Viễn ảnh về một giải Nobel
văn chương cho giới cầm bút Việt Nam
SCL. Chúng tôi giới thiệu một cách nhìn của Anh Trần Kiêm
Đoàn để cùng nhìn vào một vấn đề. Rất mong nhận nhiều ý kiến về chủ đề này.
Một lần nữa, giải Nobel Văn Chương lại vào tay nhà văn của một quốc gia “con
cháu ngoại” – Nghĩa là không xuất thân từ giới văn bút thuộc về chiếc nôi văn
hóa truyền thống Âu Châu hay thuộc nòi hiệp sĩ “gươm nóng hổi” Bắc Mỹ!
Người đoạt giải Nobel Văn Chương năm nay, 2003, là một nhà
văn Nam Phi 63 tuổi, John Maxwell Coetzee. Đây là nhà văn thứ hai của Nam Phi
được giải Nobel Văn Chương kể từ khi nhà văn Nam Phi đầu tiên là Nadine
Gordimer được trao giải thưởng nầy vào năm 1991.
Coetzee hiện là một giáo sư tiến sĩ ngành văn chương Anh Mỹ, xuất thân từ đại học
Cape Town. Từ năm 2002 sống tại Úc và hiện là giáo sư thỉnh giảng tại đại học
Chicago, Hoa Kỳ
Coetzee là một trong những tác giả thành công hàng đầu của
Nam Phi với 8 tác phẩm tiểu thuyết đã xuất bản và là tác giả sáng giá của nhiều
bài biên khảo và luận thuyết có ảnh hưởng rất sâu rộng tại châu Phi. Coetzee được
xem là mẫu người kín đáo, xa lánh mọi hình thức quảng cáo, vinh danh, phỏng vấn,
hội hè đình đám xưng tụng nhau... tới mức lập dị. Ông có một lối phân tích và
lý luận cực kỳ bạo liệt (ruthless) khi đả kích sự độc đoán và tàn bạo của chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc ở Nam Phi và thói đạo đức hình thức hời hợt của xã hội
phương Tây.
Tác phẩm mới nhất đóng vai trò “hỏa pháo” góp phần tích cực
đưa Coetzee lên đài danh vọng là cuốn tiểu thuyết nhan đề “Disgrace” (Bỉ Mặt),
xuất bản năm 1999 thuộc lọai “ best seller ” mà chỉ ở Mỹ không thôi cũng đã bán
ra 200.000 ấn bản. Tuy nội dung tác phẩm chỉ đơn giản là câu chuyện của David
Lurie, một giáo sư dạy môn ngôn ngữ học tại một trường đại học ở Cape Town. Đời
đã hai lần ly dị, ở lứa tuổi năm mươi, David yêu cô học trò sinh viên của mình.
Chuyện yêu đương chẳng đi đến đâu, bị kết tội xâm phạm tình dục và bị đuổi dạy.
Không một lời biện minh, David về vùng quê heo hút sống hẩm hiu với Lucy, cô
con gái rượu duy nhất mang chứng đồng tính luyến ái. David cam chịu một cuộc sống
tẻ nhạt ở nông trại mà Lucy cho rằng: “Cuộc sống nơi đây là thế đó. Một cuộc sống
chia phần với súc vật.” (This is the only life there is. Which we share with
animals.) Thật ra, tác phẩm Disgrace tuy chỉ 200 trang với một nội dung đơn giản
như thế, nhưng lại mang tầm cỡ Nobel vì tác giả không phải là người viết lách kể
chuyện đơn thuần. Koetzee đã gởi gắm một thông điệp sâu kín mang đầy tính phản
kháng và nhân bản ẩn sau hàng chữ nghĩa. Nhân vật David là hiện thân của con
người bị áp bức và chấp nhận số phận tủi nhục của mình một cách thản nhiên
trong xã hội kỳ thị chủng tộc Nam Phi. Sự “Bỉ Mặt” coi như tất nhiên, sự chịu đựng
câm lặng của thân phận con người quá dạn dày đến nỗi không ai buồn đối kháng.
Bản chất của một nền văn nghệ lành mạnh mang tính tự do và đối
kháng với áp bức bất công . Người cầm bút chân chính mang tinh thần khai phóng
để cổ võ cho quyền làm người , tự do và công bằng của xã hội. Khi không có tự
do và không có quyền lên tiếng bảo vệ quyền sống thiêng liêng của con người là
khi người làm văn nghệ bị truất quyền sáng tạo chân chính. Khi đó, người cầm
bút được gọi là “nhà văn” chỉ còn là người cầm bút xếp chữ bâng quơ và xa lạ với
thực trạng của xã hội và con người mà anh ta đang sống.
Suốt 100 năm lịch sử, tuy cũng có lúc thăng trầm hay vắng
bóng, nhưng tinh thần giải thưởng Nobel chưa bao giờ hạ thấp con đường lý tưởng
đích thực của văn chương.
Thử nhìn lại một chặng đường rất ngắn của văn học trong vòng
5 năm qua. Giải văn chương Nobel đã chuyển mình để dấn thân một cách tích cực
vào cộng đồng văn học thế giới và làm sáng danh cho lý tưởng khai phóng của văn
chương.
1999: Gunter Grass
Năm 1999, Gunter Grass, một nhà văn hiện đại nổi tiếng của Đức được giải thưởng
văn chương Nobel. Gunter Grass được giới văn bút quốc tế hâm mộ từ khi cuốn tiểu
thuyết đầu tay của ông mang tên là Cái Trống Ếch (The Tin Drum) ra đời năm
1959. Sau đó là những tác phẩm Những Năm Chó (Dog Years), Mèo Chuột (Cat and
Mouse). Gần nửa thế kỷ sau, Cái Trống Ếch đó đã đưa ông lên đài danh vọng. Tác
phẩm phản ánh đậm nét cuộc đời và tư tưởng tác giả. Đó là cuộc đời của thằng bé
đánh trống ếch Oskar Mazerath, sinh ra trong chiến tranh và áp bức của thời Đệ
Tam Đức quốc xã. Ngày Sinh nhật lên ba nó khùynh tay, gồng mình tuyên bố với
làng nước là nó sẽ không chịu lớn thêm nữa vì nó sợ làm người lớn. Thằng bé
đánh trống ếch Oskar có thể vẫn không “lớn” nhưng rồi sẽ già đi như bạn, như
tôi, như Guenter, như những người thuộc về thế hệ chiến tranh Việt Nam. Trong
chinh chiến thằng bé Oskar cũng phải rời quê hương tản cư dọc đường gió bụi. Nó
nhập vào đám nhạc sĩ “du ca”, đánh trống ếch cắc tùng tùng. Tiếng nó xoáy lên sắc
nhọn đủ sức làm bể hàng cửa kính, tiếng trống của nó vang lên như lời van lơn,
tâm sự, đay nghiến trước những buồn vui của cuộc sống. Rồi nó trở thành thủ
lãnh của nhóm nổi loạn đòi tự do. Nó cũng rơi vào một cuộc tình yêu đương diễm
lệ. Nó cũng trở thành nghệ sĩ được biết tên. Và sau khi chiến tranh chấm dứt,
nó bị kết tội sát nhân mặc dầu nó chẳng dính líu gì tới vụ án cả. Cuối cùng nó
bị bỏ tù trong nhà thương điên chỉ vì không chịu thỏa hiệp với trò đời rởm dáng
trước mắt. Nó thành tội nhân oan uổng của thời đại vì nó dám nổi loạn chống lại
kẻ có quyền thế đương thời, những kẻ hưởng thụ trên sự điên cuồng của chiến
tranh, phè phỡn bằng sự độc tài và áp bức.
Nhận định về nghệ thuật văn chương trong tác phẩm Cái Trống Ếch,
Alix Wilber viết rằng nhà văn Grass đã dùng sự cười cợt như một con dao - nó
làm cho bạn cười, nhưng cũng làm cho bạn rướm máu. Tác phẩm chứa đầy tính chất
tượng trưng để nói lên sự bi đát sâu thẳm về thân phận con người trong lịch sử
nước Đức cũng như trên toàn thế giới.
Trong suốt 40 năm lịch sử nhà văn Grass cũng như tác phẩm của
ông đã chịu không biết bao nhiêu búa rìu của dư luận. Ngay trên quê hương ông, ở
Tây Đức thì Cái Trống Ếch được chọn làm sách giáo khoa mà Đông Đức thì tịch thu
và cấm đoán. Thế nhưng rồi cuối cùng cuốn sách cũng vượt qua tất cả những biên
giới của con người để đến một vùng trời vĩnh cửu: Đó thế giới chân tâm của con
người. Thông điệp gần như sau cùng của Guenter Grass gởi cho thế hệ đàn em là:
“Người văn nghệ cũng như người đi buôn, vốn trao đi thì mong có lãi trở về. Lãi
của con buôn là tiền bạc, nhưng lãi của người nghệ sĩ là sự khen chê của người
đời dành cho tác phẩm của mình. Điều đáng sợ hãi nhất cho người văn nghệ là sự
im lặng của người đọc hay khán giả. Đừng vội hài lòng với những lời khen và buồn
bã trước những lời chê, mà hãy vui vì bạn đã có sức lay động được lòng người
trước đã.”
2000: Cao Hành Kiện
Giải Nobel văn chương năm 2000 đã được trao cho một nhà văn Trung Hoa là Cao
Hành Kiện (Gao Xingjian).
Cao Hành Kiện (Gao Xingjian), nhà văn đầu tiên của Trung Hoa
được giải thưởng Văn Chương tương đối sáng giá nhất của nhân loại trong suốt
100 năm qua – giải Văn Chương Nobel. Trong sự nghiệp văn chương phong phú bao gồm
nhiều thể loại, tác phẩm tiểu thuyết tiêu biểu nhất đã đưa Cao Hành Kiện lên
hàng “Nobel văn giả” là cuốn Linh Sơn (Soul Mountain/ La Montagne de l’Âme), một
tác phẩm dài trên 500 trang. Linh Sơn là một tác phẩm kết cấu tổng hợp nhiều
hình thái và thể loại sáng tạo văn chương. Trong đó, hồi ký, chuyện tình, phóng
sự xã hội, thực tế, hư cấu, triết lý, hoạt kê, hội thoại, đối thọai, độc thoại...
quyện vào nhau như trái núi mang nhiều vẻ hiện thực và kỳ bí tùy theo thời gian
và thế ngắm.
Cao Hành Kiện sinh năm 1940 tại Cống Châu (Ganzhou), Quảng
Tây, Trung Hoa. Vốn là một nghệ sĩ đa tài trong các lĩnh vực văn chương, hội họa,
kịch nghệ, phê bình, dịch thuật, Cao đã lận đận lớn lên giữa thời đại Mao Trạch
Đông. Trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa (1966-76) ông đã bị đưa vào trại học tập
cải tạo và phải âm thầm thiêu hủy cả một va-li đầy bản thảo tác phẩm của mình.
Trong bối cảnh xã hội và văn hóa đặt trọng tâm trên đời sống
tập thể, cá nhân không còn chỗ đứng và có khi bị tan loãng trong cơn lũ ồ ạt của
tâm lý quần chúng, tình cảm tập thể, và suy tưởng một chiều. Cao sống sót và cứu
được mình trong cơn đại hồng thủy của tư tưởng. Ngọn núi Linh Sơn là một ngọn
núi ảo ảnh nhưng cái bóng sừng sững mà vô hình của nó trở thành điểm tựa của
mình và cho chính mình vì nó là ngọn núi của bản ngã.
Trung Hoa từ năm 1942 và nhất là qua biến cố “quốc hữu hóa
văn chương” năm 1949 trở về sau, sứ mạng độc tôn sáng tạo văn nghệ là để phục vụ
chính trị. Nhà văn muốn sống còn thì phải tự biến thành cái răng cưa của bánh
xe trong guồng máy chính trị tập thể. Cao Hành Kiện là một trong những văn nghệ
sĩ tiền phong của Trung Hoa thời hậu Mao đã cổ vũ, đấu tranh cho quyền sáng tác
văn nghệ tự do và đích thực. Trong tác phẩm “Tham luận khởi đầu về nghệ thuật của
tiểu thuyết hiện đại” (Premier essai sur les techniques du roman moderne) năm
1981, ông đã dấy lên cuộc bút chiến đầy sóng gió về “Quan Điểm Mới” trong sáng
tác văn nghệ. Năm 1985, tác phẩm “Kẻ Rừng Rú” (L’Homme sauvage) là bước phản
công bão liệt nhất về guồng máy văn nghệ tập thể đã làm lu mờ tài năng nghệ sĩ.
Quan điểm văn nghệ tìm lại con người chân thực của ông đã gây ra những cuộc bút
chiến sôi nổi trong nước và đã lôi kéo được sự chú ý của cộng đồng văn bút thế
giới. Đến năm 1986, tác phẩm “Bờ Bến Khácï” (The Other Shore) đã bị giới văn
nghệ cầm quyền ở Trung Hoa cấm đoán, phê phán gắt gao.
Để giữ cho ngọn núi bản ngã được ẩn mình an trú trong cơn
giông bão thời thế, Cao Hành Kiện đã làm một cuộc “hành hương” trong suốt mười
tháng. Ông đã bước đi trên lộ trình dài 15.000 cây số qua những vùng núi non hiểm
trở miền Tứ Xuyên; từ ngọn nguồn sông Dương Tử (còn có tên là Trường Giang) dọc
tới biển khơi. Chất liệu chính của tác phẩm Linh Sơn là dòng suy tưởng, là cảnh
sông núi chập chùng, là dáng trời đất bao la, là khuôn mặt thật của con người,
là những mảnh đời muôn vẻ; và quan trọng nhất là sự tìm về ngọn nguồn, về bản
chất của sự bình an sâu lắng và tự do thực sự trong chính mình. Giáo sư Lee
Mabel, người dịch tác phẩm Linh Sơn sang tiếng Anh đã nhận định: “Linh Sơn là
câu chuyện của người đi tìm sự an bình và tự do bên trong.”
Trong cuộc hành trình tìm về Linh Sơn, có chăng những người cầm
bút Việt Nam đang âm thầm nhập cuộc. Sẽ trễ tràng cho một sự chối từ, nhưng sẽ
không bao giờ muộn màng cho một sự nhập cuộc. Nhập cuộc trên đường về Linh Sơn
cũng có nghĩa là chia tay. Có can đảm chia tay với đám đông ồn ào, quyền thế,
phù hoa, vọng động mới có thể trở lại bến bờ của dòng sông Tự Ngã trong chính
lòng mình. Và từ đó tìm về Linh Sơn, ngọn núi của bản ngã hay chính là linh hồn
còn nguyên vẹn trong mỗi con người.
2001: V. S. Naipaul
Người đoạt giải Nobel Văn chương năm 2001 là Vidiadhar Surajprasad Naipaul
(V.S. Naipaul). Ông là người gốc Ấn Độ, 69 tuổi, sinh tại Trinidad, một cựu thuộc
địa của Anh ở quần đảo Carribbean, vùng biển Nam Mỹ. Năm 18 tuổi, ông sang Anh,
theo học trường Đại học Oxford. Tốt nghiệp và tiếp tục sống đời nhà văn tại Anh
quốc cho đến hiện tại.
Đây là một nhà văn nổi tiếng từ trong suốt ba, bốn thập niên
qua. Ngoài các giải thưởng văn chương dành cho ông như Booker Prizes (1971),
T.S. Eliot Award (1986), tiến sĩ danh dự của các đại học St. Andrew, Cambridge,
Columbia, London, Oxford, năm 1990, V.S. Naipaul được nữ hoàng Elizabeth tấn
phong tước hiệu “Hiệp Sĩ”. Đây là một danh dự cao quý nhất của Hoàng gia Anh quốc
dành cho những người đạt thành tích kiệt xuất trong lĩnh vực chuyên môn của
mình.
Sự kiện nhà văn V.S. Naipaul được giải Nobel năm nay trong thời điểm toàn thế
giới đang lên cơn sốt vì nạn khủng bố của lực lượng Hồi giáo quá khích đã làm dấy
lên nhiều câu hỏi liên quan đến “tính chính trị và thời thượng” của giải Nobel.
Sở dĩ câu hỏi này được đặt ra vì trong số hơn 20 tác phẩm của V.S. Naipaul đã
xuất bản từ năm 1957 đến nay có 2 tác phẩm liên quan đến Hồi giáo:
- Giữa Những Tín Đồ ( Among the Believers, 1981) và Mặt Trái Đức Tin (Beyond
Belief, 1998). Đây là kết quả sự tìm hiểu, tham khảo, ghi nhận tại chỗ của tác
giả trong các cuộc du hành tới những nước Hồi giáo như Indonesia, Iran,
Pakistan, và Malaysia.
V.S. Naipaul đã tìm hiểu ngọn nguồn của Hồi giáo hiện đại và
ý thức hệ của sự cuồng nộ trong tôn giáo nầy. Ông đã viết trong cuốn Giữa Những
Tín Đồ rằng: “Hồi giáo đã thần thánh hóa sự cuồng nộ: Cuồng nộ trong đức tin và
cuồng nộ về chính trị. Và hơn một lần trong chuyến đi nầy, tôi đã gặp những người
đàn ông nhạy cảm, họ là những người sẵn sàng mê man lao vào những cuộc biến động
lớn.”
Ông cũng đã viết trong Mặt Trái Đức Tin là: “Có lẽ không có một
chủ nghĩa đế quốc nào giống như nghĩa đế quốc của Hồi giáo và các xứ Ả Rập”.
Điều thú vị là V.S. Naipaul không bị các tín đồ Hồi giáo lên
án khắt khe như đối với Salman Rushdie khi xuất bản tác phẩm Lời Quỷ Sứ (The
Satanic Verses) trước đây mà chỉ bị phê phán nhẹ nhàng là: “Thiếu một viễn kiến
cần thiết về Hồi giáo.”
2002: Imre Kertesz
Nhà văn Hung Gia Lợi (Hungary) Imre Kertesz, 72 tuổi, thắng giải Nobel văn
chương năm 2002. Là một người bị vùi dập trong các trại tập trung từ Auschwitz
đến Buchenwald của Nazi, Đức Quốc Xã trong lứa tuổi thanh niên, Kertesz đã phản
ánh kinh nghiệm sống thực bằng nước mắt và xương máu của chính bản thân và đồng
bào mình trong sự nghiệp sáng tác văn chương. Tác phẩm văn chương đầu tay được
xuất bản năm 1975, “Fateless” (Chẳng Có Gì Là Số Phận) Kertesz đã kể lại kinh
nghiệm đời mình qua nhân vật George, một cậu bé 14 tuổi, bị lùa vào trại tập
trung và sống sót trong hỏa lò phi nhân ấy. Với George, sống sót qua địa ngục
trần gian chẳng phải là số phận an bài mà sống được là nhờ sức mạnh nội tại của
chính mỗi con người biết vươn lên từ trong nhục nhằn và cô đơn; từ truyền thống
của nòi giống, của văn hóa và gia tài tâm linh miên viễn. Ngày trở về, George
đã kêu lên với những người thân rằng: “Tại sao mọi người không thể thấy rằng, nếu
cứ đổ cho số phận thì hoá ra con người không còn có tự do nữa hay sao?”
("Why can't you see that if there is such a thing as fate, then there is
no freedom?")
Giải Nobel Văn Chương và giá trị tượng trưng của nó
Theo nhận định chung của cộng đồng quốc tế thì Thụy Điển là một vương quốc
trung lập, tiên tiến với nền văn hiến lâu đời. Họ xem giải thưởng Nobel là một
sự tiêu biểu cho danh dự và niềm tự hào quốc gia nên ảnh hưởng chính trị và
tính chất thời sự nhất thời không có tác động trực tiếp trên sự đánh giá tuyển
chọn giải thưởng.
Để có một nhận định chính xác hơn về sự khách quan và nguyên
tắc tuyển lựa chặt chẽ của Hàn Lâm viện Thụy Điển và Hội đồng chấm giải Nobel,
tôi xin trình bày sơ lược phương thức làm việc của họ như sau:
Trên danh nghĩa, Hàn lâm viện Thụy Điển là cơ quan tuyển chọn
giải thưởng Nobel, nhưng trên thực tế thì quá trình chọn lựa nầy là một công
trình đóng góp tập thể của các học giả, chuyên gia, tác giả, thi văn nghệ sĩ...
có uy thế và uy tín từ nhiều nơi trên thế giới. Trình tự về thời gian tuyển lựa
giải Nobel văn chương được quy định theo một nguyên tắc không thay đổi như sau:
Thời gian bắt đầu từ đầu mùa Thu năm trước, khi Hàn lâm viện
Thụy Điển mời tất cả các nhân vật được biết đến trên toàn thế giới nộp danh
sách các ứng viên được đề cử. Mỗi nhân vật đề cử đều phải viết “đề nghị thư” để
trình bày và bảo vệ cho lý do chon lựa của mình. Tự đề cử mình làm ứng viên
hoàn toàn không được chấp nhận. Tất cả danh sách các ứng viên được đề nghị đều
phải nộp cho Hội Đồng Hàn lâm viện trước ngày mồng 1 tháng 2 hàng năm. Mỗi năm,
có khoảng 1000 ứng viên được đề nghị cho giải thưởng Văn chương Nobel, trong đó
có chừng từ 100 đến 250 là nhà văn. Số ứng viên đề nghị nầy được cộng chung với
các ứng viên do chính các thành viên trong Hội Đồng và Hàn lâm viện tuyển lựa.
Giai đoạn kế tiếp, Hội Đồng tuyển chọn lọc lại còn 15 ứng viên và danh sách nầy
phải hoàn thành trong tháng 4. Cuối tháng 5, số ứng viên được tuyển chọn vào
vòng chung kết còn lại là 5 người. Có hàng trăm nhân vật tên tuổi trong lãnh vực
văn chương khắp thế giới phụ tá cung cấp tất cả các nguồn tư liệu về tác phẩm,
sáng tác và các công trình biên khảo liên quan đến 5 ứng viên nầy.
Sau khi sử dụng suốt mùa Hè để đọc, nghiên cứu và phân tích
giá trị văn chương tất cả tác phẩm của từng ứng viên một trong tổng số 5 nhân vật
vào chung kết, Hội Đồng Giải Nobel đệ trình Đề Nghị của họ lên Hàn lâm viện Thụy
Điển. Tháng 10, Hàn lâm viện tiến hành một cuộc bỏ phiếu kín để chọn người
trúng giải.
Trong lịch sử giải Nobel văn chương, có rất ít các ứng viên lần
đầu tiên được đề cử được giải thưởng liền trong năm đó. Thường các ứng viên
không được tuyển chọn sẽ được Hội Đồng đưa ra thẩm định, xét đi, xét lại trong
những năm tiếp theo bởi vì Hàn lâm viện Thụy Điển căn cứ trên toàn bộ sự nghiệp
văn chương của một nhà văn, nhà thơ... để đánh giá chứ không chỉ căn cứ trên một
tác phẩm hay một công trình đơn lẻ nào đó mà thôi. Bởi vậy, giải Nobel Văn
chương là giải thưởng của một sự nghiệp văn chương chứ không phải là giải thưởng
dành cho một tác phẩm xuất sắc.
Giải Nobel Văn chương không hẳn là thước đo chuẩn xác tuyệt đối
để thẩm định giá trị văn chương và tài năng đích thực của một tác giả. Tuy
nhiên, đối với thế giới văn bút toàn cầu thì giải thưởng nầy vẫn là một giải
thưởng văn chương sáng giá và được kính trọng nhất trong lịch sử văn học quốc tế
suốt 100 năm qua. Chính tên tuổi lẫy lừng của người trúng giải đã mang đến sự
vinh quang cho giải thưởng, hơn là chính giải thưởng Nobel tự nó mang hào quang
đến cho người nhận giải.
Nói một cách công bằng thì chiếc huy chương nào cũng có mặt
giới hạn của nó. Trong lịch sử văn học thế giới, cũng đã có nhiều thi hào, văn
hào kiệt xuất nhưng vẫn bị “sẩy” giải Nobel Văn Chương trong khi những tên tuổi
đương thời khác ít lẫy lừng hơn lại được. Có thể kể một số trường hợp điển hình
như: Tolstoy, Proust, Hardy, Chekhov, Ibsen, James Joyce, Joseph Conrad, Kafka,
Bretch... là những tài năng văn chương tuyệt vời của nhân lọai nhưng vẫn không
được trao giải thưởng Nobel Văn Chương.
Và trong một nhận định có tính cách tương đối thì hầu như các
nhà văn, nhà thơ được giải Nobel Văn Chương trong một thế kỷ qua đều có một giá
trị nhất định trong thế giới văn bút. Từ Prudhomme, nhà thơ đầu tiên được giải
văn chương Nobel năm 1901 cho đến J.M. Coetzee năm 2003, những tác giả đoạt giải
Nobel có thể khác nhau về nhiều mặt, nhưng tất cả đều có chung một điểm là bên
cạnh bề rộng của sự nghiệp văn chương rỡ ràng, còn có bề sâu của tác phẩm. Những
tác phẩm tiểu thuyết, thi ca, triết học, biên khảo... của họ là những cái giếng
thăm thẳm của tư tưởng, những ngọn núi sừng sững của suy tư. Sự nông cạn và dễ
dãi chỉ có thể sản xuất ra nhiều mớ bung xung của chữ nghĩa, nhưng sẽ chẳng bao
giờ có đất đứng trong văn chương.
Biển kiến thức và con đường ý thức nhân loại khởi đi một cách
êm đềm từ những đầu óc “uyên áo” như: Socrate, Platon, Aristote, Kant, Bergson,
Spinoza, Schopenhauer, Augustine... bỗng gặp những ý hướng ly khai và những tâm
hồn nổi loạn của Dostoievski, Camus, Sartre, Faulkner, Gide... đón đường tung
hô và đập phá. Dostoievski khắc khoải và trăn trở trong một bối cảnh quê hương
đang chuyển mình đau nhức; Camus kêu lên cho nỗi đau đớn của kiếp người; Sartre
gào la thống thiết cho sự tan hoang về những giá trị vật chất và tinh thần của
một thế giới gần như tuyệt vọng; Faulkner cuồng nộ trong tiếng gọi khẩn thiết của
nhân sinh... và cả một trào lưu văn nghệ vừa vuốt vừa đập, vừa trân trọng vừa
chối bỏ, và bão liệt hơn cả là trùng trùng dẫm trên những lối mòn quen nằm yên
trong sương nắng của thế kỷ 18, 19 để xua quân vào sâu, rất sâu, tận những chân
trời mới lạ và sâu thẳm của ý thức khai phá trong văn nghệ và triết học thế kỷ
20!
Trong khi nền văn học Tây Phương đang chuyển mình dữ dội: Từ
tĩnh sang động; từ bề mặt sang bề sâu; từ sự chấp nhận và thỏa hiệp dễ dãi sang
thái độ đương đầu, phân tích và luận lý có khi tới mức độ bất chấp thì ở Việt
Nam, văn chương vẫn còn tiến những bước êm đềm theo khung cảnh của một xã hội
nông nghiệp. Trước 1945, học giả Phạm Quỳnh khi “Khảo Về Tiểu Thuyết” vẫn còn
khuyên các nhà văn theo cách kết cấu cổ điển của Pháp: “Nếu kết cấu không thành
truyện thì dẫu văn chương có hay đến đâu cũng không cảm được người đọc”. Và sau
1945, ông Đặng Thái Mai trong “Văn Học Khảo Luận” lại lên tiếng: “Một áng danh
văn bao giờ cũng hỗn hợp được hai phần tử bổ ích và làm vui”! Bởi vậy cả một
trào lưu văn học Việt Nam trong khung cảnh thế kỷ 20 vẫn chưa thoát khỏi tình
trạng loay hoay biến những tác phẩm văn chương thành những tập chuyện kể. Hoặc
có tiến xa hơn nữa thì cũng loanh quanh trong giới hạn “Tiểu thuyết tâm lý xã hội
tình cảm” lâm ly ướt át, vô thưởng vô phạt... khá phổ biến ở miền Nam; hay
khuynh hướng “Hiện thực phê phán” sáo mòn và đồng phục, thiếu sức bật trong suốt
thời kỳ Chiến Tranh Việt Nam và kéo dài lê thê sang thế kỷ 21!
Trước thực trạng “Ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đường lắm kẻ săn
giòn hơn ta” hay “Thùng thùng cha hát con khen, đất ta lên giọng ho hen xứ người!”
chúng ta cần có những phút lắng lòng chân thành nhìn lại chính mình và gia tài
tri thức của tổ quốc mình.
Trong lãnh vực văn chương, Việt Nam ta không thiếu nhân tài,
nhưng thiếu mất một hệ thống triết lý truyền thống làm nền móng cho nếp suy
nghĩ của dân tộc và thiếu hẳn một tinh thần phiêu lưu, khai phá và phản kháng
trong sáng tạo. Nhìn lại nền văn học Lý Trần và Lê Nguyễn cổ điển, chúng ta
chưa thoát ra khỏi hệ tư tưởng của Trung Hoa và Tam Giáo (Nho, Thích, Lão). Những
tài năng ưu tú của dân tộc trong dòng văn học Hán Nôm đã chứng tỏ khả năng ưu
việt trong sức sáng tạo và diễn đạt ngôn từ, nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi cái
vòng “kim cô” nghiệt ngã của văn chương Trung Hoa về hệ thống tư tưởng và nề nếp
suy tư. Một tài năng phiêu dật và hoa gấm trong ngôn ngữ thi ca như Nguyễn Du vẫn
không vượt thoát được thế giới tư tưởng giới hạn của Thanh Tâm Tài Nhân trong một
tác phẩm tiêu biểu cho niềm tự hào dân tộc như Đoạn Trường Tân Thanh.
Trong nền văn học cận đại, chúng ta có Tự Lực Văn Đoàn, có những
nhà văn và tác phẩm đã đi vào giáo khoa văn xuôi như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Bình Nguyên Lộc... và giáo khoa thi ca như
các thi sĩ tiền chiến: Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc
Tử, Vũ Hoàng Chương... Nhưng nếu tiếp cận với nền văn chương Tây Phương của thế
kỷ 19 & 20, chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi đâu là chân trời mới có
tính cách “độc sáng” của nền văn chương thuần Việt? Khi mà những bóng ma và hào
quang của Balzac, Hugo, Dumas, Zola, Stendhal, Flaubert, Maupassant... và những
rung động véo von của Lamartine, Verlaine, Baudelaire, Rimbeaud... trong văn
chương Pháp vẫn cứ “trêu ngươi” như những tác gia khổng lồ chận đường sáng tạo
của thế hệ văn thi sĩ đàn anh. Dù thể hiện rõ nét hay bàng bạc trong những hành
trạng của nhân vật, trong hình tượng nghệ thuật, trong phong thái diễn đạt hay
cả trong thủ pháp hư cấu và cường điệu... chúng ta vẫn thấy cuộc chiến đấu rất
“dũng cảm” nhưng cũng đầy hệ lụy của giới văn bút đàn anh chúng ta để phá vòng
vây ảnh hưởng thâm căn cố đế của dòng văn chương Tàu và Tây vẫn còn “mờ mờ nhân
ảnh, bất phân thắng bại”. Hay nếu cần phải nói một cách thẳng thắn – tuy có thể
hơi vô lễ nhưng rất chân thành chăng? – rằng là, dòng văn chương của chúng ta
giỏi bắt chước và khéo mô phỏng nhưng chưa giỏi sáng tạo; thiếu hẳn một sự khẳng
định (để tiến tới một sự định hình cần thiết) về bản sắc Việt Nam thuần túy của
mình trong văn chương.
Viễn ảnh giải Nobel Văn Chương cho giới cầm bút Việt Nam
Có dịp theo dõi “Những Mùa Thu Nobel Văn Chương”, mỗi chúng ta đều hướng mắt
nhìn về khả năng tương lai của một giải Nobel văn chương cho nhà văn Việt Nam.
Trong năm nhà văn đọat giải Nobel Văn Chương trong vòng 5 năm
qua vừa trình bày ở phần trên thì tất cả 5 nhà văn nầy đều là những kẻ bị lưu
đày cả theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Gunter Grass (1999), gốc Ba Lan di dân về Đức, sáng tác bằng tiếng Đức. Cao
Hành Kiện (2000), người Trung Hoa, qua sống ở Pháp, viết văn bằng tiếng Tàu.
V.S. Naipaul (2001), người gốc Ấn Độ, sinh sống ở Anh, viết bằng tiếng Anh.
Imre Kertesz (2002), người gốc Do Thái, cư ngụ ở Hung Gia Lợi, viết văn bằng tiếng
Hungary. Và J.M. Coetzee (2003), người Nam Phi, cư trú tại Úc, dạy học tại Mỹ
và viết văn bằng tiếng Anh.
Trong số gần 100 nhà văn, nhà thơ trên toàn thế giới được giải
thưởng Nobel văn chương mỗi năm từ năm 1901 đến nay, châu Á chỉ có bốn người:
Rabindranath Tagore (Ấn Độ, 1913), Yasunari Kawabata (Nhật Bản,1968), Kenzaburo
Oe (Nhật Bản, 1994) và Cao Hành Kiện (Trung Hoa, 2000). Đất nước và thời gian
có khác, nhưng cả bốn chàng “văn chương nết đất” phương Đông nầy đều có một đặc
tính chung là rất đa tài. Tagore là một thi hào, nhà văn, nhà triết học, và
cũng là một nhạc sĩ đã sáng tác trên 3.000 bản nhạc. Là nhà văn nhưng Oe cũng
là một nhà thơ được yêu chuộng của Nhật. Ngoài ra Oe còn là một nhà viết phê
bình, luận thuyết đầy thuyết phục quần chúng và thu phục nhân tâm. Kawabata
cùng là một danh họa và nhà thơ. Cao Hành Kiện, bên cạnh sự nghiệp văn chương,
là một kịch tác gia có kịch bản được lưu diễn nhiều nơi trên thế giới. Cao cũng
là một họa sĩ đã từng triển lãm tranh ở Paris, London, New York... Nhưng trên tất
cả là tinh thần nhân bản, lòng trân trọng con người và lý tưởng thiết thavới sự
tự do và công bằng xã hội được thể hiện qua đời sống và tác phẩm của bốn nhân vật
nầy. Tagore sống trong giai đọan Ấn Độ còn dưới quyền thuộc địa của Anh;
Kawabata lớn lên trong khung cảnh thoái trào của chế độ quân phiệt Nhật, Oe lớn
lên với cảnh điêu tàn của nước Nhật trong Thế chiến thứ hai; và Cao trưởng
thành sau bức màn tre của cộng sản Mao Trạch Đông. Cả bốn nhà văn lớn đó – những
cái “Nhà” rất đúng nghĩa trong văn chương – đều đã không thỏa hiệp với sự bất
công, đày đọa và tha hoá con người của chế độ chính trị trong thời đại của
mình. Ngòi bút của họ đã tìm đến với con người có tâm hồn, có bản ngã và giàu
nhân tính.
Thực tế nầy đã giải tỏa định kiến cho rằng, giải Nobel là sản
phẩm Tây Phương, nên kỳ thị sản phẩm văn chương không phát xuất từ Phương Tây,
cả trong nguồn gốc xuất thân của tác giả và ngôn ngữ sử dụng trong tác phẩm. Và
cũng chính thực tế nầy cho thấy rằng, những nhà văn phản kháng thế lực chuyên
quyền và áp bức; những nhà văn lưu cư và bị lưu đày, bị bứng ra khỏi nguồn cội
quê hương thường đã mang cái “chủng tử” của một nhà văn lớn. Nhưng môi trường
văn hóa và xã hội nào để cho “chủng tử nhà văn lớn” được nẩy mầm, đơm hoa kết
trái thành cây đại thụ văn chương?
Khi nói đến nền văn chương và triết học Tây Phương, người ta
có khuynh hướng nhắc đến Âu và Mỹ. Hai nước đại biểu cho Âu và Mỹ có bối cảnh
văn chương, truyền thống văn hoá, nền móng triết học hoàn toàn khác nhau là
Pháp và Hoa Kỳ. Điểm đáng chú ý là về “tuổi tác” của hai nước: Nước Pháp tính từ
thời bộ tộc Celts, đã ngót 3.000 tuổi thọ; trong khi Mỹ lập quốc chỉ mới 300
năm. Pháp là chiến nôi văn chương của Châu Âu, trong khi Mỹ là chiếc nôi kỹ nghệ
của Phương Tây, nhưng điều lý thú là tỷ số các thi tài và văn tài đọat giải văn
chương Nobel của hai nước lại ngang nhau. Pháp chiếm 12 giải : Prudhomme
(1901), Mistral (1904), Rolland (1915), France ((1921), Bergson (1927), Gide
(1947), Mauriac (1952), Camus (1957), Perse (1960), Sartre (1964), Bekett
(1969), Simon (1985).
Mỹ cũng chiếm 12 giải văn chương Nobel ngang hàng vớp Pháp
trong suốt 100 năm qua: Lewis (1930), O’Neil (1936), Buck (1938), Faulkner
(1949), Hemingway (1954), Steinbeck (1962), Bellow (1976), Singer (1978),
Milosz (1980), Brodsky (1987), Walcott (1992), Morrison (1993).
Cũng trong suốt một thế kỷ văn học với giải Nobel này thì Anh được 7 giải, Đức
được 6 giải, Liên Bang Sô Viết được 4 giải và trong số 4 giải này thì riêng Nga
chỉ được một giải của Ivan Bunin năm 1933.
Như vậy, yếu tố nào đã khiến Mỹ là kẻ “ăn sau chạy dọi” lại tạo
được một ưu thế văn chương như thế? Các nhà nghiên cứu văn học thế giới đưa ra
nhiều luận điểm khác nhau về câu hỏi này. Nhưng tựu trung có những điểm chính
sau đây:
- Về văn hóa: Mỹ là một quốc gia hợp chủng nên văn hóa Mỹ là
một văn hóa hợp chủng. Sự “thuần nhất” của Mỹ lại chính là sư đa dạng và sự
dung hợp tất cả mọi khuynh hướng đa dạng và khác biệt đó thành một sức sống mới
mang tính thực tế, nặng lý tính và mày vẻ cá nhân. Mỹ không có một hệ thống triết
lý dân tộc riêng, nhưng lại là một môi trường thuận lợi để “tập đại thành” và
dung hóa những trào lưu triết học và văn học thế giới để tạo thành một triết lý
“Duy Mỹ” (Americanism, chứ không phải Aestheticism).
- Về văn nghệ: Hoàn toàn tự do trong sáng tạo. Người nghệ sĩ
không bị khống chế bởi bất cứ những tiêu chí, yêu cầu hay chỉ đạo nào ngoài
chính tài năng, tư duy và sự chọn lựa của riêng mình. Chỉ có người thưởng ngọan
nghệ thuật, độc giả và thời gian là sự thử thách ghê gớm nhất đối với người nghệ
sĩ; là thước đo, là sự đánh giá chuẩn xác nhất giá trị của tác phẩm nghệ thuật.
Từ xa, nhìn về tổ quốc, bất cứ đứa con Việt Nam tha hương nào
cũng mang nhiều ước vọng cho một tương lai tươi sáng của quê cha đất tổ mình.
Có những hiện thực mà khi còn ở quê nhà mình mặc nhiên chấp nhận, nhưng khi sống
ở xứ người, tiếp cận với những nhóm dân tộc khác, lại trở thành câu hỏi. Mấy ai
đang ở trên quê hương lại tẩn mẩn băn khoăn tự hỏi: “Ta là ai giữa vùng đất nầy?”
hay “Ta là người Việt Nam, có nề nếp suy tư, có phong cách cuộc sống khác với
những người Tàu, Tây, Nhật, Thái, Miên, Lào, Nga, Mỹ... quanh ta như thế nào?”
Văn hóa và phong tục tập quán Việt Nam đang nhạt dần trước nhu cầu cuộc sống
đòi hỏi phải dấn thân, phải điều chỉnh, có khi phải đồng hoá hay bị đồng hoá với
xã hội mới để sống còn. Duy nhất chỉ còn ngôn ngữ và văn chương là những thành
lũy Việt Nam còn đứng vững được để xác lập, để định nghĩa Ta-Việt-Nam là ai và
Việt-Nam-Ta là gì!
Dòng văn học học hải ngoại, do đó, không chỉ là một hình thái
tiêu khiển, một món ăn tinh thần như khi còn ở quê nhà mà còn là một “căn cứ địa”
cuối cùng của bản sắc Việt Nam cho hôm nay và cho thế hệ tương lai trong mối
tương quan đa chủng tộc và giữa lòng thế giới.
Một cách vô hình trung, văn chương Việt Nam có hai dòng văn học:
Dòng văn học Quê Nhà và Dòng văn học hải ngoại. Nhận định tổng quan về yếu tính
của hai dòng văn học, ông Hoàng Hải viết trong báo Thế Sự (09-03) rằng: “ Thực
tế và kinh nghiệm Việt Nam qua cuộc chiến tranh trường kỳ và gian khổ nhất
trong lịch sử thế giới cận đại là cả một gia tài tư liệu khổng lồ và cảm hứng
chất ngất cho giới văn bút Việt Nam. Thế nhưng đã 30 năm trôi qua mà vẫn chưa
có một tác phẩm văn chương nào phản ánh hiện thực lịch sử và đất nước, con người
Việt Nam xứng đáng mang tầm cỡ quốc tế. Dòng văn học nội địa có vẻ như thiếu bắp
thịt để xiển dương nội lực cho sự hình thành một tác phẩm văn chương gây được sự
hâm mộ của cộng đồng văn bút quốc tế. Còn dòng văn học hải ngoại thì dường như
bị thiếu máu nên phần lớn những tác phẩm văn thơ ra đời kể lể than van bao sự cố
đã thành cố sự, chưa gây được sự chú ý của giới văn bút Âu, Mỹ... Nếu đem so với
những nhà văn, nhà thơ thế giới đã chiếm được hay được đề bạt giải Nobel thì giới
văn bút Việt Nam ta lại vừa gần vừa xa: Gần vì cũng có tài năng văn chương như
ai; nhưng xa vì phần lớn viết theo kinh nghiệm ‘khôn vặt’ dễ dãi hơn là sự từng
trãi đi xa hiểu rộng kết hợp với nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu khách quan và có hệ
thống giáo khoa cơ bản.”
Theo dõi sinh hoạt văn học nghệ thuật trong nước và ngoài nước,
bên cạnh giới văn nghệ đàn anh phần đông đã mỏi mệt, hoặc đang sống bằng ảo ảnh
một thời vang bóng, sáng tác cầm chừng theo trung bình chủ nghĩa, thì giới văn
bút trẻ thuộc thế hệ đàn em sau chiến tranh Việt Nam đang vươn lên. “Lực lượng
sáng tác” thật sự có tài năng là điều quan trọng cốt lõi đã đành, nhưng khung cảnh
và hoàn cảnh sáng tác cũng đóng một vai trò thiết yếu để cho những tác phẩm văn
chương lớn ra đời. Trong nước, ai chịu trách nhiệm về khung cảnh và hoàn cảnh
sáng tác hiện tại? Ngoài nước, khung cảnh sáng tác mang tính tự phát nên mỗi
con người văn nghệ chịu trách nhiệm với chính mình trong sáng tạo.
Các tác giả thắng giải Nobel văn chương trong 5 năm qua, như
đã trình bày ở trên, đều có chung một hoàn cảnh sáng tác hơi na ná giống nhau:
Đấy là tâm thức bị lưu đày nơi quê người hay chính trên quê hương của mình và ý
thức phản kháng kết hợp với khuynh hướng hướng thiện và lý tưởng cải tạo xã hội
làm động cơ thôi thúc sáng tạo.
Và đấy cũng chính là ước vọng cháy bỏng của kẻ di dân thời hậu
chiến, vì hoàn cảnh phải sống tha hương nhưng luôn luôn quay quắt đi tìm lại gốc
gác của mình. Họ đã trộn lẫn chất liệu từ một quê hương xa cũ trên vùng đất của
tổ tiên, kết hợp với tri thức và kinh nghiệm của những gì đang sống để sáng tạo.
Những nhà văn, nhà thơ Việt Nam hiện đại ở quê nhà và rãi rác trên khắp năm
châu đã và đang trải qua nhiều hoàn cảnh và kinh nghiệm sống thực khác nhau.
Nhưng trong sáng tạo, một nghệ sĩ chân chính dù đang ở trên quê hương hay trở
thành công dân nước khác vẫn có sự gắn kết thiết thân với quê hương nguồn cội của
mình như trường hợp Joseph Brodsky (Nobel 1987) từ Nga qua Mỹ, Elias Canetti
(Nobel 1981) từ Bungary qua Anh, Czeslaw Milosz (Nobel 1980) từ Ba Lan qua Mỹ,
Cao Hành Kiện (Nobel 2000) từ Tàu sang Pháp, V.S Naipaul (Nobel 2001) từ Ấn qua
Anh...
Văn chương khác với kinh tế và kỹ thuật vì không có hiện tượng
phồn vinh đột biến. Không thể có người tháng trước làm thơ con cóc, bỗng tháng
sau thi tài phát tiết như Nguyễn Du trong văn chương. Sáng tạo văn chương là một
quá trình tiệm tiến. Những nhà văn lớn đều lấy thời gian cả cuộc đời mình để
vun đắp cho bề dày, bề cao và bề rộng của sự nghiệp văn chương.
Bởi vậy khi nói đến một viễn ảnh về giải văn chương Nobel cho
giới văn bút Việt Nam khó mà khẳng định thời điểm và con người. Trong 30 năm
qua của thời hậu chiến Việt Nam, chúng ta chưa có một nhà thơ hay nhà văn nào
là đương kim “siêu sao văn chương” cho thế giới người Việt, nói chi đến viễn ảnh
xa xôi của thế giới con người.
Người Việt vẫn thường tự hào mình là một dân tộc thi ca. Mong
rằng, “Viễn Ảnh” tuy mơ hồ, nhưng là niềm hy vọng chứ không phải là ảo tưởng.
27/8/2006
Trần Kiêm Đoàn
Theo https://www.vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét