Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2025

Thy Nguyên và cuộc đối thoại nhà văn

Thy Nguyên và cuộc
đối thoại nhà văn

Tôi gặp Thy Nguyên lần đầu trong một cuộc vui bên hồ Đại Lải tại nhà anh Tiến Thanh. Chị tặng tôi Phố vợ cũ, tập thơ mới nhất của chị khi ấy. Trái với sự chuẩn bị ban đầu (của tôi) về một cuộc “chạm trán với Hải Phòng” (ngông, bạt, cá tính hay cái gì, tương tự thế), Thy Nguyên dường như luôn tự khép mình, khiêm nhường giao tiếp với xung quanh (sau này tôi thấy càng như vậy).

Nhà thơ Thy Nguyên tên thật là Phạm Thúy Nga, sinh năm 1981 tại Hải Phòng, công tác trong ngành di truyền học, hiện đang làm Trưởng phòng giám định ADN tại Hải Phòng, Nam Định và Cam Ranh. Tác phẩm chính đã xuất bản: Sân người (thơ, 2010), Cầm mưa (thơ, 2013), Phố đông người (thơ, 2014), Ga nổi (thơ, 2015), Đời đá (trường ca, 2017), Người dưng (thơ, 2019), Gửi (trường ca, 2021), Phố vợ cũ (thơ, 2023), Phía biển (trường ca, 2025), Mạch sống (trường ca, 2025)…

Sau những khoảng lặng ồn ào, chị lặng lẽ bên hồ thả hồn theo làn sương mỏng và khói thuốc. Lâu lắm, tôi mới thấy một hình ảnh một phụ nữ trầm mặc mà thảnh thơi như thế. Nào có biết đâu, “người thơ phong vận”, định mệnh như kiếm sắc, đằng sau một Thy Nguyên an nhiên, lại là một Thy Nguyên “nửa hồn thương đau” ấy.

Thơ Thy Nguyên đa dạng, song thể hiện sâu sắc và tập trung hơn những căn mệnh và chiều kích tâm tư người nữ. Ở Thy Nguyên, sự tinh tế, mẫn cảm đến xót xa dường như luôn hiện diện như một mã gen ngầm trong tâm hồn người con gái tự thuở xa xưa: “Em thiếu cha. Tuổi thơ nhòe hoa dại/Nhẩn nha lời ru áp ngực Mẹ mà no/Lênh khênh bèo dâu, tập tênh hoa gạo/Tháng Ba võ vàng, run run mưa xuân” (Lời ru tháng ba); “Bố đừng buồn những hoàng hôn đổ gẫy/Những cành non đời dập vùi cát bỏng/Sáng nay vàng xưa ruộm ngõ/Qua vườn nhà, qua ngõ tắt hanh hao” (Bố ốm)…

Nhưng nhân vật trữ tình trong thơ Thy Nguyên chủ yếu xuất hiện trong bản mệnh đa đoan, trong những vùng đau của người thiếu phụ: “Trăng lạnh thế/Và mưa già thế/Chỉ hàng cây cúi lặng bên đường/Và cỏ nữa díu dan ngày em hạnh/Chưa một lần dự cảm đa đoan/Và rồi gió/Và rồi anh thay áo/Em uống son quên bặt những ân cần/Rượu uống em, làm môi quên đỏ/Quên cả lần chúng mình có con…” (Trăng lạnh & mưa già); “Anh tưới rượu trên tàn thuốc lá/Khói thuốc ngập ngừng không lối rẽ/Như em ngập ngừng giữa sảnh tòa/Ở lại hay ra về?/Hay đi trên dòng sông đàn bà cũ?” (Đong đếm);

“Hải Phòng có phố vợ cũ anh biết chưa?/Nắng cứ mềm uống những lần em khóc/Trăm hiu hắt đuổi nhau thành mưa móc/Phố gối đầu lên sóng tắm ba mươi” (Phố vợ cũ); và trong những cung bậc khác nhau của “tiếng Kiều”: “Em là ai mà nhỡ chục nẻo đường/Tai dửng dưng nghe đời lô xô vỡ/Tay dửng dưng buông vạn ngày hong lửa/Gác lên mái nhà, lên rêu mốc xửa xưa…/Em là ai?/Là ai?/Là ai?/Chừng như tiếng con gọi cửa/Lại lắp tiếng mình và ngồi dậy tô son…” (Tự vấn); “Mẹ ơi một bóng một niêu/Soi gương vụng nhặt lấy điều hơn thua/Con giờ hai ngả gió đùa/Kéo chăn gói lại ngày xưa gối đầu” (Nhớ mẹ)…

Thơ Thy Nguyên buồn đau, chua xót nhưng không mềm yếu. Thơ chị là tiếng nói người đàn bà đủ buồn, đủ đau, nhưng cũng đủ trầm tĩnh để đi qua những sóng gió cuộc đời.

Trong không gian văn chương đương đại, Thy Nguyên là một trong số các tác giả tài năng và giàu nội lực sáng tạo bậc nhất thuộc thế hệ 8X. Bàn về thơ Thy Nguyên, có lẽ cần một câu chuyện dài. Bài viết này chỉ nói đến hai điều đặc biệt của chị. Một là, Thy Nguyên là một trong số rất ít các nhà thơ trẻ đương thời viết trường ca. Và hai, khi viết trường ca, chị đề cập một vấn đề loại biệt: “câu chuyện nhà văn”, chính xác hơn là, những trăn trở, dằn vặt về vị trí, vai trò và sứ mệnh của nhà văn trong văn chương.

Ai nấy đều biết, trường ca là một “thể loại khó”, khó viết, khó hay, khó giúp nhà văn đạt thành tựu bởi những yêu cầu, đòi hỏi đặc thù. Trường ca tự sự giờ hầu như không ai viết. Trường ca trữ tình quả là thách đố, bởi nó hoàn toàn khác với việc viết một bài thơ. Nếu trường ca chỉ là một bài thơ trữ tình kéo dài, nó rất dễ rơi vào tình trạng lảm nhảm, và nhàm tẻ. Trong bối cảnh đương đại, trường ca cũng được xếp vào thể loại “khó đọc”, ít nhận được sự quan tâm của bạn đọc phổ thông. Tiếp cận từ góc nhìn này, thấy bản thân việc dấn thân vào trường ca của nhà thơ trẻ, đã được coi là dũng cảm. Nhưng trường ca cũng là một thể loại mang tính “đai đẳng”, gọi mời, một chỉ dấu quan trọng khẳng định tài năng nghệ sĩ.

Khác với trường ca cổ điển, trường ca hiện đại có xu hướng trữ tình. Thay vì kể một câu chuyện, nó nghiêng về mạch cảm xúc, suy tư. Tuy nhiên, suy tư đó không thể thuần túy trữ tình, mà thường có một “khung chuyện” để tạo sườn. Gửi của Thy Nguyên chọn “câu chuyện” đặc biệt: câu chuyện nhà văn. Xin nói ngay, nhân vật nhà văn với tất cả tính chất xã hội – thẩm mỹ riêng có của nó, từ lâu đã trở thành một kiểu nhân vật đặc thù trong lịch sử văn chương, đặc biệt là trong văn chương hiện đại. Nhà văn là ai, anh ta có thân phận và địa vị thế nào? Văn chương được làm ra như thế nào và để làm gì?, chừng đó thôi cũng đủ gợi sự tò mò và mời gọi độc giả, đặc biệt là khi văn chương tự ý thức, tự suy tư được về thiên chức của mình.

Chọn kiểu giao tiếp trường ca, Thy Nguyên không hình tượng hóa nhà văn như một kiểu nhân vật với chiều hướng đường đời cụ thể, mà là một suy tư đậm chất trữ tình. Ở đây, Thy Nguyên không thi vị hóa mà chọn cách đối diện và đối thoại với nhà văn.

Gửi được chia làm 36 khúc, tuy mỏng về dung lượng (94 trang) nhưng giàu sức nặng cảm xúc và suy tưởng. Đọc Gửi của Thy Nguyên, có thể nhận ra, chủ đề lớn nhất, trở đi trở lại trong đây là câu hỏi “nhà văn, anh là ai”. Để rồi, từ câu hỏi ấy, các vấn đề cấu trúc bản thể nhà văn và quá trình sáng tạo văn chương lần lượt được phơi mở, giãi bày. Với Thy Nguyên, nhà văn trước hết phải là người sống tận cùng với cảm xúc và lựa chọn của mình, anh ta là người mang ngọn lửa Prometheus để tận hiến cho đời: “Người họa sĩ chọn cái chết trên toan/Anh nếu là nhà văn, hãy một lần viết như chú ngựa già thổ huyết trên sa mạc đời mình…” (Mở); “Nhà văn/Anh là ai/Anh đến từ đâu/Anh đang đi về đâu/Hãy kêu tiếng kêu của ngọn đuốc/Cháy một đời rừng/Chảy một đời sông/Cho tôi… được khóc” (Khúc 13); “Nhà văn/Anh dám gọi tiếng gọi của loài mình” (Khúc 14).

Thy Nguyên tâm niệm, bản mệnh của nhà văn là năng lực thấu cảm với nỗi đau của tha nhân, nhà văn là kẻ biết “vo cơn đau vào xác chữ”, anh không được phép bội tín chân mệnh của mình: “Nhà văn/Anh cầm bút đừng chĩa vào chính mình/Guồng máy khô dầu chững lại…/Nhà văn/Anh tôn cao chiếc gối anh nằm/Anh vo cơn đau vào xác chữ/Anh nằm thả những mê đắm xuống dòng sông cuộn xiết/Tự nhận về mình gã du mục thượng nguồn” (Khúc 1).

Viết về nhà văn và nghề văn, Thy Nguyên không lên gân, kêu gọi, mà chủ yếu là sự trăn trở với người cầm bút, với chính mình. Nhà văn sẽ là gì, nếu anh ta không “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy mọi vang động của cuộc đời”: “Tôi nghe thấy tiếng giãy giụa/Từ trăm nghìn dự án ngụy trang/Dự án xem dân như máy đẻ tiền/Dự án chết đi trong vùng tối cấm/Dự án có gang/Dự án có chiếc cổng tháo khoán/Dự án vét… Chất nước mắt thế gian vào núi buồn buốt xót” (Khúc 12); “Người ta mưu cầu trả giá chiếc bóng/Hỗn tưởng nương nhờ/Trồng lâu đài dối trá/Trồng lâu đài bất minh” (Khúc 14).

Với Thy Nguyên, sáng tạo trước hết là không lặp lại chính mình. Sáng tạo cũng đồng nghĩa với thức tỉnh. Nhà văn là người phải biết làm thức dậy những khúc quanh của lịch sử, nỗi đau quá khứ, những ẩn khuất của lòng người: “Nhà văn/Anh ăn mày dĩ vãng/Hay dĩ vãng ăn mày anh?/Mà lao xao chốn cũ/Mà ẩm mốc gập đầu?… Nhà văn/Con ngõ tối, sáng đèn góc chợ/Người lái buôn gặm chiến mã sắt/Gệch đầu cuốn chiếu/Đôi mắt đứa trẻ mồ côi thiếu mẹ/Ngủ phục bên hè/Ước mơ chúng bay nhảy/Về cánh rừng cỏ ngọt/Anh có biết không?” (Khúc 2); “Vị Xuyên/Bốn mươi năm sau mẹ già tìm con mê mải/Khóc rụng sim biên giới/Khóc bạc trắng ngàn lau/Không ai gọi tên sự thật/Không ai ôm sự thật” (Khúc 3).

 Với điệp khúc “Anh đứng đã đứng ở đâu?”, “Anh có biết không?”, “Anh có muốn nói gì không?”, “Anh đã viết gì?”, “Tôi biết”, “Tôi thấy”, “Tôi chợt thấy”, “Tôi nghe thấy”, “Nhà văn/Anh/Tôi/Và chúng ta”…, có thể nói, Thy Nguyên đã làm một cuộc tổng duyệt nhà văn, trong đó không loại trừ việc tra vấn, phơi bày “mặt trái” của anh ta – những đớn hèn, nịnh bợ, sáo rỗng, ngoa ngôn, điêu trá. Đây cũng là điều Thy Nguyên day trở, vân vi nhiều nhất. Đây đó, nhà thơ không giấu được những cắn rứt, chua xót, ê chề: “Tôi biết/Chúng ta là những kẻ hèn/Như bãi cá không ướp muối/Như bãi sình mọc đời cây dại” (Khúc 16);

“Từng lời như xiếc/Anh khen người trẻ đến chết/Anh khen người viết thơ quần chúng đến chết/Cái vỗ tay dị hợm/Vỗ vào liêm sỉ tuột trơn… Từng khệnh khạng theo nhau vung vít/Từng nắm tay mạ kiềm… Anh để rơi dưới chân mình hỗn tạp” (Khúc 4); “Nhà văn/Anh/Tôi/Chúng ta/Sũng mong manh trong màu mỡ lòng tham/Tham sống/Sợ chết/Tham bội thực/Tham men/Tham đồng tiền… bức tử” (Khúc 11); “Nhà văn/Anh/Tôi/Và chúng ta/Dự lễ hội mặt nạ/Lễ hội bưng nhau/Lễ hội những kẻ hèn/Lễ hội của những kẻ nghèo mất cắp giấc mơ/Anh thấy rõ mình không?” (Khúc 8)… Nhưng Thy Nguyên không nói về điều này như một khách thể, mà như một lời tự thú bên trong của kẻ đồng sàng: “Tôi thấy tôi hèn nhát/Tôi thấy tôi bất lực/Tôi thấy tôi đang gục giữa pháp trường/Giương mắt/Mở mày/Chết đứng…” (Khúc 13).

“Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch/Lập thân tối hạ thị văn chương” (Mỗi bữa không quên ghi thẻ trúc/Lập thân thấp nhất ấy văn chương). Đọc Gửi của Thy Nguyên, thấy thấp thoáng những suy tư (ngậm ngùi) về thân phận của nhà văn. Nhiều khi cao cả vinh quang đâu chẳng thấy, chỉ thấy phận mỏng cánh chuồn, đau đớn, bất lực, hư hao, như những ngọn gió: “Chúng ta như tầm gửi mọc trên đá/Bơ vơ trong thiên hà quyến thuộc/Bơ vơ ngõ kẻ sỹ/Bơ vơ bậc thềm liêm sỉ/Trang giấy buồn/Coăn queo” (Khúc 21); “Nhà văn/Sự nghèo đói bao đời/Cúi đầu dưới những tha hương/Tôi run lạnh dưới ánh sáng yếu ớt/của thông điệp người” (Khúc 29).

Thy Nguyên cho bản mệnh nhà văn là phải viết (nói như Nguyễn Huy Thiệp, “nhà văn sinh ra là để viết, viết cho hay, có thế thôi”). Và khi viết, hãy viết bằng trái tim chân thật và ngọn lửa bùng cháy, cho dù cái viết đó như những ngọn gió mong manh, như tiếng kinh cầu bên vực thẳm: “Hãy kêu tiếng kêu của ngọn đuốc/Thắp một đời rừng/Chảy một đời sông” (Khúc 3); “Hãy viết bằng ngọn lửa/Trải cô độc mình bằng ngọn lửa/Hãy biến lời anh thành ngọn lửa/Thiêu cháy những hỗn mang” (Khúc 6); “Thơ trong miệng/Thấy mật mình tiết ra vị đắng/Thấy gan mình tiết ra vị cay” (Khúc 19)…

Gửi là trường ca dồi dào cảm xúc và suy tưởng, mang tính thời sự về nhà văn và sứ mệnh của văn chương. Gửi hàm chứa nhiều sáng tạo thi ảnh độc đáo, được trình bày trong một giọng văn khoáng đạt, đậm chất trữ tình, khi dồn dập, khi nhẫn nại, trầm tĩnh, đôi khi chen lấn sắc thái bi ca. Gửi là tiếng nói hiếm hoi và giàu sức nặng, một cuộc đối thoại dũng cảm của nhà văn về chính mình và những kẻ mang danh phận nhà văn trong xã hội đương đại. Nó là một tuyên ngôn “văn chương và hành động” vừa dữ dội, day dứt, lay động vừa đậm tính thơ.

14/8/2025
Phùng Gia Thế

Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tấm vạt giường

Tấm vạt giường Nhà văn Tiểu Tử tên thật Võ Hoài Nam, sanh năm 1930, nguyên quán: Gò Dầu Hạ (Tây Ninh) Ông là con trai duy nhứt của Giáo s...