Phạm Vĩnh Cư
với văn học Việt Nam
Nhà nghiên cứu, dịch giả Phạm Vĩnh Cư có một sự nghiệp xuyên
suốt chừng già 30 năm (quãng 1990 đến nay), trải rộng qua các không gian địa-văn
học/ văn hóa từ Việt Nam đến châu Âu, đặc biệt là Nga và Nga Xô-viết; lại trên
nhiều bộ môn khác nhau: dịch thuật, nghiên cứu, phê bình, lý luận văn học, triết-mỹ
học, văn hóa học… Ông đã dừng lâu/ sâu với khu vực văn học, văn hóa và triết học
Nga trong cả nghiên cứu và dịch thuật(1). Ở khu vực này, ông đã xác lập tư cách
“Nhà Nga học” hàng đầu trong các nhà Nga học Việt Nam.
Riêng đối với văn học Việt Nam, ông cũng đã có một mối quan
tâm khá rộng. Phải khẳng định rằng, trong hoạt động học thuật của mình, nhà
nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư đã dành cho thực tiễn văn học Việt Nam một mối quan tâm
thích đáng và thực sự có đóng góp vào tiến trình văn học Việt Nam sau Đổi mới. Ở
khu vực này, có những chỗ do công việc, ông chỉ ghé qua như người góp chuyện một
chút rồi phải đi lo việc khác, nhưng vẫn thấy sự nghiêm cẩn học thuật và những
phát hiện độc đáo (khi bàn về nghiên cứu lịch sử văn học, lý luận văn học, phê
bình văn học Việt Nam, cách làm Tổng tập văn học, hoạt động dạy và học ở Trường
Viết văn Nguyễn Du chẳng hạn); nhưng có những chỗ, ông đã chuyên chú tập trung
nghiên cứu đến nơi đến chốn, với một trách nhiệm học thuật cao, trong tư thế đối
thoại lịch sự, và thực sự đã có đóng góp vào khoa học văn học đương đại – tôi
muốn nói đến chùm tiểu luận nghiên cứu bi kịch, văn học bi kịch và kịch nói
chung ở Việt Nam.
1. Xác quyết một lập trường học thuật vững chãi
Nhìn một cách tổng thể, tư duy nghiên cứu của học giả Phạm
Vĩnh Cư dựa trên một lập trường khoa học được cắm chắc bởi hai trụ cột: 1,
tinh thần triết – mỹ văn chương; và 2, ý thức văn hóa học. Điều
này trở thành một phương châm nhất quán, xuyên suốt toàn bộ hoạt động văn học của
ông, cả trong dịch thuật, nghiên cứu, giảng dạy; cả trong toàn bộ những cái viết
ở bất cứ trường hợp nào, quy mô nào.
Nói về “triết-mỹ văn chương”, đây là một tổ từ kép để trỏ một
tinh thần triết học và mỹ học được nhà văn quán chiếu và biểu đạt trong hình tượng
nghệ thuật; đến lượt bạn đọc, trong đó có giới chuyên nghiệp tiếp cận tầng triết-mỹ
này để thấy tầm vóc tư tưởng và chiều sâu của tác phẩm văn học. Nó không phải
là triết học thuần túy, mà là một triết học nhân văn, triết học ngôn ngữ để soi
chiếu tác phẩm văn học. Nó cũng không phải là một thứ mỹ học trên cao, mà là một
mỹ học chiều sâu, thấm nhuần Cái Đẹp trong mối liên hệ tổng thể với các phạm
trù khác (cái bi, cái hài, cái hùng, cái cao cả, cái thấp hèn, cái hài hòa, cái
xô lệch, cái xấu, cái thô kệch…). Và như vậy, không phải tác phẩm nào cũng có
được phẩm chất triết-mỹ này. Chỉ với những tác phẩm lớn của các nhà văn lớn,
tinh thần triết-mỹ mới có thể có và được lan tỏa, thấm sâu vào mọi yếu tố của
chỉnh thể tác phẩm. Nhìn lại hệ thống lý thuyết mang tên “Chủ nghĩa hiện thực
xã hội chủ nghĩa”, nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư lên tiếng: “lý thuyết ấy, với
nhiều quan điểm triết-mỹ thô sơ, phiến diện, xa rời cuộc sống và sớm trở thành
giáo điều, đã ngăn cản sự kế thừa và phát triển trong nền văn nghệ mới, một số
loại hình nghệ thuật tối quan trọng, có truyền thống ngàn đời và có những thành
tựu rực rỡ trong lịch sử văn hóa loài người, trong đó trước hết phải nói đến
các loại hình bi kịch (cũng như, ở cực khác – các loại hình trào phúng)” (1,
tr.84).
Học giả Phạm Vĩnh Cư phân biệt trong nghệ thuật nói chung và
văn chương nói riêng xét theo tiêu chuẩn giá trị có ba loại: Chân nghệ thuật,
giả nghệ thuật và ngụy nghệ thuật. Tuy không dễ, nhưng với hai loại đầu có thể
nhận ra được, còn loại sau cùng rất khó nhận ra, bởi nó hay nhân danh, đôi khi
nó rất giống thật, nên dễ đánh lừa mọi người(2). Thì ra, trước đó, ông cũng đã
suy tư về vấn đề này nhân khi bàn về vấn đề giao lưu văn hóa/văn học với thế giới:
“Nếu khái quát rộng, có thể khẳng định rằng chỉ có sự hiểu biết lẫn nhau thấu
đáo, tường tận chứ không nửa vời giữa các chủ thể giao lưu văn hóa thì mới có
thể ngăn ngừa những sự bắt chước, vay mượn thô thiển, những sự ngộ nhận, lẫn lộn
vàng thau, đề cao những ngụy giá trị, bảo đảm những sự tiếp thu sáng tạo có bản
lĩnh những tinh hoa đích thực của văn hóa nước ngoài để làm giầu cho văn hóa nước
mình” (1, tr.935).
Với trụ cột tư tưởng khoa học thứ hai là ý thức văn hóa học,
tác giả Phạm Vĩnh Cư đã vững chãi trong một quan niệm: khi khoa học xã hội và
nhân văn cùng khoa học văn học phát triển, thì văn học được xem như là thành tố
gắn bó mật thiết với văn hóa; theo đó, không thể nào cắt nghĩa và hiểu được chiều
sâu và tầm cao nghệ thuật của các tác phẩm/tác giả văn học nếu cắt đứt mối liên
hệ giữa văn học và văn hóa. Ông đồng tình và quán triệt ráo riết ý tưởng của
hai học giả Nga như là một nguyên tắc học thuật khi nghiên cứu văn học. Ông viết:
“Nếu những khuyến cáo can ngăn của Tưnianov – Bakhtin chưa đáng bị quên lãng,
thì ý tưởng của họ về ba hệ thống chỉnh thể liên đới (xin được nhấn mạnh
chữ chỉnh thể): hệ chỉnh thể của tác phẩm, hệ chỉnh thể của văn học và hệ
chỉnh thể của văn hóa, thiết nghĩ, xứng đáng được chấp nhận như là cơ sở phương
pháp luận chung cho nghiên cứu văn học và lịch sử văn học. Không tái thiết được
ba chỉnh thể ấy trong quan hệ tương hỗ sống động và trong sự vận động của chúng
trong thời gian thì công trình văn học sử khó đáp ứng được những yêu cầu của
khoa học và những mong đợi nơi người đọc. Trong ba hệ thống ấy, hệ nền
– văn hóa – không nhất thiết là đối tượng mô tả trực tiếp, nhưng nhất
thiết phải được các nhà văn học sử hiểu biết tận tường. Nó là cái ngữ cảnh gần
nhất luôn luôn được cảm thấy của ngữ bản văn học sử. Ngữ cảnh văn hóa ảnh hưởng
tạo tác đến cả văn học trong tổng thể của nó và đến từng thành tố của tác phẩm
văn học” (1, tr.158). Nhà nghiên cứu có một lưu ý ở đây rằng, phương pháp luận
về ba chỉnh thể liên đới này cần được quán triệt không chỉ đối với toàn bộ nền
văn học mà còn cần ngay trong cả khi tiếp xúc với đơn vị tác phẩm văn học. Có
thể nói, những đề xuất của học giả Phạm Vĩnh Cư từ năm 2002 (căn cứ vào ghi chú
cuối bài viết) được coi là những ý tưởng đang còn khá mới mẻ trong giới học thuật
khi ấy, và cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Đề cao hai trụ cột tư tưởng học thuật này, cách làm của Phạm
Vĩnh Cư là luôn hướng đến những tác phẩm, tác giả thuộc mọi nền văn học trên thế
giới cùng lúc phải đạt được: phẩm chất triết-mỹ và phẩm chất văn hóa cao. Trong
nhiều bài viết, ý tưởng này được học giả Phạm Vĩnh Cư trở đi trở lại. Và trên
thực tế, những lựa chọn trường hợp để biểu đạt tinh thần này của tác giả Phạm
Vĩnh Cư đã nói lên cái nguyên tắc làm việc đó: thơ Nguyễn Công Trứ, kịch Vũ
Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, kịch Lưu Quang Vũ, kịch Con nai đen của
Nguyễn Đình Thi, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nỗi buồn chiến tranh của
Bảo Ninh. Những lựa chọn như vậy tiêu biểu cho phẩm chất triết-mỹ và và phẩm chất
văn hóa như một yêu cầu của mọi thời đại văn học mà học giả Phạm Vĩnh Cư luôn
luôn quán triệt, cổ súy.
2. Về thể loại bi kịch và văn học bi kịch
Như trên kia đã nói, khi chuyển dịch mối quan tâm nghiên cứu
của mình vào văn học Việt Nam, nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư đã để tâm tới khá
nhiều vấn đề/trường hợp. Tuy nhiên, điểm thu hút nhất của ông là thể loại bi kịch,
rộng ra là văn học bi kịch ở Việt Nam.
Không phải ngẫu nhiên Phạm Vĩnh Cư chọn nghiên cứu kịch Vũ
Như Tô và thể loại bi kịch nói chung với các minh chứng cụ thể như kịch của
Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đình Thi, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Huy Thiệp. Ông
cho rằng, “trong mọi thời đại và ở mọi nơi, bi kịch, thể loại của những vấn
đề “cuối cùng” của cuộc sống con người, luôn mang dấu ấn “quý phái” theo nghĩa
nó được dành cho một công chúng tương đối hẹp, có trình độ văn hóa nhất định,
được chuẩn bị để tiếp nhận những thông điệp của nó” (1, tr.82).
Ở đây, ông tập trung giải quyết hai vấn đề cơ bản: một,
thế nào là bi kịch; và hai, bi kịch ở Việt Nam và những biến thể của
nó.
Trong vấn đề thứ nhất, nhà nghiên cứu đã đưa ra một khung đặc
trưng thể loại bi kịch gồm bốn bình diện cơ bản: Xung đột bi kịch, nhân vật
bi kịch, tội lỗi bi kịch, hiệu ứng bi kịch. Cùng với am hiểu các tri thức lý
thuyết thể loại, tác giả đã ứng dụng khung đặc trưng thể loại đó để phân tích
trường hợp kịch Vũ Như Tô một cách thuyết phục, cuối cùng khẳng quyết
rằng Vũ Như Tô là một vở bi kịch duy nhất mà Nguyễn Huy Tưởng có được,
đồng thời cũng là tác phẩm bi kịch hoàn hảo nhất, tầm vóc nhất của thể loại bi
kịch Việt Nam. Cách tiếp cận giải mã này đối với trường hợp Vũ Như Tô thực sự
có ý nghĩa phương pháp nghiên cứu giúp cho những ai theo đuổi tìm hiểu thể loại
bi kịch.
Ở vấn đề thứ hai, nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư đã dành mối ưu
tâm cho nó bằng cả một tiểu luận lớn mang tên “Thể loại bi kịch trong văn học
Việt Nam thế kỷ XX”. Ông đã đặt ra và giải quyết mấy khía cạnh quan trọng: 1,
Việt Nam đã hình thành thể loại bi kịch hiểu theo nghĩa chân xác nhất của thể
loại theo tiêu chuẩn quốc tế với bộ ba tác phẩm: Vũ Như Tô (Nguyễn
Huy Tưởng), Trường hận-Dương Quý Phi (Vi Huyền Đắc-Thế Lữ), Yêu
Ly (Lưu Quang Thuận). Ở điểm này, nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư đã thể hiện
như một người thực sự uyên bác, kiến văn rộng, tầm bao quát lớn, ý chí học thuật
mạnh mẽ. Ông đã chứng minh một cách xuất sắc và thuyết phục về thành tựu và diễn
tiến của thể loại bi kịch trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. 2, Trong
quá trình xác lập vị thế các tác phẩm bi kịch này theo tiêu chí thể loại, nhà
nghiên cứu phải tiến hành thao tác so sánh, khu biệt với các tác phẩm cận kề.
Thí dụ, không thể không điểm danh và phân tích, lập luận thấu đáo một số tác phẩm
kịch nổi tiếng trong đội hình kịch hiện đại có yếu tố bi kịch hoặc một dạng bi
kịch biến thể, chứ không phải là bi kịch thực thụ, theo đó là các khái niệm thể
loại tương ứng. Với Chén thuốc độc hoặc Tòa án lương tâm của
Vũ Đình Long, mặc dù tác giả đẻ ra chúng gọi là bi kịch, nhưng nhà nghiên cứu
cho rằng đó không phải là bi kịch: trường hợp đầu chỉ là chính kịch, trường hợp
sau chỉ là bi kịch một cách “bề ngoài” bởi vì nó thiếu nhân vật bi kịch. Tác phẩm
“Không một tiếng vang” của Vũ Trọng Phụng chỉ là “kịch thị dân”. Một số
tác phẩm của Vi Huyền Đắc như “Uyên ương” chỉ là “kịch trữ tình”, “Kinh Kha” là
“kịch anh hùng”; đặc biệt tác phẩm Kim Tiền nổi tiếng cũng chỉ là
“cái rất giống” bi kịch chứ không phải là bi kịch thực thụ. Với kịch Lưu Quang
Vũ, mặc dù rất nổi tiếng, nhưng các tác phẩm chưa hẳn là bi kịch hiểu theo
nghĩa nghiêm nhặt nhất của thể loại này; tuy thế nhà viết kịch đã tạo ra được
những biến thể đa dạng của thể loại gốc: bi hùng kịch (Nguồn sáng trong đời),
bi hài kịch (Hồn Trương Ba, da hàng thịt). Còn ở Nguyễn Huy Thiệp, với một số
tác phẩm kịch của mình, nhà văn đã sáng tạo nên những biến thể khác của bi kịch:
bi hài kịch (Còn lại tình yêu) và bi hề kịch (Quỷ ở với người). Nỗ lực nhận
diện thể loại kịch trong văn học Việt Nam của Phạm Vĩnh Cư còn được thể hiện sắc
sảo và uyên bác trong tiểu luận “Con nai đen” của Nguyễn Đình Thi với “Vua
hươu” của Carlo Gozzi”. Ở đây, bằng thao tác chắc chắn của lý thuyết văn học so
sánh, nhà nghiên cứu đặt ra vấn đề tiếp nhận văn học trong sáng tạo tác phẩm, đồng
thời khẳng định vở kịch Con nai đen là “kịch trữ tình – anh hùng”.
Chỉ với ba tiểu luận về bi kịch và kịch nói chung (“Bàn thêm
về bi kịch Vũ Như Tô”, “Thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam thế kỷ XX”,
“Con nai đen của Nguyễn Đình Thi với “Vua hươu” của Carlo Gozzi”), nhà nghiên cứu
Phạm Vĩnh Cư đã xác lập tư cách chuyên gia nghiên cứu về bi kịch và kịch. Có thể
nói, đây là ba tiểu luận xuất sắc nhất trong vệt nghiên cứu về văn học Việt Nam
của ông.
Trong quá trình diễn giải các nghiên cứu về bi kịch, nhà
nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư đã đặt ra nhiều vấn đề liên đới khác đáng suy ngẫm của
văn học Việt Nam. Riêng tôi chú ý đến việc tác giả đã đặt ra vấn đề văn học bi
kịch, mặc dù ông chưa dành cho nó một thảo luận thích đáng. Ông viết: “Những
trước tác bi kịch thực thụ – những tác phẩm soi chiếu những mâu thuẫn sâu sắc,
nội tại của hiện thực cách mạng và nội chiến, của hiện thực xây dựng xã hội mới,
lột tả chất bi đích thực của những trăn trở vật vã, những tìm tòi và lầm lạc,
những thất vọng và mất mát của con người trong những bão táp của thời đại –những
tác phẩm ấy vẫn xuất hiện trong văn học Nga Xô-viết, từ Sông đông êm đềm,
Nghệ nhân và Margarita đến Bác sĩ Givago, Cuộc đời và số phận và
nhiều trước tác khác, nhưng chúng đều hoặc phải chịu số phận rất trắc trở, biến
thành bi kịch cuộc đời cho chính những tác giả đã viết nên chúng, hoặc bị kiến
giải lệch lạc, méo mó (trường hợp Sông đông êm đềm) (1, tr.85). Từ đây, có
thể dẫn đến một liên hệ cần thiết về tình trạng tương tự của văn học Việt Nam
đã từng xảy ra như trường hợp một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh (mà nhà nghiên cứu Phạm Vinh Cư cũng đã nhắc
đến), Đi về nơi hoang dã (1988) của Nhật Tuấn và mới nhất là Kiến,
chuột và ruồi (2019) của Nguyễn Quang Lập, Đất mồ côi (2020) của
Tạ Duy Anh…Tất cả những tiểu thuyết này, với mức độ thành công khác nhau đã đặt
ra cái bi kịch của xã hội và con người Việt Nam trong bối cảnh đương đại, góp
phần hình thành một dòng văn học bi kịch, rất cần được trân trọng, cổ súy. Điều
này đặt ra trước hết đối với những nhà văn, sau đó là các nhà nghiên cứu phê
bình, công chúng tiếp nhận, và cả những nhà quản lý văn hóa văn nghệ hiện nay.
3. Khát vọng vươn lên tầm thế giới
Đặt văn học trong tầm ngắm từ hai trụ cột tư tưởng học thuật
kể trên, cho nên khi bàn về bất cứ trường hợp nào, vấn đề nào, nhà nghiên cứu
Phạm Vĩnh Cư cũng luôn so sánh với các quan niệm, thành tựu của thế giới, đặc
biệt là phương Tây và Nga. So sánh không phải để tự ti, cũng không phải tự tôn
quá mức, mà so sánh để học hỏi cái hay của thế giới, thấy được những cái dở để
tránh, và nhất là đặt ra cái đích thật cao mang tầm quốc tế để phấn đấu và theo
đuổi. Đó chính là tinh thần bao trùm, xuyên suốt toàn bộ các tiểu luận, thể hiện
rõ khi tác giả tiến hành thao tác so sánh hoặc liên hệ.
Nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư luôn thao thức hai vấn đề chính:
mối quan hệ giữa dân tộc và nhân loại; và yêu cầu khai phóng để vươn tầm thế giới.
Ở vấn đề thứ nhất, ông quán triệt tính dân tộc là một phạm trù động, mở, cần
thiết được nhận thức trong mối liên hệ mật thiết với tính nhân loại/tính người
phổ quát, càng dân tộc lại càng nhân loại, và đóng góp của một nền văn học đối
với thế giới chính là những tác phẩm mang trong mình cùng lúc hai giá trị hữu
cơ đó; rằng cần chống giáo điều trong nhận thức về tính dân tộc, theo đó nên nhận
thức lại bộ phận thơ chữ Hán, về phạm trù cái Tôi trong thơ trung đại, về nỗi
buồn trong Thơ mới… Vấn đề thứ hai, yêu cầu một tinh thần sáng tạo khai phóng để
vươn tầm thế giới luôn là mối bận tâm thường trực ở nhà nghiên cứu trong các thảo
luận về bất cứ vấn đề gì thuộc văn học Việt Nam. Khi tìm hiểu về bộ phận thơ
“hành lạc” của Nguyễn Công Trứ, nhà nghiên cứu đặt nó trong mối liên hệ với
dòng thơ hưởng lạc thế giới, và đi đến kết luận: cần phải nhận thức lại về bộ
phận thơ này, rằng cụ Nguyễn Công Trứ đã không bị lạc hậu so với thế giới, và xứng
đáng được coi là thành tựu của nền thơ Việt Nam: “Những dòng thơ ngợi ca rượu-nhạc-thơ-ái
tình, ca ngợi những lạc thú của tình yêu đã thấm được khí phách hào mại mà
chúng ta đã quen bắt gặp trong thơ “hành lạc” của Nguyễn Công Trứ” (1, tr.36). Ở
một chỗ khác, ông đưa ra khái niệm “chất cổ điển mới”, theo đó chỉ có một số
truyện ngắn xuất sắc và tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao, Vang
bóng một thời của Nguyễn Tuân, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng đã vươn
tới chất cổ điển mới; còn hàng loạt những tiểu thuyết sau này, mặc dù có nổi tiếng,
nhưng “vẫn chưa đạt được độ hoàn hảo” (1, tr.129). Vẫn ở tiểu luận này, nhà
nghiên cứu cho rằng tương tự như hội họa Việt Nam trước 1945, văn chương Tự lực
văn đoàn (kể cả Thơ Mới, đã được ông đề cập ở tiểu luận khác) “đã không hun đúc
nên được những giá trị cổ điển chính do cái chất lãng mạn bay không cao lắm ngự
trị trong nó”…Những nhận định như thế này rất dễ làm mếch lòng một số người, hoặc
không dễ được biểu đồng tình, cần được thảo luận tiếp, nhưng chúng đã có tác động
cần thiết đối với những người làm nghề, nhất là giới sáng tác và nghiên cứu,
phê bình văn học.
Như trên kia đã nói, do công việc quy định, ông đã có một số
bài lẻ bàn về việc xây dựng nền lý luận văn học, phê bình văn học, nghiên cứu
văn học sử và một vài vấn đề khác. Tuy nhiên với thái độ học thuật nghiêm cẩn
và trách nhiệm, ở bài viết nào ông cũng đưa ra được những vấn đề đáng quan tâm,
trên một tinh thần đòi hỏi vươn lên tầm quốc tế, chứ không được thỏa mãn trong
sự tự tôn dễ dãi. Khi trình bày “Suy nghĩ về phương pháp luận lịch sử văn học”, ông
đề xuất cái nhìn về các phương pháp nghiên cứu trong khoa học xã hội và nhân
văn, trong khoa học văn học, văn hóa học rằng, các lý thuyết “vận hành theo quy
luật tích lỹ các giá trị” (1, tr.155), chứ không phủ nhận, thay thế nhau. Đề cập
“Mấy nhận thức về phê bình văn học”, ông lưu ý cần phải lấy lý thuyết làm điểm
tựa, và khẳng định “không có lý thuyết văn học dân tộc, mọi lý thuyết đều mang
hoặc hướng tới tính phổ quát” (1, tr.170); theo đó phải có ý thức đối thoại dân
chủ trong phê bình, phải nhìn tác phẩm văn học như một chỉnh thể. Nhà nghiên cứu
cũng chia sẻ những “Suy nghĩ và kiến nghị xung quanh vấn đề đổi mới
lý luận văn học”, nhấn mạnh: “Lý luận văn học như một bộ phận hữu cơ của mỹ học
triết học được hiểu như là khoa học về cái đẹp và về những phương cách làm ra
cái đẹp trong nghệ thuật; quan hệ khăng khít với mỹ học triết học sẽ mở ra vô số
lối liên thông đa chiều giữa khoa học văn học với các khoa học nhân văn khác”
(1, tr.187). Trong bài viết trao đổi “Cần làm những toàn tập của nhà văn Việt
Nam như thế nào”, ông đưa ra cách làm theo tiêu chuẩn quốc tế, và phân biệt hai
khái niệm “Toàn tập” và “Tập hợp tác phẩm”, theo đó đề xuất yêu cầu khoa học của
một toàn tập cần phải hướng tới…Tất cả những bàn luận này đều được đặt trong bối
cảnh học thuật quốc tế, theo những định thức quốc tế, và mong muốn văn học Việt
Nam dần vươn lên, gia nhập vào “sân chơi” quốc tế đó. Có thể ai đó nghĩ, nhà
nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư có phần khắt khe đối với văn học Việt Nam, hoặc đòi hỏi
theo khuynh hướng lý tưởng hóa. Nhưng theo tôi nghĩ, trong khung cảnh khoa học
xã hội và nhân văn thế giới và nỗ lực hội nhập của Việt Nam ngày hôm nay, các
suy tư và đề xuất của học giả Phạm Vĩnh Cư là cần thiết và vẫn còn nguyên tính
thời sự.
Có ý kiến đây đó cho rằng, về sự nghiệp nghiên cứu của học giả
Phạm Vĩnh Cư có một điểm hơi tiếc: ông đã phân tán tâm sức vào nhiều loại công
việc, trên nhiều lĩnh vực, nên ảnh hưởng tới độ tập trung, tính nhất quán, tầm
vóc và đóng góp của mình. Kỳ cùng lý, có thể đúng là như thế thật. Nhưng nghĩ kỹ,
mỗi cá nhân là một nhân vị hết sức cụ thể với trùng trùng những ràng buộc và giới
hạn khác nhau trong kiếp sống hiện sinh. Cho nên, vẫn thường nghe nói: cuộc đời
không có “giá như”…Những gì mà học giả Phạm Vĩnh Cư cống hiến, thật sự có ích
cho nền văn học, văn hóa, rộng ra là khoa học xã hội và nhân văn của đất nước.
Riêng những thành tựu nghiên cứu văn học Việt Nam của ông đã góp phần khẳng quyết
điều vừa nói, để thấy rõ hơn chân dung của một nhà khoa học thầm lặng mà quyết
liệt trong những theo đuổi học thuật của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.“Phạm Vĩnh Cư (2020), Sáng tạo và giao lưu (tiểu luận,
nghiên cứu phê bình văn học” (in lần thứ ba, có bổ sung), Nxb Hội nhà văn, 2020
2. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng
văn hóa thế giới (Phạm Vĩnh Cư chủ biên dịch), Nxb. Đà Nẵng -Trường Viết
văn Nguyễn Du, Hà Nội.
3. Đỗ Lai Thúy (2020), Tròng trành và lệch chuẩn -Viết như nội
tâm hóa tham dự văn chương (chuyên luận), Nxb Hội nhà văn.
Chú thích:
(1) Trong công trình “Phạm Vĩnh Cư-Sáng tạo và giao lưu
(tiểu luận, nghiên cứu phê bình văn học” (in lần thứ ba, có bổ sung), NXB Hội
nhà văn, 2020) có 6 tiểu luận dài về 6 danh nhân văn hóa Nga. Ngoài ra,
ông là tác giả/đồng tác giả của nhiều công trình dịch thuật bề thế về văn học,
triết-mỹ học Nga: Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (M. Bakhtin, dịch,
Trường Viết văn Nguyễn Du, 1992); Tâm (thơ trữ tình chọn lọc của
Marina Tsvetaeva, NXB Hội Nhà văn & Trung tâm VHNN Đông Tây, 2012); Đường
sống (Lev Tonxtoi – Văn thư, nghị luận chọn lọc, Chủ biên dịch, NXB Tri Thức,
2010); Siêu Lý Tình Yêu (Những tác phẩm triết-Mỹ chọn lọc, Vladimir
Soloviev, dịch, Nxb Văn hóa Thông tin); Tồn tại hay không tồn tại…
Nhân loại? (Nikita Moiseev, dịch, NXB Tri Thức, 2019).
(2) Đây là ý trong bài giảng mà học giả Phạm Vĩnh Cư đã
giảng cho sinh viên Viết văn (quãng năm 2010), thuộc Đại học Văn hóa Hà Nội –
tài liệu ghi chép cá nhân (VG).
Hà Nội, 6/5/2021
Văn Giá
Nguồn: Vanvn
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét