Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2025

Cảm hứng văn hóa trong trường ca "Hoa đăng" của Hồ Đăng Thanh Ngọc

Cảm hứng văn hóa trong trường ca
"Hoa đăng" của Hồ Đăng Thanh Ngọc

Theo bước chân với ánh nhìn của kẻ lãng du, trường ca khơi dòng… Và, trên dòng chảy thi ca ấy, nhà thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc nhẹ nhàng thả những đóa hoa đăng bồng bềnh trôi trong tâm hồn huyễn tưởng nồng nàn mùi hương quít Hương Cần. Kẻ lãng du cũng là lãng tử họ Hồ, đưa bạn đọc vào không gian đa chiều kích: chiều kích văn hóa lịch sử, xã hội, tâm linh của đất thần kinh còn hằn bao trầm tích.
Bởi, dày trầm tích và đầy ưu tư, trường ca như tiếng ru chiều lâng lâng khói sóng khiến người đọc nhập hồn vào miền đất vừa quen vừa lạ; đồng thời cũng là dịp cảm nghiệm hơi hướm thần kinh bằng tư thế bắc cầu vượt qua dòng thời gian: từ bên này thực tại sang bên kia mộng tưởng, từ cuộc sống hôm nay về cõi trời đất năm xưa. Và, hơn thế nữa, hình như người thơ mong mỏi dìu bạn thơ vào cõi siêu hình nào khác! Hẳn là, thi nhân họ Hồ xứ “Nồng nàn những cỏ cùng cây/ Rượu Hương Cần ai uống mà say đắm lòng” (Ca dao), chẳng những kẻ lãng du mà còn là hành giả – Hành giả Hồ Đăng Thanh Ngọc thả đóa hoa đăng để “thỉnh cầu siêu thoát”!
Phải chăng đó là khát vọng vươn đến tuyệt đích tâm hồn của nhà thơ!
1. Cảm hứng văn hóa xã hội
Trường ca, một thể loại đa dạng, độc đáo có lịch sử hình thành phát triển lâu đời, trải rộng cả địa hạt văn hóa/văn học dân gian lẫn văn học bác học. Nhìn chung, trường ca có nhiều chi loại với các đề tài và cảm hứng nghệ thuật khác nhau. Có thể kể ra một vài chi loại như: trường ca anh hùng, trường ca phiêu lưu kịch tính, trường ca đạo đức giáo huấn,… Đề tài và cảm hứng phổ biến hơn cả trong thể loại trường ca: cảm hứng lịch sử và tôn giáo. Dần dà, trường ca tu trợ thêm các yếu tố lãng mạn, kịch tính; cốt truyện phong phú đa chiều, nhất là kết hợp thêm các yếu tố “folklore”. Chính ở khía cạnh này, bạn đọc có thể nhìn thấy ở trường ca Hoa đăng của Hồ Đăng Thanh Ngọc vừa có đặc điểm chung vừa có đặc trưng riêng trong tương quan thể loại.
Phóng tầm nhìn sơ khởi, trước khi bước vào tìm hiểu kỹ càng hơn, bạn có thể cảm nhận trường ca “Hoa đăng” của Hồ Đăng Thanh Ngọc đã có ít nhiều đóng góp về thể loại. Cụ thể, đó là sự mở rộng biên độ, cấu hợp nhiều đặc trưng chi loại của trường ca trong cùng một chỉnh thể nghệ thuật. Hẳn nhiên, trong quá trình sáng tạo, chủ thể sáng tác không hoàn toàn ý thức một cách rạch ròi về các lằn ranh thể loại. Cũng chính vì thế, sinh thể nghệ thuật ra đời trong hình hài tự nhiên, trọn vẹn và tương thích với thực tiễn đời sống (trong thế giới quan của chủ thể sáng tạo) hơn là tương thích với quy phạm thể loại.
Khơi nguồn cảm hứng cho hồn thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc trong trường ca này, phần nhiều chính là những chi tiết/hình ảnh thơ từ trong huyền tích/huyền sử. Từ nguồn cảm hứng ấy, nhà thơ xây dựng một không gian nghệ thuật đượm vẻ ma mị nhưng đầy mê hoặc. Không gian thơ cũng là không gian văn hóa xã hội. Bạn đọc có lẽ cũng nhận ra những “ký ức huyền thoại” của đời sống con người miền thượng. Nhưng có vẻ Hồ Đăng Thanh Ngọc chẳng bao giờ hài lòng với không gian đơn thuần miêu tả. Cố nhiên vẫn có những nét bút miêu tả nhưng chàng thi sĩ không chỉ tả bằng ngôn từ, màu sắc, hình khối, đường nét, mà chàng còn vẽ bằng ngòi bút tưởng tượng. Nói theo kiểu phân tâm vật chất của Gaston Bachelard, chàng thi sĩ đã vượt qua miêu tả để mộng tưởng. Với Hồ Đăng Thanh Ngọc, đó là sự mộng tưởng từ mặc tưởng của đất và tột bậc của khí trời. Sự mộng tưởng khiến bạn đọc cơ hồ nhắm đôi mắt thịt để mở ra con mắt tâm linh. Bấy giờ, bằng đôi mắt ấy, bạn đọc mới có thể hình dung cõi thơ của Hồ Đăng Thanh Ngọc. Bằng đôi mắt ấy, bạn có thể xâu kết các “mảng văn hóa” để cảm nghiệm “ký ức huyền thoại” trong Hoa Đăng.
“Bấy giờ dòng sông vẫn đang chảy từ nguồn ra biển
róc rách câu chuyện mù khơi triệu triệu năm tăm cá
từ những mắt đá vôi tím đỉnh Thiên Thai
và những chùm rễ thạch xương bồ hiền hòa khỏa lay trong nước
người con trai đã đi đến đỉnh nguồn A Moong vào một mùa hè mơ hồ
những đứa trẻ lớn lên bên dòng suối A Rí đen nhẻm tắm nắng
những chiếc gùi lặng lẽ trên lưng những cỏ cây và thú rừng cho những bữa ăn tà lụt tà lạo
người con gái mỗi sáng soi bóng trên thác ghềnh tẩy rửa những cơn đau
chiếc tẩu thuốc dài kể trong đám khói những câu chuyện săn đầu người để có những mùa màng bội thu
những vết máu rải dài trên dặm đường muối mặn
những cần rượu cong vút chiêng chao cha chấp mối tình đá núi
những linh hồn ngồi nghe tiếng cồng chiêng trong những pho tượng nhà mồ
lửa hỏa hoàng trước ngôi nhà gươl
hoa đăng vút cao khởi vọng đỉnh núi
mái tranh ủ những mùa lễ hội
và sông đã chảy từ trên mái nhà
cuốn theo những ký ức huyền thoại” (tr.13-14)
Mở ra cánh cửa huyền thoại (trong phạm vi văn hóa tộc người), thi hứng tràn trề lai láng, rạt rào tuôn chảy cùng với niềm thích thú phô bày vẻ đẹp văn hóa vật thể và phi vật thể. Hầu như suốt 12 trường khúc của trường ca Hoa đăng, nhà thơ sử dụng chất liệu văn hóa đời sống xã hội của tộc người đại ngàn miền Tây Thừa Thiên (A Lưới), nơi đầu nguồn sông Hương, với tần suất khá phổ biến và đều đặn. Không chỉ những vật dụng đời sống hằng ngày đậm nét bản sắc mà còn những truyển kể dân gian, mang hơi thở sinh khí của văn hóa xã hội tộc người. Đó là những bài dân ca, tình ca cũng là sử thi của tộc người miền rừng núi thơ mộng – bản đại hòa tấu của quá trình vận động phát triển đời sống văn hóa xã hội tinh thần con người. Nhờ đó, cảm hứng nghệ thuật (đối với các giá trị văn hóa xã hội) có khả năng cộng hưởng/liên văn bản, mở ra không gian thơ càng thêm rộng lớn, phong phú, dồi dào trữ lượng. Bề dày trữ lượng văn hóa xã hội tạo nên trọng lượng của bản trường ca Hoa đăng.
“Bên bếp lửa rừng già làng xong một cần rượu xong một hơi thuốc
chuyện ta sắp kể đây đã qua hơn bốn mươi mùa rẫy
ngày đó trong thôn A Kol Rang của chúng mình đây
con trai chơi đàn abel tha thiết, tơr bhréc, ưng chrưl, thổi sáo tơrhoo
đàn atoong bảy thanh với chiếc dùi
gõ vào mặt đàn trầm hùng, rộn rã âm vang núi rừng
chơi đàn ămprây kết từ năm quả rằng khô
treo tren chiếc cán dài như những cây đèn chùm cán đàn nện xuống đất, đập vào ché rượu rộn ràng tiếng suối reo
tiếng lục lạc đồng treo cổ ngựa rung vang
và những cồng chiêng, những khèn, những tù và, những adon, tirêt
trai gái hát kơ lan, kơ lênh, paroi, bơ noot trong các lễ hội pdorâm, prô ngót…
lời cha chấp a anh inh a em
“anh bắt được con nai, em muốn anh là con rể của mẹ
anh săn được con gấu, em muốn anh là con rể của cha”
lời cha chấp bên suối trên nương
“ơ chúng ta có cái bụng thương nhau
thương nhau nhiều hơn đá dưới dòng Đakrong
thương nhau dài hơn hàng cột nhà Konprơn ha…” (tr.14-15)
Bằng tứ thơ rất dung dị – không gian sinh hoạt cộng đồng tộc người – lời thơ sử dụng ngôn ngữ đậm nét văn hóa dân tộc thiểu số. Trường ca nối dài vào thể loại “văn học dân gian” của tộc người, càng làm cho bạn đọc đắm chìm vào không gian văn hóa núi rừng. Bạn đọc dường như cũng nhận ra mối tình nồng thắm, vừa táo bạo, vừa lãng mạn của đôi trai gái miền thượng. Có lẽ vì nhà thơ sử dụng ở mức dày đặc ngôn ngữ tộc người (không chỉ ngôn ngữ sinh hoạt đời thường mà còn ngôn ngữ văn học dân gian), “nồng độ” văn hóa đời sống xã hội càng thêm đậm đặc. Qua đó, bạn cũng thấy nhà thơ có sự trải nghiệm trực tiếp, có sự am tường nhất định về văn hóa xã hội con người A Lưới. Lễ hội Pdorâm (chuẩn bị trỉa hạt), lễ Prô ngót (kết nghĩa hai làng), người Cơ Tu hay dùng điệu Bơ not; trong tang ma họ dùng các điệu Kơ lan, Kơ lênh, Ra roi[1]. Trường ca Hồ Đăng Thanh Ngọc cộng hưởng với dân ca tộc người Cơ Tu, tạo thành âm hưởng vừa độc đáo vừa lôi cuốn.
Nhà thơ quả thực khéo léo sử dụng chất liệu văn hóa dân gian của dân tộc thiểu số đầu nguồn sông Hương để tạo lập không gian thơ. Chàng thi sĩ nối dài theo bản tình ca thổn thức của đôi trai gái giữa đại ngàn để kết cánh hoa đăng màu nhiệm, gieo vào lòng độc giả một cảm giác mơn man khó tả. Bạn có nghe thấy thoang thoảng lời tình, nghe thoang thoảng tiếng đàn của chàng trai “cứa vào trăng hiu hắt”. Hình ảnh thơ của chàng thi sĩ Hương Cần quả có sức ám ảnh và ma mị khó diễn tả hết. Hình ảnh thơ cứ đeo đẳng bám riết vào sự cảm nhận của bạn đọc. Có thể nói, những “con chữ thôi miên”!
“nghe trong rừng cọ tiếng đàn lạ của chàng
những âm giai cứa vào trăng hiu hắt:
“từng đêm anh thắp ngọn hoa đăng trên đỉnh núi
như thắp cho tình yêu của mình được sáng lên
như vầng trăng kia bay một mình trên trời
soi bóng xuống dòng suối buồn gương mặt em”
nghe trong ngân đàn tiếng hát a mua
“anh sinh ra lúc trăng trong
qua bao thác ghềnh qua bao mùa rừng thay lá
em qua bao mùa nương mùa rẩy
nghe tiếng đàn lạ thương anh cô đơn như con vượn lạc bầy
em lớn lên gặp mùa trăng tối
nghĩ phận mình nghèo khó
như cây khô trong rừng
làm sao đến được với anh?”
tình yêu của họ nổ vang như tiếng sét ngang tai bao chàng trai nơi này
song trái tim hoang sơ của chúng ta không hẹp hòi
những đêm săn thú về tưng bừng tiếng chiêng tiếng trống
làng vẫn chấp nhận bước chân thụy du trong điệu nhảy Yơ Yă”(tr.16-17)
Hồ Đăng Thanh Ngọc kết hợp nhiều hình thức văn hóa-văn nghệ dân gian (diễn xướng dân gian: văn khấn, đồng dao, vè, hầu văn, cùng dân ca-dân vũ các dân tộc thiểu số…) tạo thành hình thức nghệ thuật độc đáo. Điều này càng minh chứng: nhà thơ đặt hết cả tấm lòng mình vào mảnh đất văn hóa dân gian, thể hiện một tình yêu thiết tha đối với cuộc sống con người. Hơn nữa, chàng thi sĩ còn gián tiếp tôn vinh vẻ đẹp cuộc sống con người. Thông qua việc sống-sinh hoạt hằng ngày trên nhiều phương diện, con người hằng ngày hằng giờ góp phần tạo nên nền nếp văn hóa xã hội cho cộng đồng. Ấy là giá trị nhân văn mà trường ca Hoa Đăng đã chuyển tải đến bạn đọc.
“chèo bẻ chèo bè
chèo hội chèo hè
chèo lên xóm trên
chèo xuống xóm dưới
chèo ăn hột muối
chèo uống nước chè
chèo xếp bè he
chèo ngồi chỏ hò
chèo nong úp rỗ
chèo nia úp nồi
chèo tới chèo lui
chèo bay mất nút
chèo sút dây lưng
chèo lên chèo xuống
lỗ rún ngập ngừng
chèo tuốt vô hang
chèo ra xóm rú
gặp mưa cá mú
tép nhảy lên bờ
tôm khóc ơ hờ
tép ơi là tép
nhảy thuyền mắc nẹp
chết cọng râu xanh
nay hết yến anh
nay thôi giật mỏ
anh chèo em chống
con bầy cháu đống
đứa trồng thanh trà
đứa đi giủi hến
đứa trồng gạo de
đứa làm mè xửng
đứa đi gói nem
đưa đến hội hè
tháng ba giỗ mẹ
chèo qua sông suối
mưa đổ về nguồn
như tình của mẫu
chèo qua đầm phá
tôm cá như mưa
thấm tình của nước
đôi ta là một
trong muôn kiếp trước
yêu tới bây giờ
chèo bẻ chèo bè
chèo le chèo lẹ
chèo hẻ chèo hè
đời vẫn cứ vui
cười lên một tiếng (tr.23-25)
Quả thực, văn hóa-văn nghệ-văn học dân gian vẫn liên tục ảnh hưởng/tương tác qua lại với văn học viết. Và Hồ Đăng Thanh Ngọc là một minh chứng cho điều này! Qua đây, bạn có thể càng xác quyết thêm: nếu ta cắm chặt hồn mình vào đất đai quê hương, gắn chặt hồn mình vào đời sống văn hóa con người, thì ta hẳn có nền tảng sâu dày để hun đúc tinh thần và chữ nghĩa!
Và Hồ Đăng Thanh Ngọc vẫn nặng lòng với xứ Huế hơn cả! Văn hóa sông Hương núi Ngự, văn hóa dân gian xứ Huế, văn hóa cung đình Cố Đô, được kết hợp nhuần nhuyễn trong trường ca Hoa đăng. Trước khi trở thành thi hứng, có lẽ, nhà thơ đã bỏ công tìm hiểu, đắm mình vào nguồn cội văn hóa ấy. Không chỉ phô diễn vẻ đẹp văn hóa mà hơn hết là tình yêu tha thiết với giá trị văn hóa xứ Huế.
“người hát vè cuộn tấm lụa mềm dòng sông bước vào cổng phủ
người cung nữ thắp ngọn nam ai xông bát trầm hương
người hát vè thả một hoa đăng nhớ người con gái
bước chân xuống thuyền đền nợ Ô Ly
nước mắt rơi nhiều nên xứ đầy mưa
những cọng thạch xương bồ hứng lấy dung nhan
rồi khỏa nỗi buồn tan nước sông thơm thầm kín
cõi tang bồng từ đó hiển hiện” (tr.31)
Đằng sau đặc sắc văn hóa thâm nghiêm cung đình, người đọc còn nhận ra “cảm quan” gì nữa trong hồn thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc. Chưa thể nói ngay, nhưng hẳn có một cảm quan nào đó đằng sau con chữ! Nước mắt nhân sinh rơi nhiều, nên xứ Huế đầy mưa! Cơn mưa ấy có phải những bi kịch nhân sinh “tang bồng”, “trầm tích”, “tịch mịch”. Đằng sau những cơn mưa xứ Huế là cảm quan về cuộc sống con người. Nhà thơ gợi ra nhận thức (dẫu còn mơ hồ) trong lòng bạn đọc về cuộc hiện hữu của con người trên cõi thế! Cuộc sống cơ hồ chồng chất những vỉ quặng trầm tích của nỗi buồn và bi kịch riêng tư!
Như vậy, trường ca Hoa đăng của Hồ Đăng Thanh Ngọc với cảm hứng văn hóa xã hội còn mang lại cách nhìn “nhân sinh”, qua đó bộc lộ cách thế “triết” ra “lý” về cuộc sống con người. Nếu nhìn từ phía này, bạn có thể nhận thấy nét tương đồng nào đó giữa trường ca Hoa đăng với các trường ca mang khuynh hướng triết lý xã hội, bộc lộ nhân sinh quan của chủ thể sáng tạo trên nền tảng ý hướng lãng mạn. Chủ thể sáng tạo mang dáng dấp kẻ “thụy du” đa tình, trải rồi nghiệm và thông quan ánh mắt trữ tình, phóng tầm nhìn vào đời sống. Về cơ bản, Hồ Đăng Thanh Ngọc vẫn là một thi sĩ đa tình và trầm mặc!
2. Cảm hứng văn hóa lịch sử
Trường ca Hoa Đăng ra đời khi đất nước hoàn toàn thống nhất, quê hương thanh bình. Tác phẩm hẳn có độ lùi thời gian nhất định so với các trường ca thời kháng chiến chống Mỹ. Chẳng hạn như: Bài ca chim Chơ Rao, Campuchia hy vọng, Oran 76 ngọn, Người vắt sữa bầu trời, Thông điệp mùa xuân,… của Thu Bồn; Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm; Trẻ con ở Sơn Mỹ, Những người đi tới biển, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bùng nổ của mùa xuân, … của Thanh Thảo; Đường tới thành phố, Từ chiến hào đến thành phố, … của Hữu Thỉnh. Thế nhưng, độ lùi lịch sử cần thiết cho sự chiêm nghiệm thâm trầm hơn về lịch sử. “Dù không thể trở lại thời hoàng kim như những năm đầu thế kỷ XIX, nhưng trường ca, với tư cách một thể loại tổng hợp, trữ tình-tự sự, hoành tráng, cho phép kết hợp những chấn động lớn, những xúc cảm trầm sâu và những quan niệm về lịch sử, vẫn chiếm được vị trí nhất định trong thi ca thế giới”[2]. Hẳn nhiên, cảm hứng văn hóa lịch sử không thể hiểu đơn thuần như “bản tường trình” lịch sử, không thể hiểu một cách đơn giản là “bản tổng kết” lịch sử; trường hợp “Hoa Đăng” của Hồ Đăng Thanh Ngọc nên hiểu là triết lý về văn hóa lịch sử.
Yêu quê hương, yêu cuộc sống, dễ hiểu vì sao Hồ Đăng Thanh Ngọc dễ rung động. Phàm những diễn biến trong xã hội đều khiến nhà thơ bột phát cảm xúc và suy nghĩ. Nói vậy thì thi nhân xưa nay chẳng phải vốn đã là những “cây kim bé nhỏ” mà “vạn vật là muôn đá nam châm” đó sao? Quả thực như vậy! Nhưng giữa cái chung vẫn còn có nét riêng. Và nét riêng ở cảm hứng văn hóa lịch sử mà từ đó nhà thơ khởi dụng vườn thơ, chính là: Hồ Đăng Thanh Ngọc luôn có xu hướng triết lý về những tình và cảnh gặp phải trên bước đường “thụy du”. Hồ Đăng Thanh Ngọc luôn phóng ra cái ý hướng “triết” cho ra “lý”. Nghĩa lý căn bản của sự triết chính là “lao tác”. Làm thơ với Hồ Đăng Thanh Ngọc có lẽ cũng như “lao tác” về “tư tưởng”, mà cảm xúc/rung động chỉ là bước khởi đầu!
Với ý hướng đó, nhà thơ có khả năng “triết” các sự lý “văn hóa”/ “địa văn hóa”. Bề dày lịch sử và “địa văn hóa” đã hun đúc tâm tính con người. Hồ Đăng Thanh Ngọc đã tinh ý phát hiện và thông qua chữ nghĩa chuyển tải điều thú vị này đến bạn đọc.
“người thợ rừng giấu sợi dây vào nút thắt kết chiếc bè chở một trăm cây lồ ô xuôi dòng
ngả ba Bằng Lãng trôi miên sương hoài niệm
tả trạch khởi thủy Động Dài qua năm mươi lăm ngọn thác gập ghềnh
hữu trạch từ đông Chấn Sơn qua mười bốn ngọn thác lốc cuộn xoáy
sáu mươi chín con ngựa tung bờm hoang dại
thác Cọp dựng oai linh mãnh liệt đỉnh trời
chứng nhân cho ngày trưởng thành của chàng trai
giữa bóng cây đại ngàn và những vực sâu bí ẩn
người con gái bới tóc lượm trái miên sa trên những đột khởi khúc quanh và những đường cong mĩ miều
sinh ra những đứa con phóng khoáng và man dại những đóa hoa đầy tự do và trong sáng
và từ đó theo sông xuôi êm đềm châu thổ
chiếc bè bắt đầu khoác tấm áo hoa thao thiết đỗ quyên rừng
mang theo dư vang Trường Sơn rót thẳm xanh chén ngọc
mẹ phù sa dịu dàng soi bóng dòng trôi
tóc trang đài một tiếng đàn minh triết”(tr.26-27)
Qua đây, bạn đọc có thể thấy điểm tựa cho hồn thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc. Ở chỗ ngợi ca chiều sâu tâm hồn “minh triết” của người bình dân từ lịch sử gầy dựng và phát triển đời sống, nhà thơ rõ ràng đứng về phía nhân bản. Nhận diện và tôn vinh giá trị dân gian. Ở đó, nhà thơ cũng nhìn thấy dân gian tính như hằng số cốt lõi tạo nên nội lực của giống nòi. Hồ Đăng Thanh Ngọc chẳng bao giờ hài lòng với mặt bằng hai chiều của đời sống thế tục; mà dựa trên đó, nhà thơ mở ra một chiều kích thâm nhập vào “địa tầng” tâm hồn con người. Lẽ đó, thơ ca của chàng thi sĩ gốc Hương Cần mang chiều sâu tư tưởng nhất định. Cũng chính vì thế mặc dù tương đồng cảm hứng nghệ thuật và đặc điểm khắc họa dòng sông nhưng hình ảnh dòng sông trong trường ca Hồ Đăng Thanh Ngọc và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại có nét khác biệt rất căn bản. Một trong số điểm tương đồng rõ thấy nhất: khía cạnh văn hóa (hay đúng hơn địa văn hóa) của dòng Hương Giang; nhưng nếu sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường chưa thật sự đi vào thì trường ca Hoa Đăng thực sự đã đi vào chiều sâu triết lý của sự cảm thụ văn hóa (địa văn hóa).
Cảm thức văn hóa lịch sử của Hồ Đăng Thanh Ngọc còn đưa người đọc vào trong huyền tích, huyền sử. Cảm nhận bước đi của lịch sử trên từng con chữ! Nhà thơ có nét giống như người “hướng dẫn viên” đưa bạn đọc thăm thú, du ngoạn những đền đài lăng tẩm xưa, những tháp cổ ma hời câm tiếng. Lắng nghe hồn đất âm ba, nhà thơ mơ hồ thức nhận dòng chảy “sử tính”. Từ đó, chàng thấp thoáng nhận ra nghĩa lý thực sự của “quyền lực”!
“chén rượu qua cầu người về người có nhớ chăng
những vương triều như những vệt sao băng
mùa quyền lực chảy trên tầng tháp cổ
những dư âm lớp lớp kiếm xanh
và câu Kiều viết trong vườn Đá Sắn
thi sỹ nằm nghe trống canh nhức nhối
nước mắt chảy buồn nách lá Kim Long
những cung nữ liệm cuộc đời giữa Y-Trì-Tùng-Dụng
mùa khói sương huyễn hoặc bốn bức tường
rồi tan biến trong khát khao khung trời xanh ngắt
của muôn chim có con phượng hoàng đậu ngọn ngô đồng
thi sỹ loạn đình nhảy lên yên ngựa
“Trường Giang như kiếm lập thanh thiên”
rồi mang trái tim bầm máu giấc mơ
cất tiếng thét trên pháp trường giấy trắng
người hát vè nhảy điệu hầu văn
lũ trẻ con chơi trò điện tử
hoa đăng hoa đăng hoa đăng
lửa lập lòa như một chiếc thuyền lan
quan đại thần tần mần ma xó
người ham chơi cởi áo mão từ quan
về cội ngô đồng hát khúc dân gian” (tr.32-33)
Rốt cuộc chàng thi sĩ nhận ra cuộc chơi. Cuộc chơi ấy đã kéo dài từ đời này sang đời khác. Có người tỉnh cuộc chơi có người vẫn mải miết chơi! Có lẽ cuộc chơi vui thú ham thích nhiều kiểu nhiều cách. Lòng người khó cưỡng lại, hay đó là cơn thuốc phiện mê đắm khiến hồn người một khi phê pha không thể cai trừ. Chàng thi sĩ chia sẻ với bạn, để rồi chàng trở về hát khúc dân gian. Đó cũng là cách thế thi sĩ của nhà thơ Hương Cần! Bạn có lẽ cũng hiểu được cách thế sống hiện tại mà chàng thi sĩ đã chọn lựa!
“Mùa quyền lực chảy trên tầng tháp cổ”. Câu thơ quả có sức gợi! Không biết có khiến bạn nhớ tới vài câu thơ của họ Chế khóc thay cho ma hời vong quốc. Có khiến bạn nhớ một mùa diễm nào đó! Có thể bạn sẽ nhớ lại/nhớ tới điều gì khác nữa. Nhưng, điều đó chỉ càng minh chứng rằng: thơ của Hồ Đăng Thanh Ngọc mang vẻ đẹp quyến rũ của mộng tưởng gợi hứng từ lịch sử huyền mị và trữ tình!
Đằng sau cảm hứng lịch sử thời thế, liệu có bạn đọc nào nhận ra điều mà hồn thơ Thanh Ngọc những mong gửi gắm. Đâu đó, bạn có thể nghe tiếng thở dài thời gian tưởng như ru hời giấc ngủ thiên thu (cũng là giấc mộng) bao trùm trên bao cuộc can qua. Bao hồn người đã chết, đã gửi lại máu thịt trên phế tích thần kinh! Lạc vào phế tích thời gian, bước từng bước trên đống tro tàn của lịch sử, người như cộng hưởng, cận giao với những hồn linh u uẩn còn vương vẩn trên đất đai xứ sở này!
“người hát vè uống chén rượu thạch xương bồ
rồi nhặt chiếc lá cỏ chỉ
ký ức nhai và nuốt một ngụm xương Ba Đồn
cỏ chỉ
sao nơi ấy chỉ có Cỏ Chỉ sống?
như biệt phân với mọi loài hỗn tạp
chứng nhân của những oan hồn xanh trên bãi tha ma
cỏ chỉ mọc xuyên mùa xương tám làng
cỏ chỉ xanh từ điệp trùng xương mùa Thất Thủ Kinh Đô
lúc nhắm mắt còn cay khói ớt
nhẩm khúc hùng ca uốn cỏ xuống sát đất
cỏ chỉ vàng mùa thây trắng Ất Dậu trọng đông bốn lăm
ngực vỏ trấu phơi sương ngoài đồng xó chợ
mùa ngàn linh hồn, mùa vạn linh hồn
mùa chết vì nghĩa trung, mùa chết vì danh dự
mùa tên bay đạn lạc
mùa nhắm mắt vô ngã vô hình
rễ thấu suốt những hình hài vô tội
cỏ chỉ mọc điểm danh
cồn mồ một tám làng “ân tứ hiệp táng võ tự chi mộ” bức cận thành trì dời chôn nơi đây
cồn mồ hai 3700 linh hồn
cồn mồ ba 2250 linh hồn
cồn mồ bốn
cồn mồ năm
cồn mồ sáu
cồn mồ bảy” (tr.34-35)
Choáng ngợp! Bạn có rợn người hoa mắt trước cõi thơ (cũng như cõi bình địa tha ma), lớp lớp mộ huyệt u ám phủ trùm lên thời gian. Cõi thơ chàng thi sĩ là sự giao cắt giữa lịch sử thời quá khứ và thực tại. Là sự chồng lấn giữa cõi sống và cõi chết, giữa hữu lý và vô nghĩa, giữa còn và mất, … Và, một câu hỏi-lời truy vấn khôn nguôi chồi lên trên những nấm mồ thời đại không thể phủ nhận! Đêm đêm trong âm ba của đất, chàng thi sĩ nghe vọng lại tiếng côn trùng rền rĩ trong đêm, tấu lên khúc ca hư vô tận diệt của lịch sử. Bầy đom đóm mở vũ hội cùng âm binh vong hồn! Nhập vào đời cỏ chỉ, nhập vào kiếp bụi bờ, nhập vào phận bụi đỏ ven đường!
Trên bãi chiến trường đổ nát của lịch sử, hẳn nhiên cuộc sống vẫn tiếp tục vận động, đi về phía trước. Con người lại tiếp tục đối diện với những thực trạng mới. Và, thực trạng mới về sau cũng không kém phần khốc liệt, nghiệt ngã. Nỗi đau của kẻ thù mang lại, dẫu gì vẫn còn nhẹ so với nỗi đau do chính núm ruột liền da gây tạo nên. Không phải những nấm mồ quá khứ, mà di chứng của lịch sử mới thực sự là điều đáng hãi hùng. Người nghệ sĩ nhận ra điều đó, người thực sự bi đát, người thật đáng thương hại. Người nghệ sĩ cô độc giữa bốn bề “thi phi” lịch sử thời đương đại! Vậy cho nên, người tự thắp cho mình một cánh hoa đăng! Dẫu nói rằng người nghệ sĩ tự dàn hòa chính mình, nhưng liệu bạn đọc có tin rằng Hồ Đăng Thanh Ngọc có thể tự dàn hòa với chình mình trong cái nhìn về văn hóa lịch sử thời đại.
“cuộc trở về xôn xao trên cột báo
cuộc trở về không đứa con nào chờ đợi
chúng còn bận tranh dành thưa kiện nhau mảnh vườn xưa
vào lúc nửa đêm thụy du lén hôn lên vầng trán lú lẫn của người vợ cũ
trên gương mặt pho tượng chợt mỉm một nụ cười sau bốn mươi năm
để lại một tiếng vọng xám hối: cuối cùng ông đã trở về
đám tang dằn vặt người trở về
dẫu một nghìn hoa đăng đã thắp sáng hai bên đường lúc ba giờ sáng
một nghìn hoa đăng cầu người đi siêu thoát
dẫn dắt cuộc tiễn đưa trong triền miên khổ đau
những ánh lửa không đốt thành tro được nỗi ân hận
người nghệ sỹ đập nát cây đàn muộn màng
đã treo cổ cuộc đời mình trên từng sợi dây
trở về để làm chi khi cuộc chơi không có người dự phần
người nghệ sỹ tìm về cõi thiền
từng đêm chuông mõ thắp hoa đăng trong chiếc cốc lạnh
những hoa đăng xám hối
những hoa đăng tự dàn hòa chính mình
nở nhói  buốt tim đêm” (tr.45-46)
Đời sống mới với chiến trường mới, ở đó, vũ khí sát thương lại chính là “nhân tâm”. Cảm hứng văn hóa lịch sử vận động về phía hậu chiến, tiệm cận với cuộc sống đương đại; gián tiếp cho thấy Hồ Đăng Thanh Ngọc là một tâm hồn biết rung động và đồng hành cùng thời đại đang sống. Với cảm hứng lịch sử thời đại, người nói về chiến sĩ, nói về khoảng đứt gãy quê hương. Có những người lính giàu ước mơ, hoặc đã từng giàu ước mơ, bây giờ trở về chắp nối vá víu để dựng lại ước mơ, tìm kiếm một tương lai nào đó. Có chăng, sự tìm kiếm đó chính là tương lai rồi!
“bấy giờ người lính trở về cởi chiếc mũ tai bèo móc lên chiếc gạc nai
và đội nón ra vườn trồng lại hàng cây
trồng cây nhớ thương đồng đội xưa đã khuất
trồng cây khép lại những mùa đạn bom
trồng cây hy vọng xanh về những mùa bội thu
những cánh đồng vàng khi bước chân giã từ đã mơ ước
trồng lại những nỗi đau vết thương không lành
mùa đông còn nhức buốt những ngón tay đã nằm lại trên chiến trường đại ngàn
trồng lại những ước mơ bỏ dở
những ước mơ về một tương lai
bình dị như nấu một nồi kê chín” (tr.57)
Giã từ chiến trường nhưng trở lại đời sống con người. Đằng sau cõi hôn mị, ma ám, chuyện của linh hồn, trường ca Hoa Đăng hẳn vẫn còn nhiều tia sáng tươi tắn. Người vẫn yêu cuộc sống rất nhiều. Người vẫn hằng mong mỏi vun đắp tương lai. Đó là tương lai bình dị, đúng chất người, đậm tình đời. Trường ca bấy giờ có những nốt nhạc nhỏ nhẻ, ôn nhu, hiền hòa. Từng nốt nhạc êm ái, hầu như tan lẫn vào đời thường. Những nốt nhạc đủ sức trung hòa tất cả cuộc chiến (đã và đang còn diễn ra). Phải chăng, nhà thơ cảm nhận “lịch sử” theo chiều sâu. “Sang thế kỷ 20 và những năm đầu của thế kỷ 21, trường ca thường phát triển theo hướng trữ tình, tâm lý, triết lý; các xúc cảm riêng tư đặt trong liên hệ với những chấn động lịch sử, trong khi đó yếu tố cốt truyện được giảm xuống thậm chí tương đối mờ nhòe”[3]. Nếu quả đó là sự cộng hưởng tạo ra bởi các “chấn động lịch sử” thì Hồ Đăng Thanh Ngọc đã “hạ huyệt” lịch sử để trầm ngâm mặc tưởng “lịch sử” theo thể điệu của “lòng đất sâu”.
Từ trường ca của nhà thơ Hương Cần, bạn đọc có thể nhìn ra xu hướng vận động rộng hơn của thể loại trường ca đầu thế kỷ XXI. “Và tương xứng với thủ pháp kỹ thuật mới đó là một không gian khoáng đạt để chứa đựng một dung lượng nội dung hoành tráng và cảm xúc bao la, phù hợp với cái tôi được giải phóng. Thời gian lịch sử cũng tiến tới được thay thế bằng thời gian tâm linh: đó là một thời gian mơ hồ, vô định: một hình thức tồn tại của xu hướng trữ tình, suy tư, trở về chốn nội tâm”[4]. Cảm hứng văn hóa lịch sử khởi dậy các xúc cảm riêng tư để tiếp tục phát triển thành tính chất trữ tình-triết lý trong tác phẩm; trong khi cốt truyện hầu như không còn quá quan trọng nữa! Nhất là thi sĩ Hương Cần đi vào khai thác khía cạnh tâm linh. Đây cũng là xu thế của trường ca đương đại, góp phần thúc đẩy thể loại trường ca vận động phát triển.
3. Cảm hứng văn hóa tâm linh
Nhà thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc ngày càng đi sâu hơn vào phương diện văn hóa. Từ văn hóa đời sống xã hội, đến văn hóa lịch sử (nhân sinh trên chiều lịch đại) tới văn hóa vượt qua không gian sống thực để đi vào địa hạt tâm linh. Chính vì đi vào địa hạt văn hóa tâm linh, cõi thơ của Hồ Đăng Thanh Ngọc trở nên rộng lớn, bát ngát, … cũng có khi rợn rùng, choáng ngợp. Từ ý hướng “triết” cho ra “lý”, nhà thơ dường như còn đòi hỏi một cái gì khác hơn, một cái gì sâu hơn, một cái gì uyên áo hơn. Liệu đó có phải là khát vọng muốn lý giải căn nguyên nhân sinh, để thấu triệt cái đệ nhứt nguyên lý của cuộc thế! Nói vậy, cũng để bạn đọc hiểu rõ thêm vấn đề văn hóa tâm linh không phải những chuyện “hoang đường kỳ ảo”, “quyền pháp”, “thần thông”. Mà tâm linh hiểu như cơ tầng sâu kín của diễn hiện nhận thức trong cuộc tương giao với thế sự. Từ nhận thức tâm linh đó, nhà thơ nắm bắt và có lẽ đã sử dụng một số hành vi “tôn giáo”/ “tín ngưỡng” dân gian để đưa vào chữ nghĩa. Bấy giờ, làm thơ như một “hành vi” tín ngưỡng. Thơ ca dường như tôn giáo. Dễ dàng, bạn có thể tìm thấy những lời cầu khấn, hộ niệm, lễ lạy trong trường ca Hoa Đăng.
“đêm đang dần buông và tiếng chuông chùa tha thiết những hoa đăng trên sông
như những chòm sao nước mặn vừa kịp giáng trần làm cuộc vũ hội
ngày một nhiều những hoa đăng giăng khắp mặt sông
chàng trai quỳ gối bên sông cầu nguyện
hoa đăng hoa đăng hoa đăng
sự tỏa sáng lời thỉnh cầu siêu thoát” (tr.8-9)
Hồ Đăng Thanh Ngọc dường nhu “nối dài” vào bản “Chiêu hồn thập loại chúng sinh” của Tố Như tiên sinh thuở nào.  Có lẽ nhà thơ cũng như Tố Như tiên sinh thuở trước vẫn nặng lòng u hoài trước thảm trạng nhân sinh.  Người thấy được “cớ sự” khiến thế cuộc bày ra lênh láng.
 “Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là điểm cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu một bề thảm thiết,
Ruột héo khô, da rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy muôn năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy, tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời, lẩn thẩn tìm ra,
Lôi thôi bồng trẻ giắt già!
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.”[5]
Những cánh hoa đăng của Hồ Đăng Thanh Ngọc cầu cho âm linh siêu thoát, cũng là chút lòng thương tưởng, luống mong cõi trần ai an lạc tốt lành. Chàng thi sĩ Hương Cần sử dụng kết cấu trùng điệp ở cuối trường khúc 1,2, 4, 5, 7, 9, 12. Cho nên bạn đọc có thể xem mỗi trường khúc như bài văn khấn. Bạn đọc phải là người am tường văn hóa dân gian mới có thể tường tận những dụng ý của nhà thơ. Bởi trong hình thức văn bản, thi nhân chuyển hóa, tác hợp, kết tạo nhiều hình thức văn học-văn hóa-văn nghệ/diễn xướng dân gian (văn khấn, đồng dao, vè,…) trong cùng một chỉnh thể tác phẩm. Và chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà thơ xây dựng tác phẩm thành 12 trường khúc hợp thành bản trường ca đa chiều như vậy! Lẽ đó, văn bản tưởng như đang tuôn đổ cuồn cuộn như dòng Hương Giang từ núi rừng đại ngàn tràn về lênh láng nhưng lại có cấu trúc chặt chẽ, hệ thống.
“đây hoa đăng thắp trên dòng sông này vô thường
đây hoa đăng sáng cho người khuất mặt mười phương
đây hoa đăng siêu thoát linh hồn viễn mộng vấn vương
đây hoa đăng đêm sơ sinh trẻ hồn nhiên chào đời
đây hoa đăng thắp tròn đêm nồng điệp lứa đôi
đây hoa đăng là nến trí tuệ là lửa
hoa đăng trên dòng sông cũng là hoa đăng dòng đời
linh hồn mang ánh sáng soi lại đời sau
đây hoa đăng khúc nguyện cầu an lạc trần gian”(tr.9)
Một lòng cầu nhân sinh an lạc. Đi vào địa hạt tâm linh, nhà thơ lại phơi bày thảm trạng nhân sinh. Những kiếp người thất thểu đi lại trong cô tịch hư vô, phải chăng cũng như những phận người thất thểu đi lại trên cõi thế. Cõi dương hay âm gian cơ hồ không phân biệt nữa.
“nghĩa trang rộng dài sương buốt cõi âm
vọng tiềm nghi bí hiểm huyền hoặc
những giấc gái trai nửa đêm dựng đứng
cặp rắn già lẩn khuất bên tấm bia hóng nghe kinh xám hối sau chùa
cỏ chỉ mọc mênh mông cô mộ chân trời
cỏ chỉ mọc xanh huyền thoại phân vân
những cánh chuồn bay trong ánh chớp
báo hiệu những cơn mưa đười ươi máu tanh
những ngạ quỷ hiện hồn đòi miếng bánh ngọn lửa
hoa đăng hoa đăng hoa đăng
xin thắp ngàn vạn ngọn
“Này hương hoa vàng giấy xôi rượu chuối chè
chút gọi rằng nếm lấy hơi xin nếm lấy lòng
nghĩa đồng chủng đồng bào thác xem như sống”(tr.37)
Ở khía cạnh này, bạn hẳn thấy Hồ Đăng Thanh Ngọc càng gần gũi với Tố Như hơn nữa. Cả Tố Như tiên sinh lẫn thi sĩ Hương Cần đều cảm thấu kiếp nhân sinh phù ảo. Dấu ấn tư tưởng Phật giáo còn in hằn trong lời thơ cũng là nét tương đồng dễ thấy. Chốn nhân sinh rốt cuộc chỉ là cuộc chơi “đười ươi máu tanh”. Một nhân sinh quan ít nhiều bi thảm nhuốm màu Phật giáo. Nhưng bạn đọc cũng nên ghi nhận niềm hy vọng nhân sinh an lành trong tâm hồn nhà thơ Hương Cần!
Gửi niềm hy vọng ở mỗi trường khúc, Hồ Đăng Thanh Ngọc lại trùng điệp “hoa đăng hoa đăng hoa đăng”. Chàng thắp nén tâm hương cầu mộ âm linh siêu thoát chăng! Và, đó cũng là chút lòng thương tiếc vì những kiếp-đời-phận cay cực chua chát thảm não của bãi chiến trường đời người và thời thế. Chàng cũng hay dùng “cổ văn” của người xưa để gợi ra cảm giác suy tư ngậm ngùi trước cuộc sinh hiện. Phải chăng “hình tượng con người vũ trụ”! “Chinh chiến kỷ năng hồi, linh tích thiên thu bằng thử địa/ Thân sơ vô dị trí, tăm hương nhất triện vấn thùy nhân”(tr.38). Trường ca Hoa đăng vì thế vừa có âm hưởng bi tráng ca, vừa có âm hưởng tình ca, vừa có âm hưởng tâm ca, vừa có âm hưởng “chí tôn ca”. Tổng thể, Hoa đăng là bản văn khấn cầu siêu.
“xin thắp ngàn vạn ngọn
“Này hương hoa vàng giấy xôi rượu chuối chè
chút gọi rằng nếm lấy hơi xin nếm lấy lòng
nghĩa đồng chủng đồng bào thác xem như sống”
vị hòa thượng già khoác cà sa lên đàn trời làm lễ cầu siêu”(tr.37-38)
Người cầu siêu cho những “sinh tồn tan hoang”. Trong đó, người khấn nguyện cho thân phận người nghệ sĩ vẫn mãi hoài lang thang bước chân thụy du và tiếng đàn phiêu lưu trên cuộc thế. Người nghệ sĩ hơn ai hết, cảm nghiệm nỗi cay đắng, oan nghiệt của thân phận làm người. Làm nghệ sĩ, phải chăng nhận bản án chung thân lưu đày! Về phương diện này, tất cả những người nghệ sĩ đều gần gũi với Đặng Trần Côn, với Nguyễn Gia Thiều, với Nguyễn Du, với Hàn Mặc Tử.
“như một sinh tồn tan hoang
người nghệ sỹ có thể giết chết một thế giới
người nghệ sỹ có thể giết chết một mối tình
người nghệ sỹ có thể giết chết chính mình” (tr.44)
Trở về cõi tâm linh, cùng với lời khấn nguyện cầu siêu, ấy là ước muốn cứu rỗi. Cái gì có thể cứu rỗi, chữa chạy, chuộc tội làm người? Nghệ thuật? Người nghệ sĩ đi hết cuộc hành trình nghệ thuật. Trên bước đường ấy, người đã nhặt nhạnh, chắp vá, cứu chuộc cho chính “tội nghiệt” đa mang; đồng thời rà soát chữa chạy cho quê hương, cho trái tim mẹ, cho em.
“người nghệ sỹ mượn dấu thời gian vẽ ánh hoa đăng
để thấy được cứu rỗi khỏi hố thẳm tuyệt vọng
những ký ức loang dần trên khoảng không đen
xô dạt về hư vô
thế giới vọng tiếng bi thảm của hồi chuông xa lạ
mài nhẵn ý thức nén từ vô vọng xuống những khung vải hiền từ
mỗi bức tranh như hơi thở như một lần đã chết
như một lần thả trôi hoa đăng” (tr.52).
Liệu nhà thơ ẩn ý điều gì đằng sau bức tranh “siêu thực”/ “lập thể”, nơi mà những bóng hình, ý hướng chồng chéo, xô lệch. Ở những giao điểm của “hình ảnh” lại nảy nở những hình ảnh khác. Khi gợi ra ý hướng người lại khiến ý hướng khác nảy sinh (Bạn đọc có khi mệt nhoài bởi số lượng tình-ý nảy nở trong quá trình tiếp nhận). Người muốn nói điều gì về người nghệ sĩ/người thi sĩ? Phải chăng hành trình và sứ mệnh nghệ thuật? Nghệ thuật có vẻ như lời tự thú tâm linh!
Trong lời tự thú, nhà thơ thổ lộ không giấu giếm nguồn tình rạt rào. Đáng nói, người thổ lộ nợ tình với “tỳ kheo” từng cứu mạng người chiến binh đại ngàn một thời. Rồi ngạc nhiên hơn, nguồn tình ấy khiến người “tỉnh ngộ”. Tình và tỉnh ngộ cùng ý hướng về phía Phật lý, tạo thành bài thuốc chữa chạy, mở ra bến giác cho tâm hồn thương binh/chiến binh/thi sĩ/nghệ sĩ.
“một ngày người lính gặp tỳ kheo thụy du trên cốc núi
ân nhân cứu vớt mình khi qua suối năm xưa” (tr.59)
“thụy du ngồi nghe câu chuyện như một cọng lau
tiếng tỉnh ngộ mõ gõ trong thềm chiều nam mô mùa vắng không
cơn đau cuối cùng xé mây xé đất
ba vạn sáu ngàn ngày có được nhúm sương vui
đã neo tình tang mê mải vào những khúc đàn
đã neo mắt vào những ánh đèn vô vọng người vợ cũ
đã neo dấu vào chiếc bè hoa đăng kiến đỏ nơi góc rừng đại ngàn
đã neo sương vào ngàn ánh hoa đăng dẫn lối tiễn đưa lúc ba giờ sáng
đã neo giọt tịnh không hoa đăng trong cốc lạnh mùa quên
người tỳ kheo nhận lấy phím đàn huyền ngày ma mị
đốt trong tiếng chuông
hoa đăng này không một tiếng chuông
bàn tay thụy du chợt rời chuông mõ
bàn tay khép lại trên dòng kinh Kim Cương” (tr.60-61)
Có lẽ cũng như Tố Như tiên sinh, bến giác Phật Đà là nơi hồn người nương tựa. Trường ca Hoa đăng như bài văn khấn, như bài cầu siêu cho những âm hồn vất vưởng còn mang nặng oán hờn, ủ ê, chán chường, bi thiết, thống hận, đoạn trường,… còn thất thỉu tồn tại trong tâm tưởng kẻ đang sống. Những khi lòng người chợt trỗi dậy niềm bi ai khó tả, ấy là khi những hồn xưa hiển hiện. Hồn người bấy giờ là chỗ giao nhau của những không gian đa chiều, chỗ giao nhau của những thân phận truyền kiếp. Về phía tâm linh, Hồ Đăng Thanh Ngọc làm thơ để cho âm linh siêu thoát. Có lẽ nhà thơ những mong thanh tẩy nỗi bi ai thống hận trên nhân gian, hướng tới một đời sống an lạc phước lành!
Tạm kết:
Sở dĩ phân chia thành từng trắc diện cảm hứng nghệ thuật là để tìm về tận nguồn gốc sáng tạo của thi nhân Hồ Đăng và theo đó, trình bày phần nào cõi thơ độc đáo của chàng thi sĩ Thanh Ngọc bản quán Hương Cần. Trên thực tế, các khía cạnh thi hứng không tách rời! Cảm hứng văn hóa xã hội, lịch sử, tâm linh,… nhiều khi hòa kết không thể phân biệt rạch ròi. Đó cũng là điều dễ hiểu. Bởi, chủ thể sáng tạo khác với chủ thể tiếp nhận, cách thế sáng tạo không đồng nhất với cách thế tiếp nhận.
Với nguồn thi hứng như đã phân tích, Hồ Đăng Thanh Ngọc “thỏa mãn” được “nhu cầu tiếp nhận” của bạn đọc. Dù là bạn đọc khắt khe, tiếp nhận chuyên sâu, cũng sẽ tìm thấy nhiều điều thú vị, cảm khoái trong trường ca Hoa đăng. Người đọc chuyên môn có thể nhận diện nhiều vấn đề lý luận trong sáng tác này! Thực vậy, trường ca Hoa đăng của Hồ Đăng Thanh Ngọc mang phong vị mới lạ trong địa hạt trường ca của văn học Việt Nam hiện đại. Chàng thi nhân Thanh Ngọc mang lại bản giao hưởng hoành tráng, lộng lẫy… song cũng rất trữ tình – trữ tình tha thiết. Nhất là, thi nhân họ Hồ níu độc giả đến với hiện hữu ở tầng sâu của hồn người. Chí ít, thi nhân họ Hồ cũng khiến bạn đọc nhìn lại đời sống tâm linh của bản thân ở những chỗ lắng đọng tâm tư cùng tấm lòng người nghệ sĩ mà thi nhân đã tâm huyết xây dựng trong bản trường ca này.
Đặc biệt với cảm hứng văn hóa tâm linh, Hồ Đăng Thanh Ngọc thể hiện được cái nhìn nhân đạo với những số phận và cảnh ngộ trong kiếp người. Xưa nay, thi sĩ vốn đa mạng “tật” ưu tư không thôi về phận người. Bởi, nỗi ưu tư đó, người không thể nào êm xuôi với những vấn đề đời sống mà thiên hạ vốn đã êm xuôi không nghĩ tới. Cũng chính vì vậy, chàng thi sĩ họ Hồ ray rức, thổn thức…, ngay cả với đời sống đã từng hiện hữu hay vẫn còn đang hiện hữu. Rõ ràng, cảm hứng tâm linh trong trường ca Hoa đăng không đơn thuần bản văn khấn/cầu siêu cho những âm hồn còn ôm nỗi thống thiết, đồng thời còn là bản văn khấn cho chính những u uẩn, bi thiết, đau thương của những kẻ còn đang sống. Hoa đăng khấn cầu cho nỗi khổ niềm đau của cuộc nhân sinh nói chung, ước mong con người hôm nay vượt qua hết đau khổ bi thương của kiếp người!.
Chú thích:
[1] Xem:
– Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế – “Dân ca – dân nhạc – dân vũ các dân tộc thiểu số Thừa Thiên Huế”, Nxb Thuận Hoá 2010;
– Dương Bích Hà – Âm nhạc dân gian của người Tà Ôi – Pakô ở Thừa Thiên Huế – Nxb Văn hoá Thông tin, 2013
– Tar Dưr Tư – Giới thiệu khái quát vài nét về dân ca, dân nhạc, dân vũ của dân tộc Tà ôi, Pa cô, Cơ tu, Pa hi, Vân kiều huyện A Lươi, tỉnh Thừa Thiên Huế; nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện A Lưới (https://aluoi.thuathienhue.gov.vn/?gd=21&cn=94&tc=4335)
–   Nguyễn Văn Sơn (2022). Nhạc cụ truyền thống của người Cơ tu. Trích xuất từ: Cổng thông tin điện tử huyện Nam Giang-tỉnh Quảng Nam, http://namgiang.quangnam.gov.vn/.
[2] Lại Nguyên Ân (1998). 150 thuật ngữ văn học. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia, tr.365.
[3] Nhiều tác giả (2005). Từ điển văn học (Bộ mới). Hà Nội: Nxb. Thế giới, tr.1867.
[4] Nguyễn Văn Dân (2008). Trường ca với tư cách là một thể loại mới. Tạp chí Sông Hương số 230 (4/2008).
[5] Nguyễn Du (1965). Chiêu hồn thập loại chúng sinh (Thích Tâm Châu đề tựa, Đàm Quang Thiện hiệu chú). Nam Chi tùng thư. Saigon: Kim Lai ấn quán, tr.18-19.
7/12/2024
Trần Bảo Định
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Khẳng định và tôn vinh những giá trị văn học Việt Nam 50 năm qua “Hội nghị Lý luận Phê bình lần thứ V hy vọng sẽ mang tới một cái nhìn k...