Thứ Ba, 24 tháng 9, 2024

Hắn

Hắn

1. Hắn
Hắn còn nhớ rõ cái ngày cha hắn bán bộ sách quý với giá ba chục nghìn bạc để lấy tiền cho hắn đi Pháp. Ngày ấy lòng hắn như nở hoa, hắn không dám tin vội rằng đó là sự thật, vì nếu là sự thật thì quả đã có trời, và trời đã có tai để nghe mấy lời hắn vẫn thầm thì cầu nguyện trong đêm vắng. Hắn cầu nguyện rất khẽ, thế mà trời nghe được, trời linh thiêng quá.
Nhà hắn không giàu, người ta vẫn bảo rằng có tiếng mà không có miếng, rất đúng, nhưng có một số thiên hạ vẫn đồn đại rằng nhà hắn giàu lắm, bạc giấy năm trăm may vào nệm nằm đến mục ra. Giá là sự thật thì sướng biết bao nhiêu.
Chạy chọt xin cho được cái giấy thông hành cũng không phải dễ gì, nhưng rồi cái ngày hắn chễm chệ ngồi trên “xích-lô” đạp để ra hãng máy bay ấy cũng phải đến. Mẹ hắn khóc âm thầm, cha hắn ủ rũ, còn hắn thì cố gắng lắm cũng chỉ buồn được hơn một phút rồi lại cười lên ha hả.
Trong thâm tâm hắn vẫn hồi hộp suốt cả thời kỳ xin giấy tờ. Hắn chỉ sợ một sự gì thay đổi và hắn sẽ không được đi nữa. Có đêm hắn nằm mơ thấy bị sở Công an gọi hắn bảo cấm không được ra khỏi nước, hắn uất ức gần phát khóc. Đến khi tỉnh dậy biết rằng chỉ là một giấc mơ, hắn lồm cồm mở đèn âu yếm nhìn lại một lần nữa cái giấy thông hành và cái vé máy bay “bằng xương bằng thịt” rõ ràng rồi mới yên lòng nằm xuống ngủ nốt.
Những người khác trước khi lên đường có mang cùng một tâm trạng với hắn không? Hay chỉ một mình hắn mới điên rồ như thế?
Trên máy bay, vì hắn là học trò, giá có nửa tiền nên được xếp ngồi sau góc đuôi và cô chiêu đãi viên xinh đẹp cười với tất cả các hành khách mà đến phiên hắn thì hình như không phải là nụ cười ban nãy nữa mà là cái miệng mếu máo. Nếu nụ cười là một cái máy để người ta có thể bấm vào khuy hoặc cắm vào lỗ điện thì hắn cũng sẽ được nhận một vài nụ cười chăng.
Nhưng thôi, hắn cần gì những nụ cười ấy, miễn hắn đặt chân trên đất Pháp là được rồi.
Hắn đi với một thằng bạn cũng một hoàn cảnh như hắn, nghĩa là rất nghèo.
Khi máy bay từ từ hạ cánh xuông sân bay Orly, lòng hắn rộn ràng quên cả mệt nhọc, mãi bây giờ hắn mới dám tin chắc rằng hắn được đi Pháp học. Hình như trong huyết quản của người dân Việt nào cũng có con sâu giang hồ, hẳn thế, cái thèm đi của người dân Việt thật là vô bờ bến. Thì xem như hắn, xa gia đình, xa cha mẹ mà quên cả buồn, dầu chỉ là một chút buồn ngoại giao hay tượng trưng. Xách va-li lang thang đi tìm phòng trọ, hắn như một cụ lý toét mà thằng bạn hắn lại càng đình đù hơn. Bộ quần áo của hắn mới may chưa cắt hết đường chỉ, thế mà sang đến đây sao thấy nó vừa chật vừa cũn cỡn, so với những chàng trai Việt qua đã lâu năm trông hắn quê mùa đến thảm thương.
Tuy vậy, đứng cạnh thằng bạn trông hắn cũng còn tươm tất hơn. Bộ quần áo thằng bạn là bộ quần áo của cha mang chữa lại, chỗ đáng chật thì rộng, đáng dài thì ngắn, không biết thợ nào chữa mà khéo thế, làm thằng bé lúng ta lúng túng như người đang ăn vụng, trông phát tội nghiệp.
Cứ thế hai thằng ngơ ngác đi tìm phòng trọ giữa cái thành phố Ba Lê nghìn năm văn vật. Tay xách va-li mắt liếc bên này bên kia, thỉnh thoảng lại đứng nhìn trố ra một cửa hàng hay một chiếc xe hơi kiểu mới. Ai không biết sẽ nhầm rằng hai chú mán rừng lần thứ nhất xuống phố bán thuốc ê.
Đi bộ hơn ba tiếng đồng hồ mới tìm được một cái phòng trọ tối tăm u ám, tuy u ám nhưng cũng còn hơn cái phòng hắn ở nhà, nhất là những gian phòng trọ trong thời tản cư.
Trong phòng trọ sao người ta đặt lắm gương soi thế, hắn nghĩ thầm “Tây đầm chúng nó thật đỏm dáng, ở đâu cũng muốn thấy cái nhan sắc của mình.”
Ba tháng rồi hắn ở Ba Lê. Độ này trông hắn đỡ mán hơn một chút, hắn đã thay bộ quần áo chật chội bằng một bộ quần áo khác, vừa vặn với con người hắn hơn, tuy rằng thư nào cha hắn cũng đã dặn dò phải biết hà tiện.
Cha hắn lo ngại một ngày kia không gửi được tiền, hắn cũng biết rằng nhà hắn nghèo, nghèo lắm, nhưng giá cha hắn đừng có gào lên trong mỗi thư chắc hắn sẽ thú vị hơn. Nếu không bị cái đạo Khổng ràng buộc hay đúng hơn sợ bị cha hắn giận mà cúp tiền thì hắn đã viết thư mà xin với cha hắn điều ấy.
Tuổi trẻ quả thật là vô tư, vô tư gần như là gỗ đá.
Sao người Việt sang đây lắm thế, nhưng ở bên này người ta gọi nhau bằng Mít để phân biệt với ông táo tức là những chàng đen. Quả thật phải sang đây mới thấy rõ màu da vàng và dáng dấp nhỏ bé của người Á Đông, nhất là người Việt.
Trong lúc dân các nước khác gặp nhau thì mừng rỡ, Mít gặp nhau thì cứ lờ đi như không thấy hoặc là trong cái nhìn im lặng như đặt một câu hỏi:
– Mày mà cũng sang đây ư?
Rất nhiều người Việt mới sang bị bẽ bàng vì cái dáng điệu “phớt tỉnh ăng-lê” của đồng bào, hỏi ra mới biết rằng chỉ vì sợ quen biết la cà rồi hỏi mượn tiền thì phiền quá.
Nhiều người bảo dân Mít giống dân Do thái ở những tính xấu mà không giống những tính tốt của dân xứ ấy. Nghe hơi bi quan nhưng có lẽ cũng đúng một phần nào chăng?
Ba Lê có đủ các hạng Mít, từ mít đi xe Hoa Kỳ bóng nhoáng, cho đến thứ mít nghèo xơ xác sống bám vào cái ví của các cô đầm.
Hắn vẫn cười thầm mỗi khi thấy một chàng mít đi với cô gái Âu. Muôn hôn lên trán phải bắc một cái thang, nhưng cười người chớ vội cười lâu, câu ấy Đông Tây đều có dặn, quả thật đúng, một độ suýt nữa hắn cũng vấp phải, thế mới chết. Chỉ lỗi tại cái nhà trọ có một cô làm phòng xinh xinh, không đặc biệt gì, nhưng lòng chàng trai chưa đến hai mươi mới sang còn nguyên vẹn, đầm bên nhà lại cao giá. Hàng nhập cảng bao giờ chẳng nhiều thuế.
Hơn nữa hình ảnh những bà Thống sứ, bà Mật thám, thơm tho trắng trẻo đang còn như nghễu nghệu trước mắt. Nhớ đến người tài xế lái xe nhà hắn một bận được bà thống sứ bắt tay mà đến ba ngày sau chưa dám rửa tay. Có ngờ đâu các bà ấy ở bên này cũng chỉ là những cô khâu vá, bán rau cải, cao hơn một bực thì hoặc thư ký, hoặc nữ hộ sinh nhưng sang đến các thuộc địa các bà ấy tạo ngay cái dáng điệu sang trọng như từ thuở bé sinh ra trong bông hoa hồng vườn ngự uyển.
Cô đầm làm phòng trọ ấy, mỗi lần lên làm phòng hắn là tim hắn đập ầm ầm như tiếng trống làng tề. Trong lòng hắn thầm có những cuộc cãi cọ về vấn đề giai cấp, vấn đề chủng tộc, ở đời chỉ có tình yêu là đáng kể và hắn ngấm ngầm xây dựng những cảnh hạnh phúc tương lai, tuy rằng tương lai chưa biết lấy gì mà ăn.
Chương trình hắn phác họa ra chưa đi đến giai đoạn thứ hai thì một hôm hắn mở ví của cô thấy có một tập ảnh đồng bào hắn. Thế là hắn sợ hãi vội vàng rút lui có trật tự.
Dầu sao hắn vẫn thấy sang Pháp mà còn đi cua cô gái Việt thì có khác gì sang Pháp mà còn đòi ăn cho được xoài với ổi, những thứ vừa đắt tiền vừa chưa chắc đã ngon. Đi đến đâu phải ăn quà địa phương chứ, tuy vậy hắn cũng không tán thành cái hành động đi “đuổi đầm” tức là chạy theo các cô đầm ở ngoài đường cho lắm.
Sang gần một năm, thỉnh thoảng hắn cũng cảm thấy nhớ nước, hắn nhớ đủ thứ nước, dòng nước sông Hương cũng có, mà cái thứ nước cay cay chua chua có vắt tí chanh của cô hàng bánh bèo mỗi buổi trưa gánh qua nhà hắn, cất giọng rao nghe dịu dàng quá, đố ai nghe mà không chảy nước miếng. Giá được về vài hôm, về thăm gia đình và thăm cô hàng bánh bèo ấy thì thích biết mấy, nhưng chỉ vài hôm thôi chứ ở lâu thì hắn chưa muốn, một là hắn học hành chưa xong, hai là dòng sông Seine còn lưu luyến quá, dứt đi sao đành.

Nghe nói đến chuyện hắn nhớ bánh bèo đừng vội bảo rằng hắn là phường tục tử, chỉ nghĩ đến chuyện ăn, thỉnh thoảng hắn cũng lang thang ra “Pont des Arts” đứng tựa vào thành cầu, nhìn dòng nước vô tình trôi dưới cầu và cất cái giọng ngỗng đực của hắn mà rống lên mấy bài ca nhớ quê hương một mình nghe cũng không đến nỗi dở lắm. Hát xong trở về phòng trọ và lòng hắn bớt nhớ nhung. Có bận còn hơn thế nữa, hôm ấy trong túi hắn vẻn vẹn không được nghìn quan thế mà dám đến nhà hàng Việt Nam mua ngay một đĩa hát giá những hơn năm trăm quan. Về đến nhà hắn nghe suốt buổi, nghe đến lúc hắn thuộc cả mấy bài ca và đến lúc lão tây già bên cạnh sang gây gổ rồi van xin hắn mới tha cho.
Trời phạt hắn, tháng ấy nhận tiền chậm phải ăn thiếu mất mấy hôm, kể ra như thế là hắn cũng có tâm hồn nghệ sĩ đấy chứ, hắn vẫn nói đùa với các bạn rằng, đỗ đạt xong hắn về nước và cưới luôn cả hai cô trong “ban hợp ca Thằn lằn” để thỉnh thoảng có buồn thì bắt hai cô ra múa hát cho hắn nghe, lũ bạn kêu ầm lên rằng hắn là tàn tích rơi rớt của chế độ phong kiến, may mà ai cũng biết tính hắn hay đùa, vả lại những con chó sủa là những con chó không dám cắn.
Hắn quên rằng đàn bà vốn chóng già, ngày hắn về nước thì có lẽ các cô ca sĩ ấy mỗi người đã có một bầy con, ai sống đấy mà chờ hắn.
Ở đây hắn có một vài người bạn thỉnh thoảng đến phòng nhau nấu cơm ăn uống nghe vọng cổ, sa mạc, ngâm thơ hoặc chưởi thề với nhau cho đỡ nhớ nhà. Một hôm có ông bạn mới sang mang theo rất nhiều quà của nhà, từ một trái chanh, trái ớt… Vừa sang tới đất Pháp là ông ta lo ngay đến sự hụt tiền, nên ông ta chỉ dám ăn thịt “hát sê” (hachée) là thứ thịt gân thịt vụn người ta mang vào máy xay ra bán từng cân từng lạng, ông bạn là người lớn nên cũng phải mời tụi hắn một bữa, ăn xong hắn cao hứng làm bài thơ tặng ông ấy. Thơ rằng:
Thịt hát xê, thịt hát xê Chưa ăn đã chán ghê Từ ngày ông “A” đến Mang theo cái “xýt-tem” Đê.
Bài thơ xuất khẩu của hắn vừa ngâm chưa được mấy hôm thì có tin cha hắn về hưu trí. Hắn được tin mà lạnh đến xương sống, vì hắn biết rằng từ nay rồi đến thịt hát xê cũng sẽ không có mà ăn chứ đừng nói đến chuyện sang trọng.
Đúng như hắn đã lo sợ, từ đấy hắn nhận tiền tháng thiếu tháng đủ, có khi mấy tháng liền không nhận được đồng nào, vì sau khi hưu trí thì tiếp đến tin cha hắn bị ốm nặng phải vào nằm nhà thương.
May mà hắn không biết ăn chơi, không thích cuộc sống phù hoa trong khi quanh hắn có một số bạn dối nhà để lấy tiền đi học nhảy, học xong còn phải hành mà hành sự gì chứ sự ấy thì khá tốn, trót sinh làm cái “giống giả tiên” (sexe payant) thì lúc nào cũng phải lo sẵn sàng để mở ví.
Hắn lại còn biết có mấy thằng bạn đầu tháng nào cũng mua giấy ăn nhưng rồi bán dần để đi chơi, cuối tháng phải giật vay quanh, có khi nghèo túng quá đâm ra trộm cắp bạc bài và sau cùng là cái “Xa-na” ho lao chờ sẵn.
Hắn còn có một ông bạn đào hoa đến nỗi trong một tuần mà nhận được bảy “cú” điện thoại báo tin mừng sắp lên chức cha. Ông bạn của hắn sợ cuống cả người, có con thì phải cưới mà chả nhẽ lại cưới cả bảy, pháp luật nào cho phép. Vả lại có được phép cưới cả bảy chăng nữa theo như phong tục Ả-rập ngày xưa thì tiền đâu mà nuôi bảy đứa con với bảy bà mẹ ấy.
Ngay đến cưới một cô cũng đã là chuyện khó vì ông bạn chẳng có vốn liếng gì cả ngoài cái tốt mã, ăn mặc chải chuốt hợp thời trang, nhảy đầm giỏi, biết tán tỉnh nịnh hót đàn bà và biết khoe khoang. Ở cái xã hội mới mà cái gì cũng phải cần tiền mới giải quyết được, nếu đã không tiền mà còn không có cái mã thật chiến, cái lưỡi thật mềm thì đừng hòng được như ông bạn quý ấy.
Hắn vẫn cười thầm nếu có em gái, hắn sẽ nói cho em gái hắn biết rằng, thấy chàng trai nào ăn mặc sang trọng chải chuốt thì phải đừng quên rằng túi nó trống rỗng. Nếu cái cổ áo nó có sạch sẽ tươm tất là vì đêm nào nó cũng giặt chải phơi cẩn thận, đôi giày cũng thế. Còn bộ quần áo có sang, có mới thì nên ngờ rằng bộ áo ấy nó trả góp và có thể rằng nó mới bắt đầu trả tháng thứ nhất mà thôi.
Đấy cũng không phải là một đường lối độc nhất để thành công trong sự đi chinh phục người đẹp. Hắn còn có một ông bạn nữa rất tồi tàn, lúc nào cũng đưa cái vẻ xơ xác của mình ra kêu nghèo kêu túng, thế mà ông bạn ấy cũng rất đắt hàng vì có những cô đầm hảo tâm thương hại, rồi từ chỗ thương hại đến chỗ thương không hại cũng chẳng xa là bao nhiêu.
Còn hắn ư, ngày hai buổi sáng lê gót đi, chiều lê gót về, bữa cơm trưa ăn ở tại trường, lắm khi đau bụng xanh cả người chỉ vì gặp những món ăn vừa nguội vừa cũ, mỗi bữa ăn giá chưa đầy một trăm quan, làm sao mà sang trọng được.
Nhưng hắn cũng chẳng cần, cuộc đời lên voi xuống chó là thường.
Người ta khinh khi hắn vì thấy hắn bất lợi, đàn ông khinh hắn vì nhà hắn nghèo, vì hắn chỉ là một sinh viên khổ. Đàn bà khinh hắn vì hắn quê mùa không biết nhảy đầm, không biết tán tỉnh, không biết vứt tiền ra để mua những món quà tặng cho đẹp lòng ai.
Tháng nào nhận thư nhà hắn cũng hồi hộp lo lắng, biết đâu đấy chẳng là món tiền cuối cùng, biết đâu thư cha hắn sẽ chẳng bảo hắn về ngay vì không thể cho hắn ăn học được nữa. Lần nào cầm bức thư hắn cũng ngập ngừng hằng mấy phút trước khi mở ra đọc.
Tự an ủi, hắn vẫn đưa câu chuyện lợn và dao ra suy nghĩ. Lợn nằm cạnh dao, ai cũng tưởng rằng dao sẽ cắt cổ lợn, nhưng thời gian qua, dao bị hoen rỉ dần trong khi lợn mỗi ngày một lớn và cứ thế lợn nằm chận lên dao.
Câu chuyện chẳng thơ mộng gì nhưng cũng vẫn an ủi hắn. Một ngày kia, ai biết trước được, sau những năm tháng xanh xao này, hắn sẽ vùng trỗi dậy. Hắn sẽ trả lời đúng nguyện vọng của cha mẹ hắn.
Nhiều tự ái nên mặc dầu có những người bạn thường đến khoe khoang rằng đã được đầm nuôi một cách sung túc và chỉ lối cho hắn theo, nhưng hắn tự xét thấy không thể nào làm như thế được. Có độ hắn nghèo, nghèo lắm, hàng mấy tháng liền không dám mua một tờ báo để đọc, hắn toàn đọc những tờ báo người ta treo ở trong nhà vệ sinh. Nói ra không đẹp nhưng sự thật có mấy khi đẹp đâu. Thế rồi hắn nhịn ăn để mua vé số. Tuần nào hắn cũng mua một tấm vé số, để suốt cả tuần nuôi hy vọng, nếu trời cho hắn trúng số hắn sẽ… hắn sẽ… Không biết bao nhiêu là sẽ trong đầu hắn, mà cái sẽ thứ nhất là không phiền đến cha mẹ nữa.
Nhưng rồi tuần nào cũng thế, đến sáng thứ năm là mộng hắn vỡ, vò nát tấm vé số trong tay, hắn thề sẽ không bao giờ điên nữa, thề làm gì vì ngay chiều hôm sau lúc đi học về ngang qua những tấm vé số duyên dáng và quyến rủ nằm phơi thân ở quầy tủ kính hàng bán vé số, hắn lại tần ngần đến hỏi mua để mà hy vọng rồi cũng để mà thất vọng.
Có một câu chuyện mà cứ mỗi lần nghĩ lại là hắn còn giật mình kinh khủng. Hôm ấy đang ngồi học bỗng có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, mở cửa ra hắn thấy một cô đầm không đẹp nhưng cũng không xấu lắm. Cô ấy bảo đến tìm một người bạn nhưng người ấy đi vắng, muốn xin hắn một cốc nước và ngồi nghỉ chân một lúc. Hắn vui vẻ mời vào, trong lòng cũng thầm đoán biết cô đầm ở vào hạng nào nhưng cái giống trời đã sinh ra thế, động thấy bóng dáng người đàn bà là phải xun xoe. Hắn niềm nở mời ngồi và lân la hắn cù được cô ta ở lại đêm ấy. Cố nhiên là cô nàng chỉ mong có thế. Sáng mai hắn bấm bụng đưa cho cô ta một nghìn quan vì hắn không có tiền lẻ mà chả nhẽ lại bắt cô ta thối trả lại. Thế là hơn một “các-nê” giấy ăn bị đi đời. Trong câu chuyện giữa đêm khuya hắn biết rằng cô ta ban ngày đi bán giày và ban đêm đi gõ cửa kiếm thêm tiền như thế vì bán giày không đủ ăn.
Sau đấy mấy hôm hắn cảm thấy “ngọc thể bất an” chẳng hiểu vì sao, phần thì nghèo, phần xấu hổ, hắn lại sợ tiêm thuốc. Hơn hai mươi ngày mất ăn, mất ngủ vì lo mang bệnh. May quá đi khám bác sĩ bảo không có gì, thế là thoát nạn, từ nay xin chừa. Một cốc cà phê hai mươi quan cũng hà tiện không dám uống, thế mà bỗng dưng bỏ ra một nghìn quan để chuốc lấy gần một tháng trời lo sợ.
Hắn viết ngay vào tường hai chữ “hú vía” thật to, ai đến hỏi tại sao, hắn chỉ mỉm cười không dám nói sự thật.
Về sau, có dịp đi chơi với các bạn ngang qua xóm chị em. Trông cái mặt ngây thơ của hắn, chị em nháy mắt bảo “Dà-na-đuy-phơ sê-ri”. Tưởng thằng bé khờ khạo chưa biết gì, ai ngờ thằng bé cũng đã từng phen vào sinh ra tử.
Tính hắn vốn hay nghịch ngợm nên nghe chị em bảo có lửa, hắn hỏi ngay lại có cho trả góp không? Chị em chưởi hắn mấy câu, hắn cười hềnh hệch kéo tay thằng bạn đi mất.
Có người thấy hắn sống lầm lì mãi mới hỏi thế nghỉ hè hắn làm gì. Hắn thật thà kể rằng hắn cố mua được một cái xe đạp trả hai nghìn quan, xe cũ mua lại của một cô gái Anh quốc nên mới rẻ như thế.
Mỗi kỳ nghỉ hè hắn hì hục đạp đi chỗ này chỗ khác. Ban ngày đi, ban đêm ngủ lại ở các quán trọ thanh niên. Cố nhiên ở quán trọ thanh niên thì phải làm giường, quét dọn trước khi trả nhà, mỗi người phải mang theo một cái bao vải để đêm chui vào trong ấy mà ngủ, trước khi đi ngủ phải rửa chân, đến mười giờ đêm đèn tắt là không được nói chuyện. Không tiền thì người ta bảo gì mà chẳng phải nghe. Một bận không gặp quán trọ, hắn liều ngủ ngay ở lề cầu làm xe cộ qua lại đều dừng vì tưởng hắn chết. Một bận nữa khát nước quá hắn phải chui xuống ruộng hái trộm cà chua để ăn cho đỡ khát. May mà hắn chẳng phải là người tu hành, nếu không thì mỗi đêm phải đọc kinh sám hối đến bao nhiêu lần.
Ở Pháp mấy năm rồi mà chỉ có mỗi một chuyện hắn làm không được là hôn đầm ở ngoài đường. Ban đầu hắn với thằng bạn đình dù của hắn vẫn hỏi nhau, sau cùng hắn tìm ra chân lý. Hắn bảo chỉ vì đầm không biết gì nói nên đành phải hôn nhau cho qua thì giờ. Đúng thế chăng?
Hắn để ý nhận thấy là mít ít khi bắt được đầm đẹp, mít phải chịu thua đen chỗ ấy, chắc vì đen nhiều tiền hơn chăng?
Còn một vấn đề nữa là cái phòng trọ, không may cho hắn gặp phải một mụ chủ phòng khó tính và bần tiện hơn ai cả. Cuối tháng chậm tiền phòng là chết. Thì cứ nghe hôm nào hắn vừa đi lên cầu thang vừa hát vang, đấy là tháng ấy hắn đã trả tiền đầy đủ, nếu không thì hắn đã im thin thít. Mỗi lần đi đâu về qua phòng mụ chủ là hắn phải nhón gót giày bước rón rén như bước chân của những anh chàng sợ vợ, buổi sáng dậy sớm đi làm mà sợ bà nó thức giấc. Hắn thì sợ mụ chủ nghe thấy chạy ra hỏi tiền, cố nhiên tai mụ ấy thính hơn cả tai mèo, thế mới chán.
Một hôm ngồi thế nào hắn làm gãy mất một cái chân ghế, cố nhiên là tuổi ghế cũng đã đáng về hưu trí, thế mà hắn bị mụ chủ bắt đền ba trăm quan. Trả tiền xong hắn lặng lẽ lên phòng phá dây đèn cho hỏng, chiều hôm ấy hắn mừng rỡ khi nghe tin mụ già ấy phải gọi thợ đèn đến chữa mất hơn nghìn quan tiền công. Các “lô-ca-te” (locataires) đều hoan nghênh hắn.
Thế đã anh hùng gì mấy, hắn còn một thành tích vẻ vang hơn nữa, là trong mấy đêm liền hắn bố trí cho một cô bạn Thụy Điển về phòng hắn ăn ngủ lại. Mụ chủ phòng trọ ấy vốn nghiêm ngặt hơn tất cả những phòng trọ hắn đã ở trước, nhất là đến cái vấn đề dẫn đầm về phòng. Quá mười giờ đêm, ai về muộn phải khai số phòng.
Muốn cô bạn vào được hắn giả vờ đi về khuya, bắt cô bạn mặc quần dài chứ đừng mặc váy, hắn chỉ việc đưa cái áo khoác của hắn cho cô bạn mặc vào, cố nhiên là không quên đội cái mũ lên đầu để che mái tóc vàng tơ. Trong lúc ấy hắn hiên ngang đi bên cạnh. Lúc qua phòng mụ chủ, tuy mụ đã vào giường mà cũng còn chịu khó bấm cái đèn nhỏ lên nhìn ra. Hắn hô to số phòng hắn và phòng thằng bạn, thế là mụ chủ yên chí, tưởng hai cậu đi chơi đêm về cùng với nhau.
Cứ thế mà hắn thoát được mấy đêm liền.
Nhưng sau đấy tâm hồn hắn cứ vấn vương mãi, cái dân mít vốn giàu tình cảm là thế; không biết giờ này cô bạn hắn đã quên hắn chưa, nhưng riêng hắn thì hình ảnh mái tóc vàng tơ với đôi mắt trời xuân ấy thỉnh thoảng lại hiện về trêu chọc hắn.
Lắm khi hắn ngơ ngác nhìn một cô gái Việt và thầm hỏi tại sao tóc cô ấy không vàng, mắt cô không xanh.
Hắn cũng không hiểu tại sao hắn lại thế, có thể bảo rằng vì đời hắn quá khô khan, có bao giờ hắn nhận được một tình yêu chân thành. Mẹ hắn thương hắn thì lại ở cách quá xa, vả lại tình mẫu tử là thứ tình để trong trí chứ có ai để vào tim. Vì thế lòng hắn vẫn cô độc, tình hắn vẫn nguyên vẹn chưa bị ai xắn miếng nào.
Đời hắn đã từng cua đầm và cũng đã bị đầm cua. Thật đấy, có cô đầm một hôm hắn đến thăm, cô ta đang ngồi bình yên bỗng dưng nhìn chăm vào mắt hắn rồi bắt hắn cầu nguyện giùm vì cô ta cảm thấy đang bị cám dỗ.
Hắn ngạc nhiên hỏi:
– Ai cám dỗ cô?
– Anh chứ còn ai.
Hắn ngơ ngác một chút nhưng rồi cũng đủ thông mình mà hiểu và bắt tay vào chương trình hành động dưới sự chỉ huy của nàng.
Chỉ tiếc rằng cuộc tình duyên quá ngắn ngủi vì sau đấy cô nàng tìm được những chiến tướng anh dũng hơn.
Trở về với các cô gái Việt thì nào phải dễ, các cô bao giờ cũng nhắm ai có bằng cấp địa vị chứ đâu thèm đến hắn.
Nghĩ xa nghĩ gần, hắn chỉ còn tìm được an ủi bên mấy cái đĩa hát cổ điển ngoài những giờ học ở trường. Chỉ có những cái đĩa hát ấy mới là những người bạn trung thành nhất, không vòi vĩnh cằn nhằn, không phũ phàng và khi nào tìm đến cũng gặp ngay được.
Một nguồn an ủi thứ hai của hắn là lang thang lên đến đại lộ Elysée để nhìn mấy chiếc xe Hoa Kỳ dài lê thê; hắn đã cảm nặng một cái xe “Đờ-xô tô” sập trần. Lắm khi mắt nhìn chiếc xe mà trí hắn tưởng tượng đến một nhân vật đang đứng trên xe đưa tay vẫy chào dân chúng.
Hình ảnh ấy đang mờ mịt trong tương lai.
Sau khi đã được an ủi, hắn yên lòng trở về với tấm bảng xanh cũ kỹ và mấy quyển sách dày cộm. Hắn còn phải học rất nhiều vì sắp đến kỳ thi.
2. Lì Hì Pì Nì Báo Ơ
Hôm nay nhất định phải viết một bài gửi về đăng báo tết, nhưng viết gì bây giờ, tìm mãi không ra đề tài. Ba đêm rồi ngủ với tập giấy trắng và cán bút, định bụng hễ “yên sĩ” đến lúc nào là vồ ngay lấy cứ không để cho chạy thoát. Nhưng đã ba đêm nay, chẳng hiểu vì sao mà yên sĩ không thèm đến, thật là bẽ bàng cho giấy, bút và cả cái thân tôi, nằm khắc khoải đợi chờ.
Có lẽ phải gò, phải làm ráp đi bắt yên sĩ như nhà đoan đi bắt thuốc phiện lậu chăng? Khốn nỗi vừa cầm đến giấy, bút là bắt đầu ngáp, mắt cứ dim díp buồn ngủ hệt như những tên nghiện đang chờ giờ. Nói dóc thế chứ từ thuở bé chỉ mới nghe bảo rằng người nghiện ngáp mà chưa bao giờ được trông thấy ai nghiện, cũng như chưa thấy rõ cái bàn đèn nó ra làm sao. Một bận nghe đồn có chú chệt ở đầu phố nghiện, giả vờ đến la cà làm quen với cô con gái, nhưng tới nhà mấy lần mà lần nào cũng chờ, chờ mãi chẳng thấy gì cả đành phải ra về vậy. Gục mặt vào tay (không biết các nhà văn đại tài họ viết như thế nào, cái phận tốt đen như mình nằm ngủ nhàu cả giấy mà chẳng ra câu nào), nếu chí quật cường không mạnh thì có lẽ đã kéo chăn lên tận cổ, tắt cái đèn ở đầu giường ngủ một giấc đến sáng, khỏe biết mấy nhưng tình trạng này kéo dài thì bài báo tết của tôi sẽ không bao giờ thành hình.
Đã thế phòng bên cứ nghe vang tiếng lóc cóc, bà chị đang đánh máy tác phẩm của bà ấy, thỉnh thoảng ngừng tay uống nước bà ấy lại không quên hỏi vọng qua, chỉ sợ mình ngủ mất:
– Thế nào, viết xong chưa?
Người ta chỉ là tốt đen, chứ có phải ai cũng nhảy một bước lên tốt đỏ cả đâu. Hơn nữa mình lại còn là giáo sư trường “Lười”, bận việc chết đi ấy.
– Bận gì biết rồi, lại phải hỏi.
Nhưng thôi đành vậy, viết lăng nhăng ấy mà.
Độ ấy tôi được cử ra phụ trách ban văn hóa cho hội Liên Hiệp Phụ Nữ mà mọi người vẫn gọi tắt là hội Lờ Hờ Pờ Nờ, do đấy chúng tôi tinh nghịch gọi trẹo sang là hội Lì Hì Pì Nì. Cái tên này về sau lại đâm ra phổ thông nhất.
Ban văn hóa gồm tất cả có ba đứa, Thanh, Cầm và tôi. Công việc của chúng tôi khá bận rộn, nào là đi dự các hội nghị, về làm báo cáo, mở lớp huấn luyện cho phụ nữ Huyện, Tỉnh, ngoài ra còn phải làm một tờ báo, cơ quan hò hát của chị em Pì Nì. Công việc làm báo chiếm rất nhiều thì giờ, vì nhà in có một mà các thứ cần phải in cho cả toàn khu thì quá nhiều. Do đấy mỗi lần đưa báo đi in là thế nào cũng phải có một đứa đi theo ăn ở tại nhà in cho đến ngày quảy báo về cơ quan mình.
Tết năm ấy chúng tôi nhất định cố gắng làm tờ báo tết cho thật đặc biệt, cố tranh đấu bằng tất cả mọi cách, trong sự tranh đấu gồm có nụ cười nghiêng thành đổ nước, có lý thuyết “Cụ Các Mác nói rằng…”, mạnh hơn tí nữa thì có cãi nhau và nếu cần thì có đấu võ với bất cứ một cơ quan hoặc cá nhân nào dám cả gan tranh giành in báo mình trước.
Sau khi viết bài, đi xin bài, đi thuê họa sĩ vẽ tranh bìa xong, kiểm điểm lại có đủ các mục từ chính trị, đạo đức, văn hóa, nấu bếp, nói phét, vừa cù vừa năn nỉ thiên hạ cười hộ… Đâu vào đấy cả rồi thì Thanh, một trong ba đứa có tấm thân “đồ sộ” nhất, được cử đi lên nằm lại nhà in. Tôi với Cầm ở nhà lo chạy tiền và còn bao nhiêu chuyện khác phải lo.
Mặc dầu sự có mặt “đồ sộ ” của Thanh, tài thuyết chính trị của nàng khá cao, nụ cười của nàng khá duyên dáng và đôi mắt của miền sông Hương núi Ngự, báo vẫn bị chậm như thường.
Khi báo được quảy về đến nhà thì than ôi đã 28 tết. Chạy quanh vùng đi tìm mấy nhà phát hành đều bị họ từ chối nguây nguẩy bảo rằng muộn quá rồi, không thể nào nhận được. Mọi người đều lo sửa soạn về quê ăn Tết.

Ai cũng có quê, nào là quê cha, quê tổ, quê mẹ, quê vợ, quê chồng, quê nhân tình, quê vị hôn phu, hôn thê, quê bạn bè và quê v.v…, vì thế không một nhà phát hành nào bằng lòng nhận cái của nợ ấy nữa.
Thanh và Cầm chạy ngược chạy xuôi nhưng đều vô ích. Một nghìn tờ báo vẫn nằm lù lù ra đấy nhất định không chịu nhích bước nào.
Hội nghị họp bất thường để tìm kế hoạch. Chị hội trưởng mặt nhăn như cái bị rách, chị hội phó cũng thở ra thở vào không kém vì hai chị, người thì có quê chồng, người thì quê vị hôn phu, chương trình đã định sẵn.
Chiều nay là các chị phải khởi hành để kịp đêm giao thừa ngồi cạnh bếp lửa báo cáo chuyện tâm tình và vạch kế hoạch yêu đương sang năm mới.
Hai cô Thanh và Cầm cũng có quê này, quê nọ, ai cũng đã dự định sẵn từ lâu. Ngay đến anh liên lạc (vị đại biểu nam giới độc nhất trong cơ quan, lười như hủi) mà cũng có quê vợ để về thăm.
Mọi người đã hình dung ra trước mắt những cảnh quàng vai, cầm tay âu yếm, hoặc những chiếc bánh chưng xanh nóng hổi, những nồi thịt kho béo ngậy và gì gì nữa. Riêng mình tôi thì xui xẻo, chẳng có quê ai để mà về, đã thế lại còn bị ốm từ hai hôm nay. Nằm trùm chăn trên giường làm cho thiên hạ đã bực mình càng thêm khó chịu. Họ tôi nghiệp, họ thắc mắc, họ lo sợ. Sợ ngộ nhỡ con bé chết lăn quay ra đấy thì phải tính chuyện chôn cất, hết cả du dương ba ngày tết.
Đống báo nằm một góc, không rên, không sốt nhưng nhất định không chịu đi. Tôi nằm một góc, sốt ầm ầm, rên hừ hừ.
Sau một hồi thảo luận rất lâu, chị hội trưởng quyết định rằng mỗi người ai đi về vùng nào phải mang một ít báo để đặt ở các đại lý vùng ấy. Nhưng cái vùng xa nhất, lớn nhất, nhiều độc giả nhất thì chẳng có ai đi cả, thế mới nguy.
Đợi mãi chẳng nghe người nào đưa thêm ý kiến gì, tôi bực mình ngóc dậy xin xung phong. Thấy mặt tôi đỏ như người mới tập uống rượu, mắt lừ đừ như con cá bị rời khỏi nước, chị hội phó gạt đi:
– Thôi, cô Minh đang ốm đi làm sao được.
– Được mà, cho em đi, ốm nằm nhà cũng không khỏi, đi cho nó vui, tại thấy mọi người đều có chỗ đi mà em chẳng biết đi đâu nên buồn mới đâm ốm ra đấy chứ.
Chị hội trưởng thấy tôi nói sao mà có lý, có lẽ lần nầy là lần đầu tiên chị mới nhận thấy như thế chăng? Ý chị hội trưởng đã muốn bằng lòng nhưng còn ngần ngừ vì lương tâm cắn rứt.
– Minh đang ốm mặt đỏ gay lên thế kia, đi rồi ngộ nhỡ ốm nặng nữa thì sao?
– Thì chết là cùng chứ sao, như thế kỳ báo sau các chị sẽ có tài liệu để kể, các chị sẽ mang Minh ra tuyên dương công trạng, thế là báo có chắc một bài khỏi phải chạy đi xin ai cả.
Các chị cười đồng ý và hội nghị giải tán.
Sự xung phong của tôi thật đáng giá như làm ba cảnh chùa, tha hồ mà để phúc lại cho con cháu, hẳn thế. Nhưng nếu đi thì tôi phải tung chăn dậy thay quần áo đi ngay, đêm nay ngủ lại giữa đường ngày mai dậy sớm, như thế chiều ba mươi mới kịp bán báo ra cho các bà các cô mua về đọc tết.
Tuổi trẻ quả thật là hăng hái một cách bất cần, bây giờ giá bố có sống dậy năn nỉ cũng chưa chắc đã chịu đi.
Chỉ độ nửa giờ sau tôi lên đường với Cầm.
Cầm đi cùng một lối nhưng đến độ nữa đường thì Cầm sẽ rẽ đi lên miệt núi, tôi xuống miệt chợ.
Chúng tôi làm một cái cáng bằng hai cái đòn tre, giữa đặt một tấm tre đan, sắp báo lên trên, luôn với hai bị quần áo rồi cứ thế khênh đi đứa trước đứa sau, hệt như những người phu khênh đá.
Đi vừa được năm cây số, trời đang nắng ráo bỗng kéo mây đen một lúc, gió trở lạnh rồi trời lấm tấm mưa. Thế là mặc dầu đang ốm tôi phải cởi tấm áo khoác ra để đắp lên báo, Cầm cũng làm theo tôi. Đi một đoạn nữa, trời mưa nặng hạt thêm, tôi lại cởi nốt cái áo ấm, cái áo trấn thủ mà càng mặc lâu thì càng ấm, ai dã từng mặc áo trấn thủ chắc đều biết cái giá trị của nó. Chiếc áo trấn thủ nầy là một kỷ niệm độc nhất do một cô bạn gởi biếu vì thương hại con bé mùa đông không có gì mặc cho ấm.
– Trời còn mưa nữa thì chắc phải tìm chỗ trú thôi Minh ạ, kẻo ướt hết báo.
– Tìm một điếm canh nào vậy, nhưng lạy trời mưa ngắn thôi chứ kéo dài đêm nay chúng mình phải ngủ lại trong điếm với ba trăm số báo thì chết!
May quá trời động lòng thương hại nên hạt mưa nhẹ dần.
Hết lo mưa thì đến buồn đường dài, tôi đang muốn làm cái gì cho qua bớt thì giờ cho đường bớt dài nhất, nhưng con đường men ruộng bao la quá, trời lại về chiều, có ai nhìn buổi chiều mà không cảm thấy bơ vơ. Hát mãi chán quá, tôi bàn với Cầm sắp mấy chồng báo dài ra hình một cái hòm nhỏ, đắp áo lên trên, bên ngoài nữa phủ một tấm khăn, chẳng ai biết được cái gì, người ta sẽ tưởng là một cái hòm thật.
Vừa động thấy ai đi đằng xa đến thì đằng này chúng tôi tru tréo lên khóc kể, tuy chẳng có giọt nước mắt nào nhưng một vài giọt mưa còn lại cũng đủ hóa trang. Thi sĩ chẳng bảo nước mưa là nước mắt của trời đấy ư?
Chúng tôi kể lể nào là:
– Hu hu em ơi, (gọi bằng em vì cái hòm nhỏ không thể gọi bằng anh hay chị được), sao tết nhất đến nơi mà em chẳng ở lại mà em lại chết đi, hu hu!
Có người xuống xe đạp, có người dở nón chào rất cảm động. Phải đợi lúc nào họ đi thật xa mới dám lăn ra cười.
Cứ thế chúng tôi đi đến nửa đường, trời tối mịt. Cảm phục mãi cái sáng kiến bất hủ ấy, nhờ thế mà quên nhọc mệt, quên đường dài, đến con ma ốm cũng phải buồn cười mà nhường bước.
Đêm ấy chúng tôi ngủ lại ở quán trọ, hai đứa mà chỉ có độc nhất một chiếc chiếu không chăn, không màn, kéo lên đắp đầu thì lạnh chân, kéo xuống chân thì lạnh đầu.
Hai giờ sáng không ngủ được, tôi chỉ muốn lên đường nhưng bên ngoài trời còn tối đen, đành phải nằm đợi. Mải năm giờ, lúc trời mờ mờ chúng tôi chia tay nhau. Cầm rụt rè hỏi:
– Bây giờ mỗi đứa một đường thì Minh bảo phải làm sao cho quên đường dài?
– Đi ngang các hàng quán thì Cầm cứ cất giọng lanh lảnh mà rao “Lì Hì Pì Nì báo ơ, đọc xong thì trẻ hóa già, già hóa trẻ, xấu hóa đẹp, béo hóa gầy, người dốt mấy cũng hóa ra thông minh, Lì Hì Pì Nì báo ơ!”
Cầm cười ngần ngại sợ một mình không đủ can đảm, thì ra ở đời, ngay đến nghịch cũng cần có bạn, chẳng cứ gì cái mục rượu ngon mới tìm đến bạn hiền.
Báo bán kịp hôm ba mươi tết, năm ấy tôi đã ăn một cái tết rất ngon lành ở trong nhà một bà mẹ… thiên hạ.
3. Đốt đàn
Ngày tôi về với người chủ mới là một ngày cuối đông – cuối đông hay giữa đông gì cũng thế – trời lạnh, tuyết phủ cả đường, vẽ những nét trắng nổi lên khắp các cành cây trụi lá.
Người chủ mới của tôi là một cô gái bé nhỏ, người hơi gầy, có mái tóc dài và tính nết rất hay đùa nghịch.
Từ giã người chủ cũ để về với cô gái nhỏ, lòng tôi không hề luyến tiếc. Đời tôi đã biết mấy lần đổi chủ, với người chủ nào thì tôi cũng chỉ là một cây đàn bằng gỗ tức là một vật vô tri vô giác mà thôi. Nếu họ có nâng niu gượng nhẹ tôi, chẳng qua vì họ sợ phải bỏ tiền ra mua một cây đàn khác, họ thương cho cái túi tiền của họ chứ đâu phải họ thương gì tôi. Có người mới cưới vợ vì yêu vợ, có người cưới vợ vì cần một chị đàn ba, cái khác nhau của con người nghệ sĩ và tên thợ đàn thợ vẽ là ở chỗ ấy…
Từ lâu lắm rồi, chủ tôi muốn bán tôi vì tôi già, tôi xấu, tôi vô dụng nhưng vì tìm chưa ra khách. Còn đâu cái thuở xa xưa, tôi cũng đã có một thời trẻ trung xinh đẹp nằm rất khêu gợi trong tủ kính ở một hiệu đàn danh tiếng tại Valencia ở Espagne (Tây Ban Nha). Bao nhiêu bàn tay sành sõi ngày ngày đến ôm tôi vào lòng, nắn lên những tiếng trầm tiếng bổng, bao nhiêu cái nhìn thèm khát lượn qua lượn lại trước gian hàng, bao nhiêu cái trán, cái mũi dán sát vào tủ kính để ngắm nghía nhan sắc tôi. Đẹp là gì nếu không là da thịt rắn chắc, nước sơn bóng nhoáng và thanh âm rền vang.
Nhưng thôi không nhắc lại làm gì thêm khổ, ai chẳng có một thời xuân trẻ. Đi từ Espagne sang đến Paris, thời gian đã làm cằn cỗi cả thể xác lẫn tâm hồn. Mỗi lần đổi chủ là một lần hạ giá, từ peseta mà cuốn còn có mười mấy nghìn quan (giá lừa đảo). Thật là nhục nhã, chưa kể đến những sự mặc cả, những sự va chạm trong lúc xê dịch, còn già là tôi…
Cô chủ mới của tôi rất nghèo, lại còn nghèo hơn tất cả những người chủ trước. Nàng ở trong một căn gác trọ tăm tối, cả gian phòng không bằng một góc bếp của những người chủ trước, nếu ban ngày không mở đèn thì chẳng khác gì ban đêm. Nhưng nghèo mà có chút tâm hồn vẫn hơn cái phường túi cơm giá áo, đưa cảm tình đi bán chợ đen, xem cây đàn không bằng giá trị một thanh củi tạ. Với họ, thanh củi tạ còn nấu chín được nồi cơm.
Muốn mua được tôi, cô gái ấy phải bán một ít sách, nhịn ăn mất mấy ngày hoa quả thịt, rồi còn phải xin trả góp trong hai tháng.
Chủ cũ của tôi rất muốn tống tôi đi, mà cũng phải tống cho có lãi, gặp được một cô bé khờ khạo, còn gì sướng hơn, lấy cớ rằng tôi là một của quý mang từ Espagne sang, con giòng cháu giống chứ không phải phường tục tử như những cây đàn làm ở Pháp. Chỉ những khi đưa ra bán cho ai, tôi mới được nghe những lời ngợi khen như thế, nhưng “có ai biết ta bằng ta?…”
Thế là chiều hôm ấy tôi theo cô bé về nhà mới. Với chủ trước, tôi chỉ là một cây đàn cũ kỹ, bệnh hoạn, sự có mặt của tôi chỉ làm chật nhà, suốt ngày chẳng ai thèm ngó ngàng đến. Ở đây tôi là một bảo vật, là người yêu số một của nàng.
Tuy rằng trong nhà đã có một cây hạ uy cầm, nhưng chúng tôi gặp nhau không ghen tuông giận dỗi, lạnh lùng như phần đông những người yêu tầm thường khác. Hạ uy cầm ngoan ngoãn và rất biết thân phận mình, hắn không hề dám đòi hỏi gì cả. Lâu lắm chủ tôi mới ôm tới hắn một lần, tất cả bao nhiên tình thương chủ tôi chỉ dồn cho riêng tôi. Đêm đêm tôi ngủ cạnh nàng, mỗi lần nàng ho lên một tiếng nhỏ là tất cả phím tơ tôi rung vang theo.
Tôi cùng nàng đi hát khắp nơi.
Có những đêm đi về khuya, nàng run sợ cố lấy dáng mạnh bạo để tránh cái nhìn tò mò cûa những người say, người điên và những người quên đạo đức. Có những đêm đường phố vắng tanh,chỉ mình hai chúng tôi còn thức, tôi là bạn thân, là thần hộ vệ, mà cũng là yếu tố sinh sống của nàng.
Có những đêm được hoan hô nhiệt liệt, nàng nhìn tôi mỉm cười, nụ cười bao hàm tất cả mọi tình cảm. Trái lại có những đêm nàng gặp cái thứ khán giả gỗ đá, nhất định không hiểu, người ta đến không phải để nge trình bày ca nhạc mà để tán tỉnh nhau. Nàng buồn rầu lên ngồi một mình trên “lô” dành riêng cho nghệ sĩ, nàng đã khóc trong lòng tôi, nước mắt của nàng nhỏ xuống da thịt tôi vẽ thành từng chấm hoen ố. Nước mắt của những kẻ giàu sang hạnh phúc có mặn và ấm như thế chăng?
Có những phút nhớ quê hương, nhớ mẹ, nàng đã cùng tôi ca vang lên, những lời ca thốt tự trong tâm tư. Ôm chặt tôi vào lòng, bàn tay bé nhỏ vỗ lên phím tơ đánh nhịp, ngón tay lấp lánh chiếc nhẫn kim cương kỷ niệm của người mẹ già chết không được gặp. Nàng ca không thành bài, có phải đấy chỉ là những lời nói thốt tự trong tâm tư, một vài hòa âm nhịp nhàng theo.
Ai thấy chúng tôi thương yêu quấn quýt lấy nhau mà không tin rằng sẽ cứ như thế mãi… Nhưng còn thời gian, mỗi một phút qua có bao nhiêu người yêu nhau, bao nhiêu người xa nhau thì cũng có bao nhiêu người đang bâng khuâng nhìn bóng mình trước gương nhổ một sợi tóc bạc, vuốt một nếp nhăn bên mép… Tôi cũng thế, từ hơn một năm nay có nhiều hôm tôi cảm thấy rêm mình, thân thể như muốn rã rời từng mảnh, đường viền chung quanh thân tôi đã gần long và hồ dán như muốn nhả ra.
Trên sân khấu, tôi đã từng phen toan phản bội nàng vì phím tôi chùng dần, không giữ được đúng thanh âm. Có ai làm chủ được thời gian!
Thời gian thật đáng ghê sợ…
Thế rồi một hôm, tôi còn nhớ rõ như mới hôm nay. Như lệ thường mỗi sáng, nàng đang cùng tôi tập dượt thì có tiếng điện thoại reo. Người ta mời nàng đi hát ở một buổi đại nhạc hội. Trời mùa hè năm ấy sao mà nóng bức, từ Paris đến vùng ngoại ô của hội lại xa, phải đi bằng xe hỏa.
Cả hai chúng tôi đều không muốn đi nhưng vì cuộc sống nàng không thể từ chối, đành phải nhận lời. Đến nhà ga còn phải đi thêm một đoạn đường bằng xe hơi. Chúng tôi cảm thấy mệt mỏi. Xe chật, ca nhạc sĩ lại đông, ban tổ chức không thạo việc nên có rất nhiều khuyết điểm.
Người ta xếp tôi lên mui xe cùng với các nhạc khí khác. Thường lệ nàng không bao giờ chịu rời tôi, hôm nay có lẽ vì định mệnh đã xếp đặt nên mới xui ra thế. Xe chạy nhanh, đến một khúc quanh tôi bị rớt xuống đường.
Tại sao lại là tôi, tại sao không là một cái trống, một cái xập xoẻng khác… Giờ đây tôi còn cảm thấy đau đớn từ thể xác đến tâm hồn, thế là hết… Thế là hết, tôi trở nên một cây đàn vỡ, một kẻ tàn tật, một phế nhân vô dụng. Nàng ôm tôi vào lòng rơm rớm khóc, cố thử gảy lên vài tiếng, nhưng có còn gì nữa đâu ngoài cái tiếng bần bật như tiếng giây phơi quần áo ở ngoài giậu.
Mọi người đều xôn xao đến hỏi thăm, họ chỉ cho nàng cách sửa chữa, họ mách cho nàng địa chỉ của một nhà chuyên bán đàn lục huyền lậu thuế. Có người còn đòi cho mượn đàn để nàng lên sân khấu nhưng nàng từ chối.
Lần cuối cùng tôi cùng nàng hòa chung, đấy là nhã ý của nàng muốn cho tôi lên chào khán giả một lần cuối. Biết rằng âm thanh của tôi không còn, nàng phải đến nói khẽ với người nhạc sĩ hãy theo giọng nàng bằng nhịp dương cầm thay tôi, cảm ơn sự tế nhị ấy nhưng càng nghĩ lại càng tủi thân.
Thế rồi tiếng vỗ tay hoan hô hôm ấy, có ai nghe chăng, hòa lẫn với tiếng nức nở của tôi.
Hết rồi… hết tất cả…
Trên đường về âm u, âm u như màu tương lai của một cây đàn vỡ.
Mấy tuần lễ trôi qua, mỗi lần nàng đến ôm tôi chỉ để mà thở dài, không bao giờ nàng ca trọn một bản nhạc cùng tôi. Nàng luôn luôn ngồi trước bàn viết tính toán, những con số, những dấu cộng trừ chi chít… để làm gì?
Một sáng nàng đi đâu về với một cây đàn khác, mới nguyên, láng bóng trinh bạch. Đàn màu trắng sữa, tiếng kêu ấm ngọt. Tôi nhìn nàng đau đớn, chiếc nhẫn kim cương kỷ niệm đã biến đâu mất, không còn lấp lánh trên ngón tay bé nhỏ, nàng đã cầm hay bán nó rồi chăng.
Giá nàng hiểu được lòng tôi, Trời! Tôi biết rằng tôi vô lý, nàng phải sống, cây đàn là một yếu tố sống của nàng, tại sao tôi lại ghen. Dầu sao nàng cũng chỉ là một con người, sống trong đám nhân loại, nàng phải cúi đầu tuân theo những định luật chung của nhân loại.
Biết như thế nhưng không buồn sao được, chỗ tôi nằm ngày thường bây giờ là chỗ của cây đàn mới, nàng đã say mê hắn như đã có lần say mê tôi.
Phải công nhận rằng hắn đẹp, hắn trẻ và tiếng hắn ấm lạ lùng, hắn còn đẹp hơn cả tôi ngày xưa. Tuy không phủ nhận sự thật, tôi cũng không thể chịu an phận như cây đàn Hạ Uy. Tôi đã từng được yêu rất say mê nên cái cảnh bị bỏ rơi lại càng đau đớn. Nàng gác tôi lên tủ cho đỡ chật nhà, đây là chỗ nằm cuối cùng của tôi đó chăng? Mỗi ngày một lớp bụi trần thêm lên thân mình. Thỉnh thoảng nàng cũng đưa mắt lên nhìn tôi, nói vài lời an ủi, nhưng để làm gì? Tôi muốn được hơn thế nữa, tôi muốn ngân vang, tôi muốn run rẩy trong cánh tay, tôi muốn hòa nhịp với giọng ca của nàng.
Những sự ước muốn ấy ngày nay chỉ là những ý nghĩ điên rồ không bao giờ còn có thể thực hiện. Cây đàn thứ ba đã đến chiếm trọn tình yêu trong lòng nàng, còn tôi chỉ là một cây đàn vỡ, một đống gỗ mục.
Chiều nay lạnh, cũng lạnh giống hệt độ nào chúng tôi mới quen nhau. Tôi nằm trên gác tủ lắng nghe nàng nói chuyện với một người bạn bên cạnh bếp lửa.
– Chắc tôi sẽ đốt cây đàn này, đợi một đêm nào rét buốt nhất, tôi sẽ mời vài người bạn, hay chỉ một người bạn thôi cũng đủ, đến chứng kiến cái cảnh thiêu đàn của tôi.
– Tại sao lại phải đốt đi?
Người bạn hỏi lại.
– Tôi sợ hắn khổ mỗi khi nhìn tôi ôm cây đàn mới vào lòng như ngày nào tôi đã ôm hắn.
– Cô này có lắm ý nghĩ kỳ lạ nhỉ, cứ để đấy treo lên thì đã sao. Ngày sau cô lấy chồng, rồi lúc cô già, cô ốm, chồng nó cũng đòi đốt cô đi cô có chịu không?
– Anh không hiểu nhưng chắc hắn sẽ hiểu tôi, thà một phút huy hoàng rồi chợt tối…
Tôi thở dài, từ nãy đến giờ tâm tư căng thẳng, nghĩ đến lúc từng thớ gỗ được bùng cháy, tôi sẽ cố gắng để ngân lên một tiếng than cuối cùng vĩnh biệt.
Đốt tôi đi, vâng xin hãy đốt tôi đi, thà chịu đau đớn đến cực độ trong một phút rồi được chết còn hơn là mỗi ngày phải nhìn người tình địch đang âm vang trong tay ai. Chúng tôi nào phải là một cái bàn, cái ghế cho loài người nằm ngồi lên, để rồi đến khi long gãy là vứt đi một xó không thèm hay biết đến. Chúng tôi là những cây đàn có linh hồn, có âm thanh, cung bực… Nhất là tôi, đã từng yêu và đã từng được yêu…
Đốt tôi đi cho tôi hết một kiếp… Biết đâu kiếp sau chúng ta sẽ lại gặp nhau…
4. Không đợi Thư Nhà
Từ ba năm nay, mỗi lần tết đến hắn không đợi thư nhà nữa, trái lại hắn còn tỏ vẻ sợ hãi, mỗi khi nghĩ đến hắn cảm thấy mình đang sống trở lại ba năm về xưa.
Những cảm giác đau xót, những giọt nước mắt không ngừng, tất cả đều sừng sững hiện ra như mới cách mười lăm phút trước.
Tết năm ấy hắn nằm dài đến giường, lười biếng nghĩ đến ngày tết sắp đến, chưa biết nên làm gì để cho quanh năm được vui vẻ.
Tuy sống ở Âu Châu từ bao nhiêu lâu mà hắn vẫn còn tin rất nhiều chuyện nhảm nhí, nếu các bạn hắn ở quê nhà biết được chắc sẽ chê cười hắn. Nhưng mặc chứ, hắn thây kệ tất cả những lời phê bình chung quanh.
Tính hắn vẫn lừng khừng tự thuở nào.
Độ một tiếng nữa thì người phát thư đến, chắc hắn sẽ có thư nhà.
Ngoài kia trời xám, một màu xám nặng nề như đang hăm dọa sẽ rớt từng tảng xuống đầu người, những cành cây gầy guộc, xơ xác đứng khép nép dưới trời mùa đông, cố sức thu mình cho đỡ lạnh. Tết nào rồi cũng giống tết nào, ai vui câu ấy chứ hắn thì chỉ thấy mỗi cái tết như một nét nhấn mạnh lên hai chữ cô đơn của cuộc đời. Lỗi không phải ở ai cả mà chỉ do hắn, tại cái bệnh lừng khừng của hắn, hắn thuộc vào hạng người phức tạp, vừa đi trốn cái cô đơn vừa đi tìm đến nó. Hắn vốn sợ cuộc sống bình yên, cuộc sống phì nhiêu đầy đủ mà bao nhiêu người đã hồng hộc chạy theo.
Có mấy lần hắn mở những cuộc tự kiểm thảo rất ghê gớm, rồi vác va-li về nước, đi xin việc làm, thuê nhà ở với ý định xây dựng rất vững chắc. Hắn tưởng rằng hắn cũng sẽ sống được như mọi người, nghĩa là bình yên, ngày ngày đi làm việc, cuối tháng trừ tiền ăn, tiền tiêu, còn thì dể dành bỏ vào ngân hàng, gọi là biết lo nghĩ đến tương lai như ai.
Lần nào rồi cũng chỉ được một tời gian, lúc số tiền cất hằng tháng đủ mua được cái vé máy bay hoặc vé tàu thủy để đi đâu xa một chút là y như rằng hắn cảm thấy bứt rứt xôn xao. Thế rồi có một đêm nào, suy nghĩ không kỹ lắm, hắn nằm trằn trọc đợi sáng để dậy lo việc đi xin giấy thông hành.
Thu xếp trả nhà, gửi đồ đạc, sửa soạn chuyện lên đường.
Để tự bào chữa, hắn bảo tại cái số chưa giữ được của nên mới xui ra thế, và hắn sung sướng tay xách va-li miệng nghêu ngao huýt sáo đi từ nhà ra bến xe, lòng không hề thắc mắc vấn vương. Nói rằng hắn không thắc mắc cũng hơi oan, hắn đã thắc mắc rất nhiều mỗi khi nghĩ đến người mẹ già đã thương hắn hơn tất cả, hắn về mẹ hắn chưa kịp mừng cho trọn thì hắn lại đi mất rồi.
Vắng thư, có lẽ mẹ đang lo làm hộ mứt bánh tết cho bà con. Thế nào hắn cũng sẽ có quà. Chỉ có mỗi lần nghĩ đến mẹ là hắn lại thấy bứt rứt hối hận. Hắn chậc lưỡi nói một mình:
– Tí nữa nhất định sẽ có thư.
Hắn bói thầm, tính hắn đã bảo là hay tin nhảm, nhất là hay bói vặt như thế, nào là đi bói phim đầu năm, nào là từ nhà đến trường nếu gặp đủ mấy chục cái xe hơi hiệu gì thì hắn sẽ được chuyện gì. Lần này hắn bói, nếu tí nữa có thư nhà thì tất cả mọi sự sẽ đều may mắn yên lành trong năm tới.
Muốn cho đỡ sốt ruột, hắn đưa tay mở máy vô tuyến điện tìm âm nhạc trong khi đợi giờ phát thư. Chưa nóng máy hắn đã bói nếu có nhạc của Beethoven hay Bach thì hắn sẽ được những gì, nếu là nhạc mới thì trái lại (cái lợi của sự không mua chương trình vô tuyến điện là thế, mua thì đọc biết trước cả rồi, còn bói toán gì được nữa). Đã bảo hắn là con ông thầy bói mà.
Chín giờ hơn, hẳn là người phát thư đã đi qua, lạy trời cho hắn có thư nhà.
Bước từng bước dè dặt xuống cầu thang, hắn muốn kéo dài cái phút chờ đợi ra vì từ xa hắn đã liếc nhìn được qua kẽ hở của hộp thư, hắn đã sung sướng khi thấy có màu trắng của mấy chiếc phong bì nằm bên trong.
Lúng túng mở vội cái khóa nhỏ, hắn đưa tay quơ tất cả mấy bức thư bỏ vào túi. Có thư nhà, có thư nhà, thế là hắn bói được rồi, thế là năm nay sẽ bình yên. Hắn quay vội gót, nhảy ba bậc thang một cho chóng lên đến phòng mà đọc thư. Cố nhiên bức thư nhà được mở ra trước nhất.
Trong lúc đài vô tuyên điện đan phát thanh bản nhạc Cantate số 106 Actus Tragicus của Bach, hắn sung sướng hát theo “Heute wirst du mit mir in paradieshem” (hôm nay đến với tôi ở chốn thiên đường) “mit mir in paradies in paradies”…
Nét mặt hắn thay đổi dần theo với những giòng chữ trong bức thư:
“Em,
“Báo cho em biết mẹ đã mất sau mấy ngày ốm, bác sĩ ở Huế chữa cứ bảo không việc gì, chỉ có mấy cái nhọt nên chẳng săn sóc kỹ, đưa vào nhà thương họ cũng bỏ mặc. Khi chị về chở mẹ vào Saigon thì muộn quá rồi, mẹ đã mất ngay hôm sau. Mẹ nuối em nên không nhắm mắt. Ngày mai này sẽ làm đám.”
Tim hắn muốn ngừng đập khi đọc đến giòng cuối. Có thể như thế được không? Hắn vẫn tin tưởng có ngày gặp lại mẹ, sống bên mẹ, lúc trở về sẽ có mẹ ra đón ở sân bay. Mẹ hắn chưa già, mới sáu chục tuổi, còn bao nhiêu là năm tháng, người ta thọ đến tám chín chục tuổi đó thì sao.
Đọc lại bức thư một lần nữa, bức thư đóng dấu nhà bưu điện Sài gòn rõ ràng chứ đâu có nhầm với ai.
Hắn lần đến trước bàn viết, kéo ghế ngồi thừ ra một lúc, trước mắt hắn bao nhiêu là hình ảnh quay cuồng, những màu áo tang bằng vải thô trắng toát, những vòng hoa phúng, những người đi đưa, những nấm mộ mới đắp còn ẩm đất, rồi gì gì nữa bệnh viện, nhà xác, hòm sơn đỏ v.v…
Tuy thắc mắc nhưng hắn vẫn cứ đi vì hắn biết rằng xa hay gần, mẹ vẫn thương mình và trên đời chỉ có thứ tình cảm ấy là không bị thời gian xóa phai. Nằm nghĩ mãi mà vẫn chưa biết nên làm gì trong ba ngày tết, giá có gia đình ở gần thì cũng về một chuyến cho nó ấm cúng, nhưng gia đình ở quá xa, lại còn thêm tiền vé máy bay, làm việc để dành cả năm mới mua nổi chứ nào có phải dễ dàng đâu.
Ngày xưa đọc tiểu thuyết hắn vẫn thú vị khi thấy tả đến cảnh những người học trò ở tỉnh hoặc ở quê được lên Hà Nội học, mỗi dịp tết hoặc nghỉ hè thì về nhà, được tất cả láng giềng bà con đến hỏi thăm chào đón. Hắn vẫn thèm muốn được sống trong hoàn cảnh ấy, nhưng cuộc sống mỗi người mỗi khác.
Gia đình hắn suốt đời ở tỉnh lớn, hắn lại là con út đâu có được đi xa, vả lại đi xa làm gì khi ở ngay cạnh nhà đã có trường học đàng hoàng, cha hắn quen thân từ ông đốc cho đến các thầy giáo, người làm nhà hắn là bạn đồng chí của người phu quét trường. Vì thế hắn chưa bao giờ hưởng cái thú được về quê ăn tết cả.
Mùa chiến tranh đến, hắn theo mọi người cũng đi đánh nhau, nhưng đi là một chuyện mà về lại là một chuyện khác. Hắn đành chịu ăn liền mấy cái tết xa gia đình, xa tất cả mọi thân yêu, vì thế hắn mắc phải cái bệnh lừng khừng, bệnh của những kẻ cô đơn.
Ngày hắn trở về với gia đình thì cái bệnh lừng khừng của hắn đã thâm nhiễm quá nặng, nan y mất rồi. Hắn cảm thấy hình như hắn và gia đình không còn nói chung một thứ tiếng, thế là hắn lại ra đi.

Cứ như thế, mỗi lần ra đi, mỗi khi đứng trên boong tàu nghe tiếng còi hú quen thuộc, tiếng chào bến khi chia tay, mỗi khi nghe giọng cô chiêu đãi viên đầm ấm báo giờ máy bay cất cánh (không có gì làm hắn mềm lòng bằng giọng của cô chiêu đãi viên ở sân bay Orly), là một cái tết cô độc lại phủ thêm một lớp giá băng lên tâm hồn hắn. Những lớp băng trong như pha lê, người ta có thể nhìn suốt qua thấy rõ bên trong nhưng không thể nào nắm lấy được. Dầu sao những công việc, bổn phận phải làm trong dịp tết đến hắn đã thanh toán xong, đấy là cái việc viết thiếp chúc mọi người. Một hình phạt đối với hắn vì phải nói những gì mà mình không hề nghĩ. Hắn nhớ những lời chúc mạnh khỏe, phát tài, sống lâu, hạnh phúc bằng năm bằng mười năm ngoái. Người ta chúc nhau nhưng sự thật nếu người được chúc không mạnh khỏe, không phát tài, sắp lăn ra chết, sắp ly dị vợ thì họ cũng cóc cần hay họ lại càng mừng. Chỉ trừ có viết thư cho mẹ là hắn không thấy cực hình và quả thật lúc cầm bút, lòng hắn sôi lên với ý định về thăm mẹ, ở với mẹ.
Tính nhẩm thì thư hắn viết đã hơn một tuần nay, máy bay có chậm cũng chỉ độ bốn ngày là thư về đến nhà.
Tính theo trong thư thì người ta đã chôn mẹ hắn từ hai hôm nay. Thế là hết, hắn sẽ không bao giờ được gặp lại. Anh chị hắn được mặc áo tang, đội khăn tang, được ôm xác mẹ phút cuối cùng, được tiễn mẹ ra nghĩa trang.
Còn hắn, thế là hết, không bao giờ được làm cái công việc ấy, những công việc mà mỗi người chỉ làm có một lần trong cuộc đời. Bộ áo tang thì sau hai năm phải bị đốt đi vì kiêng không dám để lại. Thế là hắn không những không được mặc áo tang mà rồi cũng sẽ không được nhìn thấy bộ áo trắng ấy nữa. Hắn mở ngăn kéo tìm tấm ảnh cuối cùng của mẹ, mẹ hắn mặc áo tu mang tràng hạt, đầu tóc bạc trắng, miệng hơi mỉm cười, nụ cười đi đôi với ánh mắt, lấy tay che miệng, chỉ nhìn đôi mắt mà thôi người ta cũng thấy mẹ hắn đang cười. Ngày xưa cha hắn thường nhắc “Tao cưới mẹ mày vì đôi mắt biết cười”, mà thật, ngày xưa mẹ hắn nổi tiếng là đẹp, cái đẹp thuần túy Á Đông đã làm đề tài cho bao nhiêu bài thơ của cha hắn.
Nhưng còn đâu nữa, ngày này, giờ này, phút này mẹ hắn đã chết, đã nằm trong hòm, đã bị chôn xuống đất. Thế là hết, từ nay trong đời hắn đã mất một nguồn an ủi, một nguồn tin tưởng, không còn bao giờ có một tình yêu thứ hai nào đến ủ ấp tâm hồn hắn nữa.
Hắn ngơ ngác nhìn ra bên ngoài, tuyết từ nãy đến giờ u uất ở trên trời, hình như mới nhận được lệnh nên đã xô đẩy chen lấn nhau mà rơi xuống.
Tuyết rơi cũng nhẹ nhàng như những giọt nước mắt, màu tuyết trắng phủ lên mái nhà, phủ lên ngọn cây, phủ lên mặt đất, làm như mái nhà, ngọn cây, mặt đất cũng vì hắn mà mặc áo tang.
Tất cả mái nhà, ngọn cây, mặt đất đều mặc áo tang trong mấy ngày liền, hẳn thế. Chỉ mình hắn là vô phúc, chỉ mình hắn là không được mặc áo tang, chỉ mình hắn là không được nhìn mẹ một lần cuối, không được ôm xác mẹ trong tay, những giọt nước mắt không được thấm lên màu đất mới đắp trên ngôi mộ. Chỉ mình hắn là không được đội khăn tang. Đã thế hắn cũng mở cửa đi xuống đường một lúc cho tuyết phủ lên người hắn, lên tóc hắn để hắn cũng được cái cảm giác mặc áo tang như các anh chị hắn giờ này ở bên nhà.
Giá có ai nghĩ đến hắn, gửi cho hắn một tấm áo, một chiếc khăn thì chắc là hắn sẽ cảm ơn lắm. Và bộ áo ấy ai kiêng thì kiêng chứ hắn sẽ nhất định không kiêng, không đốt. Hắn sẽ giữ bộ áo mãi đến bao giờ vải áo mục nát để nhớ đến người mẹ đã chết.
Ba đêm liền, đêm nào hắn cũng đi đến gần sáng mới về. Hắn đi đâu không ai biết, tất cả mọi người chung quanh đều cho hắn là điên, là bất hiếu, hắn nghe nhưng không cần cải chính. Ngoài mẹ hắn ra, có ai hiểu hắn đâu mà cải.
Nếu người ta biết rằng hôm nào hắn cũng sốt lên đến gần bốn mươi độ, nhưng sốt mấy thì sốt hắn vẫn không dám nằm nhà.
*
Rồi cứ mỗi năm, vào độ tết sắp đến là hắn lại đi lang thang vì hắn đợi gì thì đợi chứ nhất định không bao giờ dám đợi thư nhà nữa. Tuy rằng mẹ hắn đã chết rồi thì cũng chẳng mấy khi hắn nhận được thư ai.
5. Ba ơi Về Ngủ
Chiều nay mặt trời lặn ngoài đồng đẹp quá Chu ơi, tiếc rằng chỉ có mỗi một mình bác đứng ngắm thật là không chán mắt!
Bác Nguyễn vừa lau đôi kính trắng vừa nói chuyện với cô cháu.
– Sao bác đi mà không gọi cháu, thế là bác xấu, bác ích kỷ, bác chỉ muốn hưởng thụ lấy một mình!
Chu nũng nịu trách móc, biết rằng bác rất yêu mình, miễn đừng làm gì quá quắt hỗn láo thì thôi, ngoài ra tha hồ làm nũng.
– Tại lúc bác đi ngang phòng định gọi Chu mà thấy Chu đang chúi đầu đọc sách có vẻ say mê nên bác không muốn làm phiền.
– Sao lại làm phiền, bác đã biết cháu mà đã ôm đến quyển sách là say mê đọc cho đến khi nào đau ngực mới thôi, nếu lúc chiều bác gọi đi thì chẳng những là cháu được xem mặt trời lặn với bác mà lại khỏi phải đau…
Bác Nguyễn cau mặt tỏ vẻ không bằng lòng khi nghe cô cháu nói:
– Thế là cháu hư nhé, lớn rồi phải tự biết săn sóc lấy mình, làm gì cũng phải có điều độ. Cháu làm việc và ăn uống thất thường, ngộ nhỡ ngã xuống ốm thì sao? Ba và bác đâu có thì giờ ở cạnh cháu để săn sóc, như thế là cháu làm cho ba với bác buồn đấy nhé.
– Bác có buồn thì buồn chứ ba không buồn đâu, ba không thương…
– Chu chỉ nói bậy, sao ba lại không thương Chu…
Bác Nguyễn đã lau xong đôi kính, mang lên mắt ngay ngắn rồi cúi xuống đống hồ sơ đọc nốt, trong khi cô cháu gái cũng trở lại với quyển sách của mình. Đêm nào cũng thế, Chu mang sách vở sang phòng bác Nguyễn làm việc để học chung cho đỡ tốn một ngọn đèn. Bác Nguyễn với ba chỉ là đôi bạn cũ, gặp nhau trong thời loạn, rồi vì hoàn cảnh thuận tiện nên ở chung.
Hai người tuy khác hẳn tính nhau nhưng rất quý nhau, họ bảo hai thái cực dễ bắt tay nhau là thế. Bác Nguyễn tuy theo Tây học nhưng đã hấp thụ được từ thuở bé một nền giáo dục cổ nên bác biết dung hòa hai lối sống. Bác vẫn luôn luôn giảng cho cô cháu nghe những câu triết lý trong sách Khổng Mạnh, trong các thứ kinh khác nhau thế nào, kinh Dịch, kinh Thư, kinh Thi, kinh Lễ và kinh Xuân Thu. Nhất là trong kinh Dịch phần quan trọng nó ở đâu, bác vẫn bảo không phải chỉ đọc thuộc làu “Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi v.v…” mà bảo rằng biết Dịch. Bác muốn Chu phải hiểu Dịch qua phần triết lý đạo đức chứ không phải chỉ hiểu qua phần bói toán bốc phệ mà thôi.
Tuy vậy không phải bác là người cổ hủ hoàn toàn, trái lại bác làm việc rất có phương pháp. Bác vẫn là gương mẫu cho tất cả các bạn bè chung quanh, ai cũng quý mến và kính trọng.
Ba là một con người nghệ sĩ, đã nghệ sĩ lại thông minh, tài hoa, khi nào ba cầm đến cây đàn thôi thì khỏi phải nói, bà nào yếu bóng vía đêm ấy về nhà tha hồ mà thao thức. Đã nghệ sĩ ba lại còn thêm có số đào hoa, hay là hai thứ ấy vẫn đi đôi với nhau chăng. Mỗi lần nghe ba hắt hơi hai lần tức thì nhà láng giềng thế nào cũng có người gửi dầu nhị thiên đường sang.
Ngoài những thứ tài riêng, ba lại còn là một con người rất thông minh, rất khôn ngoan, lúc nào cũng biết tính toán sự lợi hại. Ai đi đâu với ba thì giữa đường dù có gặp mưa bão cũng không bị ướt qua một manh áo. Bác Nguyễn và Chu vẫn đặt tên ba gọi là “ông bốn mươi răng”. Người ta thường chỉ có ba mươi hai cái răng, trong số ấy có bốn cái răng khôn. Thấy ba khôn ngoan quá, chắc ba phải có thừa đến tám cái răng khôn nên mới được đặt tên như thế.
Nói gì ba cũng chỉ cười, trả lời lại rất vui vẻ, đấy cũng là một trong những sự khôn ngoan của ba.
Chu là con nuôi của ba, thời loạn người ta hay cảm thấy cô độc vì thiếu cha mẹ, anh em, gia đình nên ai cũng muốn tìm đến những cảm tình để thay thế.
Tại sao ba và Chu lại quen nhau cũng không ai biết rõ, Chu gọi ba bằng ba từ trước ngày có loạn nhưng độ ấy còn sống trong gia đình, Chu chưa cảm thấy cô độc nên cảm tình giữa ba và Chu cũng chưa đậm đà mấy. Sau này gặp lại, ba thấy Chu hoàn toàn “tứ cô vô thân” nên cảm tình mới nhân lên.
Bác Nguyễn mến Chu ngay từ buổi đầu vì Chu nhắc bác nhớ đến Hương, con gái bác hiện đang ở quê nhà, một trong những vùng chưa bị chiến tranh lan tràn đến. Bác Nguyễn vẫn thường bảo Chu:
– Thấy cháu bác cứ nghĩ đến Hương, biết đâu ngày nào giặc đến vùng bác, Hương cũng sẽ bị lạc gia đình rồi cũng phải đi làm việc để kiếm cái sống như cháu. Bác chỉ mong sao cho Hương cũng sẽ được may mắn như cháu.
Ý hẳn bác muốn nói đến cái may mắn là Chu ở được mọi người không ghét vì có những người ở đâu thì chẳng mấy lâu đã xảy ra những chuyện gây gổ giận hờn, gieo rắc những sự bực mình cho người chung quanh. Theo lời bác thì đó là một trong những cái không may của một con người.
Lòng thương con gái và quý bạn khiến bác coi Chu cũng như chính con của mình, vì thế tha hồ cho Chu làm nũng.
Vùng này của bác và ba ở là một vùng còn an toàn không xa mặt trận mấy, có những hôm xuôi gió, dân trong vùng vẫn nghe rõ những tiếng súng đại bác của hai bên bắn qua bắn lại. Vì là vùng còn an toàn nên mới có đủ nhà thương thường học, và Chu ốm nên được về đi học.
Từ độ có thêm Chu, bác Nguyễn và ba phải dọn ở chung một phòng để nhường phòng bên cạnh cho cô cháu gái.
Thấy ba và bác Nguyễn cưng Chu nên mọi người cũng bắt chước cưng theo, bạn trai cưng để được lòng ba với bác, bạn gái cưng để hy vọng…
Ba thường vuốt tóc Chu và hẹn:
– Bao giờ xin được thôi làm việc cho chính phủ, ba sẽ về mở phòng luật sư lấy tiền nuôi Chu ăn học.
Tối nào cả ba người cũng xúm quanh ngọn đèn làm việc, thỉnh thoảng ngừng lại uống cốc nước hoặc kể cho nhau nghe những mẩu chuyện xẩy ra trong ngày.
Chu kể chuyện nào là hôm nay thầy giáo Chu cưới vợ nên được nghỉ giờ ấy, nhưng nghe đâu cô giáo chê thầy giáo già nên đến đêm cô giáo trốn mất, làm thầy giáo phải đốt đuốc đi tìm suốt đêm, hoặc là chiều nay Chu đi học về gặp ông Hành Tây, mặt cứ buồn thỉu buồn thiu, có lẽ tại lâu ngày không được ăn hành tây.
Bác Nguyễn cứ cười mãi về chuyện ông Hành Tây của Chu, có gì đâu, độ ấy hành tây rất hiếm, chỉ có Hà Nội mới thấy bán. Một hôm ông Hành Tây (độ ấy ông ta chưa mang cái tên ấy) được vợ gửi từ Hà Nội ra cho một gói quà, bên trong có kèm thêm một củ hành tây. Chắc hẳn là bỏ nhầm chứ ai lại đi gửi có mỗi một củ hành tây bao giờ. Nhưng không sao, cái gì hiếm vẫn quý, ông ta mừng rỡ đi đâu cũng mang theo củ hành tây trong túi áo, ngay cả lúc đến sở làm việc. Cất ở nhà ông ta lo ngộ nhỡ giặc có thả bom cháy mất cả củ hành tây thì sao. Đợi cho đến ngày phiên chợ, là ngày mà tiệm phở ngon nhất vùng có treo tấm biển lớn trước cửa “Hôm nay có thịt bò”, thế là ông ta vào tiệm chễm chệ ngồi, gọi ngay một bát phở lớn (bằng hai bát phở nhỏ), mượn chủ nhà hàng một con dao, không quên nhờ liếc lại cho một lần nữa, rồi trịnh trọng tự tay thái từng lát hành tây nhỏ bỏ vào bát phở. Trình bày xong bát phở nào chanh, nào tiêu, nước mắm, ớt đâu vào đấy cả rồi, ông ta mới ngồi ngắm cái tác phẩm của mình, nuốt nước bọt ừng ực mấy cái rồi mới bắt đầu xì xụp ăn.
May mà chợ có hai phiên một tuần, chứ nếu không thì củ hành để lâu trong túi nó sẽ nẩy mầm lên thì còn gì là thơm ngon. Ăn xong bát phở mặt mày ông ta rạng rỡ như có hào quang chiếu vào mặt. Giá lúc ấy có bom nổ trúng vào đầu chết ngay đấy chắc ông ta cũng vui lòng. Vì thế nên ông ta mới được mệnh danh là ” ông Hành Tây”.
Đấy là chuyện của Chu, chuyện của bác Nguyễn không ra ngoài những vụ kiện cáo ly dị, trộm cắp, án mạng hằng ngày. Trái lại ba không bao giờ nói đến công việc vì ba khôn, chuyện của ba là bà nọ cưới ông kia, ông kém bà những mấy chục tuổi, các con bà ta không bằng lòng.
Nếu bác Nguyễn có nhăn mặt hay Chu có phản đối thì ba bênh vực ngay, ba bảo rằng ở đời phải có tự do, mấy người còn hủ bại lắm, cán bộ gì Chu mà lạc hậu. Hoặc là hôm qua thằng Nhật đi chơi về khuya hay sao nên bị vợ khủng bố cho, sáng ngày đến sở mặt mày cứ lì lì ra.
– Khủng bố trắng hay là khủng bố đỏ đó hở ba?
– Trắng với đỏ là thế nào?
Bác Nguyễn ngơ ngác hỏi.
– Đỏ là có ăn đòn, trắng là chỉ bị mắng một trận thôi!
Bác Nguyễn lắc đầu nhìn cô cháu gái:
– Cô này đến nhiều chuyện, học đâu ra những chữ ấy đấy?
– Anh không biết Chu là cô cán… gáo ư mà còn hỏi!
Ba vui vẻ giả lời bác Nguyễn thay Chu, ba vẫn thường hay kêu là Chu hôi sặc mùi chính trị, trong nhà có con chó hay sủa vặt, bác Nguyễn cứ đùa bảo rằng sao mà giống Chu thế.
Mặc những sự chế riễu của ba với bác, Chu vẫn hay sủa vặt như con chó, ba vẫn đào hoa và bác vẫn gương mẫu. Cuộc sống bình thản qua.
Nếu cứ mãi như thế thì chẳng có gì đáng nói, nhưng mấy hôm nay sao chỉ thấy mình bác Nguyễn và Chu ngồi bên ngọn đèn, ba đi đâu mất.
Tuy không ai bảo ai nhưng cả hai bác cháu cùng có ý đợi. Chu biết rằng bác Nguyễn buồn nhưng thương và nể bạn nên không muốn nói, còn bác Nguyễn tuy im lặng nhưng cũng để ý thấy cô cháu gái chốc chốc lại đưa tay nhìn đồng hồ. Một tiếng động nào cũng làm cho hai bác cháu giật mình mừng rỡ nhìn ra phía cửa, hoặc lắng tai nghe ngóng. Trong bầu không khí đang lặng lẽ bỗng bác Nguyễn lên tiếng:
– Ba tệ thật, đêm nào cũng hai, ba giờ sáng mới về ngủ, người đã yếu, da xanh lướt ra mà cứ thức đêm mãi như thế này thì rồi đến ho lao mà chết mất.
Nghe bác Nguyễn nói, Chu ngừng đọc sách ngẩng lên nhìn những con thiêu thân quanh ngọn đèn đang vờn bay, trong trí thầm vẽ ra những cảnh nhà thương với mấy gian phòng nhỏ dành riêng cho những người bệnh lao. Nhà thương của thời chinh chiến đâu có phải như nhà thương của thời thanh bình. Chu như đang thấy rõ hình ảnh ba xanh xao, nằm nép mình trong một góc giường, để rồi thỉnh thoàng lại húng hắng ho. Chu lo sợ hỏi lại bác Nguyễn:
– Sao bác không bảo ba, ba vẫn nể bác…
– Bảo thế nào được, ba có phải là trẻ con đâu. Bác cũng không hiểu vui sướng gì cái trò đánh mạt chược ấy mà mê đến thế.
Giọng Chu buồn buồn trả lời:
– Hẳn ba đang có gì khổ tâm mà không nói, ba muốn tìm quên trong mấy con bài mạt chược ấy chăng?
Bác Nguyễn có vẻ suy nghĩ sau khi nghe Chu nói:
– Nếu sự thật có như thế thì ngày mai bác sẽ nói với ba, có ai đi tìm sự lãng khuây trong cờ bạc bao giờ, đấy là con đường đi xuống vực. Bác và cháu có bổn phận phải can ngăn, ngày mai Chu giả vờ khóc, còn bác giả vờ giận, xong rồi bác nói trước và Chu sẽ nói thêm sau, xem là bác cháu ta có hơn được mấy con bài không.
Chu mỉm cười nghe, lòng nhẹ như những khi đi hành quân xa mà được lệnh nghỉ chân ngồi bệt ngay xuống bên vệ đường dưới bóng cây, cất cái bị quần áo trĩu nặng trên vai.
Từ giã bác Nguyễn về phòng mình, Chu còn nằm thao thức mãi. Chu sẽ nói thế nào cho ba nghe, thường ngày Chu nói gì cũng hay bị ba gạt ngang bằng câu “trẻ con biết gì mà nói”.
Chu cũng tự biết rằng mình chỉ giỏi chính trị vặt với người ngoài, còn ở nhà với ba và bác thì Chu chỉ là một chú chó nhỏ hay sủa vặt. Tuy Chu cũng biết rằng ba rất thương mình, chẳng thế mà có hôm Chu đi lên cơ quan, ba đi họp hội nghị. Giữa đường nghe máy bay bắn ở vùng Chu đi qua, ba lo sợ đến nỗi lúc dừng xe đạp bên đường uống nước, mải nghĩ đến Chu nên lúc ra đi để quên lại cả cái cặp tài liệu quan trọng. May mà anh liên lạc đạp xe đi lấy lại được, nếu không thì nguy biết mấy.
Lúc trở về gặp lại Chu ba mừng quá bỏ cả việc, ngồi bên Chu suốt buổi nghe Chu kể chuyện con cà con kê chẳng đâu vào đâu, thỉnh thoảng ba lại xoa đầu Chu và bảo thầm như chỉ để một mình nghe:
– May quá, ba chỉ sợ Chu có việc gì…
Hôm ấy ba khao cả nhà một chầu phở, bảo rằng để mừng cái cặp tài liệu không mất.
Nằm nghĩ vẩn vơ một lúc, Chu vùng dậy đánh diêm châm cây đèn dầu tây nhỏ lên, lấy giấy bút định sẽ viết cho ba mấy giòng hay là một bức thư dài, như thế Chu khỏi phải nói gì cả, trong lúc ba đọc thư Chu sẽ chạy trốn mất và sẽ khỏi trông thấy những nét thay đổi trên mặt ba. Hoặc là ngày mai Chu sẽ cài bức thư trên tập công văn mà người tùy phái vẫn soạn để sẵn ở bàn mỗi sáng cho ba xem.
Cắn bút một lúc, ngoài hai chữ “Ba ơi” ra Chu chưa viết gì thêm nữa. Chu định sẽ nói với ba rằng đánh bạc xấu lắm, Chu sẽ lặp lại những bài luân lý cũ nói về sự hại của bài bạc, nhưng trước mắt Chu đang ẩn hiện mấy con bài hình chữ nhật bằng sừng và bàn tay của ba đang xoa lên trên. Bàn tay thường vẫn hay vuốt tóc Chu mỗi khi ba hẹn “Bao giờ xin được thôi làm việc cho chính phủ để ra mở phòng luật sư…”
Chu cắn môi cố nén những giọt nước mắt cứ muốn trào ra. Không phải Chu giận ba, Chu chỉ ghét mấy con bài mạt chược và người nào đã bày ra cái lối chơi mất thì giờ ấy.
Có lẽ ngồi đến sáng Chu cũng không viết gì thêm. Nghe có tiếng mở cổng lách tách bên ngoài, Chu định thổi đèn để ba đừng biết Chu thức khuya thì ba sẽ không bằng lòng.
Chu viết vội tiếp theo hai chữ “về ngủ” sau hai chữ “ba ơi” lúc nãy.
Thế là vẻn vẹn có bốn chữ trong bức thư mà Chu sẽ gửi cho ba, nhưng không sao, đã có bác Nguyễn, và ba vẫn rất quý bác, thế nào Chu với bác cũng sẽ thắng trận.
Tiếng chân ba vào đến sân phơi lúa, Chu thổi phụt ngọn đèn rồi lặng lẽ đi lần đến giường nằm trùm chăn đợi sáng.
Sáng mai Chu sẽ dậy sớm đến cài bức thư ấy lên tập công văn của ba. Chu muốn ba sẽ đọc thư Chu trước khi đọc những gì khác.
… có tiếng gà bắt đầu gáy…
6. Cánh cửa sắt
Tiếng rít mạnh của cánh cửa sắt nhà bên làm Quân giật mình, mắt rời vội những hàng chữ, bàng hoàng một chút rồi cúi xuống ngay, ngỡ rằng cửa đã đóng xong. Nhưng không, lại một tiếng rít nữa, lần này Quân phải quay đầu nhìn, thì ra người chủ vừa đóng cửa vừa mải nói chuyện với láng giềng nên cánh cửa lúc nãy chỉ được kéo đến lưng chừng. Một tiếng giật cuối cùng, tiếp theo tiếng khóa lách tách, thế là xong.
Quân thở dài thoát nạn, cúi xuống đọc nốt quyển sách, chưa đọc hết trang thì tiếng rít của cánh cửa sắt ban nãy lại vang lên, lần này thì bực mình lắm rồi. Một bóng người lách ra ngoài, Quân gập sách đưa mắt nhìn theo.
Đây là bóng người ở ra mua quà cho cô chủ, trước mắt Quân hình ảnh cô gái cưng của gia đình đang nũng nịu chê cơm.
– Không ăn cơm đâu, ăn mì cơ.
Thật là khổ, tội nghiệp cho những ai nghèo, phải vào ở làm công cho những gia đình trưởng giả, trong ấy “lềnh bềnh” mấy cô tiểu thư đài các.
Quân đặt quyển sách xuống thềm, biết rằng sẽ không đọc được vì chốc nữa cô bé ở kia còn phải mang quà về, cánh cửa sẽ còn được rít lên lần nữa.
Giờ này thì còn bao nhiêu nhà sắp đóng cửa, bình thường động nghe tiếng sắt chạm vào sắt là Quân rùng mình ghê cả người vội vã tránh ra ngay, hôm nay không biết tránh vào đâu, đành phải ngồi lì ở thềm vậy.
Thờ thẫn nhìn khắp dãy phố, Quân lẩm nhẩm đếm xem cả con đường có được bao nhiêu cửa sắt, nhưng đường dài quá mà tầm mắt người chỉ nhìn được đến một đoạn nào thôi, chỉ mới một đoạn mà đã có đến mấy chục cái cửa sắt rồi.
– Thì ra ở đây cũng lắm nhà giàu nhỉ.
Quân vốn sợ những nhà giàu kín cổng cao tường, cũng như sợ những cánh cửa sắt rít mạnh, giống hệt cái giọng đay nghiến của người mẹ ghẻ cay nghiệt. Quân khẽ nhắc lại:
– Thì ra ở đây cũng lắm nhà giàu nhỉ.
Nếu không giàu tại sao người ta lại phải để cửa sắt làm gì. Hồi tưởng lại những ngày thênh thang cũ ở miền núi, chẳng bao giờ biết đến cửa, đến ngõ. Thời xưa, không biết tự thời nào có người đã hằng mơ đến những cảnh thanh bình mà làng này nhìn sang làng kia mà không bị những lũy tre xanh vướng mắt, gà làng này gáy vang tận đến các thôn khác, loài người gặp nhau đều vui vẻ chào hỏi, không cần phải có những sự giới thiệu kiểu cách. Làng không rào thì nhà cũng khỏi phải đóng cửa, thiên hạ tha hồ mà yêu thương nhau.
Nhưng cần gì phải thời nào xa, độ Quân còn ở cái làng Quân Tín cũng thế. Cửa được hạ xuống làm giường khỏi phải nhọc công đóng, mở. Ban đêm tha hồ cho gió hắt sương vào, mát không cần phải quạt. Cố nhiên mùa rét thì cũng hơi phiền, nhưng trong hơi lạnh vẫn có một sự thú vị vô biên. Nội một chuyện, mỗi khi mở mắt mà được trông thấy ngay ánh trăng hay ánh sao đang chầu chực bên mình, thế còn đòi gì nữa.
Mấy nhà giàu nghe kể đến chuyện hạ cửa làm giường nằm, họ đã run rẩy hỏi:
– Thế ngộ nhỡ có trộm cắp thì sao?
Họ quên rằng những đứa như Quân thì còn có gì để gợi lòng tham của ai. Giang sơn có hai bộ quần áo, một bộ mặc trong người, còn bộ kia đang phơi ngoài sân. Dăm quyển sách gối đầu (thế vẫn còn hơn Chử Đồng Tử) và một tấm lòng mơ ước. Ước được đi khắp mọi nơi, đến bao giờ gục xuống bên lề đường mới hết đi.
Quân vẫn thường nói chuyện với các bạn, chắc trong giòng họ mình có lai máu du mục mới hay đi như thế.
Lại một tiếng cửa sắt nữa rít mạnh, nhà trước mặt đóng cửa, tiếng cửa sắt đã kéo giật Quân ra khỏi những ý nghĩ lan man. Thế mà hôm nọ vác va-li đi tìm chỗ trọ, có một nhà giàu nhất định đòi cho ở, nhà giàu mà chịu cho ở cũng là một sự lạ, hẳn phải có lý do gì, vì theo kinh nghiệm của Quân vẫn thấy thì nhà giàu bao giờ cũng tính toán, có tính toán mới giàu.
Nếu không vì hai cái cửa sắt đằng trước và đằng sau sừng sững như ngờ vực những ai ra vào thì có lẽ Quân đã dọn đến đấy ở ít lâu để xem vì lý do gì mà họ tốt.
Tiếng rít của cánh cửa một nhà khác lại bắt đầu vang lên hưởng ứng với các láng giềng cửa sắt khác. Cần gì phải tìm biết chủ nhân, đi ngang nhà ai mà thấy có cửa sắt là cứ tin ngay rằng họ thuộc về hạng giàu sang, sợ trộm cắp, đếm cảm tình như đếm bạc giấy. Rồi cứ thế Quân liên miên nghĩ đến những cánh cửa sắt nặng nề của chốn ngục tù âm u. Quân rùng mình muốn xua bớt những hình ảnh quá đen tối ấy.
Tại sao người ta phải giàu, giàu để rồi lo sợ thấp thỏm mất ăn mất ngủ, thấy ai đến thăm cũng nghi ngờ, nghe một tiếng động chạm, tiếng chân người chạy hay tiếng bánh xe nổ cũng tưởng quân cướp có súng đang sắp đến nhà, vội vàng vơ lấy túi bạc ôm vào mình run như lên cơn sốt rét. Sáng chiều phải làm quen với những tiếng rít của cánh cửa sắt.
Quân mỉm cười bởi những ý nghĩ lẩn thẩn của mình, rồi lại tự hỏi không biết có ai đặt cửa sắt vào tâm hồn chăng?
Hôm nay Quân sắp rời nhà trọ đi tìm chỗ khác vì chủ nhà quá đông con, Quân băn khoăn chưa biết tìm đâu, không khéo lại phải đăng báo: “Cần tìm chỗ trọ ở một gia đình trung lưu, nhà có cửa sắt thì xin miễn giả lời”. Đi tìm chỗ trọ mà nghênh ngang như thế thì còn ai thèm cho ở.
Trời chập choạng tối, đường phố đã lên đèn, qua những ô chàm của mấy cánh cửa sắt, nhà nào cũng sáng rực dưới ánh đèn nê-ông, thấp thoáng bóng các ông, bà, cô, cậu chủ nhà đang đi lại một cách tin tưởng, yên lòng vì cửa sắt đã khóa kỹ.
Quân bỗng tự thấy mình vô lý, biết đâu ngày nào trở nên giàu Quân lại chẳng quá quắt hơn họ, thật đấy, Quân vẫn đùa với các bạn rằng nếu giàu Quân sẽ thuê tây đen đứng gác cổng.
– Hay là ta ganh với họ chăng?
Không, Quân đâu có ganh, Quân đâu có muốn giàu, mà giàu để làm gì mới được chứ. Bằng cấp, danh vọng, tiền bạc mang cho nhiều vào mình chỉ lụy thân mà thôi, cố nhiên là ở đời mỗi người cũng nên có cái tối thiểu, nhưng…
Từ độ lang thang không nhà, mẹ Quân về tu ở một ngôi chùa nhỏ trên núi vắng, và cái máy vô tuyến điện cũng phải đem gửi ở nhà một người bạn, vì con người đi ở trọ nay đây mai đó, chả nhẽ lại vác cả cái máy vô tuyến điện to tướng ấy theo.
Quân thở dài nghĩ thương mẹ, thương mình và thương luôn cả cái máy vô tuyến điện bơ vơ.
Khắp đường phố đã rực rỡ đèn, nhà nào nhà ấy đã khóa chặt mấy cánh cửa sắt. Có tiếng gọi vọng ra:
– Quân ơi, vào mà ăn cơm!
7. Lão Duy Minh Và Con Nhện
 Lại La Tocata, thật đến là khổ.
– Cái chổi đâu, đưa tao dộng lên cho lão mấy cái, sáng vừa thức giấc đã bắt nghe âm nhạc cổ điển!
– Ối dà, thỉnh thoảng cũng phải cho lão say một hôm…
Trong lúc ấy thì quả thật là lão Duy Minh đang bắt đầu say sưa trong tiếng nhạc. Giang sơn của lão hiện giờ chỉ còn lại mỗi một cái đàn dương cầm, cái đàn theo lão từ mấy chục năm nay, ngày lão còn là một thanh niên trai trẻ hay chơi nhạc ở nhà thờ trong vùng.
Lão nhớ mãi cái thuở mà mỗi chủ nhật phải dậy sớm ăn mặc chỉnh tề ra nhà thờ đợi lễ, ngoài ra khi có đám cưới, đám tang ở nhà thờ, người ta cũng có mời lão. Lão nhớ cả đến từng đôi mắt sáng ngời đang chăm chú nhìn vào đôi bàn tay của lão, những đôi má đỏ hồng lên mỗi khi những cái nhìn ấy bị lão bắt chợt.
Nhưng cảm tình đối với lão không quan trọng bằng âm nhạc, nhất là âm nhạc của những buổi lễ. Bao nhiêu tâm hồn trí não lão đặt cả vào mấy ngón tay. Âm nhạc đối với lão thiêng liêng quá, lão không thể nào nghĩ đến một sự gì khác lúc mà giọng đàn, dưới sự điều khiển của mấy ngón tay lão bắt đầu ngân lên, hòa nhịp với những giọng ca trẩm bổng của các tín đồ.
Lúc ấy, thôi thì không còn thời gian, không gian, không có một ý nghĩ nào dám lẩn quất trong đầu óc lão nữa.
Có những khi tập dượt về khuya, không kịp ăn uống gì cả, sáng lại phải dậy đi đàn lễ sớm, thế mà lúc vào đàn lão không hề nhớ đến cái dạ dày gần hai mươi tiếng đồng hồ chẳng có lấy một mẩu bánh mì nhỏ.
Cố nhiên lúc xong lễ thì lão phải vội vàng ra quán gọi ngay một cái “xăng uých” và một cốc rượu đỏ, ăn uống vào rồi mới tỉnh người mà đi bộ về nhà. Quanh năm lão vẫn chờ mong các dịp lễ lớn, mỗi ngày ít ra cũng hai lần âm nhạc, tha hồ đàn, tha hồ say mê.
Cái đàn orgue ở nhà thờ cũng quen thuộc với lão như cái đàn dương cầm của lão ở nhà, lão biết nó, thuộc nó từ một vết sẹo, một sợi tơ chùng hay căng, màu gỗ chỗ nào bóng chỗ nào mờ. Tính ra cái thời gian lão sống với hai cây đàn còn nhiều hơn cái thời gian lão ăn, lão ngủ.
Mộng của lão là một ngày kia, có cách nào để được lên Paris, lão tưởng tượng được nếu được đánh đàn một lần ở nhà thờ Notre-Dame chắc lão sẽ điên lên vì sung sướng. Nhưng Paris, trời ơi Paris chỉ có một Notre-Dame mà bao nhiêu nhân tài đang chờ đợi, ai cần đến lão.
Nhưng nếu mộng là nguồn an ủi giúp con người thêm phấn khởi để sống thì tại sao lão lại không cứ mộng đi. Hơn thế nữa, có khi lão còn dám tưởng tượng đang đánh dương cầm trong một buổi hòa nhạc đặc biệt ở trước mặt bao nhiêu thính giả. Thứ thính giả sành sõi, chọn lọc, thông minh, thứ thính giả biết phân biệt cái Messe en si mineur của Bach nó khác cái Messe en si bémol của Haydn như thế nào. Thứ thính giả biết lơ mơ buồn khi nghe những đoạn adagio của Beethoven, biết im lặng kính cẩn khi nghe Gloria của Mozart, biết gật gù những lúc đáng gật gù và biết vỗ tay chỗ nào phải vỗ tay.
Lão còn thấy chung quanh mình có bao nhiêu nhạc công đang điều khiển các thứ nhạc khí khác, và người nào cũng say mê thành kính như lão. Sau lưng các nhạc công lại còn hai hàng ca công nam nữ, đủ các giọng trầm bổng, lúc thì ồ ạt cất giọng đồng ca hòa trong tiếng đàn ca của lão, lúc thì im phăng phắc để cho một mình lão với các nhạc công khác tấu nhạc.
Có ai hiểu được những giấc mộng của lão…
Và cứ thế lão kéo cuộc sống, lão cần gì phải có nhiều tiền, miễn là đủ mỗi ngày ba bữa ăn để lấy sức ngồi trước cây đàn, không cảm thấy dạ dày cồn cào lên tiếng, thế là sống rồi.
Hơn ba mươi tuổi mà lão chưa hề có ý nghĩ lập gia đình. Các cô gái trong vùng lần lượt bỏ đi lấy chồng cả, lão cũng chẳng tiếc, chính lão đã đàn cho bao nhiêu lễ cưới ở nhà thờ.
Không phải là lão hờ hững hoặc vô duyên nhưng chỉ vì lão trót biết rằng không có người đàn bà nào chịu hy sinh một đôi bí tất mỏng để chồng có thể mua thêm một tập nhạc mới xuất bản. Ngoài ra lại còn phải giày, dép, áo mặc trong, mặc ngoài, phấn son, nước hoa, rồi thêm quà bánh, đi chơi, sinh nhật của vợ, của mẹ vợ v.v…
Mỗi lần lão mới nghĩ đến chưa quá năm phút là đã cảm thấy nhức đầu lên vì những tràng bổn phận. Chưa kể đến cái sự phải hy sinh thì giờ ngồi trước cây đàn để ngồi cạnh bà ấy nghe bà ấy nói những câu vớ vẩn khoe anh, khoe em. Thôi thì đành mặc cho láng giềng thiên hạ muốn nghĩ thế nào thì nghĩ. Đời mỗi người chỉ có thể say mê một thứ, và nghệ thuật nếu quả đã chân thành yêu thì dầu là cây đàn, ngọn bút sắt, bút lông hay sân khấu cũng đòi hỏi rất nhiều, cũng khó tính, tham lam đối với nghệ sĩ giống hệt như người đàn bà đối với chồng. Lão Duy Minh vừa đánh đàn vừa lim dim đôi mắt hấp hem sau cặp kính trắng, cái đầu gật gù theo nhịp của giòng nhạc. Cây đàn cũng già nua như lão. Thỉnh thoảng lão hơi ngước đầu lên để nhìn con nhện, tay vẫn thoăn thoắt lướt trên phím đàn.
Chỉ có con nhện là hiểu tiếng đàn của lão, hai năm nay ngày nào lão đánh đàn là y như con nhện thả tơ xuống lơ lửng trên cây đàn trước mặt lão để lắng nghe. Mấy hôm đầu lão không để ý, hoặc là có nhìn mà không thấy. Khi lão đã ngồi vào đàn thì vũ trụ đâu còn nữa. Nhưng rồi một tuần, hai tuần, ba tuần, một tháng qua, mỗi lần lão đàn độ năm phút là con nhện thả tơ xuống đầu rồi lơ lửng trước cây đàn cho đến lúc lão ngừng phím thì mới kéo tơ lên và lên theo trên trần nhà.
Bây giờ thì lão quen lắm rồi, lão Duy Minh và con nhện đã trở nên một đôi bạn rất thân. Trong lúc mọi người đều xa lánh lão, chê lão già nua cổ lỗ, mỗi lần lão đàn là có tiếng chổi dộng thình thịch ở gác dưới đưa lên, có tiếng hét la, đập cửa.
Cái bọn trẻ ở gác dưới thật là ồn ào, từ độ chúng nó dọn đến thôi thì cả ngày nhảy nhót ca hát, và cái máy hát không ngừng rú lên những bản “rock” giật gân cho chúng nó nhảy.
Có một lần đi qua, lão tò mò đứng lại xem chúng nó đang nhảy, lão có cảm tưởng đang đứng trước một lũ người vừa điên vừa câm, chỉ biết múa men nhảy nhót và thở hồng hộc, nhễ nhại mồ hôi, vì không la hét được nên lại càng phải nhảy múa nhiều hơn, còn đâu những điệu nhảy dịu dàng êm ái mà mỗi một bước chân là một lời thơ.
Chúng nó gọi lão là lão già điên, còn lão thì quả thật là không thể nào hiểu được những cái trống cối chảo vỡ đập chan chát vào tai ấy.
Chỉ mỗi mình con nhện là hiểu lão, từ hai năm nay lão không cảm thấy cô độc nữa, vì lão biết rằng đời có một “người” hiểu lão, một tâm hồn thông cảm với lão. Thế không đủ lắm rồi sao.
Lão biết chỗ con nhện giăng tơ cũng như con nhện biết chỗ lão nằm, chỗ lão ăn, và nhất là chỗ lão sống, cạnh cửa sổ nhìn ra mái nhà láng giềng có mấy cái ống khói xám đen: chỗ đặt cây đàn dương cầm.
Còn gì thú vị hơn đời có một kẻ hiểu mình mà không làm bận rộn mình. Càng ngày Lão Duy Minh càng cảm thấy nặng tình với con nhện. Trước kia mỗi khi ngồi vào đàn là lão đàn lên ngay như tất cả mọi người nhưng từ hơn một năm nay, khi lão thấy rằng con nhện quả thật là kẻ biết yêu nhạc thì lão đâm ra cẩn thận xem con nhện như một người bạn, lại thấy cần phải giảng giải cho con nhện hiểu rõ hơn.
Theo ý lão, muốn tận hưởng âm nhạc thì phải biết thu nhận bằng tâm và phân tích bằng trí mới gọi là biết tận hưởng. Vì thế trước mỗi khi đàn lão Duy Minh ngồi ngước mặt lên trần nhà chỗ con nhện giăng tơ và nói rất khẽ “hôm nay tao đánh cái Sonate en Fa mineur Appasionata của Beethoven, hoặc đây là một đoạn Tedeum của M.A. Charpentier…”.
Lão chỉ nói đủ cho con nhện và lão nghe vì lão tin chắc rằng con nhện cũng hiểu như lão đã hiểu. Chỉ những người cô độc mới hiểu nhau, mới tìm đến nhau để yêu nhau như con nhện đã tìm đến lão.
Giá Lão Duy Minh là tín đồ Phật giáo chắc lão sẽ giảng theo thuyết luân hồi mà cho rằng con nhện và lão kiếp trước đã từng có duyên nợ với nhau hoặc đã trót hẹn hò với nhau nên kiếp này, dù mỗi người mang một hình hài khác nhau những vẫn tìm đến nhau để được trọn lời nguyền từ kiếp nào xưa.
Có một đêm lão nằm mơ thấy con nhện biến thành một người đàn ông, già cũng trạc tuổi lão, đến bàn luận về âm nhạc với lão, không biết có phải trong giấc mơ ấy ông bạn nhện già đã nói cho lão biết rằng “khi Beethoven chết người ta đã mổ xác và mổ cả lỗ tai để khám nghiệm. Trong tai chứa đầy một chất nhờn đặc sền sệt, có lẽ vì thế nên lúc sống, mặc dầu nhà nhạc sĩ đã dùng đủ thứ ông loa đặt vào tai cũng vẫn không nghe được gì hơn”.
Lão Duy Minh không nhớ rõ đấy là do ông bạn nhện đã nói cho lão biết trong giấc mơ hay là lão đã đọc trong một quyển sách nào từ lâu lắm, có lẽ thuở còn trẻ, một lần sang Bonn đến viếng gian nhà của Beethoven và xem những kỷ vật lúc sinh thời của nhạc sĩ.
Từ độ thôi không đàn nhà thờ vì già yếu, lão dọn về sống thu lại trên một căn gác nhỏ ở từng thứ sáu. Cái nhà trước của mẹ lão để lại, lão đã bán theo lối đợi chết. Người ta trả cho lão một số tiền đầu và mỗi tháng một số tiền nhỏ, lão chóng chết thì người ta mừng, lão kéo dài tuổi thọ thì người ta phải chịu khó đợi. Nhờ thế lão mới có tiền để đổi căn gác xép và thuê chở cái đàn dương cầm quý báu nhất lên từng thứ sáu.
Mỗi ngày lão Duy Minh thức giấc vào lối sáu giờ sáng nhưng ngại rét, vả lại dậy sớm cũng chẳng làm gì được, lão nằm trên giường mãi đến tám giờ hơn, đợi cho bọn trẻ ra khỏi nhà lão mới có thể yên ổn mà đánh đàn. Lũ chúng nó có ba đứa, hai thằng con trai trạc hai mươi và một đứa con gái cũng vào tuổi ấy.
Không ai biết chúng nó làm ăn gì mà đêm nào cũng đi chơi đến hai, ba giờ khuya mới về, có khi về cũng còn hát hỏng, cười nói ầm ĩ. Ngày thứ bảy, chủ nhật bạn bè chúng nó kéo đến hằng chục đứa, nhảy nhót, ăn uống ầm cả lên, xem như không còn ai đáng kể. Đứa nào cũng chỉ thấy mặc có mỗi một chiếc quần vải xanh bạc màu may sát người và cái áo len màu thẫm, cao cổ rộng thùng thình như bơi ở bên trong.
Cố nhiên là chúng nó rất ghét lão vì tính lão lầm lì và nhất là ngày nào cũng bắt chúng nó phải chịu đựng mấy tiếng đồng hồ âm nhạc cổ điển. Mỗi khi lão đàn là thế nào cũng có sự cãi cọ chửi xuống chửi lên léo xéo điếc cả tai láng giềng.
May mà đời lão còn có con nhện để an ủi, nếu không thì sự cô độc sẽ trĩu nặng xuống tâm hồn lão đến thế nào. Lúc nào cảm thấy lòng hoang vắng quá, lão Duy Minh chỉ việc ngồi vào đàn dạo lên mấy khúc là con nhện thả tơ xuống nhẹ nhàng lắng nghe và lòng lão trở lại ấm cúng vì có nhạc, có “người” hiểu nhạc, có “người” hiểu mình.
Sáng nay cũng như mọi buổi sáng chủ nhật khác, lão Duy Minh thức dậy, ăn sáng xong mới bắt đầu ngồi vào đàn dạo một khúc để gặp tri âm rồi mới yên lòng vác cái giỏ xuống đường mua thức ăn. Trước khi ra khỏi phòng, lão không quên tự nhắc “phải nhớ khóa hai vòng cửa”. Lão chỉ sợ bọn trẻ thừa lúc lão đi vắng mà lên phá phách, chứ thực ra nghèo như lão, có gì đâu mà đáng lo.
Lão Duy Minh ăn ít nên rất dễ mua, ngày nào cũng chỉ có sữa, phó mát, khoai tây hoặc rau cải, thỉnh thoảng mới có một miếng thịt bò, hoặc con cá vào ngày thứ sáu. Giá con nhện mà ăn được thịt, uống được rượu chắc lão sẽ không bao giờ tiếc và mỗi bữa ăn sẽ đậm đà thi vị biết mấy.
Lắm khi nghĩ lẩn thẩn, lão tự hứa rằng nếu lão chết thì cây đàn sẽ chỉ để lại cho con nhện mà thôi. Lão Duy Minh vừa lên gác thứ ba thì bỗng giật mình vì nghe như có tiếng đàn dương cầm vọng xuống ở đâu đây. Lão vẫn chậm chạp bước vì tim lão rất yếu nên không dám bước nhanh mỗi khi lên cầu thang.
Vừa bước vừa lắng nghe, lão vẫn chưa nhận được ra tiếng đàn từ đầu đến. Bỗng tiếng đàn ngừng bặt, thay vào bằng một tiếng hét và tiếng đập phá từ trên đưa xuống.
Thôi rồi bàn trẻ lên phòng lão, bây giờ lão mới nhớ ra, lúc nãy đi xuống lão đã quên khóa cửa. Người lão Duy Minh run rẩy, hai tay vịn chặt lấy cầu thang, lão ngước nhìn lên. Bọn trẻ đang từ trên phòng lão kéo nhau xuống cả ba đứa, mặt đứa con gái còn tái xanh, hai thằng con trai trông thấy lão hơi có vẻ lúng túng, một thằng lên tiếng trước:
– Này, chúng tôi cứu ông già đấy nhé, không có chúng tôi lên phòng ông thì hôm nay ông chết rồi, con nhện to bằng ngón chân cái thế này, nó mà cắn cho một cái là bỏ mạng…
Lão Duy Minh quên cả tức giận vì bọn trẻ dám lên phòng lão lúc lão đi vắng. Lão run rẩy hỏi lại:
– Thế nó đi đâu rồi?
– Nó nào?
– Con nhện của tôi…
– Đã bảo chúng tôi cứu ông mà lại, đập mãi nó mới chết đấy. Trông kìa, mặt cô Át -Nhi còn tái xanh, cô ấy đang ngồi bấm thử lên phím đàn…
Lão Duy Minh không nghe thêm nữa, cổ lão nghẹn tức như có bàn tay ai đang chắn ngang, lão vội vàng bước lên trong khi bọn trẻ ngơ ngác bảo nhau: ”Lão già này điên đến cùng độ, gọi cảnh sát vào mang đến nhà thương điên là vừa”.
Lão Duy Minh bước vào phòng, vứt vội cái giỏ xuống đất, rơm rớm nước mắt nhìn xuống xác con nhện bị đạp nát bét ở dưới sàn nhà, chất nước vàng nhờn ra chung quanh, nhưng bỗng một tia hy vọng mỏng manh đến với lão, biết đâu đây chẳng là một con nhện khác, vì con nhện của lão chỉ thích âm nhạc cổ điển thôi mà…
Tuy tinh thần đã kích thích đến cực độ mà lão vẫn còn cố gắng ngồi trước cây đàn dạo lên một khúc, đợi xem con nhện có thả tơ xuống chăng. Lão đánh bản Pathétique là bản nhạc mà lão vẫn có cảm tưởng là con nhện thích nhất, vì mỗi lần lão đánh bản ấy thì hình như những làn tơ của con nhện có thả xuống gần hơn tí nữa.
Nhưng lão Duy Minh đàn mãi, lão cố lấy hết tinh thần muốn đàn cho thật hay, đôi bàn tay run run trên phím tơ, mặt lão ngước lên trần nhà chờ một hình ảnh thân yêu, hai giòng nước mắt chảy dài xuống, ướt cả đôi tay, ướt cả phím đàn, trông lão giống hệt một người điên. Không hề có một sợi tơ nào đang thả xuống. Đàn cho ai nữa!
Ba ngày sau, không nghe tiếng đàn vọng xuống như lệ thường, người gác nhà ngờ vực lên mở phòng thì thấy người lão Duy Minh đã cứng đờ và lạnh ngắt ngồi gục xuống cây đàn, tay còn nắm chặt xác con nhện.
8. Hiệp Tá Đại Học Thổ
Bằng vừa khênh cái xe đạp lên gác sáu vừa thở hồng hộc, hôm nay mải vui chàng quên cả nhịn thở, nhất là lúc đi qua gác hai. Lệ thường mỗi khi qua gác hai chàng không dám thở mạnh quá, sợ nhỡ cô gái gác hai nghe được thì thật là xấu hổ. Ở Ba Lê chỉ có hạng thợ thuyền nghèo, hoặc sinh viên tự túc hay các chú bé phát thư cấp tốc mới dùng xe đạp, ai người ta cũng có xe gắn máy, xe máy dầu, xe hơi hai ngựa, bốn ngựa.
Bằng cũng thừa biết vậy nhưng nhà chàng nghèo quá nên đành lóc cóc cái xe đạp, vừa tiện, vừa ít tốn.
Cô gái ở gác hai lúc ban đầu gặp chàng có khẽ gật chào ngoan ngoãn nhưng từ hôm thấy chàng vác cái xe đạp lên gác sáu thì không thèm chào nữa. Hẳn cô nàng sợ mất giá trị của mình đi chăng.
Chẳng lẽ vì một cái chào suông ấy mà chàng đành rời bỏ chiếc xe đạp thân yêu, đã từng cùng chàng đi hằng năm bảy nghìn cây số từ nước này sang nước khác. Biết bao nhiêu lần lên núi xuống vực, những buổi trưa hè mệt đừ nằm lăn ra ruộng ngủ bên cạnh chiếc xe đạp cũng ngả nghiêng. Kỷ niệm nhiều như thế, vả lại trường ở xa, mỗi ngày còn phải đi bao nhiêu chỗ, vứt chiếc xe đạp sao đành…
Đêm nay giao thừa, suốt buổi chiều Bằng đi mãi mới mua được hương vàng để đốt cúng cha mẹ, có lẽ vì thế mà chàng vui mừng quên cả để ý nhịn thở lúc đi ngang qua gác hai chăng?
Ai nghe được chắc sẽ chê cười anh chàng sống ở thế kỷ hai mươi mà vẫn còn tin nhảm. Thật ra Bằng chỉ hành động theo tình cảm, xa gia đình từ hơn mười năm nay, lúc ra đi bố mẹ còn nguyên vẹn, ai cũng hy vọng có ngày gặp lại, những bức thư đầu tiên hoàn toàn nói chuyện “Con về nhớ đừng mang đầm về, mẹ không biết nói tiếng Pháp mẹ buồn con nhé!”.
Thế mà định mệnh đã thay đổi tất cả, trong hai năm liền bố với mẹ theo nhau chết, tuy thỉnh thoảng Bằng vẫn còn ngờ vực chưa tin hẳn rằng đấy là sự thực.
Ăn xong cơm tối, Bằng và hai chị Nhân, Mai cùng ngồi lại xếp vàng hương thành từng tờ một, lấy kéo cắt bớt những giấy bìa chung quanh. Ba chị em làm giống hệt như thuở bé đã thấy mẹ làm với tất cả niềm tin tưởng rộn ràng:
– Có thật chúng ta đốt thế này rồi cậu me nhận được không nhỉ?
Mai hỏi giọng ngờ vực, tính Mai vốn nghi ngờ tất cả mọi sự ở đời, lắm khi cô nàng ngờ ngay cả chính mình nữa.
– Nhận được hẳn đi chứ, nhưng phải viết địa chỉ cho rõ ràng nếu không sẽ lạc mất thì phiền cho cậu me.
Nhân giả lời chị với giọng vững chắc như chính mình đã có dịp chết đi sống lại và đã biết rõ tất cả những gì xảy ra ở cõi chết.
– Nhất là tính cậu vốn lười, chúng ta cố xếp cho tử tế, không có sẽ bị cậu mắng cho câu “tụi bay làm ăn như quần không vận”.
– Thật ra thì ai mặc quần cũng có thắt lưng, hoặc cài hai, ba cái cúc chứ vận làm sao được mà mỗi lần mắng chúng mình là cậu cứ dùng câu ấy nhỉ?
Mai hỏi hai em.
Ba chị em vừa xếp giấy vàng vừa nhắc đến những kỷ niệm xưa, trong lòng đứa nào cũng hân hoan nghĩ đến phút cha mẹ sẽ nhận được đủ số tiền. Giá có ở nhà chắc Nhân sẽ lén mọi người đi đến thợ mả để đặt một chiếc áo vân hồng biếu mẹ mặc tết, một ống điếu hút thuốc trà làm quà cho cha. Nhưng thôi, gửi tiền xuống cậu me muốn sắm gì thì sắm, như thế lại hợp ý hơn.
Xếp xong mớ giấy vàng Mai đi nấu trà, Bằng đi sang viết địa chỉ, việc của Nhân là lo dọn dẹp cái lò sưởi để tí nữa đốt vàng.
Nhà cửa được quét sạch sẽ từ chiều vì ngày mai mùng một kiêng không quét rác. Người ta nhận thấy những kẻ ở xa quê hương lại cổ hủ hơn những người vẫn sống hiện tại trong xứ, có lẽ vì lòng nhớ nước, ai cũng muốn níu kéo lại những hình ảnh trước lúc ra đi. Hay vì nhìn thấy những sự văn minh hời hợt chung quanh làm cho con người càng có ý muốn giữ mình đứng ra ngoài những sự lôi cuốn ấy. Không gì hơn là tìm về với những hình ảnh thân yêu cũ.
Bằng vẫn buồn rầu mỗi khi nghĩ đến cái chết của bố mẹ, bố chết không ai biết là bệnh gì, mẹ chết vì một chứng bệnh rất tầm thường nhưng quê nhà chẳng quen nhiều, lại thêm từ độ chiến tranh gia đình sa sút, những người thân cũ đã trở thành những người xa mới. Sự săn sóc không được chu đáo, và người mẹ chưa già đành chịu chết một cách oan ức.
Lắm khi nhìn những hộp thuốc mẫu của các hiệu bào chế gửi biếu Bằng chỉ muốn khóc, cảm thấy lòng căm hờn mà không biết căm hờn ai, những hộp thuốc có chữ A, chữ O tròn mở to mắt nhìn chàng trân tráo như khiêu khích, như mỉa mai.
– Bằng viết xong chưa?
– Chưa.
Nhân vừa cài cúc chiếc áo dài Việt Nam lâu ngày không mặc, vừa đi đến cạnh em trai hỏi xem mình mặc áo dài trông có còn được không. Nghe giọng Bằng hơi buồn, nàng vội ngừng bước im lặng tỏ sự kính trọng những suy nghĩ cuối năm của cậu em.
Mỗi lần giao thừa là trong đầu mỗi người đều có một sự xáo trộn, nào kỷ niệm quá khứ, hoài vọng tương lai, nào nhớ thương, nào căm hờn, tức giận… Nhân cũng thế nhưng nàng chỉ buồn lúc nào tất cả mọi người đều đi vắng hoặc lúc nào lang thang một mình ra nghĩa trang, và chỉ có nơi ấy là con người được tự do buồn mà không bị ai chất vấn.
– Giờ này ở quê nhà hoa đào đang nở chị nhỉ.
– Giao thừa đã cúng từ lâu rồi.
Bằng ngước lên nhìn chị:
– Ừ nhỉ đã sang mùng một, đáng lẽ phải kiêng không được buồn nhưng mỗi lần nghĩ lại thấy tức, em mong học chóng xong để về nước, đành rằng đâu cũng là người nhưng quê hương cần đến mình hơn.
Bằng và Nhân đang nói chuyện thì có tiếng Mai gọi ở phòng bên.
– Bằng viết xong chưa, sang đây chứ gần bắt đầu qua năm mới rồi đấy.
Nghe Mai gọi, Bằng vộ giục Nhân sang trước, đợi cúng giao thừa xong Bằng định mặc áo đi suốt đêm, năm nay vừa đúng mười hai cái tết xa xứ. Cuối khóa học này Bằng thi ra, chàng nhất định trở về dầu trong lòng hơi lo sợ, không biết liệu mình có đi cùng một nhịp với quê hương chăng. Thế nào cũng bị phê bình là lạc hậu, cổ hủ nhưng thà bị phê bình như thế vẫn hơn là kéo dài cuộc sống cô độc ở xứ người. Hình như quê hương bây giờ văn minh lắm, các cô cậu nào cũng biết nhảy “rốc” với “tuýt”, âm nhạc mới rất thịnh hành, hàng sơ-uynh-gum bán đầy nhan nhản. Quê hương đã thay một chiếc áo mới khác hẳn với ngày chàng ra đi. Nhưng Bằng tin rằng dầu sao cũng sẽ có vài người hiểu mình, vả lại dầu cho thị thành có không hiểu thì chàng sẽ tìm về thôn quê, ở thôn quê chắc các cô gái chưa đến trình dộ vừa nhai kẹo vừa nhảy tuýt, và cảm tình của họ chắc sẽ dịu dàng hơn.
Bên này lắm khi tức bực không biết nói với ai, nhớ đến những ngày đi làm nội trú cho bệnh viện ở ngoại ô, một hôm có đứa bé con bị rắn độc cắn chân sưng to tướng. Đưa vào bệnh viện không có bác sĩ, phòng thuốc khóa cửa, không có cả phu khiêng “băng ca”, một mình chàng phải bế đứa bé vào lòng đi nạy cửa lấy thuốc. Cứu được đứa bé thoát chết, ngày mai người ta phê bình rằng chàng đã phá nhà và để cảm ơn chàng, cha mẹ đứa bé không ngừng điện thoại bắt đền một chiếc giày cao su đâu mất.
Mỗi lần nghĩ đến Bằng cảm thấy buồn, thà chúng nó nghèo nàn cho cam. Đấy là chưa nói đến những sự dèm pha ghen tức trong giới đồng nghiệp…
– Bằng ơi, Bằng ơi đến giờ rồi, sang mà khấn, công trình đi lùng khắp Ba Lê mới mua được vàng hương, sang khấn kể công với cậu me đi.
Lần này Bằng phải lấy bút mực viết vội tên tuổi của cha mẹ, không quên viết chức tước của cha: Hiệp tá đại học sĩ. Chàng nhớ đến ngày xưa mỗi lần giỗ ông nội thì cha chàng quỳ sớ trong lúc nhà sư ngân giọng cũng đọc tên tuổi với chức Hiệp tá đại học sĩ, ông nội với cha cùng mang một chức, chỉ đến đời anh em chàng thì chẳng có sĩ siếc gì cả. Ngày xưa nghe cha chàng kể lại, mỗi lần ông nội chàng đãi tiệc phải có sự tập luyện giàn cảnh trước. Một người phụ trách việc đạo diễn: món ăn nào đưa ra thì người này phải làm gì, người kia tiến mấy bước, lùi mấy bước v.v… Đến đời cha chàng thì người “mết đô tên” (maître d’hôtel) mặc quần đen áo trắng nơ đen giày bóng nhoáng, bao tay trắng toát đi ra đi vào điều khiển mấy chú bồi. Đến đời chàng, mỗi lần mời bạn bè thì để cả song chảo nồi niêu ra dưới đất, ăn xong còn phải bắt thăm để xem đứa nào phải rửa bát. Cố nhiên là rửa bát trong chậu rửa mặt.
Viết xong tên tuổi và chức vị của cha mẹ, Bằng đứng lên thay bộ quần áo màu xanh thẫm, rồi ra trước gương ngắm nghía thắt lại chiếc cà vạt đồng màu, quanh năm muốn ăn mặc thế nào cũng được nhưng qua năm mới bao giờ chàng cũng giữ rất đàng hoàng. Đối với Bằng đó là tục lệ cần phải giữ. Mai trông thấy Bằng diện, chép miệng tiếc:
– Giá cô gác hai gặp Bằng lúc này chắc lại chào ngay.
– Không chắc, cô ấy sẽ nghĩ rằng thằng này nghèo kiết xác, để dành mãi mới sắm được bộ quần áo, cả năm chỉ dám mặc vào có mỗi một lần. Nghĩ thế thì cô ấy đâu có thèm chào.
– Ở cái thế hệ “phi cách-ru bất thành phu phụ” này cũng không nên trách người ta làm gì.
– Hạng bét, không thèm Bằng ạ, học ra rồi tha hồ kén vợ, Bằng cứ tin đi, bấy giờ Bằng viết thư về nhà đòi cưới cô nào là được tất. Hai ba năm trước thì thế nào cũng sẽ khó khăn, nào là lý do này lý do khác, cha mẹ già, xin đi không được v.v…
Nhân nói cố làm cho Bằng bớt buồn. Thật ra, đêm nay Bằng đâu có buồn vì những chuyện vặt vãnh ấy, đêm nay cái buồn của Bằng nặng nề hơn, nó là cái buồn nối dài từ mười hai năm mà mỗi đêm giao thừa là một mối thắt gút thêm vào.
Hơn nữa năm nay lại là năm cuối cùng, ngả ba đường của cuộc đời. Chàng trai nào lúc học sắp xong chắc cũng có những phút giờ đứng ngập ngừng trước ngả ba đường như thế cả. Đây chỉ là bước đầu mà thôi.
Từ giã ghế nhà trường, từ giã những đống sách dày cộm, những cốc cà phê đen thâm như lối về âm phủ để bước sang con đường mới mà ai cũng thừa biết rằng sẽ gai góc hơn.
Từ giã xứ người để về với quê hương. Tiếc rằng giờ này cha mẹ không còn nữa, nếu không thì chàng sẽ vui sướng biết mấy.
Tưởng tượng cái cảnh đứa con trai đi học đỗ đạt về, từ trên máy bay bước xuống vừa đưa mắt nhìn ra khắp nơi để tìm cha mẹ, đằng xa người vợ sung sướng níu lấy tay chồng và hét lên “Nó kia rồi!”. Đưa con trai sẽ bước vội xuống chạy ào ra phía cha mẹ, bất kể cả giấy tờ luật lệ, làm sao chạy ngay đến để được ôm lấy cha mẹ, được ngửi lại mùi hương thân yêu cũ… Mười hai năm trước cha mẹ tiễn lên đường một chú bé khờ dại, mà bây giờ là một người lớn có thể nói chuyện đời với cha mẹ như tất cả những người lớn hiểu biết khác…
Sung sướng biết mấy những ai đã được và sẽ được sống trong cảnh ấy.
Từ nãy đến giờ Mai và Nhân theo rõi từng cử chỉ của Bằng, thỉnh thoảng hai chị em lại đưa mắt nhìn nhau, không ai dám lên tiếng sợ làm bận rộn những ý nghĩ cuối năm của Bằng. Tính Bằng thường ngày rất vui nhộn, lúc nào cũng cười, cũng đùa, đêm nay thấy chàng khác hẳn nên cả Mai và Nhân đều biết rằng có sự gì không thường đang xảy ra trong lòng người em trai.
Đợi mãi không thấy hai em nói gì, Mai đành phải lên tiếng trước:
– Bằng viết địa chỉ lên giấy chưa?
– Ừ nhỉ, quên đi mất, em để bên bàn cho khô mực sợ nó nhòe không đọc được lại không đến tay cậu me.
Bằng đứng dậy chậm rãi đi sang phòng bên, đầu óc như không ngừng suy nghĩ. Chờ Bằng đi xong, Mai thì thầm hỏi Nhân:
– Sao Bằng nó có vẻ buồn buồn thế?
– Vì giao thừa.
– Giao thừa lại càng phải vui chứ.
Nhân chưa biết tìm lý gì để cãi hộ Bằng thì Bằng đã đi sang với mảnh giấy viết địa chỉ trong tay. Cả ba chị em cùng đến phía lò sưởi. Bằng đưa mẩu giấy đã viết cho hai chị đọc. Ngày xưa mẹ vẫn dạy chàng viết chữ cho nên nét bút rất mềm mại, ai nhìn cũng khen phục và Bằng vẫn tự xưng mình là thầy đồ. Mẹ chàng, với những lập luận rất đơn sơ, đã dạy cho con hay rằng ai cũng cần phải biết chữ nho, nếu không thì chết sẽ không được làm quan vì tất cả giấy tờ công văn trên trời đều viết toàn chữ nho. Bé Bằng hồi ấy cứ tin như thế, cho mãi đến bây giờ tuy khôn lớn, Bằng vẫn không muốn rời bỏ những tin tưởng mộc mạc ngây thơ nhưng rất thi vị ấy.
Mai đọc xong phá ra cười làm cho mọi người ngơ ngác.
– Chết rồi Bằng ơi, sang chữa lại ngay, Bằng viết nhầm chữ “sĩ” () ra chữ “thổ” (). Hiệp tá đại học thổ thì ai biết đâu mà đưa.
Bằng giật vội tờ giấy trên tay chị liếc xem rồi cũng cười theo:
– Quần không vận, may quá không đốt, nếu không thì đêm nay chúng mình sẽ nằm mơ thấy cậu về nhăn mặt gắt ầm lên “Tụi bay làm ăn như quần không vận”.
Bằng còn giả vờ nhái giọng cha hét lên:
– Chi lo đi cà rởn!
Chữ này chỉ một mình cha dùng để mắng mấy đứa con những lúc nào tìm không thấy chúng nó.
Giọng Bằng giống hệt cha, cả đến nét mặt của chàng cũng thế làm cho cả Mai và Nhân đều lăn ra cười, tưởng như ngày nào còn bé lén cha đi chơi về nhà bị bắt gặp.
Đồng hồ láng giềng vừa điểm mười hai tiếng. Thế là qua mùng một rồi. Chẳng ai bảo ai nhưng cả ba chị em đều cảm thấy sung sướng vì đã đón năm mới bằng một trận cười hồn nhiên.
Nhân chạy vội ra mở toang cửa sổ để đón mùa xuân mới.
9. Những Cái Gạt Tàn Thuốc
Nhật Bản ngày… tháng… năm…
Thưa cha,
Con vừa đến Nhật Bản được hai hôm nay, gặp vào ngày hội Anh Đào nên thích quá, hoa cứ hồng lên khắp trời, hình như cả thời gian lẫn không gian đều nhuộm hồng. Dân chúng từ thành thị đến thôn quê đều bồng bế nhau đi xem hội. Chuyến tàu nào cũng đông nghẹt cả người.
Con chỉ tiếc rằng không có cha để cùng vui trong mấy ngày hội. Con có mua để biếu cha một cái gạt tàn thuốc bằng men trắng đẹp vô cùng.
Lạy trời cho vừa ý cha.
Con kính thư.
Hồng Kông ngày…tháng…năm…
Một trong những thành phố linh động nhất thế giới. Ban đêm ánh đèn nê-ông viết bằng chữ tàu cứ thay nhau nhấp nháy đủ muôn màu, tưởng như lạc vào thế giới của lũ đom đóm thần.
Nơi đây quả thật là chỗ tập trung của tất cả những tài nghệ, vốn liếng nhan sắc, anh hùng và gian hùng thế giới. Cái giàu và cái nghèo đứng cạnh nhau không hề chút ngượng nghịu.
Giá có cha cùng đi. Con có tìm mua được cho cha một cái gạt tàn thuốc bằng sứ, rất thanh, chắc cha sẽ thích.
Con kính thư.
Ba Lê ngày…tháng…năm…
Đêm mùa hè bên này xanh như màu men của những chiếc lọ cổ vẫn chưng ở phòng khách nhà ta. Dọc bờ sông Seine hàng bán sách cũ mở cửa đến gần tối. Cuộc sống thoải mái, một trong những nơi mà con người có thể nói những gì muốn nói, làm những gì thích làm, đọc những gì muốn đọc. Chẳng ai tìm biết đến ai. Rất nhiều sách, giá có cha để cùng con đi lùng mua sách. Nhân tiện đi viếng nhà thờ Sacré-Coeur con có mua gửi cha một cái gạt tàn thuốc.
Con kính thư.
Thụy Sĩ ngày…tháng…năm…
Con có mua cho cha một cái gạt tàn thuốc…
Rồi cứ thế mỗi chuyến đi của người con ấy thì ở quê nhà, trên bàn người cha lại thêm một cái gạt tàn thuốc đủ hình, đủ kiểu, đủ màu men. Những cái gạt tàn thuốc mang hình ảnh của xứ này, xứ khác. Những cái gạt tàn thuốc rất mỹ thuật và hợp ý người cha. Người cha vẫn bảo xứ Việt ta nóng bức, quạt điện chạy trên trần suốt ngày, vì thế cái gạt tàn thuốc cần phải có bề sâu để cho tàn thuốc khỏi bay tung ra ngoài. Ở những xứ lạnh đâu có cần nghĩ đến sự ấy, hơn nữa người cha lại nghiện thuốc lá vào hạng nặng. Buồn phải hút thuốc cho quên, vui cũng phải hút một điếu gọi là đánh dấu cái niềm vui ấy. Có bạn đến phải hút thuốc cho câu chuyện thêm hào hứng, một mình cũng phải hút thuốc cho bớt cô đơn.
Nói chung, điếu thuốc là một nguồn cảm hứng, gợi hứng vô biên.
Vì hút thuốc nhiều như thế nên những cái gạt tàn thuốc đối với người cha cũng là một sự đóng góp lớn trong cuộc đời.
Những cái gạt tàn thuốc bé quá không tiện vì cứ phải mang đi đổ luôn. Trái lại những cái gạt tàn thuốc quá to như cái chậu rửa bát thì vừa kém mỹ thuật vừa hôi vì chứa chất nhiều tàn thuốc lâu ngày.
Mua cho được những cái gạt tàn thuốc vừa ý cha không phải là một chuyện dễ, mỗi lần mang về hoặc gửi về mà được cha khen cho một lời thì thật là nở cả ruột gan. Có những khi gửi về bị cha viết thư bảo thiếu thẩm mỹ, phí tiền, và còn có những bận cha bảo ngu nữa là khác.
Ai làm con của một người cha nghệ sĩ đều trải qua những phút vui buồn như thế.
Người cha nghệ sĩ không thích ăn, cha bảo ngồi ăn mất thì giờ. Nhưng người cha nghệ sĩ thích hút thuốc vì khói thuốc, cốc rượu, chén trà đều là những thứ gợi hứng, gợi cảm.
Muốn làm quà cho cha thì chỉ có hoặc sách báo, hoặc gạt tàn thuốc tuy rằng trong nhà đã có hằng nghìn quyển sách, hàng trăm cái gạt tàn thuốc. Cha vẫn dặn rằng ngày nào cha chết, các con có cúng thì chỉ cần cúng một bao thuốc, một quyển sách thật hay, một bản nhạc giá trị, thế là cha về ngay.
Người cha nghệ sĩ ấy không giàu nhưng sống một cuộc sống rất phong lưu, cái thứ phong lưu của con người nghệ sĩ thời xưa “khi chén rượu, khi cuộc cờ”, tuy ít bạn vì phải cái tính gàn, không thích theo đòi, xu nịnh.
Có bận trong lúc buồn thế sự, người cha nghệ sĩ ấy viết lên một bài thơ, trong ấy có hai câu:
” Tại mình quỷ quyệt không lòn… ”
Nên chẳng ma mô chịu đỡ đầu”.
Câu trên cha bị ông nội kêu ầm lên, bắt phải chữa bằng chữ “lòn cúi”, nhưng cha bảo như thế thì làm sao đối chọi được với chữ “đầu” là một danh từ chung.
Cố nhiên phận con thì đứa nào lại không kính phục cha, và người con chỉ biết kiêu hãnh được làm con một người cha nghệ sĩ.
Tại sao khi có một người cha nghệ sĩ như thế mà người con lại không biết ở nhà để cùng cha xướng họa, nghe cha ngâm nga. Cha có giọng ngâm thơ rất “cảm”. Nếu cha có đào hoa thì một phần lớn cũng do cái giọng ngâm thơ ấy.
Còn người cha, tại sao không tìm cách giữ con ở gần bên mình mà lại cho phép con lang thang, hay là cái giống nghệ sĩ người nào cũng muốn lê gót chân đi đây đi đó, và người cha vì cảm thấy tuổi già nên đành nhường cái phần đi lại cho các con chăng.
Rồi một hôm, một hôm trời âm u lắm, có bức thư màu hồng, mà thư hồng sao không dành để báo tin vui.
“Em,
Anh rất đau đớn báo cho em biết rằng cha đã mất vào quãng trưa hôm… sẽ chôn vào ngày… ở nghĩa trang Trung Việt…”
Bức thư vẻn vẹn có mấy giòng của người anh viết vội gửi sang. Người con ngơ ngác tưởng như mình đọc nhầm thư của ai.
Bức thư đi từ mấy ngày nay, ngày thư đến tay con thì cha đã bị bỏ vào hòm, người ta đóng đinh lên hòm, trời, cha vốn ghét những tiếng động ồn ào… Người ta đã chôn, đào lỗ chôn cha xuống đất thật sâu… thật sâu…
Giá có con ở nhà thì ai dám bỏ cha vào hòm, ai dám mang cha đi chôn như thế. Con sẽ hét lên, con sẽ ôm chặt lấy xác cha. Người ta làm gì được, con sẽ đuổi tất cả, chỉ có mình con ở lại với xác cha, rồi hoặc là con sẽ được chết theo với cha, hoặc là tất cả sức mạnh, sức sống, hơi nóng của con sẽ truyền sang cha và cha sẽ sống lại.
Con như hình dung thấy rõ ràng tim cha nóng dần, nóng dần, môi cha mấp máy, mí mắt cha chập chờn. (Anh viết thư mà vội quá nên quên không bảo cho con biết rằng khi chết cha nhắm hay mở mắt). Tay chân cha bắt đầu cử động, cha đang gọi các con…
Từ bao lâu nay con vẫn thầm trách sao loài người quá vội vàng, biết đâu kẻ chết còn có thể sống lại, mỗi lần thấy một đám ma ai qua nhà là con vẫn cố ý lắng nghe, biết đâu trong quan tài đang có tiếng rền rĩ, đang có tiếng vùng vẫy kêu gào…
Cha có nhớ, khi cha còn làm việc, nhân một dịp lễ mồ cha đã viết lên bài văn tế cho các tù nhân trong ngục thất:
“Phạm hai chú bước cao bước thấp
Gánh ra đi biếng nỗi chân đi
Chiếu nửa manh thiếu trước thiếu sau
Quăng xuống lỗ ra ngoài miệng lỗ…”
Bài văn tế của cha dài lắm nhưng con chỉ nhớ có bốn câu ấy, bốn câu hình dung rõ ràng sự cô độc thê lương của một người tù chết trong ngục.
Đến bây giờ hơn một năm qua rồi, con vẫn chưa có dịp về thăm mộ cha. Mỗi lần đi đâu con đều không quên chọn mua một cái gạt tàn thuốc, thật mỹ thuật, thật vừa ý cha, nhưng để làm gì? Cha còn đâu nữa mà khen, mà chê, mà dùng…
Trên bàn thờ cha, luôn luôn có những điếu thuốc đang cháy, đã cháy và sẽ cháy mãi mãi.
Nhưng cha ở đâu, biết cha ở đâu để gửi về dâng cha….
10. Xé Tan Cái Giấy Thông Hành
Một lỗ… hai lỗ…ba lỗ… bốn… năm… sáu… bảy… ồ sao mà lắm thế, vẫn còn cơ. Hồ Điệp mỉm cười đưa đôi bít tất lên ngắm lần nữa.
Hình ảnh người mẹ già với đầu tóc cạo trọc lún phún mọc lên những sợi bạc trắng, đang cúi xuống len lén dúi vào va li cho Điệp đôi bít tất màu nâu cũ kỹ. Hình ảnh nhòa dần vì đôi mắt Điệp như bỗng mờ đi…
Nụ cười vẫn còn đọng trên môi nhưng không phải là nụ cười chế diễu hàng ngày mà là nụ cười gượng gạo xót xa.
Nhớ lại mấy hôm gần đi, mẹ Điệp đang làm va li cho con gái bỗng sực nghĩ đến cái gì, vội vàng bước đến các giỏ quần áo của mình, lấy ra một gói giấy nhỏ nhét vào một góc va li.
– Có đôi bít tất dài bằng len của chị Thơ cho mẹ hôm ở bên Tàu về, mẹ đưa vào để con đem qua bên ấy mà mang đỡ…
– Đâu mẹ cho con xem.
Điệp đến lấy cái gói mở tung ra rồi cười ngặt nghẽo trước đôi mắt ngạc nhiên của người mẹ già:
– Ơi Trời!
Kêu trời xong Điệp bỗng cắn môi lại, ngừng bặt. Thường lệ mỗi khi Điệp mở miệng là để trêu người này phá người khác, nhưng hôm nay với mẹ Điệp bỗng thấy không nỡ, và có lẽ Điệp cũng không dám, cái nhìn của mẹ chân thành quá… Điệp vội vàng đổi giọng:
– Thôi mẹ giữ lấy mà mang, mẹ ở trên chùa lạnh lẽo, con sang bên ấy thiếu gì những thứ đồ dùng bằng len.
Mẹ Điệp không nghe, bảo tàu chạy những mấy chục ngày, thế nào chẳng có lúc cần dùng.
– Bây giờ người ta chỉ mang bít tất bằng ni lông mỏng và đẹp lắm, vả lại mẹ không biết con là xương đồng da sắt hay sao?
Điệp vừa nói vừa gói giả lại đôi bít tất nhét vào giỏ quần áo cho mẹ. Người mẹ im lặng không nói gì nữa cả. Ba ngày sau khi Điệp sắp hành lý lại một lần cuối cùng, Điệp bắt chợt thấy mẹ lại đang lén dúi đôi bít tất hôm trước vào va li. Lần này thôi Điệp cũng không cản nữa.
Bận rộn mãi cho đến khi từ giã mẹ để bước xuống tàu, Điệp hầu như quên hẳn không hề nghĩ đến đôi bít tất len cũ kĩ ấy nữa.
Kể ra thì số mẹ Điệp thật đã vất vả, còn có mỗi mình Điệp trong bầy con là vẫn sống độc thân, có thể gần gũi sớm hôm lúc tuổi già thì trời lại bắt Điệp mang phải cái chứng bệnh nan y là cái chứng bệnh “khăn gói lên đường”.
Lần nào ra đến nước ngoài rồi Điệp cũng viết thư về xin lỗi, hứa hẹn đủ điều, nào là con sẽ trở về hầu hạ mẹ, nào là phụ mẫu tại bất khả viễn du, nào là phải ra khỏi nước mới thấy cái tình quê hương bao la v.v… Điệp hứa thì hay hơn ai cả. Lần nào đọc thư Điệp người mẹ già cũng rơm rớm khóc, nhưng lần nào về quê hương lâu nhất là một năm, người ta lại thấy Điệp chạy ngược chạy xuôi đầu này đầu kia để xin cho được con dấu đóng vào cái giấy thông hành.
Thế là mẹ Điệp cũng lại cầm bán đồ đạc, những gì còn lại để cho Điệp chút ít tiền góp thêm vào mua cái vé tàu thủy hoặc vé máy bay.
Có những người bạn cứ thấy Điệp đi rồi lại về mãi mới hỏi Điệp sao không ở yên một nước nào cho xong, Điệp chỉ cười giả lời lếu láo rằng “phải về nước để ăn phở”.
Mãi rồi mọi người cũng đâm quen dần với cái bệnh nan y thiếu chân trời của Điệp, và không ai thèm để ý đến nữa.
Nếu bảo rằng đó là một tội bất hiếu thì quả Điệp là cái đứa bất hiếu hơn tất cả. Mỗi lần tiễn con ra đi là một lần người mẹ già thức trắng mấy đêm để khóc thầm vì thương, vì lo sợ cho sức khỏe của con. Tình mẫu tử đã bắt mẹ Điệp tưởng tượng đến những cảnh tàu chìm, máy bay gãy cánh. “Hành thuyền kỵ mã tam phân mạng”, mẹ Điệp vẫn nói luôn câu ấy.
Sau những đêm trắng thức để cầu nguyện và để buồn thương mình, thương con bơ vơ, ngày mai đến tóc người mẹ lại trắng thêm chút nữa.
Điệp là đứa con gái cuối lòng, mẹ Điệp mang Điệp với tất cả lòng tha thiết cầu mong cho Điệp sẽ thành là một đứa con trai vì nhà đã quá nhiều con gái. Mẹ Điệp định rằng nếu con trai sẽ gọi là Trang Sinh và con gái sẽ là Hồ Điệp – vốn là con nhà nho học nên bà vẫn thường hay ngâm nga cổ thi. Sau này lớn lên có những đêm không ngủ được, Điệp vẫn như còn nghe văng vẳng bên tai giọng ngâm nga của mẹ:
Trang sinh hiểu mộng mê Hồ Điệp
Thục đế xuân tâm thác Đỗ Quyên
Thôi thì con nào cũng là con, trai hay gái mà trời đã cho thì cũng phải nhận. Trang Sinh hay Hồ Điệp cũng là do mình đẻ ra. Tự an ủi như thế nên người mẹ đành cúi đầu cam chịu và Điệp cũng lớn lên trong những bài cổ thi ngâm nga của mẹ những lúc dỗ con ngủ, không khác gì các anh chị của Điệp đã nghe từ trước.
Điệp vẫn còn nhìn đôi bít tất thủng nhiều lỗ từ nãy đến giờ còn cầm trong tay, Điệp thì thầm gọi mẹ…
Tàu đến Singapour, Colombo, Djibouti, Portsaid, trời bắt đầu xuống lạnh. Mấy hôm đầu Điệp chưa cảm thấy lạnh lắm nhưng khi dời Portsaid, càng đến gần Marseille trời càng lạnh. Người Điệp lại gây gây sốt, có lẽ con ma sốt rét của núi rừng Bắc Việt đã nhớ đến Điệp chăng?
Không gượng được nữa, nhất là đêm về hai chân cứ buốt lạnh, Điệp không làm sao ngủ được, sực nghĩ đến đôi bít tất mẹ đã lén bỏ vào va li, Điệp vùng dậy mở tìm định mang vào chân ngay…
Mười lỗ… mười một… mười hai… thế mà có bao nhiêu lỗ đã được mạng vá chằng chịt lại rồi kia đấy. Điệp khẽ mỉm cười lặng lẽ kéo đôi bít tất lên đến tận đùi.
– Ấm ghê.
Điệp nói một mình, nghĩ đến hôm đầu tiên khi cười lên ngặt nghẽo chế diễu mẹ, Điệp bỗng cảm thấy xấu hổ và hối hận.
Muốn chuộc lỗi, Điệp định ngày mai sẽ lấy kim khâu bớt lại những lỗ nào “lộ thiên” quá, còn thì thôi kệ, và Điệp tự hứa sẽ giữ đôi bít tất này mãi.
Tàu vừa cập bến Marseille, người ta phát thư cho hành khách. Điệp nhận được thư của Hà Lộc, một người bạn ở Sài Gòn cho biết vừa rồi ở quê nhà lạnh xuống mười một độ. Tin ấy làm Điệp băn khoăn mãi, Sài Gòn mà xuống mười một độ thì trên cánh đồi vắng ở cái miền quê xa xôi ấy, mẹ Điệp còn lạnh đến thế nào nữa.
Điệp nghĩ đến đôi bàn chân gầy guộc, với những vết chai cứng, với những đường gân xanh nổi hẳn lên, chân mẹ mấy ngày nay đang run rẩy vì thiếu đôi bít tất len thủng. Ngực Điệp bỗng thấy nhói đau. Điệp gục đầu vào thành tàu thổn thức, vì biết rằng mẹ sẽ không bao giờ chịu bỏ tiền ra mua một đôi bít tất khác.
Mẹ Điệp hà tiện từng đồng từng xu để rồi khi có chục nào trăm nào thì lại chỉ lo dấm dúi cho các con. Chưa bao giờ Điệp thấy mẹ mua sắm cho mình một vật gì. Con đông mà rồi chẳng đứa nào giúp đỡ gì được mẹ, chỉ có người mẹ già lo cho thuê nhà thuê cửa, cầm họ cầm hàng, mà rồi những số tiền ấy nếu không con hai thì thằng ba, hay là con bé Điệp hưởng hết.
Còn mẹ, có gì đâu ngoài hai tấm áo nâu, một chuỗi tràng hạt.
– Mẹ, mẹ không có bít tất, mẹ lạnh chân, ngộ nhỡ mẹ ốm… ngộ nhỡ mẹ ốm nặng, rồi ngộ nhỡ mẹ…
Điệp nhắm mắt không dám nghĩ thêm đến nữa.
– Lần này mà về nhà thì nhất định xé tan cái giấy thông hành.
Tiếng gió đập phần phật lên mấy cái màn che quanh tàu, tiếng gió mang lời hứa của Điệp về đâu? Điệp hối hận lại gục đầu xuống thành tàu. Hình ảnh đôi chân gầy guộc bé nhỏ hằn lên những nét gân, mỗi khi người mẹ già bước những bước đi xiêu vẹo như đang hiện rõ ràng trước mắt Điệp.
Điệp thì thầm nhắc lại… xé tan cái giấy thông hành…
11. Hai Giấc Mộng
Khổ quá, trời ơi thật là khổ!
– Cái gì thế hở anh?
Nghe tiếng vợ hỏi, Lộc nằm yên giả vờ ngủ say.
– Anh Lộc, anh mê ngủ đấy à?
Không nghe tiếng chồng giả lời, Hoa yên chí nhắm mắt quay lưng ngủ lại. Thật ra Lộc đã thức giấc từ lâu…
Lệ thường Lộc vẫn hay kể cho vợ nghe những giấc mộng chàng vừa trải qua trong đêm và người vợ rất ngạc nhiên, lắm đêm Lộc chỉ ngủ có mấy tiếng đồng hồ mà chàng vẫn có thì giờ để mộng đủ các thứ chuyện. Sáng nào Hoa cũng bị nghe: Anh vừa mộng thấy…
Lộc mộng đủ thứ, mộng thấy đi sang Mỹ, sang Anh, mộng thấy đi xem hát, đi nhảy, mộng thấy những cảnh chiến tranh bắn giết, lắm khi chàng còn mộng thấy đọc một quyển tiểu thuyết dài với đủ tất cả mọi chi tiết đầu đuôi, tuy sáng ngày ra chàng không nhớ rõ nhưng cũng đủ làm cho chàng vui thích, và cho rằng như thế đỡ phải đọc sách ban ngày. Theo đạo Do Thái thì mộng là một phương tiện liên lạc giữa trời và người, những kẻ đêm ngủ không mộng là những tâm hồn gỗ đá không được hưởng cái đặc ân của trời ban.
Lộc chỉ là một công chức nhỏ trong một ngân hàng lớn. Với số lương mấy nghìn bạc không đủ thiếu vào đâu, thế mà chàng dám lấy vợ, thế cũng đã can đảm. Ban đầu Lộc tưởng Hoa và chàng chỉ yêu nhau đại khái thế thôi, không ngờ về sau Hoa nhất định đòi xây dựng với chàng.
Mặc dầu Lộc đã hết sức giảng giải nhưng Hoa vẫn không nghe, bắt chàng phải cưới cho kỳ được, nàng đưa ra những lý luận mà lúc ấy Lộc nhận thấy sao cũng khá vững vàng. Nào là đời người con gái chỉ có một lần yêu, nào là nếu không lấy được anh thì em sẽ đi tu, nào là người anh đầy chất nghệ sĩ cần phải có kẻ nâng khăn sửa túi để có thì giờ mà sáng tác. Nàng bằng lòng nhịn tất cả mọi sự, từ đi xem chiếu bóng cho đến may quần áo, ăn tiệm v.v… Thế là Lộc chịu thua, có người đàn ông nào dám không chịu thua không nhỉ.
Kể ra thì Hoa đã giữ đúng lời hứa, tội nghiệp từ độ lấy nhau, Lộc chưa bao giờ mua tặng vợ một chiếc áo mới nào cả. Chỉ toàn áo cũ may từ độ cưới Hoa đã mang ra chữa lại, hoặc là thêu chim, thêu lá, hoặc là nhuộm sang màu khác, hoặc là cắt phăng cái cổ, nhíu chỗ tay làm thành một chiếc áo mới cho hợp thời trang. Hai vợ chồng tằn tiện hết sức mà không tháng nào để dành lấy được trăm bạc.
May mà Hoa ngoan ngoãn, hết sức chiều chuộng chồng, nếu không thì đã tan vỡ từ bao giờ, nhất là ở cái thành phố Sài Gòn mà mọi sự đều do “tiền” định.
Ngoài công việc ở sở ra, Lộc còn có một cái thú riêng là viết văn, tuy rằng hầu hết văn của Lộc gửi đi đều không có hồi âm. Có lẽ vì Lộc ít đề tài hay nói đúng ra, có lẽ vì Lộc ít tài chăng?
Lần nào cũng thấy những lời cảm ơn chung của toàn soạn “đã nhận được” đăng lên báo vào mục thư tín, mà rồi chờ mãi chẳng bao giờ Lộc được thấy cái tên mình xếp thành chữ in trên mặt báo.
Hoa vẫn bảo là chàng mắc bệnh viết như người mắc bệnh tà, mà bệnh tà thì cúng sẽ khỏi, còn bệnh viết, tuy đã bao nhiêu lần bị xua đuổi mà Lộc vẫn không chừa. Đêm nào cũng đợi vợ lên giường là Lộc vội vàng tắt đèn lớn, bật cái đèn nhỏ xíu ở bàn viết và bắt đầu hí hoáy, viết rồi xóa, xóa rồi lại viết.
Mấy lần Hoa đã phàn nàn giá Lộc để cái thì giờ viết mà học Anh ngữ hoặc học theo một lớp hàm thụ nào may ra còn kiếm thêm tiền. Mỗi lần nghe vợ nói Lộc ngồi thừ ra suy nghĩ một lúc, chàng cũng nhận rằng Hoa nói rất có lý nhưng chỉ độ mười lăm phút sau thì đâu lại vào đấy. Lộc chỉ buồn ở chỗ ngay đến Hoa, người bạn đồng hành suốt đời của mình mà cũng không hiểu mình.
Lộc thấy rằng trên con đường văn chương ấy chỉ có một mình Lộc lang thang mà thôi. Báo chí không thèm, nhà xuất bản không thèm, độc giả không biết đến, và ngay cả đến người vợ thân yêu cũng hờ hững nốt.
Có lẽ chỉ có mẹ chàng hiểu chàng mà thôi, người mẹ quê mùa chất phác đã chết vì trận bom cuối cùng ở miền Bắc. Ngày xưa, mỗi lần mẹ chàng dọn dẹp cái bàn viết của chàng, bao giờ bà cụ cũng tỏ vẻ kính trọng những trang giấy nhằng nhịt chữ của thằng con trai. Rất nhiều buổi chiều người mẹ già ngồi lần tràng hạt hàng giờ bên cạnh Lộc đang viết, thỉnh thoảng lại nhìn lên con trai với đôi mắt tin tưởng. Một hôm đợi Lộc ngừng bút, người mẹ ngập ngừng hỏi:
– Lộc viết gì mãi sao không đọc lên cho mẹ nghe với nào.
Lộc nhìn mẹ hơi ngạc nhiên nhưng rồi mỉm cười chiều ý mẹ. Lộc không biết chàng đã đọc những gì, chuyện hai vì sao chăng?
“Hai vì sao nhìn nhau rưng rưng nước mắt biết rằng trời sắp sáng, giờ chia tay sắp đến, hình như cái thứ ánh sáng xanh này là ánh ngời của màu nước mắt.
Có tiếng đập cánh nhè nhẹ từ đằng xa, một vị thiên thần đi về muộn, vì sao xanh từ từ khép mắt.
Trời sáng dần.”
Có phải chuyện hai vì sao này hay chuyện người con đi về muộn khi được tin cha chết.
“…Quay lại nhìn cái xác chết cứng đờ, nhớ đến nụ cười hiền lành linh động qua tách nước trà bốc khói mỗi sáng. Người con đưa tay cố sức mở đôi môi để tìm lại nụ cười cũ, nhưng còn đâu nữa ; hai hàm răng chỉ nhe ra rồi khép chặt lại ngay.
Người con gục mặt vào tay.
Thế là đến nụ cười cũng chết.”
Chuyện gì mà đã làm cho đôi mắt mẹ rơm rớm ướt… Lộc còn nhớ mãi.
Nhưng người độc giả độc nhất ấy không còn nữa, chỉ còn mình Lộc đang quằn quại cố tìm lối thoát. Đành vậy, và mỗi lần gửi bài đến các báo Lộc giấu kỹ không cho vợ biết, sự thật chính Hoa cũng không bao giờ tìm hỏi xem những thứ chồng viết đã vứt vào xó nào.
Chỉ có mình Lộc lặng lẽ hy vọng để rồi cũng lặng lẽ thất vọng. Như thế lại hơn, ở đời vui mới chia chứ buồn thì chia cho ai, ai mà thèm nhận.
Từ hơn tháng nay, Lộc đang nuôi một mối hy vọng lớn, tuy rằng cũng đã nắm chắc cái phần thất vọng trong tay. Tâm hồn chàng đã chai cứng, hầu như đã thành đá, cái thứ đá khô cằn trên sa mạc, thứ đá mà có khi hàng năm chưa được tắm qua một làn nước mưa nào. Một lần thất vọng hay có mười lần thất vọng nữa cũng chẳng sao.
Vì nghĩ thế nên Lộc mới dám liều gửi đến cho nhà sản xuất phim ấy một tác phẩm của chàng, nhân lúc phong trào làm phim trong nước đang thịnh hành. Lộc nhận thấy cái đề tài của mình cũng khá hợp thời so với những cuộn phim đã ra…
Tuy rất khách quan và đã cố làm quen với sự thất vọng, thế mà lắm khi Lộc cũng bắt chợt gặp thấy mình đang ngồi mơ. Giá chàng nhận được một bức thư có dấu hiệu của hãng phim ở ngoài phong bì, chắc chàng sẽ run rẩy hằng mấy phút trước khi xé thư. Bức thư sẽ viết rằng:
“Kính ông, “Chúng tôi rất tiếc…
Thế là hết, chỉ đọc đến đây Lộc cũng đủ hiểu nhưng chàng sẽ đọc qua một lần cho biết cách họ từ chối khác với lời thư của những nhà xuất bản như thế nào. Hay là tất cả những lời từ chối đều phũ phàng, đều kênh kiệu giống nhau.
Lộc sẽ xé nát bức thư rồi hoặc là ném nó vào sọt rác, hoặc là nhét nó trong túi quần để mà vừa đi vừa vê nó thành từng viên nhỏ rồi vứt rải rác theo dọc đường. Cố nhiên chàng sẽ không để cho vợ nhìn thấy, đã bảo rằng buồn thì chia ai mà thèm nhận.
Nhưng nếu bức thư sẽ nhận được lại là:
“Kính ông, “Chúng tôi rất hân hạnh báo cho ông biết rằng tác phẩm của ông đã được chọn…”
Trời, chắc Lộc sẽ khóc, nhất định Lộc sẽ khóc vì sung sướng, đàn ông ai lại khóc, mọi người sẽ bảo thế. Nhưng theo ý Lộc thì trong đời mỗi người đàn ông có quyền khóc ba lần, không kể cái tuổi khóc nhè. Một lần vì mối tình đầu, một lần khi mẹ chết và một lần để dành cho sự nghiệp (cố nhiên Lộc không chịu gọi cái việc sáng vác ô đi tối vác về là một sự nghiệp).
Những cái đấm, cái đá, cái tát, cái thụi trên con đường văn chương Lộc đều đã nhận được rất đầy đủ, còn những sự vuốt ve âu yếm thì quả thật Lộc chưa biết mùi vị nó ra làm sao.
Chắc Lộc sẽ tìm chỗ nào yên tĩnh để đọc bức thư, rồi Lộc sẽ la hét, múa nhảy, Lộc sẽ ôm ngay người nào đang ở cạnh và kể cho họ nghe nỗi sung sướng của mình. Lộc sẽ vừa chạy vừa gọi vợ ầm lên cho vợ chia cái hạnh phúc với mình, cho vợ thấy rằng cái quãng thì giờ chàng ngồi hí hoáy ở bàn viết mỗi đêm không phải là vô ích. Chiều hôm ấy hai vợ chồng sẽ đi ăn cơm tiệm, Lộc sẽ vào Chợ Lớn chọn cho Hoa một chiếc áo nào đẹp nhất, và tối đến chàng còn sẽ đưa vợ đi xem chiếu bóng.
Từ hơn một tháng nay mỗi lúc hết việc ở sở, hoặc về nhà khi vợ chàng bận lo làm cơm dưới bếp là Lộc chống cằm ngồi mơ lang bang như thế.
Đêm nay có lẽ vì gần đến kỳ hẹn của hãng phim nên Lộc mới mộng thấy hai giấc mộng đã cho chàng hai cảm giác trái hẳn với nhau.
Ban đầu Lộc mộng thấy mình đến hãng phim hỏi kết quả, và ông chủ bảo người thư ký soạn bản thảo chàng ra để trả lại. Lộc buồn rầu nhìn tác phẩm của mình, khi từ giã còn được nghe bà chủ nói một câu an ủi “Đấy cũng là số mệnh”. Lộc thấy mình lí nhí chào mọi người và mang tập bản thảo ra về. Trời lấm tấm mưa, Lộc ghì chặt lấy bản thảo vào ngực như người mẹ ghì chặt đứa con vào lòng. Đứa con xấu xí tàn tật không ai thèm hỏi đến.
Sau giấc mộng ấy Lộc tỉnh dậy, tuy không bật đèn nhưng cái đồng hồ có ánh sáng để trên bàn cũng đủ chỉ cho Lộc biết rằng đã năm giờ sáng. Lộc nằm nhớ lại giấc mộng, may quá chỉ là một giấc mộng, vì thế nên Lộc mới buột miệng thốt lên tiếng những lời than ban nãy làm tỉnh giấc ngủ của vợ. Cố nhiên là cái loại mộng này Lộc không bao giờ dám kể lại cho vợ nghe.
Lộc nhớ đến ngày xưa, cha Lộc cũng rất hay mộng trong khi ngủ và ông cụ kinh nghiệm rằng có mấy thứ mộng, một thứ mộng sẽ xảy ra đúng như hệt với sự thật và một thứ mộng ngược lại. Thí dụ như nằm mộng thấy ăn uống không phải là điềm được ăn uống là là điềm cãi nhau, nằm mộng thấy chết là điềm phát tài, thấy được thư thì sẽ được thư, Lộc không biết nên đặt giấc mộng vừa qua của mình vào loại nào.
Cha Lộc lại còn bảo rằng những giấc mộng vào lúc trời sáng bao giờ cũng hay thành sự thật… và Lộc lo sợ…
Quay sang nhìn vợ ngủ một cách ngon lành, qua ánh sáng mờ mờ bên ngoài Lộc nhận thấy vợ chàng khá đẹp, rồi chàng bỗng cảm thấy thương hại cho Hoa gặp phải một người chồng bất tài, không có gì để kiêu hãnh với bạn bè. Nhan sắc của Hoa có thể gặp được một người chồng bác sĩ hoặc kỹ sư rất dễ dàng. Mỗi lần cùng vợ đi dạo phố, Lộc nhận thấy có những đôi mắt nhìn Lộc như thèm thuồng cái vai trò của chàng, và Lộc có cảm giác mình đang mặc chiếc áo mượn, và chiếc áo hơi quá đẹp đối với cái thân hình xấu xí của mình. Hoa rất có khiếu về thẩm mỹ, từ cách trang điểm đến lối ăn mặc nàng đã khéo léo giấu hộ cái bất tài không làm ra tiền của chồng.
Không tốn thêm một đồng nào mà nàng cũng đi cùng nhịp với thời trang, từ lối dọn nhà cửa đến hai bữa cơm hằng ngày, Lộc không bao giờ chê được vợ.
Nhưng giá không có chàng thì giờ này Hoa đang sống quay cuồng trong tiền bạc với danh vọng, sáng mười giờ thức giấc có chị hai chầu chực món điểm tâm, xong rồi vào bàn sửa soạn nhan sắc, dũa từng cái móng tay móng chân tô hồng tô đỏ. Điểm trang xong đợi đón chồng về ăn cơm trưa. Xong bữa cơm trưa hoặc là nằm nghỉ cho tiêu cơm hoặc đọc vài tờ báo chờ mát trời để đến thăm nhà bạn hoặc là dạo phố mua một vài thứ phấn son, hoặc đi thử áo. Tối đợi chồng về ăn cơm rồi đi xem chiếu bóng, nếu không đi ăn cơm ở những tiệm sang trọng. Cuộc đời nhàn nhã biết mấy, trái hẳn với đời vợ một anh công chức gàn và nghèo.
Lộc hối hận đã làm một cái chướng ngại vật trong cuộc đời của Hoa, và có lẽ cũng vì thế một phần mà chàng đã kiên nhẫn đeo đuổi theo cái nghiệp văn chương chăng?
Vơ vẩn với giấc một một lúc khá lâu rồi Lộc chợp mắt khi nào không biết. Giật mình tỉnh dậy, bên ngoài trời đã rực sáng. Lần này giấc mộng của Lộc trái hẳn với lần trước.
Lộc mộng thấy đến hãng phim, gặp bà chủ, bà ấy bảo rằng mình sẽ thủ vai chính trong tác phẩm của chàng. Lộc sung sướng hỏi vặn lại mấy lần, khi biết chắc chắn rồi Lộc mới chịu ra về. Trên đường về chàng gặp mẹ, Lộc kể cho mẹ nghe rồi còn ôm lấy mẹ mà khóc vì sung sướng. Lộc bảo mẹ hãy cắn vào cánh tay mình xem có phải đúng là sự thật hay chỉ là một giấc mơ thì Lộc giật mình tỉnh dậy.
Thế nghĩa là thế nào, Lộc nằm ôm lấy hai giấc mộng với những lời đoán của cha và chàng mỉm cười một mình.
Bên cạnh chàng Hoa cũng vừa thức giấc nằm ngước mắt lên nhìn chồng ngạc nhiên, sao sáng nay không nghe chồng kể chuyện như lệ thường. Hoa cất tiếng âu yếm hỏi:
– Đêm nay anh Lộc không mộng thấy gì à?
– Không em ạ.
Thật ra thì Lộc không muốn bắt Hoa phải chịu đựng những nỗi vui buồn thầm kín của mình. Chàng tự nói, may mà mỗi người còn có một chỗ để giấu những giấc mộng.
12. Bức Thư Không Gửi
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
Hiền còn nhớ chứ, ngày Diệu rời miền núi rừng để trở về thành thị, trông Diệu quê mùa quá phải không Hiền?
Hình ảnh người con gái có mái tóc dài thả tận vai trong bộ quần áo đen, gót chân còn lấm lem bụi đất, ngờ nghệch không khác cô mán. Người ta đưa Diệu đến nhà Hiền, Diệu ngồi một góc, im lặng, đôi mắt mở thật to nhìn chung quanh. Tất cả đều văn minh quá đối với Diệu.
Mọi người cũng nhìn lại Diệu, hẳn thế, có người còn mang cả máy ảnh đến chụp cái vẻ mán mường của Diệu, trong lúc các thiếu nữ khác cùng tuổi đều lộng lẫy xa hoa, cô nào cũng phấn son, cô nào cũng rực rỡ. Trong đám hoa thị thành chọn lọc, sao lại có một bông hoa hoang dại từ góc núi nào lạc đến.
Thế rồi Hiền đi đâu về, Hiền với bộ quần áo trắng. Từ mấy năm nay Diệu chưa được thấy ai mặc quần áo trắng. Chung quanh Diệu chỉ có màu nâu, màu chàm, hoặc màu lá cây, những màu âm u để tránh cái ống kính tai quái của máy bay từ trên cao nhìn xuống. Không phải mỗi người chỉ sợ cho chính thân mình mà còn sợ gieo tai họa cho người khác nữa.
Hiền về với nụ cười ngạo nghễ, với đôi mắt nháy đen. Hiền ngạc nhiên, cũng ngạc nhiên như mọi người khi thấy Diệu ở trong nhà. Hiền cũng nhìn Diệu, nhưng cái nhìn của Hiền có hơi khác mọi người, Diệu nhìn lại Hiền, đôi mắt của rừng núi nhìn thị thành, có thế thôi.
Hiền văn minh quá và chung quanh Hiền chỉ còn những tà áo lụa là, những mái tóc uống cong theo lối mới, những mùi nước hoa giả tạo nhưng ngọt ngào thơm. Bảo Hiền không ngạc nhiên sao được khi trông thấy một cô gái ngồi thu mình, gầy gò trong chiếc áo đen, màu da xanh mét, đôi bàn tay lúng túng hết đưa lên miệng cắn lại đưa xuống vê tà áo. Nhưng Hiền vẫn nhìn Diệu và trong cái nhìn có gì thắc mắc, Hiền muốn tìm hiểu Diệu là ai, từ đâu về. Có lẽ Hiền cũng không lạ gì, Hiền đã biết một phần nào rồi, Diệu từ đâu về đây.
Đêm hôm ấy là đêm đầu tiên Diệu không lo sợ, từ mấy năm nay, và nhất là hơn một tháng nay Diệu sống trong thấp thỏm, không biết giờ nào thì giặc đến, giờ nào thì phải ôm bọc quần áo chạy trốn theo với đồng bào và giờ nào thì biết đâu mình sẽ bị bắt… Diệu bị ốm nằm lại biên giới không một ai quen thuộc, sống trong sự thương hại của đồng bào. Diệu còn đang xanh và gầy lắm, Hiền cũng nhận thấy như thế. Nếu Hiền biết được Diệu đã trải qua mấy ngày nằm quằn quại trên giường, mê man không nhớ ngày hay đêm, mỗi lần trở mình là đau như bị ai xé ra từng mảnh, không ăn uống được, chỉ còn tưởng chết. Mà Diệu ốm gì Hiền cũng không biết, nhờ mấy chén nước thuốc rễ cây của một ông lang đi qua hay vì số trời còn thương nên Diệu bớt sốt rồi dần dần ngồi dậy và đi được. Vì thế trông Diệu mới gầy còm, cái vẻ gầy còm xanh xao của những kẻ trở về thiếu ăn, thiếu thuốc.
Trăng sáng quá và lòng Diệu hoang mang nhớ tới núi rừng, nhớ những kỷ niệm với các bạn, với đồng bào, nhớ những hôm nằm mê man nghe tiếng máy bay bắn phá chung quanh, nghe mang máng tiếng chân người chạy đi rồi chạy về mà mình không ngồi dậy được, nhớ những đêm trăng cũ, những giọng hò, những tiếng than khóc những cái xác chết tơi bời phải lấy xẻng mà xúc, nạn nhân của những trận bom qua.
Lạ lùng chưa Hiền, khi người ta biết rằng người ta sẽ rời bỏ một cái gì thì tất cả những kỷ niệm cũ đều lần lượt hiện về như níu kéo, như trách móc, như khiêu khích van lơn. Những con rắn lúc cởi bỏ các xác cũ, chúng nó có bâng khuâng không Hiền nhỉ? Chúng nó có buồn không? Chắc nó cũng buồn vì trong cái xác cũ ấy đã từng ấp ủ bao nhiêu lần vui buồn, bao nhiêu kỷ niệm.
Một mình Diệu trong đêm trăng, gia đình Hiền cho Diệu ở tạm thời trong xóm trong lúc chờ đợi giấy tờ, trăng cô đơn chiếu vàng lên bờ ao. Đêm vắng quá, xa xa còn rền rĩ không ngừng những tiếng súng của hai quân đội và sau tiếng súng ấy thế nào cũng có những tiếng kêu than oán trách, thế nào cũng có những người bị thương, những người chết.
Không biết làm gì, thế là cho đỡ thấy cô đơn Diệu hát lên một mình những bài ca cũ mà Diệu vẫn thường hát với các anh em từ xưa. Cây cỏ như lắng nghe, đàn dế, đàn giun cũng ngừng tiếng, hẳn chúng nó bảo thầm với nhau có con dế nào mới đến cũng đang rên siết. Qua hàng dậu, có những bước chân ngừng lại, có những người láng giềng cũng lắng tai nghe.
Trong cái xóm bé xíu, có một chút gì mới lạ mà người ta lại không kể lể cho nhau “ai ngờ cái cô bé sốt rét có nước da vàng ệch ấy mà cũng biết hát”.
Ngày mai lại, Hiền với một vài người bà con mang đàn đến hòa với Diệu. Hiền muốn Diệu hát mãi những dạ khúc ấy, Hiền cũng hát, giọng Hiền ấm cũng hệt như cái nhìn của Hiền. Mọi người đối với Diệu bớt xa lạ hơn một chút.
Nhưng đêm nào Diệu cũng không ngủ được, sau khi Hiền với các anh em ra về Diệu vẫn còn ngồi một mình ngoài sân nhìn bóng mình ngả dần theo bóng trăng, nghe tiếng cá khua động mặt ao. Diệu vẫn bị chứng mất ngủ, nhất là mỗi khi có một sự gì quan trọng sắp xảy đến. Không quan trọng sao được khi người ta từ giã một cuộc đời để bước sang một cuộc đời khác.
Ngày mai với ánh sáng văn minh của thành thị, tìm đâu được nữa hình ảnh bé Diệu với chiếc áo xanh chàm, với mái tóc dài chấm lưng, với đôi má hồng lên mỗi khi trời ngợp nắng, đôi giày đứt quai mòn gót lê khắp núi rừng. Ngày mai Diệu cũng sẽ tha thướt trong những tà áo nhịp nhàng theo thời trang, rồi phấn son, rồi lụa là, cô Diệu cũ sẽ chết hẳn để nhường chỗ cho cô Diệu mới. Không quan trọng sao được, phải không Hiền.
Tương lai sẽ dành những gì cho Diệu, trăm ngàn câu hỏi đang cuồng quay. Chỉ vì thế mà đêm nào Diệu cũng thao thức chập chờn lắng nghe tiếng thở của những người chung quanh, lắng nghe bước chân của đêm khuya, tiếng gà sau chuồng gáy sớm.
Diệu đợi tiếng gà, những tiếng gà gáy báo tin sáng quen thuộc từ mấy năm nay, những tiếng gà thơm ngát mùa đồng ruộng từ đây sẽ càng ngày càng thưa thớt đến với đời Diệu. Nên buồn hay vui đây hở Hiền, sắp được gặp cha mẹ, gặp gia đình sao mà buồn được, nhưng tâm linh Diệu hoang mang như lo sợ một sự gì quan trọng sắp xảy đến.
Thuyền sẽ đỗ ở bến nào? Cuộc sống sẽ có nghĩa lý gì chăng, hay chỉ là những xác hoa trôi bềnh bồng trên sông? Định mệnh sẽ đưa Diệu về đâu?
Ai cũng biết rằng Diệu không ngủ và mấy đêm tiếp Hiền phải pha thuốc cho Diệu uống mỗi bận trước khi chia tay ra về. Nhờ Hiền, Diệu đã ngủ được những giấc ngủ gò ép. Tuy gò ép nhưng vẫn còn hơn là những đêm trắng nằm đợi sáng. Nếu cuộc sống cứ kéo dài như thế mãi Hiền nhỉ… Cái nhìn của Hiền vẫn bọc một lớp nhung đen mỗi khi hướng về Diệu.
Nhưng rồi một đêm sau khi đi ăn về như lệ thường, Diệu thấy có những chiếc xe của quân đội đỗ ở trước nhà, thì ra có kẻ vì tư thù đã đi báo với quân đội những điều không phải là sự thật.
Thế là Diệu phải rời thành phố ấy, rời cái mái nhà xinh xinh, cái bờ ao nhỏ bé mà Diệu đã bắt đầu có cảm tình. Diệu chỉ biết ngơ ngác nhìn định mệnh rồi nhìn Hiền cầu cứu. Hiền giới thiệu Diệu đến một chỗ khác ở tạm thời.
Ngày chúng ta có dịp để nói chuyện nhiều hơn một chút lại là ngày cuối cùng, Hiền có biết thế không? Đến đây là hết, Hiền nhìn Diệu, cái nhìn đầm ấm ngọt ngào, cũng ngọt ngào như những chiếc bánh đậu xanh Hiền đã bỏ theo cho Diệu trước khi lên đường. Nhưng trong những cái nhìn, những nụ cười của Hiền hôm ấy như có gì vấn vương… Chúng ta đều ngập ngừng.
Thuyền máy chở Diệu xa dần, xa dần, bóng Hiền đứng vẫy tay còn như đâu đây, và tai Diệu còn nghe mãi giọng ngâm buồn buồn của Hiền:
…duy kiến Trường Giang thiên tế lưu…
Ngày nay mỗi lần nhớ lại, cái nhìn của Hiền vẫn còn vấn vương bên Diệu. Tại sao ngày ấy chúng ta lại không có can đảm nhìn nhau lâu hơn tí nữa nếu biết trước rằng cuộc đời sẽ vô vị như thế này.
Nếu ngày ấy chúng ta dám táo bạo nhìn nhau lâu hơn một tí nữa thì liệu cuộc đời có thay đổi gì chăng, hay biết đâu như thế lại hơn… phải không Hiền. Mải đến hôm nay, rất nhiều thăng trầm, thời gian đã chồng chất bao nhiêu năm tháng lên nhau xây thành một bức tường khá dày mà cái nhìn của buổi ban đầu ấy, nụ cười ngạo nghễ ấy vẫn còn đang thắm tươi trước mắt Diệu.
Diệu vẫn không quên cái nhìn ấy, nụ cười ấy cũng như Diệu không quên những cốc thuốc vị hơi đắng do tay Hiền pha đến đã làm cho Diệu sung sướng cảm động, có lẽ từ bao nhiêu năm hay hơn thế nữa, thừ thuở bé Diệu chưa bao giờ nhận một cốc thuốc do bàn tay nào hiền lành như thế. Tại sao Diệu lại tin tưởng rất nhiều ở những cốc thuốc ấy.
Diệu tin rằng Hiền không giống những kẻ khác, cảm tình của Hiền không vẩn đục, không vụ lợi, không tính toán. Cốc thuốc của Hiền cũng dịu hiền như bàn tay của người mẹ lúc đưa thuốc đến cho đứa con thân yêu, Diệu có lầm không Hiền? Diệu tin rằng không. Từ bao nhiêu lâu sống trong lo sợ, trong ngờ vực, trong sự tính toán của những người chung quanh, chỉ có một lần và chắc đời chỉ mỗi một lần ấy mà thôi, có người bạn đến săn sóc Diệu không vì bổn phận, không vì lợi. Chúng ta đã thấy rằng ngày mai chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa cả. Cuộc đời, Diệu chỉ quen nó trên lý thuyết nhưng Diệu đã thấy lo sợ và đã biết tự dệt một tấm kén để thu mình vào trong. Còn Hiền? Diệu không biết gì về Hiền cả, chúng ta mới gặp nhau qua những cái nhìn, có thế thôi. Hiền nghĩ gì về Diệu? Hiền nghĩ gì về Hiền? Hiền nghĩ gì về cuộc đời Diệu không hề biết, nhưng biết để làm gì phải không Hiền?
Ngày nay cứ mỗi lần thu chớm về là những cảm giác cũ cũng trở về theo với hơi sương man mác hắt qua cửa sổ với màu lá vàng tơi tả rơi. Rồi nhớ đến Hiền, Diệu cũng bắt chước ai khẽ ngâm lại hai câu thơ của Lý Bạch mà có một lần nào đó ai đã ngâm:
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.*
* Trích trong bài thơ của Lý Bạch
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
“Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu’’.
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
(Ngô Tất Tố dịch)
13. Tình bướm
Từ ngày bướm chỉ là một chiếc trứng chưa bằng hạt sương, bướm mẹ đã linh cảm thấy rằng đây không phải là một chiếc trứng tầm thường. Sau nầy nhất định không phải là một con sâu, một con bướm tầm thường.
Nhờ kinh nghiệm của những lần sinh nở trước, vì thế bướm mẹ hết sức để ý giữ gìn, chăm sóc đến chiếc trứng bé nhỏ ấy.
Quả như bướm mẹ đoán, chiếc trứng nở thành sâu thành nhộng rồi thành bướm, mà bướm quả đã không tầm thường.
Bướm cắn kén chậm hơn các anh chị cùng lứa để bướm mẹ chờ sốt cả ruột. Khi vừa ra khỏi kén, bướm bị hoa mắt vì ánh sáng mặt trời và bùng tai vì những tiếng reo mừng của các anh chị đang vây chung quanh.
– Trời! bướm đẹp, bướm đẹp quá!
Mà bướm đẹp thật, tuy đôi cánh còn non mềm, mầu sắc chưa đậm đà, chỉ có một tí bụi phấn thưa thớt dính ở mình, nhưng ai mới nhìn cũng nhận rằng nhan sắc của bướm đầy hứa hẹn.
Đáng tiếc không phải là giống bướm cái để lưu truyền cái đẹp ấy cho hậu thế.
Bướm chỉ là một chú bướm đực.
Mỗi ngày bướm lớn hơn một tí, bướm cũng tự biết rằng mình đẹp, chẳng thế mà các bướm bà, bạn của mẹ, mỗi lần đến thăm là cứ khen rối cả lên. Lắm bà còn ác mõm bảo, có lẽ không phải là con của mẹ bướm. Làm như mấy hôm ấp trứng có cơn gió to nào thổi đến mẹ bướm những chiếc trứng của giòng họ nhà ai.
Thật vô lý, mẹ vẫn bảo mấy hôm ấy trời lặng gió.
Các bà bao giờ cũng lắm điều nhiều chuyện nên mội lần nghe tiếng đập cánh của các bướm bà từ đầu vườn xa là đằng này có tiếng cánh đập nhẹ của bướm đi tìm chỗ tránh.
Các bà mà họp nhau thì giống gì cũng như giống bướm, cũng chỉ để nói xấu nhau, hoặc là khoe khoang giòng họ, nghe nhức đầu.
Đời còn bao nhiêu chuyện đáng xem, đáng nói. Một nét sao băng vạch lên trời, một bóng nắng làm tươi màu lá, một mùi hương lạ của bông hoa vườn ai nở muộn. Những chuyện ấy đối với các bà đâu có đáng nói. Các bà chỉ toàn nói chuyện ghen tương giữa một nụ hoa với hai bà bướm hoặc bà nầy có đôi cánh mướt đấy nhưng bằng sao được với đôi cánh của bà kia, v.v…
Mỗi lần phải nghe những câu chuyện vớ vẩn ấy, bướm chỉ muốn bỏ ra đi, đi thật xa để tránh cái thế giới bé nhỏ mà ai cũng biết ai, và ai cũng chỉ muốn dìm ai xuống đáy giếng.
Cũng có vài lần vô phúc không tránh kịp, bị các bà ấy níu kéo, lắm bà còn trẻ nên rất nhí nhảnh, bạn của mẹ tức cũng ở vào vai dì, thế mà gặp bướm là nhìn không chớp mắt rồi khen lấy khen để:
– Chao ơi, cậu đôi cánh nhung sao mà duyên dáng!
Hoặc là:
– Hai điểm hồng trên đôi cánh như hai hạt trai, giá trời cho tôi được như thế.
Đại khái toàn là những lời khen tặng làm bướm ngượng vô cùng. Các bà già gặp bướm thì lên mặt kinh nghiệm dạy đời:
– Cậu ấy đẹp trai như thế kia, tha hồ mà làm khổ mọi người!
Vô lý, có phải trời sinh ra đẹp chỉ để làm khổ những kẻ khác đâu, định luật nào bảo thế. Mỗi lần các bà bướm nói nhiều quá thì mẹ bướm phải tìm cách nó sang chuyện khác vì biết rằng bướm không bằng lòng.
Nếu bướm đẹp đâu phải lỗi ở bướm. Nếu trong lứa bướm ấy chỉ toàn những con bướm màu nâu đất ruộng, riêng mình bướm có đôi cánh nhung đen huyền, điểm hai chấm hạt trai hồng óng ánh, nào phải do bướm tự chọn được đôi cánh ấy.
Mẹ bướm rất kiêu hãnh mỗi lần bay đi đây cùng với bướm. Ai cũng ngoảnh lại nhìn hai mẹ con.
Nhưng tính bướm rất kỳ lạ, không giống các anh chị em tí nào, bướm thích bay đến những chỗ vắng lặng, đậu trên cành cây, xếp đôi cánh nhung lại rồi cứ thế lim dim suy nghĩ hằng buổi.
Ở tuổi ấy đáng lẽ chỉ biết ăn uống nô đùa, bướm không như thế.
Bướm ở xứ mặt trời nhưng thường nghe mẹ với các bướm bạn hay nói đến tuyết, và bướm cũng chỉ mơ được trông thấy tuyết. Bướm hỏi mẹ tuyết nó ra thế nào, mẹ bảo:
– Tuyết rơi không lên tiếng, thường vật gì rơi cũng reo xuống một thứ tiếng động nhẹ hay nặng, chỉ trừ hai thứ, tuyết và nước mắt của loài người. Nhưng là những người đau khổ ngấm ngầm, khổ không biết than với ai nên mới khóc không lên tiếng. Người khác, khi họ khóc thì bù lu bù loa, và những giọt nước mắt cũng ầm ĩ không êm lặng như tuyết nữa.
Bướm hỏi:
– Sao mẹ biết nhiều thế?
– Tại mẹ già rồi có kinh nghiệm, chúng ta ở đây là ở trong vườn người.
Mẹ bướm không quên dặn con hãy coi chừng có lắm người rất hay đuổi bắt những con bướm đẹp.
– Để làm gì hở mẹ? Chúng ta có hại gì đến họ đâu?
– Để ép xác khô chơi thế thôi, họ dồn cất đủ mầu. Có người lại tiêm thuốc lên thân bướm, rồi đóng kim lên từng xác bướm vào hộp kính, chưng bán ở cửa hiệu, hình như giá đắt lắm.
Nghe mẹ nói, lòng bướm hoang mang không hiểu tại sao loài người có thể ác đến thế. Mẹ bướm vẫn dặn con, tốt hơn hết là nên tránh xa loài người. Với các con khác, thầm thường hơn chẳng bị ai để ý, mẹ bướm không cần lo lắng, nhưng bướm là cả một nguồn lo âm ỉ trong lòng mẹ.
Một hôm bướm đi chơi đâu về hỏi mẹ:
– Yêu là thế nào mẹ nhỉ?
Mẹ bướm ngơ ngác nhưng rồi cũng phải giảng:
– Yêu là khi gặp ai mà lúc về, lòng cứ bâng khuâng thao thức, đêm ấy mình không ngủ hoặc có ngủ cũng chỉ thêu toàn hình ảnh kẻ mình vừa gặp, đêm ngày mình chỉ mơ ước được nhìn nét mặt, được nghe giọng nói, đến khi gặp thì mình vụng về lúng túng.
Nghe mẹ giảng bướm hiểu được ngay, bướm tự hỏi xem mình đã có lần nào yêu ai chưa. Nhưng chưa, đời bướm chưa gặp ai mà về nhà thao thức như mẹ nói. Thế cũng may. Mẹ bướm còn khuyên con hãy nên tránh những bông hoa quá đẹp, các cô nàng thường vẫn hợm hĩnh, lắm khi không tâm hồn, hẳn vì bao nhiêu tinh túy đã đặt cả vào phần xác nên phần tâm hồn đành bị bỏ quên đi chăng. Một lần khác bướm đi chơi về hỏi mẹ:
– Hy sinh cho ai là gì hở mẹ?
– Là quên mình mà chỉ nghĩ đến ai.
– Thế còn thất vọng?
– Thất vọng là khi mình chờ đợi một sự gì mà nó xảy ra khác hẳn với ý mình muốn.
Tuy đã tạm bằng lòng với những lời giảng đơn sơ của mẹ, bướm còn hỏi thêm một câu:
– Thế mình yêu rồi thất vọng mới hy sinh hay là hy sinh, thất vọng rồi yêu hay yêu, hy sinh rồi thất vọng?
Mẹ bướm kêu trời vì những câu hỏi phức tạp của bướm. Không phải bướm cầu kỳ nhưng bướm muốn biết trong ba thứ tình cảm ấy, thứ nào cần đặt lên trước.
– Tùy đấy.
Mẹ bướm chỉ biết có thế chứ không thể nào giảng hơn, không hiểu con nhặt đâu ra những câu hỏi cầu kỳ như thế. Mẹ bướm làm sao hiểu nổi những sự tiến triển xảy ra trong tâm hồn con.
Mùa xuân về từ mấy hôm nay. Làng bướm xôn xao vì tin đồn sẽ có cuộc triển lãm muôn hoa trong dịp Tết, bầu hoa hậu.
Bướm hỏi mẹ, mẹ bảo đấy là cuộc thi nhan sắc cả muôn loài hoa. Khi người ta đẹp thì người ta muốn khoe cái nhan sắc. Lòng bướm cũng đâm ra nôn nao, mong chóng đến ngày ấy. Bướm bây giờ không còn là chú bướm bé nhỏ chỉ biết ăn xong ra đùa với nắng trên mấy đám cỏ xanh.
Bướm lớn rồi, đôi cánh huyền càng ngày càng thẫm mầu, mịn và mướt như nhung tơ, hơi co-cúp một tí ở phía đầu cánh, giống hệt như hai cánh hoa. Đậu lên cành lá, ai cũng nhầm tưởng có một bông hoa kỳ lạ vừa chớm nở. Nhưng lòng bướm vẫn chưa hề biết yêu. Chưa có bông hoa nào hân hạnh được bướm để ý đến. Hẳn vì đẹp nên mới khó tính chăng?
Bay đi đến đâu cũng chỉ nghe bàn bạc về chuyện triển lãm ở vườn Ngự Uyển nhân dịp xuân về.
Mẹ bướm dặn các con hãy coi chừng, những bông hoa trong cuộc thi nhan sắc lắm khi chưa hẳn đã là đẹp nhất. Nếu muốn tìm nhan sắc thật, đúng nghĩa, thì phải vào trong rừng xanh núi rậm, đấy mới là nơi mà các cô nàng phô bày đầy đủ cả sắc lẫn hương. Những bông hoa được đưa ra cho mọi người ngắm thường vẫn bị gò ép trái mùa hoặc hữu sắc vô hương, hầu hết đều ít tình cảm.
Ngày thì chưa đến, cửa vườn còn đóng im ỉm, cấm ai lạ vào xem, chỉ những người mang hoa đến dự thi mới được vào, đi phía cửa nhỏ, khệ nệ khiêng từng chậu hoa, cố sức nhẹ nhàng sợ động đến thân hoa.
Cửa chỉ đóng với loài người chứ với chim, bướm thì cửa nào cũng chịu thua. Các chú bướm, cô chim tha hồ mà dập dìu, tíu tít.
Vào đến vườn, bướm như bị ngay một thứ hào quang đập vào mắt. Bướm phải đậu lại trên một cành cây, lặng yên tìm sự bình tĩnh rồi mới tiếp tục bay đi ngắm nhan sắc các cô nàng.
Bay khắp vườn, bông hoa nào cũng chúm chím, cũng rực rỡ, cũng duyên dáng.
Thấy mấy chú bướm lượn bay, các cô lấy vẻ đài các kêu ầm lên:
– Sao lại hớ hênh để cho ai cũng ra vào được?
Các cô nàng làm như mình đã là hoa khôi rồi.
Lời mẹ bướm nói đúng, bướm bay khắp vườn mà chưa gặp bông hoa nào vừa ý. Trước sự phô trương nhan sắc thì hình như có gì đang làm hạ giá trị của nhan sắc xuống chăng?
Không vì thế mà nản lòng, bướm vẫn bay vẫn lượn, vẫn nhìn ngang dọc khắp nơi. Có lẽ nào lại không tìm được một bông hoa vừa ý?
Bay khắp hết từ vòng trong ra ngoài, ở mãi tận cuối vườn, bướm đang hơi thất vọng giật mình vì một tiếng thở dài nghe não nuột.
Quái lạ, trong lúc các cô nàng đều nao nức phô trương nhan sắc, sao lại có tiếng ai thở dài? Bướm tự hỏi rồi bay ngay đến phía ấy.
Đấy là một gốc hồng nhung khá đẹp, nhưng cái đẹp bên muôn nghìn cái đẹp khác cũng khó mà phân biệt được. Đẹp còn phải lạ, phải hiếm có, phải đặc biệt chứ đẹp suông thì chỉ được ban giám khảo nhìn phớt ngang mà thôi.
Cố nhiên là khi nhan sắc đứng bên lọ nồi, nhan sắc phải được giải nhất vì còn ai đâu cho ban giám khảo cân nhắc lựa chọn. Trong bầy con sen con đỏ suốt ngày gánh nước, bổ củi thì cô khâu được hạng nhất nhờ có đôi bàn tay không bị công việc làm rám chai. Bướm đứng lặng ngắm bông hoa hồng một lúc rồi mới lên tiếng, giọng bướm ngập ngừng, lần đầu tiên bướm nghe có gì hơn lạ trong lòng mình khi đứng trước một bông hoa:
– Sao cô buồn, sao cô thở dài trong lúc mọi người đều vui?
– Em không đẹp.
– Bậy nào, cô kém gì các có khác.
– Anh bảo thế chứ đẹp mà cá mè một lứa thì có nghĩa lý gì.
Bướm mỉm cười vì câu nói, hẳn cô nàng không tầm thường như các bạn đồng quê. Bướm lại hỏi:
– Cô có mong chiếm được giải nhất không?
– Có chứ, bông hoa nào lại chẳng mơ ước được chức hoa khôi, cũng như người thiếu nữ nào lại chẳng mơ ước được chụp ảnh, được phỏng vấn, được tiếng khen là đẹp nhất làng, nhất huyện, nhất tỉnh, nhất xứ.
Bướm thấy vui vui khi nghe cô nàng nói. Có lẽ đây là lần đầu tiên bướm gặp một nụ hoa mà câu chuyện khá sâu đậm chứ không vài câu xã giao nhạt nhẽo.
– Nếu được giải nhất thì cô sẽ làm gì?
– Em sẽ sung sướng, em sẽ… em sẽ…
Rồi cô nàng mỉm cười mơ mộng. Bỗng cô nàng nhìn bướm chăm chú:
– Trời ơi anh đẹp quá, nếu có cuộc thi nhan sắc loài bướm chắc anh phải giật giải nhất.
– Loài bướm chúng tôi thích tự do, ai muốn điều khiển thì phải đợi giết được chúng tôi mới có thể… nói đến chuyện ấy.
Hoa nhăn mặt nũng nịu:
– Anh làm em sợ quá, nhưng anh có đôi cánh giống hệt như cánh hoa của chúng em.
Bướm cuối nhìn mình rồi nhìn hoa:
– Ừ nhỉ.
– Nhất là nét hồng ở đầu cánh giống hệt như màu da của em.
Bướm lại cúi nhìn so sánh:
– Ừ nhỉ, chắc chúng ta có họ hàng với nhau.
– Trời, giá trời cho em đôi cánh ấy, ghép khéo léo vào da thịt em thì ngày mai em sẽ ăn giải nhất.
Bướm cúi nhìn đôi cánh của mình một lần nữa:
– Ừ nhỉ, giá tôi cắn đôi cánh mang ghép vào da thịt cô.
Bông hoa sáng ngời lên vì ham muốn. Trông cô nàng đẹp lạ, nhưng rồi cô nàng tiu nghỉu ngay:
– Nói chơi thế chứ làm sao em có được đôi cánh ấy, trừ khi có phép tiên.
Cô nàng lại thở dài, giống hệt như tiếng thở dài ban nãy làm bướm se lòng:
– Nếu tôi biếu cô đôi cánh thì cô nghĩ sao?
– Ấy chết em đâu dám, rồi anh lấy gì mà bay đi bay đó?
– Không bay thì bò, tôi sẽ ở dưới gốc cây hồng, tôi sẽ được nhìn cô mãi mãi. Nhưng trước đó tôi phải về qua nhà thăm mẹ tôi, báo cho mẹ tôi biết.
– Mẹ anh biết chắc sẽ ngăn cản, không bằng lòng.
– Tôi lớn rồi, có quyền định đoạt cuộc đời tôi chứ.
– Mẹ anh sẽ ghét em.
– Mẹ tôi hiền lắm.
– Mẹ chồng với nàng dâu có mấy khi thương nhau.
Cô nàng làm như khi nhận đôi cánh rồi thì sẽ là vợ của bướm.
– Vì không tìm hiểu nhau.
Bướm trả lời hoa.
– Anh đừng về, anh về thế nào mẹ anh cũng sẽ giữ anh lại, sẽ không cho anh đến đây nữa.
– Thế thì để tôi tìm nhắn với một bà bạn của mẹ tôi vậy.
Bướm bay đi một lúc rồi trở lại, trong lúc ấy bông hoa đang thả hồn tưởng tượng đến ngày mai mình sẽ được giải nhất. Sẽ được đặt lên đài cao, tất cả muôn hoa đều ghen tị. Suốt mấy ngày sẽ có hàng vạn người đến ngợi khen. Hoa cảm thấy sung sướng như đang được sống trong những phút vinh quang ấy.
Tiếng đập cánh nhè nhẹ của bướm làm hoa giật mình rời khỏi giấc mộng. Cô nàng chỉ lo bướm đổi ý. Từ nãy đến giờ hoa quên không hề nghĩ đến sự hy sinh đau đớn của bướm. Nhan sắc vẫn đi đôi với tánh ích kỷ chăng?
Trái lại, chú bướm si tình mải nghĩ đến sự vui sướng của hoa mà quên nghĩ rằng đời bướm chỉ có đôi cánh là đáng quý nhất. Mất đôi cánh là mất hết, cái chết sẽ chờ đợi.
– Nhưng chết có nghĩa lý, cái chết của ta sẽ làm cho một kẻ sung sướng và bao nhiêu người vui mắt.
Bướm bay sà vào lòng hoa, cố lách mình vào giữa hai cánh hoa, tự cắn cho đứt một cánh, rồi một cánh thứ hai.
Khi đôi cánh ghép khéo léo xong thì bướm kiệt sức nằm lịm đi không còn biết gì nữa cả.
Hoa sung sướng quên cả kẻ đã hy sinh cho mình, cô nàng biết rằng bây giờ thì giải nhất nàng nắm chắc trong tay, và hoa hơi cáu vì thấy bướm nằm mãi không chịu đi chỗ khác.
– Ơ hay cái anh này!
Bướm dần dần tỉnh trong cơn đau đớn ê ẩm.
– Thôi anh đi xuống ngay, nhỡ người ta thấy!
Hoa đâu biết rằng bướm không nhấc được một bước, hoa ngúng nguẩy cố nghiêng mình hắt bướm xuống đất.
Bướm từ trên lòng hoa, trước khi rơi xuống đất còn bị mấy cái gai nhọn xước vào da thịt. Lúc tỉnh dậy chỉ có mẹ bướm lo lắng bay lượn chung quanh. Mẹ buồn rầu kể cho con nghe rằng hoa được giải nhất, được bày ở cung nhà vua trọn ba ngày Tết. Cô nàng rất hợm hĩnh nên ai cũng ghét.
– Càng hay mẹ ạ, thế là con đã yêu, đã hy sinh và đã thất vọng.
14. Sáu Con Búp Bê
Hạnh ngồi bó gối bên lò sưởi nhìn ngọn lửa nổ lách tách, cái dáng ngồi rất nguyên thủy, vì phải là ở vào thời nguyên thủy hoặc ở những chốn quê mùa mới có cái lối bếp kê sát đất để người ta có thể ngồi lên một phiến gỗ nhỏ, hai tay bó gối, tha hồ mơ mộng, tha hồ thả tâm hồn đi du lịch.
Hạnh cũng không biết mình bắt đầu ngồi như thế này từ bao giờ, nhìn ngọn lửa chập chờn, Hạnh chẳng thấy chán mắt tí nào. Có lúc Hạnh tưởng chừng như đấy là những bông hoa trước gió, từng cánh, từng cánh rung rinh. Có lúc Hạnh lại tưởng như là một bầy tiên đang múa, xiêm y rực rỡ, mà những làn khói là những làn mây đang uốn lượn chung quanh. Một lúc khác, Hạnh không còn thấy giống những nàng tiên mà là những chàng mọi đen, mọi đỏ. Một trận giặc giữa hai màu da đỏ với da đen, thỉnh thoảng một thanh củi nhỏ mất thăng bằng rơi ra ngoài giống hệt như một tên mọi bị bắn chết ngã chúi xuống trong tiếng hò reo của quân thù. Hạnh bỗng cảm thấy yêu lửa một cách lạ, lửa là một bức tranh thay đổi, linh động, giá lửa đừng nóng, cầm lên đừng bỏng tay thì Hạnh sẽ nắm lấy những bà tiên, những cánh hoa, những tên mọi ấy trong tay để được nhìn gần cho thỏa thích. Nhưng lửa nóng quá và Hạnh cứ phải ngồi lùi ra xa xa.
Nếu từ nãy đến giờ không nhìn lửa thì chắc Hạnh sẽ không biết phải làm gì, bên ngoài trời mưa phùn u ám và lạnh lẽo, người Hạnh lại đang mệt, chị của Hạnh không cho Hạnh đi chơi sợ Hạnh ốm chứ kể ra trời này mà mặc áo ấm đi giày to thọc tay vào túi quần lang thang trong mấy bãi tha ma cũng là một sự rất thú vị. Đành phải ngồi nhà vui với lửa vậy, nhưng nhìn lâu một vật gì cũng mỏi mắt, chưa tối mà sao mắt Hạnh đã muốn dim díp, buồn ngủ giờ này chăng? Một vài sợ khói bay tràn ra ngoài làm Hạnh cay cả mắt. Hạnh đưa tay lên dụi mắt, bắt buộc Hạnh phải rời những điệu múa uốn éo của mấy nàng tiên lửa để nhìn lên bầy búp bê của Hạnh vẫn sắp hàng đứng trên lò sưởi.
Mấy con búp bê sao hôm nay trơ trẽn một cách lạ, không biết nhảy múa, không biết cử động, đứng cứ lì lì ra. Hạnh đưa tay cầm lấy một con búp bê nhìn chăm chú rồi khẽ nói với nó, không dám nói to sợ người ngoài nghe thấy:
– Tại sao chúng mày cứ lì ra như thế? Chẳng biết làm cái gì cả, ít nhất chúng mày cũng nên tập nhảy múa ca hát, hoặc kể những câu chuyện nghe gì cho vui, chúng mày hãy nhìn lên bếp lửa mà bắt chước kìa.
Hạnh vừa nói xong bỗng giật mình vì những tiếng xôn xao chung quanh. Hạnh ngơ ngác không biết rằng mình đang mơ hay tỉnh. Tất cả mấy con búp bê đều lên tiếng cãi với Hạnh, giọng con búp bê Hòa Lan đanh đá nhất:
– Cô đừng tưởng chúng tôi không có chuyện kể, cố nhiên là câu chuyện đời của chúng tôi thì rất tầm thường, chúng tôi sinh ra không có cha có mẹ như người khác, chúng tôi chỉ là con của những cái máy chạy ầm ầm, sản xuất hằng trăm hàng nghìn, vì thế khỏi cần kể ra, đời đứa nào cũng không khác đứa nào, nhưng chúng tôi có thể kể cho cô nghe chuyện đời của người mua chúng tôi, vì chúng tôi có liên hệ mật thiết đến những người ấy. Mỗi lần cô nhìn chúng tôi cô sẽ nhớ đến những người ấy.
Hạnh dụi mắt lại một lần nữa, không, quả thật là Hạnh không mơ. Con búp bê Hòa Lan do một người bạn Hòa Lan mua tặng Hạnh cách đã mấy năm nay. Nó là một cô gái quê tóc vàng mắt xanh, đầu đội mũ đăng ten giống cái khăn mỏ quạ ở miền Bắc Việt Nam. Mình nó mặc áo đen thêu hoa, chân đi guốc mộc. Nó không xấu nhưng không có vẻ lịch sự đài các. Người bạn Hòa Lan ấy là một giáo sư già, gặp Hạnh trong một buổi dạ hội ở Thụy Sĩ, câu chuyện này Hạnh không biết rằng có phải người bạn đã kể cho Hạnh nghe một chiều đi quanh hồ Leman hay là mãi hôm nay Hạnh mới nghe con búp bê kể lên là lần thứ nhất.
– Năm tôi lên sáu là một năm đánh dấu mạnh nhất vào cuộc đời. Tôi không thể nào quên được những kỷ niệm sâu sắc ấy. Từ độ tôi biết nói, biết hôn là tôi có thói quen phải hôn mẹ trước khi vào giường đi ngủ, nếu không hôn thì tôi bứt rứt không ngủ được.
Đêm ấy mẹ tôi có khách ở phòng ngoài. Bà khách ngồi lâu quá, đợi mãi không thấy khách về, đúng giờ đi ngủ tôi có bổn phận phải lên giường, nhưng nằm mà chưa hôn mẹ thì làm sao tôi có thể ngủ được, đợi một lúc mẹ tôi không vào tuy mẹ tôi đã biết tính tôi chưa hôn thì không ngủ. Tôi cất tiếng gọi mẹ:
– Mẹ ơi vào cho con hôn.
– Ừ để rổi mẹ vào – giọng mẹ tôi trả lời rất ngọt ngào và tôi yên lòng nằm chờ, chờ mãi cũng chưa thấy mẹ tôi vào, tôi lại gọi:
– Mẹ ơi vào cho con hôn.
– Chờ một tí đi con, mẹ vào ngay bây giờ.
Tôi lại chờ, cái quãng thời gian chờ đợi bao giờ cũng dài dằng dặc, người lớn còn lạ lùng gì sự ấy. Lần này tôi tức gần phát khóc, tôi lên tiếng gọi to hơn cố cho cả bà khách cũng nghe, cái bà khách sao mà dễ ghét thế, cứ ngồi lì ra:
– Mẹ ơi con buồn ngủ lắm rồi, sao mẹ bắt con chờ lâu thế?
Mẹ tôi nghe tôi gọi lần thứ ba cũng đâm cáu, giọng mẹ tôi không ngọt ngào như hai lần trước:
– Cái con bé này làm gì mà nheo nhéo lên thế.
Nghe giọng mẹ tôi gắt tôi bỗng cảm thấy tủi thân, nước mắt ở đâu trào ra ướt cả mặt, cả gối. Mình gọi người ta vào để hôn mà người ta còn gắt gỏng! Tôi khóc một trận rồi ngủ quên đi lúc nào, sau đấy mẹ tôi có vào hôn tôi hay không tôi cũng chẳng biết, nhưng riêng tôi thì từ đêm ấy trở đi, tôi thề cho đến già không bao giờ hôn mẹ trước khi đi ngủ nữa.
Đây mới là kỷ niệm thứ nhất, kỷ niệm thứ hai còn làm tôi khổ sở hơn, và đến kỷ niệm thứ ba thôi thì khỏi nói, nhưng để tôi kể nốt cái kỷ niệm thứ hai cho cô nghe.
Một chiều tôi theo cha tôi đi đến nhà người bạn, một ông bạn vừa dọn nhà mới nên trông sạch sẽ đàng hoàng. Gian phòng khách sơn màu ngà, có chạy một đường nâu thẫm ở trên trần, không cao lắm, đứng nhón chân chắc tôi có thể với tay lên đường nâu ấy được.
Cha tôi ngắm nghía một lúc rồi tấm tắc khen “đẹp, đẹp quá!”. Quả thật tôi chẳng biết nó đẹp ở chỗ nào. Hỏi cha tôi thì người chỉ giảng rằng nó thuộc về sự thẩm mỹ mà ngày sau lớn lên tự khắc tôi sẽ hiểu. Theo ý tôi thì cần gì phải lớn mới hiểu, tôi biết nó chỉ là một đường nâu thẫm chạy dài quanh bức tường màu ngà, cha tôi khen đẹp vì nó thuận mắt người. Về đến nhà cha tôi còn tả cho mẹ tôi nghe và hẹn sẽ đưa mẹ tôi đi đến xem.
Lễ Giáng Sinh năm ấy tôi được một hộp sơn màu rất lớn. Tôi sung sướng nhưng không muốn chỉ sung sướng một mình. Và tôi nhất định phải làm cái gì để vui lòng cha tôi. Nghĩ đến bức tường ở nhà ông bạn, tôi mừng quá vì tìm ra được một ý kiến hay. Đêm ấy tôi nằm ngủ mà chỉ mong cho chóng đến sáng, mà sáng rồi còn phải chờ cha mẹ tôi đi vắng mới dám thực hành ý kiến. Tường nhà tôi cũng màu ngà, may mắn quá, tôi sẽ bắc ghế đứng lên kẻ một đường viền nâu chạy dài quanh tường. Như thế cha mẹ tôi cũng sẽ có một gian phòng khách giống hệt nhà ông bạn, hẳn cha mẹ tôi sẽ vui lòng lắm.
Ngày mai đến, đợi cha mẹ tôi vừa ra khỏi nhà là tôi bắt tay vào việc làm ngay, chỉ lo cha mẹ tôi về khi tôi chưa hoàn thành bốn bức tường thì thật là đáng tiếc.
Nói ra thì dễ nhưng kẻ cho được một khúc ngay ngắn thôi cũng đã là một sự khó khăn. Hì hục hơn ba tiếng đồng hồ tôi mới chỉ kẻ xong có một phía tường thì có tiếng cha tôi về. Người vừa mở cửa thấy tôi đang vẽ, tôi quay lại nhìn cha tôi lòng hân hoan đợi người sẽ chạy đến ôm tôi vào lòng mà khen thưởng nhưng không, sự thật trái hẳn với lòng mong muốn. Cha tôi nghiêm nét mặt, kéo tôi xuống phát cho mấy cái vào mông đau lịm cả người. Quả thật tôi không thể nào hiểu nổi. Cha tôi mắng tôi là đồ phá nhà, con hư.
Tôi giận cha tôi đến không thèm giải thích, người lớn thật phiền phức khó hiểu, chẳng biết khi nào họ khen, khi nào họ đánh đòn.
Còn nữa, đây mới là cái kỷ niệm đau khổ nhất cho đời một đứa bé sáu tuổi. Nhà chúng tôi ở từng gác dưới và nhà bé Lan ở gác trên, tôi với bé Lan trạc tuổi nhau, chúng tôi thân nhau hơn cả người lớn. Bé Lan có con búp bê tên là Mimi, chúng tôi gọi Mimi là con của chúng tôi. Sáng nào tôi cũng lên nhà bé Lan để cùng đánh thức Mimi dậy, thay quần áo cho Mimi và đưa Mimi đi chơi. Tối đến, trước khi ăn cơm cũng phải lên gác với bé Lan để hôn Mimi và dỗ Mimi đi ngủ. Có những lúc chúng tôi ngồi suốt buổi bên nhau để bàn chuyện tương lai của Mimi. Ý tôi muốn là sau này Mimi lớn sẽ đi học lái máy bay nhưng bé Lan sợ Mimi ngã đau nên chỉ muốn cho Mimi đi đóng phim, như thế sẽ được người ta treo ảnh khắp các bức tường. Tôi chỉ vui lúc nào ở bên bé Lan với Mimi, tuy trong cả ngôi nhà mấy từng còn có nhiều trẻ con khác, thằng Lạc, thằng Lì, con bé Xoa, thằng Nô. Tôi thích nhìn bé Lan cười làm rung rung chòm tóc trắng như lụa ở sau gáy, có cái nơ đỏ tươi như bông hoa mồng gà những ngày hè ở ngoài đồng lúa.
Một hôm trước khi nhập học mẹ tôi đưa tôi đi phố sắm giày và mũ. Tôi không muốn đi học tí nào nhưng nếu không đi học thì sau này đâu có biết làm việc gì để có tiền nuôi bé Lan và Mimi. Cha mẹ tôi nói mãi tôi mới bằng lòng chịu đi học và cũng vì thế phải đi sắm giày và mũ. Hôm ấy gặp vào chiều thứ bảy nên người ta đi mua sắm rất đông, đến chỗ nào cũng phải làm đuôi chờ đợi. Chúng tôi về nhà thì trời đã bắt đầu tối, vì biết rằng giờ này phải cùng bé Lan dỗ Mimi ngủ nên tôi vội vàng, không kịp thay quần áo chạy vội lên gác ba, chỉ sợ Mimi buồn ngủ vì chờ tôi quá lâu.
Vừa đến trước cầu thang tôi nghe tiếng bé Lan đang cười với ai, không cần phải trông thấy tôi cũng biết rằng có một chòm tóc lụa ngà đang rung rung sau gáy. Giọng bé Lan nói với Mimi “Con gái vào giường ngủ cho ngoan nhé”. Tôi bước đến gần thấy cửa hé mở, tôi nhìn vào trong thấy thằng Lạc đang đứng cạnh bên Mimi, chỗ ấy là chỗ của tôi vẫn đứng thường lệ. Bé Lan hôn Mimi rồi chìa má Mimi cho thằng Lạc cùng hôn. Cử chỉ không khác gì cử chỉ bé Lan vẫn làm mỗi ngày với tôi.
Tôi đứng yên nhìn thằng Lạc bọc cái giường cho Mimi ngủ, khung cảnh thật đầm ấm và tôi lặng lẽ xuống nhà. Đêm ấy tôi lên một cơn sốt, cha tôi rầy mẹ tôi đã đưa tôi đi chơi quá lâu. Sự thật đâu phải thế.
Từ đấy không bao giờ tôi lên gác để cùng bé Lan dỗ Mimi đi ngủ nữa.
Con búp bê Hòa Lan vừa nói xong chuyện thì con búp bê Y Pha Nho tha thướt đến đứng trước mặt Hạnh khẽ nghiêng mình cúi chào rất lịch sự. Búp bê Y Pha Nho mặc áo trắng viền đỏ, váy rộng tung xòe ra xa phủ cả gót chân, đầu đội tấm voan đen thêu hoa đỏ, mái tóc đen huyền, đôi cánh tay trần mũm mĩm trông đài các như một nàng công chúa. Giọng nó nói nghe cũng quý phái hơn búp bê Hòa Lan.
Chuyện của nó kể là chuyện đời người bạn của Hạnh. Người bạn đã mua nó để tặng Hạnh vào dịp lễ Giáng sinh vừa qua.
“Tôi là một đứa con không cha, không có quê nội, mẹ tôi bảo rằng cha tôi chết trong cuộc thế chiến thứ nhất trước khi tôi ra đời. Mẹ tôi bảo thế chứ dì tôi và mọi người trong làng đều nói khác cả. Tôi cũng chẳng biết tin ai, người lớn hay đặt chuyện để làm khổ nhau. Chẳng bao giờ tôi dám hỏi, mẹ tôi không thích nhắc đến quá khứ.
Những đứa trẻ khác không cha thì ra sao, riêng tôi, tôi chẳng thấy gì gọi là thiếu thốn cả. Trái lại tôi thấy tôi bớt một người để thương tức là bớt đi một lần khổ, đời sẽ tránh được một lần khóc khi tiễn người ấy ra nghĩa trang. Càng may mắn hơn nữa là ông bà ngoại tôi yêu chiều tôi vô cùng.
Vì sinh trưởng ở nhà quê nên tính tình tôi rất cục mịch thô lỗ, chẳng bao giờ tôi biết nhường nhịn ai, càng được cưng tôi càng hư. Cả nhà chỉ mình ông ngoại tôi được hân hạnh cõng tôi đi chơi mà thôi, có lẽ vì ông tôi già yếu nhất nên tôi rất vui khi được hành hạ người.
Tôi thích ăn quà, uống nước chanh nhưng phải ra quán mới chịu ăn uống, mua về nhà thì tôi không thèm nhìn đến nữa. Mỗi lần như thế ông tôi phải cõng tôi ra tận đầu phố làng. Ngồi trên lưng người, tôi bảo đi đường nào thì ông tôi phải đi theo con đường ấy, và tôi cố ý chọn những con đường mòn có nhiều gai góc khó đi. Ông tôi có phàn nàn thì tôi nhào từ trên lưng người xuống đất bất kể cỏ rác gai góc xước vào da. Tôi lăn ra khóc cho đến bao giờ ông tôi xin lỗi mới nghe.
Cả nhà sợ tôi như sợ ông thổ thần. Ở trường học tôi muốn ngồi chỗ nào thì thầy giáo phải để yên, tôi vốn thích các cô gái cùng tuổi, nhất là những cô bé nào có áo đẹp. Ngay đến cả lúc vào thi tôi cũng nhất định ngồi cạnh cô bé nào có váy thêu hoa, không cho tôi ngồi thì tôi không thi, thế là đến ban giám khảo cũng phải chịu nhịn. Tuy vậy ngoài cái lì cái bướng ra tôi nổi tiếng là học trò giỏi nhất lớp, mọi người đều phải công nhận như thế. Bây giờ tôi thành người lớn, có địa vị trong xã hội cũng là nhờ ở sự hy sinh cố gắng của mẹ tôi. Thời gian đã thay đổi hẳn, tôi trở nên một người hiền lành nhất. Mỗi lần nghĩ đến mẹ, lòng tôi lại thấy nao nao, không biết một kiếp người có thể đền đáp cái công ơn ấy không. Vì thế mà tôi không dám cưới vợ, chỉ sợ không có người đàn bà nào có thể làm vừa lòng mẹ tôi.
Búp bê Y Pha Nho kể đến đây thì ngừng giọng. Hạnh nhìn kỹ mặt nó, quả thật nó có những nét gì hơi thoáng giống người bạn của Hạnh, người bạn hiện đang làm giám đốc cho một nhà ngân hàng lớn. Búp bê Y Pha Nho định lùi bước thì Hạnh giữ nó lại hỏi thêm:
– Thế mày có biết nhảy không?
– Có chứ, xứ Y Pha Nho người nào lại chẳng biết nhảy, chỉ trừ người mua tôi, tức là ông bạn quý của cô, ông ta nhảy thì cũng y như người chạy bộ, nhờ được cái lịch sự nên các bạn cũng vui lòng tha thứ cho.
Nói đến đây búp bê Y Pha Nho đưa tay lên rồi vươn mình một cách kiêu hãnh, dậm chân xuống sàn định làm mấy bước Flamenco thì con búp bê Tiệp Khắc đã đến nắm váy nó kéo đi:
– Thôi xin cô, chúng tôi biết tài của cô cả rồi, nhảy với nhót suốt ngày điên cái đầu, chẳng nghĩ đến ai!
– À ra thế, Hạnh ngắt lới. Chúng mày nhảy nhót vào lúc nào? Tao chỉ thấy chúng mày cứ trơ trơ ra suốt ngày.
– Chúng tôi nhảy lúc nào cô ngủ ấy!
Hạnh nghĩ thầm một đêm nào mình sẽ thức để rình xem chúng nó làm những cái trò gì, thảo nào hôm nọ đang ngủ, Hạnh nghe có những tiếng động ở lò sưởi, giật mình thức giấc Hạnh bấm đèn lên thì chẳng thấy gì cả.
– Thảo nào hôm nọ tao nghe có tiếng động.
– Vâng thì là hôm lễ Giáng sinh ấy đấy, chúng tôi lo quá đi mất, tại cô gái Y Pha Nho này, có cái váy cứ xòe ra nên anh chàng nô lệ Ba lan bước vô ý vấp phải vào, thế là ngã cong queo ra giữa sàn, kể ra thì hôm ấy cũng nhân ngày lễ, cô lại để chai rượu ngay đấy nên chúng tôi vui, uống cũng hơi quá chén. Vả lại chờ cô ngủ yên cũng đến sốt cả ruột, bận sau cô ngủ sơm sớm tí nhé, để chúng tôi hoạt động cho gân cốt giãn ra chút xíu. Gớm, đứng yên suốt ngày cô tưởng dễ lắm đấy ư?
Hạnh gật gù nói:
– Chẳng trách gì hôm ấy tao thấy chai rượu bỗng nhiên vơi hẳn, tao cứ ngỡ rằng mình trông nhầm hoặc là chị Mai đêm ấy không ngủ được nên sang lấy rượu uống cho dễ ngủ.
Con búp bê Hòa Lan thấy mình đã nói hết cả chuyện đáng nói nên quay lưng kéo xềnh xệch đôi guốc đi trở vào chỗ cũ.
Búp bê Tiệp Khắc bắt đầu cất giọng. Đến đây Hạnh lại ngập ngừng đưa tay lên dụi mắt, một lần nữa Hạnh không biết là giọng con búp bê hay chính giọng một người bạn đang kể lể trong tiệm cà phê một chiều hội chợ:
– Tôi may mắn hơn tất cả, sinh ra đúng cảnh, đúng thời, nghĩa là sau lúc cha mẹ tôi cưới nhau độ vài năm. Những đứa bé ra đời quá sớm làm cha mẹ phải sợ, vợ chồng mới cưới vốn hay ích kỷ, họ chỉ muốn quả đất dành riêng cho mình họ, không bằng lòng cho một người thứ ba nào vào đấy nữa. Họ càng yêu nhau thì cái bệnh ích kỷ lại càng nặng. Đứa trẻ nào dại mà ra đời lúc ấy thì cố nhiên là cha mẹ phải lo làm việc thêm, lo ở nhà giữ con, bỏ mất những cuộc đi chơi, học có thể tiếc rồi cằn nhằn nhau, nào là tã ướt, sữa chưa đun, thằng bé nhè không cho ai ngủ v.v… mình ở giữa mất cả thú vị, chẳng biết nên bênh đằng nào bỏ đằng nào.
Tôi thì chẳng dại như thế, tôi chọn đúng lúc cha mẹ tôi muốn có con, cha tôi làm ăn đã vững, mẹ tôi cũng đã thành thạo công việc nội trợ đảm đang, thế là tôi gõ cửa bước vào đời.
Cha mẹ tôi yêu tôi như một người bạn nhỏ, có hơi thái quá ở chỗ tôi không bao giờ được phép vào chơi trong những vườn chơi công cộng, sợ trẻ con nhà khác đến lây bệnh cho tôi. Mãi đến năm đi học vào trường tôi mới chơi chung với các bạn cùng tuổi.
Thuở bé, suốt ngày tôi quanh quẩn trong nhà, hết tô màu lên mấy quyển sách lại đến chơi lính chì. Cha tôi cho tôi bao nhiêu là lính chì, một mình tôi điều khiển trong tay tất cả thủy, lục, không quân. Đấy là cái mộng của cha tôi muốn để dành cho tương lai tôi chăng? Tôi thích dàn những mặt trận cho đánh nhau xong rồi bắt chúng nó ngã lăn chiêng ra chết rất nhiều ở bãi chiến trường. Sau những trận đánh nhau tôi hay gọi mẹ tôi đến xem:
– Mẹ có thấy chúng nó chết lăn chiêng ra cả không?
– Sao con ác thế, con bắt chúng nó chết cả rồi ai đi làm nuôi vợ con chúng nó ở nhà?
Mẹ tôi vừa nói vừa cười nhìn tôi rất âu yếm.
Tôi suy nghĩ một lúc rồi mới nhận thấy mẹ tôi có lý, biết đâu chúng nó cũng có những vợ con ở nhà như tôi với mẹ tôi. Nghĩ đến cảnh gia đình nếu thiếu cha tôi thì sẽ buồn biết mấy. Thế là tôi dựng cho chúng nó sống dậy cả. Mẹ tôi xoa đầu tôi thầm khen bên tai:
– Con mẹ ngoan và tốt lắm, nhưng với những kẻ ác độc, chỉ chuyên đi làm hại người khác thì con cũng phải biết trừng trị chứ!
Tôi thấy mẹ tôi cũng lại có lý nhưng đứng trước những tên lính bằng chì không cao hơn ngón tay trỏ của tôi, quả thật tôi không thể biết được đứa nào ác và đứa nào hiền. Hỏi mẹ, mẹ tôi chỉ cười hôn lên trán tôi và bảo:
– Sau này lớn lên con sẽ biết.
Đời tôi lại còn một chuyện thú vị nữa là mỗi sáng dậy sớm ngồi nhìn ra ngoài đường lúc xe đổ rác đi qua, tôi kính phục nhất trong đời là những người đi đổ rác. Họ đổ rác vào lúc xe ngừng, lúc họ vừa đi trả lại thùng rác thì xe bắt đầu chạy, họ chỉ cần chạy theo có mấy bước rồi nhảy một cái là lên xe ngay. Tôi chưa bao giờ thấy một người nào bị ngã tuy rằng xe rất cao. Tôi vẫn nói với cha mẹ tôi rằng ngày sau lớn lên tôi sẽ làm nghề ấy.
Mỗi lần nghe tôi nói thế cha tôi nhăn mặt tỏ vẻ không vui, còn mẹ tôi chỉ mỉm cười bảo rằng tôi còn dại lắm. Có lẽ người lớn không bao giờ hiểu được trẻ con, thì cứ xem họ có bao giờ biết lắng nghe những mẩu chuyện của hai vì sao trên trời, hoặc hai con bươm bướm ngoài vườn. Họ chỉ muốn lắng tai nghe tiếng vợ chồng ông láng giềng cãi nhau, thật là vô ích.
Kể ra thì đời tôi chẳng có gì để phàn nàn, chỉ mỗi một sự bực mình vì là con cưng, ít được đi chơi tự do nên người tôi hơi có vẻ lả lướt. Màu da trắng xanh của tôi là một mối lo lớn cho mẹ tôi. Tuy chẳng bệnh hoạn gì mà thỉnh thoảng mẹ tôi lại bắt tôi đi cho bác sĩ khám một lần, mà các ông ấy thì lắm lúc chẳng biết gì hơn ai. Không ông nào đoán được trúng bệnh cả, tôi chưa thấy một ông bác sĩ nào biết viết vào toa thuốc những chữ: trèo cây, bắt chim, câu cá, đá bóng, đánh nhau hoặc chạy nhảy v.v… đơn thuốc của họ chỉ toàn là những vi-ta-min này vi-ta-min khác, hết tiêm đến uống, và khổ nhất là cái sự bắt ăn thịt bò tái. Quả thật là một cực hình mỗi khi nhìn những miếng thịt còn đỏ máu, tôi tưởng như người ta vừa mới giết một con bò vì tôi, những tiếng kêu rên thảm thiết của con vật như vang bên tai, thế mà bảo tôi phải nhai, phải nuốt, phải cho là ngon và phải hồng hào béo tốt thì tôi làm thế nào được cơ chứ!
Người lớn thật dại dột, nhưng thôi, chuyện của họ nói mãi cũng không bao giờ xong, tôi phải nhường lời cho thằng Ba Lan. Từ nãy đến giờ nó cứ nhìn tôi hết thở ra lại thở vào có lẽ vì nóng ruột, tại nó có giáo dục chứ nếu không thì nó đã kéo cho tôi ngã xuống một cái. Cô biết không, chúng tôi rất thèm được kể lể, nói chuyện với nhau mãi chán lắm, đứa nào cũng đã thuộc lòng vanh vách lịch sử của mấy đứa khác. Chưa kịp mở miệng thì chúng nó đã biết trước là mình sắp nói những gì. Hôm nay có cô nghe nên chúng tôi đều cảm thấy hứng thú một cách lạ.
Nói đến đây, con búp bê Tiệp khắc quay lại ngoắc tay thằng nô lệ Ba Lan bảo:
– Đây, tao nhường phần cho mày.
Thằng nô lệ Ba Lan chậm rãi bước ra, nó bé chỉ bằng ngón tay cái của Hạnh, đầu đội mũ đen, toàn người bằng gỗ sơn màu chứ không phải bằng nhựa như hai con búp bê Hòa Lan và Y Pha Nho. Búp bê nô lệ mặc áo đỏ tay dài, ngoài khoác áo cánh đen ngắn, không cài cúc để hở màu áo đỏ bên trong nom rất lẳng lơ, nó bé nhất đám nhưng lại có vẻ biết suy nghĩ nhất. Ra trước mắt Hạnh nó cúi chào lễ phép và nói:
– Thưa cô (nó biết dùng chữ thưa, từ nãy đến giờ chẳng có con búp bê nào biết dùng chữ ấy).
“Tôi xin tự giới thiệu tôi là người Ba Lan quê ở Varsovie. Cha tôi là một võ quan cao cấp, mẹ tôi người Tích Lan. Nhà tôi hồi ấy rất sung túc, trên dưới thuận hòa, cha tôi luôn luôn cho gương sáng, từ mọi cử chỉ, mọi hành động. Giòng họ tôi thuộc về quý tộc nên có chức tước, có rừng săn bắn, có lâu đài riêng. Việc giáo dục của chúng tôi ngoài cha mẹ tôi ra còn có một bà giáo người Pháp phụ trách. Mỗi năm chúng tôi rời Ba Lan để đi du lịch các nước Âu Châu, cha mẹ tôi bảo để cho rộng thêm phần hiểu biết.
Mẹ tôi thường giảng dạy cho tôi về những triết lý Á đông, năm 12 tuổi mẹ tôi đã cho tôi đọc sách của Lão Tử. Cuộc đời nếu cứ đều như thế mãi thì êm đẹp biết mấy, nhưng cuộc thế chiến thứ hai xảy ra, cuộc chiến tranh tàn ác đã làm nát tan bao nhiêu gia đình. Ba Lan thuộc về chính phủ cộng sản, và gia đình tôi cũng không còn nguyên vẹn, từ cha mẹ đến bà con nhà cửa bạc tiền đều ra tro bụi. Muốn lãng quên những kỷ niệm buồn tôi đi lính và lập gia đình. Đây lại là một sự thất bại thứ hai của tôi nữa.
Vợ tôi với tôi sau khi gần nhau mới biết là không hợp tính, nàng thích xa hoa, thích được nghe những lời ngợi khen bên ngoài, còn tôi lại chỉ muốn tránh những cái gì giả dối ấy. Gia đình tôi ở Luân Đôn, vợ tôi cứ muốn tôi học lấy những đặc điểm của người Anh cổ cứng mũ cao, dầu cho bên trong quần có thủng đáy. Thấy tôi tỏ vẻ không thuận nàng đổi sang dọa dẫm, nàng cứ dọa tự tử rồi viết những bức thư tuyệt mệnh rất lâm li.
Phải nhận là nàng có tài làm văn. Kể cũng buồn cười khi mình đọc bức thư tuyệt mệnh như thế mà tác giả vẫn còn sống sờ sờ ra đấy, rồi thì nhờ chôn ở đâu, bỏ những thứ gì vào miệng, nàng hẹn sẽ phù hộ cho tôi và dặn dò hãy nên thương đến người vợ thứ hai đã tốt phúc hơn nàng. Mà có gì đâu, chỉ vì tính nàng thích được trọng vọng, làm bà này ông nọ mà chưa được.
Nghe những lời tuyệt mệnh não nề đó tôi thấy hơi buồn cười nhưng chỉ sợ nàng vì xấu hổ, muốn dọa già chơi một chút mà ngộ nhỡ cái số nàng có hết, xui ra kêu cứu không ai nghe rồi chết đi thì toi mạng. Tình yêu đã hết, tình thương cũng không còn, thế là tôi lại khăn gói lên đường.”
Nói đến đây thằng nô lệ ngưng giọng, đôi mắt hắn nhìn thẳng ra xa như đang mơ đến một chân trời nào khác. Hạnh ngạc nhiên không ngờ thằng nô lệ bé nhất, đơn giản nhất mà lại có một cuộc đời phức tạp như thế. Chưa biết tìm câu gì để an ủi hắn thì hắn đã nghiêng mình cúi chào, nói:
– Xin phép cô, bây giờ là lúc tôi phải vào cầu nguyện.
– Mày bơ vơ đến thế mà còn cầu nguyện làm gì, cầu nguyện cho ai?
– Cho thiên hạ, cho cô, cho tôi.
Hạnh cảm động nhìn theo bước chân bé nhỏ trong đôi giày cao cổ thoăn thoắt bước vào.
Thằng nô lệ chưa vào đến trong thì con búp bê Nhật Bản đã nhún đôi chân nhảy đến chào tôi theo lối các vũ nữ trên sâu khấu. Toàn người nó chỉ may bằng lụa ngà, tóc kết bằng chỉ nâu với chỉ xám, đầu đội mũ lụa xám, mình mặc áo voan hồng hở tay, váy ngắn bồng lên, những khi nhảy trông như con thiên nga đang xòe đuôi múa. Chân nó mang đôi giày nhảy bằng lụa tím.
Cả người nó là hiện thân của âm nhạc, của sự nhảy múa trẻ trung. Nó quỳ xuống nghiêng mình một lần nữa trước mặt Hạnh rồi mới đứng lên và bắt đầu nói, miệng nó nói sao mà giống hệt miệng của cô bạn đã tặng nó cho Hạnh. Giọng nó nũng nịu kể:
– Quê tôi ở đất Việt Nam, cái xứ bé xíu mà đánh nhau không ngừng, sinh trưởng trong một gia đình quý tộc nhưng lại đông con. Nào có phải chỉ có con mà thôi đâu, còn cháu nữa, cháu bên nội, cháu bên ngoại lung tung. Một mình cha mẹ tôi phải cưu mang tất cả. Trong nhà vì thế mà loi nhoi lúc nhúc nào con, nào cháu, nào người ăn, người ở, nào lính tráng. Nhà rộng như cái nhà thờ họ mà ở cũng vẫn còn thấy ngạt thở.
Mẹ tôi lại tính cổ hủ quanh năm chỉ lo dạy chúng tôi cái lối “yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”. Riêng tôi, tôi chẳng cần quân tử nào cả, hảo cầu hay không hảo cầu cũng chả sao, tôi chỉ muốn sống, sống tràn trề cho hết cuộc sống. Lòng tôi đầy dẫy những tham vọng mà gia đình tôi không đủ sức trả lời.
Nhân thời kỳ chiến tranh, bao nhiêu thanh niên từ giã gia đình đi theo quân đội hoặc cán bộ kháng chiến, tôi cũng về từ giã gia đình mặc dầu mẹ tôi ra khóc sau chuồng bò và cha tôi uống rượu mắt đỏ lừ vì thương nhớ tôi.
Ra khỏi nhà xong tôi còn muốn tìm cách ra khỏi nước, bao nhiêu mưu chước khôn ngoan mớ tránh khỏi những sự nghi ngờ bắt bớ của thời loạn lạc. Sang du học ở Nhật Bản, chỉ có sự học mới trả lời cho tôi được một phần nào cái thèm khát hiểu biết của tôi.
Trong những năm tháng phiên bạt ấy, tôi không bao giờ nhớ rằng tôi là một “yểu điệu thục nữ” mà cứ ngỡ mình là một thằng con trai… Bao nhiêu thăng trầm đã dạy cho tôi hiểu cái mặt trái và mặt phải của đời. Mang trong người cái chứng sốt rét rừng mà mãi đến bây giờ cũng không làm sao chữa hết. Sau mỗi cơn sốt lên thì cái cơn buồn cũng lẽo đẽo lên theo. Nằm bơ vơ một góc trong gác trọ, không người thăm viếng, bơ vơ đến nỗi một hôm tôi đang mê man bỗng có con chó nhà bên sang thăm. Tưởng tôi ngủ nó đưa lưỡi liếm qua trán tôi. Giật mình tỉnh dậy tôi chưa muốn mở mắt vội, ngờ rằng đó là bàn tay ấm áp của một bà láng giềng nào, tôi cũng chưa biết ai mà tốt thế, cảm động tôi nằm yên, nước mắt chỉ muốn trào ra. Nghẹn ngào chưa biết nói câu gì để cảm ơn lòng tốt của bà láng giềng, tôi mở mắt khi bước chân của ai nhè nhẹ quay đi, trước mắt tôi chỉ có con chó nhà láng giềng đang vừa đi vừa rung rung cái đuôi. Thì ra con chó hai ngày không thấy mặt tôi đã tìm đến thăm, những người láng giềng thì dầu có đến mười ngày không thấy họ cũng không thèm biết đến, trừ phi tôi có chết, xác sình lên bay mùi hôi vào mũi họ.
Suốt từ đầu đến cuối câu chuyện Hạnh nhận thấy con búp bê này sao có vẻ mỉa mai ngạo nghễ hơn tất cả.
– Sao mày còn trẻ mà đã nhìn đời bằng đôi mắt không tươi?
Hạnh chưa nói hết câu thì búp bê thi sĩ đến vác bổng người nó lên vai đặt sang chỗ khác, nó vùng vẫy một lúc nhưng rồi cũng phải chịu để cho thằng thi sĩ ra kể lể với Hạnh.
Thằng thi sĩ người gầy gầy cao cao, mái tóc dài phủ che cả gáy, nó mặc bộ quần áo xám đen, mang giày đen, sơ mi trắng, thắt cà vạt đen, đầu đội mũ cũng màu đen, tay cầm quả tim đó, luôn luôn để tim lên ngực trông rất si tình. Nó đến cầm tay Hạnh, lãng mạn cúi hôn rồi dọn giọng định ngâm thơ nhưng mấy con búp bê khác nhao nhao lên phản đối. Nào là văn chương sọt rác, đừng đọc mà trời tưởng cóc kêu rồi trời lại mưa xuống một trận bất thường thì tội nghiệp cho những kẻ lúc ra đi quên cắp cái ô dưới nách.
Thằng thi sĩ cụt hứng, nhìn Hạnh bằng cái nhìn buồn rầu, đôi mắt nó ướt át lúc nào cũng như đang nhìn vào một thế giới xa lạ khác.
Thằng thi sĩ bắt đầu nói:
– Cô có biết khi trời làm ra mỗi người, trời phải lấy đất nắn từng thứ một, người gặp đất tốt thì trắng trẻo xinh đẹp, người gặp đất xấu có lẫn đá cuội thì da dẻ sần sùi. Nhưng ở đây tôi không nói với cô về những vấn đề khoa học kỹ thuật khó khăn, tôi chỉ nói riêng về đôi mắt.
Đôi mắt là cái vườn của tâm hồn, có người bảo thế, cô có nhận thấy đôi mắt người lúc nào long lanh, vì mỗi khi nắn xong một đôi mắt, trời phải mang nó ngâm vào chậu nước. Có những đôi mắt vừa mới ngâm thì trời bận việc khác, hoặc có một vì sao đến gọi cửa, hoặc có thư của mặt trăng cần trả lời gấp, những đôi mắt ấy bị ngâm hơi quá giờ nên nó thành ra luôn luôn ướt.
– Đấy là đôi mắt của những đứa thi sĩ và những đứa hay khóc nhè phải không?
Hạnh hỏi, nó chỉ cười không trả lời và nói tiếp:
– Cô có biết ngày anh chàng thi sĩ đi mua tôi để mang biếu cô là ngày anh chàng chỉ còn có một nghìn quan trong túi. May mà cô chỉ thích búp bê nên đỡ khổ cho anh chàng, nếu cô thích một chiếc nhẫn kim cương thì chắc anh chàng đành phải trốn cô đi, để rồi mỗi đêm đến đứng dưới đường vác mặt lên nhìn phòng cô đỏ đèn mà ngâm thơ cho đỡ hận.
Hạnh nghe nói tỏ ý hối tiếc vì đã đòi con búp bê, nếu Hạnh không bảo thích búp bê thì người bạn thi sĩ của Hạnh không phải mua, đỡ phải tốn tiền.
Hạnh bỏi búp bê thi sĩ:
– Thế rồi người bạn của tao lấy gì mà ăn hôm ấy?
– Cô đừng lo, thằng thi sĩ trả lời. Cái giống nghệ sĩ ít cần ăn, khi nào đói thì có lũ bạn sẵn sàng cưu mang, nếu không có bạn thì nằm nhà đóng cửa ngâm thơ cũng qua bữa.
– Nhưng ngày mai đến thì sao, chả nhẽ lại nằm nhà mãi?
– Thì cũng có làm việc chứ, nhưng làm ít thôi, không thì mang đồ vật gì đi cầm, cái con người thi sĩ không cần làm giàu, tuy cũng có những đứa thi sĩ nhờ mả tổ chôn nhằm hàm rồng nên cũng được giàu. Chỉ tiếc là khi giàu rồi lại trở thành những ông lái thơ, lái nhạc, lúc ấy nó không còn cái vẻ ngơ ngác dễ thương của những đứa nghệ sĩ nữa.
– Thế còn mày, mày có muốn giàu không?
– Nếu trời bắt giàu thì cũng chịu vậy, nhưng tôi muốn giàu chỉ để nuôi mấy thằng bạn nghệ sĩ nghèo, ăn rồi đi lang thang làm thơ.
Hạnh nhìn nó ngờ vực:
– Mày nói thế chứ bao giờ mày giàu, biết đâu mày chẳng “lái” hơn tất cả những người khác? Mày sẽ đóng chặt cửa ngõ lại, bạn bè mày đến hỏi thăm mày sẽ cho người ở ra bảo rằng mày đi vắng vì sợ người ta đến nhờ vả, ra đường gặp người quen mày sẽ lờ đi như là không trông thấy. Người mày sẽ toát ra mùi hôi nồng nặc, hôi mùi giấy bạc mốc, hôi mùi giàu sang phú quý, hôi tiền, hôi cái mùi gọi là mùi dễ ghét…
Thằng thi sẽ mở to đôi mắt ướt át ra nhìn Hạnh ngơ ngác hỏi:
– Nghe cô nói tỏ ra rằng cô cũng đã hiểu được tí xíu việc đời ấy nhỉ, nếu thế thì thôi vậy, tôi lạy trời cho tôi chẳng bao giờ giàu cả, tôi không muốn hôi mùi bạc mốc, tôi không muốn phải giả vờ đi vắng khi các bạn bè đến hỏi thăm.
Nói xong nó quay lại gọi thằng nô lệ Ba Lan bảo:
– Nô lệ Ba Lan, mỗi ngày từ nay mày cầu nguyện thì nhớ cầu xin trời cho tao đừng bị giàu vì tao không muốn…
Búp bê Hòa Lan che miệng cười khúc khích nói với búp bê Y Pha Nho:
– Đồ cái thằng điên, ai lại đi cầu nguyện ngược đời như thế chưa?
Búp bê Hòa Lan vừa dứt câu thì có tiếng chân ai chạy lên gác sầm sập ở bên ngoài. Tất cả mấy con búp bê vội vã đứng về chỗ cũ.
Hạnh giật mình ngơ ngác nhìn chung quanh, thì ra từ nãy đến giờ Hạnh ngồi ngủ gục bên bếp lửa mà không biết. Nhưng vô lý quá, rõ ràng lúc nãy Hạnh nhớ rằng mình không ngủ, Hạnh đang ngồi nhìn lửa hơi mỏi mắt nên đã nhìn lên đến bầy búp bê trên lò sưởi kia mà.
Hạnh bàng hoàng không biết lúc nào mơ lúc nào tỉnh, nhìn lại mấy con búp bê con nào cũng đứng im thin thít nhưng trên môi như đang còn phảng phất nụ cười. Hẳn chúng nó đang chế diễu Hạnh mơ ngủ chăng. Hạnh cầm từng con búp bê lên hỏi:
– Có thật từ năm lên sáu mày không hôn mẹ trước khi đi ngủ nữa không? Còn mày ác, mà bắt ông ngoại già cõng đi trên những con đường mòn gai góc ; mày thích làm nghề đổ rác, con kia làm mẹ khóc sau chuồng bò ; thằng nô lệ gặp phải cô vợ thích viết thư tuyệt mệnh dọa tự tử mà không dám chết?
Hạnh thấy mình nhớ kỹ không sót một mảy may, rồi Hạnh cũng không biết rõ là mình đang mơ, hay đã mơ rồi. Thật khó hiểu.
Dầu sao Hạnh cũng cảm thấy sung sướng khi nghĩ rằng mấy con búp bê của mình không phải là những thứ đồ chơi vô tri vô giác như người ta lầm tưởng. Hạnh đã khám phá được một bí mật, Hạnh sẽ viết lên sách lên báo mách với tất cả mọi người, nhất là với những cô gái bé có nhiều búp bê như Hạnh.
Hạnh sẽ mách rằng: “Búp bê chúng nó cũng biết nhảy múa ca hát như chúng ta ; ban đêm lúc nào không ngủ được, nếu có nghe những tiếng động chạm nho nhỏ, đấy là tiếng của những con búp bê đang đi lại, sống cuộc sống của chúng nó. Đừng ngạc nhiên…”
Nhìn xuống bếp lửa đã tàn từ lúc nào, một vài sợi tơ khói rất mong manh đang vương vương như nuối tiếc…
Minh Đức Hoài Trinh
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Phía trước nhà có giàn mơ dại

Phía trước nhà có giàn mơ dại Cánh cổng gỗ thôi màu sơn, tróc từng mảng, lập cập mở ra cùng tiếng kẹt dài hút sâu về phía mênh mông cả cán...