Chênh vênh say tỉnh
chênh vênh phận người
Làm nên giá trị của tác phẩm Chí Phèo nhờ
nhiều yếu tố trong đó có yếu tố tác phẩm được viết bằng bút pháp hiện đại.
Một trong những dấu hiệu của lối viết hiện đại là diễn biến câu chuyện
trong tác phẩm không cần phải sắp đặt theo trật tự tuyến tính của thời
gian.
Mở đầu tác phẩm, không phải là lời kể của Chí Phèo từ lúc mới sinh ra mà là hình ảnh Chí Phèo say rượu vừa đi vừa chửi. Dụng ý của nhà văn Nam Cao không phải hướng người đọc chú ý tới hiện tượng nghịch lí của kẻ say mà chú ý tới tâm lý của nhân vật Chí Phèo đang là một kẻ độc thoại bằng ngoại hiện. Nhưng Chí Phèo lại đang cô đơn giữa xã hội loài người. Hình như Chí Phèo đã bị loại ra khỏi cộng đồng người từ khi hắn mới chào đời. Xuất thân của Chí Phèo như một sự dự báo nhiệt ngã cho tương lai của Chí. Lúc nhỏ Chí được những người lao động nghèo cưu mang. Lớn lên Chí sống cuộc sống của một kẻ nghèo làm canh điền: Chí không cha, không mẹ, không nhà cửa, không ruộng vườn nhưng Chi còn được làm người- là một người lương thiện và Chí đã từng có một giấc mơ lương thiện “Một gia đình nho nhỏ, chồng quốc mướn cây thuê, vợ dệt vải…”. Nhưng nhưng rồi khởi đầu là Bà Ba, tiếp theo là Bá Kiến đã khép lại cuộc đời lương thiện của Chí. Tiếp đó, nhà tù thực dân đã nhuộm đen tâm hồn Chí. Sau bẩy, tám năm đi tù về, Chí thành ra con người khác hẳn.
Trước hết là sự biến đổi của cái vẻ bề ngoài “Cái đầu
thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng,
Hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Đó là hình dạng của một con quỷ. Và tính
cách của Chí Phèo làm cho hắn thực sự là một con quỷ dữ; miệng luôn chửi bới đi
kèm hành động rạch mặt, ăn vạ và luôn luôn xuất hiện với dáng vẻ của một kẻ “uống
máu người không tanh”. Có lẽ bởi Chí Phèo nhận ra rằng để tồn tại được trong xã
hội bất lương thì cần phải bất lương hơn: phải cướp giật, ăn vạ…
Để làm được điều đó, Chí Phèo tìm sức mạnh ở rượu bởi thế Chí
chìm trong những cơn say và đã say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta khiến hắn
làm. Chí Phèo Trở thành tay sai của Bá Kiến, trở thành con quỷ dữ để cả làng Vũ
Đại ghê sợ. Như thế, nếu bà mẹ cố nông tội nghiệp nào đó đã đẻ ra Chí Phèo là một
con người thì xã hội phi nhân tính đã đẻ ra Chí Phèo là một con quỷ dữ. Xã hội
cướp đi nhân tính, nhân hình của Chí Phèo và Chí Phèo chỉ còn một cách duy nhất
để tồn tại là bán linh hồn cho quỷ dữ. Và với một con gửi luôn chìm trong những
cơn say và tiếng chửi, luôn rạch mặt ăn vạ, luôn cướp giật, đe dọa người khác
thì làm sao người khác có thể thông cảm cho Chí Phèo? “Ai Cũng tránh mặt
hắn mỗi lần hắn đi qua”. Như thế Chí Phèo quả là đã bị tước đoạt quyền làm người.
Sau khi bị tước đoạt quyền làm người, Chí Phèo lại lạc lõng
giữa sa mạc cuộc đời với một nỗi đau đớn khôn cùng. Nỗi đau ấy đeo đẳng, bám riết,
ray rứt không nguôi trong tâm can Chí Phèo. Ta nhận ra điều đó qua tiếng chửi đầy
ám ảnh, vang vọng, cô độc và ngân dài suốt dọc theo chiều dài tác phẩm. Tiếng
chửi của Chí Phèo là hiện thân rõ ràng và đầy đủ nhất cho cái gọi là trạng thái
lưỡng hóa say- tỉnh bất phân. Quả thật đoạn văn mở đầu tác phẩm nói về tiếng chửi
của Chí Phèo đã thể hiện rõ tính chất lưỡng hóa rất độc đáo của hình tượng- mà
phải là một ngòi bút bậc thầy về nghệ thuật viết truyện ngắn và bậc thầy về tâm
lý như Nam Cao mới thể hiện được.
Tiếng chửi của Chí Phèo là sự chất chứa trong lòng một nỗi uất
hận không nguôi về số phận. Chửi là hành động của kẻ bất mãn, vừa đi vừa chửi
càng chứng tỏ sự bất mãn ấy. Nhưng nếu để ý, ta sẽ thấy tiếng chửi của Chí Phèo
không phải là những lời lẽ vô nghĩa. Đó là một tiếng chửi có logic hướng tới những
đối tượng từ xa đến gần: hắn chửi trời, chửi đời, chửi làng Vũ Đại, chửi tất cả
những ai không chửi nhau với hắn rồi chửi cả “cái đứa nào đã đẻ ra Chí
Phèo”. Cách thu hẹp đối tượng từ xa đến gần trong logic tiếng chửi ấy là logic
của tâm lý tỉnh táo – tỉnh táo đến đau khổ cùng cực. Một chuỗi ngôn ngữ tiếng
chửi cho thấy Chí Phèo khát thèm sự giao tiếp với đồng loại biết bao. Hắn đã
dùng hết sức mạnh hắn có để đe dọa, để uy hiếp mà không ai ra lời. Không ai chửi
nhau với hắn chứng tỏ không ai coi hắn là người. Trong mọi hình thức đối thoại ở
đời, đối thoại bằng tiếng chửi là tầm thường nhất, là điều không ai muốn. Vậy
mà, Chí Phèo muốn cũng không được. Thử hỏi còn gì chua xót hơn?
Và dường như Chí Phèo chửi nhiều như thế, chửi dài hơi như thế
là để cố vớt vát hy vọng cạy miệng thiên hạ. Bởi còn được chửi lại, tức là còn
được làm người. Chí Phèo đã chửi không chán miệng, đã cố gắng hết mình để được
giao tiếp, đó là sự nỗ lực, sự vật vã của một kẻ tuyệt vọng. Hắn chửi vậy rồi hắn
lại phải nghe “Chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu!”. Như thế,
không còn nghi ngờ gì nữa, hắn đã chính thức bị loại ra khỏi cộng đồng người!
Trong chuỗi ngày triền miên với say và chửi, Chí Phèo cũng có
lúc thực sự tỉnh táo. Ấy là lần gặp gỡ Thị Nở. Không phải Thị Nở ban phát nhân
tính cho Chí Phèo mà Thị Nở là người có công khơi dậy nhân tính của Chí Phèo. Bởi
vì trước đó, Chí Phèo đã từng là người lương thiện. Sau một thời gian dài lương
tri bị khuất lấp trong men rượu, trong sự xa lánh của đồng loại, khi Thị Nở xuất
hiện, trước hết, Thị Nở làm thức dậy bản năng sinh lý của con người Chí Phèo.
Sau đó bằng tình thương mộc mạc chân thành, bằng bát cháo hành chăm sóc cho Chí
Phèo, Thị Nở đã thực sự làm được một công việc kỳ diệu, phi thường: dùng tình
người để thức dậy tính người trong một con quỷ dữ.
Phần lương tri, phần nhân tính của Chí Phèo lâu nay bị chìm
đi trong sự tuyệt vọng, trong tiếng chửi, trong sự u mê, cuối cùng đã được thức
tỉnh. Trong một xã hội ít tình người thì việc làm của Thị Nở thật sự rất đáng
trân trọng. Hành động ấy vừa chứng tỏ trong đời “Cái mà thiên hạ thiếu
là một lòng tốt bình thường” (Rơ mác) và có được lòng tốt, có được sự
thành thực quả là đáng quý. Hành động của Thị Nở còn cho thấy chiều sâu trong
tư tưởng của Nam Cao, nhà văn muốn khẳng định, xã hội phi nhân tính có dùng đủ
mọi cách thức cũng không thể triệt tiêu được bản tính tốt của con người. Tỉnh
táo, Chí Phèo mới nghe được âm thanh của cuộc sống. Những âm thanh như tiếng
chim hót, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng những người đi chợ
trao đổi về việc mua bán vải ngày nào chẳng có. Vậy mà đối với Chí Phèo đó lại
là những âm thanh kỳ diệu mà lâu nay Chí Phèo không nghe thấy. Bản hòa âm của
khúc tình ca cuộc sống đã gieo niềm hy vọng cho Chí Phèo, Chí Phèo mong mỏi Thị
Nở sẽ là cầu nối đưa mình về lại với cuộc đời “Hắn thấy thèm lương thiện,
muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Cũng chính tình yêu thương của Thị Nở
đã chắp nối lại cho Chí giấc mơ thuở nào về một mái ấm gia đình. Như thế, lần tỉnh
táo thứ nhất sau chuỗi ngày sống kiếp đời của Quỷ này đối với Chí Phèo thật có
ý nghĩa. Chí đã hy vọng nhờ Thị Nở, Chí lại có thể được hòa nhập vào “cái
xã hội bằng phẳng thân thiện của những người lương thiện”. Nhưng lần thứ
hai, Chí tỉnh táo để lại phải đối mặt với một niềm tuyệt vọng vô phương cứu chữa.
Chỉ Phèo không chỉ là một nạn nhân của xã hội (nạn nhân của
chế độ thù địch giai cấp) mà còn là nạn nhân của định kiến. Và đã có nhà phê
bình văn học đã cho rằng định kiến là loại kẻ thù nguy hiểm hơn cả trong cuộc đời
này. Định kiến đã giết chết tình người của Thị Nở. Bà cô của Thị Nở là hiện
thân đáng sợ của định kiến ấy. Sau năm ngày yêu nhau, Thị Nở sực nhớ mình còn
có một bà cô trên đời. Và chuyện tình của Chí Phèo – Thị Nở chỉ được coi là hợp
pháp nếu được bà cô của Thị Nở đồng ý. Chẳng những không đồng ý, bà cô còn chút
vào đầu Thị Nở bao lời lễ cay nghiệt và hằn học. Thế là hy vọng tiêu tan. Con
đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở đã bị đóng sập lại thông qua
thái độ dứt khoát của bà cô Thị Nở, bà không cho phép cháu bà “đi lấy thằng
chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Lời từ chối của bà cô là lời của định
kiến, lời của xã hội tàn nhẫn, lạnh lùng cự tuyệt con đường hoàn lương của Chí
Phèo.
Vậy là khi nhân tính của Chí Phèo mất đi thì ai cũng nhìn thấy.
Còn khi nhân tính của Chí Phèo trở lại thì không ai trong xã hội ấy nhận ra để
chấp nhận. Chí Phèo lại rơi vào bi kịch tinh thần: đau đớn, tuyệt vọng, Chí lại
lôi rượu ra uống. Nhưng thật lạ “Càng uống càng tỉnh ra”, “Tỉnh ra chao ôi
buồn! hơi rượu không sặc sụa hắn cứ thấy thoang thoảng hơi cháo hành. Hắn
ôm mặt khóc rưng rức”. Vào lúc tuyệt vọng nhất, hơi cháo hành lại hiện ra,
hiện ra để đẩy hắn sâu hơn vào nỗi tuyệt vọng. Đã sang đến cái dốc bên kia của
cuộc đời, Chí Phèo mới được biết đến hương vị cháo hành mà hương cháo hành đối
với Chí, lại chính là hương vị của tình yêu. Nhưng niềm hạnh phúc ấy quá ngắn
ngủi, chưa kịp tận hưởng thì cuộc đời lại cướp nốt! Từ tận cùng tuyệt vọng, Chí
Phèo chuyển sang tận cùng căm uất. Và, CP xách dao đi… Lại vừa đi vừa chửi. Miệng
nói là sẽ đến nhà Thị Nở để đâm chết con khọm già nhưng bước chân lại đến nhà
Bá Kiến.
Như thế về phương diện ý thức, là sự mù quáng, muốn trả thù Thị Nở và bà cô Thị Nở. Nhưng tiềm thức lại tỉnh táo đưa bước chân Chí Phèo đến nhà Bá Kiến- kẻ đã tàn phá cuộc đời của mình. Lần này phải bước chân của Chí Phèo không phải đi theo sự quen nết, quen đường mà Chí bước đi theo tiếng gọi giục giã của một mối thù đã in sâu trong tiềm thức. Chỉ Phèo đến nhà Bá Kiến, kết tội Bá Kiến, rồi giết chết kẻ thù. Nhưng cũng chính lúc đó Chí Phèo sáng suốt nhận ra mình đã ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan: muốn làm người lương thiện thì bị xã hội cự tuyệt, mà Chí Phèo lại không muốn quay trở về làm một con quỷ, không thể tiếp tục cướp, phá, say, rạch mặt và ăn vạ nữa. Thế là, chỉ còn một con đường duy nhất: Chí Phèo tự sát. Chí Phèo chết thê thảm trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời, chết trong niềm đau thương không cùng vì ước vọng giản dị, thiêng liêng và mãnh liệt là được sống cuộc sống con người đã bị xã hội tàn nhẫn cự tuyệt. Như thế dẫu trong cuộc đời đã có lúc Chí Phèo phải sống kiếp sống thú vật nhưng Chí đã chết cái chết của một con người.
Câu hỏi cuối đời của Chí Phèo ai cho tao lương thiện? chất chứa
bao phẫn uất, đớn đau, có sức ám ảnh ray rứt, bám dai dẳng vào tiềm thức người
đọc mãi tới tận hôm nay.
Thông qua số phận bi thảm của Chí Phèo, một con người sinh ra
là người mà không được làm người, Nam Cao đã khái quát một hiện tượng phổ biến
có tính quy luật của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận những người
lương thiện bị xã hội đẩy vào bước đường cùng đã phải chống trả bằng con đường
lưu manh để tồn tại. Trước Chí Phèo có Năm Thọ, Binh Chức và sau khi Chí Phèo
chết chắc gì hiện tượng Chí Phèo đã chấm dứt? Xã hội còn những kẻ như Lý Cường
nối tiếp Bá Kiến thì còn những kẻ sẽ lại bị đầy đọa, tha hóa như Chí Phèo.
Nếu ở tác phẩm của Ngô Tất Tố, của Nguyễn Công Hoan qua những
hình tượng như chị Dậu, anh Pha người ta chỉ mới nhận ra một phương diện nỗi khổ
của người lao động là bị bóc lột tàn tệ, bị đẩy vào bước đường cùng của đói
nghèo cùng cực thì đến nhân vật Chí Phèo của Nam Cao người đọc hiểu đến rốt
ráo, đến sơn cùng thủy tận nỗi đau cả về vật chất và tinh thần của con người.
Người lao động trong xã hội có giai cấp đối kháng không chỉ bị bần cùng hóa mà
còn bị lưu manh hóa, bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm, bị tước đoạt quyền sống,
quyền làm người. Người Việt Nam có câu “Đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ
chạy lại”, Chí Phèo đã tha hóa nhưng Chí Phèo đã thức tỉnh. Xã hội ấy quả là một
xã hội phi nhân tính nên mới không chấp nhận việc “chạy lại” – không chấp nhận
sự hoàn lương của Chí Phèo; do đó nếu tác phẩm của Ngô Tất Tố là tiếng kêu cứu
đói thì tác phẩm của Nam Cao là tiếng kêu cứu nhân tính nhân phẩm của con người.
Qua truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao còn muốn khẳng định mâu thuẫn
giai cấp ở nông thôn là mâu thuẫn đối kháng gay gắt và chừng nào còn bọn cường
hào ức hiếp người dân lương thiện thì chừng đó chưa chấm dứt hiện tượng người
dân lương thiện bị rơi vào con đường lưu manh hóa. Hơn thế, Nam Cao còn muốn chỉ
ra rằng để cứu vớt những con người cố cùng, đáng thương như Chí Phèo thì việc
tiêu diệt những hạng người gian ác vẫn chưa đủ mà con người trong xã hội ấy còn
cần phải có lòng nhân ái, cần sự cảm thông và chia sẻ với nhau những buồn vui
sướng khổ trong cuộc đời.
Điều đặc sắc và đáng quý trong chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao
là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến tận cùng, nhà văn vẫn tin tưởng
rằng trong sâu thẳm tâm hồn cằn cỗi ấy vẫn giữ được nét bản chất tốt đẹp, vẫn
không nguôi khát vọng trở lại làm người lương thiện. Từ chi tiết bát cháo hành ấm
nóng tình người đến câu hỏi chất chứa tinh thần nhân văn đều thể hiện sự cảm
thông yêu thương trân trọng của một nhà nhân đạo lớn đối với nỗi đau của con
người. Tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nam Cao là nhà văn đã để nhân vật của
mình đi chênh vênh trên ranh giới của loài người và loài vật, giữa say và tỉnh,
giữa ý thức và vô thức. Và điều quan trọng là cuộc đời Chí Phèo chính là hành
trình đi tìm nhân cách – một vấn đề có ý nghĩa muôn thủa mà Nam Cao đặt ra
thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo.
20/6/2024
Đỗ Nguyên Thương
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét