Bùi Giáng và những người thân
1. Ngây thơ trong cõi người ta
Nhà thơ Bùi Giáng có tất cả 8 anh chị em, nhưng đều ở xa. Người
bên Mỹ, người tại Hà Nội, người gần nhất cũng ở Bà Rịa - Vũng Tàu. Tính quen
lang thang không nhà không cửa, lấy đường phố Sài Gòn đùa giỡn, nên người quan
tâm ai cũng lo cho trong những ngày cuối đời của thi sĩ kỳ dị này.
Nhà
thơ Bùi Giáng có một người em họ là ông Bùi Văn Võ vào Nam từ năm 1965 cất nhà
sinh sống tại đường Lê Quang Định, Gò Vấp, sau này là chốn nương tựa cuối cùng
của nhà thơ lãng tử giang hồ. Ông Võ không biết đích xác anh họ mình trôi dạt
nơi đâu. Đến 1978, tình cờ một hôm con trai ông là Hải đi bộ đội về thăm nhà,
lên Thủ Đức chơi, thì gặp “ông bác” Bùi Giáng của mình trên đó. Hải dắt bác về,
với một bộ dạng thật là kinh khủng. Ông Võ thương quá, thôi thì đất nhà còn rộng,
cất thêm một căn nhà lá nhỏ cho ông anh nương tựa. Gò Vấp hồi ấy còn vườn tược
sum suê, khu đất của ông Võ lại khá rộng, nên căn nhà lá nép mình dưới tàng cây
râm mát, chim kêu hoa nở suốt ngày. Căn nhà hư, ông Võ lại cất căn khác, tất cả
ba lần, cho đến khi Bùi Giáng được ở trong căn nhà lợp tole, vách tường đàng
hoàng. Nhưng ông nào chịu ở. Ông mắc võng giữa hai cây xoài to tướng, nằm lắc
lư nhìn hoa nắng đong đưa. Hôm tôi và nghệ sĩ Kim Cương trở lại thăm chốn cũ,
hai cây xoài vẫn xõa cành như cô gái xõa tóc che cho nhà thơ, và hai đầu dây
võng vẫn được ông Võ để nguyên nơi gốc cây, không tháo ra, cứ như lát nữa đây
chàng giang hồ thi sĩ sẽ từ đâu đó quay về mắc võng ngủ say. Hoa nắng vẫn lung
linh từng đốm nhỏ, rọi vào áo Kim Cương, như hào quang lấp lánh của nàng tiên nữ
mà suốt cuộc đời Bùi Giáng tôn thờ. Kim Cương thoáng bùi ngùi ngồi cạnh gốc
xoài, nhắc đóa hồng ngày xưa bà tặng ông chính tại nơi này, và nhà thơ đã ngủ
say trước mắt bà hồn nhiên như một đứa trẻ. Gương mặt ấy mãi mãi si tình, nhưng
mãi mãi trẻ con.
Ông Võ nói: “Thì Bùi Giáng mê trẻ con cũng lạ kỳ như thế.
Đi đâu bạn bè cho tiền, hay vô chùa được nhà sư cho tiền, ổng cũng đem chia hết
cho trẻ con. Tụi nó thương ổng lắm. Nhưng đứa nào tới sau, ổng hết tiền để
chia, thỉnh thoảng có đứa lại đánh ổng. Chẳng những thương trẻ con, ổng còn
thương hết bá gia thiên hạ. Có lần ổng kêu cháu Uyên con tôi đưa tiền, Uyên rút
chiếc nhẫn đang đeo cho ổng, ổng đi một hồi gặp bà bán vé số than là không có vốn,
thế là ổng cho luôn chiếc nhẫn. Đến bộ đồ người ta mới cho, ổng cũng đem bố thí”.
Cô Oanh, con ông Võ còn nhớ như in kỷ niệm về ông bác của mình, nhiều lần đã mở
cửa mời mấy bà ve chai vô gom đồ. Lũ cháu hoảng hốt: “Trời ơi sao bác lại
cho người ta lấy đồ nhà mình!”. Bùi Giáng thủng thẳng đáp: “Thì người
ta không có, người ta mới lấy. Có thì lấy làm chi!”. Hết ý kiến. Cả xe Honda dựng
ngoài sân, ông cũng bảo đừng khóa. “Kệ nó, mất chi đâu mà sợ!”.
Cuối đời, Bùi Giáng được sống trong tình cảm gia đình khá ấm
áp, có anh em cháu chắt nhân hậu cưu mang, dù chỉ là anh em họ. Gia đình ông Võ
cũng “chịu đựng” Bùi Giáng không kém gì Kim Cương, nhưng cũng không ai phiền
trách. Thường thì mỗi sáng ông Võ cho anh mình tiền bỏ túi, nhưng tối đến khi
Bùi Giáng quay về nhà là y như rằng ông Võ phải chạy ra trả tiền xích lô. Còn số
tiền hồi sáng đã vào tay lũ trẻ con hoặc một người hành khất nào đó. Có khi Bùi
Giáng say khướt, nằm mẹp ở đầu hẻm, các cháu phải xúm lại khiêng vô. Có khi cả
nhà phải dọn rác cả đống vì Bùi Giáng “tha” về đủ thứ hộp lon, nón rách, giày
rách, áo quần, rơm rạ... Có khi ông đi suốt một tuần mới về, trên người chỉ còn
cái quần đùi và mắt thì tím bầm, người ốm tong teo. Hỏi ra, ông lạc tới Bình
Chánh, bị người ta đánh rồi nhốt vô thùng phuy, may được đứa nhỏ kéo ra. Ông bà
Võ lại chăm chút anh mình cho lại sức.
Vợ ông Võ, bà Hoàng Thị Như Hồng, mỉm cười nhắc lại những nét
dễ thương ngộ nghĩnh của ông. “Ông thương cháu lắm. Lũ con và cháu ngoại của
tôi giỡn với ông suốt, nhưng tôi không dám cho ông bế vì sợ rủi ông lên cơn...
Ông đi chùa, thầy cho thức ăn chay hay bánh cam ông cũng mang về cho cháu”. Tôi
thắc mắc chuyện vệ sinh của ông, rằng không biết ông tắm rửa như thế nào. “Ồ,
ông sạch sẽ lắm chứ. Nằm lăn ra đất thì cứ nằm, nhưng rồi tắm rửa rất kỹ. Tôi
giặt đồ cho ông, nặng quá nên phải lấy chân đạp. Ông nhìn một hồi, thở dài: Tội
hắn quá! Hắn làm chi mà cô đạp nó? Tôi nín cười không được. Tới bộ quần áo mà
ông cũng thương”, bà Hồng vừa cười vừa rơm rớm nước mắt.
2. Những cơn điên ngộ nghĩnh
Thấy Bùi Giáng có những biểu hiện không bình thường, chính
quyền phường cũng có lần mời nhà thơ đi trị bệnh tâm thần, ông liền trả lời: “Bác
sĩ cả thế giới này trị được bệnh điên chưa mà cỡ phường đòi trị?”. Cán bộ
phường đầu hàng!
Ông thường nằm võng tới 10 giờ đêm mới chịu vô nhà. Nổi hứng,
ông trèo lên hai cây ổi trong vườn la hét ầm ĩ hoặc ca hát nghêu ngao. Trăng
sáng, hương ổi thơm thơm tỏa ra khu vườn, chắc là gợi cho ông những điều kỳ bí,
nên đầu óc cũng chung chiêng. Nhánh ổi xòe xuống mái nhà nhỏ, có một bóng người
râu tóc um tùm ngồi chơi với trăng, thật tình chẳng biết là cảnh điên hay cảnh
tiên nơi trần thế, nơi nhân gian đang đắm chìm trong mộng mị, tính toan.
Nhiều hôm, ngủ vài tiếng đồng hồ, khoảng 3-4 giờ sáng ông leo
rào đi ra. Nhà ông Võ khi ấy chưa xây tường rào, mà chỉ có dàn kẽm gai bao
quanh. Bùi Giáng kiếm đồ quăng lên đống kẽm, thế là leo ra khỏe re, không bị trầy
xước tí gì. Ông Võ cười:"Ổng khôn chứ điên chỗ nào! Ổng còn nhớ dai kinh
khủng. Ai nói câu gì, mấy năm sau ổng còn nhớ như in. Có bận ổng gật gù bảo: Thầy
bói nói bây giờ tôi nghèo chớ chừng tôi chết rồi tôi mới giàu. Chẳng biết thầy
bói xem cho ổng hồi nào mà ổng còn nhớ kỹ như vậy”.
Bùi Giáng đi lang thang suốt năm, nhưng có lúc lại không thèm
đi đâu, ở nhà luôn cả tháng. Và cả tháng đó là thời gian ông... tịnh khẩu.
Không la hét, không chửi mắng, cũng không đọc thơ, không nhắc Kim Cương, ni sư
Trí Hải, cũng không giỡn đùa với cháu chắt... Tuyệt đối im lặng. Bà Võ hỏi: “Anh
có ăn cơm không?”. Đáp: “Ừm...”. Hỏi: “Anh ăn thêm nữa
không?”. Đáp: “Không”. Một tiếng duy nhất. Và lúc tịnh khẩu là lúc ông đem quần
áo ra... vá. Có tin được không? Bàn tay ấy, tâm trí ấy mà ngồi tỉ mỉ từng đường
kim sợi chỉ? Bà Võ nói: “Trời, ông vá áo khéo lắm, khéo hơn cả phụ nữ. Ông
vá miếng hình tròn, miếng hình vuông, hình tam giác, đẹp như người ta vẽ. Ngồi
im thin thít mà vá, không nói tiếng nào. Tiếc quá, lũ nhỏ nhà tôi dọn dẹp,
không còn giữ được cái áo, cái quần nào của ông để mọi người xem bàn tay khéo
léo ấy”. Bà Võ cũng có một cái áo vá chằng vá đụp, đem ra làm giẻ lau, thì
ông cản lại: “Cô cất vô tủ đi, sau này nước ngoài qua mua đắt lắm đó!”.
Bây giờ thì lại lên cơn điên thiệt!
Hết thời kỳ “tịnh chân, tịnh khẩu” thì ông tiếp tục đi lang
thang. Mấy đứa cháu đi học tình cờ gặp ông đang... ngồi thiền tại ngã tư Quận
6. Thế là mấy bà người Hoa nghĩ rằng “Phật sống”, xúm nhau quỳ lạy. Mấy bả mà
biết đó là “nhà thơ Bùi Giáng” chắc dám đem thơ của ông về... tụng.
Trong cơn điên, ông lại đi lấy cho bằng được chiếc giày của
Kim Cương, rồi xỏ dây đeo tòng teng nơi cổ như... dây chuyền. Bà Võ nhớ, chiếc
giày đó mới toanh, hình như chưa đi bao giờ. Về tới nhà, ông tháo ra đặt trên bếp
để đi tắm. Bà Võ thấy vậy, dọn vô một nơi gọn gàng. Ông tìm không thấy, hốt hoảng
như mất vàng mất ngọc. Chừng bà Võ mang ra, ông chửi muốn... tắt bếp, và đòi
đánh cô em dâu vì dám xúc phạm tới “tiên nữ” của ông.
Vậy mà gia đình vẫn thương yêu đùm bọc ông. Khi ông mất, gia
đình lập bàn thờ, cúng giỗ suốt 4 năm. Sau đó đem di ảnh ông về nhà thờ họ tộc
tại Bình Chánh, và mỗi năm cúng giỗ tại mộ phần ở Gò Dưa. Hiện nay anh Hoài (rể
của ông Võ) coi phần cúng kiến. Nhưng khổ nỗi, chẳng năm nào dự đoán được chính
xác số khách đến dự. Vì bạn bè văn nghệ và người ái mộ ông ở khắp nơi kéo về,
khi lên đến vài trăm, chẳng biết đường nào mà chuẩn bị thức ăn đãi tiệc. Mấy
năm đầu đãi tiệc chay vì có nhiều nhà sư đến dự, sau đãi tiệc mặn vì bạn bè
đông quá.
Bùi Giáng không còn nữa nhưng ông không chết. Dường như ông
“giáng” xuống cõi trần này rong chơi một chút ta bà, rồi cưỡi thơ về trời, nhẹ
như mây như khói...
3. Thăng hoa cuối đời và lá thư tình chưa “công bố”
Năm 1978 Bùi Giáng về ở với ông Võ, nhưng đến năm 1985 ông mới
gặp được người bạn vong niên, không ngờ cũng là người thừa kế của mình sau này.
Đó là đứa cháu rể tên Hoài, con rể của ông Võ, cất nhà trong khuôn viên của gia
đình.
Anh Hoài thật sự ngỡ ngàng trước một ông bác vợ “kỳ quặc”
nhưng vốn không có cha từ 18 tuổi, nên anh rất quấn quýt, thương yêu và kính trọng
ông. Mãi đến năm 1990, anh mới bắt đầu đồng cảm với Bùi Giáng, và động viên ông
sáng tác trở lại. Bùi Giáng là một cõi riêng huyền diệu, cả thế gian này chưa
chắc được mấy người hiểu ông, huống chi một kẻ “ngoại đạo” với văn chương như
anh Hoài. Với tấm lòng thương quý thôi, anh đã xâm nhập được vào cõi riêng ấy,
và giữ lại cho đời một bóng hình Bùi Giáng thiên thu.
Có lẽ Bùi Giáng tỉnh táo ra kể từ khi tập thơ của ông được
nhóm Việt Thường cho xuất bản tại Canada vào năm 1990. Rồi năm 1993, Nxb Hội
Nhà văn lại cho tái bản tập Mưa Nguồn. Bùi Giáng được tôn vinh trở lại, và
ông cũng hết điên, bắt đầu một cuộc thăng hoa mới không kém phần rực rỡ. Anh
Hoài tiết lộ, ông đã từng thì thầm bí mật với anh: “Tao đâu có điên. Tao
phải giả điên như thế để đi hết cuộc hành trình của tao, khỏi bị quấy rầy”. Ai
quấy rầy? Thì anh em, họ hàng, bạn bè, chính quyền, và tất cả mọi người trong
cõi nhân gian... Thôi kệ, ông nghĩ vậy thì cứ cho là vậy! Trong cái cõi mênh
mênh mang mang của ông ấy mà... Chẳng ai bắt bẻ làm gì. Thật tình, người ta
thương Bùi Giáng nhiều hơn ông tưởng. Ông quá nhân hậu với đời, làm sao đời
không nhân hậu với ông!
Ông nằm trên võng lắc lư, và quẹt thơ vào bất cứ cuốn sổ nào,
trang giấy nào. Nói “quẹt”, vì nét chữ ông khi ngang, khi ngửa, khi lại xiên
xiên, khi chen chúc vào một góc giấy học trò. Có nhiều bài, nhiều trang, ông
làm rơi vãi trong cơn say. Người đi nhặt, rồi cất giữ trân trọng chính là anh
Hoài. Đến khi anh gom góp và xuất bản dùm ông cuốn Rong Rêu, ông trố mắt hỏi: “Ủa,
mày lượm của tao đó hả? Tao vui vui làm mấy bài thơ, mày lượm làm gì”. “Bác cứ
làm thơ đi. Con hứa với bác cái gì bác làm con sẽ in hết”. Anh Hoài hứa,
mà như một lời thề với chính mình. Bùi Giáng cảm động. Và sau này làm được bài
nào ông thường gọi anh Hoài đến cho xem.
Sách vở trong phòng ông, ông quý hơn vàng, đố ai đụng tới được,
kể cả bà Võ và chị Uyên (vợ anh Hoài) vào dọn dẹp ông cũng không cho. Ông cố
tình để dơ dáy vậy để đừng ai bước vào cõi riêng của ông. Chỉ duy nhất anh Hoài
có thể vô sắp xếp lại dùm ông. Anh đau lắm khi phát hiện nhiều người đã “chôm”
thơ của bác mình bằng cách xé ngang nửa cuốn thơ ông đang viết dở dang. Từ đó,
ông viết xong cuốn nào, anh đem cất kỹ. Ông cười hề hề: “Mày cứ đọc đi, rồi
muốn hỏi gì thì hỏi, tao nói cho”. Nhớ lại, anh Hoài thở dài: “Tiếc
là tôi không thấu nổi tư tưởng của bác. Có lần thu băng nghe ông nói, mở ra
nghe, cũng không theo nổi. Ông nói đủ chuyện cổ kim, bên Tây bên Tàu, rất uyên
bác. Lại còn dạy chữ Phạn cho các sư trong chùa nữa”. Anh chỉ còn biết động
viên bác sáng tác để làm vui.
Nhưng Bùi Giáng không sáng tác cho vui, mà ông làm trối chết.
Ông họa một lèo hết trơn tập thơ của Thân Thị Ngọc Quế, lấy tên Tuyết Băng
Vô Tận Xứ. Và ông ngồi ngay cái bàn trước cửa nhà anh Hoài mà dịch cuốn Thục
Nữ Học Đường của André Gide, đêm nào cũng thức trắng, chỉ một tháng là
xong. Đây là quyển tiểu thuyết nói về tâm lý phụ nữ rất hay, mà tính ông vốn
yêu phụ nữ, nên say mê là lẽ đương nhiên. Đến cuốn thứ hai cũng của André Gide
là Dưỡng Chất Trần Gian, thì anh Hoài hoảng quá không cho bác làm việc kiểu
đó nữa, bỏ dở dang nửa cuốn. “Thôi thôi, bác làm thơ cho vui đi!”. Anh
“dụ dỗ” Bùi Giáng, và ông nghe lời. Nhờ vậy mà ông có gần chục tập thơ vào lúc
cuối đời, như Tâm Sự Tuổi Già, Trúc Mai, Rớt Hột Phiêu Bồng... anh
Hoài sẽ cho xuất bản nay mai cùng với Tuyết Băng Vô Tận Xứ và Thục Nữ Học
Đường. Người ta không thấy Bùi Giáng làm việc lúc nào, vậy mà vẫn có tác
phẩm, hóa ra ông chỉ làm việc về đêm, thường là thức trắng. Bộ não ông rất lạ kỳ,
say đó, rồi tỉnh như không. Bác Võ kể: “Một hôm ông Ngô Văn Tao đến nhờ Bùi
Giáng dịch dùm một quyển sách, thấy ông nằm võng dưới gốc xoài, say khướt, ông
Tao bảo thôi đi về. Bùi Giáng mở mắt, đưa đây, đưa đây. Rồi dịch một lèo mấy
trang, xõa hai tay giấy rơi lả tả xuống đất, xong ngủ khò”.
Giai đoạn 1994 - 1996, Bùi Giáng sáng tác rất dữ. Và ông cẩn
thận làm giấy ủy quyền cho đứa cháu rể quản lý toàn bộ tác phẩm của mình. “Sau
này mày in sách lo cho mấy đứa nhỏ”. Đó là những đứa cháu nhỏ xíu mà
ông cũng dành cho nhiều câu thơ chân thành:
Ngày mai ông sẽ lìa đời
Các con ở lại buồn vui thế nào
Ông về chín suối chiêm bao
Thần tiên mộng mị mừng chào các con.
Không chỉ cao siêu, diễm tuyệt, mà ông còn có hàng trăm bài
thơ đời thường, đầy thương yêu như thế. Ông ban phát thơ cho khắp nhân gian,
hình như ai cũng có phần...
Ta sực tỉnh máu tim vừa mới chớm
Đã thiên thu ở lại giữa hồn ta
Phổi tim như cây lá trước hiên nhà
Cùng chim hót chan hòa ta tỉnh giấc.
Bùi Giáng viết thư và làm thơ cho Kim Cương nhiều vô kể,
nhưng trong đó có một bức thư Kim Cương chưa hề trông thấy. Đó là bức thư ông
viết năm 1998 (trước khi chết vài tháng) rất tỉnh táo, nhưng lại không đưa cho
Kim Cương, chỉ anh Hoài cất giữ. Sau này, anh Hoài có kể cho Kim Cương nghe về
lá thư này, nhưng vì quá bận bịu nên lá thư lại trôi vào quên lãng. Mãi đến khi
chúng tôi thực hiện loạt bài này anh mới đưa cho chúng tôi đăng tải, cũng là
“ra mắt” Kim Cương lần đầu tiên.
Cô Kim Cương yêu quý,
Kể cũng gần 50 năm quen biết và yêu mến cô. Đó là hạnh phúc lớn
đi suốt đời tôi. Sau này cô cao hứng đến nhà viếng thăm tôi. Ấy thật bất ngờ. Rủi
ro lần đầu tôi say rượu chẳng biết gì cả. Lần thứ nhì, tôi tỉnh táo. Tâm hồn
thoải mái như được cùng tiên tái ngộ. Mấy ngày rày cứ giở mấy tấm ảnh chụp
chung với cô. Gương mặt cô càng ngày trông càng lạ. Mấy đứa cháu gái, cháu dâu,
cháu ruột chúng xúm xít trầm trồ: “Cô Kim Cương ngoài đời đẹp hơn trên ti vi...
Lạ quá! Lạ quá!”. Gương mặt cô có nét hồn hậu, trung hậu dịu dàng. Ai ai cũng
nhận thấy thế. Hình như sau này cô gặp hạnh phúc lớn hay sao mà bỗng nhiên
trông cô còn trẻ hơn xưa nay? Lúc trước đọc báo nghe cô nói có ý mua cho tôi một
cái nhà. Tôi cảm động đến ngẩn ngơ. Giữa đêm tỉnh giấc, còn âm ỉ khóc lóc một
mình. Nhưng cô nghĩ xem? Làm sao tôi dám chấp nhận? Tôi vốn già điên say rượu...
ở với tụi cháu sum vầy mấy chục năm nay, chúng quen thuộc tính nết tôi rồi.
Chúng vui vẻ hân hoan chịu đựng. Nhiều lúc tôi lại có ý chọc cho chúng la rầy để
nghe cho vui vẻ lỗ tai... đỡ buồn hiu quạnh... Tuổi già tôi có được đôi ba bạn
thân và còn giữ được tình nghĩa của cô thì thử hỏi còn gì tốt đẹp hơn nữa? Xin
mời cô thỉnh thoảng ghé lại nhà coi như đi nghỉ mát. Được nhìn thấy cô là tự
nhiên hết buồn, hết điên, hết say rượu. Chúc cô suốt đời sung sướng.
Bùi Giáng 98 (Mậu Dần)
Chú thích:
Hoàng Kim: Nhà báo, công tác tại báo Thanh Niên,
Tp. Hồ Chí Minh,
Nguồn: Bùi Giáng trong cõi người ta. Nxb Lao động &
Trung tâm VHNN Đông Tây. Hà Nội 2012.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét