Tấm vạt giường
Nhà văn Tiểu Tử tên thật Võ Hoài Nam, sanh năm 1930, nguyên
quán: Gò Dầu Hạ (Tây Ninh)
Ông là con trai duy nhứt của Giáo sư Võ Thành Cứ, cựu giáo sư trường Trung Học
Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn. Ông tốt nghiệp Kỹ Sư, Marseille năm 1955. Dạy
Lý Hóa Trung Học Petrus Ký: 1955 – 1956. Làm việc cho hãng dầu SHELL Việt Nam từ
năm tháng 10/1956 đến 30/04/1975.
Vượt biên cuối năm 1978. Ðịnh cư ở Pháp từ đầu năm 1979. Làm việc cho hãng đường
mía của Nhà nước Côte d’ Ivoire (Phi Châu) 1979 – 1982. Làm việc cho hãng dầu
SHELL Côte d’ Ivoire từ năm 1982 đến 1991, về hưu ở Pháp.
Theo nhà báo Từ Thức, “Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối
dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam. Văn của ông là lối kể
chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị,
tự nhiên. Tiểu Tử không “làm văn”. Ông kể chuyện; không có chữ thật kêu, không
có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền
Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi
khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách. Ông viết với tấm
lòng…”
Nhà văn Tiểu Tử vừa từ giã chúng ta hôm thứ năm 18 tháng 9 năm 2025 vừa qua tại
tư gia ở Noisy-le Grand, Pháp, hưởng thọ 96 tuổi. Xin được đi lại một truyện ngắn
của ông thay cho nén hương tưởng nhớ người đã khuất.

Tấm Vạt Giường - Tiểu Tử
Hồi đó, tôi làm mướn cho ông Cả Bảy. Mấy ngày đầu, ngày nào
cũng chèo xuồng qua bên kia sông để giữ ruộng cho ổng. Hồi ổng kêu tôi làm việc
cho ổng, ổng nói: «Hổng có gì, nhưng có mặt mầy ở bển tụi nó không dám phá
lúa!.» Ổng nói ‘phá’ để tránh nói ‘ăn cắp’ nghe… nặng lỗ tai!
Mà thiệt! Công việc hổng có gì gọi là nặng nhọc. Tôi treo
võng giữa hai cây gáo lớn cạnh bờ sông, rồi nằm tòn ten trên đó ca tới ca lui mấy
câu vọng cổ, lâu lâu trèo lên cây gáo ngồi nhìn ruộng lúa minh mông kéo dài tới
rừng tràm nằm phía trong xa, xa cỡ đôi ba dặm hú. Đó là chiều sâu. Còn chiều
ngang là nằm dài theo con sông Cái, có con rạch No làm ranh phía trên, chỗ tôi
treo cái võng, và con rạch Bù Xu làm ranh phía dưới. Từ rạch No muốn nhìn thấy
rõ rạch Bù Xu phải xòe bàn tay đưa lên ngang mày che bớt ánh sáng! Nói như vậy,
để thấy ruộng ông Cả Bảy lớn biết ngần nào…
Lần đầu tiên đi với ông Cả Bảy qua ruộng để ‘nhận việc’, thấy
minh mông thiên địa như vậy, tôi hết hồn, nói:
– Trời đất! Mút chỉ như vậy, mình con coi sao thấu!
Ông Cả Bảy cười khì khì:
– Tao chỉ cần mầy qua bển cho có mặt hằng ngày chớ đâu có biểu mầy đi đánh lộn
với tụi lưu manh đâu! Cái lũ đó hễ thấy có người canh ruộng là tụi nó rút đi chỗ
khác hè!
Ngừng một chút để suy nghĩ rồi ổng nói:
– Tàm tạm vài bữa rồi tao cho đám thằng Hai Lưa ở trại hòm qua cất cho mầy cái
chòi nhỏ có tháp canh cao phía trên, để có chỗ cho mầy đụt mưa đụt nắng.
Có lẽ thấy tôi còn… ngơ ngơ nên ổng nói tiếp:
– Trên tháp canh sẽ có cái ống tre lớn làm cái mõ. Hễ mầy thấy có bóng người vô
ruộng thì mầy cứ gõ mõ liên hồi là nó chạy. Hiểu chưa?
Vậy là ít lâu sau, tôi có cái chòi tranh vách lá, có chỗ để
treo võng, có chỗ để nấu cơm, phía trước có cây cầu ván chờm ra sông để tắm gội…
Qua mùa lúa đó, ông Cả Bảy kêu tôi, nói:
– Tao thấy mầy tuy côi cút một thân một mình mà làm việc siêng năng nên tao
thương. Tao cho mầy một miếng đất bên ruộng để mầy cất nhà rộng rộng, còn lo cưới
vợ nữa chớ!
Vậy rồi mấy hôm sau, ổng dẫn nhóm chú Hai Lưa trại hòm qua ruộng của ổng, đo đạc
cặm nọc để cho tôi miếng đất nằm cạnh vàm rạch No, còn chỉ chỗ cho chú Hai Lưa
cất cho tôi cái nhà nền đất nóc tôn vách ván nữa! Tôi cảm động nghẹn lời, ấp
úng nói mấy tiếng cảm ơn mà cũng không tròn chữ tròn câu… Ông Cả cười cười:
– Mầy lo đốn cây làm rào giậu, trồng trỉa cho thành khoảnh đi, rồi tao kiếm cho
mầy một con vợ!
Nói xong, ổng cười ha hả, khoái chí!
… Ông Cả Bảy có hai người con trai đi học bên Tây rồi ở luôn ở
bển. Từ ngày bà Cả nằm xuống, ổng vẫn sống cu ky một mình trong cái nhà sàn tổ
chảng nằm cạnh trại hòm và trại cưa của ổng. Ổng thôi làm cả trong ban Hội Tề từ
lâu nhưng trong làng vẫn gọi ổng là Cả. Nghe nói ổng ‘quen lớn’ dữ lắm, thấy mấy
ông Quận ông Tỉnh thường ghé nhà ổng chơi hay cùng đi bắn le-le… Hồi tôi tới tuổi
đi quân dịch, ổng nói: «Mầy yên tâm lo canh ruộng, còn vụ nầy, để tao lo.» Vậy
rồi mươi hôm sau, ổng trao cho tôi tờ hoãn dịch!
… Cất nhà xong, chú Hai Lưa vỗ vai tôi, nói:
– Tao có một cái giường đôi bằng gỗ không xài, để tao chở qua cho mầy. Có điều
là nó chỉ còn có mấy thanh ngang chớ không có tấm vạt giường, tại mấy thằng con
tao nó lấy cưa ra làm sạp cho ghe của tụi nó. Mầy chịu khó đạp xe vô Xóm Mới
nói thằng Ba Kiên đương cho cái vạt bằng tre, rẻ hơn cái vạt gỗ mà nằm lại êm
hơn gấp bội.
Ngừng một chút rồi ổng vò đầu tôi, nói:
– Chừng cưới vợ, nhớ cho tao nhậu với nghen!
Tôi nói ‘Cám ơn chú’, lí nhí nghe chừng không rõ lắm!
… Cái giường đó ráp vô rồi thấy rộng rinh. Mình tôi ngủ thì cần
gì đến tấm vạt? Vậy là tôi thả lên hai tấm ván đủ cho tôi nằm, sung sướng vì
nghe thẳng lưng hơn nằm võng!
Tôi ngủ không có tấm vạt giường như vậy cho đến hết mùa lúa năm đó thì tôi gặp
‘Nàng’… Cũng do Trời xui Đất khiến!
Nàng tên là Huệ, mồ côi cha, con của bà Năm Căng ở xóm Lò Gạch. Nàng làm công
cho lò gạch ông Tám Tiếu. Nhờ đi chở gạch để ông Cả cho sửa lại cái đầu bờ kè
trước nhà nên tôi gặp nàng. Gặp là tôi hạp nhãn liền! Trời! Con gái nhà quê gì
mà nước da trắng bóc, còn thân hình thì cân đối thon thả kèm theo tướng đi lượn
là cứ bắt người ta phải nhìn theo!
… Vậy rồi nàng và tôi quen nhau. Vậy rồi, ngày một ngày hai,
tôi đạp xe đến lò gạch. Không có gì: chỉ cần gặp nàng để nói đôi ba câu không đầu
không đuôi, rồi chèo xuồng về nhà bên kia sông, trèo lên vọng gác ngồi ngẩn ngơ
suốt buổi!
… Vậy rồi, tôi nghĩ đến tấm vạt giường! Vậy rồi, tôi đạp xe vô Xóm Mới đặt chú
Ba Kiên đương cho tấm vạt giường bằng tre. Tuần lễ sau, tôi cuốn tròn tấm vạt
chở về nhà trải lên cái giường gỗ, nhìn nó mà nghe lòng phơi phới. Bởi vì đó là
lần đầu tiên tôi sắm một món đồ tuy không có giá trị gì nhiều nhưng lại mang đầy
ý nghĩa…
… Để tránh tai mắt, tôi và nàng thường hẹn gặp nhau ở đường
lên chùa vì đường đó vắng người và có mấy bụi tre lớn giao tàn che nắng. Hai đứa
đứng nói chuyện ‘trên trời dưới đất’ cả canh, nàng hay cầm lấy cành tre non đầy
lá vươn ra cạnh chỗ nàng đứng, lắc qua lắc lại như để đánh nhịp khi nàng nói, mắt
nàng nhìn bụi tre, nhìn con dốc lên chùa chớ ít khi nhìn tôi. Vậy mà sao tôi vẫn
nghe lòng phơi phới như được nàng nhìn thẳng vào mắt!
… Bây giờ thì rõ ràng tôi đã thương nàng, càng ngày càng
thương đậm! Mà giữ riết trong lòng thì ấm ức quá đi! Chắc phải nói ra cho nàng
biết, rồi ra sao thì ra! Vậy rồi một hôm đứng cạnh bụi tre đã thành quen thuộc,
tôi làm gan nói:
– Huệ à! Anh nói thiệt, Huệ đừng giận nghen! Anh thương Huệ
quá rồi Huệ à!
Nàng bỗng quay sang nhìn tôi, tay vẫn còn vin cành tre non, hỏi bằng một giọng
nhẹ như tiếng gió trong lùm tre trước mặt:
– Vậy sao?
Chỉ có hai tiếng nghe ngơ ngớ kỳ kỳ như vậy mà tôi lại thấy
như là một sự chấp nhận! Tôi bước lại gần nàng, nàng vẫn nhìn vào mắt tôi, cặp
môi mấp máy như muốn nói gì mà hai vành tai ửng đỏ. Đúng lúc đó, tôi hửi được
mùi con gái của nàng làm tôi choáng váng ngầy ngật. Trời ơi! Tôi muốn ôm đại
nàng để siết chặt lại trong tôi, bởi vì chỉ có làm như vậy tôi mới nói được tôi
thương nàng biết ngần nào… Nhưng tôi lại sợ làm ẩu, rủi nàng không hiểu rồi giận
rồi vùng vằng bỏ đi tuốt thì chắc tôi… chết quá! Tôi ráng kềm tôi lại, nuốt nước
miếng mấy lần mới nói được:
– Huệ à…
Nàng ‘dạ’, tiếng ‘dạ’ nghe như chờ đợi. Nàng không còn nhìn tôi mà quay về với
cành tre non. Lần nầy, nàng bứt từng chiếc lá tre rồi bỏ rơi xuống đất, giống
như nàng đếm lá!
– Huệ à! Anh muốn xin cưới Huệ…
Nói tới đó tôi bỗng nghe… hụt hơi! Nàng im lặng bứt từng chiếc lá… Một lúc, tôi
hỏi:
– Mà Huệ có ưng không?
– Biết đâu nà!
Tôi ráng sức nói một hơi:
– Anh làm công cho ông Cả Bảy. Anh có nhà có đất ở bên kia sông. Anh được hoãn
dịch không phải đi lính. Anh sẽ nhờ ông Cả đánh tiếng qua má của Huệ để xin cưới.
Mà Huệ phải cho anh biết coi Huệ có ưng hay không, cái đã!
– Ờ… Thì vậy!
Rồi, có lẽ thấy câu trả lời không mấy rõ nên nàng nói thêm:
– Tính sao cũng được!
Tôi mừng quá, nắm đại bàn tay nàng vứa lắc vừa cám ơn rối
rít! Nàng bỗng quay qua nhìn tôi, mỉm cười. Trời! Cái cười của nàng sao mà đẹp
hết nói! Tôi như bị hốt hồn, cầm chắc bàn tay của nàng mà tưởng chừng như đang
cầm cây sào cắm xuống lòng rạch để giữ cho xuồng đừng theo con nước mà bỏ bờ…
Đêm đó, trải chiếc chiếu trên tấm vạt giường, tôi nằm lên mà nghe mát rượi. Tôi
nghĩ: rồi đây, hai đứa sẽ nằm chung một vạt giường. Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng
đủ làm tôi sung sướng đi vào giấc ngủ. Cuộc đời sao dễ thương quá hổng biết?
Chuyện của nàng và tôi chưa ai biết hết thì xảy ra vụ Tháng
Tư 1975. Lúc đó, nghe tin dân miền Trung chạy rần rần vô Nam, ông Cả Bảy kêu
tôi, nói:
– Chuyến nầy, mầy đi giùm tao xuống Cần Thơ. Tao có con em mấy chục năm nay
theo chồng ở dưới. Địa chỉ nó đây.
Ổng đưa tôi miếng giấy có ghi tên họ, số nhà, tên đường:
– Tao nhờ mầy ôm một số tiền xuống đưa cho tụi nó, biểu tụi nó lo chạy về đây ở
với tao sớm sớm cho có anh có em. Có gì cũng còn có nhau còn hơn là đứa một nơi
người một ngả, loạn lạc nầy không biết đâu mà rờ. Tao có biểu tụi thằng Hai trại
hòm qua ở nhà mầy, vừa giữ giùm nhà vừa coi ruộng luôn. Đừng lo!
… Vậy là tôi lặn lội xuống Cần Thơ tìm người em gái của ông Cả.
Bà nầy có sạp vải ở chợ Cần Thơ, ông chồng là Thiếu Tá Hải Quân. Khi tôi tìm ra
được bả thì có tin thiên hạ ở Sài Gòn đang chạy di tản, làm dân chúng Cần Thơ
cũng rối ren hối hả xuống ghe xuống xuồng tranh nhau đi.
Ông Thiếu Tá Hải Quân hốt hết gia đình đem lên tàu chiến, kéo tôi theo
luôn! Đứng trên tàu, tôi nhìn đồng ruộng chạy lùi về phía sau mà chết điếng ở
trong lòng, không biết làm sao báo tin cho ông Cả Bảy và nhứt là cho Huệ…
… Vậy rồi sau thời gian nằm trên đảo của quân đội đồng minh,
tôi định cư ở Mỹ, tiểu bang Cali. Tôi làm công cho một tiệm ăn Việt Nam ở khu
Sài Gòn Nhỏ, rửa chén quét dọn lau nhà… Lương lậu không bao nhiêu nhưng được bà
chủ cho ở trong một phòng nhỏ nằm cạnh nhà bếp, ở để làm gác-dan cho bả luôn!
Thời gian sau, khi đã ổn định đời sống, tôi có gởi thơ về nhưng không thấy hồi
âm. Tôi biết làng tôi nhỏ bé lại nằm tuốt trên vùng Ngọn – gọi là ‘Ngọn’ bởi vì
nằm trên ngọn sông Vàm Cỏ – giáp ranh với đất Cao Miên. Hồi thời trước, trong
làng không có nhà Bưu Điện nên mỗi tuần một lần ông Sáu làm Biện trong làng phải
đạp xe xuống quận cách đó mười mấy cây số để lấy thơ ở nhà bưu điện đem về để
trong nhà làng. Dân chúng cứ tự động đến coi trong đống thơ, cái nào mang tên
mình thì lấy, có khi lấy giùm hàng xóm hay họ hàng bạn bè nữa! Tôi nghĩ chắc
bây giờ cũng vậy thôi, thơ tôi gởi không đến tay Huệ thì làm gì có hồi âm được?
Dầu vậy, tôi vẫn tin tưởng rằng nàng không bao giờ quên tôi,
cũng như tôi lúc nào cũng nghĩ tới nàng. Tôi hay nghe mấy người có đọc sách nói
‘Lời thề trăm năm.’ Nàng và tôi đâu có thề thốt gì đâu, nhưng câu nói ‘Tính sao
cũng được’ và cái mỉm cười tiếp theo sau đó của nàng ở đường lên chùa hồi tôi
ngỏ ý xin cưới… tôi đã khắc ghi vào lòng. Như vậy, chẳng phải là một ‘Lời thề
trăm năm’ hay sao?
Nhứt định tôi sẽ trở về Việt Nam để cưới Huệ. Để hai đứa cùng nằm chung một vạt
giường, cái vạt giường đương bằng thanh tre già chuốt giẹp giẹp, nằm vừa êm vừa
mát. Để thấy cái mà mấy người biết đọc sách gọi là ‘Hạnh phúc lứa đôi’ đối với
tôi, nó chỉ vỏn vẹn là sự sung sướng được chia đôi với người mình thương một tấm
vạt giường… Mà muốn được vậy, tôi phải có tiền. Vậy là tôi để dành tiền, cắc ca
cắc củm!
Nhờ hỏi thăm mấy người có về Việt Nam nên tôi đã ước lượng được
số tiền cần thiết để làm đám cưới và để hai vợ chồng tôi có một số vốn làm ăn.
Vậy mà phải năm năm sau tôi mới có tàm tạm đủ! Chừng đó, tôi mới dám ‘lên kế hoạch’:
nhờ ông Cả Bảy làm chủ hôn bên đàng trai, rước dâu về nhà của ổng, đãi đằng hai
họ ở đó, xong rồi tôi chèo xuồng đưa cô dâu về nhà bên kia sông để tôi khoe với
nàng tấm vạt giường mà tôi sắm cho hai đứa, từ hơn sáu năm nó vẫn nằm chờ…
Ngồi trên máy bay về Việt Nam, trong đầu tôi sắp xếp. Trước
tiên là về nhà tôi để nghỉ ngơi cho tỉnh mỉnh. Sáng hôm sau sẽ đi thăm ông Cả Bảy,
còn xế chiều thì qua nhà nàng vì giờ đó nàng mới từ lò gạch về nhà, tôi sẽ bất
thần bước vô nói lớn: «Huệ ơi! Huệ! Anh về rồi nè!» Tưởng tượng đến đó, tôi bỗng
ứa nước mắt! Đầu óc tôi tự nhiên sao mù mờ. Làm như bao nhiêu năm nay tôi chỉ
chờ có như vậy! Tôi thấy tội nghiệp tôi, tội nghiệp nàng: nếu không có cái ngày
nghiệt ngã 30 Tháng Tư 1975 thì làm gì hai đứa phải cắn răng chịu đựng khắt khe
cỡ nầy?
… Làng tôi bây giờ lạ hoắc. Không phải có thêm đường ngang nẻo
dọc mà thấy đầy cờ xí biểu ngữ, loa trên loa dưới ồn ào không giống cái gì hết!
Tôi xuống xóm chợ nhờ một chị chèo xuồng mướn đưa tôi sang sông.
Khi xuồng vừa cập vô cây cầu ván thì có con chó chạy ra sủa rân, rồi hai ông bà
già từ trong nhà bước ra dòm. Té ra là chú thím Hai Lưa hồi xưa chủ trại hòm của
ông Cả Bảy! Chú Hai nhìn ra tôi ngay. Ổng la lên:
– Trời đất ! Mầy còn sống hả? Ở đâu mà về vậy?
– Dạ ở Mỹ.
– Cha… xa ớn há!
Rồi chú lật đật vừa la chó vừa bước xuống cầu phụ tôi đem hành lý lên. Trước
nhà thấy có phơi chiếc chiếu với hai ba cái gối. Trong nhà vẫn như xưa, cái giường
gỗ vẫn nguyên chỗ cũ với tấm vạt giường tôi đem về từ trong Xóm Mới. Chỉ có
thêm là hai cái võng nằm song song gần đó, còn thì bàn ghế tủ v.v… không có gì
thay đổi. Tôi xúc động đến nghẹn lời. Chú Hai nói:
– Mầy uống miếng trà rồi nằm võng nghỉ lưng. Trong làng tưởng mầy chết rồi chớ,
đâu dè… Để tao kể mầy nghe…
Vậy rồi chú nằm trên võng cạnh tôi, vừa hút thuốc vừa kể:
– Hôm mầy đi Cần Thơ, cha con tao theo lời ông Cả biểu, thay phiên nhau qua đây
giữ nhà giữ ruộng. Kế đó, tụi nó – tụi cách mạng ớ! – tràn vô làng, bắt hết hội
đồng xã, bắt luôn ông Cả Bảy trói bằng kẽm gai thành một dọc, chở đi mất. Rồi tụi
nó chiếm hết, nhà cửa đất đai ruộng vườn, đuổi tụi tao ra để lấy trại hòm. Nhờ
có cái nhà của mầy mà tụi nầy dọn qua ở tạm. Tao và hai thằng con tao cất thêm
cho cái chòi giữ ruộng rộng ra để đồ đạc của tụi tao và để hai thằng con tao có
chỗ hành nghề thợ mộc của tụi nó. Hai thằng nầy coi vậy mà gan! Tụi nó vượt
biên rồi định cư ở Úc. Bây giờ, tụi nó có xưởng mộc ở bển, coi bộ làm ăn khá!
Thấy lâu lâu gởi tiền về nhờ thằng bạn tụi nó ở thành phố chạy Honda lên đưa! …
À ! Mầy biết hông? Tụi cóc cắn cách mạng có kêu tao về trại hòm làm cho tụi nó,
tao đấm thèm! Mầy nghĩ coi: trại hòm mà cũng bày đặt trương biểu ngữ đề ‘Hạ quyết
tâm hoàn thành tốt kế hoạch của Nhà Nước.’ Mẹ !… Hòm chôn người chết mà cũng vô
kế hoạch nữa thì khùng hết nước nói!
Còn chuyện nầy chắc mầy chưa biết: con Huệ, con bà Năm Căng…
Hai tiếng ‘Con Huệ’ làm tôi giật mình. Tôi nhỏm dậy, lắng tai nghe. Chú nói tiếp:
– Mấy tháng sau giải phóng, không biết nó nghe lời ai mà ôm gói xuống thành phố
nói kiếm việc làm rồi lặn mất luôn cho đến năm ngoái đây, nó trở về mà đi bằng
xe hơi nhà có tài xế, trên băng sau có người đàn ông có vẻ ông chủ. Mầy biết,
trong làng chỉ có thằng Cói gia nhân của ông Cả Bảy là được ổng sắm cho chiếc
Honda để đưa ổng đi đây đi đó, chớ đâu có ai có xe hơi. Vì vậy, khi con Huệ đi
xe hơi thẳng vô xóm Lò Gạch là thiên hạ để ý. Bà Năm Căng kể lại nói bả nhìn nó
không ra, tưởng là một bà nhà giàu nào đó đi lầm nhà! Chừng nó xưng tên, mẹ con
nó và bầy em nó ôm nhau khóc làm hàng xóm chạy qua mừng cũng rớt nước mắt. Nó
đem cho má nó hai bao đồ rồi nhét trong túi áo má nó một cọc tiền. Sau đó, nó
chỉ nói được có mấy tiếng ‘Con lạy má! Con lạy má!’ rồi vừa khóc vừa chạy vội
ra xe lên ngồi cạnh ông người Á Đông ở băng sau, tài xế rồ máy chạy ào đi
gấp. Từ đó tới giờ không có tin tức gì hết! Còn đồ nó cho má nó toàn là tơ lụa
mắc tiền nằm kín trong từng bao ni-lông có in nhiều chữ tàu. Thầy Ba trên chùa
đọc rồi nói đó là sản phẩm cao cấp của Thượng Hải…
Tôi ngả người nằm xuống võng mà nghe lùng bùng hai lỗ tai, chết điếng ở trong
lòng. Chú Hai Lưa hỏi:
– Mầy còn nhớ con Huệ hông?
Tôi ‘dạ’, tiếng dạ bị nước mắt trào lên chận ngang. Tôi nuốt xuống mà nghe miệng
mồm đắng chát. Không kềm được nữa, tôi đưa hai tay lên bụm mặt. Chắc chú Hai
Lưa thấy, hiểu, nên nghe chú tằng hắng một tiếng rồi làm thinh…
Trên máy bay trở về Mỹ, tôi nhìn qua cửa sổ thấy nhà cửa ruộng
đồng cây cối mờ lần mờ lần rồi mất hút… mà tôi nghe buồn rười rượi. Ở tuốt dưới
đó, trong một làng quê nằm xa mút trên vùng đất Ngọn, tôi đã bỏ lại một tấm vạt
giường, tấm vạt giường tưởng để nằm chung với người con gái nhà quê mà tôi
thương, đâu ngờ chuyện hai đứa chưa kịp thành duyên thành nợ thì nàng đã như
chiếc xuồng bỏ bờ mà trôi theo nước, đành đoạn trôi theo nước…
Mối tình dành riêng cho nàng mà tôi giữ miết ở trong lòng từ bao nhiêu năm, giờ
nghĩ lại sao thấy quá khù khờ! Dầu vậy, tôi vẫn muốn gặp nàng, gặp một lần
thôi, để chỉ hỏi có một câu: «Tại sao?… Tại sao?… Tại sao?…».
Nghĩ đến đó, tự nhiên tôi trào nước mắt…
24/9/2025
Tiểu Tử
Nguồn: https://dutule.com/
Theo https://www.tongphuochiep.com/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét