Thứ Ba, 4 tháng 3, 2025

Người của buôn làng

Người của buôn làng

Khi chiếc quan tài vừa được đậy nắp thì bọn lính Mỹ đã lố nhố quanh khu nhà mả. Tốp này khá đông, hình như có cả tên chỉ huy. Anh nghe tiếng bước chân chạy huỳnh huỵch, tiếng máy vô tuyến PRC25 sôi rào rào, cả tiếng của gã thông dịch viên giọng Bắc. Hai chiếc trực thăng đổ quân ban nãy vẫn đang phành phạch bay quần đảo phía xa. Khẩu AK báng gấp chỉ còn đúng ba viên đạn, khó có thể tạo được tình huống thoát hiểm. Anh bỗng thấy tiếc hai trái US mỏ vịt và loạt tiểu liên xả vào tụi Mỹ đen ở dưới chân dốc lúc sáng. Chưa bao giờ anh gần bọn Mỹ như lúc này và sự hoang phí có phần vội vã ấy đã làm anh mất cơ hội bắt chúng phải trả giá đắt. Giờ thì chỉ còn trông đợi vào sự may rủi, bởi anh đã đặt cược số phận vào tay những con người xa lạ vừa mới gặp.
Chiếc quan tài là một thân cây khá lớn đẽo vạt đi khoảng một phần ba, bên trong được khoét rỗng bằng rìu nên vách gỗ thô ráp và nhơn nhớt ướt. Lòng quan tài vừa đủ cho hai người nằm ken xít vào nhau. Mùi ẩm mốc của gỗ ngâm nước lâu ngày, mùi tanh của máu, mùi thi thể người chết không rõ giới tính bên cạnh bốc lên nồng nặc. Anh nín thở, dồn mạnh không khí xuống khoang bụng để khỏi nôn oẹ. Các giác quan hướng ngoại hết cỡ làm dây thần kinh căng như sắp đứt, cánh tay bị thương mỗi lúc một thêm tê dại. Nắp trên quan tài là một thân gỗ khác ghép không thật kín nên âm thanh bên ngoài lọt vào nghe khá rõ, “ghoe vi- xi?”, “ghích ghuây?”. Bọn chúng nói gì nhỉ, chắc đang tra hỏi dân làng xem Việt cộng đâu, chạy lối nào… Khu nhà mả mỗi lúc một ồn ào. Anh chợt nhớ những vệt máu bị thương ở lối mòn lúc lết lên dốc, cảm thấy thật bất ổn. Ngực tức như nén đá, thân thể bị kẹt cứng trong “chiếc hộp” đầy thán khí và xú khí làm anh mỗi lúc một ngột ngạt khó thở. Cần phải cố giữ cho mình được tỉnh táo. Ghếch mũi hít làn gió qua khe hở của nắp gỗ, anh thoảng thấy cả mùi khét lẹt của mấy thằng Mỹ đứng sát ngay bên. Mẹ chúng mày, bám gì mà dai thế, đổi mạng là cùng chứ gì? Ông không thể chịu dựng thêm được nữa, ông đang điên, đang muốn đạp nóc quan tài ra ngoài đây… Ba viên đạn, một dành cho anh, dĩ nhiên là cuối cùng, còn hai viên sẽ “tặng” cho tên chỉ huy và gã thông dịch viên, đồ thối tha bám chân ngoại bang. Mà tội gì, cả ba viên đều phải nã vào bọn chúng, phần anh sẽ là những làn đạn AR15 của địch. Trong hoàn cảnh này, để đạt được hiệu suất chiến đấu cao nhất, anh chỉ có thể làm được như thế. Mỗi lần nhận nhiệm vụ, bọn anh đều được cấp trên quán triệt kỹ, đã dự tính mọi tình huống có thể xảy ra. Nhưng chui vào quan tài nằm chung với người chết thì khó ai có thể ngờ tới. Anh nhắm mắt nhủ thầm, dù sao đây cũng là đồng bào đồng chí của mình. Chẳng phải anh đã từng nhiều lần nhặt nhạnh những mảnh thi thể của đồng đội, mang vác cả đêm rồi mới khâm liệm, chôn cất đó sao? Tình thế tuy bất đắc dĩ nhưng vẫn còn yếu tố bất ngờ, chưa hẳn đã hoàn toàn tuyệt vọng…
Tự trấn an mình, anh bình tĩnh chờ đợi và nghĩ về cái xác bên cạnh. Người này là ai, nam hay nữ, già hay trẻ, chết đã bao lâu? Anh chưa từng sống với đồng bào dân tộc, chỉ nghe nói họ có tục lệ để người chết vài ngày ở khu nhà mả rồi cả làng tập trung uống rượu, nhảy múa cầu khấn thần linh, phụ nữ thì kể lể than khóc đưa tiễn hồn ma. Sau đó người chết được mai táng trong chiếc quan tài gỗ dùng để chôn chung, người nhà sẽ chia của để hồn có cái mà dùng ở thế giới bên kia. Thì cũng như quê anh, những gia đình giàu có thường quàn người chết hàng chục ngày trong nhà để họ hàng xa gần về phúng viếng, đốt bao nhiêu là hình nộm, vàng mã. Nhưng thi thể người chết được khâm liệm rất kỹ lưỡng chứ không sơ sài như thế này. Người ở ngoài còn thấy nồng nặc mùi, huống chi nằm bên trong. Anh như kẻ đang sống dưới địa phủ dù ngăn cách với dương gian chỉ một tấm gỗ. Những tiếng động hỗn tạp bên ngoài vọng vào nghe tuy rõ mà xa xăm như ở cõi âm…
Thời gian trôi chậm chạp. Bên ngoài hình như đang có sự lộn xộn. Tiếng dân làng la ó giận dữ, tiếng tên Mỹ chỉ huy găy gắt, tiếng gã thông dịch viên rổn rảng, đều đều… Sau đó lại im lặng một cách đáng ngờ. Anh thấy đuối sức dần và buồn ngủ ghê gớm. Rồi anh ngủ thật, dù lúc đầu chỉ cảm thấy lơ mơ. Trạng thái tâm lý giống như lúc đạn pháo, cối địch đang giã ầm ầm trên đầu, dứt loạt hoả lực sẽ phải bật dậỵ đánh bộ binh địch phản kích. Vậy mà lúc ấy lính ta dưới hầm lại ôm súng gà gật… ngủ!
Anh ngủ một giấc ngon lành, phó mặc mọi sự. Đột nhiên một quầng sáng chói loà ùa vào làm anh loá mắt. Một tiên ông nét mặt mờ ảo với chòm râu trắng phất phơ đỡ anh lên, gắn cho anh một đôi cánh mỏng màu trắng. Ông tiên phất mạnh ống tay áo. Gió, gió nhiều quá, gió thổi lồng lộng! Mấy chiếc trực thăng Mỹ phút chốc bỗng biến thành những con chuồn chuồn xấu xí dạt qua dạt lại rồi dần dần mất hút. Chỉ còn không gian bao la ngập tràn mây trắng. Thế là anh bay, bay rất cao. Lướt phía dưới anh là rừng già xanh ngắt và thảo nguyên rực rỡ nắng chiều. Anh bay mãi, bay mãi rồi đáp xuống bờ một con suối lạ. Bờ đá có màu trắng sữa với từng đàn bướm trắng dập dìu. Những con vọc đang chí choé chuyền trên cành cây cao cũng tuyền một màu lông trắng… Đúng rồi, đây chính là con suối thần ngày xưa chàng Đăm B,ri dũng mãnh đã từng tắm để có xương đồng da sắt chiến đấu với kẻ thù. Chỉ tiếc chàng dũng sỹ đã quên không uống nước suối thần nên bị chúng móc ruột sát hại. Nhưng anh thì không thể quên vì đang khát khô họng. Cẩn thận lội xuống mép suối, anh vục mặt vào làn nước mát. Chao ơi, đã đời quá! Nhưng không hiểu sao mỗi khi anh muốn uống thì nước suối thần chỉ đọng ở miệng anh vài giọt. Anh ngạc nhiên ngước nhìn tiên ông trên cao dò hỏi, vẫn chỉ thấy nét mặt mờ ảo với giọng cười trầm ấm. Cũng chẳng sao, miễn có nước. Anh nhấp từng ngụm nước thần, thấy nó quả thật công hiệu và khoái chí nghĩ đến tụi Mỹ mũi lõ bám dai như đỉa suốt hai ngày qua. Ê, Việt cộng chính là ông đây, đừng tưởng bở nhé! Sẵn đạn bom thì cứ vãi ra đi… Giờ thì ông chấp cả máy bay tàu bò, xe tăng thiết giáp, coi khinh mọi thứ súng to súng nhỏ của tụi mày!
Đó chính là thời khắc già làng mở nắp quan tài đưa anh ra ngoài. Dân làng xúm đến lau rửa mặt mũi, đắp lại vết thương cho anh bằng nhiều loại lá rừng. Anh đã thực sự chui từ dưới mồ lên và tỉnh lại nhờ bầu nước mát lịm từ tay già Thoong. Những giọt nước quý giá lấy từ mó nước đầu nguồn…
Suốt một ngày bị lính không vận Mỹ rượt đuổi, thoát khỏi thung lũng chết chóc, vượt qua hai ngọn đồi đến khu vực này thì trời chập choạng tối. Không còn nghe tiếng trực thăng nữa anh mới yên tâm dừng lại. Bóng đêm trùm xuống rừng già. Muỗi vo ve đen đặc cũng mặc, anh ngắt lá phủ kín người rồi tranh thủ chợp mắt. Mờ sáng anh đã thức dậy để đi tiếp. Rừng núi thâm u xa lạ. Loanh quanh mãi anh gặp một lối mòn nhỏ. Khu vực này gần biên giới chắc có buôn làng người dân tộc nào đó sống biệt lập nơi đây. Trời cũng đã gần trưa, sự hối thúc của cái dạ dày lép kẹp khiến anh quyết định men theo lối mòn, hy vọng găp một cái rẫy cũ nào đó. Trên trời, tiếng máy bay trinh sát OV10 rên vè vè dai dẳng. Rồi hai chiếc trực thăng Mỹ xuất hiện. Chúng rà xuống rất thấp có vẻ đang tìm chỗ đổ quân. Mình đã bị lộ hay chúng chỉ lùng sục hú hoạ? Phải nhanh chóng rời khỏi nơi đây. Anh mới quay gót bỗng nghe tiếng loạt xoạt từ trên cao, mặt đất rung nhẹ dưới chân. Phía sau, ngay chỗ anh vừa rời đi “mọc” lên một thân cây lạ hoắc! Anh chợt hiểu, thì ra chiếc “lông ngỗng” phản trắc bây giờ mới lộ mặt. Rút vội con dao găm phạt đứt “mầm cây” đang rung rung, anh cảnh giác nhìn quanh và phát hiện một cái nữa đang lấp ló trong lùm cây cách đó dăm bước. Đó là chiếc ăng ten của “Cây nhiệt đới” do bọn Mỹ thả tử trên máy bay trinh sát xuống. Cẩn thận, anh bụm môi nhổ cả “thân cây” rồi tháo hết pin. Dưới cái đế tròn chịu lực là cái “rễ sắt” nhọn hoắt cắm sâu vào lòng đất. Thật may, nếu chỉ di chuyển chậm một chút anh sẽ bị cái rễ sắt ấy xuyên thấu. Bọn Mỹ đểu thật, chiếc máy thu phát thông tin tự động y hệt cây rừng, phải tinh ý và có kinh nghiệm mới phát hiện được. Thảo nào mà bọn chúng thính thế, đơn vị của anh bị đánh tan hoang, cứ như bên dưới có chỉ điểm. Hai chiếc trực thăng tiếp đất khá lâu giờ mới ậm ạch bốc lên. Rồi tiếng chân bọn Mỹ rào rào đạp cây rất gần. Nguy hiểm quá! Chẳng kịp xử lý cái máy thứ hai, anh băng vội vào rừng. Tụi Mỹ bắn theo như vãi đạn. Anh bỗng thấy đau nhói ở cánh tay trái. Biết mình đã bị thương, anh tung vội trái US vào tóp Mỹ đen đi đầu, kẹp súng xả thêm mấy loạt đạn rồi vượt lên dốc đến một ụ mối lớn thủ thế. Bọn Mỹ cụm lại không dám đuổi theo nữa. Tận dụng thời cơ ấy, anh băng tắt sang phía đồi bên kia. Đến khi cảm thấy mình không còn lết được nữa thì bất ngờ trước mặt anh là một khu nhà mả. Dân làng đang tập trung khá đông và họ hiểu tình cảnh của anh. Phía xa bọn Mỹ cúng đang theo đường mòn kéo tới. Tình thế rất gấp. Một ông già nói gì đó với dân làng rồi mọi người vội vã chuẩn bị. Ông già dìu anh đến bên chiếc quan tài, gọi thêm mấy người nữa giúp sức. Rồi ông mở nắp. Chưa kịp hiểu chuyện gì thì hai người đàn ông đã nhắc bổng anh lên cùng khẩu súng đặt nằm chen với người chết. Chiếc nắp quan tài được đóng lại. Anh không nhớ mình tỉnh táo được bao lâu rồi ngất đi do mất máu và thiếu dưỡng khí…
Trạm xá ven thung lũng của anh bị bọn không vận Mỹ xoá xổ, tất cả thương binh và y, bác sỹ đều hy sinh. Cái năm sáu bảy đói kém, lính chủ lực còn khổ hơn cả bộ đội địa phương. Để tồn tại, nhiều đơn vị phải tạm thời phân tán thành những phân đội nhỏ tránh địch, tự sản xuất tìm cái ăn. Trạm xá có gần chục thương bệnh binh cũng nằm trong tình trạng ấy. Anh làm y tá kiêm thêm công việc tiếp phẩm. Tụi không vận tập kích bất ngờ lúc anh đang đi săn trong rừng sâu. Hôm đó gặp may, anh bắn được con heo rừng nặng hơn một tạ. Mừng vì sẽ có thực phẩm cả tuần cho thương binh, anh bẻ lá cây đánh dấu rồi cắt một đùi heo lớn hăm hở băng rừng gùi về. Niềm vui đổi thành tang tóc, một cuộc chạm súng không cân sức giữa anh với tụi Mỹ và tiếp theo là cuộc truy đuổi dai dẳng của chúng.
Sau này được già Thoong kể lại, anh mới biết mình đã thoát chết trong gang tấc. Tụi Mỹ theo vết máu kéo đến khu nhà mả. Dân làng đang chuẩn bị lễ mai táng cho người chết. Bọn chúng gạ hỏi, dân làng đều lắc đầu không thấy Việt cộng. Mấy tên Mỹ sục tìm một lúc rồi nghi ngờ đòi mở nắp quan tài. Dân làng giận dữ phản đối. Già Thoong sấn tới rút cây mác cầm lăm lăm trên tay, nói sẽ đấm chết kẻ nào dám xúc phạm hồn ma, dẫu già có chết theo. Tên Mỹ chỉ huy chĩa súng vào ngực già làng, hất hàm hỏi ý gã thông dịch. Gã thông dịch nói gì đó khá lâu, vừa nói vừa khoa tay ngữ điệu. Có lẽ hắn đang giải thích cho tên Mỹ nghe phong tục mai táng người chết của cư dân Thượng. Nghe xong tên chỉ huy cất súng vào bao rồi “Ô kê!”. Hắn tỏ vẻ thân thiện sai lính chia cho dân làng thịt mặn (đồ hộp), muối ăn và hứa sẽ còn cho nhiều nếu ai biết chỗ ẩn nấp của Việt cộng. Rồi bọn chúng gọi điện kêu trực thăng đến bốc đi…
Anh trở thành cư dân của buôn Bung La trong hoàn cảnh như vậy.
Thấm thoát đã 8 năm anh sống với buôn làng Bung La. Đơn vị cũ không còn ai. Tên anh có lẽ đã nằm trong hồ sơ hy sinh hoặc mất tích của quân lực. Anh được đón nhận vào cộng đồng mới, được dân làng nuôi nấng che chở. Trông anh đóng khố, cởi trần, tóc khét nắng, nước da màu đồng hun, nói thành thạo tiếng Tơ Buăn (1), chẳng ai bết anh là người y tá lính chủ lực năm xưa. Hàm răng anh tuy không cà nhưng ám vàng khói thuốc, hai chiếc răng cửa gẫy một nửa do bị vấp đá nom hơi ngồ ngộ. Anh ăn ngon lành những con chi rút (2) nướng, biết làm món nhâm rú (3) nấu măng rừng, phát rẫy, bắt cá, đi săn đều giỏi. Chịu ơn những người đã cưu mang mình, anh không nề hà bất cứ công việc gì trong buôn. Những ca đẻ khó của phụ nữ bà con đều tìm đến anh, không còn phải lo cúng Yàng. Nhiều bếp đã biết đào hố vệ sinh, thu dọn phân trâu bò bón cho dây bí trái to, cây đu đủ nhiều quả. Anh còn cùng già Thoong sang tận biên giới Campuchia gom dù pháo sáng Mỹ về làm mùng đuổi con ma rừng sốt rét, tìm gặp những người anh em Tơ Buăn để hoà giải các vụ việc tranh chấp. Anh học cách ủ men lá, cùng trai làng vít cần rượu say ngả nghiêng. Và những đêm nghe kể khan ở nhà rông trong ánh lửa bập bùng… Anh lạc vào vùng trầm tích văn hoá đầy hoang sơ và kỳ vỹ. Hồi còn đi học, anh từng say mê các truyền thuyết về thần lửa, thần nước, thần gió, những sự tích gắn liền với tên thác, tên sông của vùng đất xa xôi huyền bí này. Giờ đây anh được đắm mình trong âm hưởng những bản trường ca mang bao ước mơ khát vọng của các bộ tộc Tây Nguyên. Và tuy còn trẻ nhưng anh được buôn làng tín nhiệm như một tha plơi (già làng). Bởi anh đã coi Bung La là nơi sinh ra mình lần thứ hai. Buôn làng dạy anh cách sống ngay thẳng thật thà, cộng đồng hoà thuận, tình đoàn kết tương trợ, sự chịu thương chịu khó… Không biết tự lúc nào, anh nói bằng tiếng Tơ Buăn, tập suy nghĩ bằng ngôn ngữ của người Tơ Buăn. Anh cũng đã gặp lại bọn biệt kích Mỹ. Buôn Tơ buăn ở nơi hẻo lánh, địa thế biệt lập, có vài người biết tiếng Kinh nhưng ít khi dùng. Một đôi lần bọn Mỹ đổ quân lùng sục, thấy anh chúng cũng gọi lại chia cho đồ hộp, muối…
Nhưng để trở thành người con thật sự của buôn làng, một thành viên bình đẳng trong cái tộc người nhỏ bé không có sự đối xử phân biệt ấy anh phải trải qua nhiều tục lệ khắt khe, những thử thách không dễ dàng gì.
Anh nhớ mãi lần đầu ăn mắm nhét (4). Khi chiếc nút lá vừa mở, anh đã xây xẩm mặt mày bởi cái mùi xộc lên từ trong ống bương. Suốt cả tuần cái mùi ấy lúc nào cũng hiện hữu, phảng phất đâu đó. Anh đã nấu thật sôi, thật kỹ, bụng bảo dạ bà con ăn được thì mình cũng ăn được. Anh nín thở nhai rồi nuốt… Và khi đã ăn miếng đầu tiên rồi miếng thứ hai, anh ngạc nhiên nhận thấy cũng không đến nỗi nào. Ý chí đã chiến thắng và anh hiểu rằng từ nay mình sẽ không còn lo sợ cô độc. Buôn làng mở rộng vòng tay đón anh. Già Thoong nhận anh làm con nuôi vì anh từng nằm chung quan tài với người con trai đã chết của già hôm ấy. Nghi lễ nhận con nuôi diễn ra trang trọng mà đơn giản, cả buôn tới chứng kiến. Khi đã hoà vào cộng đồng, đến lượt mình, anh khéo léo tìm cách vận động, thuyết phục buôn làng bỏ dần các hủ tục như chôn chung, chôn cạn, chôn người chết gần bến nước. Trước đây, nếu bếp nào có người chết, khi mai táng người ta phải mở nắp quan tài cũ để chèn thêm thi thể mới vào. Nhiều trường hợp vì quan tài hẹp, xác cũ chưa kịp phân huỷ, những người khoẻ mạnh phải đứng lên thi thể người mới chết để nhấn xuống, trông rất thương tâm. Thấy cảnh ấy anh bàn với già Thoong và được già ủng hộ. Nhà mồ đã được đưa xa bến nước. Giờ trong làng nếu có ai chết thi thể sẽ được đặt trong quan tài mới mai táng cạnh quan tài cũ để trong suốt thời gian giữ mả (5), hồn được sống cạnh nhau…
Nhưng đã có lần anh không vượt qua được nỗi sợ hãi, hành động theo bản năng. Sự việc không một ai biết, trừ già Thoong. Đó là hôm dự lễ mai táng già làng Siu Leng ở buôn bên. Vi là già làng nên người chết được để bảy ngày mới mai táng. Cả buôn tổ chức cúng ma rất to. Rượu ghè được cõng tới xếp thành hàng. Khi anh đến dân làng đã tập trung đông đủ và đang đi vòng quanh hát tiễn. Trong tiếng cồng chiêng trầm buồn, mọi người hát kể công người chết đối với buôn làng, nêu những đức tính tốt, đọc tên những vật dụng mà hồn ma sẽ được chia ở nhà mồ. “Hai ché rượu, một cái cao một cái thấp. Một con gà trống lớn có cựa khoẻ biết gáy. Một con gà trống choai, một bầu nước lớn, hai bầu nước nhỏ…”. Thi thể người chết được kê trên hai tấm ván đặt nằm trước sân, đầu quay về hướng nhà sàn. Phía trên đầu để một tấm phên nứa trải lá chuối đựng xôi nếp đã nguội lạnh. Bụi đất bốc lên mờ mờ. Những con nhặng xanh vo ve trong không gian, đậu cả vào mặt người chết. Mọi người đi vòng quanh, vừa đi vừa hát:
“Hồn ơi
Hồn với tôi cùng làm chung cái rẫy
Cùng đi bắt con cá, đi săn con nai.
Miệng hồn biết nói lời tốt, biết phân xử đúng sai.
Nay chân hồn không đi được nữa
Tay hồn không làm được nữa
Miệng hồn không nói
Mắt hồn không mở nhưng hồn trông thấy.
Tôi mang cái ăn đến đây
Chúng ta cùng ăn
Ơi cái hồn…”
Vòng người cứ đều đều xoay tròn. Bảy vòng xoay, bốn vòng quanh nhà sàn, ba vòng quanh người chết. Đến tấm phên đựng xôi, mỗi người đều phải bốc xôi vo lại chấm vào miệng người chết rối mới cắn một miếng, gọi là tục chia miệng. Mỗi vòng ai cũng phải “chia miệng” với người chết một lần, lúc nào ăn hết xôi thì bốc tiếp. Bước trong cái vòng xoay chầm chậm ấy, lúc đầu anh cảm thấy ớn lạnh. Làm sao có thể nuốt nổi miếng xôi nguội lạnh sau khi đã chấm vào cái miệng he hé lộ hàm răng trên đã cà mòn? Nhưng nếu không ăn thì buôn làng sẽ nghĩ gì về anh? Anh đã không nói một miệng, không ăn một bụng với buôn làng, cái đầu không nghĩ, cái tay không làm như người Tơ Buăn… Dân làng rồi sẽ xa lánh anh, nghĩa là anh đã tự tách mình ra khỏi cái cộng đồng ấy. Không được. Anh đưa mắt cầu cứu già Thoong. Mỗi lần biết anh ở tình thế khó xử, già Thoong đều tới giúp. Nhưng hôm nay già có vẻ ưu tư, không ngó ngàng gì đến anh và uống rất nhiều rượu. Hay là nhân lúc chẳng ai để ý, mình sẽ nhanh tay trở ngược miếng xôi và cắn vào đầu kia? Nghĩ thế và anh đã làm thế. Qua vòng thứ nhất, mọi sự diễn ra suôn sẻ. Nhưng đến vòng thứ hai, khi sắp tới bên người chết anh chợt sững sờ bắt gặp ánh mắt già Thoong đang nhìn mình. Ánh mắt ấy chỉ loé lên một thoáng thôi và già lại cúi xuống im lìm vít cần rượu… Anh hoá đá trong cái tích tắc loé sáng ấy, tưởng như thời gian hàng thế kỷ đã trôi qua. “Đồ bịp bợm, hèn nhát!”, anh tự xỉ vả mình. Già Thoong luôn dạy anh làm việc gì cũng phải có suy nghĩ trước sau. Con người đi phải tìm đường, con cá bơi phải có nước, con khỉ leo trèo cần có cây to. Đừng như con ngựa hoang không biết lối về rừng… Ôi nhân dân vỹ đại và bao dung của anh. Buôn làng như cây lá, như suối nguồn đã che chở, nuôi dưỡng để có ngày anh trở về với đồng đội. Vậy mà anh đã làm gì? Anh đã cao ngạo dối trá, xúc phạm một tập tục, một nghĩa vụ thiêng liêng… Anh chỉ là cây cỏ lau trong đại ngàn cổ thụ, một đứa bé chưa biết lối ra bến nước, con thú non không thể đứng cao hơn ngọn cây rừng. Chặng đường phía trước còn dài, làm mất niềm tin của dân là mất dân, mất điểm tựa sức mạnh tinh thần, mất cả ngọn nguồn tươi mát… Để nhận chân cái tín điều giản dị ấy, anh còn phải đi suốt cả cuộc đời!
Như môt đứa trẻ có lỗi bị bắt quả tang, anh thầm sám hối trước dân làng: “Già Thoong ơi, buôn làng ơi đừng trách giận con. Con không xấu, con chỉ nông cạn, dại dột”. “Mày sai hung rồi, sai nhiều nhiều rồi đó. Nhưng có lỗi thì phải sửa, buôn làng không giận đâu”. Một ảo giác bềnh bồng làm chân anh hụt hẫng… Ông tiên râu trắng có phép thổi gió… Chàng dũng sỹ Đam B,ri quên không uống nước suối thần… Lưỡi búa của Yang Ktăl (thần sét) và câu thần chú giải lời nguyền hoá đá… Chẳng còn đắn đo, anh vội chấm xôi vào miệng người chết và điềm nhiên ăn hết miếng xôi chia miệng đó.
Sau vụ gây rối mang sắc tộc chính trị ở Pleiku hồi đầu tháng hai, nhiều đoàn công tác ở Hà Nội bay lên Tây Nguyên để kiểm tra, nắm tình hình cơ sở báo cáo Trung ương hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội. Trong các đoàn đến rồi đi ấy có một người đàn ông trên 50 tuổi với lộ trình rất lạ. Ông không đi cùng các đoàn mà thuê riêng một xe con tới nhiều nơi, thậm chí còn ngồi xe ôm tìm đến tận những buôn làng xa xôi…
Người đàn ông là nhà ngoại giao, tuỳ viên văn hoá Đại sứ quán Việt Nam tại một quốc gia châu Phi mới về nước. Ông thuê phòng khách sạn Thuỷ điện sang trọng ở trung tâm thành phố Pleiku. Các cán bộ Ngoại vụ muốn cử người đi theo giúp đỡ nhưng vì lý do riêng, ông lịch sự từ chối.
Sự kiện ngày 2 tháng 2 làm ngỡ ngàng những ai đã từng một thời “cà răng, căng tai” sống ba cùng với bà con các dân tộc Tây Nguyên. Người ta không ngạc nhiên trước âm mưu phá hoại, chia rẽ của các thế lực thù địch nước ngoài và bọn phản động lưu vong, đứng đầu là Ksor Kớk. Nhưng làm sao mà một kẻ ít học, có tiền sự từng ăn trộm trâu, hiện đang sống bên Mỹ lại có thể lừa phỉnh hàng chục nghìn đồng bào một cách lạ đời đến thế? Hàng chục ngàn con người lầm lì kéo nhau lên tỉnh chờ được chia đất, chia nhà, chờ “Quốc tế đến ra mắt nhà nước Đê Ga” do Ksor Kớk làm “tổng thống”. Phản ứng của họ vừa đáng sợ vừa tội nghiệp. Những ánh mắt giận dữ đầy vẻ hoang dã và manh động. Đàn ông, phụ nữ đều mang theo gùi đựng đồ ăn, trên tay là những lưỡi mác, cung nỏ, rìu, gậy gỗ, gạch đá… Khắp các hướng, họ từ các buôn làng lân cận hoặc các huyện biên giới kéo đến trước cổng Tỉnh uỷ ngày một đông, đòi gặp mặt mặt ông Bí thư. Bí thư tỉnh và em trai (giám đốc công an tỉnh) ngày thường bệ vệ, quyết liệt trong việc sắp xếp nhân sự hôm nay lẩn tránh, không dám lộ mặt. Họ bắt một nghệ sĩ múa khá nổi tiếng trói và giữ trước cổng Tỉnh uỷ để đòi yêu sách. Ông này người Jrai, cơ quan chẳng ai phân công nhưng thấy bà con “đồng hương” nên đến giải thích, liền bị vu cho tội “phản bội” buôn làng, bị đánh có lúc ngất xỉu. Cả ngàn người kích động chen lấn xô đẩy, có nhóm vượt tường vào được bên trong, cổng và hàng rào trụ sở tưởng như sắp sập. Ở phía Nam họ cũng kéo vào khu vực xã Nhơn Hoà (Chư Sê) bắt giữ người. Các tỉnh Kon Tum, Đắc Lắc tình hình cũng tương tự và đã có nơi đổ máu. Không gian phố thị căng như giây đàn…
Quân đội, công an được lệnh cấm trại, chuẩn bị cho các tình huống diễn biến xấu. Những ai ra ngoài làm nhiệm vụ không được mang theo súng, chỉ tuyên truyền vận động, giải thích cho bà con hiểu. Bởi đi sau bọn chủ mưu hung hăng kích động là những phụ nữ chân đất địu con thơ, những mí già móm mém, hiền lành. Nhiều cô gái Jrai ngượng ngùng gùi theo cả gạo, củi, có người mới lần đầu bỡ ngỡ bước chân tới thành phố… Mấy anh con trai Jrai mới lớn đứng ở vòng ngoài, khi thấy đám đông bên trong kích động reo hò, chẳng hiểu chuyện gì cũng vung tay hùa theo. Và liệu trong số đó có người bà con nào của anh về từ buôn làng Bung La năm xưa?
Đã gần ba mươi năm anh mới trở lại vùng đất này. Cho dù có biện hộ bằng ngàn lý do, nào bận theo học, điều kiện công tác xứ người… thì thẳm sâu trong anh vẫn là nỗi dằn vặt ân hận vì chưa một lần về thăm lại Bung La. Ở đó có ngươi cha nuôi đã cẩn thận cho anh uống từng giọt nước lúc bị thương, giúp anh bước chập chững đầu tiên hoà nhập với buôn làng. Anh đã để lại đó phần đời tuổi thanh xuân và mối tình dang dở. Hôm ấy, khi bọn Mỹ đã rút, tỉnh lại anh thấy một thiếu phụ trẻ có đôi mắt thẳm buồn đang lau rửa vết thương cho anh. Đó là Rơlan H,Sớ con dâu già Thoong. H,Sớ sống với cha mẹ đẻ ở cuối buôn, hai năm sau khi làm lễ bỏ mả vẫn không chịu bắt chồng. Anh coi cô như em gái, những dịp buôn làng có việc hoặc lúc rảnh rỗi, anh dạy cô tập viết cái chữ, tập luyện giọng nói tiếng Kinh, kể cho cô nghe chuyện miền Bắc. Anh không biết từ lâu H,Sớ đã yêu mình. Một đôi lần cô vô tình áp nhẹ bộ ngực tròn căng vào vai anh, khơi dậy trong anh những cảm xúc rạo rực. “Trên trời có ngàn vạn vì sao, trong rừng có ngàn vạn chiếc lá. Em yêu anh nhiều như sao trên trời, như lá trong rừng…”. Tục nối dây tuy không quy định với con nuôi nhưng nếu chàng trai được gia đình bên gái yêu mến chấp nhận thì hôn lễ sẽ được tiến hành. Nhưng rồi số phận lại một lần nữa đưa anh sang lối rẽ khác. Lễ cưới chưa được tổ chức thì anh gặp một đơn vị mới từ miền Bắc vào chuẩn bị cho chiến dịch Tây Nguyên. Những người lính binh đoàn vô cùng kinh ngạc trước cái vỏ bọc vững chắc trong dân của anh. Anh trở thành một gương điển hình, một “bảo tàng sống” về công tác dân vận. Và cũng nhanh chóng anh được biên chế vào cơ quan Tuyên huấn của đơn vị. Anh bùi ngùi từ biệt già Thoong và buôn làng, từ biệt H,Sớ ra đi, hẹn ngày sẽ trở lại. Chiến dich Tây Nguyên mở màn, tiếp đó là cuộc tiến công tháng ba năm bảy lăm, anh theo bước chân thần tốc của đơn vị tiến vào giải phóng Sài Gòn. Rồi anh ra quân vào học đại học, được cử đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài, lấy vợ sinh con… Mới đó đã gần ba mươi năm! Từ một chiến sỹ giải phóng quân, cuộc chiến đưa đẩy anh trở thành người trai buôn làng Tơ Buăn đóng khố đeo gùi và bây giờ là nhà ngoại giao. Trông anh trong bộ comple màu ghi sáng, tóc hoa râm chải ốp, cách gao tiếp lịch lãm, nhiều bà con dân tộc thích thú khi nghe anh cán bộ trung ương về tận buôn làng hỏi han bằng thứ tiếng của họ. Hàm răng anh đã tẩy trắng, hai chiếc răng giả làm bằng chất liệu sứ cao cấp rất khó phân biệt. Anh cười với lũ con nít, lắng nghe ý kiến buôn làng và chia quà cho mọi người, những túi quà luôn chất đầy trong thùng xe, hết lại mua tiếp. Nhưng lòng anh vời vợi buồn. Buôn Bung La do nhiều lần rời làng giờ chẳng ai biết ở đâu. Có người nói làng đã dạt sang sống ở Campuchia từ sau giải phóng, lại có tin làng đã được đưa về định cư ở huyện S. Làng mới định cư ấy có tên là Plei Thoong. Hy vọng loé lên. Đồng bào dân tộc có tục lệ đặt tên buôn theo tên người lập buôn- Buôn ông Thoong? Anh lại lên đường kiếm tìm… Các buôn làng Tây Nguyên giờ đã thay đổi rất nhiều. Rừng già đã lùi xa. Những cánh rừng gỗ quý bị khai thác cạn kiệt trở thành rừng trồng cây nguyên liệu của bà con dưới xuôi. Những đồng cỏ mênh mông thoả sức cho các đàn dê, bò gặm cỏ nay bị rào chắn, phân lô trồng cao su, cà phê, chè. Có buôn bà con được vào làm công nhân lâm trường, hàng tháng nhận lương. Nhiều buôn đã có điện sáng chạy máy xay xát gạo, bơm nước tưới vườn, xem ti vi. Rượu trắng, rượu màu quốc doanh thay cho rượu ghè. Trong buôn không còn vang âm lên nhịp chày nôn nao mừng mùa lúa mới, thưa vắng cả những tiếng cồng chiêng, tiếng mõ tre lốc cốc treo ở cổ trâu bò. Thay vào đó là tiếng rú xe máy, tiếng gầm xe công nông chở gỗ và tiếng nhạc xập xình từ những băng cát xét. Cuộc sống bà con có vẻ hiện đại nhưng anh lại cảm thấy họ nghèo đi rất nhiều. Giống như là sống tạm chứ không bền chặt gắn kết như xưa. Rừng vẫn còn nhưng là rừng nghèo của nhà nước, của lâm trường, của doanh nghiệp người Kinh. Bà con không có rừng, mất rừng là mất đi sinh kế, mất cả không gian tâm linh mà anh đã từng thấm đẫm, mất đi niềm tin, các thế hệ sẽ nhanh chóng bị hoà tan trong cộng đồng người miền xuôi và phía bắc ồ ạt di cư đến. Ngày xưa người Pháp từng cấm người miền xuôi lên sống ở Tây Nguyên, trừ những phu đồn điền để tránh sự “xâm thực” hoà tan này. Bây giờ người ta thả nổi tình hình di dân… Anh đã tìm đến buôn Plei Thoong, một làng Bana mới được về định cư ở thượng nguồn sông A zun. Làng sống trên một dải đất hẹp. Không ai có đất rẫy, mỗi hộ chỉ được chia một ngàn mét vuông vườn, nhiều nhà đã bán hoặc cho người Kinh thuê trồng tiêu, sống lưu vong trong căn chòi của mình. Đường sá bị xe công nông cày nát, bùn đất nhày nhụa. Mấy chục nóc nhà nhỏ bé xiêu vẹo không thể gọi là nhà. Người lớn thiếu việc và trẻ em thất học đều đi làm rẫy thuê. Có nhà đứt bữa, phải ăn sắn, ăn cháo…. Những điều chứng kiến làm anh bần thần. Vậy mà khi hỏi, bà con vẫn cười hiền lành:” Mình quen rồi, khổ chút chút nhưng sắp đến muà bắp mới…”. Đồng bào đói nghèo một cách hồn nhiên và cũng đầy tự trọng, một cộng đồng bình đẳng không có kẻ bóc lột, ăn cắp và người ăn mày. Đã nói là làm, dù chỉ qua một cái ngoéo tay hay thắt nút dây. Vậy mà… Anh ngạc nhiên khi biết hàng chục xã phía Nam không làng nào có mái nhà rông. Hỏi, dân nói xã đã bán hết đất công, đất trạm xá, đất làm trường học cũng cắt bán, còn đâu đất làm nhà rông? Chủ nhật đám con trai con gái kéo nhau đi nhà thờ Tin lành Đê ga. Làng nào không có điện, đêm đêm lũ trai làng kéo nhau ra quán ven đường uống rượu, xem nhờ ti vi. Dân di cư tự do, bọn tội phạm trốn tránh pháp luật các nơi kéo đến trú ở nương rẫy mang theo nạn trộm cắp, cờ bạc, xì ke, ma tuý… Cán bộ xã thì xa dân, chỉ lo lợi riêng, cùng ê kíp giữ vững cái ghế của mình. nhiều kẻ lợi dụng hoàn cảnh nghèo khó của đồng bào để cho vay nặng lãi, ép dân phải bán đất. Rồi tìm cách bớt xén những chế độ mà lẽ ra đồng bào được hưởng. Đã xảy ra nhiều vụ tranh chấp, chính quyền không giải quyết kịp thời, thậm chí còn đồng loã, lợi dụng quyền lực bao che. Bon tay chân của Ksor Kớk thì như lũ plai (quỷ mặt người) ban ngày, như con cú ban đêm rình mò. Chúng tìm mọi thủ đoạn mua chuộc, lợi dụng sự thật thà cả tin của đồng bào để kích động lôi kéo, hứa hẹn, dụ dỗ. Và sự việc đáng tiếc đã xảy ra…
Đứng dưới bóng cây kơ nia già đầu làng, anh đưa mắt nhìn những dãy núi trập trùng mờ xa. Phía ấy là thượng nguồn. Dòng chảy cuộc sống đang hổi hả tiếp nối giữa quá khứ và hiện tại. Ước gì anh được trở lại nơi ấy để ngụp lặn trong dòng suối mát lành, được gặp lại những người bà con một thời gian khổ mà ấm áp tin cậy. Anh phải trở về để tạ lỗi với buôn làng của anh, dẫu muộn còn hơn không. “Mày sai hung rồi, sai nhiều nhiều rồi đó. Nhưng có lỗi thì phải sửa, buôn làng không giận đâu”. Vang vang trong anh lời sám hối năm nào. Buôn làng ơi, già Thoong ơi, lần nữa hãy tha lỗi cho con. Con đã về đây, đồng đội của con cũng đã về đây. Chúng con sẽ cùng buôn làng vạch lá bắt sâu, để giữ cho trong bến nước, cho sạch lối vào làng, cho xanh mát lại những cánh rừng. Rồi đây mọi việc sẽ thay đổi. Cái tà đạo Tin lành Đê ga và bọn xấu đội lốt tôn giáo sẽ bị nghiêm trị. Đồng bào các buôn làng Tây Nguyên cũng đang được chính phủ có những quyết sách giúp đỡ thiết thực để ổn định cuộc sống, gìn giữ bản sắc dân tộc và không gian tâm linh. Những kẻ trục lợi, bọn vô lương và những con sâu núp bóng chính quyền sẽ bị vạch mặt chỉ tên. Mạch nguồn sẽ trong xanh trở lại, cuộc sống sẽ ngày một tốt đẹp hơn. Hãy tha lỗi cho con, ngàn lần xin tha lỗi cho đứa con đã sớm quên điều ân nghĩa, cho cả những ai từng sống thờ ơ vô cảm trước nỗi cơ cực của buôn làng!
Anh thầm thì với trời đất, với núi rừng Tây Nguyên mà như đang tâm sự với già Thoong. Anh đang trải hết lòng mình. Hình như già Thoong đang lắng nghe. Buôn làng Bung La năm xưa cũng đang lắng nghe…
Chú thích:
(1) Tơ Buăn: Một nhóm dân địa phương dân tộc Jrai cư trú ở phía Tây tỉnh Gia Lai giáp biên giới Campuchia
(2) Chi rút: Kén một loại sâu rừng màu đen trông như con cuốn chiếu.
(3) Thức ăn (thịt động vật sống) nặng mùi vì thiếu muối
(4) Mắm nhét: Đồng bào bắt cá suối (có nơi bắt cả cua, nhái, chuột non) nhét vào ống tre bịt kín cho chất hữu cơ tự phân huỷ.
(5) Giai đoạn đầu làm tang lễ (từ 2 đến 7 năm) người nhà phải mang cơm cúng mả, cắt cỏ, tưới nước… Sau khi làm lễ bỏ mả, hồn sẽ về với tổ tiên, mả (nhà mồ) sẽ bị bỏ hoáng không chăm sóc nữa.
22/10/2024
Phạm Minh Mẫn
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chất liệu cuộc sống và tư tưởng thẩm mỹ trong truyện ngắn của Nguyễn An Bình

Chất liệu cuộc sống và tư tưởng thẩm mỹ trong   truyện ngắn của Nguyễn An Bình 1. Cuối tháng 9/ 2021, anh gửi cho tôi bản thảo tập truyện ...