Từ nơi xa khi có dịp gặp người cùng xứ sở, chúng tôi vẫn hay
nhắc đến ông - Lão Say xứ Vàm, người hàng binh của số phận. Có người khá nặng lời
chê ông sống không ý chí, không bản lĩnh, thiếu trách nhiệm với gia đình và xã
hội… Riêng tôi vẫn thầm kín trong lòng một nỗi cảm thông sâu sắc về sự sụp đổ,
thất bại, tuyệt vọng, sa lầy…trong cuộc đời một người đàn ông đã từng là niềm tự
hào của quê hương và dòng họ.
Rượu như một dòng trường giang trầm lắng đã chảy qua cuộc đời
ông suốt mấy mươi năm sau biến cố đó. Ngày nào ông cũng tìm đến với rượu và uống
như chưa bao giờ được uống, như chỉ còn một lần để uống. Rượu đối với ông không
chỉ là dòng sông vô tận mà còn là biển rộng, suối sâu, là mưa nguồn, thác lũ,
là mạch đời bất tuyệt chảy vào tận nơi sâu thẳm trong ông - trở thành một cám dỗ
hồn nhiên, một ràng buộc nồng nàn và hơn cả một điều cần thiết. Ông uống triền
miên, một mình, luôn luôn một mình với rượu. Cũng có thể có một vài người vô
hình ngồi với ông vì thỉnh thoảng môi ông cũng mấp máy vài lời gì đó hoặc phác
vài cử chỉ về phía trước mặt như đang có người đối diện. Ông lang thang nghiêng
ngả suốt con đường trải đá xanh từ nhà ra chợ rồi từ chợ trở về, lom khom dọc
đường hay giữa chợ lượm mót vài thứ thiên hạ vứt đi, có khi là mấy mẫu da heo
ôi thiu, xỉn đen, con cá nhỏ ươn sình, rau củ dập úng…tất cả như một lời xin lỗi
với bà vợ già và lũ con đói meo đói mốc ở nhà. Những thứ đó làm dịu đi cơn giận
của cả nhà vì họ đã lại xúm nhau nhặt rửa những thứ ông mới đem về, có khi còn
hào phóng bỏ bớt những chỗ quá dơ, quá rữa nát! Rồi cũng xong một bữa cho cả
nhà và ông cũng được yên thân với cơn say của mình. Ông rất ít khi ăn cơm, có lẽ
cảm giác đói trong ông không còn nữa. Những chai rượu vừa mua vừa xin, có khi
chỉ là chai không nhưng ông vẫn ngửa cổ uống ngon lành. Hai bên đường người ta
đã quen với bóng dáng người đàn ông cao lêu khêu, gầy còm, loạng choạng đi về
giữa trời trưa nắng như thiêu đốt của miền biển mặn hay giữa cơn mưa chiều bạt
mạng có thể quật đổ cả đình thờ cá Ông. Hình như ở biển cái gì cũng rộng lớn,
bao la, mãnh liệt đôi khi đến tàn bạo… chỉ có con người là nhỏ bé, cô đơn trong
cái cõi miền không biên giới đó. Càng cô đơn nhỏ bé hơn, là ông, một ông già
say rượu lang thang cùng trời cuối đất, miệng lảm nhảm điều gì đó chỉ có ông mới
hiểu. Lạ một điều, nhìn ông rách nát tả tơi, ngẩn ngơ như người mất trí, nhưng
ngay cả trẻ con cũng không hề trêu ghẹo ông. Thậm chí đôi khi có người còn kêu
ông lại dúi cho một thứ gì đó, nụ cười ngu ngơ bấy giờ mới nở nhăn nhúm trên mặt
ông- gương mặt gầy ốm choắt cheo vì nắng gió, gương mặt của người đã quên mất
nhân thân, đã chết thành tro trong quá khứ.
Thật ra cũng có đôi lúc ông không quá say, như một người đàn
ông chân chính, ông lặn lội vào tận bìa rừng nhặt củi, bắt vài con nha, con rạm
hoặc cá thòi lòi, rồi vớt rong biển, hái mấy trái bần đem về cho vợ con… hoặc
ai thuê gì làm nấy. Có lần khi đi làm thuê, ông té xỉu trên ruộng muối có lẽ vì
đói và vì cái nắng chang chang như đổ lửa. Tai ông điếc đặc, lời nói ngọng nghịu,
đôi mắt mù mờ, nhưng rượu đã bù đắp tất cả cho ông. Rượu làm ông quên đi thân
phận, quên đi những gì định mệnh đã tước đoạt của ông, đưa ông ra khỏi tủi nhục
của nghèo hèn, thoát khỏi sự bất lực của bản thân…
Và cứ như thế mãi, đến nỗi không ai còn nhớ đến ông, không ai
còn nghĩ về ông mặc dù ông vẫn lang thang bên cạnh họ mỗi ngày như một kẻ vô
hình. Buổi sáng thức dậy nhiều khi không thấy ông, những bữa cơm trắng không có
ông, đêm về khép cửa cũng không cần xem ông về chưa, đã như vậy suốt mấy chục
năm rồi… Mới đầu còn lo lắng, hốt hoảng, đổ xô đi tìm, nhưng sau rồi cũng quen
dần. Ông cứ mãi xiêu dạt, ngả nghiêng, thoắt còn thoắt mất như thế. Bà vợ già
đã quá khổ đau, mệt mỏi vì ông, không biết phải làm gì hơn nữa (cái xác ve của
bà nói không chừng có khi còn hóa thành cát bụi sớm hơn ông, nói kiểu của bà,
dù sao ông cũng còn có rượu giữ chân!). Những đứa con gái của ông lớn lên giang
hồ biền biệt, ai mà dám làm con rể cái lão say nghèo rớt mồng tơi ấy! Đứa con
trai duy nhất sa vào độc đạo, có một ngày đã lãnh gần chục nhát dao vào thân thể,
thương tích đầy người giờ đã thành một phế nhân. Mặc cho những gì xảy ra, không
mặc cũng không được, ông vẫn say tối trời tối đất, ngọng, điếc và đui với rượu.
Ông té ngã lần cuối cùng trên con đường lởm chởm đá xanh,
thương tích ở đâu trên người ông không ai biết. Người ta đưa giúp ông về nhà
khi thấy ông nằm sóng xoài trên đường đi lúc trời chạng vạng, đầu gối lên những
viên đá đầy góc cạnh. Vài ánh đèn dầu mới thắp chập chờn hắt hiu trong xóm nhỏ,
ông vẫn về ngang qua đó nhưng không còn chiếc bóng liêu xiêu bồng bềnh với tiếng
thì thào trên miệng ông nữa. Ai nấy vẫn tưởng ông say như mọi khi, họ khiêng
ông đến bên chỗ ngủ của ông, một đống chăn chiếu cũ mèm, hôi hám dưới nền đất
và thả ông xuống đó. Ông chìm sâu dưới cơn say mịt mùng trong nỗi đau thân xác ấy,
nỗi đau chỉ một mình ông biết (cũng như chỉ một mình ông biết nỗi đau trong tâm
hồn của một - người - vẫn - còn - là - con - người giữa cuộc sống phù hư điên đảo
này).
Giấc ngủ của lão già nát rượu ai hơi đâu mà để ý. Không một
ai bên ông trong đêm đen dày đặc, ngay cả những tiếng nấc nghẹn trong cơn hấp hối
và hơi thở hắt cuối cùng cũng chìm lẫn trong tiếng vách lá xào xạc. Và cơn say
đó đã đưa ông qua thế giới bên kia một cách bình yên, tĩnh lặng với niềm cô đơn
trọn vẹn. Ông đã nghĩ gì, đã cảm nhận gì, cõi lòng thanh thản hay nuối tiếc, có
muốn trối trăng điều gì, với ai… trong giây phút đứt lìa đó?! Chắc cũng không
ai muốn biết làm gì!
Sáng ngày ra, cái chết phơi bày như một điều đã từng mặc định,
người ta cố tưởng rằng ông đang phiêu diêu trong một cơn say mới dù biết rõ đó
là cơn say cuối cùng và vô tận của ông.
Tôi kịp trở về trong ngày cuối cùng thân xác ông còn nấn ná ở
lại trần gian này. Ông nằm trong một cái quan tài bằng xi-măng xám đen như
chính cuộc đời ông trong những năm tháng tưởng chừng vô tri, quên cả đớn đau và
niềm tiếc nhớ về một quá khứ mà tự nó đã phai mờ sau mấy mươi năm đổ vỡ. Tiếng
kinh cầu của một nhóm người làm phúc đều đều vang lên như đang kể một câu chuyện
không có đầu đuôi. Vợ con ông với những gương mặt vô hồn héo hắt dưới vành khăn
trắng, không một ai khóc cả. Có lẽ ở họ nước mắt từ lâu đã không còn, không cần
thiết, vì những gì họ trải qua trong cuộc sống này nước mắt chỉ làm cho họ yếu
hèn và nhục nhã thêm thôi. Tình yêu thương đối với một người mà họ đã từng có -
và nay đã mất - có lẽ chỉ còn trong thinh lặng - một trạng thái hoặc vô cùng tận
hoặc không có gì cả.
Tôi sắp mấy quả cam chín vàng lên bàn thờ, thắp một nén
hương với những vòng tròn luân hồi khói bay phơ phất. Nhưng tất cả những cái đó
còn có nghĩa lý gì, chúng vô nghĩa ngay cả khi ông còn sống. Cái chết không phải
đã là máu thịt của ông tự thuở nào rồi sao?! Một kiếp người sinh ra chỉ để đi dần
đến cái chết, trên con đường chênh vênh, hư huyễn mà ông đã bước đi có lúc nào
cuộc sống nói lời mật ngọt với ông đâu!
Nhìn di ảnh, tôi nhớ lại những âm thanh khật khừ trong cổ ông
mỗi lần tôi về, dáng vẻ lýnh quýnh tội nghiệp đón lấy hành lý trên tay tôi,
luôn nực nồng mùi rượu và mỗi năm mỗi già nua, ốm yếu. Tôi nhớ đến những bịch
muối thô lấy trên thửa ruộng mặn mà hương biển mà ông đã làm quà cho tôi. Tôi
cũng nhớ đến gói rong biển nâu đen ông đã vớt cho tôi mà tôi vẫn còn cất giữ ở
một góc trong gian bếp nhỏ, những nhánh rong đã khô đến mức không còn có thể
khô hơn được nữa…Nhiều lần trong lúc dọn dẹp gian bếp, nhìn đám rong biển đó
không hiểu sao tôi cứ nghĩ tới những mạch máu ngưng đọng vĩnh viễn của một xác
ướp, hay trong một thân thể mang bệnh trầm kha…
Tôi nói lời chia buồn với những người thân của ông nhưng hình
như họ không nghe thấy, vẻ đau khổ nhạt nhòa trên từng gương mặt như nặn ra từ
đất. Người đàn bà già nua thẫn thờ nhìn tôi như không nghe tôi nói, như không
hiểu điều gì đang xảy ra, rồi bà quay đi, trên tay nắm chặt một bó hương cháy dở
không biết để làm gì. Người đến viếng lưa thưa, những người hàng xóm cũng nghèo
nát như gia đình ông, chỉ khác là họ không có và cũng không hiểu nỗi buồn của
ông - Lão Say, người tưởng như chưa từng ngẩn lên nhìn ai trong thế giới này,
chưa bao giờ nói một lời nào trong suốt chuyến đi về miền gió cát…
Tôi không tìm ra lý do để không phải ở lại trong đêm sẽ rất
dài và u tịch này. Ước gì lần trở về này cũng giống như những lần khác, ông sẽ
lại lặng lẽ đi phía sau đưa tôi ra bến xe lúc trời vừa mờ sáng. Nhưng ông đã nằm
kia và tôi mới là người sẽ đưa tiễn ông. Một người đàn ông tóc bạc trắng
lặng lẽ tới xá mấy cái trước quan tài rồi ra ngồi trước thềm nhà bắt đầu thổi
Harmonica một hành khúc xa xưa. Chỉ còn một ngọn nến leo lét cháy, ánh lửa
yếu ớt cô đơn cố lay động trong đêm sâu như muốn thốt lên một lời gì đó trước
khi lịm tắt.
Trong tận đáy lòng, tôi cầu xin ở phương trời nào đó ông sẽ
thoát khỏi cơn say dằng dặc của mình và tìm lại được những gì đã mất.
Nguyễn Thỵ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét