đó, họ là sắc dân bị khinh miệt vì kỳ thị chủng tộc, khó lòng hưởng sự ủng hộ của đại đa số quần chúng. Tuy nhiên, sự bắt buộc thành lập một quân đội bản xứ hữu hiệu đã thu hoạch được đầy đủ sức tiến khiến các suy xét thầm kín này bị bỏ mặc.
Tốt nhất là tách rời những đơn vị Hmong với quân đội chính quy, không chỉ để ngăn cách họ khỏi ảnh hưởng tham nhũng của quân đội hoàng gia, mà còn bảo đảm họ nhận được một cách thỏa đáng mọi nỗ lực yểm trợ nơi chiến trường, vì sĩ quan Lào không cần che giấu sự khinh bỉ người Hmong, sắs dân họ coi như hạ đẳng. Mối ác cảm này không dẫn đến khả quan trong các cuộc hành quân hỗn hợp. Nhưng ly cách Hmong có nghĩa tạo ra một quân đội hoàn toàn độc lập, một thực thể chính trị lẫn quân sự CIA phải chịu trách nhiệm một mình và tách rời nó khỏi chính quyền hợp pháp quốc gia. Đối với thế giới, tình trạng độc lập này sẽ nâng đỡ cảm tưởng rằng quân đội Hmong là lực lượng đánh thuê, chiến đấu không phải vì ái quốc mà chỉ vì bổng lộc. Dù điều này đúng một phần nào, nó cũng đúng rằng Hmong trả một giá quá đắt cho món nợ quân sự.
Phẩm chất chính yếu làm nổi bật du kích Hmong vượt trội lực lượng hoàng gia Lào là tính hiếu chiến. Nếu địch thủ hèn nhát như binh sĩ chính phủ Lào thì đó là một ưu điểm khổng lồ cho Hmong nhưng binh sĩ Bắc Việt cũng thiện chiến và có phần kỷ luật hơn Hmong. Nói chung là kỳ phùng địch thủ.
Trong khi có nhiều trường hợp Hmong phô bày dũng cảm trong chiến đấu hơn Việt Nam, nó chỉ ảnh hưởng đến kết quả riêng biệt của trận chiến, không phải toàn thể cuộc chiến. Chỉ có những cuộc chiến cổ điển trong lịch sử mà thắng bại trong một trận chiến chủ yếu với hai bên đụng độ trực tiếp với toàn lực quyết định thắng bại tối hậu của cuộc chiến. Chiến tranh Lào thì khác hẳn. Nó là cuộc chiến hiện đại, không phải chỉ trên bình diện kỹ thuật quân sự tối tân mà còn hiện đại ở chỗ nó là cuộc chiến ủy thác giữa hai thế lực Sô Viết và Mỹ.
Trong sự tương tranh giữa Mỹ và Sô Viết, không bên nào dám trực diện nhau trên chiến trường, càng không dám dùng vũ khí hạch nhân. Chỉ một lần năm 1962, trong khủng hoảng hỏa tiễn ở Cu Ba, Mỹ và Sô Viết suýt vi phạm nguyên tắc này vì cả hai đều liều lĩnh một cách rồ dại. Để tránh tình trạng đó tái diễn, xung đột giữa 2 siêu cường quốc phải có trái độn bởi những quốc gia uỷ nhiệm. Lý tưởng nhất là 2 quốc gia ủy nhiệm; kém lý tưởng hơn, giữa một siêu cường và một uỷ nhiệm quốc. Học thuyết chiến tranh hạn chế, đề xướng năm 1950 bởi các lý thuyết gia quân sự (hầu hết là các khoa học gia vật lý) ít hoặc không có kinh nghiệm, trở nên chính thống đầu thập niên 1960, buộc quân đội hiệu chính lại cẩm nang phục vụ chiến trường nhằm loại trừ chiến thắng là mục tiêu chiến tranh. Trái tim của học thuyết chiến tranh hạn chế là ý tưởng tiệm tiến chủ nghĩa. Trong cuộc xung đột ủy nhiệm, mức gia tăng cường độ chiến tranh (gọi là leo thang) phải phát triển từ từ cho địch thủ có thời gian tái thẩm định quyết tâm và cơ hội đàm phán một giải pháp kết thúc chiến tranh.
Có 2 vấn đề với tiệm tiến chủ nghĩa. Đầu tiên, nó gây hiểu lầm: thiếu ý chí chiến đấu và chiến thắng địch. Đây là nhận định của Bắc Việt về Mỹ trong cuộc chiến ở Lào và Việt Nam, thúc đẩy họ tiếp tục chiến đấu và bác bỏ mọi giải pháp ngoại giao. Bắc Việt tin rằng họ có thể thắng và chiến thắng của họ sẽ là một kiểu mẫu nhằm đánh bại quân đội Tây phương khắp thế giới thứ ba. Võ nguyên Giáp phát biểu:” Nếu nó chứng tỏ có thể đánh bại cuộc chiến tranh đặc biệt thử nghiệm tại nam Việt bởi đế quốc Mỹ, nó có thể cũng bị đánh bại ở khắp nơi.”

Nan giải thứ hai với tiệm tiến chủ nghĩa là nó bất kể thực tế chính trị. Các nhà lãnh đạo độc tài không phải tuyển cử, vì vậy khó khơi dậy mối bất mãn vì hoang phí tài nguyên cũng như từ quần chúng có con em tử trận. Những nhà lãnh đạo ở quốc gia dân chủ phải đối đầu với cử tri mỗi nhiệm kỳ. Trung bình nếu cuộc chiến kéo dài quá 3 năm, những chất vấn gai góc được nêu lên. Tiếp tục chiến tranh có thể gây chống đối và rối loạn chính trị. Đây là bài học của Pháp tại Việt Nam Cử tri Pháp đánh bại những quân đoàn viễn chinh chứ không phải Việt Minh. Chính khách Pháp đã chậm trí khôn để học thuộc lòng bài học này. Chỉ 4 năm sau Điện Biên Phủ, Pháp suýt bị rơi vào cuộc cách mạng trong cuộc chiến thuộc địa khác, lần này ở Algeria. Nó dẫn đến cuộc đảo chánh đưa Charles de Gaule nắm quyền.
Hà Nội hiểu vấn nạn này hơn những kẻ làm chính sách ở Washington. Tin rằng Bắc Việt chỉ là một quốc gia nhược tiểu, lạc hậu và nghèo đói, tổng thống Johnson cam kết với cử tri rằng Mỹ đã được an bài để thắng cuộc chiến. “Bởi vì chúng ta chiến đấu cho những giá trị và nguyên tắc hơn là chiến đấu giành lãnh thổ hay thuộc địa, sự kiên trì và nghị lực của chúng ta vô tận.” Henry Kissingerđoan quyết với niềm tin “Chúng ta mạnh đến mức Hà Nội không thể đánh bại chúng ta về mặt quân sự.” Bắc Việt không cãi sự xác nhận này, họ chỉ coi như không thích đáng.
Mao Trạch Đông dạy rằng có 3 giai đoạn trong chiến tranh nhân dân. Giai đoạn đầu còn thiếu thốn, phiến cộng áp dụng chiến thuật du kích để tránh tiêu hao lực lượng bởi cường địch. Để phát triển khỏi giai đoạn này, phiến cộng phải động viên quần chúng ở thôn quê để có được tài nguyên và làm chủ một nguồn nhân lực lớn lao cho quân đội. Trong giai đoạn hai, phiến cộng phối hợp du kích chiến và quy ước chiến hạn chế. Giai đoạn bacơ sở tài nguyên phải bành trướng sâu xa hơn và quân sự phát triển thành một đạo quân quy ước hiện đại. Lúc đó phiến cộng mới ngang nhiên chiến đấu với kẻ địch một cách bình đẳng và đạt thắng lợi.
Binh pháp Mao thành công ở Trung Hoa, nơi người Tàu chiến đấu với người Tàu. Nhưng du kích Hồ Chí Minh đương đầu với quân đội ngoại quốc, không phải Việt Nam, một kích thước thêm vào Mao chưa hề đối phó. Hồ Chí Minh tin rằng kích thước dôi trội này đã đánh bại Pháp và sẽ đánh bại Mỹ. Trao đổi với một nhà ngoại giao Ba Lan năm 1963, Hồ dự kiến Mỹ phải rút khỏi Việt Nam vì mệt mỏi, ngã lòng, biết rằng họ sẽ không đạt được mục tiêu mà người Pháp đã theo đuổi và thất bại, sẽ dẫn đến một tỉnh thức mới, cảm xúc mới.” Giáp phát biểu đơn giản:” Dân chủ không sở đắc phương tiện chính trị và tâm lý trong trường kỳ kháng chiến.”
Chiến lược Hồ là khai thác nhược điểm này bằng những chiến thuật cắt xén để khai thác “những mâu thuẫn trong hàng ngũ địch.” và nhân đó làm mạnh cảm xúc phản chiến ở Mỹ. Một chiến thuật được Việt Cộng áp dụng là bắn vào lính Mỹ ngoài bìa làng để Mỹ pháo kích. Nó gây căm thù trong dân làng và những tin tức về thương vong dân sự gợi phong trào phản chiến Mỹ. Sô Viết nhận thấy chiến lược Hồ đủ thuyết phục để giao phó cho KGB trách nhiệm cung cấp tin tình báo những lượng định tình hình chính trị ở Mỹ, giúp Bắc Việt uốn nắn chính sách quân sự đạt tối đa hiệu quả chính trị.
Bằng chiến tranh chính trị, Bắc Việt không cần đánh bại Mỹ mặt quân sự. Bắc Việt chỉ phải chịu đựng bền bỉ. Cử tri Mỹ sẽ đảm đương mọi phần còn lại.
Nhược điểm chính trị Mỹ đặt Hmong vào thế bất lợi sinh tử. Thời gian và dân số ở về phía Cộng Sản. Nếu Bắc Việt chỉ tiếp tục ở Lào, người Mỹ sẽ rút và bỏ rơi Hmong. Năm 1969, Mỹ đã tỏ dấu bỏ cuộc. Nixon gọi là “hòa bình trong danh dự.” Đó là danh xưng dành cho quần chúng Mỹ. Mục đích giống như Pháp đã đạt được ở Algeria, “triệt thoái vì chính sách chứ không phải sụp đổ,” rút quân tùy nhịp độ và tùy thời đểm tự chọn như thể giảm thiểu cường độ chiến tranh chứ không phải quy hàng.
Ngay cả nếu như Mỹ không triệt binh, dân số Hmong cũng quá ít để kéo dài cuộc chiến lâu hơn Bắc Việt. Khoảng 300 ngàn Hmong ở Lào, so với 20 triệu bắc Việt. Quân đội Vang Pao chưa bao giờ quá 40 ngàn. Đầu thập niên 1970, số tử vong đã vét cạn thanh niên Hmong trong hạn tuổi nên một nửa quân số lực lượng du kích Vang Pao là người Thái Lan. Mặt khác, quân số Bắc Việt lên đến lên đến 250 ngàn người khoảng đầu thập niên 1960 và cuối thập niên, 500 ngàn binh sĩ. Đa số cán binh này được phân bổ khắp chiến trường miền Nam nhưng một quân số hơn 60 ngàn ở lại Lào, bổ sung, tăng cường với đầy đủ sức mạnh hơn một thập kỷ.
Các lãnh đạo Bắc Việt chấp nhận chiến đấu ở Lào thêm một thập niên nữa nếu cấn thiết. Năm 1969, các chiến lược gia quân sự nghiên cứu dân số các làng mạc khu Tây Bắc, giáp giới Lào, trải dài từ Mộc Châu cho đến biên giới Trung Cộng. Tính theo đầu người, họ ước tính có đủ em bé sơ sinh, trẻ con, thiếu niên bảo đảm cho nguồn nhân lực đủ bổ sung cho 10 ngàn tử vong chiến trường ở Lào mỗi năm suốt 14 năm nữa.
Pôn Pốt, lãnh tụ khát máu của Miên Cộng (Kampuchia), hoang tưởng mỗi binh sĩ Khmer đỏ có thể dễ dàng hạ sát 50 chiến binh Bắc Việt, do đó có thể đánh bại Việt nam trong một trận chiến toàn lực. Chỉ trong 2 tuần tháng Giêng năm 1979, một cuộc xâm lấn của Việt Nam tàn nhẫn đập tan ảo tưởng ấy. Vang Pao không hề thưởng thức ảo tưởng như vậy, nhưng ông hy vọng những chiến thắng mang tính quyết định sẽ làm cho Bắc Việt tử bỏ mộng xâm lấn Lào. Hà Nội không hề nghĩ như vậy. Khả năng chịu đựng tổn thất lớn lao trong một trận chiến quy mô là chiến lược then chốt của Cộng Sản. Giống như tại Việt Nam, cuộc chiến Lào là chiến tranh tiêu hao nhưng với một tương đối thiếu nhân số về phía Hmong. Vang Pao nhờ vào không lực Mỹ bù vào khiếm khuyết ấy. Nó chỉ trì hoãn cái thất bại không thể tránh. Năm 1969, Vang Pao trưng binh cả trẻ con Hmong để bổ sung các cấp trong hàng ngũ quân đội của ông.
Có một truyện cổ tích về cuộc chiến giữa bầy cào cào và bầy khỉ. Cào cào tràn ngập lãnh thổ bầy khỉ như một đám mây. bầy khỉ đuổi đánh bằng gậy, nhưng cào cào nhảy lên đầu bầy khỉ và trong lúc hăng máu, bầy khỉ đập đầu nhau cho đến chết. Khi còn lại một con khỉ cuối cùng, vì quá đói vì dùng sức trong trận đánh, nó bắt đầu ăn cào cào hàng ngàn con rồi đến hàng ngàn con nữa cho đến khi bể bụng chết.
Quá nhiều lính Bắc Việt cho Hmong tiêu hóa.
Khởi sự.
Sau khi bỏ Tha Vieng, Vang Pao dừng quân ở Pha Khao, một làng núi mép Nam Cánh Đồng Chum nơi có một phi đạo thô sơ, có thể đón nhận vũ khí và tiếp phẩm. Lair đã để lại một đơn vị Không Cảnh Thái Lan cho Vang Pao. Trưởng toán Không Cảnh liên lạc vô tuyến với Lair cho biết vị trí mới của họ và xin thêm vũ khí, đạn dược. Vũ khí và thêm một Không Cảnh khác giúp việc huấn luyện.
Hàng nhiều năm Không Cảnh dùng một khóa học 3 ngày huấn luyện các binh sĩ thiểu số. Khóa học tuy ngắn nhưng hiệu quả. Người Thái Lan vẫn dùng hệ thống huấn luyện này cho người Hmong ở Pha Khao. Ngày đầu tiên học về sử dụng súng trường carbine M-1. Ngày thứ nhì cách sử dụng súng cối, bazookas và súng máy. Ngày cuối cùng thực tập phục kích.
Một phần của huấn luyện phục kích là giăng giây gài lựu đạn. Binh sĩ mãn khóa đầu tiên thực tập giăng lựu đạn bẫy chung quanh căn cứ theo lịnh Vang Pao. Ngày hôm sau, một toán tuần tiễu Pathet Lào mò vào khu vực và vướng lựu đạn. Khóa sinh Hmong dùng vũ khí mới đuổi bắt Cộng Sản giữa lằn đạn. Địch bỏ chạy, bỏ lại vài người chết và bị thương. Lair có mặt chứng kiến cuộc phục kích. Có vẻ như chiến dịch Động Lượng có kết quả.
Địch quân đã biết vị trí của mình, Vang Pao dời bộ chỉ huy lên hướng Bắc cách Pha Khao vài ngọn núi, đến một chỗ gọi là Pa Dong. Làng Pa Dong một thời là địa điểm thu mua thuốc phiện của ban thu mua nha phiến Pháp. Người Pháp đã xây cất một phi trường nhỏ để phi cơ có thể vận chuyển thuốc phiện đến nhà kho ở Sài Gòn. Phi trường vẫn còn đó nhưng cây cối đã mọc lấp. Vang Pao huy động dân làng, hầu hết đàn bà, trẻ con sửa sang lại phi đạo. Trong vòng vài ngày, máy bay CIA bắt đầu thả dù vũ khí: carbines thời Đệ Nhị Thế Chiến, Garands M-1, trung liên BAR (Browning Automatic Rifles), súng cối và hỏa tiễn cá nhân (bazookas)- đủ trang bị cho 2 đại đội. Không Cảnh Thái Lan chia 200 binh sĩ Hmong thành 2 đại đội, cấp tốc huấn luyện 3 ngày và trao 2 đại đội này cho Vang Pao. Liền tức thì ông tung quân về hướng Nam thành phố Xiêng Khoảng để xem họ có thể làm được gì. Chỉ vài ngày, họ phục kích một đoàn quân Pathet Lào, hạ sát 15 mạng.
Phấn khởi, Vang Pao muốn có thêm nhiều đơn vị. Yang Youa Tong và Thao Sao Chia đã bắt đầu tổng động viên, dời hàng ngàn Hmong đến 7 yếu điểm chiến lược định sẵn. Vang Pao liên lạc vô tuyến với Yang Youa Tong và Thao Sao Chia yêu cầu gởi tân binh đến Pa Dong thụ huấn quân sự. Hàng trăm tình nguyện quân từ mọi khe núi đổ về căn cứ. Người tị nạn ở rải rác trên Cánh Đồng Chum cũng tụ tập nơi đây tránh chiến tranh. Lều và nhà lá mọc san sát để cung ứng cho cư dân ngày một đông đảo. Hai máy bay Dakota chở đầy vũ khí và tiếp liệu hạ cánh mỗi ngày để bỏ hàng. Như thế vẫn không đủ bắt kịp với làn sóng người tị nạn và tình nguyện quân ùn ùn kéo về. Tất cả đều mang theo gia đình.
Hai nhân viên CIA, Joe Hudachek và William Young đến phụ giúp Không Cảnh. Là huấn luyện viên bộ môn nhẩy dù thời Đệ Nhị Thế Chiến, Hudachek đến đó giúp huấn luyện quân sự. Young đến đó vì khả năng ngôn ngữ. Thêm vào việc nói trôi chảy tiếng Lào, anh còn nói được vài thổ ngữ nữa. Từ tháng Một cho đến tháng Hai, 2 nhân viên CIA và 5 người Thái Lan huấn luyện thêm 5 đại đội nữa.
Giữa tháng Ba, thêm 5 nhân viên CIA đến Pa Dong. Một người tên Anthony Alexander Poshepny, bí danh là “Tony Poe. Là cựu chiến binh thủy quân lục chiến, Poe đã đạt được nghiệp vụ chói sáng trong chức vụ nhân viên dã chiến. Năm 1957, Poe là 1 trong toán 5 người làm việc với phiến quân Sumatra lật đổ chế độ Sukarno ở Nam Dương. Sau khi âm mưu bại lộ, anh sang Tây Tạng tổ chức cho Đạt Lai Lạt Ma trốn thoát. Poe tiếp tục chọc giận các lãnh tụ Bắc Kinh bằng cách huấn luyện lực lượng xung kíchTrung Hoa Quốc Gia xâm nhập Hoa Lục. Cùng với Poe còn có Tom Fosmire, Jack Shirley, Lloyd “Pat” Landry và Thomas Ahern. Fosmire từng làm việc với Poe ở Tây Tạng. Shirley là chuyên viên Không Cảnh, ở trong tổ chức Không Cảnh cũng lâu như Lair. Landry là một nhân viên dã chiến ở Âu Châu và Á Châu. Chỉ Ahern là người mới. Chán bàn giấy CIA ở Vientaine, anh vận động để được phục vụ dã chiến. Đây là công tác dã chiến đầu tiên của anh.
Cùng với 5 CIA là 4 toán Không Cảnh Thái Lan. Công việc tập thể của họ là tiếp xúc với Hmong ở 7 địa điểm chiến lược và thành lập 6 căn cứ huấn luyện mới: 1 ở Ban Na, Bắc Pa Dong; 1 ở Phu Fa, mép tây Cánh Đồng Chum; 3 căn cứ khác, San Tiau, Tha Lin Noi, Muong Ngat ở mép Đông cánh đồng và 1 ở Houei Sa An, Bắc cánh đồng.
Cuối tháng Tư, chiến dịch “Động Lượng” đã võ trang tổng cộng 5000 Hmong và luân phiên thụ huấn chương trình huấn luyện 3 ngày. Đó là một phần nhỏ hơn lực lượng Vang Pao mơ ước muốn có nhưng với Bill Lair, nó đã tạm đủ vì ông muốn mọi sự phải kín đáo, không ai biết. Ông cảm thấy quá nhiều người Mỹ nơi tiền tuyến. Người Mỹ lôi cuốn chú ý, nhất là bọn Bắc Việt. Lair muốn mọi sự giao phó cho Không Cảnh Thái Lan.
Lair quên tiên liệu việc tranh chấp hành chánh giữa CIA và quân đội, khó tránh khỏi khi chương trình phát triển. Quân đội Mỹ, đầu tiên tổ chức Phòng Thẩm Định Viện Trợ (PEO), sau đổi thành MAAG/Laos (Military Assistance Advisor’s Group/Laos – Nhóm Cố Vấn Quân Sự Lào), muốn các toán White Star huấn luyện Hmong. Một số ngân khoản lớn dành cho giai đoạn đầu của chiến dịch Động Lượng lấy từ ngân sách quân đội Mỹ, tạo điều kiện cho bộ Quốc Phòng ép CIA phải nhượng bộ. Tuy nhiên quyết định là do tổng thống. Tai họa vịnh Con Heo do CIA tổ chức vẫn còn ầm ĩ trên mặt báo. Kennedy trở nên thận trọng hơn với CIA và không muốn CIA hoàn toàn tổ chức lực lượng bán quân sự ở Lào. Ông muốn các toán White Star của quân đội tham gia như một đối trọng với CIA.
Toán White Star đầu tiên, do đại úy Bill Chance đến Pa Dong vào cuối tháng Tư. Bây giờ có rất nhiều da trắng trong căn cứ. Như Lair canh cánh lo ngại, Bắc Việt bắt đầu để ý đến Pa Dong.
Edgar Buell.
Hầu như mỗi ngày Vang Pao đáp máy bay trong một phi cơ loại Helio-Courier của Air America, một máy bay chế tạo đặc biệt cho việc cất cánh và hạ cánh bằng phi đạo ngắn (STOL, Short takeoffs and Landings), đến những làng xa xôi để trông coi tổ chức gọi là “những đại đội xung kích”- Những đơn vị cơ động cao có khả năng đánh mau rút lẹ. Cuối tháng Năm, 84 đơn vị được thành lập và bố trí quanh Cánh Đồng Chum. Những đơn vị này hầu hết là trên danh sách. Ít người được huấn luyện quân sự hay vũ trang. Nhân viên CIA, Không Cảnh hay cố vấn White Star đến các nơi này để trông coi việc xây dựng phi trường để tiếp tế vũ khí, vật liệu quân sự. Mất gần 1 năm các đơn vị xung kích này mới có đủ vũ khí để tự vệ, chứ chưa đủ đảm đương những cuộc hành quân tấn công địch.
Dù vũ khí đến chậm nhưng thực phẩm, quần áo, thuốc men được thả dù đều đặn. Mục đích không hẳn là nhân đạo. 80000 Hmong được huy động để yểm trợ, hay nhập ngũ trong quân đội du kích Vang Pao theo hiệu lịnh của Yang Youa Tong, Thao Sao Chia và sau này, LyFoung Touby. Họ trung thành với 3 người này chứ không phải với Vang Pao. Muốn chuyển sự trung thành đó cho mình, Vang Pao cần ban phát những nguồn lợi cụ thể. Bill Lair hiểu điều ấy và phát động một nỗ lực cứu trợ quy mô qua ngân quỹ của USAID (Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế) do Edgar Buell tổ chức, một tình nguyện viên lãnh 65 Mỹ kim 1 tháng do cơ quan thiện nguyện quốc tế IVS (International Voluntary Service), một tổ chức tư nhân, chu cấp.
Buell bắt đầu chuyến công tác cho IVS ở Lat Houang, 1 thị trấn 1000 người phía Đông Bắc Cánh Đồng Chum. Buell là nông dân da đỏ, khỏng khoeo, chân vòng kiềng và lùn tịt bằng người Hmong. Ông bỏ nghề nông lúc chưa đến ngũ tuần sau cái chết của vợ. Phiền muộn triền miên vì tình cảnh góa bụa, Buell nghe lời khuyên bác sĩ, tìm một công việc tình nguyện nào đó khuây khỏa. Viên bác sĩ nghĩ đến những công việc xã hội tại địa phương chứ không phải công tác cứu trợ ở chốn xa xôi hàng vạn dặm như Lào. IVS thuyết phục ông rằng ông có thể làm những việc hữu ích ở cao nguyên Lào, nơi những nông dân nghèo đói, quần quật với mảnh đất bằng những nông cụ thời thạch khí.
Thoạt tiên, công việc của Buell với IVS là giảng dạy kỹ thuật canh nông hiện đại cho Hmong. Nông trại hiện đại do USAID tài trợ đã hoạt động ở Lat Houang. Nông trại có 2 máy cày, máy trồng bắp và máy gặt bắp. Đất nơi ấy đã cạn kiệt màu mỡ vì đã canh tác nhiều năm không chăm bón và do đó, bị bỏ phế từ lâu. Dù thế IVS vẫn trồng bắp, nhìn cây mọc cao đến đầu gối, còi cọc lần hồi rồi chết rụi.
Buell không chống đối kỹ thuật nông nghiệp hiện đại nhưng phải được ứng dụng một cách hợp lý. Nông trại ở Lat Houang không chỉ phí thì giờ, nó còn gieo ấn tượng kỹ thuật tân tiến thật là vô tích sự. Buell tránh văn phòng IVS và bỏ hết thời gian ra ruộng với nông dân, xem họ làm việc và học ngôn ngữ của họ. Ông chỉ dẫn thợ rèn trong làng cách rèn lưỡi cày gắn vào cái cày bằng gỗ, một cải cách thực dụng khiến mọi người kính trọng. Ông có một xe ủi đất của USAID cấp, ông mướn 1 toán Hmong xây đập bằng đất, dẫn thủy nhập diền và sau này làm 1 con đường dài 20 dặm cũng bằng cái xe ủi ấy. Nhắc lại, ông chỉ lãnh 65 Mỹ kim 1 tháng, vừa đủ ăn uống nhưng không đủ may mặc.
Trong lúc làm đường, Kong Lê chiếm chính quyền và Mỹ cắt viện trợ cho Lào khiến Buell không có tiền trả cho công nhân làm đường lộ. Buell dùng tiền để dành trả lương cho họ và vẫn tiếp tục làm đường. Nhưng khi chiến cuộc lan tràn khắp Cánh Đồng Chum, Buell bỏ việc làm đường, xoay sang cứu trợ nạn nhân chiến tranh. Làm việc với người tị nạn khiến ông tiếp xúc gần gũi hơn với USAID. Buell biết cơ quan này đầy những nhân viên CIA và nó làm ông khó chịu, nhưng vì tiền của CIA hầu như vô tận và dường như họ muốn cho không dân Hmong. Cảm ơn lòng tốt CIA.
Cuối tháng Một năm 1961, Buell ở Vientaine với các tình nguyện viên IVS khác hoạch định chương trình cứu trợ đặc biệt cho nạn nhân chiến tranh do USAID tài trợ. Cuộc cứu trợ dành cho Hmong của Vang Pao cho nên Buell mới được triệu hồi về Vientaine để hội ý. Vài tháng trước, trong một cuộc họp với 1 người trong nhóm Vang Pao, Buell được biết kế hoạch di dân gồm khoảng 200 làng và được xem bản đồ những địa điểm định cư mới. Buell là người Mỹ duy nhất biết các nơi chốn ấy.
Trong vòng 3 tháng, mỗi ngày Buell và các tình nguyện viên khác chất những bao gạo (96 cân Anh 1 bao), quần áo, thuốc men từ nhà kho ở Vientaine lên phi cơ C-47 rồi theo phi cơ đến các nơi khắp Cánh Đồng Chum. Khi họ bay qua một khu tạm dựng lều của Hmong, Buell buộc giây an toàn vào bụng, đạp những món hàng USAID rơi xuống đám người Hmong vẫy gọi bên dưới.
Chuyến bay đầy nguy hiểm. Chỗ dựng lều tạm của Hmong thường khuất trong những đỉnh núi cao, một chút bất cẩn là máy bay va vào núi. Máy bay còn bị xạ kích bởi những lực lượng bên dưới. Một phi vụ, Buell đếm 27 lỗ đạn trên 2 cánh máy bay. Mùa mưa thì nguy hiểm hơn. Bay trong điều kiện tầm nhìn xa là zero, va vào núi là một đe dọa thường xuyên. 23 nhân viên cứu trợ chết vì tai nạn máy bay va vào núi.
Vài ngày trong công tác, Buell phát hiện 1 nhóm Hmong đi về hướng Nam, không đi về những chỗ Vang Pao chỉ định. Họ mới chính là những người tị nạn chiến tranh thực sự, không bị Vang Pao cũng như ai xúi giục, và họ đông đến 50000 người. Buell nghe đồn về tin ngừng bắn. Ông hy vọng tin này thành sự thực. Nếu chiến tranh chấm dứt, dù chỉ tạm chấm dứt, ông vẫn còn cơ hội đổ hàng cứu trợ xuống đoàn người khốn khổ, không nhà cửa, không thực phẩm đang chết dần mòn vì đói khát hay bị Cộng Sản tàn sát.
Chương 10
Trong lúc tìm một giải pháp chính trị.
Trong vài tuần lễ đầu nhậm chức tổng thống, phúc trình về những chiến thắng của Cộng Sản ở Lào đến bàn giấy Kennedy mỗi ngày. Trót tuyên bố trong bài diễn văn nhậm chức: ”trả bất cứ giá nào, gánh bất cứ gánh nặng nào …để bảo đảm sự tồn tại và thành công của tự do,” ông phân vân không biết có nên gửi quân sang Lào không. Ông hội ý với bộ Tổng Tham Mưu để tìm phương cách giải quyết.
Các tướng lãnh không nói với Kennedy điều ông muốn nghe. Biện pháp quân sự chỉ được sử dụng nếu tổng thống muốn một cuộc chiến tranh quyết liệt và toàn diện ở Á Châu. Bắc Việt sẽ tham chiến, và Trung Cộng. Nó sẽ là một chiến tranh lớn lên đến một phần tư triệu binh sĩ Mỹ - mọi thứ đều lớn như cuộc chiến tranh Đại Hàn. Kennedy hỏi chúng ta có đủ quân số nếu Trung Cộng tham chiến. Kế hoạch điều binh duy nhất các tướng lãnh có thể dùng đối phó với Trung Cộng là vũ khí nguyên tử.
Trong khi Kennedy không chùn lại với ý tưởng một cuộc chiến lớn ở Đông Nam Á, Lào có vẻ không phải là điểm khởi chiến. Quốc gia này không ổn định về mặt chính trị và không hiệu quả về mặt quân sự. Nằm sâu trong đất liền, quốc gia này không có biển khiến việc tiếp tế quân sự rất khó khăn – Giống như nhận xét của Eisenhower bác bỏ việc gởi quân sang Lào trước đây. Với Kennedy, Việt Nam là nơi khởi đầu hợp lý hơn nếu phải khởi đầu một cuộc chiến.
Những nhận xét này củng cố sự hấp dẫn của 1 giải pháp chính trị ở Lào: thiết lập 1 chính phủ liên hiệp gồm Pathet Lào, Trung Lập cũng như hữu khuynh thân Mỹ. Vấn đề là kêu gọi Pathet lào và Trung Lập ngưng chiến, ngồi vào bàn đàm phán. Vì trên đà chiến thắng dồn dập, họ không muốn ngưng chiến. Kế hoạch Kennedy là để thuyết phục Cộng Sản, đặc biệt là người Nga, rằng Mỹ muốn đem quân sang Lào ngăn cản sự chiến thắng của Cộng Sản, dùng tháu cáy (hù dọa) buộc họ ngồi vào bàn đàm phán. Phản ứng của Sô Viết rất quan trọng vì sự thiết tưởng (sai) rằng Sô Viết hoàn toàn khống chế các phong trào Cộng Sản Trung Cộng, Lào và Việt Nam. Cũng thế, vì Sô Viết võ trang cho Trung Lập và Pathet Lào bằng kho vũ khí ở Kiev và Minsk, cả 2 nhóm này lệ thuộc vào ý muốn Sô Viết. Nếu Sô Viết ngưng không vận vào cánh đồng, cả 2 quân đội này sẽ ngưng hoạt động.
Đầu tháng Ba năm 1961, Kennedy bắt đầu tháu cáy bằng một lá thơ gởi cho Khrushchev tuyên bố quyết tâm bảo vệ Lào, ngay cả nếu phải đổ bộ quân lên đất Lào. Theo sau lá thư là cuộc phô trương sức mạnh quân sự. Trong khi Đệ Thất Hạm Đội vào vịnh Thái Lan, 500 binh sĩ Mỹ xuống phi trường Udorn ở Thái Lan, cùng với một phi đội trực thăng tạo ấn tượng binh sĩ sẽ được sử dụng như lực lượng cơ động trực thăng vận trên chiến trường Lào. Để tô đậm hình ảnh này, tiếp liệu quân sự được dự trữ trong những căn cứ ở Thái Lan, gần biên giới Lào.
Một hành động cuối cùng được thực thi nhằm thuyết phục Sô Viết về quyết tâm Mỹ. Kennedy ra lịnh một chiến dịch đặc biệt phát động cùng một lúc với cuộc đổ bộ Cu Ba vào trung tuần tháng Tư. Một khi cuộc đổ bộ Cu Ba tiến hành, một phi đoàn oanh tạc cơ B-26 cất cánh từ căn cứ không quân Tahkli ở Thái Lan sẽ dội bom Cánh Đồng Chum và các vị trí Pathet Lào khác trong thung lũng Ban Ban. Các đơn vị Hmong, cùng với 300 binh sĩ thủy quân lục chiến không vận từ Xung Thằng (Okinawa) sẽ tấn công các lực lượng Cộng Sản khắp nơi trên cánh đồng.
B-26 không hề cất cánh và thủy quân lục chiến không hề đổ bộ. Khi cuộc tấn công Cu Ba thất bại, Kennedy đình chỉ chiến dịch phía Lào. Nhưng vẫn có mẫu hạm ngoài khơi Thái Lan, 500 binh sĩ trên đất Thái Lan, phi đoàn trực thăng và chiến cụ dự trữ gần biên giới Lào – đủ để thuyết phục Sô Viết rằng người Mỹ không chỉ nói suông. Kennedy lên đài truyền hình, với bản đồ, đồ thị và lập luận “tự do của Lào là tự do của Mỹ,” và một đe dọe Lào là một đe dọa cho an ninh quốc gia Mỹ.
Người Nga mắc lừa bởi màn kịch của Kennedy và thúc đẩy một giải pháp điều đình. Bắc Việt chống đối ý tưởng này. Phoumi Nosavan cũng thế vì nhận ra rằng một chính phủ liên hiệp sẽ chấm dứt tham vọng độc tài quân phiệt hữu khuynh của ông. Người Nga không đếm xỉa Hà Nội, tuyết phục Trung Lập và Pathet Lào bước vào bàn hội nghị. Noi theo Nga, Hoa Thịnh Đốn gạt Phoumi ra rìa và tạo áp lực lên thủ tướng Boun Oum bắt đầu tiến trình tạo dựng một chính phủ liên hiệp.
Một cuộc hưu chiến bắt đầu ngày 3 tháng Năm năm 1961. Hai tuần lễ sau, cuộc đàm phán bắt đầu ở Geneva, gồm đại biểu 14 quốc gia, trong đó có Mỹ, Nga, Trung Cộng, Bắc Việt và đại biểu phe Khuynh Hữu, Trung Lập và Pathet Lào. Để làm mạnh uy thế đàm phán, Kennedy ra lịnh điều 5000 binh sĩ sang Thái Lan.
Tại hội nghị Geneva, Sô Viết có vẻ cũng nhiệt tâm như Mỹ trong việc lập một chính phủ liên hiệp. Nhưng Trung Cộng theo sau Bắc Việt cố tình trì hoãn. Rõ ràng có sự bất đồng sâu sắc giữa Trung Cộng và Sô Viết. Trong khi Khrushchev muốn cải thiện ngoại giao với Mỹ và Tây Phương, Mao Trạch Đông vẫn khăng khăng cổ võ cho cuộc chiến đấu vô tận chống chủ nghĩa tư bản khắp Thế Giới Thứ Ba. Trung Cộng ngoan cố trong vấn đề này và dùng các hội nghị Cộng Sản quốc tế làm diễn đàn đả kích Khrushchev. Để trả đũa, Sô Viết cắt đứt mọi viện trợ quân sự và kinh tế cho Trung Cộng.
Căng thẳng giữa 2 nước Cộng Sản đầu sỏ có thể thấy rõ ở hội nghị Geneva. Sau một phiên họp nhàm chán không kết quả, đại biểu Sô Viết, Andrei Gromyko nhận xét một cách châm biếm rằng:” Người ta không thể ngồi vô hạn bên bờ hồ Geneva đếm thiên nga.” Kiểm tra số thiên nga hồ Geneva cũng chẳng sao đối với Trung Cộng. Đại biểu của họ đã ký mướn dài hạn 1 biệt thự, tỏ dấu từ lúc đầu rằng họ định kéo dài đàm phán càng lâu càng tốt, đủ thời gian cho Pathet Lào, Trung Lập và Bắc Việt vận động những cuộc hành quân tấn chiếm các vị trí chiến lược để nắm ưu thế đàm phán.
Padong bị vây hãm.
Trong khi đàm phán kéo dài ở Geneva, Cộng Sản chuyển quân đến Padong, đe dọa tiêu diệt quân đội Hmong đang thời kỳ sơ sinh của Vang Pao. Mục tiêu không phải là làm tăng uy thế trên bàn hội nghị tại Geneva, nhưng là để loại trừ một kình địch duy nhất có thể đe dọa lực lượng Pathet Lào và Bắc Việt. Suy luận này dựa vào một trận đánh, cuộc bao vây Muong Ngat.
Trước khi có cuộc ngừng bắn chuẩn bị hội nghị, Bắc Việt đã đánh một trận thăm dò sức mạnh của các căn cứ “Động Lượng” vối cuộc tấn công vào San Tiau. 300 Hmong đồn trú tại đây, cùng vối 1 toán Không Cảnh và 2 nhân viên CIA, Shirley và Ahern. Họ cố thủ được 3 ngày. Sắp sửa bị tràn ngập, Shirley ra lịnh bỏ trại. Hmong biến vào trong núi. Phi công Air America không vận người Thái Lan và người Mỹ bằng trực thăng.

Mục tiêu tiếp theo của Bắc Việt là một căn cứ “Động Lượng” ở Muong Ngat, phòng thủ bởi 1 đại đội Hmong, 6 Không Cảnh Thái Lan và một số người Khmu. Tất cả chui rúc trong một trại binh đổ nát người Pháp bỏ lại trước đây. Người Pháp dựng đồn này trên một đỉnh cao để theo dõi lưu thông từ biên giới đến đường 4. Đến nay nó vẫn là một cứ điểm chiến lược và Bắc Việt muốn chiếm nó.
Chỉ huy trưởng Muong Ngat là Ly Ndjouava, 2 năm trước tình nguyện xung phong vào đèo Gà Gáy cùng với Vang Pao truy đuổi tiểu đoàn 2 Pathet Lào của Niem Chan, bắn hạ đặc công Bắc Việt. Nhớ hành động anh dũng của Ly Ndjouava, Vang Pao giao cho anh ta chỉ huy đại đội phòng thủ Muong Ngat.
Khi Bắc Việt tấn công Muong Ngat, Ndjouava đã cảnh bị. Hai tuần trước, Vang Pao đã liên lạc vô tuyến với Ndjouava thông báo 1 tiểu đoàn Bắc Việt phối hợp với vài đại đội Pathet Lào, đang tiến quân trực chỉ Muong Ngat. Vang Pao chỉ thị Ndjouava mộ thêm quân ở các làng trên núi và đồng thời đánh quấy nhiễu làm chậm bước tiến địch. Trang bị với carbine thời Đệ Nhị Thế Chiến, tình nguyện quân Hmong gồm vài trăm Hmong phục kích Cộng Sản nhiều lần, đủ thì giờ trì hoãn 1 tuần cho Ndjouava chuẩn bị hầm hố phòng thủ trên núi. Toán Không Cảnh chỉ Hmong cách dùng súng máy bắn giăng lưới và gài mìn chống tấn công.
Cộng Sản tấn công Muong Ngat ngày 12 tháng Năm năm 1961, với 1 lực lượng gồm 900 Bắc Việt và 400 Pathet Lào, tỷ số chênh lệch là 15 chọi 1. Cộc tấn công bắt đầu bằng súng cối và đại bác không giật. Trong vòng vài giờ, Cộng quân bao vây hoàn toàn căn cứ. Sáng hôm sau, hàng đợt sóng Bắc Việt leo lên núi. Quân phòng thủ đốn ngã từng đợt bằng súng máy và mìn chống biển người tạo những lỗ hổng trong các đội hình tấn công. Xạ thủ Hmong hạ các sĩ quan Bắc Việt từng người. Họ rất dễ nhận, đứng thẳng trên mặt phẳng dưới chân núi, với một binh sĩ đeo máy truyền tin bên cạnh, quan sát chiến trường bằng ống nhòm.
Bắc Việt tấn công cho đến chiều, xác chết binh sĩ chất chồng xung quanh. Quân phòng thủ đã chuẩn bị cho điều tệ nhất. Những ngày Cộng Sản chưa đến, họ đào sâu vào trong núi một đường hầm dẫn đến một con suối. Khi Bắc Việt và Pathet Lào chọc thủng được tuyến phòng ngự, Hmong bắn xả đạn (không cần ngắm) và đánh cận chiến. Chỉ 23 người sống sót chui xuống hầm, để lại xác 60 đồng đội.
Hmong trên các đỉnh đồi kế cận theo dõi trận chiến từ đầu đến cuối, tường thuật cho Vang Pao. Họ mô tả xác địch quân la liệt khắp bãi chiến trường và 23 đồng đội sống sót của họ được dân làng dẫn vào núi trốn thoát. Ly Ndjouava trong số kẻ sống sót. Vang Pao định thăng thưởng cho Ndjouava nhưng trước tiên phải đưa anh đến nơi an toàn đã. Vang Pao liên lạc vô tuyến với anh và cho vị trí nhận thả dù tiếp tế. Gần 1 tháng, Ndjouava len lỏi 80 dặm núi rừng, trốn tránh lùng sục của Cộng Sản mới đến được Pa Dong. Anh đến nơi để chứng kiến Pa Dong rơi vào tay giặc.
Theo một lời kể, tin thất thủ Muong Ngat rúng động tinh thần binh sĩ Muong Ngat. Thực tế, Vang Pao hài lòng với kết quả. Chỉ 1 đại đội Hmong loại khỏi vòng chiến 20 sĩ quan Bắc Việt, trong đó có 1 đại tá, sát thương 300 quân địch. Cuộc tử thủ Muong Ngat khẳng định sự huấn luyện và trang bị chu đáo có thể chống chỏi, đánh bại quân địch thiện chiến. Theo lời Vang Pao:” Bắc Việt đã biết năng lực của chúng ta, có thể gây tổn thất nặng nề cho họ trong chiến đấu.”
Trận chiến Muong Ngat gây kinh hoàng cho Cộng Sản. Họ thường chiến thắng quân lực hoàng gia Lào vì thiên hướng bỏ chạy tán loạn ở mọi cuộc chạm súng. Hmong chiến đấu gần như đến người cuối cùng. Theo báo cáo Bắc Việt và pathet Lào, họ thiệt hại gần 1000 thương vongtrong những tháng đầu năm 1961, hầu hết dưới tay lực lượng Hmong của Vang Pao khiến việc trừ khử Hmong ở Pa Dong là việc buộc phải thi hành trước khi quân đội Hmong ở pa Dong có dịp lớn mạnh.
Những tuấn đầu tháng Năm, 1961, Bắc Việt đào các bãi đặt trọng pháo trên triền dốc trong tầm bắn vào căn cứ Pa Dong. Trái đạn đầu tiên rơi vào căn cứ ngày 15 tháng Năm. 11 ngày sau, Pa Dong tơi bời trong mưa pháo. Sau 2 ngày tạm ngớt, thêm 400 trái đạn trọng pháo rót vào căn cứ. Cộng Sản cũng bắn hạ 1 trực thăng gây tử thương 2 phi hành đoàn và 1 cố vấn quân sự MAAG.
Người Mỹ ở Pa Dong không muốn tin địch quân là bọn Bắc Việt. Vang Pao tung quân thám báo tìm bằng chứng. Một đơn vị mang về một xâu vành tai người. Vang Pao cắt nghĩa cho toán White Star (có 2 lực lượng yểm trợ Hmong: lực lượng CIA và Không Cảnh Thái Lan của họ, lực lượng thứ 2 là nhóm White Star gồm biệt kích trực thuộc quân đội. Xin ghi nhớ điều này.) rằng trái tai người Việt nhọn hơn Pathet Lào. Bill Chance, trưởng toán White Star vẫn không tin vì sự phân biệt hình dạng tai không có cơ sở khoa học.
Cuộc tấn công Pa Dong tăng cường độ vào đầu tháng Sáu năm 1961, dẫn đầu bởi trung đoàn biệt lập 148 Bắc Việt. Lúc 10 giờ sáng, 1200 binh sĩ Cộng Sản bám vào được một điểm tựa trong thung lũng nhìn lên căn cứ Pa Dong trên đỉnh núi. Họ di chuyển súng cối lên sườn đồi bắn vào tuyến phòng thủ vòng ngoài của quân phòng thủ, buộc Hmong phải thối lui.
Lúc này đang trong mùa mưa nên quân tấn công tiến quân rất khó khăn. Suốt 1 tuần, sương mù bao phủ Pa Dong. Vẫn có những cơn mưa tầm tã nhưng sương mù ẩm ướt không thôi cũng đủ biến chiến trường thành những triền dốc lầy lội và trơn trợt. Trong khi quân Bắc Việt leo dốc thì Vang Pao tái bố trí súng máy và súng cối. Toán White Star giúp Hmong điều chỉnh tầm bắn. Những đạn cối và súng máy làm chậm thêm bước tiến quân địch.
Hai ngàn gia đình binh sĩ Hmong ở Pa Dong sống trong những lều do CIA và cố vấn Mỹ cung cấp. Quan tâm chính của Vang Pao là cản trở Bắc Việt đủ cho trẻ em và phụ nữ di tản về phía bên kia mũi tấn công, đi đến chỗ an toàn. Trong khi binh sĩ Hmong cố thủ, gia đình của họ bỏ lều xuống núi. Chiều xuống, Cộng quân mang được súng cối vào tầm bắn. Chúng bắn tan nát những mái lều mà ngỡ rằng đã tiêu diệt thành công “dân của địch.”
Edgar Buell, nhân viên cứu trợ tị nạn USAID, đến Pa Dong vào buổi sáng, trước khi trận đánh khởi sự. Ông đến từ Ban Na, 1 làng núi Tây Bắc Pa Dong, nơi trung tâm tị nạn đầu tiên và chính thức của dân Hmong trong chiến tranh. Buell thấy Ban Na từ trực thăng trong một chuyến bay tìm người tị nạn trong rừng. Ông phát hiện 5000 người Hmong chen chúc trên chóp một đỉnh núi. Ông xuống trực thăng tìm hiểu họ cần những gì. Họ hết thực phẩm đã 3 tuần. Trẻ em mặt hóp lại vì đói ngồi đờ đẫn trong bùn, những vết sướt trên mặt đã đóng những vẩy mủ khô. Buell thấy 1 em bé tí hon gần như xác khô vì đói, cố sức tàn bú vào đôi vú lép của người mẹ. Nhiều trẻ sơ sinh khác đã chết.
Hai lần Buell nghe tiếng súng báo hiệu người chết khi đang quan sát ngưòi tị nạn. Súng báo hiệu là 3 phát bắn chỉ thiên bằng súng hỏa mai. Ông gọi USAID ở Vientaine và cả ngày hôm ấy, ông điều khiển việc tiếp vận gạo, muối, chăn mền, quần áo và thuớc men. Đối với vài người xấu số, cuộc cứu trợ quá trễ. Súng báo tử vẫn thỉnh thoảng nổ suốt đêm. Tiếp vận đổ xuống thêm sáng hôm sau. Mất 3 ngày, súng hỏa mai mới ngừng báo tử.
Khi Buell ngồi ở Pa Dong, ngồi lẫn lộn với người tị nạn bên sườn đồi, nép mình theo tiếng nổ trọng pháo bắn vào trại lều bỏ trống bên dưới, ông đột nhiên sợ, muốn quay lại Ban Na. Một cô gái Hmong 14 tuổi vịn vai ông ta. Cô mang một cây súng Garand M-1 Mỹ. Một dây đạn tự may lấy bắt chéo với những băng đạn trĩu nặng trên bờ vai gầy guộc thả lủng lẳng xuống hông. “Đừng sợ,” cô trấn an. “Tôi sẽ bảo vệ ông.” Cô chĩa họng súng về phía quân thù bắn một phát và quay nhìn ông cười. Buell cảm thấy hết sợ sệt. Vang Pao yêu cầu ông tập họp phụ nữ, trẻ em chuẩn bị di tản. Cộng Sản không tha bất cứ ai còn sống.
Mưa bắt đầu nặng hạt lúc mặt trời lặn. Tiếng mưa rơi hòa lẫn tiếng trọng pháo ầm ỳ như tiếng nước lũ cuồn cuộn dưới mương trong cơn lụt. Vang Pao ra lịnh khởi hành. Đoàn người khốn khổ nối nhau một hàng dài, uốn khúc ngoằn ngoèo xuống chân núi, bám vào những dây leo cho khỏi ngã trên sình lầy. Những em bé ướt đẫm nước mưa, có em mới đẻ được vài ngày, được hân hạnh nếm mùi giải phóng, ngọ nguậy trong cái địu trên lưng mẹ, bình thản bú ngón tay. Cộng Sản đã từng nắm chân những em bé này, quật đầu vào tảng đá. Họ đi 18 giờ trong mưa, tiếng súng ở Pa Dong mới lắng dịu khỏi tầm nghe.
Đoàn người đi thêm 1 ngày nữa trước khi đến Yat Mu, một ngọn núi đã chật ních người tị nạn. Họ là những người dân từ cuộc hành quân mở rộng địa bàn của Cộng quân từ Cánh Đồng Chum. Mục đích là mộ quân, cững bách dân công, cướp thuốc phiện và lúa gạo Hmong. Nhiều làng trong khu vực đã đến Yat Mu trước đoàn người đến từ Pa Dong. Tổng cộng con số lên đến 9000 người, chen chúc nhau để tự an ủi, chia sẻ đồ ăn mang theo và dần dần chết vì đói. Khi Edgar Buell đến với đoàn người ở Pa Dong ( đáng phục con người này. Chắc chắn ông chia sẻ sống chết với họ không phải vì tiền lương 65 Mỹ kim 1 tháng của cơ quan thiện nguyện quốc tế IVS (International Voluntary Service) ông đi vòng quanh để tìm phương án cứu trợ. Ông vô cùng ngạc nhiên khi tìm thấy đã có những người thiện nguyện trên núi, dẩn đầu bởi Felix Romero, 1 bác sĩ trong chiến dịch Huynh Đệ, một cơ quan y tế tư nhân Phi Luật Tân. Nhóm của Romero chỉ là 1 phần của hàng trăm người Phi Luật Tân đến Lào bởi sự vận động của CIA, phần nhiều trong số họ là những cựu chuyên viên quân sự thời thập niên 1950 đánh tan phiến Cộng “Huk” trên đảo Negros và Panay, Phi Luật Tân. Một cách chính thức, những cựu binh sĩ Phi Luật Tân này là nhân viên dân chính của công ty xây dựng miền Đông, trụ sở ở Manila, thầu xây cất đường sá Lào. Công việc chính của họ là huấn luyện binh sĩ Lào và cùng chiến đấu với họ. Một số sau này sẽ chiến đấu chung với người Hmong.
Romero thông báo Buell rằng dân của ông không có gì ăn đã nhiều ngày. Thời tiết xấu khiến Vientaine không thể thả dù tiếp tế. Thêm vào đó, Romero đang chiến đấu chống bịnh kiết lỵ đang lan tràn, và đang thua trận vì thếu thuốc. Ông sợ rằng nếu tiếp tế không đến kịp, người tị nạn sẽ chết tập thể. Hàng trăm người đã chết khi Romero và Buell cầu nguyện cho thời tiết trở nên tốt hơn. Không muốn chờ chết, nhiều Hmong nuốt thuốc phiện tự tử. Một ngàn người khác vì quá đói và tuyệt vọng, bỏ trại đi lang thang vào rừng tìm chỗ khác, hy vọng có thực phẩm. Với điều kiện sức khỏe như thế, chắc chắn họ chết trong vòng vài ngày. Ngày thứ 11, lời cầu nguyện của Buell và bác sĩ Romero đã được đáp ứng. Trời quang đãng trở lại và máy bay vận tải từ Vientaine thả dù gạo, muối, chăn mền và thuốc men.
Lúc này vang Pao đã lập bộ chỉ huy mới ở Pha Khao. Ông rời Pa Dong bằng trực thăng sau khi đoàn người tị nạn đã đi khỏi. Còn lại là vài trăm du kích Hmong, Không Cảnh Thái Lan, cố vấn White Star và nhân viên CIA Jack Shirley. Khi Cộng quân tiến đến gần, Không Cảnh Thái Lan và toán White Star cản hậu cho đồng đội mở đường máu. Sập tối, những người sống sót bỏ căn cứ. Không hổ danh những chiến sĩ du kích trời sinh, Hmong lẫn vào trong núi. Trực thăng chỉ việc bốc người Mỹ và Thái Lan bay đến Pha Khao, bộ chỉ huy của Vang Pao trong vòng 16 tháng tới.
Nóng lòng chiến đấu.
Sự thất thủ Pa Dong chỉ tăng cường quyết tâm của Vang Pao về nỗ lực tuyển mộ, võ trang, tình nguyện quân Hmong. Nhưng ngoại trừ binh sĩ ở Pha Khao, và ở 4 căn cứ “Động Lượng” còn lại, ít binh sĩ của ông được võ trang hay huấn luyện. Thèm muốn vũ khí, Hmong đi lùng sục khắp các hang cùng núi hẻm theo những lời đồn rằng vũ khí được thả dù ở chỗ nọ chỗ kia.
Sự kiện hàng ngàn Hmong muốn chiến đấu mà không có vũ khí và không được huấn luyện khiến Vang Pao phàn nàn với Tony Poe và Vinton Lawrence, 2 nhân viên CIA làm việc với ông, về người Mỹ chỉ tiếp tế thực phẩm mà không có vũ khí, đạn dược để họ có thể tự vệ. Buell, phụ trách tị nạn muốn gì cũng có mà ông chỉ muốn vũ khí mà không có. Lair bay đến Pha Khao khuyên Vang Pao nên hạn chế sự mong mỏi, bằng lòng với những gì mình đang có và tự túc tự cường. Lair biết đàm phán ở geneva có thể đi đến quyết định bỏ rơi Lào hay ít nhất, ngưng yểm trợ Hmong. Lair muốn Vang Pao chuẩn bị cho khả năng phải chiến đấu một mình, không ai trợ giúp.
Lượng định của Lair chỉ nung nấu sự thèm khát vũ khí của Vang Pao. Nếu người Mỹ bỏ cuộc, ông cần dự trữ vũ khí. Yêu cầu võ trang của ông bị làm ngơ cho đến khi Cộng Sản nhiều lần vi phạm ngừng bắn và sự vận động không ngừng của giám đốc Phân Bộ Viễn Đông CIA, ông William Colby, hối thúc tổng thống Kennedy chuyển hướng chính sách. Tháng Tám năm 1961, Kennedy phê chuẩn kế hoạch phát triển quân đội Hmong lên 11000 người.
Lair gởi 5 toán Không Cảnh Thái Lan điều hành thêm 5 trại huấn luyện quanh Cánh Đồng Chum. Để thúc đẩy việc huấn luyện, Lair bắt đầu dùng huấn luyện viên Hmong. Sau một khóa huấn luyện đặc biệt ở bộ chỉ huy Không Cảnh ở Hua Hin, một nhóm gồm 120 tân huấn luyện viên Hmong chia thành 10 toán công tác đặc biệt (SOT, Special Operations Teams) thay thế Không Cảnh ở các căn cứ “Động Lượng”, để các huấn luyện viên Thái Lan rảnh tay điều hành các trại mới. Trong vòng vài tháng, Lair thành lập thêm 12 toán công tác đặc biệt và các Không Cảnh khác đến từ Thái Lan, di chuyển đến Sầm Nứa để mở rộng hệ thống “Động Lượng” về phía Bắc.
Ngay cả PEO, Cơ Quan Thẩm Định Viện Trợ cũng đóng góp vào công cuộc huấn luyện. Vài toán cố vấn White Star ở Sam Thong ở mép Nam Cánh Đồng Chum bắt đầu xây dựng căn cứ tiếp vận lớn, đầy đủ với trung tâm truyền tin và kho dự trữ đe73 phân phối tiếp liệu và vũ khí cho Hmong đang thụ huấn. Toán White Star cũng thiết lập căn cứ huấn luyện riêng để tăng cường nỗ lực Không Cảnh.
Nhiều Hmong hưởng ứng tòng quân trong chiến dịch “Động Lượng” nhưng Lair biết vẫn chưa đủ. Luôn bi quan về kết quả hội nghị Geneva, ông ta cảm thấy Vang Pao phải tạo thế thuận lợi nếu ông có sẵn một đơn vị tinh nhuệ trong tình trạng hiểm nghèo. Theo đề nghị của Lair, Vang Pao gởi 500 binh sĩ thiện chiến nhất đến Hua Hin thụ huấn bổ túc 1 tháng để thành lập đơn vị biệt kích đầu tiên SGU (Special Guerrilla Unit), một đơn vị cấp tiểu đoàn, nòng cốt của binh lực Hmong.
Vang Pao bây giờ nắm một lực lượng 7000 du kích vũ trang, huấn luyện đầy đủ. Tuy nhiên chỉ 1 phần của lực lượng này liệt vào hạng đáng nể: tiểu đoàn biệt kích SGU duy nhất và vài chục toán huấn luyện viên SOT chuyên về xung kích cảm tử. Tất cả binh sĩ còn lại đóng rải rác trên Cánh Đồng Chum, tổ chức thành những đại đội dân sự chiến đấu (ADC, Auto Défense de Choc) một danh xưng rôm rả gọi các lực lượng bán quân sự địa phương. Dân sự chiến đấu ADC có khả năng bảo vệ căn cứ nhưng thiếu tổ chức, huấn luyện cho những cuộc hành quân tấn công.
Quan điểm của Hoa Thịnh Đốn đây là tình trạng tốt vì sự tinh tế của cuộc hội nghị Geneva. Kennedy không muốn những lực lượng bán quân sự Hmong phát động tấn công tạo lý do cho Cộng Sản trì hoãn việc ký kết hiệp định. Vang Pao được khuyến cáo hạn chế các hoạt động quân sự, chỉ còn các công tác tình báo, phòng thủ đơn vị và các trại tị nạn.. Để đảm bảo, Air America của CIA chỉ viện trợ nhỏ giọt cho quân đội Vang Pao. Vài cấp chỉ huy của Vang Pao trên chiến trường, nóng lòng chiến đấu, tìm cách trái lịnh, tự tìm địch mà đánh.
Yang Youa Pao chỉ huy 1 đại đội dân sự chiến đấu ở Tha Lin Noi, 1 trong 7 căn cứ nguyên thủy của “Động Lượng”. Dù vóc dáng thấp lùn,(4 feet 9 inches) Youa Pao là một dáng dấp đầy dọa nạt. To như một gốc cổ thụ và gương mặt luôn cau có, lúc nào ông cũng đeo xề xệ ngang hông khẩu súng lục bá bằng ngọc thạch. Ông thường rút súng mỗi khi ra lịnh, đôi khi bắn chó của dân làng mỗi khi cần thị uy. Ông dữ tợn và gan dạ. Khỏi nói thuộc hạ ông đều răm rắp tuân lịnh.
Tháng Tư, Youa Pao được tin tình báo Cộng quân xuất hiện quanh vùng và xin phép xuất quân. Vang Pao ra lịnh Youa Pao án binh bất động.. Vài tuần sau nhận thêm những phúc trình hoạt động địch, Youa Pao lại xin phép Vang Pao mở cuộc hành quân. Lần nữa, ông lại được lịnh ém quân. Đến tháng Sáu, Youa Pao không chịu nổi nữa khi thấy địch quân nghênh ngang trong địa bàn của mình, ông dẫn đại đội xuất quân hướng Tây Bắc đến Phong Savan.
Thời Pháp thuộc, Phong Savan là trung tâm thương mại. Những con buôn nha phiến tụ họp nơi đây từ Bắc Lào để chuyển hàng về Vientaine hay Sài Gòn. Phi công chở hàng người Pháp la cà ở các quán rượu. Các con buôn mua sắm ở các cửa tiệm, quán ăn và các chợ lộ thiên ở thị trấn Phong Savan. Hmong ở Cánh Đồng Chum cũng tề tựu họp chợ, nhiều kẻ lội bộ hàng mấy ngày đường, bán nông phẩm và mua sắm những hàng nhập cảnh Pháp như lược, nữ trang, nước hoa, vải vóc, kìm búa, radio và máy chụp hình. Thị trấn là một biểu tượng trù phú và thịnh vượng, một triển lãm hào nhoáng văn minh kỹ thuật Tây Phương.Giải phóng thị trấn này khỏi tay Cộng Sản là một khích lệ tinh thần to lớn đối với Hmong tỉnh Xiêng Khoảng.
Youa Pao đến Phong Savan từ hướng Đông, lách qua các toán tuần phòng Pathet Lào cho đến khi tới đỉnh núi ngó xuống phi trường thị trấn. bên dưới, binh sĩ Pathet Lào đang rỡ hàng từ 1 vận tải cơ Ilyushin của Sô Viết. Youa Pao dẫn quânmen xuống núi, băng qua 1 rừng tre đến một cánh đồng cỏ voi mọc lấn đến tận hàng rào phi trường. Ba du kích ở lại trên đỉnh cao chuẩn bị súng cối, chờ lịnh khai hỏa. Khi được lịnh, họ nã đạn xuống phi trường. Khi đạn cối nổ trên phi đạo, Youa Pao và binh sĩ xung phong từ đồng cỏ. Bọn kỹ thuật Nga, Bắc Việt và pathet Lào nhảy lên xe tải chạy khỏi Phong Savan. Trong vòng vài phút, cả phi trường không còn bóng một tên Cộng Sản.
Youa Pao chiếm phi trường và chờ địch hoàn hồn, tổ chức phản công. Chờ đến tối không thấy địch trở lại. Lúc này Vang Pao đã biết quân của ông chiếm phi trường. Ông hạ lịnh Youa Pao rút quân ngay tức khắc. Viên chỉ huy mập lùn chờ thêm vài tiếng, hy vọng Cộng quân tấn công để có cớ nán lại. Chờ mãi không được, bất đắc dĩ ông cho quân rút lui.
Sau vài tuần ăm không ngồi rồi ở Tha Lin Noi và nổi nóng, Youa pao lại dẫn quân đi tìm địch, lần này hướng về nam tới thành phố Xiêng Khoảng, chỉ cách 1 ngày hành quân từ căn cứ của ông. Giống như lần trước, Cộng quân bỏ chạy sau khi nghe tiếng súng khai hỏa. Youa Pao và binh sĩ của ông ta chờ địch quân trở lại phản công.
Vang Pao giận tím mặt. Nếu Cộng quân phản công và một trận chiến lớn bùng nổ, làm sao ăn nói với cố vấn Mỹ về việc ngăn trở cuộc đàm phán đang diễn ra ở Geneva. Vang Pao ra lịnh cho Youa Pao rút quân khỏi thành phốvà chửi mắng Youa Pao thậm tệ trước đại đội. Youa Pao bỏ quân ngũ, đi biệt tích, rồi xuất hiện trở lại sau 2 năm, có lẽ đã nguôi giận. Lần này ông lại chỉ huy 1 đại đội khác. Ông tham dự nhiều trận đánh và bị thương nhiều lần. Gần cuối cuộc chiến, Vang Pao thưởng ông một chức vụ hành chính tỉnh Xiêng Khoảng.
Long Cheng.
Khi hội nghị Geneva bưiớc vào vòng kết thúc, Vang Pao dời bộ chỉ huy từ Pha Khao đến Long Cheng, một thảo nguyên miền cao dài 5 dặm phía Nam Cánh Đồng Chum. Nhân viên CIA Bill Young phát hiện ra chỗ này. Công tác mới của Young sau khi thất thủ Pa Dong là tìm những vị trí mới có thể xây dựng các căn cứ “Động Lượng”. Ông thám hiểm các vùng đất Nam cánh đồng, nới dần về hướng Tây theo hình cánh cung đến tận tỉnh Sayaboury, nơi gọi là an toàn khu, theo yêu cầu của Lair, làm địa điểm rút quân tiên liệu cho Hmong. Trong cuộc thám hiểm Young tiếp xúc với các trưởng làng Hmong và tìm thấy vài địa điểm huấn luyện lý tưởng. Cứ điểm quan trọng nhất là Long Cheng.
Cảnh tượng ở đây là một kỳ quan hùng vĩ. Những ngọn núi đá vôi sừng sững trên cao nguyên là pho tượng điêu khắc thiên nhiên, những đỉnh cao của nó tạo thành một hệ thống nối kết những dãy đồi ngoằn ngoèo với những đỉnh núi sắc cạnh, gọt đẽo hàng nghìn năm bởi mưa mùa. Sương mù như vấn khăn trên cácđỉnh cao hơn. Một tấm rêu xanh đậm như vạt áo choàng đắp lên các sườn đồi. Những cây rừng đầy mắt mấu với những nhánh xoắn thành những hình thù cổ quái bám chênh vênh trên sườn dốc. Nhiều năm sau khi phi công Mỹ nhập bọn với đám nhân viên CIA, Không Cảnh, cố vấn quân sự Mỹ ở Long Cheng, ai cũng há hốc miệng chiêm ngưỡng quang cảnh hùng vĩ diệu kỳ trong buổi tham quan đầu tiên tại đây. Nó là bức tranh sơn thủy sống động của bức họa cổ Trung Hoa, 1 Shangri-La, một nơi chốn vượt thời gian và vẻ đẹp khó tưởng.
Young chọn Long Cheng không phải vì cảnh tượng hùng vĩ của nó. Điều hấp dẫn ông ta là những dãy núi che chở một thảo nguyên dài, rộng 5 dặm khiến Cộng Sản khó tấn công. Sự phẳng phiu và rộng lớn của nó lý tưởng cho một phi trường lớn. Edgar Buell đến nơi này vì cũng muốn lập 1 phi trường dành cho việc cứu trợ. Ông cấp tốc dời 6000 người tị nạn từ Phao Khao đến Long Cheng, “xí chỗ” nơi có thể trở nên phi trường tiếp vận của người tị nạn kẻo bọn CIA chiếm mất. Rồi ông thuyết phục USAID và CIA xây một phi trường hiện đại để dung nạp những phi cơ vận tải lớn.
Những chuyến bay đầu tiên đến Long Cheng ngoài thực phẩm, thuốc men, quần áo còn chuyên chở hàng tấn vật liệu xây cất. Buell muốn nơi đây thành 1 trung tâm tị nạn kiểu mẫu. Vì CIA sẵn sàng chi phí, ông trù liệu khu dành riêng cho người tị nạn và nhân viên cứu trợ, 1 bệnh xá đầy đủ thuốc men, y cụ, trường học, kho chứa thực phẩm và tiếp liệu. Vang Pao đến trong lúc căn cứ đang xây cất, nhận ra tiềm năng của Long Cheng và dành nó cho riêng ông ta, ra lịnh cho Buell dời trại tị nạn sang Sam Thong 1 làng cách Long Cheng 6 dặm về hướng Bắc.
Trong vòng 2 năm, CIA nới rộng phi trường Long Cheng thành một phi đạo trải nhựa dài 1 dặm, dùng được cho cả phi cơ vận tải hạng nặng và thỉnh thoảng nếu cần, có thể cất cánh những chiến đấu cơ phản lực. CIA cất những kho chứa lớn, nhà cửa, trung tâm truyền tin và 1 tư dinh cho Vang Pao: 1 ngôi nhà 2 tầng bắt chước kiểu khách sạn Motel 6 ngày xưa, với một bao lơn nhỏ trên tầng hai cho tăng vẻ thanh nhã. Văn phòng chính của CIA trong căn cứ là một tòa nhà kiên cố bằng bê tông cốt sắt, có thể chịu được bom. Những cửa cái làm bằng sắt giống như cánh cửa sắt hầm chứa bạc. CIA còn xây một nhà nghỉ mát cho nhà vua Savang Vatthana, nếu ông giá lâm kinh lý nơi đây. (Ông đến đây 2 lần.)
Năm tháng tiếp nối, Long Cheng tiếp tục phát triển, tới giữa thập niên 1960 trở thành 1 trong những căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ ở nước ngoài, và là trung tâm hoạt động CIA lớn hàng thứ nhì trên thế giới, với Ari America và sau này thêm Continental Air Services- bận rộnsuốt ngày đêm chuyển quân, chuyển hàng đi khắp nơi. Nơi chất hàng lớn và bận rộn hơn một ô phố thị sầm uất. Gần cuối cuộc chiến, lưu thông trên không phận Long Cheng còn đông đảo hơn phi trường quốc tế O’Hare ở Chicago.
Để ngụy trang cho hoạt động quân sự khổng lồ này, những tổ chức nhân đạo như USAID và IVS(International Volunteer Service) được dùng như mặt tiền của căn cứ. Thêm vào việc cung cấp thực phẩm và thuốc men cứu trợ, USAID và IVS trở nên đường ống tuôn chảy vũ khí, đạn dược của CIA, giao kèo với Air America phân phối 2 loại mễ cốc: Gạo mềm cho người tị nạn và “gạo cứng” tức vũ khí, đạn dược cho du kích.
Hoạt động ở Long Cheng rốt cuộc trở nên quá lớn đến nỗi CIA phải mã danh nó bằng tên gọi Địa điểm đổ hàng phụ Số 20 hay 20 A để giảm vẻ quan trọng của nó. Buell đã dời đến Sam Thong sau khi Vang Pao chiếm đoạt Long Cheng của ông. Với Sam Thong là địa điểm đổ hàng chính số 20, Long Cheng là địa điểm phụ, các dân biểu, chính khách, ngoại giao, ký giả nếu viếng thăm chỉ thấy toàn những công việc cứu trợ nhân đạo. CIA hy vọng những chính khách quan trọng sẽ ức đoán rằng địa điểm chính hay phụ chắc cũng chẳng có gì quan trọng đáng phản đối.
Tân chính phủ liên hiệp.
Cuộc điều đình ở Geneva kéo dài gần 1 năm. Đến đầu năm 1962 ngay cả Trung Cộng cũng muốn chấp nhận 1 chính phủ liên hiệp. Trở ngại chính lại là Phoumi Nosavan, người lầm tưởng rằng Hoa Thịnh Đốn không ưa giải pháp Trung Lập. Để thức tỉnh Phoumi, Hoa Thịnh Đốn cắt viện trợ Lào. Vì chính phủ lệ thuộc hoàn toàn vào viện trợ, nó lâm ngay vào cảnh khánh kiệt. Phoumi ra lịnh cho ngân hàng quốc gia in thêm tiền bù vào chỗ mất viện trợ, gây ra nạn lạm phát phi mã. Một biện pháp cũng ngu dại như thế nhưng kém phần tai hại hơn là tổ chức sòng bạc gây quỹ cho chính phủ. Phoumi mở sòng bạc trong một trường học nằm trên đường đi de761n phi trường Wat Tay và phổ biến những bích chương quảng cáo cho địa điểm đó. Sòng bạc thu hút được một số con bạc nhưng không đem lại lợi nhuận mong muốn. Chưa chịu thua cuộc, Phoumi dùng cảnh sát đòi thù lao bảo vệ các thương gia và buộc mọi người đóng tiền hối lộ mọi dịch vụ giấy tờ. Vẫn không đủ chi dụng. Trong tuyệt vọng, Phoumi lập một xưởng điều chế bạch phiến ở ngoại ô Luang Prabang, tuyển dụng cựu binh sĩ trung đoàn 84 Tưởng Giới Thạch chạy sang đây sau khi bị mao Trạch Đông đánh đuổi, chuyên sống bằng nghề mua bán, tinh chế thuốc phiện trong vùng 3 biên giới Lào, Thái Lan, Miến Điện. Vùng này còn lừng danh trên thế giới dưới tên Tam Giác Vàng. Trong một dịp khác, tôi xin kể chuyện tướng Khun Sa và sư đoàn người Shan của ông ở vùng Tam Giác Vàng.
Mặc dù xưởng điều chế tinh phiến mang lại lợi nhuận đáng kể, nó chỉ bù đắp một phần nhỏ ngân sách quốc gia cần để khỏi sụp đổ.
Với tình trạng tài chánh như thế, Phoumi liều lĩnh mở cuộc hành quân bất ngờ tấn công Pathet Lào và Bắc Việt ở Tây Bắc Nam Tha. Phoumi nghĩ nếu ông đánh bại Cộng Sản, người Mỹ sẽ phải coi ông như bậc anh hùng cứu quốc. Nếu ông thua, ông sẽ chạy qua Thái Lan và người Mỹ buộc phải can thiệp để ngăn cản Lào khỏi lọt vào tay Cộng Sản. Với Bắc Việt sát biên giới, Thái Lan phải động binh để tự vệ.
Người Mỹ khuyên Phoumi ngưng cuộc tấn công nhưng ông bướng bỉnh không nghe. Một phần, viên chức CIA đối tác của ông, Jack Hasey khuyến khích. Theo yêu cầu bộ Ngoại Giao, CIA tuyên chuyển Hasey sang một nhiệm sở khác ngoài nước Lào. Ngay cả khi Hasey bị thuyên chuyển, Phoumi vẫn khăng khăng tiến hành cuộc tấn công Cộng Sản. Dĩ nhiên, cuộc tấn công thất bại hoàn toàn. Quân đội Phoumi chiến đấu tồi tệ và bị đánh tả tơi chạy trối chết. Nhân viên quân sự Mỹ thuộc MAAG/Lào (Military Assistance Advisory Group/Laos) khó đứng yên khi quân đội do mình khổ công huấn luyện bị tiêu diệt. 6 toán White Star biệt phái tới chiến trường để cố vấn và chỉ huy binh sĩ Lào trong các trận đánh.
Hà Nội tung 3 tiểu đoàn bộ binh vào trận đánh. Bắc Việt phục kích 1 tiểu đoàn nhẩy dù quân đội hoàng gia sát thương 50/100. Hai tuần sau, trọng pháo Cộng quân nã vào doanh trại quân chính phủ. Sau vài ngày pháo kích, toán White Star không ngăn cản được sự hoảng sợ của binh sĩ. Đột nhiên 5000 binh sĩ bỏ vũ khí, trọng pháo và ùn ùn bỏ chạy. Cộng Sản chiếm ngự những đỉnh núi cao quanh doanh trại xả súng máy bắn xuống đoàn quân bại trận. Binh sĩ sống sót chạy qua biên giới Thái Lan.
Trái với dự liệu của Phoumi, Mỹ và Thái Lan không động binh cứu Phoumi, người mất tất cả uy tín trên cương vị lãnh đạo quân đội. Báo New York Times bình luận:”Hoa Kỳ dánh giá quân đội hữu khuynh Lào như 1 lực lượng chống Cộng vô dụng và do đó mất quan tâm trong việc ủng hộ chính trị các lãnh đạo quân đội của họ.”
Một tháng sau, ngày 11 tháng Sáu năm 1962, Phoumi bị xuống chức từ một nhà độc tài quân sự thành đại biểu thủ tướng trong chính phủ liên hiệp đứng đầu là thủ tướng Souvana Phouma. Viện trợ Mỹ lại bắt đầu tuôn chảy vào bộ Tài Chánh Lào. Tại hội nghị Geneva, đại biểu 14 quốc gia ký kết Tuyên Ngôn Trung Lập Lào trong đó có ấn định tất cả nhân viên quân sự ngoại quốc phải rời vương quốc Lào trong vòng 75 ngày kể từ ngày ký.
Như lực đối trọng với Phoumi, Souphanouvong được mời ra khỏi hang động tỉnh Sầm Nứa để nhận chức đệ nhị đại biểu thủ tướng. Vị hoàng thân đỏ đến thủ đô Vientaine trong một nghi lễ tiếp rước long trọng, với bộ quân phục lãnh tụ cách mạng may cắt theo kiểu Mao Trạch Đông, cận vệ của ông mang theo hộp đựng hình chụp Souphanouvong sống gian khổ trong hang ở Vieng Sai, gò lưng trên cái bàn giấy gỗ tạp dưới những tảng thạch nhũ, viết những mệnh lệnh chỉ đạo con đường dẫn đến vinh quang cách mạng. Thủ đoạn tuyên truyền thành công đến mức báo chí Vientaine bắt đầu gọi các lãnh tụ pathet Lào là người trong hang động. (the cavemen)
Để chào mừng chính phủ liên hiệp, một diễn binh được tổ chức vào tháng Tám năm 1962. Những đơn vị quân sự Pathet Lào, Trung Lập, quân đội hoàng gia diễn hành chung hàng ngũ. Phoumi quan tâm đặc biệt trong buổi diễn hành này. Lộ trình diễn hành phải ngang qua một đài tưởng niệm lòe loẹt trông giống Khải Hoàn Môn của Pháp trước tòa nhà quốc hội. Phoumi dựng đài tưởng niệm này để đánh dấu chính thể độc tài quân sự của ông. Đài tưởng niệm này cũng là chứng tích cho tham nhũng trong chính trị Lào. Xi măng dùng xây cất đài ăn cắp từ dự án kiến thiết phi đạo do USAID tài trợ.
Để sửa sang lại con đường dẫn đến đài tưởng niệm toàn những ổ gà làm xấu đi buổi lễ, Phoumi ra lịnh trải nhựa mới cho con đường để buổi lễ diễn binh thêm phần long trọng.
Hôm ấy trời nóng. Nhựa đường chưa kịp khô. Giày trận của binh sĩ diễn hành lún sâu trong nhựa. Nhiều đôi lún đến tận mắt cá chân. Để tiếp tục diễn binh, binh sĩ phải cởi giày chỉ đi vớ. Sau buổi lễ, con đường dẫn đến Khải Hoàn Môn của Phoumi rải rác những đôi giày vẫn trong đội hình diễn hành – một hình ảnh đáng ghi nhớ cho sự cai trị ngắn ngủi của Phoumi hơn là đài tưởng niệm nguy nga, hợm hĩnh, và có lẽ một ẩn dụ đích đáng cho chính trị Lào một cách tổng quát.
Tài liệu tham khảo:
1) Au pays du millions d'éléphants: Le kh'lăm, Katay D. Sasorith, France Asie 107-1956
2) Le lotus et le dragon célestre, Serc Voravongsa, bản thảo 1985
3) Dictionnaire Lao-Français, T1 & T2, Marc Reinhorn, CNRS 1970
4) VatChaNaNouKom Lao, BQGGD-VQAL, 2505
5) Vatchananoukom Phasa Lao, Thongkham Onmanysone, VT 1992
6) Paphéni Lao, Anada Thera
7) Superstition laotienne, Bourlet A., Missions catholiques N° 38-1906 - Superstitions laotiennes, Excoffon, P. BSME 1923-2
8) Les génies dans la péninsule indochinoise, P.B. Laffont, BEFEO, tV-2, 1942
9) Le Phi Kong Koy, Levy B. PRL
10) Paphéni bouran, Maha Sila Viravong, VT 1958
11) Les sorciers au Laos, Vô Danh
12) Le code des bons usages, Pierre S. Nginn
13) Miami Herald 7/1993
14) Le langage Secret des tarots (nxb Tchou) và Le tarot (nxb Albin Michel)
15) La Voyance (loại sách Que Sais-je?), J.A. dessuard
16) Challenger số 77, 1/1994.
Long Nguyễn 
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tình đẹp mùa chôm chôm

Tình đẹp mùa chôm chôm Vẫn biết trả lời như thế này nó có vẻ thế nào nhưng cho dù thế nào cũng vẫn phải trả lời như thế này. Chắc các bạn ...