Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2025

Lời ru không ngủ

Lời ru không ngủ

Lời ru dịu dàng nhưng khiến lương tri nhân loại không thể ngủ quên. Không ai được phép quên rằng đã có bao chàng trai, cô gái tuổi đôi mươi ngã xuống ngày hôm qua để chúng ta hôm nay được sống bình yên. Không được phép quên rằng, chiến tranh, sự hủy diệt bất nhân khủng khiếp này, không được phép xảy ra vì bất cứ lí do gì. Không bao giờ nên tồn tại, nỗi đau bởi chiến tranh. “Lời ru chiều cuối năm” là lời nguyện cầu cho anh, cho cả thế giới này.

Lời ru chiều cuối năm
Thơ NGUYỄN THỊ TĨNH

À ơi…
Anh tôi chưa có người yêu
Tuổi vừa mười tám dệt nhiều mộng mơ
Đời đang đẹp tựa lời thơ
Chiến tranh – vào lính bất ngờ chi đâu!

À ơi…
Chiến trường xa giục bước mau
Quả rừng đắng đót chia nhau lót lòng
Ba lô vai nặng, lưng còng
Trái tim lính – máu đỏ hồng tinh khôi.

À ơi…
Dọc đường nghỉ tạm anh ngồi
Kê ba lô viết mấy lời gửi em
Viết rằng gian khổ luyện rèn
Làm trai đất Việt có hèn chi đâu!

À ơi…
Anh qua rừng rậm, suối sâu
Mẹ cha thương nhớ bạc đầu, xót xa
Đêm đêm mắt mẹ ướt nhòa
Thạch sùng tặc lưỡi nghe cha thở dài.

À ơi…
Hòn tên, mũi đạn nể ai
Từ tim, máu đã chảy dài anh ơi
Ước mơ anh gửi về trời
Hồn hai mươi tuổi lìa đời lên mây.

À ơi…
Anh ơi, ngủ nhé giấc say
Mẹ cha đã bỏ cõi này theo anh
Nhớ thương em gửi trời xanh
Lời ru: anh ngủ an lành cõi xa.

À ơi…
Anh đi, trẻ mãi không già
Bên kia thế giới, mong là bình an…

Tháng bảy là một mốc thời gian biểu tượng kép với văn hóa Việt truyền thống và hiện đại. Tháng có ngày rằm xá tội vong nhân, gắn liền với điển tích Phật giáo Mục Kiền Liên báo hiếu mẹ và tục cúng cô hồn trong tín ngưỡng dân gian. Ngày 27.7 là ngày Thương binh liệt sĩ, ngày tri ân những đồng bào, chiến sĩ cống hiến, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong tình cảm uống nước nhớ nguồn chung của cả nước, có nỗi nhớ, niềm thương riêng của mỗi một gia đình, thân nhân liệt sĩ, thương binh, của những người mẹ từng chờ đợi đứa con ra đi mãi mãi không về, không chỉ hết kiếp sống của mình, mà sang cả cõi sau…

Có một nỗi đau  đóng đinh xuyên thấu thời gian và cả không gian. Nỗi đau ấy không phải nhìn từ những vết thương vẫn còn rỉ máu trên da thịt của những thương bệnh binh hay ngay cả sự mất mát của những người ngã xuống. Nỗi đau được nhìn từ vết thương không bao giờ khép miệng và nỗi mất mát không gì an ủi nổi của những người còn sống. “Lời ru chiều cuối năm” của chị Nguyễn Thị Tĩnh là một góc nhìn như thế.

Một sự lựa chọn từ tiềm thức khiến chủ thể trữ tình chọn cho mình cấu trúc outline là khúc hát ru. Một sự tình cờ là sự gặp gỡ thể loại giữa “Lời ru chiều cuối năm” và khúc hát ru “Với em” trong trường ca “Những người lính của làng tôi” của Nguyễn Quang Thiều. Có lẽ là khi nỗi đau quá lớn, sự tổn thương quá sâu sắc thì người ta cần sự xoa dịu, chữa lành để có thể tiếp tục sống, như một sự hồi sinh nếu không thể chết đi…Tự nhiên như thế, nhân vật trữ tình “ru anh”, mà cũng là để ru mình. Bảy khúc ru ngắn, mỗi khổ vỏn vẹn hai câu lục bát, trừ khổ cuối chỉ còn một câu, ngoài hai tiếng “À ơi” mở đầu. Chị ru gì?

“À ơi,

Anh tôi chưa có người yêu,

Tuổi vừa mười tám dệt nhiều mộng mơ

Đời đang đẹp tựa lời thơ…”

Trong trẻo và tinh khiết như một buổi sáng mai nơi đồng nội, thức dậy trong tiếng gọi của chim rừng và hương thơm của một loài hoa không rõ tên. “Anh tôi chưa có người yêu”, vì còn quá trẻ, và cuộc đời mới mở ra những trang vở còn thơm mùi mực. Chưa có người yêu là chưa đến giai đoạn hoàn thiện bằng việc tìm thấy nửa kia của mình và nếm chén rượu nồng hạnh phúc lứa đôi. Anh trai tuổi thanh xuân trong mắt cô em gái ngây thơ thời ấy là một Idol cùng nhân cách mẫu mực và những ước mơ đẹp đẽ của tuổi trẻ khát khao học tập, lao động, sáng tạo và cống hiến. Thật và mộc như ba câu lục bát liền mạch, nhẹ tênh. Nhưng bài thơ ấy của anh, cũng như ngàn vạn thanh niên Việt nam những năm tháng ấy đã bị chiến tranh phá vỡ, như dây đàn bị cắt ngang cung một cách lạnh lùng, không thương tiếc. Câu cuối của khổ thơ bị ngắt ra trong nhịp 2/2/4 như nỗi thảng thốt, bàng hoàng trước sự đổi thay khắc nghiệt không ngờ của hiện thực tàn khốc. “Chiến tranh – vào lính, bất ngờ chi đâu”.

Và từ đấy, “cuộc đời là một khúc quân hành” với những chi tiết hiện thực cụ thể như những miêu tả trong dòng thư viết vội gửi về cho em từ chiến trường xa, trong lúc nghỉ giữa giờ hành quân “Quả rừng đắng đót chia nhau lót lòng…”. Một chút thôi, cái hiện thực đời lính muôn vàn thiếu thốn, mà sự thiếu ăn là dễ nhận thấy nhất trong các nhu cầu thiết yếu tồn sinh của con người. Vị quả rừng như bớt phần “đắng đót” khi được các chiến sĩ đang “tuổi ăn, tuổi ngủ” “chia nhau” mà chỉ đủ để “lót lòng”, chứ chẳng đủ qua cơn đói. Xót xa mà cảm động làm sao, cái tình người ấm áp, hồn nhiên của những chiến binh chưa kịp lớn ấy. Cũng như cái nét chạm “Ba lô lưng nặng, vai còng…”, chỉ bốn từ trong tiểu đối mà như mang cả hình dáng quê hương đau thương những tháng năm khói lửa: “Lưng” và “vai”; “nặng” với “còng”. Đó là những bộ phận cơ thể thường được dùng để đo dấu vết của tuổi tác và thời gian, như thước đo tuổi già. Vậy mà ở đây, thước đo đó được dùng cho những chàng trai mới rời ghế nhà trường tuổi mười tám, đôi mươi…

Chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ được sống, được yêu, và cả cuộc đời bằng sự khốc liệt như vậy đấy. Miêu tả sao cho hết, những gian truân, khó nhọc, hiểm nguy đời lính, khi sự sống và cái chết chỉ là gang tấc. Vậy nên, phần lớn được cách điệu bằng những biểu trưng theo lối nói giảm dân gian: “Gian khổ, luyện rèn” đã giúp anh cùng đồng đội “vượt qua rừng rậm, suối sâu”, thậm chí đương đầu với cả cái chết cũng nhẹ tựa lông hồng, bởi “Hòn tên, mũi đạn nể ai”…

Các khổ thơ 4, 5, 6, 7 đều chứa các tiểu đối trong cấu trúc đối lập giữa sự hy sinh giản dị, thanh thản mà anh dũng của người chiến sĩ với nỗi đau đớn khôn nguôi, ám ảnh mất mát nặng nề suốt cuộc đời những người ở lại. Nhã ngữ làm vợi đi nỗi đau từ phía người trong cuộc, khiến cho cái chết cũng trở thành “ngủ nhé, giấc say”, như mang những “giấc mơ” “gửi về trời”, “lên mây”, và không có cái đớn đau từ các thiên thần…Nhưng hiện thực mất mát thì vẫn còn nguyên. Âm bản nỗi đau cùng những thương tật “nỗi buồn chiến tranh” không gì xoa dịu nổi, ngay cả là những lời ru ngọt ngào nhất. Đó là hình ảnh đầy ám ảnh:

“Mẹ cha thương nhớ bạc đầu, xót xa

Đêm đêm mắt mẹ ướt nhòa

Thạch sùng tặc lưỡi, nghe cha thở dài”

Nỗi đau sâu thẳm là nỗi đau không lời. Không phải tiếng khóc than. Không phải lời la hét. Không một tiếng phàn nàn. Chỉ là sự chịu đựng đến tột cùng trong im lặng. Thương nhớ đến “bạc đầu”, “đêm đêm mắt mẹ lệ nhòa”là cảm thức thời gian được chuyển vào không gian. Nét nhòe ngữ nghĩa do kết hợp ngang mang lại khiến sự tàn phá của chiến tranh được khắc họa sắc hơn. Cũng chẳng cần phân biệt mẹ “nhòa lệ” mỗi đêm vì thương nhớ con, hay nỗi nhớ thương khiến mắt mẹ nhòa. Chỉ thấy một màn đêm dày đặc quánh chết chóc của chiến tranh, khiến người ta nghĩ đến “Night” của Elie Wiesel cùng những trại tập trung diệt chủng khủng khiếp của Đức quốc xã. Một tiếng thạch sùng tắc lưỡi như khoan xoáy vào lồng ngực thắt nghẹn cùng tiếng thở dài không giấu nổi của cha. Đếm sao cho hết những đêm nhòa lệ nhớ thương của mẹ, khắc khoải tiếng thở dài nén lại của cha cùng tiếng tắc lưỡi của thạch sùng đặc tả nỗi đợi chờ vô vọng của biết bao người cha, người mẹ có con ra chiến trường.

Sự ra đi của anh “Làm trai đất Việt có hèn chi đâu” kiêu dũng và nhẹ nhõm bao nhiêu thì nỗi thương đau trĩu nặng trái tim bậc sinh thành bấy nhiêu. Họ vẫn tiếp tục đợi chờ vì không thể chấp nhận hiện thực nghiệt ngã là đứa con yêu thương của mình đã chết khi chưa được sống ở tuổi hai mươi tươi đẹp. Họ tiếp tục tìm kiếm thẫn thờ đến “bỏ cõi này theo anh”. Sự thương nhớ, đợi chờ, tình yêu, và nỗi đau đã theo cha mẹ sang cả thế giới bên kia, như muốn lật tung cả cõi sống và cõi chết, địa phủ lẫn thiên đàng để tìm con! Không có điều gì mà người làm cha mẹ không thể làm để vì con, cho con. Nhưng ngay cả tình yêu lớn lao đến thế cũng không thể làm anh sống lại, không mang được anh trở về với cuộc đời. Chỉ còn lại nhân vật trữ tình cùng nỗi đau chết lặng, cô đơn. Là khi lời ru được cất lên, thay mẹ, ru anh, mà để ru mình, ru nỗi đau càng xoa dịu càng thêm nhói buốt mỗi mùa.

 “À ơi…
Anh ơi, ngủ nhé giấc say
Mẹ cha đã bỏ cõi này theo anh
Nhớ thương em gửi trời xanh
Lời ru: anh ngủ an lành cõi xa.”

Ru thế nào thì cũng không tránh được khoảng trống thẳm sâu giữa hai thế giới, cõi sống và cõi chết, không thể trả lại cho mình người anh trai tuổi hai mươi trong hình hài tươi tắn, thân thương luôn chia sẻ vui buồn và dạy bảo em từng tí, từng li… Bàn tay lạnh ngắt man rợ của chiến tranh không biết đến cả tình thương lẫn nỗi đau. Nó bao trùm cả bầu trời, mặt đất, len lỏi vào từng ngõ ngách, ngôi nhà, từng số phận cá nhân. Nó không mang khuôn mặt con người.

Lời ru dịu dàng nhất cũng không làm nó chùn tay, cũng không thể xua đuổi được nó cùng bàn tay đẫm máu gớm ghiếc. Sự thật là nó đã cướp đi của mẹ cha người con trai hiếu thảo, cướp đi của em người anh trai mẫu mực, thương yêu. Khoảng trống nỗi đau này là mãi mãi. Hơn một lần, người em gái ru anh “ngủ nhé an lành”. Và trong trái tim của chị, trong trái tim mỗi người đang sống trong hòa bình chúng ta nợ anh, nợ những người lính tuổi hai mươi như anh một cuộc đời chưa sống.
“À ơi…
Anh đi, trẻ mãi không già
Bên kia thế giới, mong là bình an…”

Lời ru nhẹ nhàng mà trái tim trĩu nặng. Lời ru dịu dàng nhưng khiến lương tri nhân loại không thể ngủ quên. Không ai được phép quên rằng đã có bao chàng trai, cô gái tuổi đôi mươi ngã xuống ngày hôm qua để chúng ta hôm nay được sống bình yên. Không được phép quên rằng, chiến tranh, sự hủy diệt bất nhân khủng khiếp này, không được phép xảy ra vì bất cứ lí do gì. Không bao giờ nên tồn tại, nỗi đau bởi chiến tranh. “Lời ru chiều cuối năm” là lời nguyện cầu cho anh, cho cả thế giới này.

27/7/2025

Lê Tuyết Hạnh

Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tấm vạt giường

Tấm vạt giường Nhà văn Tiểu Tử tên thật Võ Hoài Nam, sanh năm 1930, nguyên quán: Gò Dầu Hạ (Tây Ninh) Ông là con trai duy nhứt của Giáo s...