Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

 

Thêm một cách hiểu về Marcel Proust

Người khổng lồ bệnh hoạn của chủ nghĩa hiện đại, người cùng với Joyce đã làm đảo lộn sự hiểu biết của chúng ta về bản thân hiện tượng được gọi là văn học; tác giả của một trong những chu kỳ tiểu thuyết “đông dân cư” nhất (hơn 2500 nhân vật) trong lịch sử, không thể ngay lập tức làm mọi người hiểu rõ về mình khi ông còn sống. Cho tới tận hôm nay cũng không có quá nhiều người có thể tự hào rằng họ đã đột nhập được vào tất cả bảy tập “Đi tìm thời gian đã mất” của tác giả này…

Trong số các nhà văn vĩ đại của Pháp, Marcel Proust có lẽ là hiện tượng độc đáo vĩ đại nhất và nghịch lý nhất. Bộ sử thi “Đi tìm thời gian đã mất”, bảy cuốn, được ông viết trong hơn 14 năm – dường như bộc lộ tất cả những chuyển động cảm xúc bản năng sâu sắc nhất của tác giả, người đã tuyên bố chỉ có một cách tiếp cận độc nhất với bạn đọc tuyệt nhiên không cần tới sự che đậy: “Chỉ có một cách viết cho tất cả mọi người – viết mà không cần nghĩ đến ai, viết vì những gì quan trọng và thân thiết nhất ẩn chứa trong chính bạn”. Ấy vậy nhưng tính cách của Proust, ngay cả khi đã đọc hết bảy tập, vẫn bị che giấu bởi một bức màn khá dày.

Proust là một nhà văn dường như nếu có thể lộn từ trong ra ngoài vẫn khó nắm bắt và luôn né tránh các định nghĩa. Không phải là vô cớ khi trong tập tiểu luận phê bình “Chống lại Sainte-Beuve” của mình, Proust nhấn mạnh vào cách tiếp cận “phản tiểu sử” đối với văn học và cho rằng những sáng tạo nghệ thuật được tạo ra bởi cái “tôi” đặc biệt của nhà văn, cái “Tôi” ấy có rất ít điểm chung với “Tôi” quen thuộc với gia đình và bạn bè của anh ta trong cuộc sống hàng ngày.

Rất ít độc giả ngày nay dám làm chủ toàn bộ “Đi tìm thời gian đã mất”- một “siêu lâu đài” sừng sững như kim tự tháp Ai Cập, giữa nền văn học châu Âu. Tuy nhiên, vẻ đẹp lấp lánh của sử thi Proust là ở chỗ với bất kỳ tập nào của sách cũng đều có thể được mở ra đọc ở bất cứ đâu và sau khi đọc một vài trang, sẽ cảm nhận tác dụng làm ấm của trà với bánh quy tự làm.

Tại sao tác phẩm đáng đọc?

“Đi tìm thời gian đã mất” về cơ bản là một chuyên mục chuyện phiếm gồm bảy tập, mà chất liệu Proust đã thu gom được trong các tiệm ăn ở Paris suốt nửa đầu của cuộc đời mình để dành phần thứ hai mô tả chi tiết về những thứ khác. Nó được đặt trên lớp ren tinh xảo những trải nghiệm nhất thời của tác giả, rất nhiều trong số những trải nghiệm đó sẽ đọng lại trong tâm hồn người đọc hiện tại. Cho dù cuộc sống có thay đổi như thế nào kể từ thời Proust, nó vẫn giúp bạn nhận ra sự giàu có chính yếu và bất khả xâm phạm thuộc thế giới bên trong một người ở mọi thời điểm – khả năng khám phá thế giới nội tâm của chính bạn, và sẽ giúp chúng ta như là sự bảo vệ và an ủi chủ yếu bất chấp mọi hoàn cảnh bên ngoài.

Sự kết nối sự tinh tế ngày càng tăng trong nội tâm của Proust với các căn bệnh của ông ta – cả bệnh thần kinh phụ thuộc vào người khác (Proust, rõ ràng, chỉ đơn giản là bóp nghẹt bạn bè của mình bằng nhu cầu được yêu thương và tham gia của mình), và bệnh hen suyễn, do đó nhà văn buộc phải tự cô lập mình khỏi thế giới bên ngoài. Nhưng trước khi trở thành một người sống ẩn dật, Proust đã tích lũy được kinh nghiệm đáng kể trong việc giao tiếp với mọi người và hiểu được những chuyển động tinh thần của họ, vì vậy trên mỗi trang, bạn có thể tìm thấy những quan sát khá phù hợp về bản chất con người.

Tuy nhiên, trong văn chương của Proust, tất cả những thứ bên ngoài, sự kiện, hành động và đối thoại của các nhân vật được nhìn thấy như thể thảng thốt vừa bắt gặp ở đâu đó, vừa trò chuyện với ai đó và nói về điều gì đó, yêu cầu ai đó hay ngược lại, thất vọng về một ai đó – tất cả đều chuyển xuống làm nền,ngay lúc đó những cảm nhận chủ quan của người kể chuyện nổi lên hàng đầu được gắn với những gì có vẻ vô nghĩa như mùi và vị của mẩu bánh quy mà anh ta nhúng vào chén trà hiện ra trước mắt.

Tại sao mọi người đều nhớ về cái bánh bích quy?

Món bánh quy “Madeleine “ nổi tiếng mà đoạn biểu cảm nhất trong những dòng đầu phần đầu tiên của bộ sử dụng thi – “Hướng tới Swann” là một loại “thương hiệu” của Marcel Proust. Không một bộ bách khoa toàn thư văn học nào có thể làm được nếu không có những chiếc bánh quy này, và đối với các nhà triết học và các nhà tâm lý học, những người nghĩ về cơ chế bộ nhớ bằng cách sử dụng ví dụ về “Hiệu ứng Proust”, những chiếc bánh quy đơn giản ấy vẫn là một trợ giúp tuyệt vời:

“Mẹ mang cho tôi một trong những chiếc bánh hình tròn và có hình cái bụng gọi là “Madeleine” mà chiếc khuôn có vẻ là cái vỏ sò. Và ngay lập tức, chán nản vì một ngày buồn tẻ và viễn cảnh một ngày mai buồn hơn nữa, tôi máy móc nâng một thìa trà lên môi, và tôi làm ướt một miếng Madeleine. Nhưng đồng thời với cái khoảnh khắc khi nhấp một ngụm trà với vụn bánh chạm đến bầu trời của tôi, tôi rùng mình, choáng ngợp trước bản chất phi thường của những gì đang xảy ra trong tôi. Cảm giác ngọt ngào tràn qua tôi trong một làn sóng rộng, dường như không vì lý do gì. Nó ngay lập tức khiến tôi dửng dưng trước những thăng trầm của cuộc sống, biến nghịch cảnh của nó trở nên vô hại, sự thoáng qua của nó là ảo ảnh; giống như tình yêu, lấp đầy tôi bằng một thứ bản chất quý giá nào đó, hay đúng hơn, bản chất này không phải ở trong tôi, mà là chính là tôi. Tôi không còn cảm thấy tầm thường, bình thường, phàm tục nữa.”

Đây chỉ là những dòng đầu tiên, tiếp đó một phân tích rất chi tiết, những sắc thái tâm lý cho phép trí nhớ con người sống lại quá khứ một cách vô tình với tác động tự nhiên của việc du hành thời gian.

Ý nghĩa của tiểu thuyết của Proust là gì?

Ngay khi ở những trang đầu tiên của sử thi, Proust đi vào mối quan hệ bản năng với những chiếc bánh nướng, tiếp theo trong suốt câu chuyện, các nhân vật bây giờ và sau đó yêu những đồ vật vô tri vô giác, cũng như với các hiện tượng tự nhiên và các chi tiết phong cảnh. Ở một trong những câu chuyện đầu tiên, trong đó chàng trai trẻ Proust khởi động trước cuộc đua marathon, được gọi là “Tìm kiếm” cho anh ta – người anh hùng trữ tình đi hẹn hò bên hồ với người anh yêu:

“… khi tôi ăn tối lần thứ hai trong một ngôi nhà gỗ trên Đảo, nơi tôi rất buồn, cái hồ chưa bao giờ khiến tôi bận tâm, bây giờ bỗng trở nên dường đẹp đến mức đối với tôi ngày hôm sau tôi không thể chối bỏ niềm vui được nhìn thấy nó. Tôi đã yêu cái hồ ấy suốt hai tuần ”

Trong một câu chuyện khác, Proust cố gắng phản ánh sự quá mẫn cảm của chính mình bằng cách xây dựng câu chuyện cổ tích cổ điển: các nàng tiên “mang quà đến nôi của một em bé, mà trong tương lai sẽ tạo nên sự ngọt ngào trong cuộc sống của chúng ta.” Cùng lúc đó, anh hùng trữ tình Proust nhận được một món quà mơ hồ từ một nàng tiên kỳ lạ: “Ta là tiên nữ không thể hiểu nổi. Tất cả mọi người sẽ làm hại bạn, làm tổn thương bạn – những người mà bạn sẽ không yêu, lại thậm chí là những người bạn sẽ yêu nhiều hơn. (…) Ta sẽ cho bạn thấy vẻ đẹp của nỗi buồn, tình yêu bị từ chối, vết thương hở của bạn, nó chứa đầy sự dịu dàng đến mức bạn sẽ không thể rời mắt khỏi nó, ướt vì nước mắt, nhưng bị cuốn hút. Sự độc ác, ngu ngốc, thờ ơ của đàn ông và phụ nữ sẽ trở thành trò vui cho bạn, vì vẻ đẹp này là sâu sắc và đa dạng”.

Vẻ đẹp là một trong những chìa khóa quan trọng trong sáng tác của Marcel Proust- người đã chỉ trích khả năng tự nghĩ ra câu chuyện của chính mình. Cốt truyện chính của nó là nội bộ và nhiệm vụ chính của ông là mô tả ấn tượng cá nhân, chuyển tải bằng lời những cảm giác thú vị của mùi, hoa, hình dạng hình học và từ đó giải phóng vẻ đẹp, bị nhốt trong lớp vỏ của những thứ bình thường nhất, nhưng từng giây từng phút đập vào mắt mỗi người.

22/8/2021

Marcel Proust

Tô Hoàng dịch

Nguồn: Nhân chứng và Sự kiện - Nga

Theo https://vanhocsaigon.com/

 

Nhà văn Vũ Hạnh “ở ẩn” trong tác phẩm

Không phải ông Vũ Hạnh chơi trội, lấy tên người ngoại quốc thay tên mình trong tác phẩm, nhưng đó là một lựa chọn thú vị.

Ngày chiến tranh ở miền Nam, khi độc giả đọc tập ký “Người Việt cao quý”, ai cũng tưởng đó là của một người ngoại quốc, một nhà văn Italia tên là A. Pazzi viết. Cuốn sách khiến người Việt tự hào khi đọc, vì nó nói được nhiều đức tính tốt, trên cả tốt, là quí báu, của người Việt.

Mãi sau này, người ta mới biết, cái ông nhà văn Italia tên A. Pazzi đó chính là… nhà văn Vũ Hạnh, đang sống và viết văn tại Sài Gòn.

Không phải ông Vũ Hạnh chơi trội, lấy tên người ngoại quốc thay tên mình trong tác phẩm, nhưng đó là một lựa chọn thú vị, nó đạt “mục tiêu kép” là dấu được tên mình sau tác phẩm do mình viết, để tránh mọi rắc rối với “Bộ Hốt-Cắt-Đục” Sài Gòn hồi đó, đồng thời khi cuốn sách ca ngợi người Việt lại do một nhà văn người Việt viết, tác dụng, hiệu quả chắc chắn sẽ không bằng do một nhà văn ngoại quốc viết.

Vũ Hạnh, ngay từ một trong những tác phẩm đầu tay, truyện “Bút Máu”, ông đã viết với một phong cách “ẩn mình” và “biểu tượng hai mặt”, theo cách nói của văn học miền Bắc hồi đó. “Biểu tượng hai mặt” là một thuật ngữ lý luận văn học tù mù, đúng ra, đó là viết theo bút pháp tượng trưng, một bút pháp không còn xa lạ với văn học phương Tây từ thế kỷ 18.

Khi Vũ Hạnh dùng bút pháp này để né tránh sự kiểm duyệt khắc nghiệt của chính quyền miền Nam, thì ở miền Bắc, một số nhà văn đã khốn khổ vì lối viết này, như Phùng Cung với truyện ngắn “Con ngựa già của Chúa Trịnh”, hay Phan Khôi với truyện ngắn “Ông bình vôi”.

Dù từng bị tù tới 5 lần, nhưng Vũ Hạnh là nhà văn Việt Cộng hoạt động đơn tuyến gần như duy nhất trụ lại được ở Sài Gòn cho tới ngày 30.4.1975.

Năm 2007, nhà văn Vũ Hạnh nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.

Khi lần đầu tôi gặp Vũ Hạnh ở nhà anh Hoàng Liên, một nhà văn, nhà báo, một “nguyên” đại úy hải quân trong quân đội Sài Gòn nhưng hoạt động cho cách mạng và đã lên chiến khu sau Mậu Thân 1968, tôi có cảm giác Vũ Hạnh hơi quá giữ gìn trước anh em Việt Cộng vừa từ Rừng về thành phố là đám chúng tôi. Trong bữa tiệc mừng hòa bình, mừng gia đình sum họp do anh Hoàng Liên tổ chức tại nhà anh và mời anh em cùng cơ quan chúng tôi, Vũ Hạnh là khách mời đặc biệt, do ông là nhà văn nổi tiếng, lại là người của cách mạng, lại ở Sài Gòn suốt 20 năm mà vẫn “nguyên si” là một người Quảng Nam tỉnh, Thăng Bình huyện, cùng huyện với nhà văn Hoàng Liên. Và sau này tôi biết, Vũ Hạnh cùng huyện với anh Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên. Hóa ra, huyện Thăng Bình mà sau này tôi thường đi qua, thậm chí đi rất sâu tận xã Bình Dương anh hùng, lại là huyện có những nhà văn nhà báo nổi tiếng, như Vũ Hạnh, như Nguyễn Công Khế.

Sự dè dặt, kín tiếng mà tôi nhận thấy khi lần đầu gặp nhà văn Vũ Hạnh, thực ra, là kỹ năng của người hoạt động đơn tuyến thường có. Hoạt động đơn tuyến gần với tình báo, nếu gặp ai cũng bô bô tay bắt mặt mừng, chém gió tùm lum như tụi tôi thì… lộ hết.

Trong cuộc liên hoan ở nhà anh Hoàng Liên, tôi mới biết Vũ Hạnh là láng giềng của gia đình anh Hoàng Liên. Nhà Vũ Hạnh thuộc loại khá, so hồi đó, vì một trệt hai lầu. Hồi ở trong rừng, đọc báo Sài Gòn, tôi biết Vũ Hạnh xây được ngôi nhà này nhờ nuôi chim cút và…trúng. Hóa ra, ngoài tài văn chương, Ngài Vũ Hạnh còn rất năng động trong làm kinh tế. Nghe nói sau ngày hòa bình mấy năm, trong tình cảnh Sài Gòn cùng cả nước khốn khó, Vũ Hạnh đã năng động, lúc thì làm xà phòng, lúc lại nuôi cá trê phi, và còn nhiều hoạt động kinh tế nhỏ lẻ khác để đưa gia đình ‘vượt khó”.

Sau này, tôi tự hiểu, Vũ Hạnh sở dĩ năng động như thế vì ông vừa là nhà văn vừa là nhà báo, lại là người Quảng Nam gốc, thường rất nhanh nhạy trong làm kinh tế.

Nhà văn Vũ Hạnh không chỉ “ở ẩn” trong tác phẩm của mình, ông còn có một năng lượng lớn, một sức khỏe trên mức bình thường, dù trải qua bao thăng trầm. Năm ngoái, khi đã tròn 95 tuổi, theo anh em kể, Vũ Hạnh còn cưỡi xe honda chạy vèo vèo khắp Sài Gòn để lấy tư liệu viết sách. Năm 2020, Vũ Hạnh đã cho xuất bản tiểu thuyết “Người nhà Trời” nghe nói viết về những tay giang hồ nghĩa hiệp ở đất Sài Gòn xưa. Ông còn đang viết dở (hay đã viết xong) cuốn hồi ký kể chuyện đời mình, chưa kịp xuất bản thì ngày 15.8.2021, ông đột ngột qua đời.

Còn nhớ, ngày trước, nhà văn Nguyễn Văn Bổng (Trần Hiếu Minh) kể chuyện cho chúng tôi về thời gian hoạt động bí mật ngay tại Sài Gòn, sau khi vượt Trường Sơn vào chiến trường Nam Bộ. Ngày đó, nhà văn Nguyễn Văn Bổng đã hợp tác với nhà văn Vũ Hạnh cùng một số anh em trí thức yêu nước khác làm tạp chí Tin Văn, một tạp chí văn nghệ có xu hướng dân tộc, yêu nước và dân chủ ngay giữa lòng Sài Gòn. Dù tạp chí có đời sống không dài, nhưng đã in đậm dấu ấn trong dòng văn học cách mạng ở các đô thị miền Nam và Sài Gòn hồi đó.

Tôi may mắn có mấy người bạn thân từng tham gia nhóm Tin Văn, nên cũng biết một số chuyện.

Vũ Hạnh, đương nhiên là nhà văn nổi tiếng, nhưng cũng có thể xếp ông vào hàng ngũ những người làm công tác tình báo cho cách mạng ngay trong lòng Sài Gòn những năm tháng khốc liệt nhất. Và phải tôn vinh sự can đảm của nhà văn Nguyễn Văn Bổng, khi ông “chịu chơi” tới mức vào hẳn trong lòng Sài Gòn, nằm hầm bí mật để chỉ đạo hoạt động của nhóm văn nghệ tiến bộ Tin Văn.

Nhờ thế, tôi có được mấy người bạn thân ở Tin Văn khi họ vào R (Rừng), những người bây giờ tôi vẫn thường xuyên liên lạc dù ở nước ngoài như anh Lưu Kiểng Xuân, ở một chung cư tận ngoại thành Sài Gòn như anh Ba Khanh (Nguyễn Khắc Vỹ).

Xin vĩnh biệt nhà văn Vũ Hạnh, cầu mong ông yên nghỉ cùng những nhân vật của mình, dĩ nhiên là những nhân vật ông yêu mến.

22/8/2021

Thanh Thảo

Theo https://vanhocsaigon.com/

 

Nhà thơ Võ Văn Trực: Câu thơ cháy đến tận cùng buồn vui

Nhà thơ Võ Văn Trực sinh năm 1936, tại làng Hậu Luật, xã Diễn Bình, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Ông tốt nghiệp Trường Đại học Tổng hợp (1961) sau đó về làm ở Bộ Ngoại giao. Một thời gian sau, ông xin chuyển về NXB Thanh Niên; đến năm 1977 nhà thơ Võ Văn Trực chuyển về báo Văn Nghệ, sau đó được đề bạt Phó Tổng biên tập, về hưu năm 1999. Nhà thơ Võ Văn Trực đã xuất bản 14 tập thơ và trường ca; 16 tập truyện ngắn và tiểu thuyết; 12 cuốn sách về văn hóa văn nghệ dân gian, về quê hương Nghệ An. Ông đã được nhận 6 giải thưởng văn học do Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn nghệ Hà Nội và Bộ Giao thông Vận tải trao tặng.

Sinh thời nhà thơ Võ Văn Trực (1936-2019) luôn trầm lặng và sống với nỗi cô đơn bất tận. Ông ém tâm hồn mình vào những trang thơ. Trong cuộc sống chuyện của ông đau đáu hình ảnh quê hương và những người thân trong gia đình. Chính vì thế trái tim nhà thơ luôn dịu dàng ấm áp với nhịp điệu thân thương.

Những ký ức khắc khoải

Tôi nhớ có lần đi cùng ông về Bình Đà (Hà Đông cũ). Nói là về quê làm pháo và thêu ren làm ông mừng lắm. Ngoài hỏi han các cụ về những câu ca dao tục ngữ để ghi chép lại nhà thơ hay sục vào những ngôi đình chùa và đền thờ của làng. Thậm chí ông còn ra cả những miếu hoang gần bãi tha ma của làng. Nhưng rồi lát sau ông đứng lại thở dài và chép miệng dưới một cây đa bên quán đồng. Nhà thơ ngồi phệt xuống thềm quán rồi đọc mấy câu thơ: “Hỏi cây đa cũ đâu rồi/ Hỏi ngôi miếu cũ với lời thề xưa?/ Hỏi câu hát ví đò đưa?/Hỏi người áo trắng bây giờ nơi nao?”. Thì ra ông nhớ đến cây đa quê mình. Ở nơi đó đã mất đi những cây đa, cổng làng và cả mồ mả ông cha bị cày xới di chuyển để nhường đất cho những công trình xây dựng mới. Nỗi bàng hoàng đó hiện diện trong thơ ông như: “Một làng vui bỗng lạnh tựa tha ma/ Khi tiên tổ, ông bà không còn mộ/ Mồ côi đất đai và ngọn cỏ/ Lũ chim non khản giọng lạc bài ca”. Hơn thế, nỗi đau xé lòng khi ngôi mộ mẹ của nhà thơ cũng lưu lạc đến đâu cũng không rõ nữa. Thơ ông đã cất tiếng khóc than trong tâm trạng bất hạnh đắng cay: “Trên trần thế mười năm con phiêu dạt/ Đất nơi đâu cũng thấy mẹ đang chờ/ Hài cốt mẹ suốt mười năm lưu lạc/ Con đốt trầm lạy bốn hướng vu vơ” (Lưu lạc giữa quê hương).

Vậy là nhà thơ cứ đi tới mọi miền quê để viết bài cho báo và làm thơ vì nỗi nhớ quê hương da diết. Nhất là sau khi nhà thơ chuyển sang làm báo Văn Nghệ từ năm 1978. Ông đi nhiều viết khỏe. Đặc biệt ngoài sáng tác nhà thơ Võ Văn Trực còn viết tới 12 cuốn sách về làng quê mình. Đó là những chân dung làng Hậu Luật (Diễn Châu-Nghệ An) của ông với nhiều góc cạnh văn hóa và lịch sử. Nào là “Truyện ma làng Hậu Luật”, “Truyền thuyết núi Hai Vai”, “Cố Bợ” hay như “Chuyện làng ngày ấy”, “Huyền thoại làng quê”…

Nhịp đập trái tim nhà thơ luôn thổn thức và yêu thương cánh đồng làng, bến nước sông quê. Vậy nên mỗi khi nghĩ đến những điều mất mát vì miếng cơm manh áo mà người ta phá làng nhà thơ lại bần thần trầm lắng: “Một khoảng trời bỗng hoang vắng cô đơn/ Khi cây muỗm đầu làng không còn nữa/ Lòng tôi bơ vơ cùng tiếng gió/ Thổi về đâu? Mây trắng dạt trời xa…” (Lưu lạc giữa quê nhà).

Mong manh số phận

Cuộc đời nhà thơ luôn gặp những bất trắc trong số phận. Do đó ông càng trầm lặng với nỗi cô đơn của mình. Nhiều mất mát chồng chất theo năm tháng. Ngoài những ẩn khuất xót xa về mẹ về quê hương nhà thơ còn gặp những điều cay đắng từ gia đình thân yêu của mình. Đầu tiên là người vợ tần tảo của nhà thơ đã sớm ra đi trong cơn bệnh hiểm nghèo. Đó là nỗi cay đắng của một người chồng khi nhìn vợ mình đang chết dần từng phần. Thật buồn đau cho hình ảnh nhà thơ luôn tự ví mình “Hồn tôi như thể trái cây”. Những câu thơ “mùa thu cứ lượn vòng quanh nỗi buồn” như vận vào đời ông. Nhà thơ đã đi tìm mẹ trong cõi lòng tan vỡ: “Con đi tìm dẫm nát cỏ đồng quê/ Nén hương thầm khấn mười năm không tắt lửa/ Mẹ nơi đâu? Xin hãy gọi con về” (Tìm mộ mẹ).

Vậy mà chừng sau dăm năm khóc vợ nhà thơ đã phải khóc con cũng theo mẹ về cõi vĩnh hằng. Cô con gái tài hoa mà ông thương quý cũng lâm trọng bệnh bỏ ông mà đi. Ông và con trai còn lại sống trong nỗi cô đơn thật khắc nghiệt. Khi ấy nhà thơ đã về hưu và đơn lẻ một mình một bóng với những câu thơ khắc khoải về nỗi nhân sinh cùng quê hương. Nỗi cô đơn của mùa thu bên kia dốc cuộc đời lại càng đem lại cho ông nặng trĩu tâm can. Ông đã viết: “Đêm lạnh tựa mồ hoang/ Thịt da chừng rách xé/ Nghe im lặng thét gào/ Cùng trái tim đập khẽ” (Với trái tim mình). Nhà thơ cũng đã bao lần vượt qua khỏi bóng tối đè nặng tâm can. Nhưng thời gian khắc nghiệt và những sự vấn vương còn lưu giữ trong tâm hồn. Nhà thơ mơ: “Biết tìm đâu biết tìm đâu/ Hồn ta nghìn trận gió gào đơn côi/ Nhỏ nhoi một mảnh vườn thôi/ Mà giông bão thổi một đời chưa tan” (Vườn bão). Ông gắng gỏi tìm niềm an ủi từ thiên nhiên và những nguồn thơ còn lấp ló trong số phận mơ hồ. Từ đó những câu thơ bừng lên: “Đêm qua mưa bão tơi bời/ Vườn còn sót một trái vui trên cành/ Quả vàng như một giọt trăng/ Thực đây mà cứ bàng hoàng như mơ!”. Nỗi cô đơn trong tâm hồn thi ca của ông càng ẩn sâu trong những nếp nhăn trên vầng trán và gương mặt gồ ghề đau khổ.

Gương mặt thi ca

Dường như thơ Võ Văn Trực được chắt lọc cùng với hình ảnh mùa thu. Một sắc thu đầy ẩn ức và trăn trở. Ông đã tâm sự: “Có mùa thu thôn dã đến cầm tay/ Dìu tôi bước ven bờ sông yên tĩnh” (Triền sông sau mùa lũ). Có thể nói nhà thơ Võ Văn Trực đã dồn nén tâm trạng bấn loạn của mình ẩn sâu trong những cánh thơ mùa thu. Khi thì là sự mất mát: “Hương vườn quả chín mong manh/ Mùa thu cứ lượn vòng quanh nỗi buồn” (Hồn tôi như thể trái cây). Có khi lại là niềm trăn trở về nhân tình thế thái. Hoặc sự giày vò của lương tâm. Mùa thu đã làm thăng hoa tinh thần ngỡ như ngập lụt trong những nỗi đau mà ông phải gánh chịu. Bài thơ “Thu về một nửa” là bức điêu khắc đậm nét về chân dung thơ trữ tình của Võ Văn Trực. Bạn bè thơ chúng tôi lúc đó ai cũng thuộc ít nhất một khổ thơ trong thi phẩm này. Nhất là câu: “Anh cầm trên tay tiếng hót chim khuyên/ Đang đọng lại ngọt lừ trong quả chín/ Một nửa quả mùa thu chưa kịp đến/ Còn mịn xanh trong sắc vỏ bồi hồi”. Quả là hồn thơ tươi trẻ lãng mạn tạo nên nét ảo mộng trong hình ảnh của dòng thơ thập niên 90. Bài thơ còn có khổ kết đắc địa và tạo ấn tượng kỳ thú khi nhà thơ viết: “Anh vội vàng đi hết lòng anh/ Mà thu đến cứ ngập ngừng trước cửa/ Anh muốn hóa chim ngàn bạt gió/ Gọi thu về trọn vẹn giữa chiều nay”.

Đâu đó người đọc luôn bắt gặp những thi ảnh mùa thu xuất hiện trong những thi phẩm của nhà thơ. Chúng bao giờ cũng đem lại cảm giác cân bằng và an ủi cho những hiện thực đầy cam go mà nhà thơ đề cập đến. Đó là những “Chiếc lá nhuộm bóng chiều vàng chút nắng/ Bay vào đêm. Thu rộng đến vô cùng” (Triền sông sau mùa lũ). Hay hình ảnh thu đã ẩn sâu trong một khu vườn cây xanh mát: “Sau lưng em trĩu vườn thu quả ngọt/ Lá rải vàng như những dấu môi hôn” (Vườn thu). Và còn đâu đó nỗi thu vương vấn trong bài thơ “Trăng Tây Hồ” với những câu thơ tràn ngập không gian vàng ánh trăng: “Trái tim tôi như hồ rộng trong veo/ Êm ái bọc màn sương thu dịu mát”. Vâng cứ thế vầng trăng, mây thu và lá vàng luôn bay vào thơ ông.

Đặc biệt sáu câu thơ trong thi phẩm “Đêm cuối thu”, cho dù nhà thơ viết trước đó nhưng nó lại hiện lên như tiếng than cuối cùng của nỗi cô đơn trong những ngày cuối đời, khi ông nằm trên giường bệnh. Những câu thơ sống động theo thời gian và đem lại dấu ấn thi ca Võ Văn Trực. Người đọc đón nhận nó với nỗi niềm chia sẻ thật đẹp về một đêm thu với “Tiếng mèo kêu xé ngang đêm” để vượt qua “Chuyện đời bao nỗi đục trong/ Câu thơ cháy đến tận cùng buồn vui”. Và, cuối cùng thật khó quên hình ảnh: “Mảnh trăng rụng xuống bên trời/ Mùa thu đã chết tuyệt vời trong tôi”. Ông đã ra đi trong nỗi cô đơn tuyệt vời với mùa thu. Những câu thơ ấy sẽ sống mãi với thời gian.

26/8/2021

Vương Tâm

Theo https://vanhocsaigon.com/

 

Chất riêng trong trang văn Thanh Tịnh

Nhờ sự thành thật và cả vẻ dịu dàng, không giống một ai của Thanh Tịnh, những trang văn chương của ông sẽ tồn tại trong tâm trí nhiều thế hệ.

Năm sớm năm muộn xê xích ít chút nhưng nói chung hàng năm cứ đến khoảng cuối tháng mười một, đầu tháng chạp dương lịch, khi những chiếc lá bàng chuyển dần từ màu xanh sang màu đồng điếu, thời tiết bắt đầu ngả hẳn sang mùa đông, trời đất thấm lạnh đôi khi có thể giá rét thấu xương – thứ rét ngọt như người ta vẫn nói – thì cũng là lúc dân làm báo Hà Nội chúng tôi bắt tay vào một công việc thuộc loại vất vả trong năm là chuẩn bị những số báo Tết.

Đời làm báo những năm chống Mỹ, dù không tất bật và lúc nào cũng bị ám ảnh bởi một cuộc cạnh tranh sôi động như thời kinh tế thị trường hiện nay, song so với nhiều nghề khác trong guồng máy làm các ấn phẩm có liên quan đến chữ nghĩa, thì cũng đã là bận rộn hơn hẳn. Lo làm dâu thiên hạ mà!

Tháng nào tuần nào cũng phải tự trình diện trước dư luận và cấp trên tất cả phong độ của một kẻ đứng đắn và thành thạo trong làm nghề, kể cũng đã mệt lắm chứ. Nữa đây lại là báo Tết! Ở Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội nơi tôi công tác những năm ấy, có lệ mỗi lần Tết đến, mọi phóng viên trong toà soạn phải góp một bài để số báo có chất lượng.

Thơ thẩn còn không ngại, chứ đến truyện ngắn và các mục râu ria như giai thoại, thơ vui, câu đố, cùng nhiều thể tài gọi là tạp nhạp khác, thì quả thật viết đã khó, mà chạy ra bài lấp đầy các số báo cũng không dễ.

Hình như hồi ấy, chúng tôi thường bận tâm vì những suy nghĩ nghiêm trang, nên tay nghề xoàng xĩnh và không biết làm hàng như về sau này! Bởi vậy vừa dọn dẹp bài vở cho số Tết, vừa nhăn nhó và cứ nghĩ đến việc phải vẽ vời ra cho được dăm ba bài chọc cười mọi người, đã thấy lúng túng, bụng bảo dạ mình thì làm cho ai cười được, vì có ai làm cho mình cười được đâu!

Những lúc ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu thường nhìn cánh trực biên tập (tức là đang lo dựng các số báo) một cách thương hại, và tủm tỉm:

– Trông kia kìa, chắc cụ Thanh Tịnh đã viết được vài bài rồi, giờ lại đang viết tiếp đấy. Tết năm ngoái, đọc sơ sơ các báo, mình đếm chắc chưa đầy đủ, mà đã có đến chục bài ký tên Thanh Tịnh… Ở nhà này, về khoản làm báo, cánh cầm bút lớp sau cứ gọi là xách dép cho cụ Tịnh cũng không đáng!

Cố nhiên là Nguyễn Minh Châu không nói oan cho Thanh Tịnh chút nào. Đóng góp của ông cho các số báo Tết làm cho chúng tôi ngạc nhiên, vì như bắt gặp một Thanh Tịnh khác so với con người chúng tôi vẫn gặp. Có cảm tưởng như sau một năm dông dài, ông chợt nhớ ra phải làm việc nào đó để bù lại tháng ngày đã mất.

Và mỗi lần thấy ông vừa thở phì phì, vừa bước những bước nặng nề đi lại trong phòng để ngẫm nghĩ, rồi thỉnh thoảng lại quay vào bàn ghi ghi chép chép, rồi hào hứng cười thầm như tự thưởng cho những ý nghĩ hóm hỉnh của mình thì chúng tôi chỉ còn có cách bảo nhau rằng – hẳn ngày xưa, một ông đồ già lọ mọ lục lại đống bồ cũ, lấy ra mấy thỏi mực, mấy tờ giấy hồng điều, thử lại vài cây bút mốc meo bấy lâu xếp xó trước khi ra phố bò toài trên chiếu viết thuê các loại câu đối Tết, chắc cũng có cái vẻ mải miết tương tự.

Từ những ngày làm báo Tết ấy, tôi thường vân vi nghĩ rộng ra cả cuộc đời Thanh Tịnh để hiểu về một cách tồn tại độc đáo trong văn học.

Cuộc sống nhân loại là một sự phân công tự nhiên, song bao giờ cũng có. Và ngay trong phạm vi hẹp là từng nghề thôi, thì cũng đã có sự phân công đôi khi rất ngẫu nhiên ấy. Có người đóng góp cho cuộc đời này những chủ lực như gạo thịt nuôi sống người ta.

Lại có những người chỉ như trái ớt quả chanh, thêm thắt tô điểm bên mâm cơm, không có không chết ai nhưng sự thực là thiếu đi, cũng dễ làm cho đời sống mất hết ý vị.

Nói thế này không rõ vong linh Thanh Tịnh ở dưới suối vàng có giận không, chứ quả thật, sự tồn tại của Thanh Tịnh thời tiền chiến theo tôi hiểu là thuộc cái dạng một sự thêm thắt không thể thiếu ấy.

Đã có lúc ông làm nghề đạc điền. Đã có lúc ông dạy học. Nhưng hình như hồi tiền chiến cái nghề ông làm lâu nhất, lại là nghề hướng dẫn du lịch, một thứ công việc lang thang đây đó, góp chuyện với mọi người, làm cho mọi người vui bằng những câu chuyện nhỏ của mình.

Và cái thú của nghề này chính là ở biên độ dao động rất rộng của nó. Tán hão cho vui cũng được. Mà dày công nghiên cứu để mang lại kiến thức cho mọi người thì tâm sức bỏ ra mấy cũng chưa đủ.

Đến như đóng góp của Thanh Tịnh trong văn học – một tập truyện ngắn một ít bài thơ, tất cả đều có cái giọng bùi ngùi, và càng bùi ngùi thêm vì loanh quanh toàn kể về những con người hiền lành song bất hạnh – sự đóng góp ấy cũng chỉ là một sự thêm thắt nếu người ta tính đến số lượng ít ỏi của nó.

Có điều, nhờ sự thành thật, và cả cái vẻ dịu dàng nhỏ nhẻ, không giống một ai mà rồi những trang văn chương ấy sẽ tồn tại trong tâm trí nhiều thế hệ.

Sau khi đã đọc bao nhiêu ý tưởng quyết liệt nhất của Nhất Linh và Vũ Trọng Phụng, sau khi đã biết đến cái đậm đà duyên dáng của tiểu thuyết Khái Hưng, cũng như sau khi nghe tiếng nói thâm trầm và điềm đạm của Thạch Lam, người ta vẫn có những lý do riêng, để thỉnh thoảng tìm đến với văn Thanh Tịnh.

“Đời xếp anh tôi với Thạch Lam

Ngồi chung một chiếu hội văn đàn

Chao ôi! Chiếu đã hai lần lạnh

Còn lại mình tôi với thế gian”.

Hồ Dzếnh đã viết như thế khi Thanh Tịnh qua đời. Đọc mấy câu thơ người ta cảm nghe được một cái gì giống như lời an ủi về tình thế “cùng một lứa bên trời lận đận” của các ông, những ngòi bút không thuộc dòng chủ lưu, nhưng lại làm cho không ai quên nổi.

Trong một hồi ký về quá trình đi theo kháng chiến, Thanh Tịnh kể: Thực ra, hồi ấy (tức là cuối 1946) ông chỉ tính ra dự Đại hội văn hóa toàn quốc. Chẳng qua ngày họp kíp quá, mà tiếng súng kháng chiến ở Hà Nội diễn ra nhanh quá: Vốn tính đận đà ông không quay về kịp, nên mới có một sự nhập cuộc như chúng ta đã thấy, tức là mặc dù quê ở Huế, song Thanh Tịnh lại theo đoàn người khổng lồ của Hà Nội lên Việt Bắc, rồi có mặt trong các hoạt động kháng chiến tám năm liên tục.

Nhưng sự nhập cuộc này – một sự nhập cuộc đàng hoàng, bởi chính thức mà nói, ông là một chiến sĩ quân đội – vẫn có cái vẻ riêng rất Thanh Tịnh của nó. Thời gian đầu hoạt động văn nghệ trong các lực lượng vũ trang còn đang lẻ tẻ tự phát và lẫn vào các hoạt động khác.

Ví dụ, nhân có một đoàn tuyên truyền chính sách, hay một đoàn kiểm tra đi các địa phương các đơn vị, ở trên mới ghép thêm vào một vài chiến sĩ văn nghệ, để gây không khí. Nhưng ai ngại không biết, chứ Thanh Tịnh không ngại.

Ông thích ứng ngay được với lối hoạt động nhỏ lẻ ấy. Tới đâu ông cũng nhanh chóng thâm nhập để biến thành người trong cuộc, rồi xem có gì đáng biểu dương thì làm thơ biểu dương, hoặc có gì đáng phê phán thì viết bài phê phán. Thứ thơ dễ hiểu với mọi người ấy lại được mang “sân khấu hoá” tức không bắt người ta phải đọc thầm, mà là chuyển thành cảnh diễn, nên thông thường là được quần chúng tán thưởng.

Bắt đầu ra đời một thể tài gắn với cái tên Thanh Tịnh hồi kháng chiến chống Pháp: Thể độc tấu. Và cứ thế, cứ với độc tấu, Thanh Tịnh như một người du ca, có mặt ở nhiều địa điểm của căn cứ địa Việt Bắc.

Qua năm 1951, trong khuôn khổ của việc sắp xếp lại tổ chức nói chung, Thanh Tịnh nghe một cán bộ chính trị khuyên “Nên về lại quê hương”, thế là ông đi bộ trở vào vùng trong. Nhưng đến Nghệ An, biết vùng tự do Bình Trị Thiên chật hẹp, không có đất hoạt động, ông liền ở lại với Chi hội văn nghệ Khu Bốn.

Bên cạnh Hải Triều, Hoàng Trung Thông, Bùi Hiển, Chế Lan Viên… ông có làm thơ viết báo, nhưng chủ yếu là phụ trách văn công. Và đây một đợt công tác độc đáo: Ấy là khi hòa bình mới lập lại 1954, ông được giao phụ trách một đoàn xẩm, gồm 23 anh chị em, phần lớn là mắt kém, đi về hướng Bùi Chu Phát Diệm, lấy lời ca tiếng hát dân gian để động viên đồng bào đừng nghe theo những lời dụ dỗ di cư của kẻ địch mà hãy ở lại với quê hương.

Không biết ai đã có sáng kiến đặt Thanh Tịnh vào việc ấy?

Song quả thực, đấy là một trong những lần tài năng của Thanh Tịnh được sử dụng một cách đắc địa.

Thanh Tịnh là thế, là cuốn theo chiều gió, là ngọn cỏ gió đùa, là nương theo sự xô đẩy của hoàn cảnh mà tìm lấy tính chủ động, ở đâu thì cũng giữ lấy vai nghệ sĩ của mình, và hình như càng gặp những điều kiện sống khó khăn, không ổn định ông càng trở nên sinh động tự nhiên và nổi bật lên với khả năng thích ứng.

Ngược lại sẽ hiện ra sẽ sống khó khăn thậm chí ông yếu đuối, lạc lõng lúng túng trong những hoàn cảnh ổn định, mọi thứ sắp xếp đâu vào đấy.

Sở dĩ tôi nói vậy, vì nghĩ đến hơn ba chục năm cuối đời của Thanh Tịnh bắt đầu kể từ 1954 khi ông nhận công tác ở tạp chí Văn nghệ quân đội, rồi từ đó, về hưu.

Bề ngoài mà xét, thì sau hơn chục năm kháng chiến, làm người lính từ địa phương đến chủ lực, khi ở Việt Bắc, khi vào Khu Bốn, nay ông mới có một đơn vị công tác chuyên sâu, một nơi ở ổn định. Hơn thế nữa, từ nay, ông được làm cái nghề mà ông yêu thích, và đã tự nguyện theo đuổi, là viết văn viết báo, hỏi còn gì lý tưởng hơn nữa?

Song sự thực mọi chuyện không suôn sẻ như thế.

Những người quen biết, khi viết về tuổi già Thanh Tịnh, thường tả căn phòng của ông trong ngôi nhà số 4, ở đó rất nhiều đồ vật lịch sử “cái đĩa thời Lê, viên gạch thời Lý”, ngoài ra là ngổn ngang những vật kỷ niệm “một mảnh máy bay B.52, viên đạn ở chiến trường Quảng Trị, một con vịt nhựa sứt mẻ nhặt được sau một trận bom…”.

Và có người còn bảo là trong hoàn cảnh bấy giờ, Thanh Tịnh đã khéo tổ chức một cuộc sống riêng rất hợp lý. Có điều đấy là một cách an ủi cho người đau khổ đỡ tủi. Nên biết là ngay từ sau 1954, Văn nghệ quân đội là một cơ quan rất được ưu đãi, anh em cán bộ chiến sĩ tuy đang tại ngũ, nhưng không phải lúc nào cũng bắt buộc mặc quân phục, và giờ giấc cũng không chặt chẽ như các đơn vị hành chính khác. Chỉ riêng một việc cơ quan đặt ở ngoài thành lại không có trạm gác đi về thoải mái, đã là một ân sủng quá sức chờ đợi!

Là những người lính, nhưng hầu hết cán bộ trong cơ quan có gia đình ở Hà Nội, và sau một ít giờ sinh hoạt chung, ai về nhà nấy, thậm chí viết lách cũng có thể ngồi nhà, chỗ ngồi viết được cơ quan bố trí có để mốc ra đấy, cũng chẳng ai có ý kiến.

Chính trong không khí đầm ấm đó mà sự cô độc của Thanh Tịnh càng nổi lên rõ rệt: Hãy thử tuởng tượng, vào những buổi tối, cả ngôi nhà hai tầng thâm nghiêm sang trọng đó vắng lặng chỉ có Thanh Tịnh, với một hai đồng chí chiến sĩ khác làm công tác phục vụ ở lại.

Sau những bữa cơm chiều tẻ nhạt, có đi đâu một lát thì cuối cùng ông cũng phải trở về với dãy phố chỉ có hàng sấu lá reo, với cái cầu thang mênh mông mà bóng ông không bao giờ lấp kín.

Trong khi đó, không cần tưởng tượng phong phú gì lắm, cũng có thể hình dung ra cảnh các đồng nghiệp của mình đang vợ con ríu rít như thế nào – tất cả những chuyện này, đối với Thanh Tịnh lặp đi lặp lại hàng ngày, và một tâm hồn nhạy cảm như ông làm sao không cảm thấy xót xa cho được?

Chẳng ai có lỗi trong nỗi bất hạnh này của Thanh Tịnh cả – chẳng qua đất nước chia cắt, ông lập gia đình sớm, mà giờ vợ con lại ở tận trong kia, trong khi bọn chúng tôi trẻ hơn, bấy giờ mới bén mùi hạnh phúc riêng tư, nên tự nhiên là có cuộc sống khác hẳn ông như vậy.

Tuy nhiên sáng sáng, nỗi hào hứng của bọn tôi khi được bắt tay vào một ngày mới, đến với cơ quan với bao náo nức, quả thực là có xẹp đi ít nhiều, khi chợt thấy người đồng nghiệp đồng đội già của mình lầm lũi xách một xô nước, từ bể chứa dưới nhà lên gác hai.

Chính chúng tôi cũng muốn lẩn tránh ông, chứ không phải riêng ông muốn tránh chúng tôi. Lấy đâu ra lời lẽ, để ngày nào cũng an ủi nhau, và an ủi làm sao nổi – chúng tôi tự nhủ. Chỉ họa hoằn lắm, có đợt cả loạt anh em cơ quan cùng đi công tác, những lần ấy, mọi người như đều bình đẳng với nhau trong sự xa nhà của mình, và những buổi tối, ở nhà khách tỉnh ủy Hà Giang, hay cơ quan Hội văn nghệ Tuyên Quang gì đó, chúng tôi cùng quây quần nghe chuyện Thanh Tịnh – chỉ lúc bấy giờ, cái con người lớn tuổi nhất cơ quan mới có sự hào hứng, sự thích thảng mà ở Hà Nội, ông không bao giờ có.

Về lý thuyết mà xét, thì sự cô đơn có thể là điều kiện làm việc lý tưởng cho những ai có niềm say mê lớn. Nhưng khốn nỗi, quả thật đấy là chuyện lý thuyết, còn trong thực tế những người cầm bút ở ta hiện nay, một sự cân bằng trong tình cảm, lại là một bảo đảm tự nhiên cho sáng tác và nghĩ tới một người xa gia đình như Thanh Tịnh ai cũng hiểu ngay là “nhiều khi rỗi rãi mà không biết làm gì”.

Chẳng những thế, lại phải biết thêm là sinh hoạt văn học từ sau 1954, nhất là từ 1958-1960 trở đi, rồi trong chiến tranh, có một vẻ tấp nập riêng chỉ nó mới có.

1/9/2021

Vương Trí Nhàn

Nguồn: vanvn.vn

Theo https://vanhocsaigon.com/

 

Nhà thơ Nguyễn Thành Phong: “Sống cho trời đất xem”

Với 63 bài thơ in trong một tập sách viết trong 10 năm “Đêm ngồi ngã ba sông” của nhà thơ Nguyễn Thành Phong, (NXB Hội Nhà văn, 2021), ta thấy nhà thơ đã dụng công chọn lọc. Cách trình bày đẹp, mở từng trang độc giả thấy được nâng niu trân trọng. Tác giả không phô bày các giải thưởng và đầu sách như vẫn thường thấy sau bìa sách. Thơ cứ thế hiện ra dẫn dụ mời gọi người đọc.

Thơ Nguyễn Thành Phong nghiêng hẳn về thế sự, chỉ là cách nhìn của người đàn ông có một cái thú đi câu: “Ta từng câu tước câu quan/ mồi câu chỉ mắc thênh thang lòng mình”. Và nhà thơ không giấu được sự từng trải, khái quát về nghề làm quan: “Tước quan câu được rồi kinh/ rồi buông bỏ lại lòng mình thênh thang”. Thơ được giấu rất kỹ nỗi đớn hèn, chua xót của ham muốn dục vọng con người luôn muốn tước quan bổng lộc danh lợi. Cuối cùng cũng mở ra một cái then cửa của lòng người là muốn được sống thênh thang lòng thiện, mới là cái đích để đời, đáng sống nhất của con người.

Tôi đọc thơ, hay có thói quen cứ đọc hết chọn ra những câu thơ hay mình thích đã, rồi nghĩ xem tác giả đang phơi chữ giần sàng ra sao để cho hạt gạo thơ thơm lừng trong hơi thở.

Nguyễn Thành Phong là người dám đối mặt với bước trượt đời mình. Tôi sực nhớ ngày còn gặp nhà văn Bùi Ngọc Tấn, khi ông vừa qua nỗi đoạn trường của mình. Khi tâm sự về nghề, ông nói với tôi: “Anh thật biết ơn nhà văn Nguyễn Quang Thân, khi viết cuốn tiểu thuyết này, anh Thân dặn: “Tấn ơi phải thật bình tĩnh, thật khách quan nhé, đừng để hận thù chen lấn vào văn chương. Và anh đã viết được như vậy”. Khi đọc Nguyễn Thành Phong, tôi cũng thấy trạng thái tĩnh, và khách quan, dù người viết từng trượt trên “chiếu bê tông” buốt giá trong một khúc ngoặt của đời mình mà thơ anh đạt đến độ “thù hận nhiều đến mấy/ sẽ tan vì bao dung”.

Để sống không chỉ có lòng can đảm, độ lượng. Trời đất cũng chứng kiến sự u ẩn của một người viết, từng làm quản lý như anh, từng dằn vặt vì một nỗi buồn ám ảnh không giúp được một người bạn hiền. Bạn hiền chỉ tốt thôi, không kiếm được việc làm, rồi họ cũng sớm ra đi để lại cho Nguyễn Thành Phong những câu thơ dằn vặt mãi. Phải  có một tấm lòng tử tế mới day dứt trái tim người, mới cảm thấy bất lực khi người ta chỉ có bàn tay bé nhỏ, mà cuộc đời thì quá rộng không sao ôm xuể.

Trong một khúc quanh sai lầm của số phận, Nguyễn Thành Phong đã có những câu thơ lạc quan “Vậy thì ta hãy sống/ còn có trời đất xem”. Và thơ cầu lòng nhân, chút ánh sáng soi vào bước chân đi tới của con người cố mà học làm người. Thơ thức tỉnh người đọc ở sự nhân ái, nhẹ nhàng mà giác ngộ.

Xưa nay người ta trông trời trông đất trông mây để sống. Nguyễn Thành Phong đã lật ngược trở lại, bắt trời đất xem ta sống ra sao? Gan nhà thơ cũng to, dễ mấy ai dám thách thức giời đất bằng thơ. Giời đất hãy xem ta sống, lạc quan và cố gắng sống đẹp.

Đêm ngồi ngã ba sông – tập thơ Nguyễn Thành Phong

Trong một day trở khác về thế sự, đó là bài “Dị quan”, một bài thơ thật thấm nỗi đời cho những người từng bước trên đường quan lộ; thật không dễ viết tý nào, mà non tay dễ thành họa. Mọi ngả của lòng tham đều không thể đem lại hạnh phúc cho dân lành. Mọi thứ tham tàn đều ăn mòn vào đời sống của nhân dân lao khổ. Liệu ở sân chùa, ngay cả sân chùa còn chỗ quét hay không? Hình như rác rến, những thứ không thanh sạch vẫn vây quanh đời sống hàng ngày? Cho dù tâm thế nhà thơ là người lạc quan, là người can đảm dám đối mặt trực diện với bước trượt của mình, tự nhận mình từng trượt ngã và đứng dậy, phải sống đẹp hơn ngày hôm qua.

Nguyễn Thành Phong là người đi nhiều nhưng không thấy anh viết về sự xê dịch này, chỉ thấy trong đường biên giới của Việt Nam, về hải đảo và về biển bờ Tổ quốc. Trái tim anh đau đáu với tình yêu đất và nước mình, rộng hơn là câu hỏi tự vấn, và chất vấn người bỏ nước Việt ra đi tìm thiên đường ở 5 châu lục. Sao vẫn còn người Việt ra đi, phải đến khi dịch bệnh COVID-19 lan rộng địa cầu, cách ứng xử của người Việt với bạn bè bằng hữu, họ lại tìm cách trở về, rồi có thể lại ra đi ở lớp người khác. Đặt ra một câu hỏi bình thường, nhưng đau đớn cho nhiều phận người bỏ xác ở xứ sở xa xôi “Ngực lặng cúi trong cơ hàn xa khuất”.

Những câu thơ day dứt khôn nguôi về người Việt bỏ Tổ quốc ra đi, rồi bao phận người đang rên xiết nhớ nhung cố quốc. Phải đến khi trả giá về cách không thể tìm ra thiên đường ở xứ cờ hoa hay ở châu Âu, châu Phi, họ lại ngoái về nước Việt thở dài.

Có thể nói trái tim nhà thơ hướng nội, tìm kiếm một tình yêu đất đai, hơi thở người Việt trên đất nước Việt. Thơ anh lột tả chân dung bạn văn, ký họa được chân dung bạn bằng thơ. Khi viết về tính cách Phạm Ngọc Tiến, ngay cả khi Tiến ta nằm viện: “Giờ y tá hộ lý/ nhớ đừng cãi người ta”. Ai đã biết nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến đọc câu thơ này đều bật cười. Đúng quá, đúng Phạm Ngọc Tiến, không sai một ly. Hay như  nhà thơ xứ Thanh – Nguyễn Duy: “Thơ bụi bặm giữa trần gian lặn lội / tạc khiêm cung bên tre trúc đất làng”. Hay phác họa một người lính trẻ: “Lau mồ hôi rồi chăm con thương vợ/ đâu có dễ nổi khùng ngạo ngược bất an…/ xin hãy hỏi cái nét cười người lính”.

63 bài thơ viết trong 10 năm chắc chắn còn nhiều bài của Nguyễn Thành Phong chưa công bố, hẳn còn là “của để dành” cho một tập khác diện mạo khác. Với bút pháp chắc tay, với cảm xúc còn run rẩy nỗi đời bất hạnh, với cách nhìn biển đảo đất đai, người đọc thấy nhà thơ hướng tới nhân dân cần lao, tới nước non bình dị được bảo toàn, không cho kẻ láng giềng cướp phá: “Thêm nhiều cách để đối đầu sóng dữ/ không còn phải lo âu khi thấy bóng con người”.

Thơ anh cũng đóng góp tiếng nói bảo vệ biển đảo và đất đai của ông bà ta. Cả tập thơ mở ra một xã hội thu nhỏ, về quê kiểng, nỗi đời, thế sự và phận người ở nhiều nghề khác biệt ở trạng thái bình thản, khách quan và thơ anh cũng gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự ra đi rời bỏ Tổ quốc của một số người không biết yêu thương và trân trọng quê hương, nơi mảnh đất mình sinh ra để chạy theo những dục vọng khác. Thơ anh cũng cảnh báo về những mặt nạ khác trong đời sống mà một số người vẫn thường xuyên đeo.

Nhà thơ Nguyễn Thành Phong từng viết tiểu thuyết, viết truyện, làm báo chuyên nghiệp, và viết rất nhiều kịch bản phim, cộng với những tập thơ, cùng nhiều giải thưởng khác. Nhưng anh có vẻ thản nhiên lắm, không tính  đếm. Như thể tâm thế nhà thơ đã xem nhẹ rất nhiều thứ trong việc đời, trong đó có cả các tác phẩm văn chương, kịch bản phim mà mình cống hiến cho bạn đọc, cho người xem.

Được sống như một người viết chuyên nghiệp, đạt đến độ giác ngộ, xem nhẹ nông nỗi ở đời, thật không dễ dàng gì. Nhưng dễ mấy ai đã làm được kỹ và chăm sóc từng câu thơ, trang viết của mình, để bạn cùng nghề nể trọng, ngước lên và cúi xuống và có quyền khát vọng, sống cho trời đất xem như Nguyễn Thành Phong.

2/9/2021

Hoàng Việt Hằng

Theo https://vanhocsaigon.com/

 

Chất văn trong con người Nguyễn Minh Châu

Chất văn trong con người Nguyễn Minh Châu bắt nguồn từ một khả năng rất cần cho các nghệ sĩ. Đó là luôn biết nhìn sự vật xảy ra một cách mới mẻ.

Nhân đây tôi muốn phác hoạ lại vài nét về con người nhà văn mà đối với tôi, như sinh ra để viết văn và dù chưa xác định là nhà văn nhỏ hay nhà văn lớn thì chắc chắn đã là một nhà văn theo đúng nghĩa của hai chữ ấy.

Nghệ sĩ và thời đại

Xuân Thiều – cây bút có thời gian là bạn nối khố của tác giả Dấu chân người lính – kể lại rằng lần đầu gặp Nguyễn Minh Châu chỉ nhớ đó là một chàng trai tầm thước trắng trẻo có nụ cười rất tươi tuy dáng vẻ còn bẽn lẽn.

Quả thật chất thư sinh là một cái gì thấy rõ ở nhà văn này, chất thư sinh mà chúng ta thường bắt gặp ở những chàng trai gia đình không hẳn là giàu có nhưng ngay trong thời Pháp thuộc đã được cắp sách tới trường và biết say mê với vẻ đẹp tinh thần của con người: Họ sinh ra để cảm thụ đời sống hơn là để hành động.

Còn nhớ một trong những nhân vật chính của Dấu chân người lính chính là anh chàng Lữ, một cậu học sinh có nhiều chất thi sĩ.

“Những nét trên khuôn mặt Lữ thật là khó nắm bắt, vầng trán có lúc tối sầm rồi có lúc lại thanh thản và dưới vầng trán ấy là một cặp mắt nằm rất xa nhau, đen màu chì với vòm mắt rộng luôn luôn thay đổi màu sắc đậm nhạt và lúc nào cũng đang nhìn một vật gì đó hoặc đuổi theo một ý nghĩ gì đó“.

Có thể thấy là Nguyễn Minh Châu đã vô tình tự khắc hoạ chân dung của mình trong đoạn miêu tả Lữ như vậy.

Cái chất thư sinh này còn mãi ở Nguyễn Minh Châu, khi vui chuyện ông còn kể với tôi là những ngày mới nhập ngũ, có lần xách bát đi ăn thấy người xếp hàng đông quá đã quay về.

Nhưng cuộc chiến đấu đã dung nạp tất cả, con người thư sinh này đã đi qua cuộc chiến đấu, làm tròn mọi nghĩa vụ của mình như một chiến sĩ đồng thời vẫn giữ được cái bản chất nghệ sĩ đáng yêu.

Đó là một con người lơ mơ sự đời, sống giữa mọi người mà hồn vía để ở tận đâu đâu. Ngay giữa đám đông ông vẫn có thể chìm đắm trong những suy nghĩ riêng, có nói năng gì cũng ngúc ngắc mãi mới phụt ra một câu lạc lõng.

Sự vô tâm của Nguyễn Minh Châu kéo dài tới mức thỉnh thoảng nhà thơ Xuân Sách lại đặt câu hỏi không hiểu sao có lúc ông lại có thể trở thành cán bộ tham mưu thuộc một sư đoàn tác chiến ở đồng bằng sông Hồng.

Có điều, khi thanh thản tính chuyện quan sát sự đời, thì ông lại trở nên một người đối thoại thú vị, loại người mà người ta một khi rỗi rãi thích mò đến trò chuyện.

Thường ông vẫn tự nhận: “Tôi cũng tẻ lắm, đóng quân ở đâu xong, trở lại không ai người ta nhớ mình cả”. Song lúc cao hứng lại tự hào:

– Mình chỉ nói vài câu thế là cậu chủ nhiệm thấy tin, kỳ nào đi thăm đồng cũng rủ đi cùng.

– Hồi tôi ở đấy cậu giám đốc nông trường rất thích tôi, vừa giải quyết xong chuyện gì lại tông tốc kể ngay với mình.

Cái tài của một người biết đối thoại là đặt mình vào địa vị người đang nói chuyện để khéo léo lần ra những đầu mối mà người ấy quan tâm. Nguyễn Minh Châu chính là một người như thế, ông biết đến với người đối thoại với mình một cách tự nhiên, không cần một chút dụng tâm cố gắng.

Hơn thế nữa, ông còn biết mang lại cho đối tượng cái cảm giác như đang tự nói với mình. Hoạ sĩ Quang Thọ, có thời rất mê Nguyễn Minh Châu nôm na tổng kết: “Không thể nói dối với thằng này được”.

Chất văn trong con người Nguyễn Minh Châu bắt nguồn từ một khả năng rất cần cho các nghệ sĩ: Luôn luôn biết nhìn sự vật xảy ra chung quanh mình một cách mới mẻ.

Ông hết lòng với đời sống theo cái cách riêng của mình. Có thể bảo ông là một người rất có trách nhiệm với chung quanh với nghĩa luôn luôn ông muốn tìm ra ở thực tại những bí mật, những gì tốt đẹp. Và khi đã tìm ra thì ông dứt khoát không bỏ qua và phải nói to lên cho mọi người cùng thấy.

Chẳng phải là khiêm tốn vờ vịt gì, Nguyễn Minh Châu tự kể: “Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt đến ma quỷ. Sau này lớn lên đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người, tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt được vào lỗ”. Phải nhận đó là một nét tính cách có thực.

Nhưng nên nói thêm rằng đằng sau sự nhút nhát đó lại là khả năng chăm chú theo dõi cuộc đời chung quanh, vui sướng giận hờn vì nó như trên tôi vừa nói, và nhất là cái quyết liệt trong việc đi đến cùng trong suy nghĩ.

Trong sự lắng nghe mọi người, ông vẫn giữ riêng cho mình những ý kiến riêng, thậm chí trong một lần nói chuyện riêng với tôi ông còn tự hào một cách chính đáng rằng vẫn luôn luôn giữ được một khả năng hoài nghi. Dường như sau những phút giao cảm với đời sống ông lại để hết tâm sức vào cái việc quay về với thế giới riêng của mình trước khi cho nó hiện hình trên mặt giấy.

Một khía cạnh nữa làm nên khí chất nhà văn của con người này: Ông có một cảm quan ngôn ngữ tinh tế. Trong những lúc xuất thần, ông nói đầy thuyết phục, giá kể có cách nào đó ghi ngay được những điều ông nói thì nó cũng đã duyên dáng tự nhiên như một thứ văn viết điêu luyện. Bản thảo ông gửi cho cánh biên tập chúng tôi thường chỉ được ông viết một lần, tuy có gạch xoá song nói chung vẫn sáng sủa mạch lạc.

Đi dần tới một tư duy văn học hiện đại

Một lần nào đó trong câu chuyện tạt ngang với tôi, nhà thơ Lê Đạt ngẫu nhiên nhận xét: “Quái, mình để ý thì thấy Nguyễn Khải không chịu thay đổi gì trong cách viết, chứ đọc Nguyễn Minh Châu mà xem, tay ấy có thay đổi”.

Tôi không cãi lại Lê Đạt, trong bụng nghĩ nhận xét trên là oan cho Nguyễn Khải, song với Nguyễn Minh Châu thì lại quá đúng. Trong mấy chục năm liên tục cầm bút, tác giả Dấu chân người lính đã thay đổi khá nhiều, tuy rằng cũng chỉ thay đổi trong điều kiện mà con người ông có chuẩn bị.

Ở trên, tôi đã kể là Nguyễn Minh Châu đến với các buổi “giao ban” của anh em đồng nghiệp với đủ bộ mặt khác nhau. Có lúc ông im lặng ngồi nghe. Lại cũng có lúc thao thao bất tuyệt mọi chuyện. Với năng khiếu văn học bẩm sinh, nói cái gì Nguyễn Minh Châu cũng hay ví von, để tạo nên hình ảnh. Kể ra, lúc rỗi ngồi nghe cũng thú vị. Nhưng cũng có lúc không hợp.

Trong cơ quan tôi hồi đó, có nhà phê bình Nhị Ca vốn rất từng trải, lại có cách sống thiết thực nên rất nhạy với chuyện này. Thấy Nguyễn Minh Châu bắt đầu mơ màng như người say thuốc lào loạng choạng trong lối nói lối nhận xét rất chủ quan của mình, Nhị Ca tủm tỉm không nói gì, chỉ quay ra làm nốt ít việc riêng đang làm dở, như biên tập nốt mấy trang bài, hoặc dọn dẹp ngăn tủ, chờ cho Nguyễn Minh Châu nói hết mới buông một câu nửa nạc nửa mỡ:

– Cái ông Châu này mải sống trong cái thế giới văn chương ông ấy đang viết nên quên hết cả lối nói thông thường hay sao ấy, anh em ạ.

Có lần, chưa để Nguyễn Minh Châu kịp bắt sang một câu chuyện mới, Nhị Ca đã hoa tay ngăn lại, và “phang” một đòn vỗ mặt:

– Thôi đi ông. Lại sắp làm văn tả cảnh. Sốt cả ruột!

Trong lúc Nguyễn Minh Châu vẫn thản nhiên, chỉ há hốc miệng cười trừ thì Nguyễn Khải ngồi cạnh mới thật sung sướng vì lối trừng trị thẳng tay của Nhị Ca, cứ gọi là rũ ra mà cười. Nguyễn Khải dạo này đang chủ trương phải viết cho thật trực tiếp. Anh ấy đi ra cửa. Gió thổi mạnh… Thế là đủ, chứ không phải uốn éo gài thêm những hình dung từ cho thêm văn hoa.

Và Nguyễn Khải dẫn chứng: Đọc bản thảo của các nhà văn lớn người ta thường nhận thấy những đoạn văn chương véo von lại là những đoạn bị gạch đầu tiên. Còn Nguyễn Minh Châu, điểm xuất phát của ông là một cảm quan văn học nhiều phần cổ điển.

Cái lý của Nguyễn Khải không ai bác bỏ được.

Song lại phải nói ngay rằng ở tác giả Dấu chân người lính còn có một phương diện khác như ở trên chúng ta vừa thấy, và hoàn toàn có thể bảo đó là một biểu hiện khác của tinh thần hiện đại. Luôn luôn nghiền ngẫm về nghề và tự tin ở con đường độc đáo của mình, có lúc ông đã đi tới những quan niệm mà những người khác phải nhiều năm lăn lộn với sách vở mới đi tới.

Quá trình hiện đại hoá tư duy văn học của Nguyễn Minh Châu đánh dấu một quá trình làm việc tự nhiên song phải nói là vất vả của một người tự học. Ông không có may mắn là qua tiếng Pháp đọc rộng ra nhiều tác phẩm nước ngoài như Nguyễn Khải. Nhưng các bản dịch có giá trị thì không cần ai mách, ông nghiền ngẫm rất kỹ.

Một trong những cuốn sách ông thích từ hồi ấy là Những người chân đất của Zaharia Stancu và do Trần Dần dịch ra tiếng Việt. Còn bản dịch tiểu thuyết Tấc đất của G.Baklanov thì là cuốn sách ông đút trong ngăn kéo hồi đang viết Dấu chân người lính. Có thể nói do sống kỹ sống hết lòng với trang viết của mình, ông lại tìm thấy sự hỗ trợ ở cả những trang sách tưởng rất xa lạ ấy.

Cái mạnh của ngòi bút Nguyễn Khải là cái gì cũng phải rạch ròi sáng rõ. Nguyễn Khải không biết tới những hoàn cảnh mù mờ, những nhân vật lửng lơ mà người ta chỉ biết mô tả chứ không cắt nghĩa ngay được. Nhưng đó cũng là chỗ yếu của tác giả Xung đột.

Nguyễn Minh Châu thì khác. Loại nhân vật như lão Khúng lôi cuốn sự say mê của ông. Trong đời sống hàng ngày ông đã thích những con người có hình có khối kỳ lạ, những khung cảnh mù sương mà bản thân ông chỉ biết đi theo và thích thú quan sát bằng tất cả bản năng sẵn có.

Trong hoàn cảnh của những năm từ 1985 về trước, ông không tiện nói nhiều về những hình ảnh đa nghĩa cũng như quan niệm về sự kỳ dị của đời sống. Nhưng đó là một lối tư duy có thực ở ông và nó là một cái gì bẩm sinh chứ không phải học đòi đâu hết.

Nhân nói đến khả năng bùng nổ tự nhiên tự phát trong quan niệm nghệ thuật ở Nguyễn Minh Châu, tôi nhớ tới câu chuyện của một tiến sĩ văn học tốt nghiệp bên Pháp. Theo bà trong số các văn phẩm của Nguyễn Minh Châu, thì Cỏ lau có ý nghĩa quan trọng hơn cả. Khi tôi hỏi ngay rằng có phải ý ở đây muốn nói truyện vừa này nêu ra một cách nhìn khác đi về chiến tranh thì bà bảo không phải. Hãy đọc lại những trang sách đầu tiên.

Điều thú vị là ở đó tác giả tả một hiệu ảnh mọc lên ở một vùng hôm qua bom đạn dày đặc và con người ta phải mất công lắm mới tìm thấy khuôn mặt của mình. Vậy là thấy đặt ra cái nhu cầu là phải có văn học, một chủ đề chỉ có ở văn học hiện đại và có lẽ phải trong chặng cuối của quá trình sáng tác Nguyễn Minh Châu mới đi tới.

Có thể mạnh dạn nói về mặt quan niệm sáng tác, tác giả Cỏ lau đã đi xa nhất trong số các nhà văn đương thời? Đúng vậy. Thế nhưng tôi biết một sự thực khác: Sự kiện B.52 Mỹ đánh vào Hà Nội (tháng chạp 1972) từng để lại trong Nguyễn Minh Châu một ấn tượng sâu sắc. Có đến mấy tháng sau, mỗi khi hồi tưởng lại sự kiện ghê gớm này, Nguyễn Minh Châu vẫn thường nói với tôi:

– Những ngày ấy, vô tình thế nào, mình lại đi chụp một cái ảnh. Lúc ra lấy, lão thợ ảnh bảo làm chưa xong, chỉ thấy thằng con lão bưng ra một chậu nước, trong đó những mặt người cái nổi cái chìm, cái lật lên, cái úp xuống, còn ảnh của mình thì lẫn vào đâu, không tìm thấy.

Tức là, nếu coi đây như một thứ mô típ thì Nguyễn Minh Châu đã trở đi trở lại với nó nhiều lần trước khi đưa nó vào Cỏ lau. Trong khi mải mê hướng ngòi bút viết ngay về đời sống trước mắt, tư duy nghệ thuật ở nhà văn vẫn có những sự vận động tự thân như nó phải có.

5/9/2021

Vương Trí Nhàn

Theo https://vanhocsaigon.com/

 

Biên niên nhà văn Nguyên Ngọc

Hôm nay, ngày 5.9.2021, kỷ niệm sinh nhật 90 tuổi của nhà văn Nguyên Ngọc. Ông là nhà văn, nhà báo, dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa và giáo dục. Nhiều năm phục vụ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, được phong hàm Đại tá. Sinh năm 1932. Quê quán: Quảng Nam. Tên thật: Nguyễn Văn Báu. Bút danh: Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành.

Nguyên Ngọc là một trong số ít nhà văn Việt Nam mà văn nghiệp không bị đứt đoạn bởi bất cứ lý do nào: chiến tranh, biến động thời cuộc, tuổi tác…  

Gia nhập Quân đội Nhân dân (1950), chủ yếu hoạt động ở Tây Nguyên.

Trước năm 1962 (trước khi rời miền Bắc vào chiến trường miền Nam)

Tập kết ra miền Bắc (1954). Phóng viên quân đội. Viết tiểu thuyết Đất nước đứng lên dưới bút danh Nguyên Ngọc và được Giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam (1955). Trong những truyện Nguyên Ngọc viết giai đoạn này gây chú ý là tập truyện ngắn Rẻo cao tạo được tiếng vang về văn phong; truyện Mạch nước ngầm gây nhiều tranh cãi vì đã đề cập khác với nhận thức của số đông thời ấy về cách nhìn con người, kể cả con người có thành tích, danh hiệu.

Trước năm 1975 (trước khi chiến tranh kết thúc và đất nước tái thống nhất)

Hoạt động ở chiến trường Khu V viết văn với bút danh Nguyễn Trung Thành. Tác phẩm được phổ biến và nhiều người biết tới: Đường chúng ta đi (bút ký, 1965), Đất Quảng (1971, tiểu thuyết, tập 1), Rừng xà nu (tập truyện ký, 1969, Giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu, Giải thưởng Hoa Sen của Hội Nhà văn Á Phi).

“Nguyên Ngọc là người có lòng yêu nước nồng nàn, cương trực, có những suy nghĩ sâu sắc nhằm đóng góp cho đất nước” – Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước

Trước năm 1986 (trước thời kỳ Đổi mới)

Là Đại biểu Quốc hội khóa IV, Bí thư đảng đoàn kiêm Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam; viết và trình bày bản Đề dẫn thảo luận tại Hội nghị Nhà văn đảng viên (từ 10.3 đến 12.3.1979).

Trong Đề dẫn 1979 này, bên cạnh việc khẳng định những thành tựu của văn học nghệ thuật đóng góp vào công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc, còn đề cập đến tình trạng trì trệ, khủng hoảng của văn học: “có nhiều sách nhưng không có tác phẩm gây được thành “sự kiện văn học” mới, sách viết ra không để lại được dấu vết sâu sắc, đậm nét trong đời sống tinh thần của xã hội; tình trạng không ít phổ biến là “người viết vẫn cứ viết nhưng không thật tin ở chính điều mình viết ra”. “Người là muối mà chính người lại không mặn thì biết lấy gì để muối người”. Văn học, nói theo một cách nào đó là lòng tin. Không có lòng tin lớn thì không bao giờ có thể có văn học lớn.

Từ thực trạng đó của văn học những năm đầu sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, Đề dẫn nêu ra suy nghĩ: nhiệm vụ của nghệ thuật không chỉ là ở chỗ biểu hiện hiện thực như nó đã có, một hiện thực tĩnh tại, mà chính là ở chỗ mô tả hiện thực như là một cái gì có thể thay đổi được và bồi dưỡng lòng tin, sự khát khao mãnh liệt muốn thúc đẩy sự thay đổi ấy.

Đề dẫn cũng đã mạnh dạn chỉ ra những nguyên nhân góp phần vào sự “trì trệ” và “khủng hoảng” của văn học. Đó là sự thô thiển kéo dài trong công tác lý luận và phê bình văn học, trước hết ở một điểm rất cơ bản: quan niệm về chức năng của văn học. Quan niệm này đã dung tục hóa mối quan hệ giữa hiện thực và văn học, nó tuyệt đối hóa hiện thực, nó buộc văn học phải khiếp nhược trước hiện thực, buộc người nghệ sĩ phải khiếp nhược trước đời sống.

Quan niệm ấy hạ thấp văn học xuống thành một sự sao chép hiện thực, cho rằng “hiện thực đã tốt đẹp đến mức không còn gì có thể tốt hơn, đẹp hơn”, từ đó mà gián tiếp phủ nhận khả năng cải tạo trở lại hiện thực của con người, của văn học. Quan niệm ấy từng biểu hiện thành chủ trương tuyệt đối hóa thể tài “người thật, việc thật” trong văn học, muốn lấy đó làm dòng chủ đạo, thậm chí dòng duy nhất của văn học nước ta.

Trong khi văn học bắt nguồn từ cuộc sống, nếu muốn phục vụ trở lại cuộc sống thì nó phải sáng tạo ra một cái gì đó khác, mới mẻ, chưa từng có, cao hơn về chất so với cái nguyên liệu cuộc sống cung cấp cho nó. Ví như con tằm ăn dâu thì phải nhả ra tơ, nếu nó lại nhả ra những cái lá dâu thì bản thân sự có mặt của nó trở thành vô nghĩa.

Đề dẫn 1979 cũng đã chỉ ra tình trạng tuyệt đối hóa sự chi phối tất yếu của chính trị đối với văn học, trong khi chính văn học nghệ thuật với sức mạnh riêng của nó đã làm phong phú thêm cho chính trị bằng những khám phá và sáng tạo của riêng mình, không thay thế được.

Chính những quan niệm thô thiển đó về mối quan hệ giữa văn học và thực tiễn, giữa văn học và chính trị đã tạo ra những định kiến xã hội đơn giản, dung tục đối với văn học, xói mòn năng lực thẩm mỹ của người đọc, thấm cả vào chính người cầm bút, xói mòn ý chí sáng tạo, dũng khí sáng tạo nghệ thuật và ý thức trách nhiệm xã hội đúng đắn của nhà văn, tạo nên sự cản trở vừa ở ngoài họ, quanh họ, vừa ở trong chính họ.Và, không thể nói không có sự liên hệ nào giữa các quan niệm thô thiển và định kiến dung tục đang diễn ra với lối làm ăn tệ hại, thiếu phẩm chất rất đáng trách trong một số người cầm bút.

Tây Nguyên chiếm một phần quan trọng trong cuộc đời và đời sống văn học của Nguyên Ngọc. Ảnh: TLNN

Trước năm 1995 (trước khi nghỉ hưu)

Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn Nghệ, Trưởng ban Sáng tác Hội Nhà văn Việt Nam. Đóng góp lớn vào thời kỳ sôi động, rực rỡ nhất của báo Văn Nghệ, bằng chủ trương: mở đường cho hiện thực tràn vào văn học, đánh thức văn học sau giấc ngủ mệt mỏi hậu chiến và bao cấp.

Khôi phục thể loại phóng sự đã từng nổi tiếng vài chục năm trước đó với các cây bút Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang, Tam Lang. Đánh thức dòng truyện ngắn với cách viết mới, lạ. Triển khai loạt bài lý luận về văn nghệ và chính trị, về văn nghệ và hiện thực.

Hàng loạt tên tuổi văn học mới đã xuất hiện từ báo Văn Nghệ thời kỳ này: Nguyễn Huy Thiệp, Trần Huy Quang, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Hoàng Minh Tường… Tờ báo của Hội Nhà văn Việt Nam, lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, được người đọc xếp hàng chờ mua, số lượng in lên tới hơn vạn bản… Góp phần quan trọng vào việc xét trao các giải thưởng văn học xứng đáng của thời kỳ đầu Đổi mới.

“Tôi cũng như nhiều nhà văn trẻ, ai cũng yêu mến, kính trọng tài năng, tâm huyết của Nguyên Ngọc, nhưng đôi lúc e ngại, băn khoăn trao đổi với nhau: “Sao anh ấy cực đoan thế nhỉ, cực đoan cả trong lý luận suy nghĩ cả trong phong cách sống”, nhưng rồi lại cười xòa vui vẻ: “Là Quảng Nam hay cãi ấy mà!” –nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Trai nguyên Phó tổng biên tập báo Văn Nghệ.

Nhà văn Bảo Ninh thì chia sẻ: “Dường như càng năm càng tuổi, thầy Ngọc của tôi càng muốn sống nhiều hơn trong không gian đường trường. Sài Gòn – Gia Định, mũi Cà Mau, miền Tây, miền Đông, Quảng Trị, Thừa Thiên, miền Nam Trung Bộ, các tỉnh huyện đồng bằng miền Bắc, vùng núi non biên giới, hải đảo… từ năm 1975 tới nay có còn ngả đường nào, có còn miền quê nào của đất nước mà ông chưa dọc ngang trải qua. Ông đi nhiều nhưng không chỉ để ngao du sơn thủy, không đi chỉ để thưởng thức phong cảnh, không lang bang phiêu bạt chỉ để nhìn ngó nghe ngóng lớt phớt, mà đi như vậy là cách ông nhập thân, hoặc còn hơn thế nữa, xả thân vào với thực trạng đất nước và dân tình để có thể không ngừng suy nghĩ và viết, thực thi nghĩa vụ nhà văn theo đúng với tín niệm nhân sinh và văn chương của ông”

A person riding a bicycle with another person

Description automatically generatedNhà văn Nguyên Ngọc và nguyên Bí thư Thành ủy Hội An Nguyễn Sự. Ảnh: TLNN

Từ năm 1995 (sau khi nghỉ hưu)

Tham gia tích cực trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và chấn hưng giáo dục Việt Nam. Là thành viên chủ chốt trong các hoạt động: Quỹ Văn hóa và Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh; Dự án và Giải thưởng Sách Hay; Đại học Phan Châu Trinh; Viện Phan Châu Trinh.

Sách dịch đã in: Độ không của lối viết (Rolland Barthes), Nghệ thuật tiểu thuyết (Milan Kundera), Văn học là gì? (Jean – Paul Sartre, NXB Văn học 2013), Rừng, Đàn bà, Điên loạn (Jacques Dournes, NXB Hội Nhà văn 2013).

Sách viết đã in: Tản mạn nhớ và quên, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 2004; Nghĩ dọc đường, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 2005; Lắng nghe cuộc sống, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 2006; Bằng đôi chân trần, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 2008.

Bút ký Các bạn tôi ở trên ấy viết về Tây Nguyên của ông (NXB Trẻ 2013) được giải thưởng văn xuôi năm 2013 của Hội Nhà văn Hà Nội. Được xem là một chuyên gia về Tây Nguyên, trong buổi hội thảo vào tháng 4.2009 về vấn đề khai thác bauxite ở Việt Nam, ông biểu lộ chưa đồng tình với chính sách của Chính phủ.

Cuốn Có một con đường mòn trên Biển Đông của ông (NXB Trẻ tái bản, 2014) được dịch ra tiếng Nhật và phát hành tại Nhật Bản tháng 10.2017.

5/9/2021

Thanh Nguyễn

Nguồn: Người Đô Thị/Vanvn

Theo https://vanhocsaigon.com/

  Thêm một cách hiểu về Marcel Proust Người khổng lồ bệnh hoạn của chủ nghĩa hiện đại, người cùng với Joyce đã làm đảo lộn sự hiểu biết củ...