Mạch ngầm sau
câu chữ - Siêu ẩn dụ
Nói tới siêu ẩn dụ (megametaphor) là đề cập đến tổ
chức diễn ngôn (văn bản). Bởi vì, tầm tác động của nó, không chỉ giới hạn trong
từ, không chỉ bó hẹp trong câu, thậm chí là không chỉ khuôn định trong các mô
hình biểu đạt ẩn dụ ý niệm.
Siêu ẩn dụ là tổ chức nghĩa ở cấp vĩ mô, nó là kết quả nối kết từ những những tiểu ẩn dụ, hoán dụ và tỉ dụ – gọi chung là ẩn dụ vi mô. Nó là mạch ngầm ẩn tàng đằng sau câu chữ. Đây là loại ẩn dụ thường xuất hiện trong môi trường văn chương. Siêu ẩn dụ liên quan đến nghĩa chỉnh thể, đề tài, chủ đề và cấu trúc của toàn bộ diễn ngôn. Tùy theo loại hình và thể loại diễn ngôn, sự thể hiện của siêu ẩn dụ rất đa dạng.
Sau đây là một số loại thường gặp.
Trường hợp thứ nhất
Tổ chức diễn ngôn thường lưỡng phân thành hai bình diện: nổi và chìm.
Ở bình diện nổi, nghĩa nguyên thủy (nghĩa đen) và có thể có cả ẩn dụ vi mô xuất
hiện. Bình diện này gọi là miền nguồn, biểu đạt nghĩa câu chữ về một nội dung,
một chủ đề nhất định. Ở bình diện chìm, gọi là miền đích, do tổ chức diễn ngôn
gợi mở, kích hoạt người đọc liên tưởng đến nghĩa hàm ẩn về một đối tượng khác,
một nội dung khác.
Hãy quan sát bài thơ Con muỗi của nhà thơ yêu nước
Phan Văn Trị:
Muỗi hỡi thân ngươi sướng mọi điều
Thiếu chi chi nữa hãy còn kêu.
Giường ngà chiếu ngọc từng nương dựa
Má phấn đào non cũng ấm yêu.
Béo miệng chẳng thương con trẻ dại.
Cành hông nào đoái chúng dân nghèo.
Ngày sau hẳn gặp nhằm xơ quất
Xử tội nhà ngươi mắt chẳng nheo.
Bề mặt diễn ngôn miêu tả con muỗi với nhiều chi tiết
có giá trị gợi mở liên tưởng như: được làm muỗi là rất sung sướng, ở nơi giường
ngà, chiếu ngọc, được kề cận với má phấn đào non, vinh thân, chẳng thương bầy
trẻ dại, no đủ, chả đoái hoài gì đến dân nghèo và đặc biệt một lời cảnh báo: sẽ
có ngày, người ta dùng xơ quất để xử tội. Rõ ràng, ở mặt nổi, bình diện
nghĩa câu chữ thì đề cập đến con muỗi nhưng ở mặt chìm, đấy chỉ là cái cớ
để hàm chỉ bọn vua quan bán nước, hút máu dân lành. Nói theo ngôn ngữ học tri
nhận thì một số chi tiết ở miền nguồn, với thủ pháp nhân hóa đã phóng chiếu,
hình ảnh con muỗi lên miền đích thành hình bóng con người, dựa
vào ẩn dụ: Con người là con vật, Con người là côn trùng. Trong
đó, đáng chú ý là đặc điểm cốt lõi của ánh xạ là tính chất hút máu người của
loài muỗi.
Tuy mối quan hệ giữa nguồn – đích và đặc trưng ánh xạ đơn giản
/ phức tạp có khác nhau tùy theo thể loại, tùy theo cách tổ chức diễn ngôn,
nhưng đây là một hiện tượng không xa lạ trong truyền thống Ngữ văn Việt Nam.
Nhiều bài thơ trong dòng văn học yêu nước Nam Bộ cuối thế kỷ XIX của Phan Văn
Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa, Học Lạc… thơ Lê Thánh Tông, thơ Hồ Xuân
Hương và cả thơ ngụ ngôn… đều được tạo lập theo phương thức siêu ẩn dụ.
Siêu ẩn dụ xuất hiện trong trường hợp này là dùng để biểu đạt
các chủ đề tế nhị, lồng ghép một bài học luân lý, ngầm giải thích về một hàm ý
nào đó; hoặc, không muốn chuốc lấy rắc rối, hay không chịu trách nhiệm về hành
động ngôn từ của mình. Đây là hiện tượng một thời được gán cho là hiện tượng biểu
tượng hai mặt, đã khiến cho nhiều người lao đao vì chữ nghĩa.
Thoạt nhìn, việc tổ chức diễn ngôn như sơ lược trình bày cỏ vẻ đơn giản. Thật ra, việc vận dụng chữ nghĩa cũng rất công phu, xin được minh họa qua một số bài thơ cùng thể loại của Phan Văn Trị và một số tác giả khác.
Thông qua những sự vật hiện tượng cụ thể từ miền nguồn như con
cóc, con rận… hoặc hát bội, quán nước, chùa hư… nghĩa là hiện thực vốn
có thật trong đời sống, Phan Văn Trị nhắm đến miền đích là phê phán kẻ xấu bằng
siêu ẩn dụ. Nói cách khác, để sáng tạo loại thơ này, tác giả phải vận dụng ngôn
từ thế nào để đạt được yêu cầu: Chỉ bằng một hình thức biểu đạt duy nhất, lại
phải chuyên chở nhiều tầng nghĩa. Ở đây, xảy ra một sự lựa chọn khá gay gắt, vừa
phải bảo đảm theo trật tự của logic nổi, tức là phải phục vụ cho một đề tài nhất
định (chủ đề nổi) nhưng lại vừa phải tuân thủ theo một nội dung khác dưới dạng
tiềm ẩn (chủ đề chìm). Để đạt được mục đích ấy, trước hết, cùng một lúc, tác giả
phải xây dựng hai hệ thống đề tài. Tuy chúng có những liên hệ mật thiết với
nhau, nhưng vẫn là những hệ thống riêng. Trên bề mặt chữ nghĩa, ta tri giác được hệ
thống chìm là nhờ vào liên tưởng, ánh xạ. Chẳng hạn:
Trên trính có nhà còn lợp lọng,
Dưới chân không ngựa lại giơ roi.
Liên hệ với đề vịnh của bài thơ Hát bội, ta biết hai câu
thơ đề cập đến tính chất ước lệ của nghệ thuật tuồng, nhưng rõ ràng nội dung của
nó không chỉ dừng lại ở đó.
Tiếp tục khảo sát bài Con trâu của Học Lạc:
Mài sừng cho lắm cũng là trâu,
Ngẫm lại mà coi thật lớn đầu.
Trong bụng lam nham ba lá sách.
Ngoài cằm lém đém một chòm râu.
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,
Làm lễ bôi chuông nhớn nhác sầu,
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ,
Năm giây đàn gẩy biết chi đâu.
Ta nhận thức được sở chỉ bằng những chi tiết mô tả trực tiếp
như: sừng, bụng, lá sách, cằm, râu, đít, nghé
ngọ. Và những thuộc tính được nhân hoá như: lớn đầu; lem nhem ba lá
sách; lém đém một chòm râu… lại gợi mở cho ta một hướng tri nhận khác với
chủ đề nổi. Cái hay ở đây, cả hai hệ thống đề tài ấy đều hoàn chỉnh, hoàn
chỉnh đến mức chỉ cần thay đổi một vài từ ngữ, lập tức tính chất lưỡng nghĩa của
chúng bị phá vỡ ngay. Và có không ít trường hợp, các câu thơ vốn nằm trong hệ
thống, do chi phối bởi các mối quan hệ trên trục đối vị và trục ngữ đoạn, tầng
nghĩa nổi của nó hầu như chiếm lĩnh toàn bộ. Nhưng một khi tách khỏi ngữ cảnh,
tầng nghĩa chìm lại trội hẳn lên. Đây là những tín hiệu gợi mở, cũng chính là
căn cứ, làm cơ sở cho sự kiểm tra ánh xạ:
Vì thế liều mình cơn nước lửa,
Người đà có thấu hỡi người ơi.
(Hột lúa, Phan Văn Trị)
Hay:
Mấy trận chi sờn cơn gió bụi,
Trăm vòng nào nại sức lung lay.
(Cái cối xay, Phan Văn Trị)
Bài Vịnh cây vông của Bùi Hữu Nghĩa cũng nằm trong
xu hướng tổ chức như thế:
Uổng sanh trên thế mấy thu đông,
Cao lớn làm chi, vông hỡi vông.
Da thịt càng già, già lộp xộp,
Ruột gan chẳng có, có gai chông.
Rường soi cột trổ chưa nên mặt
Giậu mỏng rào thưa phải dụng lòng.
Mới biết cây nào sanh giống nấy,
Xuân qua bớn tớn cũng đơm bông.
Rõ ràng, cái chi phối tâm trí ta không phải là đặc điểm của
cây vông, mà chính là những thuộc tính được đánh giá trên thang độ nhân tính
thông qua siêu ẩn dụ: Đời người là đời của thực vật (Cỏ cây). Chính
điều này giải thích vì sao tầng nghĩa thứ hai, nghĩa chìm, lại bao trùm và chi
phối toàn bộ diễn ngôn, còn tầng nghĩa nổi thực chất chỉ là cái cớ, nghĩa vẫn cứ
sờ sờ ra đó, lại còn được miêu tả, gọi tên hẳn hoi, ấy vậy mà vẫn là thứ yếu.
Điều quan trọng, các ẩn dụ vi mô ở miền nguồn phải là những
chỉ dấu định hướng để nhận hiểu các thuộc tính ánh xạ, kết hợp lại, làm nên một
chỉnh thể mà siêu ẩn dụ biểu hiện ở miền đích.
Xin được khái quát một số siêu ẩn dụ được kiến tạo bằng hai tầng
nghĩa trong dòng văn học yêu nước Nam Bộ: Cuộc đời là sân khấu; Cuộc
đời là một vở kịch (Hát bội – Phan Văn Trị), Con người là một
con vật (Con trâu – Học Lạc; Con rận – Phan Văn Trị), Đời
người là đời của thực vật, cỏ cây (Hột lúa – Phan Văn Trị; Cây bần –
Bùi Hữu Nghĩa; Cây dừa – Huỳnh Mẫn Đạt; Cây bắp – Nguyễn Hữu
Huân).
Trường hợp thứ hai
Cũng thuộc về cấu trúc vĩ mô, nhưng chức năng của siêu ẩn dụ
hầu như dồn hết vào tiêu đề văn bản (còn gọi là tựa đề, nhan đề, đầu đề, tên
văn bản). Với văn bản viết, nó là yếu tố đầu tiên đập vào mắt người đọc, là
cánh cửa mở rộng mời gọi người đọc tiếp tục khám phá. Khi đề cập đến tiêu đề
văn bản, nhiều người hình dung đến văn bản viết, nhưng không nhất thiết, văn bản
nói, văn bản hội thoại cũng có tiêu đề, đó là chủ đề cho anh, cho tôi, cho
chúng ta.
Tiêu đề lệ thuộc vào phong cách và thể loại văn bản mà nó đại
diện (định danh). Có loại văn bản, diễn ngôn chỉ cần đọc qua tiêu đề, chúng ta
hiểu ngay nội dung mà văn bản đề cập, nhưng cũng có loại diễn ngôn, tiêu đề được
mã hóa sâu, nhiều khi phải đoán định, có khi phải đọc hết văn bản, phải suy ngẫm
mới tìm ra dụng ý của người viết.
Phức tạp nhất và cũng thú vị nhất là tiêu đề của văn bản văn
chương, Hồ Biểu Chánh từng nổi tiếng với nhiều cấu trúc tiêu đề cân đối nhịp
nhàng: Ngọn cỏ gió đùa; Nhơn tình ấm lạnh; Cay đắng mùi đời; Sống
thác với tình… Phi Vân có dụng ý khi đặt tiêu đề nghệ thuật như: Đồng quê; Dân
quê; Tình quê; Cô gái quê… Chu Tử gây ấn tượng với tiêu đề có cấu tạo
một tiếng: Sống; Loạn; Ghen; Tiền…
Trở lại với vấn đề đang bàn, tiêu đề của một tác phẩm văn
chương có kết cấu là một siêu ẩn dụ, thường nghĩa của nó liên quan đến chủ đề,
chẳng hạn, viết truyện ngắn Sợi tóc, Thạch Lam không chỉ miêu tả sợi
tóc, mà còn muốn hàm ý rằng, trong cuộc sống, lằn ranh giữa cái thiện và cái
ác, giữa tốt và xấu không được phân giới rạch ròi mà mong manh, mong manh như sợi
tóc.
Khái quát, ở đây tiêu đề được xây dựng bằng ẩn dụ: Đạo đức,
phẩm hạnh là một vật thể, Ranh giới giữa đạo đức / phi đạo đức, phẩm hạnh
/ phi phẩm hạnh là sợi tóc (mong manh như sợi tóc). Như vậy, trong
trường hợp này, một ẩn dụ ý niệm là hạt nhân nghĩa nằm ở tiêu đề văn của văn bản
thì sẽ gánh vác chức năng của một siêu ẩn dụ.
Với cách hình dung vừa xác định, có thể kể đến tiêu đề Đôi
mắt (Nam Cao) là một siêu ẩn dụ được kiến tạo dưới hình thức hoán dụ ý niệm. Đôi
mắt thay cho cách nhìn (thế giới quan). Điều này càng được sáng tỏ khi
chúng ta liên hệ đến một số ẩn dụ xem trường thị giác là một vật chứa, cụ thể
hơn: Đôi mắt là vật chứa đựng cảm xúc; Nhìn đắm đuối; Đôi mắt
dào dạt cảm xúc; Đôi mắt anh ta chứa đầy căm phẫn… tương tự tiêu đề Đui
mù (Nam Cao) cũng là một hoán dụ: Sự kiện thay cho hành động.
Tiêu đề Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên đều
là tên nhân vật. Tuy nhiên, mở đầu của tác phẩm đều có phần giới thuyết chủ đề,
rõ nhất là Truyện Kiều, tại đây đề cập đến một triết lý nhân sinh và sau
đó thông qua số phận của nhân vật chính nhằm chứng minh cơ sở cho triết lý đó.
Với Truyện Kiều, ta có siêu ẩn dụ Tài năng và số mệnh ở con người (thường)
tương khắc nhau, chúng không cùng tồn tại và luật bù trừ không chừa một ai, Người
đẹp, tài hoa (thường) có số phận hẩm hiu, với Lục Vân Tiên thì Trung, Hiếu là lẽ
sống của nam giới; Tiết, Hạnh là lẽ sống của nữ giới.
Cần thấy, nằm trong trào lưu của Ngôn ngữ học tri nhận, Anna
Wierzbicka – một nữ học giả người Úc, gốc Ba Lan, chủ trương mỗi ngôn ngữ có một
số từ khóa then chốt, chính xác hơn là một số ý niệm quan yếu liên quan đến văn
hóa, cách sống, cách ứng xử của một cộng đồng diễn ngôn. Bà đã tiến hành đối
chiếu một số từ khóa trong các ngôn ngữ như Anh, Đức, Ba Lan, Nga, Nhật và đạt
được một số kết quả rất thú vị, được giới học thuật đánh giá rất cao. Có thể
coi: tài, mệnh; trung, hiếu, tiết, hạnh ở trên, là những từ khóa biểu đạt một số
ý niệm trong văn hóa Việt Nam.
Xem xét nội dung tác phẩm, dụng ý nghệ thuật của tác giả, có
thể nghĩ đến một số siêu ẩn dụ thông qua các tiêu đề văn bản tương ứng
như: Quanh quẩn (Huy Cận); Những người đi tới biển (Thanh
Thảo); Chảy đi sông ơi (Nguyễn Huy Thiệp); Hoàng hôn Xanh (Trúc
Phương); Nước như là nước mắt (Nguyễn Ngọc Tư)…
Trường hợp thứ ba
Khác với hai trường hợp trước, ở đây người đọc phải suy luận,
phải thông qua kinh nghiệm của mình, phải tưởng tượng ra những mô hình không
gian tinh thần khác nhau, rồi kiểm tra thử mô hình của mình có phù hợp với những
gì diễn ra trong văn bản không, có phù hợp với bối cảnh, niềm tin, suy nghĩ của
cộng đồng diễn ngôn hay không. Lý giải này rất gần với lý thuyết cộng hưởng, độc
giả có thể sáng tạo nghĩa khi tiếp xúc với tác phẩm văn chương, đọc là đồng
sáng tạo với tác giả.
Hãy bắt đầu bằng bài thơ Tình sầu:
Xuân hồng có chàng tới hỏi
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
Chị tôi tóc xõa ngang đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội.
Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi:
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
Chị tôi hoa trắng cài đầu
Đi giặt tơ vàng bên suối.
Thu vàng cũng chàng tới hỏi:
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi.
Đông xám lại chàng tới hỏi
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đã ngủ trong lòng mộ tối.
(Huyền Kiêu)
Bài thơ hiện có nhiều dị bản, nhưng chủ đề chính không thay đổi.
Nó đã kích hoạt cảm hứng cho nhiều diễn ngôn nghệ thuật ra đời, Viên Linh nổi
tiếng với tác phẩm Hạ đỏ có chàng tới hỏi, nhạc sĩ Việt Dzũng với Thu
vàng có chàng tới hỏi, trong đó có một số ca từ có phần khác với văn bản
thơ lưu hành rộng rãi hiện nay, đặc biệt đã tái cấu trúc văn bản lưỡng phân,
cũng rất có lý: Xuân – Hạ / Thu – Đông, chứ không là tứ phân: Xuân, Hạ, Thu,
Đông như nguyên bản của bài thơ, Nguyễn Nhật Ánh, với Hạ đỏ, khai thác một
thời đoạn trong năm, thời đoạn gắn liền với nhiều kỷ niệm của tuổi học trò.
Bài thơ đã có nhiều người phân tích, nhất là về sự biểu trưng
của màu sắc nhưng chưa thấy ai đề cập đến siêu ẩn dụ: Đời người là một năm.
Nói rõ hơn, đặc điểm của mỗi mùa trong tự nhiên, với tư cách là một miền nguồn
được dùng để ánh xạ lên miền đích của cuộc đời một con người, mỗi một mùa biểu
trưng cho mỗi thời đoạn khác nhau trong đời người, Xuân trẻ trung, tươi mới; Hạ,
nhiệt huyết, nồng cháy; Thu xế chiều, ảm đạm và Đông tàn tạ, chết chóc.
Ta đọc thêm văn bản Giờ tàn:
Khi mai dậy sớm, trời êm ái,
Cửa sổ thênh thang mở gió hồ:
Hơi mát đưa hùa theo ánh sáng;
Cành gần chim rộn tiếng đùa nô.
Chủ nhật còn nguyên, còn trọn vẹn;
Tôi chưa tiêu mất một giờ nào.
Như đứa trẻ con ôm cái bánh,
E dè tôi muốn giữ cho lâu.
Nhưng ngày cứ thoát đi từng chút;
Rồi mặt trời cao. Nắng cháy tràn.
Trưa đến: thôi rồi! Bình đã vỡ!
Nửa ngày xinh đẹp đã tiêu tan!
Thong thả chiều vàng thong thả lại…
Rồi đi… đêm xám tới dần dần
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày những tháng, những mùa xuân.
Vừa mới khi mai tôi cảm thấy
Trong tay ôm một bó hoa cười.
Ngọn gió thời gian không ngớt thổi:
Giờ tàn như cánh hoa rơi…
(Xuân Diệu)
Lấy con mắt của ngôn ngữ học tri nhận xem xét, bài thơ có nhiều
ẩn dụ ý niệm, có thể kể một số biểu thức dễ thấy: Thời gian là tiền bạc (Chủ nhật
còn nguyên, còn trọn vẹn; Tôi chưa tiêu mất một giờ nào), Thời gian là sự
vận động của vật thể (Nhưng ngày cứ thoát đi từng chút; Nửa ngày xinh đẹp
đã tiêu tan; Cứ thế mà bay cho đến hết; Ngọn gió thời gian không ngớt
thổi), Thời gian là một vật thể (E dè tôi muốn giữ cho lâu), Thời gian là kẻ hủy
diệt (Giờ tàn như cánh hoa rơi). Nhưng bao trùm lên tất cả, nút bấm mở toang
cánh cửa để đi vào thế giới bài thơ là siêu ẩn dụ Đời người là một ngày, với
một số ẩn dụ kéo theo như: Ánh sáng là sự sống, Ánh sáng là hướng lên (tích
cực), Bóng tối là cái chết, Bóng tối là hướng xuống.
Có thể bàn thêm về tiêu đề của bài thơ. Giờ tàn, nếu hiểu
là thời gian (làm cho) tàn tạ, tàn úa thì cách ý niệm hóa này nằm trong ẩn dụ Thời
gian là kẻ hủy diệt, còn nếu kiến giải theo trước đây (mới khi mai,
bó hoa cười) giờ thì… (Giờ tàn như cánh hoa rơi) thì nhấn mạnh đến tốc độ
phá hủy của thời gian.
Và khảo sát thêm bài Cánh buồm nâu nữa:
Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…
(Nguyễn Bính)
Nhiều bạn trẻ cảm thụ, liên tưởng và lý giải rất hay về ngữ
nghĩa do tác dụng nhịp điệu của câu thơ cuối mang lại, cũng như xác lập mô hình
thuyền và bến trong tư duy sông nước của người Việt. Còn có thể kể thêm, Cánh
buồm nâu thay cho con thuyền, vật chứa thay cho vật được chứa (ở
đây con thuyền thay cho con người) và có thể căn cứ vào câu thơ
với kết cấu hỏi: Anh đi đấy, anh về đâu? để nhìn nhận tình cảm của
nhân vật trữ tình. Tuy nhiên có một siêu ẩn dụ chi phối mọi lý giải, phân tích
mà ít người phát hiện, đó là: Tình yêu là một cuộc hành trình, hơn thế nữa
lại là hành trình trên đường sông.
Có thể một số biện giải trên đây, trong quá trình tìm hiểu, thưởng ngoạn văn chương, bằng trực giác có người đã cảm nhận được nhưng chưa đúc kết rõ ràng thành các biểu thức.Rõ ràng ,việc khái quát thành các biểu thức, nhất là biểu thức siêu ẩn dụ, một mặt làm cho quá trình diễn giải chính xác hơn, khoa học hơn, tránh được sự áp đặt chủ quan, mặt khác, còn phản ảnh được đặc điểm của tư duy thời đại – tư duy mô hình.
2/8/2025
Trịnh Sâm
Nguồn: Trích từ tác phẩm Tiếng Việt: Lạ mà quen, NXB Trẻ 7.2025
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét