‘Một ngày nào đó có kẻ nói năng như ta,
ăn mặc như ta nhưng không phải là ta’
(Cổ Đàm Thích ca Mâu ni). Đưa ra câu hỏi này cốt nói lên một vị trí xác quyết, một
đối diện trước hiện tượng thực thể có từ ngàn tkỷ. qua, một sự quan tâm đáng
lưu ý (mentioned confront) của chúng ta và chúng ta muốn minh định Phật giáo là
một tôn giáo hay coi đây như là lý thuyết triết học? hay coi đây như là ‘lối sống
của cuộc đời’ / A way of life?, hay coi đây như là một định lệ của đạo đức luân
lý ? (A code of ethics). Đấy là điều không dễ dàng sắp xếp một hạng thứ như bất
cứ hạng thứ nào trong cuộc đời, và; đó là điều luôn ý thức về tôn giáo của
chúng ta; gần như còn mơ hồ cho một quả quyết để tôn thờ hay cho đó là lý lẽ của
triết thuyết về nhân sinh? Thiết nghĩ chúng ta cần cân nhắc, suy xét lại một
vài phạm trù thuộc loại thứ đề ra –It is not easy to classify Buddhism as any
of these things, and; it challenges us to rethink some of these categories. Bởi;
tôn giáo không còn là kinh điển giáo điều hay triết thuyết mà thực chứng tâm-như của
con người. Thế thì sao? Có nghĩa rằng xưa nay chúng ta nhìn thực thể đó là ‘tôn
giáo / religion’ gần như ‘lời răn’, một giáo lý được truyền thừa trong đại
chúng. Ngược lại một số khác thực thi niềm tin Phật là Thượng đế, đấng được tôn
thờ và cứu nhân độ thế, đấng cứu chuộc chúng sinh và coi Phật là Thượng đế, là
đấng thấu suốt như một Hiện Hữu Tối Thượng, người đã tạo ra vũ trụ và tạo ra
muôn vật. – God , in turn; is understood as a Supreme Being who created the
world and the creature in it. Có phải như thế không? Trong từng giai đoạn lịch sử nhân loại, đi vào từng qui ước
(tôn giáo) đã thần thánh hóa trong nhiều quan điểm, đường lối, hướng đạo khác
nhau là đem lại một sự huyền diệu lạ thường cho một sự giao lưu tư tưởng. Nếu
thực sự tin Thượng đế trong một cảm thức thiết yếu của tôn giáo; Vậy thì Phật
giáo không thể cho đó là tôn giáo ? Nhưng; nhớ cho rằng Phật giáo không hẳn phải
‘tin’ và không có tương phân hay từ chối sự hiện hữu của đấng tạo hóa –Buddhism
holds no such belief, and; on the contrary, denies the existence of creator
god.Tuy nhiên; vấn đề nêu ra không còn là lý luận nhất thể để xác định vai trò
cần thiết để trở nên tôn giáo. Phật giáo thừa nhận sự hiện hữu của siêu nhiên
như là thượng đế và hồn thiêng (as god and spirits). Thành ra Phật giáo dường
như không chung cùng với những ý tưởng vô thần khác hay ý thức hệ khác, nó
ngoài vòng cương tỏa của ý thức chủ nghĩa. Những phạm trù khác của thuyết hữu
thần (theistic) và vô thần (atheistic) là hoàn toàn không dính líu đến phật
giáo phái (buddhistic). Thế nhưng;; có một vài gợi ý, coi đó như là một phạm
trù lý thuyết khác hay cho đó là một tôn giáo không có thần –Some have
suggested that a new category that of the ‘nontheistic’ religion. Mà trong Phật
giáo đã bao hàm tất cả. Nó đi từ cảm thức, cảm quan khác nhau trong một ý thức
siêu thoát của con người trong sự sống và sự chết; đó là thành quả của kiếp người
và đó là nguồn gốc minh định cho một lý thuyết hết sức đơn thuần và vi diệu.
Không chừng sự lý này là ý tưởng nói đến đấng sáng tạo (creator god)? Thực sự của
Phật giáo là đưa cái tâm làm đầu cho ý tưởng của con người đang tại
thế, nó không xa tầm nhìn, con đường của Phật giáo là giác ngộ để đi
tới giải thoát. Nói thế không có nghĩa làm sáng tỏ vai trò, chức năng
của tất cả mọi tôn giáo mà là một hệ thống khác của niềm tin –be other systems
of belief, chớ không riêng Phật giáo. Muốn đạt tới chân tâm của Phật giáo, chúng ta phải đi qua Bảy
Mẫu thức của Tôn giáo -The Seven Dimensions of Religion- Một trong những thành
qủa lớn nhất phân tích những gì được coi là hiện tượng đều nằm trong bảy kích
thước của tôn giáo. Vậy thì tôn giáo phải nói đến bảy mẫu thức cần thiết trong
việc tu tập (practical) và nghi thức đúng mẫu mực (ritual dimension) : 1-MẪU THỨC THUỘC KINH NGHIỆM VÀ TÁC ĐỘNG (The Experiential
and Emotional Dimension):: Đạo Phật là một trải nghiệm trong cuộc đời đã sống
và chết; ấy là điều cực quan trọng –is extremely importance. Bản thân của Phật
là kinh nghiệm, là tác động của giải thoát là nền tảng đưa tới truy tầm của trí
tri –to get down to bedrock là một tổng thể toàn bộ cho một tập truyền. Thời
gian đã lưu lại những gì ngài đã liên đới vào đó, đấy là sự chủ động kinh nghiệm
như một tác quyền mà về sau trở thành một lý thuyết chính đáng và tạo thành một
giá trị bất di, bất dịch trong mọi hoàn cảnh từ xưa cho tới nay, một triết thuyết
nhận thức, một tác động trực tiếp có từ tâm não. Phật là đấng giác ngộ bao gồm
luôn cả khia cạnh tác động trong thể thức của tình thương, chính những dữ kiện
đó là những gì đã thúc đẩy ngài thực hiện việc truyền bá trong phương hướng chỉ
dạy của Phật hoặc còn gọi là Pháp –The Buddha’s enlightenment also included an
emotional aspect in the form of a profound compassion which motivated him to
propagate his teachings, or; Dharma. Ngoài tấm lòng xót thương cho những gì đau
đớn, thiệt thòi, mất mát của nhân loại là cả một đau đớn trong cuộc đời tu tập
của Phật. Ngài đã trải hết vào đó như một kinh nghiệm sống mà chính Phật đã thực
hiện; khó để nhận thấy và hiểu biết, điều không thể ngăn được mà bằng kinh nghiệm
khôn ngoan. Cho nên chi kinh nghiệm là mẫu thức quan trọng trong việc tu tập và
hành sự, là vì; Phật giáo chú tâm vào cái gọi ‘cuộc đời là một tôn giáo’ là cốt
tủy cho một hành xử (a course-in) là chuyển mình tự thân, một chuyển động khác
từ có sang không hay ngược lại là một thay đổi ở chính mình, đó là trạng huống
của nhận thức (states of consciousness), một tăng trưởng cực độ cho những gì
thuộc về tinh thần. Đây là điều dược nhấn mạnh bên trong của vấn đề kinh nghiệm
mẫu thức của tôn giáo nhất là trong dây chuyền tu tập và hành động mà trước đây
Ấn độ giáo lấy phép luyện khí công (yoga) cho cách tu tập khác, nhưng; với Phật
giáo đem việc tỉnh lự (meditation) là một phóng niệm về xác và hồn, tạo một
tinh thần thanh thản, một tâm thân bình an cho những người tu học Phật giáo
ngày nay. 2-THUYẾT GIẢNG VÀ ĐỊNH VỊ HUYỀN HOẶC (The Narrative and
Mythic Dimension): Là gợi cho chúng ta về một thứ tôn giáo khác. Phật giáo đã
chung cùng những gì cho là huyền hoặc và huyền thoại –Like other religious;
Buddhism has its share of myths and legends. Phật giáo giải thích như thế này:
huyền hoặc trong ngữ cảnh không cho đó là sai lầm, hơn thế nữa huyền hoặc là những
câu chuyện kể hấp dẫn và lực lôi cuốn vào đó một thứ đức hạnh tốt. Huyền hoặc nằm
trong giai tầng bình dân, lý giải một trạng huống tâm thần yêu chuộng những gì
viễn vông, mộng mị, ngay cả những gì huyền thoại, cổ tích đều không có thực để
thuyết giảng, một tác động ngoài vòng cương tỏa của giáo lý. Phật giáo thừa nhận
có huyền hoặc, có huyền thoại, có siêu hình chớ không coi đó là một lý thuyết.
Phật giáo coi Phật Pháp (Buddhadaharma) là chính yếu có kinh điển, văn tự để lại.
Những gì huyền hoặc và những thứ khác là chuyển kể về một thứ đức hạnh tốt mà
thôi chớ không xem đó là mẫu mực trong việc tu hành và kinh nghiệm về Phật
Pháp. 3- ĐỊNH MỨC VỀ HỌC THUYẾT VÀ TRIẾT THUYẾT (The Doctrinal and
Philosophical Dimension) Phật tử Á châu thường không dùng thuật ngữ ‘Phật
giáo/Buddhism’ để tự xưng hay tỏ bày mà nói lên rằng Phật giáo là ‘Pháp/Dharma’
hoặc cho đó bằng một thuật ngữ khác‘Phật dạy/ Buddha-sasana’ là có giáo lý
(doctrine) trong đó dạy cho ta một chân lý tối- thượng-phật là một thể thức
sáng láng trong trí tuệ và thân xác; ấy là điều không thể cho là không lý do để
đi tới với Phật giáo. Cốt tủy của giáo điều dạy cho ta đi tới chính quả đã
chứa đầy đủ trong một nối kết vào nhau ở vị trí cao sang nằm trong ‘Bốn Đỉnh
Cao Chân lý/ Four Noble Truths’. Tuy nhiên; không hẳn dành cho tu sĩ mà cũng
dành cho chúng sinh. Phật giáo còn được coi như một cảm thức bí truyền qua kinh
nghiệm của cách thức nhập định , cho dù; có vô số kinh điển hay tụng niệm
nhưng; chung một pháp. Bởi; trong kinh Phật-Pháp có những lý giải về kiếp
người như một triết thuyết nhân sinh quan Vì vậy mà cho rằng Phật giáo là một
triết thuyết không còn là tôn giáo. Sự đó nhìn nhận như một mẫu thức của học
thuật nhất là những phạm trù hay thuật ngữ dành cho Phật giáo. Dẫu định nghĩa
dưới danh xưng khác nhau, nhưng; Phật Pháp như ‘Thánh kinh’ của Phật giáo 4 – ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LÝ CHUẨN MỰC (The Ethical and Legal
Dimension): Phật giáo đã được xem trọng như một thứ tôn giáo có tính chất đạo đức
–Buddhism is widely respected as one of the world’s most ethical religious. Là
thực chứng không còn sai lệch giữa quan điểm nầy nọ; một xác minh cụ thể của niềm
tin và cũng là giáo lý (doctrines) thích nghi cho mọi hoàn cảnh, mọi thời đại của
con người trên mặt đất này, nó là một thực thể có tác động, không có mơ hồ hay
huyễn hoặc nó mang lại cho con người những gì là lẻ phải, những gì là đạo đức
luân lý, nó hiện hữu tối thượng trên tất cả mọi điều. Tuy không toàn năng nhưng
toàn trí là Phật tính, là thượng đế của Phật giáo. Nhớ cho tấm lòng luân lý đạo
đức của Phật là không gây tổn thương (nonharming/ahimasa), những thứ đó đã sáng
tỏ ở chính nó. Tôn kính Phật là để lại tiếng tăm muôn đời của Phật giáo. Một
triết lý đưa dẫn nhiều lý lẻ khác nhau (không có nghĩa là tất cả) Phật giáo
không nằm trong phép nhị nguyên mà chuẩn mực là sắc tố cấu thành cho một tôn
giáo. Trong bảy luật điều của mẫu thức đã được mô tả; vậy thì có đi ngoài những
gì của trừu tượng tự nhiên? Không! Phật giáo là một hiện thể sống động, một lý
giải minh bạch, một giáo điều có thực qua bảy điều ‘răn’, không có chi trừu tượng
hay huyễn hóa và cũng chẳng phải biểu hiện trong xã hội hay trong thể thức thuộc
tâm lý –religion as embodied in social and physical form. Phải nhìn nhận giáo
điều Phật giáo là một tôn giáo sống thực được thừa nhận từ mấy ngàn tkỷ qua, một
hiện diện từ đó cho đến nay. Nếu nhận ra được nó, thời đó là một tôn giáo thực
sự giữa thế gian này cùng với những tôn giáo khác.. -5 TẦM CỞ CHO MỘT XÃ HỘI VÀ THỂ CHẾ HÓA (The Social and
Institutional Dimension): Có thể trong những phạm trù thuộc tôn giáo đã được
bao trùm mọi dữ kiện mỗi dữ kiện cho ta một thực chất quan trọng đưa tới một hiện
tượng tốt đẹp mà chúng ta gọi là ‘tôn giáo’. Đấy là việc làm rất chuẩn mực của
Phật giáo. Một hình thức tuy tầm thường nhưng quan trọng trong việc tu tập cũng
như nghi thức chuẩn mực kể cả giáo lý, là yếu tính của đạo Phật, là cốt tủy của tu và hành, cả
hai yếu tố đó là tác động chủ lực. Phật Thích ca không nhận mình là thượng đế
mà nhận mình là người hướng dẫn, chỉ đạo; một con người như mọi người nhưng phải
hiểu biết trong phương pháp tu tập và có một nghi thức mẫu mực dành cho giáo
lý. -6 TU TẬP VÀ NGHI THỨC MẪU MỰC (The practical and Ritual
Dimension): Như Phật đã nói: ‘Ta là Phật các người cũng là Phật’ (nói trong lần
rao giảng). Tu tập và nghi thức là một minh định rõ nét trong Phật giáo hơn cả
niềm tin, ngay phép Bí Tích (sacramental kind) là một thu hút có tiềm lực của
những tôn giáo khác, chảng hạn Judaism, Thiên chúa giáo Orthodos. Phật giáo đã
có những nghi thức và hành lễ giữa chùa, đền và những nơi riêng tư hay trong lễ
nghi chung như đám cưới, đám ma; kể cả tu viện đều hành sự không xa giới hạn của
lễ nghi và chuẩn mực là hình thức thực thi đúng đắn đường lối chủ trương trong
nghi thức cũng như tác phong của một người đã xuất gia. Thí dụ: cạo đầu, tay lần
tràng hạt dưới lớp áo lam hay nâu, chân đi guốc mộc; Ngoài ra nhà sư có lễ nghi
thường kỳ vào những ngày lễ chung hoặc tụng niệm qua từng mùa . Thí dụ: ‘vô hạ’
của nhà sư là một ôn tập về nghi thức và hành lể cũng như tu tập hay còn gọi là
vô-giới.(theo kinh Phạn ‘the patimokkha’) và nghi lễ vào những ngày đầu tháng
(new moon) và ngày rằm (full moon); lấy những ngày đó để phát tâm (ăn chay, niệm
phật, dạy đạo hay giải trừ…) một đánh dấu cho việc tu hành. Tuy nhiên; những
chư tăng không được thực hiện phép ‘bí tích ‘ xức dầu thêm sức’ trong
nghi lễ cho đạo hữu hay tín dân và cũng không bình thường hóa những gì cho là
nhiệm vụ phải làm ngay cả việc qui y phật hay ‘rửa tội’(baptisms) hay làm phép
trong việc ma chay hay cưới hỏi –Monks, however; do not normally
perform sacramental rituals the lairy, and; would not normally officiate at
‘baptisms’ and deaths and marriages. Chủ yếu của Phật giáo là lấy tâm truyền
tâm, lấy tâm-như-phật để thực thi phép tắc của người tu hành, xử lý sự
việc chớ không qua một ‘thánh thể’ nào cả; ngay việc ‘phóng thủy’ tức rải nước
vào người cũng không có trong nghi thức mẫu mực (ritual dimension) của Phật
giáo. Công việc tới chùa chiền để cầu xin ban phước hay dâng hương hoa quả phẩm
để tỏ lòng thành kính với Phật cũng không nhất thiết có điều này. Phật giáo chỉ
đòi hỏi cái tâm-như-nhiên là cái tâm sống thực giữa đạo và đời một
cách trong sáng là tâm như ý; chớ không đem phật vào đời hay đạo là đời, đời là
đạo danh xưng như thế là ‘lạm phát tư tưởng’với từ ngữ ‘dấn thân’ là hoàn toàn
đi ngược chân lý Phật giáo. Tu là cải thiện để đạt tới một tâm thân trong sáng
với hạnh nguyện lợi tha chớ Phật không dạy ta vào đời để ‘đấu tranh’ để phải hy
sinh (sacrifice) vì đạo hay vì Phật. Tinh thần và hồn thiêng của Phật là đem
tâm như để nguyện cầu an lạc, giải thoát chúng sinh ấy là cứu cánh, là phương
tiện để đạt tới mục đích. Ngay việc ăn chay, ăn trai trường chưa hẳn phải thiết
yếu dành cho người tu mà đó chỉ là hành đạo, nó không dính
dáng đến truyền thống Phật giáo. Bởi; Phật giáo là đạo đi tới như-không (nothingness)
là đi tới cõi-hằng-sống (enlightenment) nơi đây không có hiện tại,
quá khứ, vị lai mà là ánh sáng vĩnh hằng. Cho nên chi người tu Phật phải nhận thức thấu đáo thế nào là
nghĩa vụ (tu hành) và thế nào là từ bỏ, thế nào là nghi thức và thế nào là mẫu
mực; không dựa vào một thông điệp hay chức năng, phẩm trật nào cả, cho dẫu được
coi là hệ thống. Lời ‘răn’ của Phật là Pháp, là tâm-như-nhiên không
thủ diễn dưới một vai trò nào mà coi mình đang hành cùng với Phật. Sư
không coi mình là kẻ chăn chiên hay mục vụ và cũng chẳng phải là kẻ thừa sai của
Phật mà con người phải tuân thủ. Nghĩ như vậy là đốt cháy Phật giữa đoạn đường
đang phát triễn và thích nghi mà đẩy con đường Phật giáo vào hố thẳm, bởi; Phật
là vô-ngạ (vô ngại đại bi) không một yêu cầu hay đòi hỏi nào khác hơn
ngoài những gì đã gọi là tu tập và nghi thức chuẩn mực (The Practical
and Ritual Dimension). Nếu thực thi đúng lời Phật dạy mà chúng ta đang theo thì
đó là một tôn giáo sống thực và được gọi là Phật giáo chính thống, dẫu có thành
lập nhiều môn phái khác nhau chăng nữa cái đó chỉ là hình thức chớ không phải mẫu
thưc chung giữa đạo và đời. Thí dụ: Chúng ta có hai vị thầy: Thầy tu và thầy tụng,
tuy là thầy nhưng khác hẳn. Một bên là nghiệp và một bên là nghề .
Do đó có từ ngữ ‘nghề nghiệp’ là một phạm trù rõ nét. Chức năng ‘thầy tụng’
đúng nghĩa tu hành theo phép Phật (tụng niệm, nhắc nhở lời Phật dạy), một thực
thể hơn là nghiệp. Nếu cho đó là cái nghiệp thì không phải tu mà nêu lý do…Phật
giáo không có yêu sách hay đòi hỏi. Sự thật của Phật giáo là vô-ưu. Đạo Phật ngày nay được thừa nhân như một tôn giáo không có
Thượng đế / a religion without God. Đúng vậy! Là vì Phật giáo không lấy những
gì cho là Tối thương Hiện hữu (Supreme Being) hoặc những gì là Thần thánh (Holy
Spirit). Ở đây không căn cứ vào những nghi thức để xét đoán và cũng không nông
cạn để minh định là có tôn giáo hay không có tôn giáo. Để có một định nghĩa Phật
giáo là tôn giáo chỉ nhìn thẳng vào ‘bảy mẫu thức /seven dimension’ Thời tất nhận
ra một cách sáng suốt Phật giáo như là một tôn giáo. –It seems justifiable to
classify Buddhism as a religion, hiện diện từ mấy ngàn năm nay là một chứng cớ.
Một hiện hữu tối-thượng-phật mà chúng ta đang thờ phượng như một thượng
đế của Phật giáo. -7 KÍCH CỠ VẬT CHẤT (The Material Dimension): Đây là phần thứ
bảy và cuối cùng dành cho kích thước, mẫu mực, tầm cở, chuẩn mực là một chiều
kích rộng lớn trong việc tu và hành, một thể thức nới rông cho nghi thức và
giáo điều là nguồn xuất phát cho một lý thuyết chính đáng khởi từ xã hội mà ra.
Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha Gotama) ra khỏi thành để thấy thực trạng ‘sinh
ra trong bi thảm/ the birth of tragedy’ là tiên khởi cho một quyết định, một
phán quyết khốc liệt giữa vật chất và tinh thần. Đó là ý chí ‘giải thoát’ cho bản
thân và con người , bởi; chiều kích thuộc vật chất bao gồm chủ thể mà trong
tinh thần tôn giáo hiện thân với lòng từ bi hỉ xả; nghĩa là giả từ vàng son,
danh vọng để có một quyết tâm đi vào đời trong hướng đi ‘giải thoát chúng
sinh’; định giá cho con người một tương lai trong sáng. Không vì vật chất, bởi;
vật chất là con đường đi tới hố thẳm và tội lỗi mà tịnh tâm, một cái
tâm có chuẩn mực không vướng động, không một mãy may nào lôi cuốn, ngay cả
hương hoa quả phẩm vẫn xem là ‘phù phiếm’ khuấy động làm cho cái tâm chao đảo
trước hiện vật. Thí dụ khác: nhà sư không đòi hỏi nhu cầu ‘quần là áo lượt’,
dép da hay guốc mộc; không vị vật chất cho mục đích tu với hành. Lấy gương Bồ Đề
Đạt Ma: áo vải thô, bị lá, gậy trúc, dép cỏ cũng làm nên Phật. Vậy thì; ‘dấn
thân’ là gạt bỏ một thực thể đòi hỏi, không có đòi hỏi trong Phật giáo mà chỉ
có một tánh-không/ nothingness là nhứt thể, là chiều kích của sự sống, con đường
tu hành là rủ bỏ để tránh nhiễm độc mà tập trung là quyết định.Trong lời Phật dạy,
có đoạn: ‘hãy cầm giữ thật đầy đủ và thường xuyên tu tập và nhận lấy một quyết
định cơ bản đồng nhất / to hold full and frequent assemblies and to take
decision on the basis of consensus’ (D. ì.76 Doctrine of the Elders). Đấy là chất
liệu cố hữu trong việc tu và hành. Cho nên chi đứng trước một
tình thế vật chất con người có một quyết định mãnh liệt tức tránh xa thị phi,
tránh xa những lôi cuốn của dục vọng, bởi tu là diệt dục, diệt tham sân si những
thứ đó là ‘uế tạp’ cho tinh thần và thể xác đi tới giải thoát; đó là bài giảng
đầu tiên (first sermon) là một trong những ‘cấu trúc’ cho sự thông minh, mẫn
cán (wisdom) dành cho người tu Phật. Phật giáo không có biên giới, bởi; thế giới
của Phật giáo là thế giới đại đồng mà chúng sinh đang dự cuộc, một dự cuộc
thách đố để đi tới toàn thiện (enlightenment) là ánh sáng tối-thượng-phật . PHÁP LÀ ĐIỀU ĐÃ DẠY VÀ PHÁP LÀ ĐIỀU ĐÃ RÚT RA TỪ KINH NGHIỆM Theo tập truyền nhà Phật có hai cách để miêu tả sự giảng dạy
của Đức Phật: Pháp là những gì mà trong đó đã dạy và pháp là những gì rút ra từ
kinh nghiệm –The dharma that is taught and the dharma that is experienced. Có
thể trong phép tắc giảng dạy khác nhau tùy vào ngữ ngôn của mỗi quốc gia nhưng
cùng một pháp. Nói chung là Phật Pháp. Trong pháp đã nêu lên bốn đỉnh cao chân
lý (the four noble truths) hoặc bất luận là gì trong đời người đều dựa vào pháp
như kim chỉ nam mà tu tập. Pháp dạy cho ta những gì cao sang như vàng ngọc hay
những gì hiếm có trên đời. Cho dù pháp dạy qua ngữ ngôn nhưng người ta có thể
nghe tiếng nói của pháp và thấy sự chuyển động của pháp. Đấy là điều phải thức
tỉnh để nghe và thấy những gì pháp đã giảng dạy. Pháp là những gì đã trải qua
trong kinh nghiệm chớ không phải pháp khác biệt –The dharma that is experienced
is not a different dharma. Cho dù; có một vài điều cảm thấy hoàn toàn khác biệt.
Qua sự trải nghiệm là do ở tâm và trí của người ‘thụ hưởng’
thời tất cái sự giảng dạy cũng như kinh nghiệm là thấm nhuần tư tưởng tuyệt
chiêu trong pháp. Pháp vừa có bề mặt và bề sâu của nó. Pháp có từ đó hoặc ngay
trong cuộc đời. Vậy lấy gì để khám phá trong đó khi tiếp tục học về pháp hoặc
đang để tâm vào thiền định? Không có gì trong đó cả, bởi; pháp duy trì trong
đó tánh-không nhưng mà có trong không và không trong có;
đó là khuôn thước, mẫu mực trong giáo ly Phật giáo. Chúng ta phải nhận lấy như
sự cố của lễ nghi, chúng ta phải thuần phục của giáo điều thì may ra thấy và
nghe được pháp; bằng không ‘nước đổ đầu vịt’ đó là trạng huống thuần chất của
pháp. Thiền sư Nhật Bản Dogen nói: ‘Biết ở chính bạn hoặc học ở chính bạn là
đưa tới quên lãng ở chính bạn và nếu bạn quên ở chính bạn; thời tất bạn trở nên
giác ngộ bằng tất cả mọi thứ / To know yourself or study yourself is to forget
yourself and if you forget yourself then you become enlightened by all things’.
Pháp đã tôi thế đấy! Chớ đào pháp từ quặng mỏ và nói đó là pháp thì pháp đó chỉ
ở đầu môi, trước lưỡi mà thôi chớ pháp không có trong đời người. Vậy pháp là
gì? Pháp nằm trong Bốn Đỉnh Cao Chân lý và Bảy Mẫu Thức về Lễ Nghi chớ không đi
đâu xa mà tìm kiếm; nhận thức rộng rãi thời tất pháp không xa chúng ta và ta cảm
nhận được ‘linh hồn’ của pháp; nghe và thấy không còn là hốt nhiên, bởi; pháp
là thức tình (awakening). Pháp là thực chứng có từ tâm-như –The dharma should
really be taken to heart; nó không thông thường như đã nghỉ một cách dễ dàng thỏa
mái và yên tâm hoặc tiếp tục quen lề, quen thói với thái độ như đùa cợt gần như
coi thường hoặc tỏ thái độ của một người học rộng tài cao. Không nên suy nghĩ
như thế mà tác hại về sau, bởi; chính bạn không biết tới pháp. Pháp không buộc
phải hay yêu cầu, cũng không khen tặng, cũng không phẩm trách. No đến trong ta
và thoát ra khỏi ta như một ‘chứng nhân’. Pháp đóng vai trò trung gian giữa người
và đạo, bởi; hai vị trí này là một phán quyết ở chính mình chớ không ở pháp. Quả
vậy!. 15/5/2023
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét