Phan Thiết có anh tôi - Ký ức dệt nên
hình tượng người lính
hy sinh
Phan Thiết có anh tôi của Hữu Thỉnh là những dòng kí ức
về người anh đã hi sinh trong kháng chiến. Nhưng qua dòng hồi ức và giọng thơ đậm
chất tự sự, trữ tình, nhà thơ đã dựng nên một hình tượng người lính dung dị,
đời thường mà bất tử, hòa làm một với thiên nhiên và đất nước.
Trong văn học Việt Nam hiện đại, đề tài chiến tranh cách mạng luôn là mạch nguồn cảm hứng sâu xa, khơi gợi cảm xúc và suy tưởng về con người, đất nước, sự hi sinh. Hòa vào dòng chảy đó, Hữu Thỉnh, nhà thơ quân đội với cảm quan nhân văn sâu sắc đã để lại nhiều thi phẩm có sức lay động lòng người. Bài thơ “Phan Thiết có anh tôi” là một thi phẩm như thế. Bao trùm bài thơ là những dòng cảm xúc chân thành của người em về người anh đã hi sinh trong cuộc kháng chiến. Từ dòng hồi ức đậm chất tự sự và trữ tình, nhà thơ đã dựng nên một hình tượng người lính dung dị, đời thường mà bất tử, hòa làm một với thiên nhiên và đất nước.
Phan Thiết có anh tôi được Hữu Thỉnh sáng tác năm 1981,
sau 6 năm đất nước thống nhất nhưng dư âm của chiến tranh vẫn chưa nguôi. Hàng
vạn gia đình chưa biết tin người thân, hàng vạn người lính chưa tìm thấy hài cốt.
Trong bối cảnh đó, Hữu Thỉnh đã viết Phan Thiết có anh tôi. Bài thơ
như một hành trình kí ức của người em về anh mình, một người lính đã ngã xuống ở
Phan Thiết. Cấu trúc bài thơ là những lớp hồi tưởng đan xen giữa quá khứ và hiện
tại, giữa ki niệm và thực tại sau chiến tranh. Dòng kí ức khiến nhân vật anh
tôi không chỉ là câu chuyện mang tính cá nhân mà còn là biểu tượng cho một thế
hệ người lính đã hi sinh và địa danh Phan Thiết địa điểm địa lý cụ thể trở
thành không gian mang tính biểu trưng cho mọi vùng đất, nơi người lính đã ngã
xuống.
Kí ức về sự hi sinh của người anh
Thơ ca kháng chiến viết về sự hi sinh của người chiến sĩ thường
tô đậm phẩm chất kiên cường, bất khuất bằng giọng điệu ngợi ca đậm chất sử thi
gắn với khuynh hướng lãng mạn. Có thể kể đến những bài thơ như: Dáng đứng
Việt Nam (Lê Anh Xuân), Hãy nhớ lấy lời tôi (Tố Hữu), Bài
thơ về hạnh phúc (Dương Hương Ly), Khoảng trời hố bom (Lâm Thị Mỹ
Dạ),.. nhưng Hữu Thỉnh đã chọn cho mình cách viết khác. Trong hoài niệm của nhà
thơ, người anh hi sinh thật giản dị mà lớn lao. Chính tình cảm gia đình, mối
liên hệ ruột thịt đã trở thành điểm tựa để người em hồi tưởng và dẫn dắt người
đọc về với hình ảnh người anh – người lính trong chiến tranh. Không phải là anh
hùng với những chiến công lẫy lừng, người anh trong bài thơ hiện lên từ những
chi tiết bình dị:
Anh không giữ cho mình dù chỉ là ngọn cỏ
Đồi thì rộng anh không vuông đất nhỏ
Hai câu thơ mở đầu có sự đối lập đầy ám ảnh giữa cái rộng lớn
của không gian“đồi thì rộng” và cái nhỏ bé đến vô hình của cá nhân người lính
– “không vuông đất nhỏ”. Người lính ở đây không chiếm giữ, không màng tư lợi,
anh hòa tan vào đất trời như một phần tất yếu “Đất và trời Phan Thiết có anh
tôi”. Câu thơ “Anh không giữ cho mình dù chỉ là ngọn cỏ” không chỉ nói lên
sự từ bỏ vật chất mà còn là sự hiến dâng trọn vẹn – người lính không sống cho
mình mà sống và chết cho tổ quốc. Anh không để lại cho mình một thứ gì, không
danh, không mộ phần. Anh hòa tan vào đất, vào trời Phan Thiết: “Đất và trời
Phan thiết có anh tôi”. Vì thế cái chết bi lụy mà là sự hóa thân thiêng liêng
vào đất nước.
Theo dòng hoài niệm, bài thơ tái hiện khung cảnh chiến trường
Phan Thiết bằng cái nhìn vừa hiện thực, vừa mang tính chất tượng trưng. Trong
căn hầm chật hẹp, giữa “mùi thuốc súng, mồ hôi”, người lính lần đầu thấy biển:
“Biển thì rộng căn hầm quá chật
Khẽ trở mình cát đổ trắng hai vai
Trong căn hầm mùi thuốc súng, mồ hôi
Tim anh đập không sao ghìm lại được
Gió nồng nàn hơi nước
Biển như một còn tàu sắp sửa kéo còi đi.
Không gian chiến tranh hiện lên khắc nghiệt, thiếu thốn, ngột
ngạt nhưng lại bừng sáng bởi hình ảnh biển, một biểu tượng của tự do, sức sống.
Sự tương phản giữa cái chật của hầm và cái rộng của biển,
giữa cát và thuốc súng, giữa sự sống và cái chết tạo nên một trường
cảm xúc đa chiều, lấp lánh tính nhân văn. Khung cảnh đó không chỉ cụ thể hóa sự
khắc nghiệt của chiến tranh mà còn gợi nên một không gian lãng mạn, người lính
nằm trên cát, biển như bao trùm, ôm lấy con người. Câu thơ “Biển như một con
tàu sắp sửa kéo còi đi” sử dụng biện pháp tu từ so sánh vừa gợi một hành
trình, vừa gợi khát vọng được trở về, được sống giữa đời thường yên bình, gần
gũi với quê hương. Bằng cách này, nhà thơ đã kết nối cảm xúc cá nhân với không
gian rộng lớn của Tổ quốc, tạo nên chất trữ tình sâu lắng.
Từ đây, Hữu Thỉnh kể lại bằng thơ hoàn cảnh hi sinh của anh
qua những câu thơ giản dị đến tê tái:
Những người lính mở đường đi lấy nước
Họ lách qua những cánh đồi tháng chạp
Trong đoàn người dò dẫm có anh tôi
Biển ùa ra xoắn lấy mọi người
Vì yêu biển mà họ thành sơ hở
Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ
Mất chỉ còn cách nước một vài gang
Hữu Thỉnh không dùng những từ ngữ lớn lao hay hình ảnh hào
nhoáng. Người lính hiện lên từ những hành động âm thầm: “dò dẫm đi lấy nước”,
“lách qua những cánh đồi tháng Chạp”. Họ hiện diện trong sự thiếu thốn, gian
nan và cả sơ hở chết người: “Vì yêu biển mà họ thành sơ hở”. Cái chết đến
anh quá bất ngờ, im lặng, không báo trước và đau đớn hơn cả là anh đã đến gần với
đích: “Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ /Mất chỉ còn cách nước một vài
gang”. Khoảng cách “một vài gang” là một khoảng cách ngắn đến mức đau
đớn, gợi nỗi xót xa tột cùng. Một bước chân nữa sự sống có thể còn, một bước nữa
thôi là đến đường số một, con đường dẫn đến hòa bình nhưng loạt bom ác
nghiệt kia đã không cho anh cơ hội chạm vào chiến thắng. Biển “ùa ra xoắn lấy mọi
người” lại trở thành nơi chứng kiến sự hi sinh của anh. Nếu Lê Anh Xuân khắc họa
cái chết trong tư thế hiên ngang, một tượng đài sống động thì Hữu Thỉnh lại
miêu tả sự hi sinh lặng lẽ, âm thầm. Hai hình ảnh, một mang tính sử thi, một
mang chiều sâu cảm xúc bổ sung cho nhau để làm sáng rõ hơn vẻ đẹp toàn vẹn của
người lính: vừa bi tráng, vừa bình dị, vừa cao cả, vừa gần gũi.
Kí ức dệt nên một tượng đài bất tử về người
lính vô danh
Khác với nhiều bài thơ viết về người lính theo hướng ca ngợi
trực tiếp, Phan Thiết có anh tôi là một bản hồi tưởng xúc động, nơi
kí ức không chỉ là thương nhớ mà còn là một hình thức hiện hữu, là điểm neo đậu
cảm xúc để nhà thơ giãi bày suy cảm trong hành trình tìm anh:
“Anh ở đây mà em mãi đi tìm
Em hi vọng để lấy đà vượt dốc”
“Anh”, người đã khuất hiện diện trong suốt hành trình “em” đi tìm. Anh ở đây trở thành điểm tựa cho em và những người còn sống tiếp tục chiến đấu, vượt qua gian khổ. Những địa danh chiến trường như: Tân Cảnh, Sa Thầy, Đắc Pét, Đắc Tô được nhắc lại không chỉ là một lát cắt địa lý mà còn là biểu tượng cho kí ức chiến tranh, một hành trình tìm kiếm anh trong vô vọng. Người em không chỉ tìm mộ, mà tìm lại quá khứ, tìm lại người anh trong từng trận mưa, từng cơn sốt, từng cảnh vật. Câu thơ “Em một mình đứng khóc ở sau xe” lặng lẽ mà thấm thía nỗi đau riêng gắn với nỗi đau của cả dân tộc.
Anh ngã xuống nhưng sự sống của anh không kết thúc mà tái
sinh vào thiên nhiên, âm thầm, bền bỉ mà thiêng liêng:
“Anh ở với đồi anh xanh vào cỏ
Cỏ ở đây thành nhang khói của nhà mình
Đồi ở đây cũng là con của mẹ.”
Sự hóa thân ấy không phải là sự lãng mạn hóa cái chết mà là
biểu tượng sâu sắc cho sự gắn bó thiêng liêng giữa con người và quê hương. Người
lính không còn là cá nhân riêng lẻ mà trở thành một phần trong thể thống nhất:
con người – đất nước – lịch sử. Cái chết không tách biệt mà hòa quyện với thiên
nhiên làm cho hình tượng người lính trở nên bất tử.
Kết thúc bài thơ, người lính vẫn lặng lẽ hiện diện qua từng
tiếng còi xe, từng ánh đèn đêm, từng câu chuyện của biển và người đi câu:
Anh không ngủ, người đi câu không ngủ
Biển đêm đêm trò chuyện với hai người
Ở đây, thơ ca đã vượt ra ngoài biên giới của ngôn từ, trở
thành thứ ngôn ngữ siêu hình. Người đã khuất vẫn còn đó trong nhịp sống, trong
giấc ngủ của biển, trong sự thao thức của người đi câu, trong kí ức của người
em. Không bia mộ, không tên tuổi, nhưng bằng tình thương, hành trình kí ức, Hữu
Thỉnh đã khẳng định sự bất tử của những người lính vô danh.
Bài thơ không chia khổ rõ ràng mà liền mạch như dòng chảy của
kí ức. Hữu Thỉnh dùng nhiều câu thơ dài, có tiết tấu kể – tả – cảm đan xen, tạo
nên cảm giác người em đang trò chuyện với chính mình, với anh. Ngôn ngữ mang
màu sắc địa lý – lịch sử kết hợp với ngôn ngữ tự sự, khiến bài thơ vừa chân thật,
vừa thiêng liêng. Câu thơ kết lặp lại nhan đề như một vòng tròn ám ảnh, khẳng định
sự bất tử và sự hiện hữu vô hình của người anh. Cách viết này mang lại nhiều tầng
ý nghĩa: nhớ thương (kí ức về sự hi sinh) – tri ân (kí ức về sự bất tử) – tiếp
nối (Cứ thế).
Có thể nói Phan Thiết có anh tôi là một thi phẩm
không chỉ ghi dấu ấn về một cuộc đời đã ngã xuống mà trở thành biểu tượng cho
những người lính đã hi sinh vì đất nước trong những năm tháng chiến tranh. Qua
dòng kí ức của người em, Hữu Thỉnh đã khắc họa hình tượng người lính hi sinh âm
thầm mà chân thực, lặng lẽ mà bất tử. Từ đó khẳng định ý nghĩa sự hi sinh của
những người lính bình dị, vô danh đã hóa thân vào đất nước. Cảm ơn nhà thơ đã
đem đến cho cho thơ ca kháng chiến một hình tượng nghệ thuật đẹp về người lính,
hình tượng được dệt nên bằng tình yêu thương, nỗi nhớ và lòng biết ơn.
6/8/2025
Chu Thị Hảo
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét