Thứ Tư, 21 tháng 5, 2025

Bãi Thè Lẽ

Bãi Thè Lẽ

Đang lúc bí ý, người làng Khấm đột nhiên nghĩ đến bãi Thè Lẽ.
Bãi Thè Lẽ là do người đi thuyền đặt cho cồn đất men theo dòng nước sông Khê, có hình lưỡi chó thè lẽ giữa trời hè. Bãi ở phía bên kia sông, bên này sông là đình làng Khấm. Cổng đình có đôi sư tử đá nhe nanh trợn mắt. Đình làng ngoảnh mặt ra sông, nhìn sang bãi Thè Lẽ, có bến kè đá. Bao quanh đình là nước sông Khê, không biết do người xưa đào làm chỗ cho thuyền bè vào tránh bão hay là nước thích quây quanh đình vậy, quây gần tròn, chừa lại một đoạn đủ làm cổng cho người làng ra vào hương khói. Cổng ở bên phải đình, nhìn về thượng nguồn sông Khê.
Đình bé xíu nếu so với hai cây đa cổ thụ. Mỗi cây to gần hai người ôm, cao gấp năm bảy lần chiều cao ngôi đình. Tán hai cây đan vào nhau, quanh năm xanh mướt. Đứng trên cao nhìn xuống, tán đa giống lá sen nổi trên mặt nước chứ tuyệt nhiên không nhìn thấy mái đình.
Đình Khấm xây đã lâu, không ai nhớ tuổi, chỉ biết mái ngói phủ kín rêu nhung, rêu đủ ẩm cho hạt đa nảy mầm. Thỉnh thoảng, ông Dứm bắc thang lên bứng cây đa con trên mái đình mang trồng sát mép nước. Đa con mọc lẫn với cỏ, lớn chậm hơn cỏ, lẫn với cỏ mà xanh kín mảnh đất quanh đình.
Ông Dứm đi đánh giặc, bị đạn xuyên qua đùi, phải lắp một đoạn chân giả, đi khập khà khập khiễng nên người làng gọi là Dứm Thọt. Dứm Thọt không đi cày cấy được, ngồi ở nhà, lôi hòm sách của ông nội ra mày mò học chữ, ngồi ở cửa đình viết sớ thuê. Dứm viết đẹp, khách đông, có ngày viết hàng trăm cánh sớ cho khách vào dâng lễ. Khi ông thủ từ già yếu qua đời, người làng bầu Dứm thay thế. Dứm làm thủ từ đình Khấm từ khi người làng còn gọi “Dứm ơi” đến giờ người ta đã gọi “ông Dứm ơi” rồi.
Đình Khấm là ngôi đình duy nhất quanh sông Khê thờ thành hoàng nữ. Cũng giống như các vị thần linh khác, xung quanh nữ thành hoàng làng Khấm có vô số câu chuyện ly kỳ huyền ảo, nhưng ông Dứm chỉ kể duy nhất một chuyện. Đó là chuyện bà trồng dâu khắp hai bờ sông để nuôi tằm, se tơ, dệt lụa. Năm nọ có vị vua dong thuyền đi đánh giặc, chưa ra đến cửa bể đã gặp bão, rách hết dây nhợ buồm thuyền, lúc đi ngang bến sông này, bà mang tất cả tơ lụa dâng vua, còn gọi thợ khéo trong làng ra giúp sức, may buồm buộc cột, giúp vua giăng buồm vượt gió ra khơi. Thắng giặc trở về, nhà vua ban thưởng cho bà, phần thưởng chưa đến nơi thì lũ quét qua làng Khấm.
Lũ về đột ngột giữa đêm, bà leo lên ngọn đa gào thét gọi dân làng dậy chạy lũ, tiếng thét lẫn với tiếng sấm ì ùng khiến dân làng hớt hải bỏ chạy. Đứng trên ngọn đa, bà không kịp trở tay khi gió vặt gẫy cành, quăng bà xuống nước. Bà kịp túm rễ đa nên nước không cuốn đi được. Cành cây gẫy dồn vào hõm sông, bọc kín quanh bà như cái kén, giữ bà lại trong hõm sông làng Khấm. Người làng Khấm lập miếu thờ ngay chỗ bà tử nạn. Từ dạo ấy, thuyền bè qua lại, ai cũng dừng chân thắp cho bà nén nhang, mong bà phù trợ cho thuyền đi mát mái xuôi chèo. Từ khi lập miếu, thuyền buôn đi ngược về xuôi buôn may bán đắt. Làng Khấm phất lên như diều gặp gió, có thời kỳ, làng đỗ tới mười tám ông nghè chỉ sau hai khoa thi. Tiếng tăm ngôi miếu thiêng vang xa, khách thập phương nô nức kéo về. Nhà vua kinh lý ngang qua biết chuyện, phong bà là thành hoàng làng, cho mở mang xây dựng đình làng Khấm để thờ phụng. Đình làm trong một trăm ngày, do các thầy địa lý, phong thuỷ, thợ nề, thợ mộc cao tay nhất nước tập trung đo vẽ, xây dựng.
Đình Khấm được xây theo mẫu các ngôi đình trong kinh thành, giữ nguyên hai cây đa cổ thụ làm cột chống trời, tụ khí, giữ yên khúc sông giao thông huyết mạch quốc gia.
Cổng đình đủ lút đầu người cao nhất làng. Trên trụ cổng là nụ sen nhưng ông Dứm gọi là bông lửa. Ông Dứm quét lá, quét quả đa rụng mỗi ngày hai lần nên sân vườn sạch bong, vài ngọn cỏ gấu chồi lên giữa khe gạch lát nghiêng, ông không muốn nhổ vì nó cũng chỉ cao chừng nửa gang tay là lụi, lúc nó lụi, ông cạy lên, lấy củ ngâm rượu, nhấm nháp cho thơm miệng.
Năm tháng trôi đi, đình làng vẫn thế, cây đa vẫn vậy, bãi Thè Lẽ mỗi năm được sông Khê bồi thêm ít phù sa, dài rộng thêm ra vài tấc đất, làng Khấm thì chuyển mình rầm rập, nhà lầu mọc lên như nấm, xe hơi chạy ríu ran đêm ngày.
Người làng Khấm không vô tình. Được ở nhà lầu, xe hơi mà để thành hoàng ở căn nhà cũ mom sông thì lòng dạ không yên. Họ bàn nhau lấp khúc sông cụt, mở rộng khuôn viên, xây nhà cao cửa rộng để đức thành hoàng ngự cho xứng tầm. Khổ nỗi, bao nhiêu lần ông Dứm viết sớ, dâng lễ xin được mở đất, xây lại đình làng thì bấy nhiêu lần ông bị cấm khẩu tại chỗ, đầu đau như bị ai rần, hết tuần hương ông mới hồi sức. Người ta chê ông không biết cúng, mời thày cúng cao tay tận đẩu đâu về, rồi cả thày địa lý, thày phong thuỷ cùng với lễ vật đầy sân đình, nhưng cúng hết bài kinh dài dằng dặc xong, lúc khấn xin đào bới tu sửa thì các thày cũng cấm khẩu. Vậy là không ai dám dỡ ra xây lại, họ đành sửa sang bên ngoài đình, để khách thập phương về khỏi chê làng nghèo khó. Họ đặt một đôi rồng vếch đuôi vào đình, lao mình xuống sân theo bậc lên xuống trước tiền đường, lại một đôi vếch đuôi lên giời, lao mình xuống sông ở bến đá. Sân đình lát gạch nghiêng, hai ông hổ ngồi chầu hẫu hai bên. Người ra vào đình làng Khấm ngày càng tấp nập, lễ vật, tiền dâng cúng càng lúc càng nhiều, ông Dứm mở rộng sân vườn, kè bờ sông bằng đá lục giác thủng, chỗ thủng ấy ông trồng hoa bân bấn, bụi tím bụi trắng xen kẽ nhau, quanh năm hoa nở.
Anh cai Bơn đi làm ăn xa, thành đạt nhất làng, tết năm ấy về quê, ra đình lễ thánh, ngỏ ý muốn dâng tiến đôi sư tử đá đặt trước cổng “cho bề thế oai vệ, tăng cái sự linh thiêng thần bí của đình làng mình lên”, anh chốt lại như vậy sau một hồi phân tích lý giải với ông Dứm. Ông Dứm mới ướm hỏi, làng chưa quyết gì thì anh Bơn đã rước sư tử về. Sư tử phủ vải đỏ, thắt nơ vàng, ngự trên thùng xe tải, đi theo sau là một xe cần cẩu cũng thắt ruy băng vàng đỏ rực rỡ. Ông Dứm làm lễ cúng thánh xong đúng giờ hoàng đạo, cần cẩu nâng bổng ông sư tử lên rồi trịnh trọng đặt xuống, cho ông ngự trước cổng. Cả làng đứng quây xung quanh chứng kiến. Làm lễ nhập trạch xong, cụ trưởng làng đứng lên gỡ tấm vải đỏ ra, giao cho ông Dứm cắt nhỏ, chia cho mỗi người có mặt ở đó một miếng lấy may. Từ hôm đó, sư tử ngồi chễm trệ hai bên lối vào, đỉnh đầu cao chạm bông hoa lửa, nanh nhe, mắt trợn, bờm tung gió, cơ bắp cuồn cuộn, móng vuốt nhọn hoắt, “chỉ nhìn thôi đã thấy uy lực thâm sâu huyền bí của núi rừng, ấy là chưa kể, đây là hai ông sư tử to nhất nước, không thua kém gì sư tử ở đền A đền Z bên nước X nước Y… khách khứa thập phương có đến cũng phải ngưỡng mộ cái sự hoành tráng của làng Khấm, nhất định không thua kém bố con thằng nào”, anh cai Bơn tuyên bố như thế khi sư tử đã yên vị.
Bố mẹ anh em nhà cai Bơn từ đó đua nhau bình phẩm tôn vinh uy lực hừng hực của ông sư tử, rồi bình luận tài năng của ông thợ đá, “đã biến cái thứ cứng rắn nhất trên đời thành những sợi lông bờm mềm mại tung bay, làm toát lên thần thái uy linh của ông chúa sơn lâm… nó như một tác phẩm điêu khắc làm cho đình làng trở nên hoành tráng và thâm sâu”. Một vài người thì thầm với nhau rằng: “Trông dữ tợn nhề”, “Nhìn gơm gớm là”, người lại bảo “Thì ở nơi thờ thần thánh, phải làm cho người ta thấy sợ chứ”, một anh sinh viên mới về nghỉ tết đế vào: “Thánh thiêng rồi cần gì phải có vật trợ thiêng”… Cứ thế, những tiếng thì thầm chỉ những người gần nhau nghe thấy, còn tiếng bình phẩm của anh cai Bơn và đám người nhà thì cứ oang oang vang vọng. Thỉnh thoảng họ viện dẫn thêm vài câu nói trích ra từ những công trình nghiên cứu đình đám của chuyên gia này giáo sự nọ về văn hoá thờ cúng, rồi nguyên tắc bài trí linh vật, rồi nghệ thuật điêu khắc đá, rồi sự quý hiếm của loại đá làm sư tử… khiến đám đông hiếu kỳ nhanh chóng cuốn theo những lời có cánh của anh em nhà cai Bơn. Chẳng mấy chốc, người làng Khấm trở thành chuyên gia thờ cúng và nhà bình luận nghệ thuật bậc thầy. Cũng từ khi sư tử đá ngự ở cổng đình, làng Khấm cắt cử năm người thay nhau trông nom, quét dọn, phục vụ khách cúng lễ. Ông Dứm nhận phần quét dọn, chăm cây, cuốc vườn, rảnh rang ông ngồi bện rễ đa thành sợi to rồi cắm xuống đất, lại chọn một mảnh vườn để ươm đa con chia cho các ngôi đình khác trong vùng.
Người làng Khấm bận làm ăn, có tiền lại đi du ngoạn, thời gian đến đình ít dần. Đằng đông làng Khấm, người ta xây cái chùa to hơn quả núi, đi cả ngày mới hết, bà con nô nức kéo nhau lên đó vãn cảnh nên thời gian về cửa thánh cũng bớt đi. Người đến đến nhờ ông Dứm viết sớ lễ thành hoàng ít dần.
Một ngày đẹp trời, anh cán bộ văn hoá xã đến thăm, hỏi han loanh quanh rồi bảo ông Dứm bàn với người làng xem nên để hay nên dỡ ông sư tử đá kia đi, “dạo này báo chí họ nói nhiều quá, hai ông đấy không phải linh vật của nước mình, người ta rước ở đâu về thờ rồi thành mốt vậy chứ ngày xưa cha ông mình có thờ đâu, linh vật các cụ nhà ta bày, trông nét mặt tươi sáng hiền hoà chứ không dữ tợn vầy, mà giả như có con nào trông cái mặt dữ dữ tí là xung quanh thế nào các cụ cũng trang trí thêm các loại hoa, người xấu bụng chỉ nhìn cái mặt là sợ, còn người tử tế dám nhìn thẳng nhìn lâu thì lại thấy nó gần gụi như người bảo vệ mình ấy ông ạ”, vừa nói anh ta vừa đưa cho ông Dứm xem hình chó đá trong sách. Ông Dứm nhận ra đôi chó đá ngồi trước ngôi đền cổ trong kinh thành. Hôm cai Bơn ngỏ ý dâng đồ cúng vào đình, ông Dứm có nhắc đến chó đá, nhưng anh ấy bảo chó không oách bằng sư tử.
Ông Dứm hay nghe đài nên cũng biết sư tử đá là thứ nhập cư, nhập cư cũng không hề gì, nhưng ông không ưa nó vì trông nó dữ dằn cục mịch, nhìn không ai dám đến gần, nó lại là loài ăn thịt, là thú dữ, nó không hợp với ông, với người dân hiền hoà ven sông Khê. Từ hôm nó ngự ở cổng đình, mỗi lần ra vào ông thấy chờn chợn nhưng vì nể anh cai Bơn mà không dám nói. Giờ có tiếng của anh cán bộ xã, ông mới lân la hỏi ý kiến làng, hỏi cả con cháu của làng đang làm ăn xa. Cậu sinh viên hồi nào đứng xem cẩu sư tử về cổng đình, giờ đã làm gì đó trên tỉnh, nghe điện thoại của ông xong thì bảo, “con thấy nó không hợp từ hôm các cụ đưa về, nhưng mà lúc ấy con còn trẻ ranh, nói ra sợ các cụ mắng, giờ thì con xung phong chịu phần chi phí dỡ nó đi, cụ cứ bàn với làng, thuê mướn người dỡ rồi báo lại con nhé, hôm nào dỡ nhất định con sẽ về”. Cánh chị em trong làng rỉ tai nhau chuyện dỡ sư tử từ khi thông tin còn chưa chính thức khiến nó lan nhanh như điện cao tần. Anh em nhà cai Bơn đánh tiếng bảo anh Bơn rước sư tử về làm đẹp cho làng, làm linh cho đình, giờ mà dỡ đi thì lấy cái gì mà trấn yểm. Em gái anh Bơn ấm ức bảo “Anh Bơn là đại gia lớn nhất làng Khấm, lo cho làng từ kè sông đến làm đường xây nhà văn hoá rồi trường học bệnh viện… vậy mà chỉ vì làng đòi bỏ sư tử đá làm cho anh Bơn mất lộc, bị kiểm tra này nọ”. Cô ấy nói với người này, người này nói với người kia, người kia lại nói với người kia nữa… người ta tỏ ra đồng tình đồng cảnh để cô ấy nói cho hết nhẽ rồi khi không có mặt cô ấy thì bĩu môi bảo “làng làm gì cũng tập trung đóng góp, chẳng qua anh ấy góp nhiều hơn một tí, rồi bù thêm suất thiếu của những người nghèo, chứ ai cho anh ấy lo hết, anh ấy lo hết thì người làng thành rơm thành rác à, thánh của chung làng, ai chả có công mà anh ý làm như thánh của riêng anh ấy ý,  không nói ra người ta còn quý nể, chứ kể công rồi thì chả ai khiến nữa”. Mà làng Khấm không nhờ nữa thật, vì công ty của anh Bơn hồi nào lớn nhanh như thổi, sau có hai đợt thanh tra mà bẹp dúm như bóng xì hơi, tương lai căng lại là điều rất xa xôi.
Người làng Khấm nóng lòng chờ ngày dời sư tử đi, “kẻo rồi nó làm hại cái long mạch của làng”, “kẻo rồi nó đuổi hết khách đến đình làng, thánh không có người đến thăm thì thánh chán thánh bỏ đi thì đình để làm gì”. Người ta chỉ bàn đến thế còn ông Dứm thì lo ai sẽ trực tiếp bê sư tử, rồi bê đi đâu khi không ai muốn để gần nhà mình. Làng họp, các ý kiến xôn xao. “Cho nó ra bãi tha ma”. “Cho ra đấy để doạ hồn ma người làng à, vậy thì còn ai dám đi qua nó để mà về thăm con em cháu chắt họ hàng”. “Hay ra đưa ra công viên cho trẻ con nó chơi”. “Ối giời, có mà để doạ đuổi hết trẻ con khỏi công viên ấy”. “Hay là xin thành phố miếng đất mà vứt”. “Làng mình sắp sửa lên phố cho thành phố còn nâng cấp đô thị, đất cát chả còn bao nhiêu, người sống còn thiếu chỗ lấy đâu ra chỗ cho cái ngữ ấy, với lại, nó là thá gì mà đòi riêng một miếng đất”. “Tôi thấy giờ khắp nơi hô hào dỡ bỏ sư tử đá, mình mà có đám đất cho hai ông này ngự khéo các ông khác ở nơi khác cũng dồn về ấy, bấy giờ thì tha hồ mà sưu tập sư tử đá, công bằng mà nói, người ta đục đẽo nó cũng đẹp đấy chứ… mình không thích thì bỏ thôi chứ”. “Chứ cái gì… ông đừng có nói là giao lưu văn hoá mà cứ câu nệ vậy thì tiếp thu với tiếp biến làm sao nhá. Tôi biết thừa, ông giao lưu ở đâu thì giao lưu chứ mang cái thứ thú hoang này về đình làng là tôi không chấp nhận”. “Ô cái ông này”. “Đừng có cãi nhau, ta đang bàn cơ mà. Kể ra thì mình mà xây được cái bãi tha ma, cứ tạm gọi vậy đi, cho đám sư tử thất thế kia thì cũng hay đấy, vừa để tưởng niệm những tháng ngày nhầm lẫn, vừa để có cái cho khách tham quan đến làng mình mà còn làm du lịch, chứ ngoài cái đình thiêng ra làng mình chả có cái gì quý giá”. “Này này, chỉ cần giữ được cái thiêng ấy là đủ, tôi chả quan tâm nhiều”. “Nuôi tằm dệt vải thì giờ kén khách nên chỉ đủ ăn, trồng cấy thì được giá mất mùa, được mùa mất giá, mấy ông có máu mặt trong làng toàn đi buôn, đi xây dựng, đi làm thuê cho tây”. “Tôi thì thấy làm cái bãi tập kết sư tử ở đâu khéo chỗ ấy loạn lên ấy, có hai con mà làng mình còn đang mất linh khí, vỡ long mạch, một cái bãi tha ma vài trăm, có khi vài ngàn con khéo làng này đắm sông ấy”. “Đắm sông. Hay. Cho nó ra bãi Thè Lẽ xem có đắm không, bãi ấy mà đắm thì sông Khê đẹp lên bội phần, còn không đắm cũng chả ảnh hưởng đến ai”. “Ờ nhỉ, cái bãi Thè Lẽ. Bãi ấy mà thành bãi tha ma thả cả đống sư tử đá vào đấy cũng được ấy nhỉ, lấy độc trị độc biết đâu lại có cái bãi tha ma là điểm du lịch”. “Thế mà không nghĩ ra sớm, đỡ cãi nhau”. “Cãi mới ra chuyện. Vậy bây giờ ai bê nó ra bãi Thè Lẽ”.
Câu hỏi khiến cả đám đông đang sôi nổi bàn tính chợt im bặt. Họ nhớ lại những câu chuyện quanh bãi Thè Lẽ.
Bãi Thè Lẽ nằm ở giữa sông Khê, rộng bằng ba khu phố trong nội thành. Người ta đã tính xây dựng ở đó một khu phố hiện đại với các toà biệt thự, nhà vườn lãng mạn. Hôm thành phố tổ chức báo cáo thiết kế quy hoạch bãi Thè Lẽ, anh kiến trúc sư lên trình bày ý tưởng, cứ nói xong câu “Kính thưa các đồng chí” là hai hàm răng dính chặt lại. Bốn lần như thế, cuối cùng cả hội nghị đành tự xem trên bản vẽ và tự đọc, tự hiểu theo khả năng của mỗi người. Sau hội nghị, cuộc đua chia lô bán nền dự án diễn ra sôi động nhưng âm thầm. Ngày máy móc đến làm mặt bằng để chia lô, bán đất xây dựng khu đô thị ven sông, ba cái máy xúc tiến đến dẹp lau sậy thì cả ba cái bị thụt chân xuống bùn, lún gần lút đầu anh lái máy. Người ta bắt đầu lục lại những câu chuyện từ xưa xửa ra kể lại.
Chuyện anh lái thuyền ngang qua bãi Thè Lẽ, thấy gió mát trăng thanh, lau sậy um tùm nên đứng trên mạn thuyền mà xả vòi rồng xuống sông, vòi rồng mới xả được non nửa bọng nước thì chủ nhân lăn đùng ngã ngửa ra thuyền, cái vòi rồng cứ ngỏng tướng lên mà rung bần bật như bạch đàn gặp bão, bao nhiêu nước còn lại cứ thế mà văng khắp mặt mũi chân tay anh chàng. Thuyền thì cứ trôi, người thì cứ nằm ngỏng cần câu ngoắc trăng. Gần sáng, có người nhìn thấy thì anh chàng đã cứng đơ rồi. Chuyện chị lái thuyền chán cảnh sông nước, lên bờ ăn ở cho đỡ lênh đênh, cắt lau cắt sậy phơi khô lợp nhà, mang tre luồng về dựng lều tạm bán hàng lặt vặt cho dân thuyền chài, khách qua khách lại đông dần, cánh đàn ông xa nhà ngang qua, mắt la mày láu, nay cho đồng quà mai cho tấm bánh, buông lời lả lơi, chị chiều lòng khách, khách ngã ngựa tắt thở ngay trên bụng chị, chị hãi quá bỏ chạy ra đến mép nước cũng tắt thở. Chuyện anh kỹ sư con nhà giàu mới tốt nghiệp trường kinh tế, xin bố cấp vốn xây dựng khu ăn chơi tổng hợp bài bản, có bè cá trên sông, gà lợn trên bờ, nhà hàng ăn uống ngự trên mặt sông men theo đường cong của bãi Thè Lẽ, giữa bãi sẽ là những căn biệt thự nhỏ xinh phủ đầy dây leo và hoa đủ các màu sắc để người ta có chỗ ăn chơi thức ngủ… Hôm anh ta khởi công xây dựng cũng là ngày bố anh ta qua đời. Sau đám tang, các chủ nợ xé toang gia sản nhà anh như xé mảnh vải che đầu sư tử hôm rước về đình Khấm. Từ đấy, không ai dám bén mảng đến bãi Thè Lẽ nữa.
Ông Dứm thấy sự im lặng của cuộc sinh hoạt làng kéo dài và sâu đến nỗi tiếng thở cũng khẽ khàng, ông chợt nghĩ đến anh sinh viên giờ đã là cán bộ trên tỉnh, thế là bấm máy:
– Này anh, làng định đưa đôi sư tử đá ra bãi Thè Lẽ, ý anh sao?
– Con ủng hộ các cụ! Đưa được đôi sư tử ấy ra khỏi đình làng thì quá tốt. Đình làng mình như quả tim ấy, nhỏ nhắn nhưng xinh đẹp, vậy mà tự dưng có hai con sư tử đá dữ tợn chắn lối vào, khác nào đút nút mất cái ống dẫn máu về tim. Chưa kể, sư tử ấy là giống ngoại lai, làm mất hết dấu vết riêng của làng mình. Các cụ bàn tính đi nhé, cho con góp toàn bộ phần công vận chuyển.
– Anh ạ! Vấn đề là không ai dám khiêng nó sang bãi Thè Lẽ.
Im lặng. Ông Dứm thấy xót tiền điện thoại cho cái quãng im lặng hoang hoải này. Mãi rồi tiếng anh ấy cũng vang lên.
– Cụ để con tính đã nhé, con tìm xem có ai giúp không rồi con báo lại cụ ạ.
– Vầng, vậy anh xem rồi báo cho tôi sơm sớm tí nhá.
– Dạ vâng cụ!
– À mà tôi bảo này, anh tính được lúc nào thì lúc ấy làng mới dời đi được, coi như cái sự bứng ông sư tử này, làng trông cả vào anh đấy!
Ông Dứm nói được câu ấy ra mà lòng dạ hân hoan như vừa ngỏ được lời tỏ tình với cô Diên, người con gái khiến ông thầm yêu trộm nhớ trước khi đi bộ đội. Ông định bụng đánh giặc xong về sẽ ngỏ lời nhưng khi về thì cô ấy lấy chồng rồi. Ông cũng què chân rồi. Thế là ông giữ kín mối tư tình dành cho cô Diên để cô ấy hồn nhiên già đi với chồng con cô ấy. Ông không nói lời có cánh từ khi quyết định không yêu ai, vậy mà bây giờ lại nói được lời có cánh.
Ông vui vẻ bảo với người làng rằng đã có người lo việc chuyển sư tử ra bãi Thè Lẽ rồi, chỉ cần làng nhất trí chuyển thôi. Ông nói xong mới giật mình nghĩ, “Nhỡ anh sinh viên không nhờ được ai thì sao, giờ anh ấy làm quan rồi, cái chuyện hứa nước đôi rồi lui thời gian như thế ông thấy quen quen, mà lời ông nói trong cuộc họp làng thì không thể nói chơi. Tám chục tuổi giời rồi ai còn nói chơi. Mà, ơ kìa, tám chục tuổi giời rồi, vợ con thì chẳng có, xuống đất cũng được rồi, vậy thì còn sợ cái gì. Ngày xưa đã chết hụt, giờ hi sinh nốt cái phần còn lại thì cũng có làm sao”. Nghĩ đến đấy ông thấy hân hoan trong dạ.
Họp làng xong, trong lòng ai cũng có tí hoang mang, liệu cái sự ủng hộ mà ông Dứm đề nghị kia là ủng hộ công hay của, ủng hộ của thì được chứ công thì biết trả lời sao. Rồi trong sâu thẳm cõi lòng, ai cũng mong ông Dứm đừng gọi tên mình.
Nhưng làng Khấm không phải lo lâu.
Ông Dứm về đến cổng đình đã thấy thằng cu Tĩm lôi được một con sư tử xuống thuyền rồi. Thằng cu Tĩm hơn bốn chục tuổi mà cả làng gọi là thằng cu, chỉ vì nó lớn xác nhưng không lớn đầu. Nó bị nhiễm chất độc da cam, suốt ngày nhớt dãi thều lều đi nghênh ngang ngoài đường, đầu ngoẹo một bên, mặt ngửa lên trời cười bất tận.
Ông Dứm chưa kịp tin vào mắt mình đã nghe nó gọi:
– Dứm ơi, hộ tí.
Nó kiếm được cái bệ sắt có bánh xe, thòng dây thừng lên cành đa, một đầu buộc vào cổ con sư tử, đầu kia nó tì lên vai, ra sức kéo, nó bảo ông đẩy bệ sắt vào đít sư tử giúp nó. Ông vừa làm vừa nhìn quanh, đoán lúc nãy nó kéo được đít sư tử lên, phải buộc đầu dây vào gốc đa đằng xa kia để giữ, rồi chạy đến đút bệ sắt vào, xong lại gỡ ra, đẩy xuống thuyền. May là nó mới khiêng được một con, còn một con cho ông góp sức. “Thằng này dở người mà khôn phết”, ông nói rồi cười bật thành tiếng nhưng Tĩm không nghe thấy.
Hai ông cháu lôi sư tử đá xuống, chống thuyền bỏ sang bãi Thè Lẽ.
Xong xuôi, hai ông cháu chèo thuyền quay lại bến đá đình Khấm, nước sông trong vắt, gió mát rười rượi, thằng Tĩm dang tay cười khành khạch, nghêu ngao hát, múa, xoay tròn người trên thuyền. Đột nhiên nó rú lên rồi lăng tay quăng gì đó lên bãi Thè Lẽ, vừa quăng vừa gọi:
– Dứm ơi, xem này.
Bùm! Ông Dứm giật mình ngoái đầu nhìn lại. Tiếng nổ của quả lựu đạn để lâu ngày kêu không lớn, chỉ đủ làm đất bãi bung ra rồi sụp xuống khiến đôi sư tử đổ kềnh, hai cái đầu đập vào nhau, văng khỏi cổ, vỡ thành nhiều mảnh to nhỏ lẫn vào bùn đất lau sậy trên bãi Thè Lẽ. Thằng Tĩm chỉ vào góc đình, nơi ông hay ngồi viết sớ trên cái hòm sắt tây, cười bảo:
– Lựu đạn Dứm xịt.
Ông Dứm giật mình nhớ đến quả lựu đạn ông nhặt được hồi đi đánh giặc, trông cái vỏ nó đẹp quá nên bí mật giấu giữ mang về, lâu lâu lôi ra ngắm, nhắc mình rằng, lựu đạn đẹp đến mấy thì cũng chỉ dùng để giết người.
Hai ông cháu nhìn nhau cười khinh khích, táp thuyền vào bến đá.
Từ hôm ấy, thi thoảng ông Dữm lại thấy vài cái thuyền lạ chở sư tử đến, đổ lên bãi Thè Lẽ rồi đi. Con sau đè con trước, rạn vỡ tứ tung.
Không thấy người làng đồn có ai đó bị làm sao khi ném sư tử vào bãi Thè Lẽ. Ông Dứm chưa chết và cu Tĩm thì vẫn hồn nhiên như thế.
16/5/2025
VŨ THANH LỊCH
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chung một dòng trôi

Chung một dòng trôi Màu chiều đỏ ối hắt xuống dòng sông nhiều nỗi ưu tư, lũ ve kêu hè dường chừng như đã mệt, “tiếng hát” thưa dần rồi t...