Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2025

Khắc khoải trong "Nắng đêm" của Kim Chi

Khắc khoải trong
"Nắng đêm" của Kim Chi

Về Bến Tre nghe dừa nói thầm. Nghe bạn văn chương đốt đuốc lá dừa bên sông Hàm Luông, đọc thơ rồi nghe đờn ca tài tử buồn trôi theo con nước.
Bên cạnh các bậc đàn anh như Kim Ba, Vũ Hồng, Hồ Trường…, Kim Chi là cái tên tuy còn mới mẻ nhưng đã in dấu vân tay văn chương của mình vào “cuốn sách văn học Miền Tây”. Thơ của chị giản dị, chân thật như thuyền chở hoa trái trên sông, như vườn hồng thơm phù sa, cột võng ngủ ngoài vườn, đêm nghe xoài chín rụng vào giấc mơ bình an xanh cây trái. Con thuyền kia, mảnh vườn nọ nào có tân kì gì, sao vẫn làm trái tim chúng ta khắc khoải không nguôi. Thì ra, những bài thơ của Kim Chi đã chạm vào vùng kí ức chất đầy thương nhớ của người đọc, đánh thức những kỉ niệm mờ xa tưởng đã ngủ quên lâu rồi.
Tập thơ Nắng đêm của tác giả Kim Chi đề cập đến khá nhiều chủ đề. Chúng tôi chỉ muốn đề cập đến hai chủ đề đặc sắc nhất trong tập thơ này.
1. Bức chân dung tâm hồn tự hoạ của thi sĩ được vẽ bằng hai “cây bút” có tên gọi Cô độc và Hi vọng
Cô độc nằm trong bản thể của thi sĩ. Chỉ cách biểu hiện tâm thế ấy khác nhau với những tác giả khác nhau mà thôi. Với Kim Chi, nỗi cô độc kia được nhân đôi khi cộng hưởng với nỗi cô độc do hoàn cảnh riêng của chị:
– Bao nỗi đời tan chảy/ Buổi Quỳnh hoa ngát hương/ Nắng đêm dọi cuối đường/ Giọt sương mai lắng đọng (…)/ Bến đời thôi con sóng/ Tiếng gọi từ trái tim/ Đừng thêm cuộc trốn tìm/ Đón xuân về ngõ vắng. – (Nắng đêm ).
Nhan đề Nắng đêm của bài thơ này được chọn làm nhan đề cho cả tập thơ, bởi vậy, nó có ý nghĩa đặc biệt -như “Biển chỉ đường” định hướng khám phá- tiếp nhận tập thơ cho độc giả. Sao lại Nắng đêm? Ban đêm làm gì có nắng? Phải chăng hình ảnh Nắng đêm tượng trưng cho ánh sáng đặc biệt xuất hiện trong đêm đen? Nó là hạnh phúc cả theo nghĩa rộng và hạnh phúc lứa đôi mong đến trong đêm buồn cô quạnh. Là hơi ấm tình Người xua tan lạnh giá cô độc?! Mong ước thì cứ mong ước, nhưng làm gì có nắng ban đêm? Càng buồn hơn nữa khi hình ảnh Nắng đêm trong bài thơ còn gắn bó với kiếp Quỳnh hoa ngắn ngủi dù ngát hương. Hoa ấy như Người ấy!
Vẫn tiếp nối hình tượng Quỳnh Hoa trong bài Đêm Quỳnh muộn :
– Một đêm hoa Quỳnh nở/ Trăng khuya ngã màu tang/ Thương Quỳnh hoa rực rỡ/ Chỉ phút giây úa tàn// Đêm nay hoa Quỳnh nở/ Bất chợt người ghé thăm/ Xa gần… câu duyên nợ/ Muộn màng… cuộc trăm năm.– (Đêm Quỳnh muộn).
Nói đêm quỳnh muộn để nói hạnh phúc muộn! Khi quỳnh nở muộn thì Người đến? Câu thơ “Trăng khuya ngã màu tang” như đã báo trước điềm không vui. Quả thực, đến câu kết thì ta biết tất cả đã muộn màng: Muộn màng cuộc trăm năm.
Người và Quỳnh cứ sóng đôi như thế để treo một chữ “Muộn” dưới vàng trăng lạnh lẽo kia.
Thơ Kim Chi đậm thiên tính nữ trong cả buồn đau, cô độc và hi vọng. Đây là niềm hi vọng về hạnh phúc gia đình đậm thiên tính nữ:
– Mùi gạo mới thoảng qua/ Nồi cá kho cạn nước/ Bàn chân quen nhẹ bước/ Hương chiều có bâng khuâng?/- (Hương chiều).
Hay là:
– Anh hứa tháng ba này trở lại Khau Vai/ Thắp ngọn lửa tình cả năm dài ấp ủ/ Cao nguyên đá – lối mòn năm cũ/ Đợi phiên chợ tình/ đón giấc Khau Vai …/ Anh hứa về nơi ấy cùng ai/ Ngắm hoa mận, hoa đào còn sót lại/ Tam giác mạch vẫn đỏ hồng như màu tình yêu tan chảy/ Thung lũng sâu chiều xuống mây tràn …(Mơ giấc Khau Vai).
Nhan đề mở đầu bằng một chữ “Mơ” để rồi nội dung bài thơ cũng chỉ là một giấc mơ cho cuộc gặp lại người yêu dấu sau một năm chờ đợi. Bởi chỉ là Mơ nên mọi hình ảnh trong đó tuy đẹp, tuy lãng mạn nhưng ít tính xác thực – cá thể hoá cho kỉ niệm hiện thực. Nghĩa là người thơ ấy cũng chỉ gửi gắm khát khao yêu thương vào một cái tên đã trở thành địa danh văn hoá, là biểu tượng cho sự sum họp của lứa đôi sau mọi chia cắt: Khau Vai! Giấc mơ đẹp ấy ẩn giấu nỗi buồn đau vì cô độc là cái còn lại, sau khi giấc mơ tan.
Trong chùm Lục bát đêm, ở bài số 3, chúng ta gặp hình ảnh tượng trưng cho nỗi cô đơn của vì sao sáng rơi rụng giữa trời:
– Người về nơi ấy xa xôi/ Tôi còn lại chỉ mình tôi giữa đời/ Đêm dài chờ ánh sao rơi/ Nghe cô đơn rụng giữa trời cô đơn – (Lục bát Đêm).
Vì sao sáng trên bầu trời vốn là biểu tượng nghệ thuật cho hi vọng, cho mắt người yêu…, nhưng ở đây nó là biểu tượng cho nỗi cô đơn cứ sáng rồi lại tắt. Chờ ánh sao rơi là chờ đợi một niềm hy vọng cho dù rất mong manh của một người đàn bà yếu đuối, đang khắc khoải từng phút giây thoát ra khỏi cái đầm lầy cô độc bởi dân gian cho rằng hễ ai nhìn thấy một vì sao rụng xuống là người đó được thực thi một điều ước…… Thế nhưng, chẳng có vì sao nào rụng mà chỉ “nghe cô đơn rụng giữa trời cô đơn”.  Độc đáo hơn thế, tác giả sử dụng hình ảnh không gian để diễn tả bước chân lạnh lùng của thời gian, trong ánh mắt buồn của người không ngủ trắng đêm ngắm sao:- khi sao sáng rồi sao rụng tắt thì có nghĩa là một đêm cũng đã trôi qua mất rồi!
Bài thơ Cổ tích cuối đường làm người đọc khấp khởi: Đây vẫn là giấc mơ hay hạnh phúc đã mỉm cười cuối con đường thân phận của người thơ? Không biết nữa! Vẫn cứ muốn tin vào những điều tốt đẹp sẽ đến cho bức tâm cảnh vẽ bằng Cô độc và Hi vọng này:
– Anh chờ em bên kia sông/ Trái bần chua, ngọt nồi canh cá ngát/ Bữa cơm chiều đạm bạc/ Thuở hồng hoang hoa bướm gọi nhau về (…)// Giấc ngủ sâu lấp những muộn phiền/ Trăng hạ tuần thôi không vàng vọt/ Chén trăm năm dẫu muộn màng vẫn rót/ Ta lạc vào nhau như cổ tích cuối đường …
Giá như không phải là giấc mơ? Giá như là hiện thực cho người thơ bớt lạnh trên đường dài cô quạnh?
Nỗi cô độc này khiến nhà thơ chọn Đêm là không gian – thời gian yêu thích để thổ lộ những buồn đau, hi vọng rồi thất vọng của mình. Lặp lại nhiều lần, Đêm trở thành một biểu tượng nghệ thuật đặc sắc trong tập thơ này: Đêm trong nhan đề “Nắng đêm” (2 lần); Đêm Quỳnh muộn; Chùm Lục bát Đêm (4 lần); Nhớ ai – đêm thất tịch; Đêm trở gió; Đêm ngâu… Với tần số xuất hiện dày đặc, Đêm trở thành biểu tượng nghệ thuật có tính đa nghĩa, trong đó nổi bật có một số nét nghĩa hàm ngôn như:- thân phận cùng tâm trạng; không gian- thời gian cho cảm hứng sáng tạo; người bạn tâm tình của người thơ…
Với bức chân dung tám hồn tự hoạ đậm Thiên tính nữ, vẽ bằng hai cây bút Cô độc và Hi vọng này, Kim Chi đã khiến cho người đọc yêu quý, đồng cảm. Những bức Tâm cảnh ấy buồn đau nhưng không bi luỵ. Trong bóng tối bi kịch cá nhân, hi vọng và nghị lực mạnh mẽ vượt lên trên hoàn cảnh như Nắng Đêm vẫn bừng sáng.
2. Khắc khoải buồn vui thời Hậu chiến
Tuy số lượng bài viết về chủ đề này không nhiều nhưng lại có những câu thơ đặc sắc. Nếu các tác giả khác chỉ viết về Nỗi buồn đau hậu chiến thì, ở đây, Kim Chi vẫn tìm thấy niềm Vui, niềm tự hào về người Thương binh xếp hạng 1/4 có những nghĩa cử cao đẹp làm ấm lòng người.
Đó là hình tượng người Cha của tác giả mang nỗi đau đi qua cuộc chiến:
– …Kí ức thời loạn lạc/ Chen nhau về …/ Cô điều dưỡng mỉm cười bảo ông cụ nói mê/ Mấy ai hiểu người đi qua cuộc chiến/ Máu đã chảy và người đi vĩnh viễn/ Bên lằn tử sinh khác chi ngã ba đường/ Thì thào trong mê những ngày bám trụ giữ quê hương/ Nhớ xin cho anh em thuốc giảm đau cầm máu …- (Người đi qua cuộc chiến – Kính tặng Ba).
Kí ức thời chiến tranh của người cha từng là người lính cách mạng anh hùng ấy vẫn ròng ròng trong hiện tại. Không có gì của lịch sử có thể bị lãng quên. Với mỗi người lính, họ là pho lịch sử chiến tranh biết đi lại, thương nhớ, buồn vui. Chất văn xuôi ùa vào bài thơ, khiến thi phẩm phảng phất thiên kí sự bi hùng. Với bài thơ Kí ức lời ru, nhà thơ nhập vai người mẹ có con đi chiến đấu không về:
– Chạm tay lên hình thằng Út/ Giữa bao đồng đội thẳng hàng/ Ánh mắt hao gầy đổ xuống/ Giọt buồn nương theo khói nhang (…)// Đây gói trà lài con thích/ Uống cùng đồng đội chiều mưa/ Đây lọn thuốc rê ủ ấm/ Những khi gió lạnh sang mùa …
Hình tượng người Mẹ Việt Nam anh hùng chờ con không về xuất hiện trong hàng trăm bài thơ khác. Ở đây, Kim Chi vẫn tìm ra nét mới: người Mẹ trong bài thơ là người mẹ Nam Bộ đang hát ru cho hình ảnh người con trong kí ức của mình, rồi mẹ thắp nhang, hát ru cho từng ngôi mộ:
– Bao năm con không về nữa/ Tuổi tên bia đá mãi còn/ Mẹ thắp nhang từng ngôi mộ/ Ầu ơ… câu hát ru con. – (Kí ức lời ru).
Cùng chủ đề Hậu chiến, bên cạnh buồn đau mất mát là niềm vui , niềm tự hào về người thương binh trong bài thơ này:
Nửa vòng tay
(Kính tặng thương binh 1/4 Lê văn Ý – người hàng chục năm qua đã dành trọn chế độ trợ cấp để nuôi dưỡng học sinh nghèo Hiếu học ở địa phương).
– Con ong còn một cánh vẫn bay/ Chắt mót cho đời từng giọt mật/ Hoa của đất!/ Đạm bạc mỗi ngày cơm hai bữa mà vui …/ Em thơ đến lớp điểm mười/ Vết thương năm cũ trở trời bớt đau …(Nửa vòng tay).
Với chủ đề Hậu chiến, thơ Kim Chi sâu sắc, không rơi vào tình trạng cực đoan, hoặc tô hồng hoặc bôi đen như ở một số thi phẩm khác.
Đằng sau câu chữ là một tấm lòng! Đằng sau thi pháp ngôn từ là một thế giới tâm hồn  nhiều giằng xé, tuy cô độc, buồn đau vẫn ngời sáng hi vọng, tình yêu thương, tinh thần sẻ chia đồng cảm. Vẻ đẹp nhân văn ấy là Nắng đêm ở cuối con đường thán phận. Tôi mừng và xúc động khi Kim Chi có khả nặng chọn thơ là bạn tâm giao, là gậy chống vượt đường xa, là ánh đuốc vừa soi đường vừa sưởi ấm trong đêm đông. Hàng vạn phụ nữ đã tìm thấy bóng dáng cuộc đời mình, tâm hồn mình trong thơ Kim Chi. Đó chẳng phải là hạnh phúc lớn lao cho người Thơ hay sao?!.
8/12/2024
Nguyễn Đức Hạnh
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Khẳng định và tôn vinh những giá trị văn học Việt Nam 50 năm qua “Hội nghị Lý luận Phê bình lần thứ V hy vọng sẽ mang tới một cái nhìn k...