Trường ca của Cúc
Biết Hoàng Cúc có làm thơ nhưng vẫn bất ngờ bởi “Cúc”
là một trường ca. Người làm thơ viết trường ca giống như người viết văn xuôi
lao vào tiểu thuyết. Trong cảnh huống này, trường ca không khác gì một “hiểm địa”
văn chương. Nhưng tôi bị “Cúc” chinh phục.
“Ta ước nguyện tâm thanh hồn quảng mị/ Để trời cao tấu vĩ
khúc giao mùa”
NSND Hoàng Cúc sinh năm 1957 tại Hưng Yên. Tốt nghiệp khoa Kịch
nói Trường Nghệ thuật Việt Bắc, làm diễn viên từ 1982, Phó Giám đốc Nhà hát kịch
Hà Nội từ 2001 cho đến khi nghỉ hưu 2012. Các vai diễn nổi tiếng: Tám Bính
trong “Bỉ vỏ”, Thủy trong “Tướng về hưu”, cùng nhiều vai diễn sân khấu và điện ảnh
khác. Từng đạt Huy chương vàng Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc 1985,
Nữ diễn viên xuất sắc nhất Liên hoan phim Việt Nam 1990, Giải A Hội diễn sân khấu
Việt Nam 1997, Huy chương vàng Liên hoan sân khấu kịch truyền hình 1997, Giải A
Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam 2003, Huy chương vàng Hội diễn sân khấu chuyên
nghiệp toàn quốc 2003, Huy chương Vàng Liên hoan sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc
2009… Tác phẩm văn học đã xuất bản: “Cúc” (trường ca, 177 trang), Nhà xuất bản
Hội Nhà văn, 2024.
Tôi không quen biết NSND Hoàng Cúc ở ngoài đời, chỉ biết chị
qua các vai diễn nổi tiếng, những vai diễn mà có lẽ, đến giờ, vẫn còn vọng động
trong tâm trí thế hệ chúng tôi, như những kỷ niệm, như một niềm tín mộ xa xăm.
Biết Hoàng Cúc có làm thơ nhưng vẫn bất ngờ bởi “Cúc” là một trường ca. Người làm thơ viết trường ca giống như người viết văn xuôi lao vào tiểu thuyết. Trong cảnh huống này, trường ca không khác gì một “hiểm địa” văn chương. Nhưng tôi bị “Cúc” chinh phục. Thú thực, đã khá lâu rồi không được đọc một cuốn sách mang lại nhiều cảm xúc đến thế. Chúng tôi làm nghề, thường phải đọc cái mình cần, ít khi được đọc điều mình thích…
1. “Cúc” mang một nội lực xúc cảm cực kì mạnh mẽ, một tâm hồn
nghệ sĩ tinh tế, lãng mạn, lắng sâu. Nếu trường ca truyền thống thường dựa vào
sự kiện, thì “Cúc” chủ yếu tựa vào cảm xúc. Tính tự sự trong đây, có chăng,
cũng chỉ là cái cớ để chủ thể trữ tình cất cánh những xúc cảm của mình. Theo một
nghĩa nào đó, “Cúc” là sự phơi mở tận cùng thế giới bên trong phong phú và biến
ảo của người thơ với mọi cung bậc buồn vui. Cứ thế, chập chờn như một giấc mơ,
“Cúc” dẫn dụ ta vào một không gian riêng có, mong manh, mộng ảo, đẹp và buồn:
“Tôi đã đi không ngoái đầu nhìn lại/ Như khúc đầu của dòng
sông trôi mãi/ Bỏ lại tháng ba cháy rụi triền đê…”;/ “Tháng mười hứa hoa nhà sẽ
nở/ Đan heo may lúa rộ chín cánh đồng/ Bông cúc dại mải mê lời tình tự/ Khuyết
trăng vàng man mác trải đầu non”…
Dòng cảm xúc trữ tình cuồng mị, khi cuộn trào da thiết, ngập
tràn nỗi nhớ niềm thương, khi thảng thốt mong manh như gió thoảng, khi là những
nốt lặng tựa mặt nước hồ xanh lặng sóng, vô ưu. Ở đó, gương mặt “Cúc” hiện ra.
Này là giai điệu giã từ ấu thơ, kỷ niệm, giã từ những ảo tượng
đẹp đẽ xa xăm:
“Thôi nhé cánh đồng đã gặt/Cánh cò cũng bỏ đi xa/ Chỉ còn la
đà khói tỏa/Rạ rơm đốt thơm chiều tà”.
Này đây, là nhịp bước trong veo lúc mới vào đời của người con
gái:
“Hà Nội ơi dịu dàng em xuống phố/ Cỏ ven đường mê mải khúc
hoan ca/ Con se sẻ lân la trên khung cửa/ Tiếng sơn ca thổn thức gọi yêu về”…
Có khi đó là một Cúc trải đời, sắc sảo, cô đơn, nhưng biết tự
trào và tuyệt nhiên không ảo tưởng vàng son giấy gấm:
“Ngồi buồn lôi mặt ra chơi/ Vết hằn năm tháng tơi bời xóa
luôn/ Xóa luôn cả khóe miệng buồn/ Xóa luôn cả ánh mắt tuôn lệ trào/ Xóa đi xóa
lại ngọt ngào/ Tóc đen môi thắm thủa nào, xóa luôn”
Và đây, hãy xem Cúc “lên đồng” nhập vai, hóa thân vào các
cung bậc và trạng huống khác nhau của đàn bà:
“Tôi đi tìm ai?/ Mải miết tìm những ải những ai/ Là người đàn
bà khướt say/ Em đẹp dần lên khi đời lay lắt/ Mỗi đêm khuya lơ khuya lắc/Giẫm
bóng mình/Là bà mẹ già trắng tay/Bảy con chết trận/Là hồn ma chết thảm vẫn khát
tình/ Tôi đi vào tháng ba// Nhà bên sông Sụt lở/ Tháp nhà thờ vật vờ trôi giữa
dòng sông/ Tôi đi giữa phố đông/Bát phở vài đồng mà túi không xu lẻ/ Tôi trở về
thành bà dì ghẻ/ Không con/ Nuôi nấng đám con chồng/ Bơ bất/ Tôi hóa thành hòn
đá vọng phu/ Đêm ngày phơi nắng/ Trắng cỏ triền sông thảm thiết gọi đò/ Tôi trở
thành trinh trắng/ Vắt giọt sữa trong bầu vú mình/ cứu bé thơ trong biển lửa
hung tàn/ Bấn loạn khóc Eva…”
“Cúc” có các sắc thái thẩm mĩ trữ tình phong phú: đẹp nhưng
buồn bã hư hao; âu lo trước những thiếu vắng gần gụi tình người; thành kính,
nâng niu với đấng sinh thành; ấm áp, tự tại, an nhiên trước sự chảy trôi của thời
gian. Xuyên không trong không gian và thời gian, “Cúc” biến ảo luân phiên vai
chủ thể trữ tình, nhiều nhất là “em” với những tiếng Kiều đồng vọng:
“Đa mang hái mớ bòng bong/ Giờ thì phận mỏng ngắm vòng nguyệt
mưa”/ “Vầng trán đã hằn in ngàn sóng bạc/ Chôn miền đau khai huyệt chỉ riêng
mình”/ Tay co nắm rơi đôi đũa lệch/ Gắp bên nào cũng rớt xuống nhân gian”…
Trong “Cúc”, mẹ mang tính thiêng của Mẫu, có khi gần Phật
tính, nhưng cũng là những gì gần gụi, rất đỗi đàn bà. Không phải ngẫu nhiên,
trong vô số đối tượng tâm tình, “Cúc” tô một vệt đậm về tâm thức Mẹ:
“Mẹ ơi bạc trắng trời giông/ Một bên bóng tối bên không bóng
nào…/ Tết này có nhớ mẹ ơi/ Rét tê rét tái tơi bời gió đông/ Mông mênh một cõi
má hồng/ Nhà không có mẹ mông mông tủi buồn”;/ “Đêm tháng ba/ trăng rằm nghiêng
nhớ mẹ/ Ngát hương cau đau vụ lúa đầu”…
Nhưng Cúc không làm thơ để hờn dỗi, vây vo. Thế nên, “Cúc”
dài nhưng không nặng nề, mệt mỏi. Kỷ niệm, bạn cũ, trường xưa, những ngày mưa
lũ, dáng mẹ, bóng cha… vụt qua trong cơn mơ như gió thoảng, mây trôi, buồn
nhưng không lạnh, nhớ thương mà không sến súa.
Đắm chìm trong kỷ niệm và mộng ảnh xa xăm, nhưng “Cúc” không
nhạt phai trách nhiệm công dân với những âu lo đương đại (sự tàn phá thiên
nhiên, dịch bệnh, cô đơn…). Kỷ niệm xưa đẹp đẽ bao nhiêu, thì cái đương thời lại
ngột ngạt, bất an và phiền muộn bấy nhiêu:
“Giờ toàn ô tô đổ bộ/ Trẻ con nháo nhác sợ qua đường/ Nườm nượp
quán hàng/ Lố nhố kín biển treo…/ Khét lẹt ống bô trẻ trâu phượt dạo/Cổng làng
bốc khói gọi âm hồn/ Chốn nào về?”/ “Nghe nói sẽ quay lại tem phiếu…/ Có hàng
ngàn người mong được xếp/ Xếp hàng qua trạm gác/ Xếp hàng ngoáy mũi/ Chờ đợi/
Vui mừng đến lượt/ Tiêm/ Tiêm/ Mua/ Mua…”
“Cúc” có không gian thực, nhưng cũng sáng tạo nhiều không
gian mộng ảnh khơi gợi về những giấc mơ cổ tích đẹp đẽ xa xôi. Đọc “Cúc” khi ấy,
có cảm giác như đứa trẻ mộng mơ nằm trên đồi cao, ngắm nhìn trời xanh qua kẽ
lá:
“Những cung đường uốn lượn quanh co/ Trên núi tuyết vẫn ngủ vùi bông tuyết/ Nép bên đồi lũng sâu thinh lặng/ Vài mái nhà đỏ rực dưới nắng chiều/ Mây nơi đây quá đỗi mơ màng/Đan trong tuyết thác nước ngút ngàn tung xõa/Bung tỏa trắng đường ôm cây theo chuỗi ngọc…/ Tuyết lóng lánh/ Tháng sáu mặt trời đi ngủ muộn/ Nửa đêm rồi ta đợi hoàng hôn”…/
2. Nếu trường ca truyền thống thường gắn với những câu chuyện
của cộng đồng, thì “Cúc” lại là sự triển hiện cảm xúc thuần toàn của con người
cá nhân nghệ sĩ. Trải bao biến cố, bệnh tật, cả những bể dâu, Hoàng Cúc viết
thơ trong trạng thái của người “nằm lặng lẽ ngắm trăng rơi”, bỏ qua mọi chấp
trước trần ai. Đó là lí do để nói, trường ca của Hoàng Cúc phảng phất bóng dáng
“thiền ca”, kiểu thơ của một người tu hay kẻ hành thiền. Không khó để nhận ra,
sự hòa trộn tự nhiên cảm thức tôn giáo và tín ngưỡng trong “Cúc”, đặc biệt, sự
xuất hiện rất dày mảng từ vựng thể hiện cảm quan Phật giáo (“ta bà”, “tịnh giới
quan”, “nhân sinh”, “phù sinh”, “mệnh định”, “nhân duyên”, “trầm luân”, “hư
vô”, “vô lượng”, “tịnh độ”… cho thấy người dường đã xả ly tham ái, buông bỏ chấp
thủ, giữ tâm thanh, an trú vào chốn khác:
“Nơi xa thăm thẳm câu kinh kệ/ Vang vọng thinh không rợn linh
hồn/ Đứng đây một chút là hư ảnh/ Thác nước mãi còn/ Ta có không”/ “Dẫu xa ngái
có lúc vương/ Cúi xin tiên tổ tâm thương cõi thiền/ Vươn cao thẳm tọa trăm miền/Tám
phương tịnh độ phật hiền mẹ ta”
Trước bể dâu sóng gió cuộc đời, chủ thể dường như đã tu tập tới
hạn để vượt qua, buông xả và giải thoát. “Cúc” tuy có lúc phảng phất hư vô,
nhưng trên hết, đó là sự vượt thoát hoàn toàn khỏi những tục lụy xác thân, để
được rong chơi giữa vô thường. Không ít lần ta bắt gặp trong đây, sau những đợt
sóng ngôn từ, là sự an tĩnh của tâm hồn trước cuộc đời giông bão:
“Hoa cúi rạp để sáng mai tỉnh thức/ Gió an yên bầu bạn vai trời”/
“Ta xếp lại/Nếp nhăn nơi khóe miệng/ Xóa chân chim/ Ém lại nụ cười/ Thế là sống/Đời
an yên cây cỏ/ Bốn mùa qua/Dẫu mưa gió dày vò”…
“Cúc” nói nhiều về cái chết, nhưng người thơ lại bình thản
xem nó chỉ như là một cuộc ra đi. Lời thơ phảng phất gió mây, “dưới gốc bồ
đề/Tâm linh nhập Phật”:
“Đông về hoa tàn có rộ/ Đào ngỡ khát bừng nụ xuân/Dấu chân địa đàng khẽ mở/Chờ ta muôn ngả thiên đường”/“Đàn con ngơ ngác ô cửa/ Kiếp người bện kiếp cầm ca/ Trên cao tiệc hào quang tỏa/ Đón em thiên sứ bay về”…
3. Đọc “Cúc”, thấy tuôn chảy nhuần nhị tự nhiên những huyền
tích có từ cổ mẫu văn hóa như cánh đồng, cây thiêng, đền đài, hình tượng tôn
giáo…, cái khắc dấu trong tiềm thức, tạo thành suối nguồn in đọng nơi khóe mắt,
con tim, thủ thỉ âm vang trong giọng nói tiếng cười:
“Xưa mẹ bảo quê mình toàn cánh đồng sen/ Qua cánh đồng bát
ngát/ Ôm con đê nghe sông Hồng hát/ Nghiêng ngả đền đài miếu mạo ủ sương”/ “Chẳng
nhớ nổi mẹ ngồi đâu nữa/ Bến sông xưa nước cạn trắng rồi/Cây nhãn cổ cõng đời
quả phụ/ Nửa nhãn lồng, nửa nhãn nước bưng cây”/ “Cả cánh đồng ôm chặt triền
đê/ Chử Đồng Tử vùi mình ôm cát/ Tiên Dung tắm Dạ Trạch đầm sen bát ngát/ Hồn
phách phiêu bồng lưu lại dấu yêu”…
4. “Cúc” dung chứa một năng lực ngôn ngữ tuyệt vời. Có cảm
giác, Hoàng Cúc viết trường ca trong trạng thái vô thức, mơ hồ. Câu chữ của chị,
do thế, biến ảo, tuôn chảy tự nhiên. “Cúc” không làm chữ, không chủ ý thiết tạo
hình thức song có nhiều câu thơ lạ và hay. “Cúc” không kể chuyện mà có chuyện,
không phô phang tình cảm mà ngập tràn xúc cảm. Hình thức thơ “Cúc” lỏng, biến cải
linh hoạt theo cảm xúc của chủ thể và đối tượng tâm tình; khi là thơ tự do:
“Em đã khiến ta phục sinh – người đàn bà/ Đi hết biết dòng
sông không còn sóng/ Nghe tiếng vọng thời gian ngưng đọng/ Bàn tay đan bừng
sáng cả mặt trời”/
khi lục bát:
“Đức tin vô đối bòng bong/ Thấy sừng sững núi chạm bong bóng
chiều/ Lênh đênh gánh chuyến đò xiêu/ Đắm đâu mẹt dạt chạm điều tái tê”
khi tựa cấu trúc đồng dao:
“Lời em khóa/ Mắt lảng rời/ Biết vùi đâu/ Tức tưởi khóc cười…”
lúc lại là thể thơ bảy chữ phảng phất hơi thơ cổ:
“Tôi thấy em tôi ở cuối đường/ Chẳng màng khi thấy lá vàng
sang/ Mơ màng mòn mỏi nơi chiều vắng/ Lặng lẽ đi ngang chẳng ngó ngàng…”/
5. Đọc “Cúc”, có thêm một minh chứng để khẳng định, không nên
hiểu trường ca trong khái niệm, mà phải hiểu như những gì nó diễn ra trong thực
tế. Trên một ý nghĩa nào đó, có thể xem “Cúc” thuộc số ít các tác phẩm đã làm đứt
gãy ít nhiều cấu trúc thể loại vốn có của trường ca. Thứ nhất, nó xoá bỏ cái
nhìn sử thi, đưa trường ca trở về câu chuyện cá nhân, gắn với cảm xúc, số phận
con người đương đại, và do thế, nó đưa diễn ngôn trường ca từ diễn ngôn sử thi
về diễn ngôn đời thường. Thứ hai, nó phá vỡ tính chuyện, chỉ giữ sườn truyện
như một sợi chỉ mong manh để nâng cánh cho cảm xúc…
Có thể xem “Cúc” là sự hiện diện của một tâm trạng, cũng là
hiện thân của phục sinh và giải thoát. “Cúc” sắc sảo, nhưng đủ rộng lòng để giấu
ẩn. “Cúc” buồn đau, nhưng đủ chín để khoan dung. Và như thế, “Cúc” bừng ngộ
thăng hoa và giải thoát, ngập tràn cảm thức phục sinh trong cõi mộng ảnh nhân
gian:
“Xin em nhé hãy mở lòng cho đặng/ Những ghì ôm có khát vọng
mai thì/ Trên đường rộng trong vô vi quảng đại/ Tấm lòng em thành bồ tát bao
dung”/ “Ta là thế ngạo nghễ cười dương thế/ Quá nửa chiều mới biết nương thân/
Không biết sợ xin dưới kia đất mẹ/ Cho yêu thương, chào nhé hôn nào/ Tờ lịch cũ
câu thơ buồn nhân thế/ Trả cho đời mơ giọt nắng tinh khôi/Trên trời biếc lũ
chim trời quấn quýt/ Dưới đất mềm/ta ươm/một nhành mai”…
Sau hào quang sân khấu và màn ảnh với các vai diễn để đời,
Hoàng Cúc đã khơi mở những ẩn mật nội giới của mình trong một không gian khác,
một ngôn ngữ khác, theo một cách riêng, tinh tế và tài hoa hiếm thấy.
20/6/2024
Phùng Gia Thế
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét