Bùi Giáng, nhà thơ của các nhà thơ
Bùi Giáng, cũng như các thi sĩ thiên tài, đều vượt quá
mọi đóng khung. Tuy nhiên, nhà phê bình, vốn là một động vật thích phân loại,
nên, một mặt để thỏa mãn mình, mặt khác để hiểu thi nhân, ít nhất là trên đại
thể, thì có thể tiếp cận ông từ cạnh khía kiểu nhà thơ.
Bùi Giáng, tôi nghĩ là một thi sĩ – triết gia, một nhà thơ đồng thời là một nhà triết học. Thi sĩ – triết gia, khác với triết gia – thi sĩ, tồn tại trước hết với tư cách nhà thơ, sau đó mới đến nhà triết học. Kiểu nhà thơ này không phải đến Bùi Giáng mới có, mà từng tồn tại trong văn đàn thế giới như Goethe, Hoelderlin, Braudel, Tchutchev…, hay Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Tản Đà… ở Việt Nam.
Tiếp tục truyền thống thi sĩ – triết gia này, Bùi Giáng đã
nâng tầm vóc của nó, ít nhất trong trường hợp Việt Nam, lên cao thêm một bước.
Việt Nam vốn không phát triển lắm về triết học. Các tư tưởng triết lý, vì thế,
phần lớn có nguồn gốc từ các nền văn hóa lớn bên ngoài. Việc tiếp nhận chúng
thường theo nguyên tắc tương ứng chứ không phải đồng thời, như trường hợp Tản
Đà đầu thế kỷ XX tiếp thu tư tưởng của các nhà triết học Ánh Sáng thế kỷ XVIII.
Các thi sĩ – triết gia của Việt Nam, vì thế, xét trên cạnh khía thời đại, thường
lỗi thời ít nhất một nhịp. Điều này hẳn ít nhiều ảnh hưởng đến tầm vóc và, do
đó, tư thế đối thoại với thế giới.
Bùi Giáng, ngược lại, tiếp thu chủ nghĩa hiện sinh của
J-P.Sartre, A.Camus, K.Jaspers… một cách trực tiếp và đồng thời, khi nó còn
đang sống động và đang phát triển. Rồi từ triết học hiện sinh đi đến hiện tượng
luận, sau đó hiện tượng luận hiện sinh của Heidegger. Bùi Giáng, chủ yếu, đi đến
với triết học Heidegger bằng trải nghiệm riêng của mình. Từ cảm nghiệm vong
thân đến với tự do, Bùi Giáng không hiểu triết học như một thầy giáo, mà sống
triết học như một bậc thầy. Bởi thế, ông có đầy đủ tư cách triết gia, để phê
phán Sartre trong Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại, trao đổi thư từ học thuật với
chính Heidegger và nhà thơ René Char. Quả thật, lần đầu tiên trong lịch sử văn
học Việt Nam có một nhà thơ Việt Nam sống cùng nhịp với các trào lưu tư tưởng lớn
của thế giới đương đại.
Trước đây, trong thời tiền hiện đại/hiện đại, vẫn thấy những
trường hợp thi sĩ và triết gia tuy có chỗ trùng, nhưng rốt cục, vẫn là hai con
người riêng biệt. Như một sự phân thân. Còn ở Bùi Giáng thì cuộc đời, thơ ca và
triết học là một, là một thứ tam diện nhất thể, đúng hơn tam vị nhất thể. Như
con khỉ Mỹ Hầu Vương trở thành Tôn Ngộ Không sau khi ra khỏi lò bát quái của
Thái Thượng Lão Quân, Bùi Giáng trở thành Bùi Giáng, một thi sĩ – triết gia,
sau khi đã chưng cất được một hợp chất từ ba yếu tố cuộc đời – thi ca – triết học
trong “nồi hầm” văn hóa thời đại có nhiệt độ cao và áp xuất lớn. Hơn nữa, ở thời
hậu hiện đại, thi sỹ và/là triết gia cùng đưa ra những diễn ngôn mới, đúng hơn,
diễn ngôn về diễn ngôn, không hề chịu một quy định trước nào, cũng không có
tham vọng trở thành phổ quát, chỉ khát khao tỏ lộ cá tính riêng thuộc của mình.
Hay, nói khác đi, cuộc đời của Bùi Giáng thi sĩ và tư tưởng gia, tuy là nhiều,
nhưng đều dẫn đến một đích nhắm là tìm gặp cái Uyên Nguyên, cái Bản Nguyên
trong thế giới vạn vật. Heidegger thường tụng ca thi gia và tư tưởng gia, những
kẻ canh giữ ngàn đời cho ngôi nhà của tồn tại như/là/qua/bằng/bởi ngôn ngữ. Thế
nên, Bùi Giáng, xuất nhập cả trong thân phận thi gia lẫn tư tưởng gia, chẳng
qua cũng chỉ là những cách thế tuy khác nhau, nhưng đều dẫn trở về ngôi nhà của
tồn tại.
Hợp chất của cái “nồi hầm” siêu tổng cộng các yếu tố văn hóa
thời đại đó chính là cái mà Bùi Giáng gọi là tư tưởng hiện đại. Tư tưởng hiện đại,
theo Bùi Giáng, trước hết là tư tưởng đương đại, mà trong thời đại của ông là
hiện tượng học hiện sinh và, sau đó, là toàn bộ những điểm khả thủ của tư tưởng
nhân loại không phân biệt đông tây kim cổ được nhìn từ tư tưởng đương đại. Bùi
Giáng gọi động thái này là “trùng phục thu hồi”, một kiểu tiếp thu sáng tạo như
ngày nay thường nói. Tư tưởng hiện đại, bởi thế, luôn là sự giao thoa giữa cái
đương đại và cái đã qua, đưa cái đã qua trở thành đương đại. Nội dung của tư tưởng
hiện đại của mỗi thời có thể mỗi khác, tùy theo sự thông diễn của người đương
thời, nhưng cái gọi là tư tưởng hiện đại thì như một hằng số thời nào cũng có.
Đó chính là sự “thiết lập Vĩnh Thể trên dòng Tồn Lưu” của Bùi Giáng.
Tư tưởng hiện đại của thời đại Bùi Giáng chính là hiện tượng
học thông diễn mà thi nhân gọi là giải minh hay minh giải học. Sống, làm nghệ
thuật cũng như làm học thuật, trước hết là phải thông (thông diễn, thông giao,
tương thông, liên thông) đã, tức thâm nhập vào đối tượng, trở thành đối tượng,
biến đối tượng thành một chủ thể, sau đó phải diễn (diễn giải, diễn dịch, diễn
giảng, quảng diễn), tức trình bày cái thông của mình cho người khác. Thông diễn,
như vậy, là một quá trình tham dự của một chủ thể vào một đối tượng để biến đối
tượng đó thành một chủ thể mới, không chỉ với người khác mà cả với chính chủ thể
trước. Thông diễn học, vì thế, là một khoa học chủ quan, hay nói khác vừa là một
khoa học vừa là một nghệ thuật. Nó có khả năng biến một sự kiện (khách quan)
thành một chân lý (chủ quan), bởi như Kierkegaard nói: chân lý là chủ quan. Với
tư cách là trí tuệ cảm xúc, thông diễn học là phương thức nhận thức chủ yếu,
phù hợp với cái nhìn thực tại mới của con người trong xã hội hậu công nghiệp,
tin học và công nghệ cao.
Thơ Bùi Giáng thể hiện một cái nhìn thông diễn học rất rõ. Sự
vật và con người trong thơ ông không bao giờ là tự thân, tự đầy đủ, mà luôn
trong trạng thái đương – là, không hoàn kết, luôn ở thế tương giao, đối thoại với
người đọc. Điều này đã được đề cập đến ở phần trước, khi nói về trò chơi ngôn
ngữ, và còn đặc biệt rõ hơn trong các công trình nghiên cứu của Bùi Giáng, như
Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại, Con Đường Ngã Ba, Thi Ca Tư Tưởng, Đường Đi
Trong Rừng… đầy những trích dẫn, vận dụng rất nhiều tri thức đông tây kim cổ từ
các triết gia Hy Lạp cổ đại đến Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Đức Phật, các nhà
văn, các nhân vật tiểu thuyết, thậm chí đến người thật như Kim Cương, Monroe,
Phùng Khánh… Điều này cũng thể hiện rất rõ trong các tác phẩm biên dịch như Lời
Cố Quận, Lễ Hội Tháng Ba của Heidegger, Mùi Hương Xuân Sắc dịch Heidegger,
Nerval và Camus… Bùi Giáng sử dụng lối dịch – thông diễn. Kể cả khi dịch một
tác phẩm văn chương, ông cũng dịch với một tinh thần đồng điệu, chứ không dịch
câu chữ. Nhờ sự trái thói này, mà chúng ta có được những tuyệt phẩm dịch thuật
như Hoàng Tử Bé và Cõi Người Ta. Tuy vậy, cách làm phá cách, không chịu tuân
theo lề lối, đúng hơn là theo một thứ lề – lối – phi – lề – lối của tương lai,
đã làm nhiều người không chịu nổi, nhất là những nhà nghiên cứu trường trại, hoặc
những người có đầu óc chuồng trại.
Một trong những cách sống thể hiện sự nhất quán của thi cách
và nhân cách Bùi Giáng đó là bệnh điên của thi nhân. Đành rằng xưa nay thiên
tài và điên là chị em ruột. Nhưng cái điên của Van Gogh, của Dostoievski thì ai
cũng nhận ra đó là bệnh. Chỉ có trường hợp Bùi Giáng thì mới có chuyện một điên
mười ngờ. Bởi thế, tôi tạm gọi đó là điên – Bùi – Giáng. Người ta đã, và hẳn
còn sẽ, tốn nhiều giấy mực để bàn về chuyện Bùi Giáng có điên thật hay không. Tạm
gác sang bên vấn đề bất khả giải này, hay có giải được cũng có thể chẳng chứng
tỏ dược nhiều điều, thì có thể thấy, Bùi Giáng trước hết là người ngộ chữ, thậm
chí còn ngộ chữ có nòi. Khác với những kẻ mọt sách thường là nô lệ cho chữ có sẵn,
người ngộ chữ tuy cũng đam mê chữ thái quá, nhưng lại thích đùa nghịch chữ, làm
mới chữ. Sự thái quá là không bình thường, bị coi như một thứ bệnh, bệnh điên.
Mà sáng tạo, nhất là sáng tạo văn chương nghệ thuật, thì bao giờ cũng thái quá,
cũng không bình thường, cũng điên rồ. Điên – Bùi – Giáng, bởi thế, có thể xếp
vào loại điên – nghệ – sĩ, một thứ điên mà không điên, không điên mà điên.
Bùi Giáng, trước hết, rất ý thức về cái điên của mình.
Đây là một điều mà ở người điên thuần bệnh lý không bao giờ có. Kể cả với người
lúc tỉnh lúc điên, vì khi ở trạng thái này thì anh ta lại quên hẳn trạng thái
kia. Người điên, vì thế, không biết là mình điên, tức hoàn toàn bị vô thức điều
khiển, và sẽ khăng khăng phủ nhận nếu có ai đó bảo mình điên. Bùi Giáng, ngược
lại, làm rất nhiều thơ về sự điên của mình, như “Người Điên Uống Rượu”, “Ông
Điên”, “Thơ Điên”, “Quá Khứ Của Anh”… Thậm chí Bùi Giáng còn sáng tạo ra cả thứ
ngôn ngữ của người điên, mà, theo ông, ngôn ngữ què quặt của người tỉnh khó mà
hiểu được nó, nhất là ngôn ngữ của người điên có nghề nghiệp:
Người điên ngôn ngữ điệp trùng
Giở chừng như mộng giở chừng như mê
Thưa em ngôn ngữ quặt què
Làm sao nói được nghiệp nghề người điên
(“Người
Điên”)
Không những xác định cái điên của mình, mà Bùi Giáng còn dấn
thân quyết liệt vào nghề nghiệp điên. Bởi lẽ, thi nhân tìm thấy ở điên niềm hạnh
phúc. “Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời”. Hạnh phúc là khi mình đồng nhất với
mình. Điên là trạng thái trùng khít hoàn toàn giữa con người và bản thân hắn
ta. Một sự trùng khít ở cấp độ bản năng, thực vật. Điên Bùi Giáng thì không hẳn
là vậy. Ông vẫn nhận ra sự nghiêng lệch giữa mình và thế giới, và vì thế mà muốn
co vào cái điên của mình như một vỏ bọc, để mình được là mình. Điên của Bùi
Giáng, bởi vậy, chính là một thái độ sống, một cách tồn tại ở đời.
Như vậy, Bùi Giáng, ý thức hoặc vô thức, đón gặp sự điên của
mình, để, một mặt vượt thoát khỏi mọi can thiệp của cái xã hội, vốn quyền uy và
thực dụng, vào lối sống riêng của mình; mặt khác, bằng hành động điên rồ gửi sự
minh triết đến cho mọi người, nhất là những con người bình thường. Hình ảnh Bùi
Giáng ăn mặc lôi thôi lếch thếch, cổ đeo đầy ống bơ, giày dép, đứng ở ngã tư đường
phố Sài Gòn, chỉ lối cho con người và xe cộ qua lại, gợi nhớ đến các nhà tiên
tri cổ đại. Hoặc Bùi Giáng “nuôi” rất nhiều lợn đất, gà nhựa ở nhà và đi đâu
ông cũng nhớ về cho chúng ăn. Và mỗi khi cho rằng loại gà lợn này đi chơi đâu
xa, Bùi Giáng thường rải gạo dọc đường để cho chúng nhớ lối mà về nhà. Những cảnh
tượng ấy, quả thực, cũng giống như một cuộc trưng bày nghệ thuật trình diễn hoặc
sắp đặt giàu ý tưởng. Hay, đúng hơn, Bùi Giáng đang làm thơ. Một bài thơ bằng
các vật liệu phi ngôn từ của loại thơ cụ thể.
Người điên cũng như người chứng ngộ đều cùng chung một cõi vô
trí. Nhưng người điên thì ở bề dưới của trạng thái đó, còn kẻ chứng ngộ thì ở
vùng trên. Di chuyển giữa hai đường biên đó, Bùi Giáng không bao giờ điên thật
và cũng không bao giờ chứng ngộ, cảnh giới của thực tướng là vô tướng, chân ngã
là vô ngã. Ông vẫn còn đặt một chân ở cuộc đời, vẫn đau khổ vì cuộc đời: “Anh
đã định suốt thiên thu vạn kỷ/ Làm thằng điên rồ dại suốt thiên thâu/ Nhưng em ạ,
dường như anh vô lý/ Lúc đoạn trường anh đứt ruột khổ đau”. Vì còn đau khổ nên
ông vẫn cần ngôn ngữ, vẫn tin vào lời, dù lời của ông đã gần với không – lời,
tư duy của ông đã gần với không – tư duy. Có lẽ, nhờ thế mà chúng ta có được một
Bùi – Giáng – Tuyệt – Tự – Thi, một thứ thơ tuyệt vời ngôn ngữ (tự) và một nhà
thơ không thể có người thứ hai nói dõi. Ông như một Bồ Tát không bước hẳn vào
cõi vô ngôn, vô trí mà vẫn ở lại với Lời để cứu Lời.
Cuối cùng, như để lại một mật ngữ, trong Lời tựa cho cuốn
Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại, Bùi Giáng viết về F.Nietzsche như là để
nối cái điên của mình vào cái “đại điên” của những vĩ nhân trong lịch sử: “Cái
dịu dàng như hươu non đành chực bóp chết lòng mình để rống to như thú dữ. Nhưng
lập tức lời nguyền rủa bốn phía vang lên. Và Nietzsche đã điên. Trước Nietzsche
mấy chục năm, Hoederlin cũng đã điên. Cùng với bao kẻ khác đã điên. Để ngày
nay… Để ngày nay chúng ta tụ hội về đây xôn xao nêu câu hỏi: Cớ sao mà điên?
Nêu một cái rất ngây thơ tròn trĩnh.”
Như vậy, với việc đưa ngôn ngữ trở về với sự vật, rồi lại coi
sự vật, trật tự sự vật, tức cuộc đời, tức thực tại chỉ là các trò chơi ngôn ngữ,
tức thống nhất vào ngôn ngữ cả sự biểu đạt thực tại lẫn thực tại được biểu đạt,
Bùi Giáng đã vượt qua chủ nghĩa hiện đại, mở một cánh cửa vào hậu hiện đại, để
hôm nay, càng lúc càng đông nhà thơ trẻ, với những kích thước tài năng và tầm
vóc tư tưởng khác nhau, chen chân qua khung cửa hẹp ấy. Nếu trước đây, Nguyễn
Du mở ra thời kỳ trung đại cổ điển trong văn học Việt Nam, nâng nó lên ngang tầm
khu vực Đông Á, còn Tản Đà vào những thập niên đầu thế kỷ XX đã mở đầu cho thời
hiện đại, đưa văn học Việt Nam vào quỹ đạo thế giới, tuy có sự lệch thời gian,
thì Bùi Giáng ở những mười năm cuối của cùng thế kỷ ấy đã đi đầu trong việc mở
ra một thời đại mới cho văn học Việt Nam, văn học hậu hiện đại. Có điều lần
này, ít nhất với trường hợp Bùi Giáng, sự phát triển của văn học Việt Nam so với
thế giới không còn là sự phát triển tương ứng nữa mà là đồng thời, tức nhịp bước
cùng thế giới. Và quan trọng là sau ông đã rậm rịch những chân bước khác. Bởi
thế, theo cái cách mà Heidegger gọi Hoederlin, tôi cũng muốn vinh danh Bùi
Giáng, cũng như Nguyễn Du và Tản Đà trước đây, những thi nhân làm thay đổi hệ
hình tư duy nghệ thuật thời đại, không phải là “nhà thơ giữa các nhà thơ, mà là
nhà thơ của các nhà thơ”.
Hà Nội, 28/11/2011
Đỗ Lai Thúy
Nguồn: Tia Sáng
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét