Thứ Ba, 3 tháng 12, 2024

Câu hỏi lãng quên 1

Câu hỏi lãng quên 1

Đôi Dòng Cảm Nghĩ

Về tác phẩm Câu Hỏi Lãng Quên của Lã Mộng Thường

MẠC KINH

Khi trang sách cuối cùng được khép kín lại, độc giả có tâm hồn vừa đọc xong phần nghị luận của nhà thần học Lã Mộng Thường bàn về "lòng tin," "niềm tin" nơi con người trên cõi trần gian này, có ai không cảm thấy lòng bâng khuâng, ray rứt? Một chút gì khó diễn tả cho thật đúng với tâm trạng của mỗi người. Có những điểm người ta đồng ý, nhưng lại có một số ý kiến khá táo bạo khiến người ta phải lắc đầu nghĩ ngợi miên man, lòng tự hỏi lòng - nên hay chẳng nên đưa ra vào giữa thời buổi vàng thau lẫn lộn này?! Vì, mọi giá trị tinh thần và thiện chí thường đã bị trào lưu "sống vội" phong tỏa, phủ kín để không mấy ai còn muốn dành quá nhiều thì giờ vào việc chiêm nghiệm sâu sắc trước những lời luận bàn về tư tưởng, chính kiến, hơn nữa lại đề cập đến "Đức Tin" - một địa hạt tâm linh luôn được sùng kính, xưa nay con người chỉ được quyền kính cẩn lắng nghe, đón nhận những khuôn mẫu sẵn có từ muôn đời trước - dù tình riêng, ai nấy cũng lại hiểu được rằng tạo vật đang xoay vần, biến cải không ngừng. Có điều, khủng khiếp và kinh hoàng hơn, ở đây, lại là "lòng người"... biến cải, biến đổi, biến chuyển mãnh liệt trên đà tan rã, tan nát! Vậy, không "lo" sao được? Không "bàn" sao được? Và đã "tính," đã "liệu" thì không thể... ngập ngừng, lưng chừng, thần hồn nhát thần tính, chỉ e "đụng" với "chạm"! Do đó, vấn đề "thức thời" đã đến lúc đáng cần đặt ra. Tôi mạn phép thưa rằng, tác giả đã có lý trong công trình suy tư của mình. Người ta có thể sẵn sàng "tử vì đạo" thì nay cũng vì việc đạo mà đem tất cả tấc lòng chí thành "giữ lấy đạo;" giữ và bảo vệ về lâu về dài. Vĩnh cửu!

Theo rõi thật sát những gì được viết nơi Câu Hỏi Lãng Quên, nếu người đọc để cho lòng lắng xuống, gạt bỏ mọi xúc động nóng nẩy vội vàng thì sẽ khám phá ra rằng lúc nào mối suy tư về "Đức Tin" cũng canh cánh bên lòng tác giả. Nhiều năm qua tác giả đã bàn đến. Nay, ở hiện tại vẫn vậy, và mai sau, hễ còn hơi thở, tác giả vẫn ấp ủ nó. Nó là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong sự sống tinh thần, tâm linh ở tác giả. Tác giả đã không suy tư cho chính mình, cũng không đặt ý nghĩa về đức tin cho mình. Mà thật ra, tác giả là vị thừa sai của Thiên Chúa hiểu được rất rõ, rất chắc chắn về những Lời Ngài phán truyền. Tác giả đặt sự suy tư cùng đức tin cho các đối tượng khác: loài người, tín ngưỡng bạn... một cách vô cùng tế nhị. Tác giả "tranh luận" đấy mà chẳng ai thấy được rằng đang tranh luận với họ. Và tranh luận ở đây, lại có tính cách... thuyết phục, bằng phương pháp, bằng kỹ thuật lý luận tinh vị Tôi còn cảm nhận được thêm, là, ở cương vị một vị thừa sai bước vào ngưỡng cửa tân thế kỷ đầy khúc mắc, tác giả đang mài sắc tư tưởng Kitô Giáo, đang muốn thúc đẩy một số hàng giáo phẩm phải cần "chuyển mình" để hiểu, để nghiền ngẫm Lời Chúa thâm trầm hơn nữa, để đem ứng dụng phổ biến "thực tế," thích hợp với... thời đại mới!

Đức tin ở tác giả vô cùng mãnh liệt. Hoàn toàn vẫn là đức tin nhưng lại đã mang thêm tính chất... lý tưởng! Tôi tự biết mình chưa tìm đủ chữ nghĩa để diễn đạt tâm tư, tâm tình, hoài vọng ở tác giả. Dẫu sao, tôi cứ xin được nói ra một phần nào về sự kiện huyền ảo ấy ở đáy hồn tác giả. Dẫu đúng hay sai, nó vẫn là cảm nhận của tôi.

Tám mươi hai trang đầu của cuốn CHLQ là một đề tài nghị luận nặng phần tâm lý, triết lý về con người, gia đình, và xã hội. Tuy vậy, phần suy diễn về ý nghĩa "tự do" mới thực sự là ý định tác giả khêu gợi độc giả cần đặc biệt quan tâm. Lối suy diễn ấy đã có nhiều phần giống như tác giả đã bàn về đức tin... không thể đúc thành khuôn sẵn và buộc người ta phải tuân theo. Dần dần, tác giả tung ra nhiều nhận định suy tư riêng biệt, đặc biệt. Tôi không đối kháng lại với tác giả mà chỉ đang chờ xem phản ứng của các bậc thức giả trong thiên hạ. Phần riêng tôi, tôi cảm thông và tán thành cảm nghĩ ở tác giả khi viết: "Người thực sự có tự do tư tưởng tất nhiên tuyệt đối cô độc... " (Tr. 82). Tác giả chọn chữ "cô độc" ở đây... đúng lắm. Tôi chỉ xin lưu ý tác giả, một khi đã biết rằng mình phải cô độc, cô đơn, cô quạnh thì nhỡ có ai không chịu hiểu theo - cứ đành phải ngậm tăm mà cười thôi. Cười cho thế sự!

Tôi rất mến nết thẳng băng ở tác giả, đã nghĩ gì là nói ra và không hề sửa soạn trước cho câu nói, câu viết. Ngay khi viết sách, tác giả cũng không đặt nặng vấn đề văn chương. Tác giả diễn tả tư tưởng, là điều chính yếu. Nói thế, không có nghĩa là tác giả xem nhẹ bút pháp, lơi là với nó. Nhưng để xin được đưa ra nhận định: lời văn ở tác giả nghiêng hẳn về nghị luận. Nó không cho phép có những câu thừa, những chữ, những đoạn "đệm" vào - thường có thể làm cho lời văn bớt căng thẳng. Ở tác giả, không có sự "dung hòa," và càng không có sự "rào đón." Khi ý nghĩ đến, tác giả để cho nó thoát ra đơn phương, và rất tự nhiên, chẳng khác nào những đợt sóng ào ạt nơi đại dương xô đẩy nhau, lớp sau chờm lên lớp trước. Rất rõ nét, lời văn ở tác giả là con người thật của mình vậy. Tôi thấy được lòng chí thành nơi tác giả. Tác giả vốn ấp ủ hoài vọng đi tìm cái "Đẹp." Đẹp mọi nơi, mọi chỗ, cho con người, cho đời sống, và ở ngay cả địa hạt tín ngưỡng. Chẳng hạn nơi cuốn Mảnh Vụn Suy Tư, không thể được coi là "mảnh vụn"... thật, mà nó đã trở thành một chuỗi hệ thống ý kiến, tư tưởng quyện chặt với nhau. Để rồi, nói cả đời, viết cả đời vẫn không cạn ý, không thể hết được. Nó cứ cần đem moi ra, nêu lên, để tất cả những tâm hồn còn chút ưu tư đến nhân quần xã hội, đến bản chất hướng thượng của con người, cùng nhau bàn luận, cùng nhau sửa chữa, cùng tìm cho ra một kết luận... dù đôi khi, rồi cũng chỉ là "tương đối" mà thôi!

Sở dĩ tôi có vẻ như đã dám bênh vực quan điểm của tác giả vì bỗng nhiên tôi cảm thông với những rung động thầm kín, sâu xa ở tác giả. Tôi chỉ xin lưu ý tác giả là cần uyển chuyển một chút thôi, khi đề cập đến những vấn đề liên quan tới tín ngưỡng. Chúng ta đang sống trong một thời đại cực kỳ đặc biệt, không còn giống với bất kỳ thời buổi nào của cái quá khứ hai ngàn năm đã trôi quạ Và chưa chịu ngừng ở đây, nó còn thay đổi ghê gớm, mãnh liệt nữa nên càng phải tiên liệu để "phòng ngừa," để "đối phó." Dậm chân một chỗ thì chỉ tai hại hơn!

Tôi nhớ lại hình như đã có lần tâm sự với tác giả: Việc gì thấy phải thì làm, thấy đáng nói thì nói, miễn lòng mình nguyên vẹn sự thẳng thắn. Mà những cái làm, cái nói ấy là nhằm vào việc chung, và luôn ước ao được công luận phê phán, chứ không bảo thủ, cố thủ về phần cá nhân. Đây cũng chỉ là một lý luận tầm thường ở tôi thôi, nhưng nó có cái khác xa, ở chỗ không kiêu hãnh, tự cao tự đại rởm, đáng chê trách. Và một khi, ở phía người cầm bút, ở nhà văn đã nghiêm chỉnh, trân trọng thưa rõ như thế rồi mà vẫn còn những kẻ huênh hoang phê bình thiếu lễ độ thì phản ứng của ta - tất, cứ phải có. Thẳng tay mà có. Tầm vóc lý luận lúc ấy quyết định tất cả! Chứ người đời, có một thiểu số, vốn lòng dạ khôn lường. Đã mấy kẻ đặt nặng lòng phục thiện? Lời Chúa phán truyền, lời Phật cảnh tỉnh, khuyên răn - đúng cả ngàn năm mà nào thiên hạ đã chịu quay về một mối đâu? Huống hồ là "người nói với người!" Vậy, việc tác giả viết cứ phải viết, và điều tác giả viết lại thường "rắc rối" lắm! Chẳng lẽ tác giả muốn có ngay đa số tán thành ý kiến, tư tưởng của mình hay sao? Nếu thế, đâu có cần cho lắm - để viết rả!

Tôi không hề dám khuyến khích tác giả đặt bước vào mảnh vườn... tư tưởng quá khích. Vì, theo sự để ý và nhận xét của tôi, tác giả chính là một tâm hồn dốc lòng thờ Chúa, đặt niềm tin tuyệt đối nơi Đấng Linh Thiêng. Tác giả muốn đóng góp, điều chỉnh những lời của người đời sau đấy (dù họ là ai, đã diễn giải Lời Chúa chưa thật chính xác, và phương pháp chưa thật tuyệt mỹ, nhất lại là ở một hai ngàn năm sau thế hệ hậu sinh không còn giống như xưa kia nữa!) Tác giả không phải là nhà thần học quá khích đâu! Tôi có khác các vị con chiên ngoan đạo nên tôi có cái nhìn thông cảm với tác giả. Các vị ấy phải "khựng" lại! Có điều, ở vào vị trí của tôi, tôi lại tự luận rằng, nếu tôi cổ vũ điều tác giả nói, hoặc nghĩ, hay viết thì thiên hạ sẽ lập tức cho rằng "tôi là kẻ ngoại đạo" nói gì mà chẳng được, thuận và tán thưởng điều tác giả nêu ra là "lẽ đương nhiên!" Ôi, việc đời là thế mất rồi!

Tôi vẫn muốn đề nghị tác giả diễn đạt ngăn ngắn những ý tưởng... Vì, tôi có cảm nghĩ, khi tác giả đặt bút, "nhiều ý" đã đến một lúc nơi tâm tưởng. Nếu tác giả để cho chúng tuôn ra cùng một lúc thì câu văn sẽ dài lắm, và mệnh đề này nối tiếp mệnh đề khác, làm một số người đọc không có trình độ vững, hoặc lười suy nghĩ sẽ không hiểu đến nơi đến chốn chỗ dụng tâm mình muốn nói. Nghĩ thì như vậy, nhưng tôi chợt nhớ người xưa đã để lại câu nói, "Người ta chỉ có thể dẫn con lừa tới dòng suối. Uống nước hay không tùy nó;" mà những gì tác giả viết lại thuộc về cảm nghiệm... Như vậy, những ý tưởng được ghi lại thành văn từ có lẽ chỉ hợp câu "Kẻ nói thì không biết" của Lão học. Điều này đòi hỏi người đọc cần có điều kiện nghiệm xét trong tự do tư tưởng đúng nghĩa của nó.

Chương 1

Cử điệu cụ Chánh khoan thai, mang vẻ mực thước, phù hợp với lứa tuổi lão thành và chức vị chủ tịch hội Đạo Binh. Sau khi cẩn thận ráp bản giấy được in sẵn thứ tự tiết mục của buổi họp vào chiếc kẹp cho ngay ngắn, vuốt một góc giấy hơi bị cong bởi cánh tay áo vét vô tình cạ phải khi cử động lúc di chuyển cuốn Thủ Bản Đạo Binh nơi phía trái về đàng trước mặt, cụ chăm chú từng nét, ghi ngày tháng của buổi họp hàng tuần, đoạn liếc qua chiếc đồng hồ đeo taỵ 3 giờ 51 phút, 9 phút nữa mới tới giờ họp, vả lại ba hội viên vẫn chưa tới, cụ quay sang hội viên ngồi bên cánh trái giọng điềm đạm mang phần nào đắn đo:

- Không hiểu thời buổi này ra sao mà mới mấy năm nay sinh ra lắm thứ đạo, nào là đạo thờ quỷ, đạo uống nước tắm vô thượng sư, đến bây giờ lại nổi lên thứ đạo thiền... Có lẽ sắp đến ngày quỷ vương ra đời rồi chăng!

- Thưa cụ, đạo thờ quỷ nghĩa là gì và thế nào mà uống nước tắm cũng được gọi là đạo?

Tám hội viên hiện diện đang nói chuyện thăm hỏi chờ giờ khai mạc chợt ngưng bặt, và mọi con mắt đổ dồn về phía cụ Chánh bởi người hội viên lên tiếng hỏi hơi lớn. Bầu không khí hòa nhã thân thiện tạo thành do những người cùng tổ chức nơi phòng họp bỗng trở nên nghiêm trọng trong khi cụ Chánh ngập ngừng chừng như khó khăn lắm mới có thể buông ra câu trả lời lập lững bằng cách tóm tắt một tin đứa cháu gái vừa nói cho biết sáng nay:

- Nghe đâu cảnh sát mới cứu được một người đàn bà bỏ trốn khỏi buổi tuyên thệ bán linh hồn cho quỷ bằng hành động uống máu ăn thề của một nhóm người thờ quỷ tại tiểu bang Texas. Chị ta sợ quá đến nỗi phải đưa vào nhà thương điều trị.

- Câu truyện này được chiếu trên truyền hình vào giờ tin tức tối hôm quạ Anh Kính tiếp theo lời cụ Chánh khiến những con mắt chuyển hướng về người thanh niên xưa nay nổi tiếng cứng lòng nhưng ngược lại rất nhiệt thành, mộ đạo.

+++

Sở dĩ Kính bị mọi người cho là cứng lòng bởi anh dám đặt vấn đề để đưa ra nhận định về tất cả những gì mọi người xưa nay đã được dạy dỗ phải tin theo hoặc chấp nhận không dám thắc mắc như những luật điều tôn giáo hay luân lý. Đưa ra những nhận định thực tại cuộc sống, lối giải thích dám lột trần mặt trái tâm lý bình thường đến nỗi có những câu nói ngược hẳn lại với những ý nghĩ hoặc quan niệm mọi người đều cho là đúng và tin tưởng từ xưa tới naỵ Những ý kiến của Kính đã khiến người nghe cảm thấy nhức nhối, e sợ vì chúng lột trần, phanh phui thực trạng tâm lý ai cũng muốn che giấu tận đáy tâm tư hoặc không dám nghĩ tới. Chẳng hạn, có lần trong một bữa nhậu với mấy người bạn, đề tài sự đối xử giữa vợ chồng để tạo dựng một gia đình ấm êm được nêu lên. Người cho rằng điều quan trọng nhất là sự tin tưởng lẫn nhau; kẻ nói phải yêu thương thực sự và nhường nhịn vì một câu nhịn là chính câu lành; lại có đề nghị bổn phận người chồng là phải lo sinh kế cho mọi người trong gia đình được đầy đủ không nên để vợ phải đi làm...

Sự êm ấm trong gia đình xưa nay vốn là ước mơ của mọi người vào mọi thời, Kính nghĩ. Lẽ tất nhiên, những gì ước mơ đã tự nói lên mình chưa có điều ấy hoặc có chưa đủ vì nếu đã có, đã được thỏa mãn, đâu ai cần gì mong muốn mà có chăng thực hiện cho có thêm. Thế nên, còn ước mơ có gia đình êm ấm tức là đã và đang không êm ấm hoặc thấy sự êm ấm quá mỏng dòn. Nhận định như vậy, vấn đề cần giải quyết phải là sự tìm hiểu lý do tạo nên những rắc rối trong gia đình. Đồng ý rằng, cuộc đời này không ai giống ai từ thể chất đến ý nghĩ, tư cách, hoặc tâm hồn... Ai cũng có thể thấy rõ, mới chỉ thử nói tới nấu nồi cơm, anh thích ăn hơi khô, chị muốn hơi nhão... Thực tế mà nói, đem nhốt hai con người khác biệt từ thể chất tới tâm hồn lại với nhau ngày này qua ngày khác, tháng nọ tới năm kia, những cái nóc nhà còn được đậy hờ trên mấy đầu cột phải là phép lạ cả thể nào mấy ai để ý. Tuy nhiên, đứng ngoài ngó vô, hình như cặp nào lục đục bao nhiêu lại thương nhau bấy nhiêu... thế nên càng lộn xộn ẩu đả bao nhiêu, càng đông con nhiều cháu bấy nhiêu. Có thể họ hao tốn biết bao công sức để thực hiện lời nhận định của tiền nhân: "Thương nhau lắm cắn nhau đau." Vậy những bất đồng, những lục đục trong gia đình tự đâu rả Ông chồng thích nhậu; bà vợ không muốn hầu hạ đám khách khứa say sưa... Ông chồng thích có chiếc xe mắc tiền chạy cho oai; bà vợ muốn sửa sắc đẹp cho đổ nước nghiêng thùng. Thế rồi không ai chịu ai vì ai cũng cho ý mình là đúng nên muốn người phối ngẫu phải chiều theo. Bà vợ lý luận, xe nào không là xe; mình cần phương tiện di chuyển chứ mua cái xe mắc tiền thì trở thành ông nọ bà kia hay sao! Thử hỏi, ông chồng nào không ngon, không là chủ... mà mua xe mắc tiền thì đâu phải chỉ mình ông ta xài... Hơn nữa, có ông chồng nào ngu dại muốn vợ mình sửa sắc đẹp cho thiên hạ ngó đâu, lỡ bà xã đương có da có thịt một chút bị những cặp mắt sắc như dao cạo chiêm ngưỡng ốm bớt đi thì sao... Và rồi lý ai cũng hay, lẽ ai cũng là khuôn mẫu cho người khác thì phải va chạm kẻo êm ấm quá thiên hạ không biết có hai nhân vật quan trọng hiện diện trên cõi dương gian! Mới đơn giản nhận xét như thế, nguồn gốc mọi sự lộn xộn trong gia đình là ước muốn riêng tư của mình, chỉ ý mình mới quan trọng, còn lẽ thích của người phối ngẫu không đáng được để ý. Chỉ kiểu cách, lối sống của mình là hay, là đúng, mà người phối ngẫu nên hoặc phải theo, không theo thì uốn cho theo; uốn bằng lời nói nhỏ nhẹ, lỡ vợ hay chồng nặng tai không nghe thấy thì hét lên cho rõ. Hơn nữa, đa số những cặp vợ chồng đều bị điếc lắm khi... Cuối cùng, kẻ điếc làm sao nghe nên cái nồi bay, cái chén bể mong gây chú ý... nếu không thèm chú ý thì đục... cho vào khuôn mẫu của mình! Khi mọi sự răm rắp tuân theo một mệnh lệnh thì thuận hòa, êm ấm!... Khổ nỗi, dẫu ai cứng cổ đến mấy, nó vẫn có thể quay bên nọ, quặt bên kia do đó cứ hay bị trật đường rầy... thành ra hay mất êm ấm. Đàng khác, xét theo nhu cầu nhân sinh, mọi cố gắng tạo dựng gia đình êm ấm chỉ là cổ võ sự ích kỷ của mình. Mình nào có được sinh ra chỉ để yêu thương vợ mình đâu vì chẳng có bà này thì mình có bà khác, cũng như chẳng có mình thì bà ấy có người đàn ông khác, đâu phải không có bà ấy thì mình ở vậy hoặc không có mình thì bà ấy không chịu lấy ai. Không có mình, biết bao người trong cuộc đời này nào có ai ở giá đâu! Thử dám nói thật lòng, đã chắc gì mọi người lập gia đình chỉ vì thực lòng yêu thương người phối ngẫu hay còn bị biết bao yếu tố tâm lý, xã hội, ảnh hưởng hoặc vì mục đích nào đó hay bị ép gả cho hợp môn đăng hộ đối... Hơn nữa, trước khi lấy vợ, cưới chồng, một người tự đã cảm thấy thiếu thốn bạn đời nên kiếm cho mình chứ đâu phải vì người ta cô đơn do đó đem lòng thương hại, hy sinh cả cuộc sống làm tôi tớ cho niềm vui của kẻ khác! Như vậy, lấy vợ, cưới chồng là vì mình chứ không phải vì người khác. Ai cũng ích kỷ, nói rằng yêu thương vợ con hay yêu thương chồng con chứ thực sự tất cả chỉ vì mình mà thôi. Thử xét về tính chất yêu thương, chắc chắn mọi người yêu thương tay chân, thân thể của mình hơn bất cứ người nào hay vật nào nhưng đâu ai muốn bàn tay mình sáu hoặc bốn ngón hoặc mập hay ốm hơn... mà chấp nhận, nó thế nào đành chịu vậy, nếu chẳng may có chuyện bịnh hoạn hay bị thương thì chỉ lo lắng chạy chữa mà thôi. Như thế, yêu thương tay chân, thân thể mình là tôn trọng chúng và không bắt chúng phải trở nên bất cứ gì mình muốn... Nghĩ thì như thế nhưng Kính lên tiếng rất ngắn gọn,

- Theo tôi, muốn có gia đình êm ấm, muốn tránh những sự rắc rối lộn xộn thì đành chấp nhận người phối ngẫu, cần biết tôn trọng họ; muốn sao, hãy để họ được như vậy, chẳng nên bắt ép theo ý mình bởi mình nào có thể sống theo khuôn mẫu của họ đặt ra đâu! Không biết tôn trọng người phối ngẫu như tay chân, thân xác mình, chỉ là người lạm dụng.

- Chú mày nói thế thì vợ chú mày ngoại tình chú mày cũng đành muối mặt chấp nhận à? Hèn thế thì sống làm chi?

Rượu bia đến độ sừng sừng giữa đám bạn bè quen biết lâu ngày, lời nói nào ai cần để ý. Một anh bạn mặt đỏ bừng vì rượu, oang oang phun cả nước miếng kèm theo lời nói như chứng tích phụ diễn tính chất hùng hồn bảo vệ luân lý nhân nghĩa đạo vợ chồng xưa naỵ Tuy nhiên, tưởng vậy mà không phải vậy, mặc dầu lời nói trong lúc ăn nhậu nhưng không kém phần sắc cạnh vì muốn đẩy kẻ đối thoại vào đường cùng hầu che lấp thực tại không muốn được nhắc đến. Câu hỏi coi bộ đơn giản mà thực ra bao gồm sự tính toán cũng như khích động tự ái người đàn ông đồng thời khơi dậy tính chất luân lý xã hội để kêu gọi phái nữ hùa theo hỗ trợ. Chẳng những thế, chĩa mũi dùi vào một điểm và chứng minh điều đó không thể được mọi người chấp nhận, tất nhiên những gì liên hệ tạo thành cơ cấu lý luận của đối phương cũng theo đó bị phá nát.

Kính không vừa, được sáu bẩy chai bia Heineken hỗ trợ lòng hăng hái, anh giáng thêm một đòn diễn giải kéo phe phụ nữ về phía mình bằng cách nêu lên nhận thức thực tại nội tâm mọi người thường hay tự trốn tránh hoặc ít khi để ý,

- Nếu anh thực sự yêu thương vợ thì dù chị ấy thế nào chăng nữa anh cũng đành chấp nhận dẫu muối mặt hay không, và dẫu chị ấy thực tình chung thủy hoặc thương anh hay không thì đó là quyền tự do của chị ấy. Nếu anh chỉ thương vợ vì chị ấy chung thủy tức là đã có điều kiện, đó chỉ là sự trao đổi, không phải yêu thương...

Đúng là câu nói ngang ngược chưa ai đã bao giờ dám nghĩ đến phương chi phát biểu giữa chốn công cộng khiến mọi người cảm thấy hơi bàng hoàng. Và thế là như đụng phải lửa, một người khác vội che lấp,

- Anh Kính à! Anh quan niệm như thế cũng đúng thôi, nhưng thử hỏi, anh đã có vợ đâu mà biết gì về tôn trọng hay yêu thương hoặc điều kiện với tự do...

Câu nói nhẹ nhàng nhưng không kém sắc sảo khóa miệng đối phương đại khái mang ý, "Biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe" bởi dựa trên sự thực cần phải được cảm nghiệm mà người nào chưa bao giờ kinh nghiệm sẽ không có quyền phát biểu. Kính vừa định lên tiếng thì đã có kẻ bồi thêm,

- Xưa nay quí cụ thường nói, "Trai năm thê bẩy thiếp, gái chính chuyên một chồng." Lý do gì và bằng chứng nào để chồng phải chấp nhận vợ làm những chuyện như thế? Một người trong bàn nhậu viện dẫn lời xưa hòng minh chứng quyền hành của người chồng.

Kính chợt tỉnh rượu vì câu hỏi dùng quan niệm quen tai đến độ nhập tâm mọi người chủ đích dồn mình vào thế bí mang ý đánh phủ đầu và cố tình lạm dụng câu nói của người xưa để bào chữa. Anh này dựa vào lời xa xưa ấy để mà sống, làm gương mẫu rập theo thì đâu dám sống cho mình và như vậy anh sống cho quá khứ, cho những gì đã chết không thể thay đổi được. Anh chỉ nên nói cho chính anh mới hợp lý hợp tình. Tại sao thực tế chúng ta không chấp nhận một ông hai vợ hay hơn hoặc một bà vài ba chồng trong khi lòng cứ bo bo toa rập câu nói "Trai năm thê bẩy thiếp"? Anh đã bao giờ dám nghĩ tới sở dĩ câu nói đó được phổ biến vì đã có thời kỳ người đàn ông coi đàn bà như món đồ giải trí bởi vào thời điểm xa xưa ấy người ta không ý thức đủ giá trị một con người hay không? Anh đã biết xử dụng câu nói nhưng đã bao giờ tìm hiểu nữ giới họ cảm thấy thế nào trong kiếp sống lấy chồng chung chưa? Đã bao giờ anh được nghe bà nào đó nói về tâm trạng của kẻ có chồng lang chạ chưa? Đâu thiếu gì bằng chứng cụ thể nếu mình để ý đôi chút. Không nói đâu xa, lòng đau thế nào khi tưởng tượng vợ mình ngoại tình thì người đàn bà họ cũng cảm thấy đau như vậy. Thật ra, họ chỉ vì danh dự của chồng mà cắn răng nín nhịn thế nên các ông giả mù sa mưa làm tới đến độ có người đã thiếu ý thức, chỉ chạy theo cảm khoái nhất thời tự biến mình thành con chó đực. Tuy nhiên, thử đặt vấn đề, đâu phải tự nhiên một người ngoại tình, mà có lẽ, phải có khá nhiều yếu tố cấu tạo và thúc đẩy một người ngoại tình dẫu những yếu tố này tùy thuộc tâm sinh lý hoặc sự đối xử giữa vợ chồng. Đâu phải đột nhiên một người đàn bà đã có chồng ham muốn theo trai, hoặc người đàn ông bỗng chốc bỏ bê vợ con theo đuổi một bóng hồng. Không ông chồng nào có người vợ nết na duyên dáng có thể ham muốn một người đàn bà khác bết bát hơn vợ mình, hoặc chẳng bà nào bỏ chồng thanh lịch theo đuổi tên đứng đầu đường xó chợ. Tất nhiên phải có lý do nào đó chúng ta không được biết đã lâu ngày lâu tháng tích tụ thành động lực thúc đẩy một người làm những chuyện chẳng ngờ. Nói cho đúng, chuyện đó chẳng ngờ đối với mọi người nhưng thực ra nó lại là chuyện phải đến đối với kẻ trong cuộc vì chính người phối ngẫu có thể đã không chịu tìm hiểu, không dám suy nghĩ phương cách tạo dựng lối sống xây dựng gia đình mà cứ rập theo những điều chẳng nên nhưng hợp ý mình và lấy đó làm khuôn mẫu tạo thành thái độ vô tình lạm dụng người bạn đời... Không ai chấp nhận câu nói "Chồng ăn chả, vợ ăn nem" nhưng tại sao trên đầu môi, chót lưỡi lại cứ luôn miệng "Trai năm thê bẩy thiếp"? Mấy câu nói cổ hủ được nhai đi nhai lại một cách thiếu ý thức làm hư cả não trạng con người một ngày nào đó phải được đem ra xét xử. Đồng ý rằng cần ghi ơn các bậc tổ tiên về những điều tốt lành, những lời khôn ngoan truyền lại giúp con người sống ý thức hơn nhưng đồng thời không nên quên đã có lắm kẻ đồi trụy ghi vào lòng dân tộc những điều thối nát chẳng nên. Bởi vậy, mỗi người cần dám nhận định rõ chính mình vì nếu mình đã chẳng ra gì, không dám suy nghĩ để tạo dựng lối sống hòa hợp, êm ấm cho gia đình, tại sao cố ép người khác trở nên gương mẫu, tốt lành? Thực ra, nếu đặt câu hỏi mình muốn người bạn đời phải thế nào, chắc chắn rằng nay mình muốn họ thế này, mai thế khác bởi chính mình có bao giờ biết rõ muốn gì đâu... Ý nghĩ thoáng qua trong trí óc, Kính lên tiếng,

- Tôi chỉ đặt vấn đề sống thế nào để vợ tôi không thể trách được chứ không dám nghĩ đến bắt bà ta phải như thế nào. Mình sống không xứng đáng cho nó phục mà ngược lại để nó khinh thì nó ngoại tình không có chi lạ; đó là lỗi tự mình. Như vậy, đã là lỗi tự mình còn trách chi ai, chẳng lẽ đem mình ra mà bắn hay tự tử? Tôi cảm thấy nói ra thì ngọng miệng, nhưng xét kỹ, tôi không thấy thẹn vì tâm tình ngay thẳng của mình là đủ. Hơn nữa, theo tôi nghĩ, người nào không dám nhận định tìm con đường ý thức để sống có thể được coi chỉ như một thân xác biết thở vì sống cũng như chết, sống thừa, chỉ làm giá sinh hoạt thêm mắc mỏ thì còn nói chi đến vợ và con. Thực ra, dám nói lên điều suy nghĩ có thể các anh các chị bảo tôi sợ vợ nhưng hùa theo những hủ tục, tôi cảm thấy hèn và đểu làm sao ấy...

- Anh Kính xưa nay nổi tiếng ngang mà sao bây giờ giảng thuyết hay quá khiến chị em chúng tôi cũng nở lòng, mát ruột. Một người đàn bà trong nhóm lên tiếng.

- Chị đừng mừng vội, Đặng chen lời và hướng về phía Kính. Nói như chú mày vậy xưa nay phía đàn ông chúng ta là phường đểu cáng hết à? Cuộc đời phải có kẻ trên người dưới, phải có tôn ty trật tự chứ nếu không, cứ cá mè một lứa thì loạn. Đầu phải ra đầu, đuôi phải ra đuôi, đâu thể nào chấp nhận cuộc sống của họ hàng nhà tôm!

Chương 2

Vũ văn Đặng, tuổi ngoài năm mươi, cao dong dỏng, dáng đi có vẻ hơi khom, để hàng ria mép bọc vòng trên chiếc miệng rộng tạo cho khuôn mặt xương xương hình lưỡi cày mang nét người chẳng ra người, ngợm không ra ngợm, trông đểu thế nào ấy! Câu ca dao "Trông mặt mà bắt hình dong" có lẽ phù hợp với anh chàng này vì tính chất hợm hĩnh giả mù sa mưa làm bậy. Đối với vợ con, hắn quan niệm người chồng là chủ và phải có vị thế độc tôn, toàn quyền quyết định cũng như ý muốn thế nào vợ phải chấp nhận thế ấy. Đã có lần hắn dám bợ một mụ xồn xồn mang về nhà hoan lạc một đêm để dằn mặt, chứng tỏ quyền hành chủ gia đình; thế mà chị vợ đành phải cắn răng câm nín trước cảnh ngỗ nghịch trái luân thường đạo lý. Số là hắn mê cờ bạc, một hôm thua sạch chạy về nhà đòi vợ đưa tiền đánh gỡ; chị vợ không chịu, hắn kiếm cớ cơm nước nấu nướng như mèo mửa bạt tai mụ vợ. Chị vợ la làng, hắn đành đấu dịu dụ vợ ra xe chở đi ăn tiệm. Và thế là tiệm ăn đâu chẳng thấy, hắn lái xe tới một cánh rừng vắng, trói vợ vào một gốc cây, và tẩn cho một trận thừa sống thiếu chết, càng kêu la hắn càng nặng tay đánh đập ép mụ vợ phải câm họng. Cuối cùng, hắn bắt buộc mụ vợ chấp nhận từ đó về sau phải tuân theo hắn nếu không sẽ bị giết chết. Mụ vợ bị đòn khá nặng, thâm tím mình mẩy chỉ chừa cái mặt phải nằm liệt giường cả tháng không thể đi bóc tôm, đập sò, mà không biết xoay xở thế nào đành âm thầm chịu đựng. Tiếng Anh tiếng u không biết thì làm sao dám gặp cảnh sát trình bày tự sự; nói với người Việt thế nào không bị trả lời chẳng có lửa sao có khói, và hơn nữa, người Việt quen biết chưa chắc đã giúp được gì coi chừng đến tai chồng lại chỉ bị thêm trận đòn bán mạng...

Dẫu dốt nát nhưng Vũ văn Đặng cứ muốn chứng tỏ mình khôn ngoan nên thường ráp nối những câu Nho học một cách lộn tùng phèo, không đầu không đuôi miễn cho có vẻ học thức, lõm bõm sót lại nơi trí nhớ do hồi còn bé được cắp nghiên bút đến thụ giáo với một thầy đồ chừng hai năm. Chính vì thế hắn càng chứng tỏ cái ngu dốt mà lại tưởng rằng haỵ Dĩ nhiên, tính người như vậy làm sao thoát được ham muốn lạm dụng, mà người đã có chủ đích lạm dụng thì nào đâu thiếu cơ hội. Sẵn dịp có "bà thầy nhân điện" mở khóa dạy, hắn hí hửng nhập học vì kỳ đó phong trào chữa bệnh bằng nhân điện bộc phát dữ dội khiến thiên hạ xôn xao do sự tuyên truyền để kiếm chút cháo của người biết xử dụng nhân điện một cách mơ màng thì ít mà lời đồn của những kẻ hiếu kỳ thì nhiều, đến nỗi đã có kẻ cho rằng những người có quyền lực nhân điện biết làm phép lạ. Nào là nhân điện chữa được mọi thứ bệnh mà các bác sĩ cũng đành bó tay như ung thư, bệnh "ếch," di tinh, hượt tinh, tăng cường năng lực, sức khỏe, lại còn có thể giúp các bà xồn xồn trẻ mãi không già v.v... Sau khóa thụ huấn nơi bà thầy cùng với hai mươi mấy người khác, Vũ văn Đặng cố bề liên lạc, gom góp tiền bạc do công sức mụ vợ đập sò, bóc tôm, mò mẫm sang tận Canada học khóa cao cấp hầu mong thế giá nhân điện vượt trỗi hơn những tay nhân điện bạn quanh vùng hắn ở. Không hiểu học hỏi đến đâu mà sau khóa thụ huấn cao cấp trở về, hắn đã ngang nhiên mở lớp truyền công nhân điện đồng thời tự quảng cáo bằng cách truyền miệng quyền năng quỷ khiếp thần sầu đến nỗi tự cho rằng chỉ cần hắn đặt tay trên đầu ai để truyền nhân điện thì người đó sẽ trở nên thông minh. Quyền năng thực hay hư chỉ những người đến nhờ hắn truyền công mới có thể nghiệm chứng, nhưng thực thể sự việc xảy ra đã sinh lắm chuyện ngộ đời. Cứ theo lời đồn thổi thì ông thầy nhân điện khi truyền công chữa bệnh cho các chị xồn xồn thường đặt tay trật chỗ, chỗ đau không đặt mà đặt cả bàn tay vào chỗ không đau để truyền lực. Chị nào coi bộ sạch nước cản một chút, mới một lần đến cầu khẩn thầy cứu độ đã co giò chạy tuốt và có được hỏi thì chỉ đỏ mặt ậm ừ. Có những chị trời ban cho nhan sắc kém may mắn thì phải trả thù lao cho thầy khá nặng, hai ba lần chữa không gì suy chuyển do đó tiếc xót nên đành chấp nhận mình phải trả nghiệp nào đó được thể hiện bằng bệnh tật đang mang.

Cho tới thời kỳ này ông thầy nhân điện vẫn chưa có chút danh tiếng để được người ta coi là ông nọ bà kia, mãi đến khi nhập quốc tịch thì tiếng tăm Vũ văn Đặng mới thực sự tỏ lộ. Hôm đi New Orleans để được khảo hạch nhập tịch nơi văn phòng di trú, ông thầy đầy mình nhân điện xưa nay vẫn ớn con cháu họ hàng gốc gác từ Phi Châu lái xe bạt mạng nơi các thành phố lớn; không hiểu dò hỏi thế nào, ông biết được anh chàng hơi quen đã gặp đâu hai ba lần nơi những bàn nhậu cũng đi thi quốc tịch trùng ngày. Bạn nhậu mà, vả lại, không phải lái xe mình nên đỡ tốn tiền xăng đồng thời nhân thể làm ơn và chắc chắn sẽ được hậu đãi tô phở hoặc đĩa cơm sườn kèm theo một đôi chai bia nên anh ta nhận lời đi chung xe với Đặng. Anh chàng này phá phách, chọc ghẹo thiên hạ chẳng thiếu ai, vả lại không điếc thành ra hiểu rành rẽ về ông thầy nhân điện. Thế nên trên đường đi, hắn đã khích tướng ông thầy lấy tên Mỹ cho oai viện lý dầu sao mình cũng sẽ là công dân nước văn minh số một trên thế giới. Hắn giả đò ba hoa nói sẽ đổi họ thành Kenedy và lấy tên Patrick cho oai. Patrick là tên Ái Nhĩ Lan và Kenedy là dòng họ nổi tiếng mọi người đều biết. Thầy nhân điện nghe hứng chí cũng muốn tỏ ra ta đây sành điệu nhưng không biết chọn tên gì cho hách. Giô, Giách, thì thường quá bởi tên gì mà cứ như con bài tây, lỡ khi đánh phé có thằng nào chơi đểu mượn quân bài chửi xéo mình chăng. Mát, Lúc, thì kém vẻ cao sang mà thầy nhân điện quyền năng đâu thể hạ mình lấy cái tên cắc ké như vậy. Nói qua nói lại, dụ khị xa gần nào bia rượu, phở tái nạm, tái gầu, vịt ướp chao nhúng rau muống, tiết canh, miến xào, mãi gần tới nơi, thằng bạn hờ mới xì ra cái tên Rô Be, tên nổi tiếng bên Tây mà rất thịnh hành ở Mỹ. Số may, chỉ một lần khảo hạch ông thầy nhân điện đã qua cầu, hên như chó ngáp được thịt quay, nên khi nhân viên làm hồ sơ tuyên thệ hỏi muốn giữ tên cũ hay muốn được gọi thế nào, thầy nhân điện xin đổi tên gọi thành Rô Bẹ Kể ra mụ người Mỹ làm giấy tờ khá thông minh, thầy nói tiếng Tây mà mụ cũng hiểu. Hí hửng về mở chầu nhậu không quên mời thằng bạn hờ đã có lời khôn ngoan đề nghị, và cũng nhân cơ hội này, thầy muốn dùng hắn làm cái loa tuyên truyền cho quyền lực của mình. Xảy tới hôm tuyên thệ nơi nhà tròn (Coliseum), bà xướng ngôn viên gọi tên từng người đứng lên thưa "pé xần" để được giơ tay nói "ai đu" nhập quốc tịch. Tới lúc bà gọi đến lần thứ ba tên Bob Vũ, vẫn chẳng thấy ai đứng lên thưa pé xần nên đang định lướt qua, thằng bạn hờ ngồi đàng trước sáu hàng ghế mới quay ngược về phía thầy la ầm lên, "Anh Đặng, nó gọi anh đó." Thầy nhân điện lúc ấy, dẫu chợt ngỡ ngàng vì lối phát âm của người Mỹ về tên mới của mình, cũng kịp vội vàng đứng lên hô pé xần trong khi muôn ngàn con mắt đổ dồn về phía thầy kèm theo đợt sóng cười như muốn phá bung nóc mái nhà tròn to lớn khiến quan tòa và những người không biết tiếng Việt phải ngơ ngác cho rằng có chuyện chi đặc biệt. Mà chuyện xảy ra đặc biệt không sai vì từ đó ông thầy quyền năng nhân điện có danh hiệu tiếng Mỹ ngon lành nhưng vô tình trùng với ngôn ngữ tiếng Việt diễn tả hành động không nên nói thành lời.

Kể từ ngày danh tiếng ông thầy nhân điện càng nổi thì thân chủ càng ít. Không hiểu ông thầy thẩm định dựa trên lý do gì hoặc bởi quyền lực mất thiêng hay vì thiếu cơ hội truyền công mà chỉ thấy sự xuất hiện của con người mang thần lực nhân điện nơi đình đám bạn bè công cộng càng ngày càng bớt dần, bớt đến độ có thể nói hầu như biệt tích giang hồ ngoại trừ một vài trường hợp bất khả kháng không thể có mặt không được. Sở dĩ thầy hiện diện nơi bữa nhậu này vì chủ gia ở nhà đối diện với nhà thầy bên kia con đường, khi ra mở cửa đón bạn bè, thấy thầy Bob đang từ trên xe bước xuống định vô nhà chợt động lòng thương hại cho cảnh cô độc bất đắc dĩ bèn lên tiếng thăm hỏi nhân tiện mời nhậu. Vì tình quen biết hàng xóm lại bị mời trước sự hiện diện của mấy người khác nên không nhận lời có vẻ kênh kiệu, vả lại, chiều đã muộn lý do gì để mượn cớ bận công việc, hơn nữa, đã lâu "muốn đi ăn cỗ chẳng ma nào mời," thầy đành giả đò miễn cưỡng tham dự. Thấy Kính nói có vẻ ngang ngang khó được chấp nhận, thầy nhân cơ hội muốn thừa dịp dựa theo truyền thống xưa nay tỏ sự sáng cầu mong may ra kiếm lại chút thế giá ngày nào cho dễ bề tính chuyện nếu có dịp...

Biết tẩy ông thầy Bob và cũng áng chừng được nguyên nhân khiến Đặng lên tiếng chen vô câu chuyện đang bàn luận, những nhận xét chợt đến nơi ý nghĩ trong đầu Kính. Chính anh vừa nói "đàn ông chúng ta là phường đểu cáng" chứ ai xét đoán như vậy. Vấn đề được nêu ra chỉ là sự thực không thể chối cãi nhưng xưa nay đã bị lạm dụng bởi lòng tà của những kẻ chẳng ra gì mà thôi. Thử hỏi, ai không phải là người, mà đã là người tại sao đặt vấn đề kẻ trên người dưới. Đồng ý rằng, vì lợi ích chung trong bất kỳ công việc nào cần phải có người chịu trách nhiệm để phân phối sự thực hiện được hoàn thành tốt đẹp nên cần phân chia người giữ nhiệm vụ này, kẻ chăm lo công việc khác. Người làm việc tại hãng xưởng đâu phải làm thuê cho ông chủ mà làm vì nhu cầu mưu sinh; người ta chỉ làm vì chính họ mà thôi trong điều kiện có thể chấp nhận được và nếu không, tất nhiên đã không làm. Nào ai làm không công cho ai đâu mà thực ra hoặc vì tiền, hoặc vì liên hệ tình cảm hay ân nghĩa. Như vậy, dù cho bất cứ ông nào làm tổng thống ở Mễ Tây Cơ thì cũng chẳng có quyền hành gì trên những người đang sống tại Mỹ. Bởi đó, nói rằng cuộc đời phải có thứ tự lớp lang, kẻ trên người dưới chỉ là một cách diễn tả hệ thống liên hệ cuộc sống chứ nói cho đúng không ai có quyền trên ai; kẻ làm ông chủ và kẻ làm nô lệ chỉ là sự lạm dụng quyền hành. Thực ra, càng có tự do lại phải càng có nhiều luật để bảo vệ tự dọ Tôn ty trật tự cũng chỉ là một thứ quy ước xã hội dẫu thành văn hay bất thành văn để bảo vệ tự do con người mà chớ. Vì thế, sự tôn trọng và chấp nhận người khác đặc biệt là người phối ngẫu của mình không phải là chấp nhận cá mè một lứa, không phải muốn biến xã hội, gia đình, thành họ hàng nhà tôm nhưng chính là ý thức được giá trị con người trong liên hệ cuộc sống... Nghĩ thế, Kính tảng lờ, vẫn tỏ vẻ tôn trọng ý kiến vừa mới được phát biểu, đưa ra nhận định:

- Trong hôn nhân, chẳng ai là kẻ trên, chẳng ai là kẻ dưới, chẳng ai là đầu, và cũng chẳng ai là đuôi, không ai là nô lệ cũng không ai là chủ mà là vợ chồng, là bạn đời. Bất cứ ai cho dù viện cớ nào, lý lẽ nào để lạm dụng người phối ngẫu đều thuộc thành phần đểu cáng tự lương tâm mình dẫu xã hội không lên án hoặc không ai biết để đặt vấn đề xét xử.

- Chú mày nói như thế thì trai năm thê bảy thiếp nào đâu ai lạm dụng ai; đâu ai làm nô lệ cho ai mà đó thuộc quyền tự do của con người. Chú mày thấy không, mấy bà vợ nhỏ không kêu ca ngược lại hài lòng, và đương đường không giấu giếm thì đâu phải là ngoại tình. Hơn nữa, hai kẻ được gọi là ngoại tình đều bằng lòng chấp thuận sự việc liên hệ giữa họ lại còn cảm thấy sung sướng và cần thiết. Chú mày phải chấp nhận, sinh lý đối với con người cần thiết như đồ ăn thức uống cho thân xác, có thể nói cần thiết như hơi thở. Chú mày không biết rằng bác sĩ tâm lý nói người có gia đình tâm lý điều hòa giúp cho sống lâu hơn, và ngược lại, những người độc thân rất ích kỷ, khó tính ư? Tại sao? Vì những người độc thân không quen đối diện với những chuyện bất ngờ chẳng hài lòng trong khi kẻ có gia đình phải chịu đựng biết bao những cảnh khó khăn ngoài ý muốn như vợ đẻ, con đau, làm ăn kẻ chèn người ép, tiền lương đem về nào bill bọng, nào thuốc men, tiền nhà tiền cửa, nợ nần, rồi vợ con may sắm v.v... Chính vì quen đối diện với những nghịch cảnh phức tạp này, người có gia đình trở nên rộng rãi, dễ chấp nhận người khác. Hơn nữa, sinh lý là vấn đề tự nhiên, là nhu cầu bởi nó là bản chất của chúng ta; chúng ta được sinh ra với nó mà không có sinh lý loài người sẽ bị diệt chủng. Nếu không cần thiết tại sao ai cũng phải lùng kiếm cho được tấm chồng hay cô vợ. Chú mày thử nhịn một tuần hoặc vợ chú mày không cho một tuần xem chú mày có lồng đi kiếm mụ nào đó để giải quyết không. Như vậy, tại sao cấm cái chuyện không có không được? Tại sao ngăn ngừa sự cần thiết tự nhiên, một nhu cầu điều hòa tâm sinh lý con người? Trai năm thê bẩy thiếp hay ngoại tình cũng thế thôi; vậy tại sao người xưa chấp nhận, tại sao ngày xưa thì đúng mà bây giờ thì sai. Chú mày nên nhớ, cứ theo luật, miễn không ai thưa kiện là đủ vì nếu sai đã có pháp luật trừng trị; do đó xử dụng quyền tự do liên hệ của con người đâu có chi là không hợp pháp ngoại trừ trường hợp hiếp dâm hay cưỡng bức người khác. Chú mày nên nhớ, không có luật là không có lỗi; không có luật làm sao có thể vi phạm luật! Mà luật do con người đặt ra, trai năm thê bẩy thiếp là quan niệm luân lý gia đạo truyền tụng từ ngàn xưa để lại. Phu là thân cây, thê thiếp là lá cành, tử tức là hoa quả. Lá cành có nhiều thì mới sinh sôi được nhiều hoa quả. Như vậy, thứ tự lớp lang gia đình đều được con người chấp nhận từ lâu, bộ chú mày muốn phá truyền thống tự ngàn xưa sao? Chú mày muốn chặn dòng nước chảy...

Chương 3

Đặng nói hăng say, hùng hồn như tay biện thuyết hoàn toàn tin tưởng vào lý lẽ và chủ điểm tất thắng của mình. Tới cơ rồi, dễ chi gặp được dịp may biện hộ cho ý đồ đã bao lâu ấm ức vì không có cơ hội phát tiết, vả lại, những điểm hắn đưa ra mang đầy tính chất dẫn dụ do gợi lên bản năng tự nhiên nơi con người; nó là bản chất ngựa chứng không cương luôn luôn bộc phát bất cứ lúc nào có dịp. Nó cũng chính là kẻ nội thù của những con người ý thức được diễn tả qua câu nói ngược: "Muốn thắng địch, tôi phải thắng thằng tôi trước đã." Mọi người đồng loạt cười khi Đặng nói đến mấy tiếng "Chặn dòng nước chảy." Sở dĩ cười vì ít lâu nay không hiểu lời đồn "Kính ngang" do đâu phát xuất mà bạn bè, mấy người quen biết thuộc đủ mọi hạng tuổi đều cho rằng Kính nói ngang, không thuận theo những điều mọi người chấp nhận cho là đúng. Hai tiếng "tại sao" luôn luôn nằm trên đầu môi chót lưỡi người thanh niên thông minh này đến nỗi nhiều lúc dồn kẻ đối thoại vào thế bí khiến họ nổi sùng. Chẳng hạn, trong một bữa nhậu, chủ nhà đãi rượu ngâm thuốc bắc mang vị hơi đắng nên một người bạn nhắc đi nhắc lại lời tiếc xót nếu rượu ngọt một chút thì tuyệt.

- Tại sao rượu ngâm thuốc ngọt mới tuyệt? Kính hỏi.

- Thì rượu hơi ngọt dễ uống hơn.

- Đó là riêng đối với vị giác của anh, biết đâu rượu thuốc hơi đắng lại tuyệt vời đối với người khác chẳng hạn như tôi.

- Mẹ thằng này nói ngang. Đối với đại đa số, người ta thích ngọt hay thích đắng?

- Đâu phải cứ đại đa số thích vị ngọt thì rượu thuốc phải ngọt mới tuyệt mà ngược lại, rượu ngâm thuốc có vị hơi đắng uống mới thú vị. Anh thử hỏi mọi người trong bàn nhậu coi.

- Thôi cho mày thắng đi, thằng ngáng kinh.

Và thế là từ đó Kính có biệt hiệu "Ngáng kinh;" bởi vậy, mọi người bật cười khi Đặng nói chặn dòng nước chảy. Có lẽ vì vô tình, "chặn dòng nước chảy" mang hai nghĩa, chống lại thái độ ù lỳ chấp nhận những lề lối, thói quen, xưa nay được mọi người coi như lẽ đương nhiên không dám đặt thành vấn đề dẫu hợp hay vô lý đối với cuộc sống cũng như suy tưởng của con người và đồng thời là tiếng nói lái Kính ngang bởi kinh có nghĩa con rạch lớn được đào dẫn nước vào ruộng ở miền nam Việt Nam.

Kính nghĩ thầm, ông thầy nhân điện muốn nhân cơ hội bào chữa và chứng minh cho danh hiệu chẳng nên của mình bằng cách khích tướng, dùng trái chua mọi người đều ham muốn đem ra nhử mong có kẻ bị lừa theo phẹ Ah! Anh chàng đồ nho lõm bõm này mới ít lâu vắng bóng giang hồ mà cũng đã biết tìm hiểu để che đậy cho điều không ra gì nơi mình. Khi người ta thực sự muốn tìm kiếm điều gì, dẫu chỉ là sự bào chữa cho cơ hội thỏa mãn ý thích, thì họ cũng có tiến bộ ít nhất trong lề lối suy nghĩ và biết tận dụng mọi lý lẽ dù thế nào chăng nữa. Một đàng nêu lên tính dục là sự cần thiết lại đem đến sự điều hòa tâm sinh lý, đàng khác nhấn mạnh sự ưng thuận của cả đôi bên trong khi cho rằng luật lệ là do con người đồng ý chấp thuận mà thành, được phụ thêm bởi không bị thưa kiện thì mọi sự lăng nhăng đều được coi như tự nhiên, đúng là láu cá, giả mù sa mưa để dẫn dụ thiên hạ vào bẫy che lấp ý đồ chẳng nên. Kính thấy thương hại cho ông thầy nhân điện cách riêng, và nói chung, thương hại cho mọi người bởi chính vì những ham muốn chẳng ra gì đã trở thành động lực thúc đẩy con người tìm đủ mọi cách, lạm dụng bất cứ phương tiện nào thực hiện cho bằng được hầu thỏa mãn ý dục của mình. Xét như thế, chẳng lạ gì khi đặt vấn đề tại sao thực tại đáng tiếc xưa nay vẫn đã và đang xảy ra, người ta đã không dám đặt vấn đề, không dám nhận định thẳng thắn, xét đến tận cùng những ước mơ, ý định nơi lòng mình hầu có được ý thức sống chân thành ngay thẳng, mà ngược lại chỉ tìm kiếm những kẽ hở của lề luật, truyền thống, thói quen, quan niệm để chờ cơ hội thỏa mãn khát vọng thế tục. Khổ nỗi, những gì chẳng nên lại tuyệt vời hấp dẫn bưng bít trí khôn như những liều thuốc mê làm tê liệt khối óc con người. Nghĩ đến đây, niềm tê tái không tên nào đó dâng lên, Kính cảm thấy con người thật đáng thương, đáng thương bởi không dám chân thành đối diện với tâm tư, họ đã bị mù lòa do vật dục khuất lấp khiến lương tâm trở nên bệnh hoạn bởi bị ảnh hưởng của lòng mê đắm quá nặng chẳng khác gì cặp kiếng màu ảnh hưởng đôi mắt khi nhìn sự vật. Lầm lỗi do đâu mà ra, anh tự hỏi, phỏng có phải vì sự chạy trốn lương tâm hay chạy trốn chính mình rồi mượn cớ, lạm dụng tất cả những lý lẽ một cách thiếu ý thức chăng. Phỏng tội lỗi bắt nguồn từ sự thiếu ý thức sống hay chạy trốn ý thức, không dám đặt vấn đề về chính mình, về những lề lối luân lý cũng như luật lệ, thói quen, quan niệm v.v...

Tiếng cười của mọi người kéo dài khiến Đặng tưởng mình được cổ võ nên lấy làm thỏa mãn, dương dương tự đắc nâng ly bia đánh một hơi dài. Bao nhiêu ngày ấm ức vì bị lãng quên, chẳng những thế, mọi người chung quanh còn có vẻ xa lánh mỗi khi vô tình gặp hắn nơi chợ Kmart hoặc tiệm bán thực phẩm. Thời gian càng kéo dài, mối ray rứt tiếc xót thời vàng son đang lên trong vai trò ông thầy nhân điện đã qua càng tạo thêm áp lực nặng nề gậm nhấm tâm tư đôi khi ép buộc hắn tự than thầm đã quá dại. Tất cả cũng chỉ tại mấy mụ xồn xồn rỗi miệng may mắn được đặt chân lên đất nước lộn sòng; mấy tên mắt xanh coi cái hĩm quá quan trọng nên thằng đàn ông chẳng những không có thế giá gì mà lại còn tụt xuống hạng bét sau cả đứa trẻ con, chiếc xe, và con chó, trong khi mấy mụ giống cái thì lại được đặt lên hàng đầu. Luân thường của đất nước tự do này đảo ngược cũng chỉ vì mấy mụ đàn bà già họng, nào nổi loạn đòi nam nữ bình quyền, nào những luật lệ ngớ ngẩn như bắt trộm cướp không được đánh chứ chưa nói tới bắn; bắt trộm cướp mà không tẩn cho một trận thì bắt làm gì, lỡ toi mạng lợi chỉ Nào những luật bảo vệ súc vật, ấy vậy mà những người bảo vệ súc vật lại cứ ăn thịt, ăn cá tì tì. Đúng là chúng bày đặt luật lệ để làm khó dễ những người tiếng Anh tiếng u không biết đành phải chấp nhận làm cu ly cho dân bản xứ. Cô giáo, thầy giáo, không có quyền sửa phạt những đứa học trò ngỗ nghịch. Bố mẹ dạy dỗ con cái coi chừng bị cảnh sát bắt bỏ tù tốn tiền chuộc, tiền phạt. Vợ chồng có chuyện chi lục đục, cảnh sát bảo vệ phái yếu khiến mấy mụ càng được nê, đụng một chút đòi ly dị, ly thân, kiếm cớ làm tiền nuôi mấy thằng bồ nhí. Ở quê cũ, mấy người trong anh em giòng họ có hai ba vợ sao vẫn ấm êm; chính hắn cũng có vợ nhỏ mà mụ vợ hắn đâu dám lên mặt; thế mà mới sang đây ít năm, mụ vợ đã ra điều hỗn xược. Thằng nào chấp nhận đội cái hĩm chứ ông không bao giờ. Vợ chồng con cái phải có thứ tự lớp lang; cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ, chứ gia đình không phải chốn loạn quân loạn quan, rế lên trên nồi. Bao nhiêu truyền thống từ xưa nào "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô," nào "Phu xướng phụ tùy," nào "Công dung ngôn hạnh," đã bị xóa sạch từ ngày hắn đặt chân trên đất nước này. Ôi thân phận đàn ông không gặp thời phải ăn nhờ vợ nên nó khinh khi; thời buổi gì mà người chủ gia đình còn thua thân phận chó rúc gầm chạn... Không thể chấp nhận được, là người Việt, mình phải giữ lại truyền thống xưa nay... Ông thầy nhân điện mất đất tung hoành quyền năng đã tiêu phí khá nhiều tâm lực tìm tòi lý lẽ chờ cơ hội tuyên truyền bảo vệ phong hóa. Thế nên, chẳng lạ gì khi gặp dịp, Đặng hùng hồn bày tỏ nhu cầu thiết yếu tự nhiên của con người, ngón đòn giương đông kích tây hầu đạt lại cung cách xưa nay chẳng may đã mất.

- Có phải anh muốn nói không có luật là không phạm lỗi phải không, và nếu mình nghĩ rằng không ai lên án hành động của mình thì sự việc đương nhiên được chấp nhận; hơn nữa, nếu sự việc có liên hệ đến người khác mà họ đồng ý chấp thuận thì đó là sự tự nhiên cho nên điều anh muốn làm không được mọi người chung quanh chấp nhận do đó anh muốn biện hộ cho ý thích của anh phải không?

- Tôi không biện hộ; tôi chỉ nói lên truyền thống và sự tự nhiên. Nó đã là lẽ đương nhiên và ông cha mình đã theo và để lại thì lỗi phải ở đâu? Chú mày dám cả gan kết án các bậc tiền nhân? Đó là mất gốc, mất văn hóa. Chú mày đừng nghĩ rằng cái gì tụi mũi lõ này cũng hay cũng giỏi. Hay gì, giỏi gì cái thói mở cửa, xách ghế nịnh đầm? Hay gì mấy mụ đàn bà mặc váy cũn cỡn nhảy đít cô, hút thuốc; vợ người này ôm eo chồng người khác xà nẹo xà nẹo, cạ vú, cạ mông. Nam nữ thọ thọ bất thân mà chồng người này ôm vợ người khác xà nẹo thì đúng ở chỗ nào? Không có luật cấm ôm chồng người khác động cỡn thì tất nhiên chẳng có gì là lỗi với phải cả! Đó là chứng cớ rõ ràng; không có luật sẽ không ai phạm luật đồng thời cả hai người đồng ý ôm nhau xà nẹo thì chẳng có gì sai trái...

Không ngờ mới chỉ hai năm học đạo thánh hiền đã có thể giúp cho thầy nhân điện biết kính trọng tiền nhân đến độ lạm dụng như thế, Kính chậm rãi từ tốn,

- Tôi đồng ý với anh về điểm không có luật cấm sự thuận ý của chồng người này và vợ người khác khiêu vũ nhưng với điều kiện được xét riêng về mặt nghệ thuật giữa thanh thiên bạch nhật cũng như được sự đồng ý của hai người phối ngẫu của họ. Tuy nhiên, dẫu không có luật cấm đàn ông và đàn bà khiêu vũ, nếu ai ép buộc người không thuận ý phải làm điều mà anh gọi là xà nẹo tất nhiên có chuyện không xong, hoặc nếu người chồng không chấp thuận cho anh khiêu vũ với vợ của họ thì phỏng anh có xà nẹo được không cho dù hai người thuận ý. Tôi không hiểu anh đặt vấn đề lỗi phải để làm gì, nhưng chắc chắn nếu ông chồng nào không đồng ý cho anh khiêu vũ với vợ của họ mà hai người xà nẹo, thế nào cũng có ngày lãnh đủ một băng năm mươi viên, ấy là chưa nói đến chuyện tính dục tự nhiên. Đâu phải những gì được coi là tự nhiên thì ai cũng có quyền lạm dụng. Anh có thể chấp nhận cho chị ấy đi xà nẹo với người đàn ông khác không? Anh có thể chấp nhận người đàn ông nào đó làm chuyện tính dục tự nhiên với vợ của anh không? Nếu anh không chấp nhận chị ấy đi với người khác sao có thể cho chuyện tính dục tự nhiên giữa hai người thuận ý là lẽ đương nhiên, và một ông vài bà vợ lẽ được gọi là truyền thống ông cha để lại!

- Chú mày nói như thế thì từ ngàn xưa ông cha mình đã sai? Như vậy chú mày vong bản, hỗn láo với tiền nhân...

- Chính anh vừa nói chứ tôi không nói ông tổ bà tiên chúng ta sai hay đúng. Một điều rõ ràng, có những sự việc đã và đang xảy ra ở Việt Nam, được mọi người chấp nhận cho là lẽ đương nhiên lại không thể nào được coi là đương nhiên trên đất nước này. Chẳng hạn thầy giáo hay cô giáo sửa phạt học trò hoặc lái xe vô luật lê... Thực ra, luật lệ được đặt ra vì lợi ích cho con người, ngăn ngừa sự lạm dụng bởi ai cũng có khuynh hướng vị kỷ đến độ thiếu ý thức. Như thế, luật lệ được đặt ra để bảo vệ tự do và giá trị của con người, càng có tự do bao nhiêu càng phải tuân theo nhiều luật bấy nhiêu. Lẽ đương nhiên, không có luật thì không thể phạm luật nhưng không phải vì tránh sự phạm luật lại xóa bỏ luật. Thực tâm mà xét, dẫu ai làm chuyện chẳng nên nào đó không bị thưa kiện vì người khác không biết thì tự họ cũng đã biết. Hơn nữa, khi làm chuyện chẳng nên, ngoại trừ nố lương tâm bệnh hoạn, thì mình cũng đã tự cảm thấy hổ thẹn có thể sinh ra mặc cảm tự khinh khị Điều đau khổ nhất cho kiếp người là tự khinh khi vì như vậy dù có kéo lê kiếp sống, kẻ đã khinh miệt chính mình, dẫu sống còn cảm thấy khốn nạn hơn chết. Bởi thế, xét về nguồn gốc, luật lệ phát xuất tự tâm hồn con người, và những luật thành văn hay bất thành văn tùy thời, tùy nơi chốn, chỉ là sự biểu lộ ý hướng tốt lành bảo vệ con người mà chớ...

- Như vậy, chú mày đã chấp nhận nếu không có luật thì không thể phạm luật?

- Anh đừng đồng hóa luật lương tâm với những luật lệ thành văn hay bất thành văn. Nếu nói gom tóm tất cả để đặt vấn đề lỗi luật hay không chỉ chứng tỏ ý đồ kiếm kẽ hở của luật để lạm dụng, nói cách khác, điều này phô bày tính chất vô lương tâm hoặc là lương tâm bệnh hoạn, thiếu ý thức. Anh không để ý điều tôi nói; tất cả lề luật đều phát xuất tự tâm hồn con người mặc dầu không thiếu gì kẻ lạm dụng luật lệ. Có phải anh chỉ muốn chứng minh rằng muốn không lầm lỗi thì phải xóa bỏ luật lệ?

- Tất nhiên, không có luật thì không thể phạm luật.

- Vậy nếu không có luật ngăn chặn những kẻ trộm cướp, giết người, phỏng anh còn có thể ngồi đây bàn về nên hay không nên có luật chăng? Bởi thế, luật lệ cần thiết cho cuộc sống con người cũng như xã hội hầu giảm bớt cơ hội lạm dụng phát sinh bởi sự thiếu ý thức. Hơn nữa, luật lệ được đặt ra tùy thuộc quan niệm sống của con người xã hội vào thời điểm cũng như nơi chốn và cũng chính từ những nhân sinh quan này mà con người tạo ra cách sống, phong tục tập quán, lối nhìn về sinh hoạt xã hội, giá trị con người trong liên hệ cuộc sống. Tất nhiên, quan niệm nhân sinh ảnh hưởng nặng nề nơi tính chất của các lề luật. Chẳng hạn nơi một xã hội do phái nữ làm chủ, tất cả quyền hành ưu tiên được đề cao nơi vai trò phụ nữ ngay cả vấn đề con cái phải lấy họ mẹ, và người đàn bà có quyền lấy hai hoặc ba người chồng như nơi xã hội người Tây Tạng. Ngược lại, ở xã hội trọng nam hơn nữ theo thể chế quân chủ thì mọi quyền hành được nhấn mạnh nơi phận vụ của người đàn ông. Nào vua là thiên tử, nào "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô," nào "Trai năm thê bẩy thiếp" v.v... Thử đọc lại lịch sử văn học anh sẽ thấy, vào thời xưa, phái nữ không có quyền thi ra làm quan. Chính vì quan niệm trọng nam hơn nữ phụ họa tính ích kỷ, lạm dụng của kẻ có quyền nên cũng sinh ra đạo vua tôi, cha con, chồng vợ. Tất cả mọi quyền hành từ tổ chức lớn như quốc gia, đến làng xã, và ngay cả gia đình, người đàn ông đều được dành cho địa vị độc tôn. Lâu dần thành quen và được phụ họa bởi văn chương, quan niệm, lọt vào địa hạt văn hóa tạo thành truyền thống.

Kính ngừng nói nâng ly bia chiêu một hơi cho đỡ khô cổ họng trong khi Đặng thinh lặng ngồi im ra chiều suy nghĩ. Nói sao được nữa lúc này vì lý luận cũng như lối trình bày có thứ tự của anh chàng nói ngang chặn đứng truyền thống mình bám víu hầu biến cái lỡ dại của mình thành sự thường tình. Đưa ra hình ảnh học đòi nhảy nhót, ôm trai, mong minh chứng những mụ xồn xồn ham thích a dua tìm cảm giác mới để họ bị kết án chịu trách nhiệm về những tai tiếng mình đã phải mang thì hắn đá ngược bằng đòn tại sao mình không chấp thuận cho vợ đi xà nẹo với trai lại còn đe dọa một băng năm mươi viên đạn. Hơn nữa, mình đã cố gài không có luật thì không thể phạm điều sai trái hắn lại nhấn mạnh sự lạm dụng. Thằng này bị thiên hạ gọi là ngang vì cái miệng của nó chỉ vài câu đã chặn đứng họng kẻ khác... phải tỉnh táo tìm kẽ hở... Đặng mãi nhận định, tính toán, quên cả đối phương đang dùng bia thấm giọng.

- Mời anh Đặng nâng lỵ Chủ nhà lên tiếng phá tan bầu không khí chợt im lặng vì những diễn giải hợp lý hợp tình khá xác đáng thêm phần kiến thức rộng rãi Kính nêu lên để phụ họa cho nhận định khiến mọi người đang chăm chú lắng nghe bỗng bị ngưng ngang.

- Mời, mời, Đặng vội mượn cử điệu nâng ly bia gỡ rối nhân đáp lời chủ nhà đồng thời vẫn cố vớt vát... Chú mày nói như thế thì những sự việc xảy ra đúng hay sai tùy người chứ đâu tùy luật.

Ông thầy bốc hốt muốn xoay kiểu nào nữa, Kính nghĩ thầm... Luật lệ là kết quả của phản ứng ngăn chặn những hành vi lạm dụng. Tất nhiên, nếu không ai trộm cướp thì sẽ không bao giờ có luật trừng phạt kẻ cướp. Cứ thử xét hai trường hợp đa thê hay đa phu, đàng nào cũng có những thành phần bị ép buộc chấp nhận điều mình không thực sự muốn. Làm sao ai có thể hài lòng để cho kẻ khác ăn ở với người phối ngẫu của mình do đó ý thức hôn nhân một vợ một chồng được thai nghén. Thực ra, mọi sự việc, hành vi, tự nó không mang tính chất đúng sai, phải trái, hoặc tốt xấu... Cũng cùng một con dao, thái thịt thì tốt lành mà cắt vào tay không ai chấp nhận. Hành động thái thịt hay cắt tay như nhau thế thì hành động cắt tốt hay xấu, đúng hoặc sai? Cũng cùng một trái ớt, dĩ nhiên, phải là trái ớt cay, người thích và cần ăn ớt thì ngon nhưng kẻ không ăn được ớt lại bỏng dộp cả lưỡi, và như vậy trái ớt ngon hay dở? Nghĩ đến đây, Kính nói,

- Xét thế, tự sự việc, hành vi, nói chung tất cả những sự kiện xảy ra mang tính chất trung lập không thể nói được thế này hay thế kia, không do bởi luật mà trở thành hợp hay không nhưng tùy thuộc nhiều điều kiện và thời điểm nơi sự việc xảy ra chi phối. Chẳng hạn bia rượu đối với người này thì ngon mà kẻ không uống được chỉ thử một hớp đã thấy khó chịu. Nếu đem bia đổ vào bình xăng xe thì chắc chắn máy sẽ hư vì máy chỉ chạy bằng xăng; tuy nhiên, nếu chẳng may uống lầm xăng, chúng ta chỉ còn cách gọi xe cấp cứu. Tự bản chất, bia, nước, xăng, không tốt không xấu nhưng tùy trường hợp được xử dụng mà chúng trở nên tốt xấu. Bởi vậy, được gọi là đúng, sai, phải, trái, tốt, xấu, chỉ là lối nhìn phiếm diện thế nhân nói lên sự việc xảy ra tùy thuộc môi trường, thời điểm. Chúng ta cần có cái nhìn vượt lên trên thói quen lề lối phán đoán hạn hẹp ấy mới thấy rõ chân tướng sự việc. Như thế, mọi hành vi, sự kiện xảy ra đều mang bản chất tự tại của chúng, không làm tốt cho người này, chẳng làm xấu cho người kia, xấu tốt tùy môi trường phản ứng và thị hiếu sai lệch hay xác thực của mình. Chỉ khi nào mình không bị lệ thuộc vào những quan niệm, thói quen, kinh nghiệm, khi nào mình lột bỏ được thị dục mới có thể sống ý thức, mới có thể thoát khỏi những phiền hà do sự nhận định phiếm diện ảnh hưởng.

- Anh Kính nói như thế sao được, phỏng bỏ tất cả những lối nhìn phiếm diện để có cái nhìn ý thức thì có thể thoát khỏi phiền hà ư? Chẳng lẽ bỏ trái ớt vào miệng nhai thì với cái nhìn ý thức sẽ không thấy cay hay sao? Nếu anh dùng con dao cắt vào tay, dù cho nhận định, ý thức phiếm diện hay đích thực sự thể thì vẫn đau, vẫn chảy máu. Thế thì lối nhìn nào có thể giúp tránh được cảm giác đau ấy? Vợ chủ nhân lên tiếng.

- Chị Lữ hỏi vậy đâu phải ý tôi muốn nói. Ớt nào mà ớt chẳng cay dẫu vẫn có những trái được gọi là ớt nhưng không caỵ Lửa nào không nóng vì nếu không nóng sao có thể là lửa. Mỗi sự vật, sự kiện, đều có bản tính riêng của nó và nó phải như vậy, nếu không vậy thì không phải là nó và nó không có bổn phận cũng như không cần trở nên bất cứ gì khác. Nếu nhận thức của mình về sự vật hay sự việc đúng đắn, không bị thiên lệch tùy thuộc lối nhìn phiếm diện do ảnh hưởng bởi kinh nghiệm, thói quen, hoặc nghe đồn, thì mình sẽ không bị xôn xao ảnh hưởng do chính những gì mình mong muốn xảy đến khác với sự việc đang xảy ra. Chị thấy không, nếu chị đã biết rõ trái ớt cay trong khi chị không ăn được ớt, tất nhiên chị không bao giờ dám bỏ trái ớt vào miệng mà nhai. Nếu biết dao cắt vào tay thì đau và không muốn bị đau, chị sẽ chẳng bao giờ lấy dao cắt tay để rồi mong muốn dao cắt tay không đau và ước mơ nhai trái ớt lại cảm thấy ngon ngọt. Do đó, chị sẽ có kinh nghiệm, muốn làm bánh ngọt chị pha đường chứ không bỏ ớt, muốn nồi canh rau đay đậm đà dứt khoát không thêm dấm mà phải là nước mắm hay mắm tôm. Tương tự thế, từ sự nhận thức đúng đắn bản chất sự vật, chị biết rõ cách xử dụng chúng chứ không bao giờ làm liều nấu canh hương án và ước muốn mọi người khen ngon để đến khi bị chê thì cũng chẳng khác gì lãnh đòn vào lưng.

- Như vậy anh muốn so sánh những quan niệm trai năm thê bảy thiếp hoặc thứ tự lớp lang thần phục người đàn ông giống như xăng chạy máy những chiếc xe gia đình cổ xưa không thể dùng làm nước uống cho chúng ta thời nay được phải chăng?

- Anh ấy hay bị chị lật tẩy lắm phải không?

- Mẹ thằng này có cái miệng đấu láo cũng hay mà nịnh đầm cũng giỏi. Mày nói như thế là chết tao rồi; xưa nay có bao giờ tao dám hơn thua với bà xã đâu mà mày còn móc họng tao kiểu này. Phạt một chai, một hơi mà bỏ dở là ốm đòn ngay bây giờ!

- Thì tao vui lòng chấp nhận hình phạt cay đắng cho mày hả dạ, nhưng tao nào dám bảo mày sai trái gì đâu. Mày có cay như trái ớt tao cũng không cần, mà chua như dấm chẳng bao giờ tao ăn...

- Thôi đi, đổ ngay bia vào cái họng của mày cho tao nhờ. Mày mà nói thêm thì tao chẳng còn gầm chạn mà chui chứ đừng nói tới ăn cơm nguội ngủ nhà ngoài.

- Chị Lữ, chị có phép tắc thần thông nào mà anh ấy rét như vậy?

Chương 4

Chị Lữ xưa nay rất ít nói, và cũng như mọi người, những chuyện vớ vẩn loanh quanh luẩn quẩn xảy tới trong liên hệ anh em họ hàng thân thuộc và bạn bè đã làm chị phiền hà không ít. Chính vì vậy, chị ít khi dám phát biểu nhận định của mình bởi dù nói thế nào đều bị những lời ong tiếng ve cho rằng phải thế nọ, phải thế kia, kèm theo những lời khôn ngoan tỏ vẻ dạy dỗ vuốt đuôi chẳng hạn nếu tôi là chú, nếu tôi là thím thì chuyện đã như vầy, đã như kia... Cũng có thể chị Lữ mang mặc cảm mình không thể già họng đối đáp được với những kiểu ranh vặt, lạm dụng cơ hội hầu mong tỏ sự cả sáng ba xu ấy nên tập thành thói quen rất ít khi tỏ bày ý kiến ngoại trừ trường hợp ai đó hỏi đích danh mới trả lời ậm ừ cho quạ Những ngày đầu tiên hai người quen nhau, Kính hay lại nhà Lữ nói chuyện đấu láo vào những buổi chiều sau giờ tan sở. Nhiều lần sau khi Kính ra về, chị Lữ tỏ vẻ khúc mắc với chồng về lý luận đầy vẻ ngang ngược chẳng giống ai của Kính thế mà anh Lữ coi bộ có vẻ đồng thinh tương ứng được. Thật khổ, cứ mỗi lần bị vợ hỏi, anh Lữ lại phải tìm đủ mọi cách giải thích. Lần này qua lần khác, cố moi móc những thí dụ điển hình trả lời về mấy vấn đề chị Lữ cho rằng Kính nói ngang mà cũng không sao có thể trình bày hết ý mình muốn nói, anh Lữ lắm lúc đành xí xóa với câu "Hắn vậy đó, tốt nhất chớ dại mà nghẹ" Một hôm hai vợ chồng Lữ đem lý luận biện chứng tranh luận chỉ vì mấy câu nói của Kính; ngay chiều hôm sau anh Lữ vô tình nhắc tới nên chị Lữ từ đó có cơ hội tham gia tay ba đàm luận.

Dẫu quen nhau hơn hai năm, nhiều lần ăn cơm tối với đôi vợ chồng này nhưng rất ít khi Kính nói chuyện với chị Lữ. Có chăng chỉ một vài câu chào hỏi, thêm lời nhờ vấn an ông bà cụ thân sinh, ngoài ra, dẫu không có vẻ gì khinh thị người khác, Kính chẳng bao giờ đem những ý nghĩ đang bàn luận đặt thành vấn đề với vợ chủ nhà mặc dầu chị Lữ đang hiện diện. Tối hôm trước, hai người nói chuyện liên quan đến mấy câu tục ngữ ca dao Kính lấy làm đắc ý chẳng hạn "Được chim quên ná," "Được cá quên nơm," "Được ý quên lời," và cho rằng cổ nhân để lại những câu thâm thúy, nói vậy nhưng không phải vậy làm khối kẻ bị lừa. Nhân chuyện có gia đình xa gần trong họ hàng đứng ra lo đám cưới cho thằng cháu họ đàng ngoại có lẽ cách xa vài trái hai lẻ hai, may ra chỉ còn hơi hám do thằng cháu thời gian mới vượt biên ở ké độ nửa năm, khi thằng cháu hờ phải đi tiểu bang khác vì công ăn việc làm nơi đó khá hơn, gia đình ông chú bà cô hàng tháng hụt mất ba trăm rưỡi bạc tiền mặt cộng thêm vài chục đồng phiếu trợ cấp thực phẩm nên sinh ra lời ong tiếng ve khá nặng về đứa cháu vô ơn. Nào là "Chó ăn cứt còn nhớ ơn trôn," nào là công việc làm ăn thì đâu chả thế, có nơi nào người ta chấp nhận cho nằm ngửa ăn không, thế mà cũng nghe dấm nghe mẻ mấy người lợi dụng cho thuê nhà bỏ đi không nghĩ gì đến tình nghĩa. Nào là thứ vô ơn nên khi đã đủ lông đủ cánh rồi thì "Qua sông đấm cò vào sóng... " Xảy ra khi cưới vợ, bởi đơn thân độc mã, vả lại, nhà thờ nhà thánh, cộng đồng, đoàn thể người Việt không tham gia, thằng cháu ngỏ ý nhờ ông chú bà cô đứng ra đỡ đầu mong sự việc có được người nọ người kia qua lại cho đỡ tủi. Tất nhiên khi nhờ vả, mọi đồng mọi món thằng cháu phải ứng trước. Nhà hàng thì mấy dì mấy cô họ đi đặt cho hợp với kiểu cách xưa nay hầu tránh tiếng ma chê cưới trách lại đẹp mặt gia đình vì trên thiệp mời ông chú bà cô đứng tên. Thằng cháu họ nào đã bao giờ cưới vợ nên đâu hiểu những phiền toái cộng thêm những rắc rối tính toán sao cho tốt mặt đẹp lòng. Thế nên, qua buổi tiệc linh đình nơi một nhà hàng sang trọng, nào trống phách đàn địch, nào ca sĩ nhà, ca sĩ thuê, nào chín món thức ăn, ba kiểu tráng miệng, rượu mờ mờ, rượu bò đi ông, cụ này bà kia, máy sẵn đấy, mi cô sẵn đấy, nhờ cơ hội ngàn năm một thưở, phát biểu lung tung chước luôn phần hát của ca sĩ... Đến lúc tính sổ, chú rể mới bổ ngửa vì lỗ bứt mười hai ngàn. Khi răng cắn phải lưỡi mới hay; khách khứa, nào ai không biết chú rể chỉ là đứa cháu hờ tự đâu đâu về cưới nhờ cô vợ, bởi vậy có mừng cho lắm chỉ mất toi vì nợ cần có đầu, trâu phải có chủ, cưới xong chúng bỏ đi nơi khác lỡ khi đến việc mình làm sao đòi lại. Và thế là hết cả tiền dành dụm cho tuần trăng mật, trăng đường, lại đeo thêm bẩy ngàn còn thiếu, hai vợ chồng thằng cháu mới cưới vội vàng khăn gói trở lại chốn xa lo còng lưng đi cầy trả nợ. Cô dâu mới về nhà chồng không có cơ hội phải làm dâu tỏ lòng biết ơn phúc đáp công lao dựng vợ gả chồng thành ra đôi trẻ mang thêm điều tiếng "Ăn cháo đá bát."

Đến khổ, cũng vì vài lời Kính tấm tắc đắc ý về mấy câu tục ngữ ca dao mà vợ chồng anh Lữ mất suốt cả một buổi tối bàn luận nhưng cuối cùng chị Lữ vẫn không nhận ra được điều gì hay của câu "Ăn cháo đá bát" đã được gán cho đôi vợ chồng trẻ. Do đó, chiều hôm sau khi Kính vừa bước chân trong chân ngoài chưa kịp chào hỏi, anh Lữ đã vội lên tiếng,

- Đấy, cái miệng ông tướng nói ngang đang trờ trờ ra đấy; nếu em còn ấm ức thì cứ hỏi để hắn nói cho điên cái đầu luôn.

- Chào anh chị, có chuyện gì xảy đến với hai ông bà mà định dùng tôi làm quan tòa xét xử dẫu chưa đặt được ly nước nào cúng tổ? Kính vừa bước tới ngồi xuống salon vừa diễu diễu thăm dò.

- Mời anh ngồi chơi; để em lấy bia hầu thầy bói. Vừa nói chị Lữ vừa quay người đi về phía tủ lạnh đặt nơi góc bếp gần bàn ăn.

- Thế ra hôm nay cóc mở mà hay cóc nghiến răng mà chị thăng chức cho tôi lên hàng thầy bói. Phỏng tôi xứng đáng là ông thầy có chức từ bao giờ vậy?

- Em có quyền hành gì thăng chức đâu nên nào dám nói rằng anh xứng đáng là ông thầy có chức hay không?

- Ha! Ha! Ha! Anh Lữ phá lên cười trong khi Kính cố gắng ra vẻ thản nhiên miệng mỉm chi, bụng nghĩ, mụ bị lừa vố này coi chừng tức với mình lắm. Nửa e ngại vợ chủ nhà giận vì mình láu cá, nửa sợ chồng chị nói không khéo thì hỏng to, Kính cảm thấy luống cuống nhưng không biết giải quyết thế nào. Ai bảo quen miệng, từ nay phải uốn lưỡi bẩy lần trước khi nói với mấy bà kẻo mang họa..., Kính tự trấn an.

Vừa lúc chị Lữ mang hai chai Heineken kèm thêm một lon Coke, ba chiếc ly, trong trạng thái ngỡ ngàng không hiểu chồng cười vì lý do gì về câu trả lời của mình, anh Lữ mới nhịn được cười đoạn lên tiếng,

- Anh đã nói với em là muốn điên cái đầu thì cứ hỏi hắn, thế mà chẳng ngờ chưa kịp hỏi đã bị ngơ ngác không hiểu hắn nói gì.

Kính thầm cám ơn cái miệng nhanh nhẩu đổ lỗi tại mình làm người khác ngơ ngác... Nhưng chưa kịp mừng, chị Lữ đã hỏi chồng:

- Anh ấy đã nói gì đâu mà ngơ ngác? Chị Lữ không hiểu chồng mình cười chuyện gì nhưng làm bộ che dấu.

- Thôi bỏ chuyện đó đi, chị Lữ. Vậy anh chị có chuyện gì mà lúc nãy anh ấy nói chị muốn hỏi tôi?

- Em sẽ hỏi sau, bây giờ anh phải giải thích tại sao nhà em cười vì biết em ngơ ngác... Chợt thấy Kính nói lãng, chị Lữ lại có ý muốn hỏi cho biết nên đành chấp nhận mình không biết.

Cố tránh vỏ dưa lại đạp nhằm vỏ dừa không đường tiến thoái, Kính nói trớ,

- Tôi chỉ ngạc nhiên vì hình như hôm nay chị có điều gì quan trọng mà chị lại bảo tôi là thầy bói nên cảm thấy cũng thích thích, định về đọc ít sách tướng số may ra biến lời nói của chị thành lời tiên tri chăng.

- Không phải vậy, em muốn hỏi lý do gì khiến nhà em cười; sao anh đánh trống lãng giỏi vậy?

- Chị hỏi không trúng người bởi tôi có cười đâu nên nào biết lý do.

- Ha! Ha! Anh Lữ lại cười trong khi nheo mắt nháy vợ. Anh đã nói rồi, nói với hắn chỉ có điên cái đầu nên chớ dại mà hỏi. Nói xong Lữ vẫn không nín được nên cứ ôm bụng mà hích, hích, đến chảy cả nước mắt ra...

Đến lúc này thì nét mặt của chị Lữ mang đầy vẻ ngơ ngác, chị không thể hiểu được lý do gì chồng mình cười một cách lạ lùng như thế. Đọc được nét ngạc nhiên của người đàn bà đơn sơ này, Kính nhẹ nhàng giải thích,

- Anh ấy không cười chị đâu mà cười về điều mà tôi ám chỉ qua câu trả lời "Chị hỏi không trúng người." Sự việc xảy ra là anh ấy cười và chị hỏi tôi lý do gì khiến anh ấy cười. Anh ấy cười tính chất người của con người, không chịu tìm hiểu kỹ càng trước khi đặt vấn đề mà cứ theo ý nghĩ, quan niệm riêng của mình, xét đoán phỏng chừng. Có phải chị nghĩ rằng tôi hiểu lý do làm anh ấy cười nên hỏi tôi phải không. Tôi trả lời "Tôi đâu có cười nên nào biết." Tôi chỉ đưa lên cái nhìn đơn sơ thấy sao nói vậy; anh ấy cười, chị hỏi tôi do đó đã khiến anh ấy cười.

- Anh nói có lý, em cũng chẳng hiểu tại sao em lại hỏi anh về chuyện nhà em cười.

- Thì tại chị hỏi theo thói quen bình thường của mọi người. Anh ấy đang cười không thể trả lời được đồng thời chị nghĩ rằng tôi hiểu lý do nên hỏi.

- Em hiểu rồi, cũng chỉ vì ý nghĩ trong đầu mà phản ứng của em đã không đúng chỗ.

- Rồi rồi, mày bắt đầu làm hại tao rồi Kính ơi! Lữ lên tiếng.

- Tại sao nói anh Kính làm hại anh?

- Bộ em không nhớ sao, cứ mỗi buổi chiều sau khi hắn bước ra khỏi nhà là em hỏi anh về những vấn đề hắn nói làm anh lo trả lời đến khùng luôn mà vẫn không chịu tha; chẳng hạn như chuyện vừa xảy ra tối hôm qua, chỉ vì câu tục ngữ mà lời qua tiếng lại gần đến nửa đêm mất cả ngủ. Bây giờ, hắn giải thích cho em hiểu được thói quen nơi mọi người nhìn sự việc một cách phiếm diện tùy thuộc nhận định sai lầm nơi mình thì có phải từ nay em sẽ quay anh như quay dế chứ còn yên hàn sao được mà không khổ...

- Câu chuyện tối qua của anh chị ra sao mà đến độ mất ngủ. Kính hỏi chị Lữ.

- Em sẽ hỏi anh sau, bây giờ em muốn biết lý do tại sao nhà em cười khi em nói anh là thầy bói.

- Chị hỏi tôi hay hỏi anh ấy?

- Ừ nha, vậy anh trả lời đi. Chị Lữ chợt nhận ra mình hỏi trật người khi nghe Kính nói nên quay qua chồng tò mò muốn biết.

- Nó nói và anh cười vì câu nói của nó chứ. Thế nên em hỏi anh cũng không đúng vì chỉ nó mới hiểu câu nói của nó mà thôi, tại sao em bảo anh trả lời.

- Vậy là thế nào, chị Lữ thắc mắc bởi tưởng là đúng lại chẳng đúng...

- Thằng ranh, mày cả vú lấp miệng em. Chị đừng để nó dụ chị vào tròng. Nó phải trả lời vì chị hỏi lý do tại sao cười chứ chị không hỏi câu tôi nói có ý nghĩa gì. Thằng đểu, làm cho vợ cuống lên. Kính xổ một tràng đỡ dùm cho chị Lữ.

- Em thấy anh nói đúng không, từ nay anh bị bắt buộc bước vào con đường khổ ải vì em đã dám nói chuyện với nó. Lúc thoạt mới tới, nó nói "Phỏng nó có xứng đáng là ông thầy có chức" mà em lại nói "Em có quyền hành gì thăng chức đâu" tức là em bị rơi vào bẫy nói lái của nó. Có chức đọc lái là cứt chó thì làm sao anh không cười...

- Ừ nhỉ, sao em dốt vậy, chỉ có thế mà không để ý!

- Cha mày, từ nay khốn khổ rồi con ơi! Kính diễu Lữ, đoạn quay qua chị vợ tiếp, bây giờ chị đã có thể nói lên được điều muốn hỏi chưa?

- Nói với hai anh mệt quá, nhưng cũng hay hay... Số là hôm qua anh nói mấy câu "Được chim quên ná, được cá quên nơm" mang hai nghĩa luân lý và thực thể sự kiện, nhà em giải thích mấy câu ấy hợp tình hợp lý nhưng có một câu "Ăn cháo đá bát" em thấy nó làm sao ấy nên muốn gặp anh để hỏi.

- Câu này được áp dụng nơi trường hợp nào?

- Thì hai đứa cháu họ của nhà ông Tính mới cưới ở đây đó. Cưới xong lúc tính sổ hụt mất những mười hai ngàn, hai đứa phải bỏ luôn tuần trăng mật vẫn còn nợ bẩy ngàn nên lo sợ quá phải về đi làm kiếm tiền trả nợ mà bây giờ bị nói là "Ăn cháo đá bát." Em thấy nó kỳ kỳ làm sao ấy nhưng muốn được giải thích cho hợp tình hợp lý nên cứ thắc mắc hoài.

- Vụ ấy tôi cũng nghe nên chỉ đặt vấn đề, có cháo đâu mà đá bát...

- Hay, anh nói hay, có vậy mà em suy nghĩ mãi không ra. Đúng thật anh nói ngang nhưng có lý.

- Cảm ơn chị quá khen, có lẽ nói bằng ấy xứng đáng với thù lao một chai bia rồi phải không...

- Thế từ bao lâu nay anh tính thù lao về chuyện gì, công lao sức lực ghé qua thăm hỏi hay vì em ngu ngơ nên phải dạy khôn?

Đáng đời, Kính nghĩ thầm, ai mượn ăn nói bừa bãi. Khi cóc đã mở miệng thì phải coi chừng, vừa tự nhủ mà lại đã vấp phạm... bởi vậy giả lã:

- Chuyện quá khứ hãy để cho quá khứ tự xử vì những gì thuộc về quá khứ thì đã không bao giờ trở lại cũng như không ai tắm hai lần trong một giòng nước. Hơn nữa, sự vật luôn luôn biến đổi cũng như chính con người mình đang thay đổi mà không nhận biết. Thế nên, nếu cứ bám lấy quá khứ sẽ không thể nào sống cho hiện tại; nếu dùng quá khứ làm căn bản xét xử sự việc sẽ không thể có được nhận định đích xác sự việc xảy ra thế nào. Do đó, hãy nói chuyện bây giờ và những chai bia sắp tới...

- Anh nói cũng có lý, nhưng nếu không có quá khứ sao có thể nhận ra những lẽ chẳng nên. Những chuyện đang xảy ra không thể nào nhận định kịp, chuyện tương lai thì chưa tới. Như vậy, nhận định có nghĩa là đừng nhận định mà chấp nhận sự việc xảy tới mà thôi hay sao?

- Tôi hiểu chị muốn nói gì. Thế mới biết, người ta cho rằng tôi nói ngang mà chị còn ngang hơn tôi...

- Anh muốn kéo em vào phe ngang hay sao? Mà tại sao anh nói em ngang hơn anh?

- Chính vì chị dám đặt câu hỏi tại sao nên tôi nói chị ngang. Bởi chị mới nói nhận định là đừng nhận định mà chấp nhận sự việc xảy ra. Tất nhiên, nguyên câu nói nhận định là đừng nhận định mang tính chất tự đối nghịch không ngang thì họ hàng nhà cua tám chân hai còng thêm cặp mắt lé chẳng cần tìm hiểu cuộc đời lên xuống thế nào.

- Nghe anh ví, coi chừng em có cặp mắt của họ hàng nhà cua... Chị Lữ vừa cười vừa nói... Không ngờ Kính có lối ăn nói duyên dáng mượn sự vật diễn tả tư tưởng thông đạt như thế khiến nàng cảm thấy thoải mái, tự nhiên hơn bao giờ thay vì luôn luôn phải để ý e dè như khi nói chuyện với những người khác... Anh nói quá khứ là những gì đã chết mà cuộc đời luôn luôn biến đổi thì sao có thể lấy những gì bất biến mà đo lường sự biến động. Muốn nhận định cần có căn bản, cần có những điều kiện làm tiêu chuẩn mà không có tiêu chuẩn sao có thể nhận định. Như vậy dẫu nói rằng nhận định nhưng thực ra không phải là nhận định mà chỉ giương mắt ra mà nhìn nào khác gì cặp mắt của con cua lại còn được gọi là lé thì sao có thể nhìn cho toàn vẹn. Bởi vậy chỉ còn nước chấp nhận sự việc xảy ra chứ có muốn nhận định chính xác cũng không được.

- Lần đầu tiên tôi nghe được câu nói nhận định là không nhận định dẫu từ lâu đã nghĩ thế mà chưa bao giờ dám nói ra. Xét cho đúng, sự việc đã xảy đến thì không thay đổi được, có chăng chỉ có thể bổ túc hay ngăn ngừa những gì liên hệ tùy theo điều kiện và thời điểm mà thôi. Thế nên nhận định một sự việc, sự kiện chỉ là quan sát một cách không thiên kiến chứ không phải sửa sai hay chỉnh đốn sự kiện; bởi đó, nhận định sao cho chính xác không mang nghĩa thông thường mọi người hay dùng theo quan điểm sẵn có. Chị thử xét coi, nếu chị đeo cặp kiếng đậm màu để thưởng thức bức tranh thì sao có thể thấy rõ sự hòa hợp màu sắc họa sĩ đã dùng phô diễn trên bức tranh. Nhận định một sự việc mà để thiên kiến, quan niệm, kinh nghiệm cá nhân bao phủ nhận thức giống như cặp kiếng màu che mắt thì sao có thể nhận định chính xác sự việc xảy ra thế nào. Qúa khứ, kinh nghiệm, chỉ phần nào giúp con người ý thức về phản ứng nội tại tránh sự giao động phí lực làm hao tổn tâm sức, quay cuồng vô định hướng trong thực tại biến động chứ không thể nào hoàn toàn làm căn bản nhận định như vẫn được áp dụng theo thói thường. Chẳng thế mà người ta hay tỏ sự khôn ngoan một cách muộn màng nào là nếu mà tôi thì thế này, nếu mà tôi thì thế kia. Sự việc đã xảy ra mới phét lác thì ai không ba hoa được. Thôi, nói vậy quá đủ, bây giờ trở lại vấn đề những chai bia trong quá khứ...

- Đúng thế, anh phải giải thích sao cho hợp lý về những chai bia trong quá khứ...

- Trước hết, vì nhà anh chị có sẵn bia chứ nếu không có bia sao tôi có thể uống. Thứ hai, dẫu anh chị có bia mà không mời, tôi cũng không thể uống. Điều này nói lên tôi uống những chai bia trong quá khứ không phải tự mình muốn uống mà được dẫu rằng tôi đã uống. Lý do thứ ba, tôi được mời chưa chắc đã vì lòng tốt anh chị muốn tôi uống mặc dầu anh chị tốn tiền mua bia vì có thể anh chị mời tôi uống bia theo phép lịch sự, lỡ không mời khách uống sẽ bị nói là không hiếu khách, keo kiệt, và cũng có thể e ngại tôi cho rằng nhà anh chị nghèo không đủ tiền mua bia mời khách v.v... Chỉ thử đưa ra ba lý do đó, sự uống bia của tôi là uống vì anh chị chứ không uống vì tôi và anh chị mời tôi cũng vì anh chị mà chớ... Chị thử nhớ lại coi, tôi đâu ghé vô nhà anh chị xin uống bia mà có khi không uống bia, lại uống nước lạnh...

- Anh có ý định dùng lý luận theo kiểu đổ bùn sang ao không?

- Chị hỏi như thế tất nhiên đã vứt bỏ được quá khứ hay kinh nghiệm mà đặt mình trong thực tại biến động để nhận định. Đồng ý với chị tôi trả lời như vậy có thể vì mượn tâm lý có thể xảy ra, ráp nối bằng lý luận để xóa bỏ ơn huệ được uống bia trong quá khứ, và cũng có thể đổ bùn sang ao bằng cách nói rằng tôi uống bia vì anh chị để khỏi phải mang ơn. Thực lòng mà nói, tôi chẳng nghĩ gì hết. Có bia và muốn uống thì uống, có bia mà không muốn uống cũng không uống, có bia không muốn uống nhưng nể lời mời nên uống thì uống, có bia, nể lời mời nhưng thấy không nên uống cũng không uống. Thế nào cũng được, sự kiện uống bia hay không uống cứ hãy để nó tự nhiên.

- Và như vậy sự kiện uống bia chỉ tương đối vì nó có thể tùy thuộc một trong những lý dọ Có phải anh muốn ám chỉ sự nhận định cũng chỉ tương đối bởi bất cứ sự việc gì cũng tự mang những yếu tố đối nghịch và vấn đề đúng hay sai, hợp hay không lại tùy thuộc sự nhận định của con người.

- Chị nói hợp lý một nửa vì nhận định đúng, sai, hợp, hay không hợp là cái nhìn qua cặp mắt kiếng thiên kiến chứ không phải tự sự việc. Sự việc là chính nó, chẳng sai, chẳng đúng, chẳng hợp, cũng như chẳng không hợp. Nói chính xác hơn, sự việc, sự kiện vừa tốt vừa xấu theo lối nhìn thị dục. Tôi uống được bia, thích uống bia thì bia tốt đối với tôi nhưng đối với chị thì sao?

- Có lý, giả sử là em, mời em uống bia thì chỉ bắt em chịu khổ ải. Ah! Anh còn nói thiếu điểm này... Thế thì những chai bia anh uống trong quá khứ trở nên vô nghĩa dẫu rằng nó đã có ý nghĩa. Nó chết rồi...

- Bây giờ chị thấy rõ, nhận định sinh ra phản ứng do đó nếu nhận định không chính xác, phản ứng lầm lẫn chẳng khác gì chữa bệnh nhức đầu bằng cách cắt nó vứt đi...

- Anh đặt vấn đề nghịch thường vì nào ai cắt cổ để chữa bịnh nhức đầu.

- Người ta không cắt cổ để chữa bịnh nhức đầu nhưng người ta vẫn không dám tìm hiểu những dữ kiện thực tại mà dùng kinh nghiệm, quan điểm, kiến thức hạn hẹp cá nhân để nhận định sự việc. Như thế, có phải người ta đã cắt bứt những dữ kiện khỏi thực tại để nhận định theo quan điểm hạn hẹp riêng tư không? Vậy thì những gì được gọi là đúng, sai, phải, trái, chỉ dựa theo lối nhìn hạn hẹp cá nhân chứ không phải dựa trên dữ kiện thực tại. Họ đã cắt cái đầu thực tại mất rồi nên bày tỏ nhận thức đúng sai nơi chính họ mà chớ.

- Hèn chi anh bị mọi người cho là nói ngang. Theo em nghĩ, họ gọi anh là nói ngang vì lối nói biểu tượng mà lại không giải thích, chẳng hạn đem so sánh sự việc với bệnh nhức đầu và cái đầu với những dữ kiện. Thử hỏi nếu khi một chuyện xảy đến gây ra điều ong tiếng ve như chuyện đôi vợ chồng mới cưới mà em hỏi anh, anh đã không giải thích lại buông xuôi câu cắt đầu để chữa bịnh thì ai hiểu được ý anh muốn nói thế nào. Thế sao anh không giải thích cho người ta hiểu...

- Không ai có thể dạy ai vì không phải chỉ có một con đường duy nhất. Có nhiều con đường dẫn đến chân lý nhưng không đường nào hơn đường nào. Tuy nhiên, điều quan trọng là khi đã nhận thức được con đường phải đi, cần tập trung nỗ lực để đi đến cùng. Lý do không ai có thể dạy ai vì khi đắc thời người ta quên đi quá khứ rất nhanh bởi thế chỉ trong đau khổ, nhục nhã ê chề con người mới chịu học. Thực tế chứng minh, khi đắc thời con người tưởng mình là tất cả do đó sinh ra ngạo mạn. Chẳng thế mà ca dao có câu: "Vai mang túi bạc kè kè, nói khuếnh nói khoáng người nghe rầm rầm." Khi khốn khổ, con người mượn đủ mọi cớ để bào chữa hoặc cay cú, ghen tương. Thế nên, giải thích làm sao cho những cái đầu thiên kiến ngập đầy những khuynh hướng chỉ trích vì với óc chỉ trích, con người công kích tất cả do đó họ sẵn sàng bôi nhọ mọi đức hạnh và tìm sự sai quấy ở khắp mọi người. Chết cho quá khứ, vứt bỏ những gì đã qua tức là có thái độ đối nghịch với óc chỉ trích, tìm điều tốt lành ở tất cả mọi người để nhận ra mọi sự phải có lý riêng của nó và như vậy mới có nhận định trung thực, mới thăng tiến được.

- Vậy óc chỉ trích ở đâu mà có? Phỏng nó có thể là bản năng và nếu như thế đó là điều tự nhiên...

- Tôi xin ngắt lời chị, chị mới đặt vấn đề óc chỉ trích là bản năng để rồi khai triển nó là điều tự nhiên. Ấy là chị mới phỏng chừng nên đã bị chính cái phỏng chừng hướng dẫn đào sâu vào sự giải thích về bản năng. Dĩ nhiên, nhận định sự vật bắt đầu bằng quan sát và phỏng chừng. Quan sát thu nhận tất cả những dữ kiện và phỏng chừng mở lối cho kinh nghiệm, quan niệm, thiên kiến lọt vào nhận định. Óc chỉ trích phát sinh bởi tự cho rằng chỉ kinh nghiệm, quan niệm của mình là đúng nên tự lấy mình làm mẫu mực quyết đoán sự việc phải thế này phải thế kia. Óc chỉ trích là kết quả của sự nhận thức qua tấm kiếng màu thiên kiến bao bọc nhận thức khiến con người không thể nhìn rõ được sự vật hay sự việc. Như vậy, những người mang đầy thiên kiến sẽ là người chỉ trích và đồng thời trở nên kiêu căng, tự phụ. Đàng khác, người ta không thể dậy bảo điều gì cho những cá nhân kiêu căng, tự phụ vì họ tự đã đóng tai bịt mắt để cho rằng chỉ họ là hơn trong khi ngược lại, chỉ những người khiêm tốn mới thấy được chân lý, thực thể sự việc.

- Như vậy, phải làm sao để tránh được óc chỉ trích?

Chị này xưa nay rất ít nói mà sao hôm nay đưa ra lắm câu hỏi rất ít người đề cập đến, Kính thầm nghĩ. Thế ra không phải ít nói vì người ta không biết mà có thể ít nói vì biết rằng nói ra cũng khó có người hiểu hoặc nói cũng vô ích, chỉ tốn nước bọt. Xưa nay ai dám nghĩ chị Lữ là người lý luận và dám đặt những câu hỏi đào sâu tận tâm thức con người; đã ai có thể cho rằng con người có thái độ khép kín lúc đụng cơ lại như con sáo đấu hót về những vấn đề hóc búa khô như đá mà còn chứng tỏ ham muốn tìm hiểu. Ít nhất mình đang mang những nhận xét sai lầm về chị Lữ đã bao lâu nay... Từ rày về sau phải chừa, giải thích về óc chỉ trích bắt nguồn từ thiên kiến mới nhận ra chính mình đã bị thiên kiến điều khiển. Nghĩ thế Kính trả lời,

- Tôi chỉ đưa ra một thí dụ bản thân. Đã hơn kém hai năm hay ghé vô nhà anh chị đấu láo, mãi tới lúc này tôi chợt ngạc nhiên vì không thể ngờ được chị đang đặt những vấn đề về sự nhận thức khó ai dám đem ra mổ xẻ. Nghĩa là tôi đã bị thiên kiến qua thái độ bên ngoài của chị. Chẳng hạn chị ít nói; khi nào bị hỏi đến chỉ ậm ừ cho qua mà đột nhiên chị như con sáo đấu hót lại cứ hỏi về những chuyện khô khan khó gặm. Thế nên, muốn tránh óc chỉ trích cần giải quyết thiên kiến, và muốn giải quyết thiên kiến để tránh lấy mình làm hơn chỉ còn cách mở rộng lòng theo câu nói ngang của chị: "nhận định có nghĩa là đừng nhận định mà chấp nhận," chỉ có cách giương mắt, vểnh tai quan sát sự việc và dõi theo xem nó thế nào, không cho là đúng mà chẳng nói là sai. Đó cũng chính là thái độ khiêm tốn vì chỉ có khiêm tốn mới giúp ta học hỏi được những điều mới lạ. Chỉ khi ta khiêm tốn mở rộng cõi lòng chiêm ngưỡng sự kiện thay vì lệ thuộc thành kiến và thiên kiến mới nhận ra thực thể sự kiện. Sự kiện xảy ra không lệ thuộc thành kiến hoặc thiên kiến của người nhận định mà tùy thuộc những điều kiện và môi trường tạo thành nó. Nếu còn giữ những thành kiến cá nhân thì nào có khác chi ly nước đầy làm sao đổ thêm vô được.

- Anh nói có đúng với ý nghĩ của anh không?

- Tôi nhận thấy sao nói vậy lắm khi làm chướng tai người nghe nên thường bị gọi là ngang; điều này đủ bảo đảm cho những lời tôi vừa nói.

- Sao em không thấy ngang tai chi hết!

- Tại em ngang hơn anh Kính. Đến lúc này anh Lữ chen lời, em thử nhớ lại đã bao nhiêu lần em không chịu chấp nhận những điều anh giải thích mà cứ cho rằng còn thiếu cái chi đó. Từ lúc anh Kính vào tới giờ, anh chưa thấy em nói còn thiếu cái chi đó kể cũng hơi la...

- Còn thiếu nhiều chứ nhưng phải giải quyết từ từ, phải dứt khoát từng vấn đề vì nếu cứ gom tóm tất cả như kiểu anh nói thì luôn luôn còn thiếu cái chi đó... Hướng về phía Kính nàng tiếp,

- Thế thoát khỏi thiên kiến để nhận định sự việc rồi sẽ đi đến đâu?

- Con người thường suy tư về sự liên hệ giữa người với người, sự việc xảy đến với con người chung quanh, nhưng sự suy tư nào cũng thế, ít nhiều đều bị thiên vị và do đó luôn luôn sai lạc nếu nhận định sự việc theo quan điểm cá nhân. Bởi thế, tư tưởng con người chỉ chân chính khi họ được giải thoát khỏi thành kiến và những ảnh hưởng do những điều kiện bên ngoài. Chẳng hạn, khi tính toán để mua một ngôi nhà, ngôi nhà sẽ được quyết định mua hay không tùy thuộc quan điểm bao gồm nhiều điều kiện. Dĩ nhiên, người mua cần chỗ ở hoặc cho thuê chỉ là chuyện phụ, điều kiện thuận tiện chợ búa, sở làm, giá trị căn nhà có gì liên hệ đến giá trị người mua hay không, gia đình bao nhiêu người và cần bao nhiêu phòng v.v... Thực ra, nếu chỉ cần nơi chốn để che mưa tránh nắng thì nhà thế nào không được. Tuy nhiên, nào ai để ý đến tính chất định giá cho sự chọn lựa của mình. Thử xét, nếu người chồng nào đó tậu được một căn nhà nguy nga tráng lệ nhưng thực tế không đủ tiền để thuê người dọn dẹp, chắc chắn rằng bà nhà sẽ trở thành đứa con ở. Và nếu bà nào cố gắng mua cho được căn nhà đẹp đẽ, sang trọng, mà không đủ khả năng tài chánh thuê người dọn dẹp, bà ấy đã tự chấp nhận trở nên kẻ nô lệ. Kinh nghiệm hằng ngày chị thấy rõ, lau chùi, dọn dẹp một căn nhà sang trọng như chúng ta có thể nhìn thấy bên ngoài tất nhiên đòi hỏi một người làm việc liên tục. Nói như vậy chị thừa hiểu.

- Đó là chuyện thường tình việc gì anh phải đặt thành vấn đề vì nhà nào không là nhà!

- Chị định giăng chiếc bẫy kiểu gì khi chị cho đó là chuyện thường tình? Có lẽ chị thừa hiểu, chỉ những người nghèo mới lo chết đói, mới ham giầu; chỉ những kẻ không có mặt mới lo mất mặt; chỉ những người thấy mình chẳng là gì mới muốn chứng tỏ ta đây có giá trị vì có căn nhà sang trọng, có cái xe mắc tiền v.v... nên phong cách cũng như suy tư bị thiên vị do ảnh hưởng của sự ham muốn và cũng chính những ham muốn này sinh ra thói hư tật xấu. Dĩ nhiên, kiếp người quá ngắn ngủi không ai có thể trừ hết được những ham muốn thế tục do đó đa số hành động không ý thức bởi chịu ảnh hưởng ngoại cảnh không được vừa lòng sinh ra bất mãn, không được thoải mái. Chính sự bất mãn này sinh ra tính chất đóng kịch với mọi người, với chính mình, hoặc sống theo một lề lối, một khuôn khổ nào đó không thích hợp nhưng lại cố ép mình để tưởng là hợp cho có chút hãnh diện. Chị thử xét coi, có vị thánh nào vỗ ngực xưng danh là ông nọ bà kia không, hay chỉ có những kẻ còn u mê trong tham vọng thế tục mới tha thiết đến danh vọng, địa vị. Người ta đang sống trong vòng nô lệ chính họ đặt ra có lẽ để thưởng thức thú đau thương...

- Anh nói gì, thưởng thức thú đau thương. Thế anh định nghĩa thú đau thương là gì?

- Thú đau thương là cảm nghiệm của sự đam mê những gì vì nó mà mình bị khốn khổ.

- Vậy phải thế nào để giải thoát khỏi thú đau thương?

- Con người cần nhận biết rõ ràng hạnh phúc không ở những sự thành đạt theo ham muốn thế tục. Có đạt được tất cả những ước mơ thì họ vẫn bị mang nỗi buồn muôn thuở để hung hăng đeo đuổi những thành đạt mới bởi sự ham muốn của con người như chiếc váy nên không có đáy...

- Ha! Ha! Ha! Chị Lữ cười thoải mái, chị Ôm bụng cười đến dàn dụa cả nước mắt... Cho anh làm kịch sĩ thì hợp với cái miệng của anh... Sao nữa, anh nói tiếp,

Có lẽ từ nay chị Lữ sẽ ít nói hơn nhưng không có vẻ khép kín như những ngày trước, âu cũng là điều hay, Kính nghĩ...

- Vì sự ham muốn thế tục chẳng bao giờ cùng nên con người cần nhận thức được hạnh phúc phải đến từ tâm linh bởi mọi thành đạt bên ngoài nơi cuộc sống đều bị giới hạn. Phương pháp để đạt tới hạnh phúc tâm linh là trở về với nội tâm. Điều này có nghĩa tìm lại chính mình thay vì chạy theo những gì không phải là mình; nói cách khác là hướng nội, là tự trả lời câu hỏi mình là gì. Đồng thời, muốn biết mình là ai phải có tự do tư tưởng, phải dám đối diện với chính lòng mình để nhận xét và chấp nhận đúng đắn mình như thế nào cho tới tận cùng.

- Tại sao anh lại nói tới tự do tư tưởng? Bộ có những điều con người không dám nghĩ đến hay sao?

- Sao không? Đâu thiếu chi người đã bị những giáo điều ám ảnh không dám suy nghĩ đến những gì chưa được dạy bảo. Thực ra, tự do tư tưởng không phải chỉ là muốn nghĩ thế nào thì nghĩ mà còn cần phải được giải thoát khỏi bất cứ ảnh hưởng hay áp lực nào bắt ta suy nghĩ theo một lề lối riêng.

- Nếu vậy người ta có thể nghĩ sai...

- Chị nói gì kỳ vậy? Nếu đã biết là sai sao còn có thể sai?

- Em e rằng nghĩ sai nhưng không biết mình sai.

- Thì hãy cứ suy nghĩ cả ngàn lần đi thế nào không có lần đúng; mà đã có lần đúng vẫn còn hơn không dám suy nghĩ để chẳng có lần nào sai.

- Anh nói sao? Sai cả ngàn lần sao lại hơn không bao giờ sai?

- Chị không muốn hiểu hay tảng lờ như không hiểu? Người không bao giờ lầm lỗi chỉ có thể thuộc về một trong hai loại: loại thứ nhất là kẻ đóng kịch đại tài. Họ đánh lừa được tất cả mọi người để không ai có thể nhận thấy sự sai lầm của họ. Tất nhiên, kẻ nào bịp được mọi người thì họ cũng đã có thể bịp được chính họ nên đương nhiên lọt vào loại lương tâm bệnh hoạn, chẳng có sự man trá nào mà họ không dám thực hiện. Loại thứ hai không dám thực hiện bất cứ điều gì bởi luôn luôn sợ sai lầm thế nên không dám sống cho chính mình, chỉ nương nương theo người mà sống để tránh bị chê trách, tránh bị phê bình. Bởi vì không dám sống cho chính họ nên dẫu sống thì cũng như đã chết; họ sống như một xác chết biết thở, không hơn không kém, nên chẳng có gì được gọi là sai lầm.

- Thế thì phương pháp nào theo anh có thể nghĩ đến để thăng tiến con người cho phù hợp với sự tự do tư tưởng như anh nói?

- Kinh nghiệm cuộc sống cá nhân đủ minh chứng cho chị thấy rõ, sai lầm là chuyện thường tình và mọi người không ai giống ai nên chẳng ai có thể bắt chước ai. Hơn nữa sai lầm bắt nguồn từ cõi lòng thiên kiến nên bước đầu tiên cần thiết là mở rộng tâm hồn để đón nhận và chấp nhận mọi sự nhất là chính mình. Trung thực mà xét, chị không thể nào trở nên tôi và tôi không thể nào trở thành chị do đó hành trình thăng tiến con người của tôi không thể nào giống hoặc phù hợp với con đường của chị. Bởi thế, không một đường lối nào có thể được nói là duy nhất cho mọi người. Do đó, phải tự biết mình để tìm sự tuyệt đối nơi mình thay vì đi tìm một chân lý tuyệt đối trời mây trăng nước nào đó vì chân lý để mà sống chứ không phải để trình bày. Phải tự mình suy gẫm và tìm lấy con đường cho chính mình mới là phương pháp đứng đắn. Đó cũng là lý do tại sao cần trả lời câu hỏi mình là ai cho đến tận cùng, và điều kiện chỉ là lòng khao khát hết sức vì sự khao khát này sẽ phát sinh tư tưởng mạnh mẽ dẫn đến sự tìm tòi và lẽ tất nhiên sẽ được đáp ứng như trong Kinh Thánh có nói: hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ rồi cửa sẽ được mở cho (Mt. 7:7; Lc. 11:9). Thử hỏi, không tìm sao có thể gặp...

- Thế anh đã tìm chưa, và nếu tìm anh đã gặp được gì?... Cửa đã mở cho anh chưa hay là vẫn đang còn đóng im lìm?... Và nếu đọc sách thì nên đọc sách nào bởi anh nói phải tự biết mình để tìm sự tuyệt đối nơi mình, cần trả lời câu hỏi mình là ai...

Chị Lữ đắn đo đặt câu hỏi giọng mang đầy vẻ ngập ngừng bởi vấn đề chị đưa ra chất chứa sự thách đố minh chứng bằng kết quả tổng hợp sự thực hành tất cả những gì Kính đã phân tích nơi câu chuyện. Dĩ nhiên, câu hỏi này đẩy Kính vào góc tường bởi nếu không có chứng cớ thực nghiệm, câu hỏi trở thành động lực khóa miệng kẻ phét lác với những lý thuyết suông, vật ngã bất cứ ai muốn trở thành thầy đời tốn nước bọt ba hoa mong đánh lừa thiên hạ hầu thỏa mãn ước muốn thấp hèn được người khác cho rằng ta đây cũng hay cũng giỏi, cũng là một cái gì. Chăm chú nghe câu hỏi, Kính hiểu tâm trạng khó giãi bày của chị Lữ được biểu lộ bằng giọng nói ngập ngừng trái nghịch với kiểu nói bình thường ngắn, gọn, trực diện vấn đề ngay từ lúc khởi đầu câu chuyện. Anh đưa tay nhấc chai bia định rót vì ly đã cạn... mới nhận ra bia đã hết từ lúc nào...

- Xin lỗi anh, mãi ham mê đấu võ miệng nên không để ý.

- Giỏi, chị dùng tiếng đấu võ miệng giải quyết được phần nào khó khăn nơi câu hỏi chị vừa đặt ra...

- Anh hãy chờ chút để em lấy bia...

Chưa bao giờ Kính nói nhiều như hôm nay bởi những suy tư móc nối, liên kết, dính quẩn lại với nhau như rợ vô rừng, không biết đâu là đầu mối, đâu là điểm cần được tháo gỡ. Chị Lữ vô tình cắt một gút kéo phăng ra, đoạn đưa lên thành vấn đề bắt chàng phải gỡ rối từng điểm khúc mắc. Kính không ngờ mình nói nhiều như vậy nhưng cũng vẫn còn thấy lắm điểm thiết yếu mờ mờ quay cuồng tựa những sợi tơ trời quấn quyện tạo thành đám mây mù bao phủ tâm tự Thế nên, chẳng lạ gì, người càng suy tưởng nhiều càng không muốn nói vì dù cố gắng diễn tả cũng không thể nào giải thích được bởi suy tưởng là hành trình biến động của thực thể sự sống, chỉ có thể cảm nghiệm chứ không cách nào giãi bày.

- Em nói anh Kính đừng nghĩ gì, chị Lữ vừa đặt bốn chai bia xuống bàn salon vừa giải thích hình như áy náy chuyện chị Em hỏi anh đã tìm chưa và đạt đến đâu chỉ vì ước muốn tìm hiểu kết quả quan sát và chấp nhận sự việc một cách đích xác sẽ dẫn con người đi tới đâu. Ai cũng vậy, không làm thì đói, mà làm thì ói xương hom. Thực trạng cuộc đời bắt ép mình phải tranh đấu mà tranh đấu thì sao có thể sống cho mình bởi tranh đấu là chạy theo điều mình muốn, chạy theo những gì mình chưa có, không phải chính mình. Khi nghe anh nói tới cần trả lời câu hỏi mình là ai cho tới tận cùng, em mới chợt nhận ra sao chưa bao giờ em để ý đến câu hỏi đó và như vậy, em đã chưa bao giờ thực sự sống cho chính em mà chỉ nào là vì chồng, vì con, vì sợ người ta nói thế này, nói thế kia. Anh biết không, lúc anh lý luận về những chai bia trong quá khứ, em có cảm nghĩ anh đang vác cái vồ đập tan những mảnh vỏ hình thức nơi chính mình. Xưa nay, mình đã sống thế nào ấy, nói đúng hơn, mình chỉ mơ tưởng để được như thế nọ, được như thế kia chứ không phải sống vì mình đang sống. Nói thế, anh hiểu em muốn nói gì không? Lạ thật, có điều em càng nói càng cảm thấy mình chẳng nói được gì...

- Thì chị vừa trả lời câu hỏi thay cho tôi. Tôi chỉ muốn nói thêm, chị không thể nào diễn tả cho anh ấy hoặc bất cứ ai để họ có thể hiểu được hay thông cảm được chị thương anh Lữ hoặc mấy cháu như thế nào dù bằng thái độ, cử điệu, hay lời nói. Cũng thế, anh Lữ cho đến muôn đời cũng không diễn tả được cho chị hiểu anh ấy thương chị như thế nào bằng bất cứ cách chị Sự cảm nghiệm chỉ có chủ thể cảm được mà thôi nhưng chẳng thể nào diễn tả được. Người cảm nghiệm thì nói ra không được và có nói ra cũng chẳng diễn tả được gì. Như vậy, sao tôi có thể trả lời câu hỏi của chị, sao có thể minh chứng bằng sự kiện cụ thể mắt thấy tai nghe kết quả của khao khát tìm kiếm và điểm nào mình đã đạt đến... Thôi thì đành chấp nhận không trả lời được là đúng nhất... bởi vì nơi hành trình thăng tiến tâm linh, con người phải tự cảm nghiệm chứ đừng tin bất cứ kinh nghiệm hay lời giảng giải dù hay ho hoặc hợp lý hợp tình đến thế nào chăng nữa của người khác...

- Nhưng em nghĩ, ít nhất cũng có một phần nào kinh nghiệm về hành trình đạt đến cảm nghiệm có thể giãi bày giúp cho những người thực sự khao khát tìm.

Chương 5

Ông thầy nhân điện thoát nạn nhưng ấm ức, tưởng rằng sau những ngày tháng cố moi móc lý lẽ đợi cơ hội bào chữa hầu kiếm lại vị thế cũ hưởng lợi đỡ thân theo ngày tháng tàn phai, nay vừa hý hửng gặp dịp để khua môi múa mỏ, chẳng ngờ quyền năng và kiến thức tồn đọng về truyền thống chất chứa bao năm dài chợt bị cái miệng thằng ranh con ngang bướng, bất chấp thói quen, tập tục, đem lý luận phá cho bay tùng. Hỏng cơ hội này là bể tất cả vì làm sao còn dám ngẩng mặt nhìn đời, phỏng còn ai thèm đến nhà năn nỉ xin thầy chữa bệnh? Ôi, đâu còn có thể móc tiền bá tánh chẳng cần công sức!... Nỗi cô độc của những ngày qua như đe dọa và ép buộc thầy phải gắng sức chụp cơ hội còn nước còn tát. Ngụm bia ngon ngọt trôi khỏi cổ sao trở thành đắng ngắt như muốn làm tắc họng. Biết sao hơn, ăn thì đang có nhưng nói chẳng thông; nói không thông lúc này sẽ biến cuộc đời từ nay mắc nghẹn chỉ còn chờ thời điểm ra đi làm bạn cùng giun dế mới có thể tránh được mặt người. Phải rán sức vươn lên vì đàng nào mình cũng đã lỡ sa cơ, có thất bại cũng chẳng tệ hơn được, thầy nhân điện tự an ủi. Tuy thế, con ranh cái không hiểu lâu nay học được ở đâu mà nơi đông đảo dân tứ chiếng lại dám chõ cái miệng vào. Nó ra bộ ngu ngơ hỏi nhưng ý tứ cay độc cho rằng truyền thống là thứ xăng chỉ có thể đổ vào xe cũ. Hừ, nói như vậy tức là nó ám chỉ mình hủ lậu... Cái thằng chồng nó lại giả tỉnh giả say mượn miếng bia dằn mặt, "Chẳng còn gầm chạn mà chui." Nó dám đía ông; nó dám cho rằng mình chỉ nên trốn chui trốn nhủi... thầy nhân điện cảm thấy nỗi cay đắng ứ lên, nhưng cố ẩn nhẫn đợi dịp... Kinh nghiệm cuộc đời năm chìm bảy nổi đã đủ minh chứng "một câu nhịn là chín câu lành," thầy đành rán nhịn chờ đòn... Cũng may, nhóm thanh niên xồn xồn khi rượu say đấu lý thì chỉ biết đến lý không cần nghĩ tới hậu quả, Chỉnh nhào vô lên tiếng:

- Trai năm thê bẩy thiếp cũng có cái lý của nó. Ngày xưa, dân ta sống trong xã hội nông nghiệp cần người làm mà đàn bà chỉ có thể đẻ nhiều nhất là một lần mỗi năm trong khi đàn ông sản xuất lúc nào cũng được. Vả lại, với chế độ phụ hệ, người đàn ông nào không có con trai nối dõi sẽ bị coi là thất đức và bất hiếu, bia miệng cho mọi người phỉ nhổ mang tai tiếng dòng họ. Qúi anh chị thử đặt mình vào địa vị của người đàn ông thời đó xem phải thế nào. Một đàng vừa có con nối dõi lưu truyền dòng họ, một đàng có thêm người canh tác, và đàng khác lại có cả gái tơ ôm ấp, thật là được cả chì lẫn chài, nhất cử lưỡng tiện. Tôi tiếc mình đã sinh ra quá muộn, chứ nếu không, lúc này tôi cũng con đàn cháu đống, đang là thằng như tôi đương nhiên trở thành ông nội, ông ngoại, và nếu sinh ra sớm hơn nữa, có thể được gọi bằng ông cố nội không chừng...

- Giống như chó nhảy bàn độc, ha, ha, hạ Một người khác chêm vô.

Chẳng hiểu Chỉnh có ý tứ gì khi nói hay không nhưng ông thầy nhân điện thì cảm thấy cay cú thấm thía. Mẹ thằng này, ông thầm nghĩ, nó dám nói xéo mình, "Đang là thằng đương nhiên trở thành ông nội, ông ngoại." Thế ra nó dám ngạo mạn cho rằng mình đang là thứ bố cu mẹ đĩ dám tự nhận là thầy nhân điện. Hừ, nhưng nó cũng nói lên điểm lợi cho mình vì thời đó phải có con trai nối dõi nên năm thê bảy thiếp là chuyện thường. Vua có cả ngàn cung nữ nào ai có quyền cấm, ai dám bình phẩm là sai, là cổ hủ mà vua cũng chỉ là người như mình, cũng hai chân, hai tay chứ đâu ba đầu sáu tay gì. Đành gồng mình rán nhào vô gỡ gạc vì chưa chắc đã có đứa nào dám lên tiếng bênh vực truyền thống như thằng này bởi chúng bị Âu Mỹ nhồi sọ hết rồi. Hơn nữa, thời buổi này mấy con nhãi động cỡn đòi nam nữ bình quyền thì thằng chồng nào dám ho he... Nghĩ vậy, thầy nhân điện lên tiếng,

- Anh Chỉnh nói đúng. Có sống vào thời đó mới hiểu được giá trị của thời đó chứ không phải những gì không giống mình là sai, là đồi trụy. Nếu so sánh xã hội thời đó và bây giờ, ngày xưa người ta sống có thứ tự lớp lang hơn ở đây lúc này như các anh chị thấy. Đời thuở nào bố gọi con là "giu," con cũng gọi bố là giu; cháu gọi ông là giu và ông cũng gọi cháu là giu, như vậy hóa ra cha con, ông cháu, thằng nào cũng là thằng chẳng khác gì cá mè một lứa. Nói xin lỗi các anh chị, ông bà mình nói, "Hòn cứt còn có đầu có đuôi" đâu phải con cũng như bố, ông cũng như cháu. Tổ tiên đẻ ra mình chứ mình làm sao đẻ ra tổ tiên. Tôi thấy thời đại này hàng văn ăn ngược thế nên ai cũng như ai; ai cũng chỉ thấy mình là cái rốn của vũ trụ nên sinh lắm rắc rối lộn xộn cha cũng như con, vợ trèo lên cổ chồng mà ngồi...

Thầy nhân điện thao thao bất tuyệt nghe cũng phần nào có lý nhưng mang đầy vẻ châm chọc nhóm thanh niên mong gỡ gạc vị thế cho mình. Kính hiểu nên thương hại cho con người dẫu đã có chút tuổi trời mà không biết sao để thoát ra khỏi những đam mê mộng tưởng. Nói rằng mộng tưởng cũng không đúng vì tiếng Anh tiếng u không biết cộng thêm sức yếu do ảnh hưởng năm tháng chồng chất sao có sức lực làm những công việc lam lũ. Hơn nữa, xưa nay quen sống vô kỷ cương mà bây giờ đi làm dưới quyền mấy tên cai nhãi ranh người Mỹ thì sao chịu nổi; vả lại, lối ăn nói thất học của mấy tên cai dẫu mắt xanh nhưng dốt nát nơi hãng tôm, hãng sò, làm sao tuýp người như lão chịu cho thấu. Rõ khổ, khi còn ở Việt Nam thì ao ước sang được tới thiên đàng Mỹ quốc, đến lúc ông thầy đối diện với thực tại đã bao ngày mơ tưởng mới ngỡ ngàng đau lòng tiếc xót thời đã quạ Nơi đất nước văn minh này đầy rẫy những sự đối nghịch, kẻ ăn trắng mặc trơn, xách cái cặp ngồi văn phòng chỉ tay năm ngón thì lương cao; người làm quần quật đày trời lại chẳng đủ chi phí tiền điện tiền nhà... rõ là "Không làm thì đói mà làm thì ói xương hom." Kính nghĩ, thà rằng ông thầy nhân điện nhận thức được thân phận, rán chấp nhận đi làm hãng tôm, hãng sò, dẫu chẳng kiếm được nhiều, ít nhất cũng đủ tiền chi phí ra vô như mụ vợ thì cả hai người gom lại cuộc sống cũng tương đối thoải mái... Đàng này, đi làm như mụ vợ thì sợ nó khinh, nó coi thường. Đàn ông gì mà rúc không qua váy vơ... lời nói cổ hủ xa xưa đã đẩy kẻ thần phục nó tới chốn sống dở chết dở cũng chỉ vì cái danh dự giả tạo như kết quả đày ải của những quan niệm lỗi thời chỉ có thể áp dụng cho những kẻ quyền hành, tiền bạc hái như nước. Lên án ông ta không hợp thời thì nào có thời đâu mà hợp; chê trách ông không chịu thức tỉnh cũng chẳng giúp ích gì vì kẻ còn đang trong bến mê cứ tưởng mình tỉnh táo. Thôi thì xoa dịu ông thầy đôi chút tạm gọi tỏ lòng tôn trọng tuổi trời, Kính lên tiếng tiếp nối,

- Trung thực mà xét, chúng ta không thể so sánh hai nền văn hóa để cho rằng cái này hơn, cái kia kém. Mỗi nền văn hóa đều mang tính chất toàn diện tự nó. Dĩ nhiên, trong những điều phù hợp đem lợi ích cho con người của một nền văn hóa đã tự ẩn chứa những điều không hay và đồng thời trong những điều chẳng nên cũng có lý riêng của nó tùy theo những điều kiện thời gian và không gian hòa hợp với ý thức con người. Tất nhiên, quan niệm hướng dẫn hành động tạo thành sự kiện mà thường thì sự áp dụng quan niệm hay bị lạm dụng tiến dần đến mức thái quá do đó chính những điều tốt lành cho người này, giới này, lại nhiều khi trở nên ách khốn khổ cho người khác, giới khác. Chẳng hạn, thử đặt vấn đề, tại sao đàn ông chúng ta thích uống bia, uống rượu, trong khi tủ lạnh có thừa bia cho mọi người uống mà các chị lại cứ uống nước ngọt. Xét thế, bia rượu chỉ có giá trị với phái nam chúng ta hoặc là những người biết uống mà lại mang hại tới các chị. Tương tự như vậy, những nền văn hóa xa xưa đem ích lợi cho con người thời ấy ngược lại không hợp với chúng ta bây giờ. Thôi thì hãy để cho kẻ sống ăn thịt uống bia và người chết hưởng hơi nhang, tiền giấy, kẻ nào phận nấy thì mới có thể nói chuyện chứ nếu đem quần áo sang trọng của người mặc cho khỉ thì chỉ làm khốn cho nó và bị nó xé tung ra thôi... Hãy để khỉ sống trần truồng và đã là người cần phải mặc áo quần, nếu không sẽ bị gọi là thứ khỉ.

- Thằng này láu cá, Chỉnh đế vô, nếu nói trần truồng là thứ khỉ vậy thì bất cứ ai cũng vừa là thứ người vừa là thứ khỉ bởi cũng có lúc trần truồng chứ.

- Chính anh mới láu cá, Thanh lên tiếng, anh vơ đũa cả nắm rồi bươi móc lộn xộn. Anh phải biết thứ khỉ không bao giờ mặc quần áo và con người lúc làm trò khỉ mới không mặc quần áo... Anh thích cổ võ trò khỉ do đó chỉ nên nhận anh là khỉ...

- Chẳng có luật lệ nào bắt phải mặc quần áo, mà đã không có luật tất nhiên không phải giữ. Ra đường làm trò khỉ mới bị kết án làm gương mù gương xấu chứ ở lỗ cùng lắm thì vào nhà thương điên, làm sao biến thành khỉ mà nói là thứ khỉ.

- Vậy tại sao phải vào nhà thương điên? Một người bỡn cợt hỏi.

- Vì không biết mình là người mà là thứ khỉ. Thanh cướp lời.

Thế là toáng lên, kẻ pha câu này người diễu điều khác. Thanh niên họ vậy, làm việc ở công sở quá căng thẳng đầu óc hoặc cực nhọc thân xác ngày này qua ngày khác, hàng tuần họ họp nhau lại ăn uống thay phiên từng nhà hầu có những giây phút thoải mái thay vì đàn đúm gia đình chạy trốn khung cảnh nhà cửa quá quen thuộc đến độ nhàm chán như dân bản xứ. Nơi đất Mỹ, cuộc sống càng văn minh bao nhiêu, càng hưởng tiện nghi đầy đủ bao nhiêu, con người càng phải còng lưng hay vắt đầu óc làm việc bấy nhiêu. Dĩ nhiên, nếu công việc mình làm không đem lại mối lợi cho chủ hay cho công ty nào ai thuệ Hơn nữa, một người dân sống trên đất Mỹ được bảo vệ và đồng thời bị tròng trên cổ hơn một ngàn bẩy trăm điều luật. Nào luật liên bang, luật tiểu bang, luật vùng, luật thành phố, luật ngành nghề, di chuyển... ấy là chưa tính đến luật tôn giáo. Những luật lệ này được củng cố tối đa và nhờ phương tiện truyền thông tiện nghi những kẻ phạm luật bị công quyền bắt giữ cấp thời. Bởi vậy, ngay cả những thành phần cô hồn nghênh ngang, nếu lỡ đứng lang thang nơi hàng quán dù chỉ bị đe dọa gọi cảnh sát cũng vội lỉnh đi nơi khác. Thế nên, càng tự do càng phải tuân giữ nhiều luật, nếu không, nơi đất nước hợp chủng tứ chiếng này lấy gì để bảo vệ con người và có thể chỉ một sớm một chiều cả thành phố văn minh hiện đại sẽ tan tành thành hoang địa.

Nơi góc chiếc bàn dài, anh bạn ngồi bên Kính mới mua được căn nhà đang trù tính cắt mấy cây lớn ở sân đàng trước cho thoáng. Anh vượt biên từ năm 1989 nhưng mãi giữa năm 1991 mới được đặt chân tới Mỹ. Sống trong cực khổ đã quen nên từ ngày tới đất mới, vợ chồng, con cái tổng cộng sáu người ra công sức đập sò, bóc tôm. Sau mấy năm dành dụm, gia đình anh đã có được gần đủ tiền mua căn nhà bốn phòng khiêm tốn tọa lạc trên một con đường nhỏ yên tĩnh tách rời khỏi cảnh náo nhiệt của phố thị. Mọi sự kể như ổn định vì số tiền còn thiếu đã vay chạy từ mấy người bà con và một số bạn bè mới quen, kẻ đôi trăm, người dăm ba ngàn, nên vấn đề còn lại chỉ lo làm ăn dành tiền trả nợ. Tuy nhiên, mấy cây sồi ngay trước cửa nhà che hết ánh nắng tạo cảm giác bị áp lực nặng nề của không khí do bóng mát những tàn cây chen chúc nhất là vào những ngày mây giăng kín cả bầu trời. Anh hỏi mượn cưa máy vì chỉ cần hạ một cây sồi to cho căn nhà có đủ khoảng thở chứ mua cưa mà chẳng dùng chi sau này sẽ rỉ sét phí đi.

- Không được đâu, anh phải xin phép. Nhưng tôi biết chắc chắn họ sẽ không cho vì nếu cho phép đã khối người cắt cây.

- Tại sao không được? Cây ở đất của tôi mà phải xin phép là thế nào? Chẳng lẽ muốn đi ngủ, muốn ăn, muốn đi làm tôi cũng phải có giấy phép; vậy đã bao lâu nay tôi có cần xin phép đâu sao chẳng việc gì.

- Cứ thử cắt rồi sẽ biết, sợ cây chưa kịp đổ thì đã bị ngưng lại và ít nhất một ngàn đồng tiền phạt.

- Ông anh tôi ở Hattiesburg ủi hai mẫu đất làm nhà nào phải xin phép ai đâu mà cũng có ma nào đoái hoài dòm ngó gì để phạt với cấm chi!

- Ở Hattiesburg không có luật cấm cắt những cây sồi lớn nhưng ở đây có luật đó. Lý do vì nơi đây thuộc về vùng biển hay có bão nên những cây sồi lớn phải giữ lại để cản gió. Các loại cây khác tha hồ cho anh cắt vì không có luật.

Và thế là họ trở lại vấn đề có luật lệ thì có sự phạm luật và tính cách tương đối của sự kiện cũng như luân lý... Bàn qua tán lại, Chỉnh chen miệng phá ngang,

- Theo tôi, nếu không muốn bị lề luật ảnh hưởng thì chỉ còn cách lên rừng thẳm hoặc chỗ nào không có luật mà sống. Khổ nỗi, nếu không có điều cấm kỵ, nếu không có sự khó khăn cuộc đời ràng buộc làm sao chúng ta có thể thưởng thức niềm vui của sự tự do, làm sao biết cảm nghĩ thoải mái là gì?

- Tại sao phải có những sự khó khăn mới biết niềm vui tự dỏ Thanh đặt câu hỏi. Chẳng hiểu nguyên cớ bắt nguồn từ đâu, cứ mỗi lần Chỉnh lên tiếng là Thanh nhào vô đấu ngược lại. Mặc dầu hai người không ai tỏ vẻ gì đố kỵ mà thường chỉ có vẻ muốn phá nhau cho vui... Và nếu anh nói như vậy thì chẳng lẽ những người sống tự do không biết thưởng thức tự do là gì? Không biết tự do là gì sao có thể sống tự do?

- Nói như thế chú mày đã chẳng hiểu tự do là gì thì làm sao nói đến niềm vui tự dọ Vậy thử trình bày quan niệm của chú mày về tự do xem nó là thứ gì mà dám chen vào nói nhăng nói cuội. Nếu chú mày cho rằng tự do là muốn làm gì thì làm thì cho đến muôn đời cũng chẳng bao giờ có thứ tự do như vậy, hoặc muốn nghĩ gì thì nghĩ, chú mày đã có tự do tư tưởng đâu mà đòi nghĩ. Rõ không cho nói thì khóc, cho nói thì mếu... Chỉnh trả lời.

- Anh giỏi hãy chứng minh cái lý luận họ hàng nhà khỉ của anh trước...

- Banh tai ra mà nghe, tự do không phải là muốn làm gì thì làm như loài khỉ, loài thú trong rừng, muốn leo cây nào thì leo, muốn đào hang ở đâu thì đào. Đó là thứ tự do của loài thú chứ không phải loài người. Tự do của loài người nằm trong khuôn khổ rõ ràng. Chẳng hạn, chú mày lái xe đi đâu tùy ý nhưng phải giữ luật giao thông. Tự do lái xe trong luật lệ, nếu lái xe tự do giống luật rừng thì chỉ xuống lỗ làm bạn với giun dế. Thử mở mắt ra mà nhìn, con cá có tự do bơi lội nhưng chỉ ở dưới nước chứ không có tự do bơi trong không khí. Nói đến tự do là nói đến giới hạn không thể tách rời. Mà con người, ai ai cũng chỉ kêu ca về những điều lệ cấm chế chứ có ai nói lên được câu nào chứng tỏ đang được hưởng những sự tốt lành bao giờ đâu. Thử hỏi tất cả chúng ta đây đã ai bao giờ cảm thấy sung sướng vì có không khí để thở, đã ai cảm ơn con tim nơi lồng ngực mình đêm ngày đập, mà có chăng chỉ chê trách nhà này hôi, chỗ nọ thối hoặc thích uống bia uống rượu như tụi mình đang nhậu gây nguy hại cho trái tim. Không cảm thấy vui vì có không khí để thở, không nhận ra từng nhịp đập của con tim mình chất chứa sự khôn ngoan lớn lao không sao hiểu nổi thì không biết thưởng thức tự do là cái chắc. Chú mày đã bao giờ nghe thấy câu, "Tự do là loại đau khổ chẳng khác gì với loại đau khổ của sự giam cầm" chưa? Tự do sinh hoạt trong cuộc sống đã như thế, nói chi tới tự do tư tưởng...

- Đồng ý với anh con người chỉ có tự do giới hạn vì cuộc sống phức tạp nhưng chính cuộc sống là phương tiện diễn tả niềm vui tự dọ Nếu không, sao anh có cơ hội nói lên biết hay không biết thưởng thức tự dọ Nếu anh đã không nhận ra tự do sao có thể nói đến tự do...

- Nghe hai anh nói tôi càng không thể nào có được một định nghĩa rõ ràng của hai chữ tự dọ Nếu nói rằng tự do có giới hạn thì cần gì phải nói đến tự do vì đã có giới hạn rõ ràng. Thay vì nói con cá tự do bơi lội dưới nước thì cần gì phải nói đến tự do, cứ nói cá bơi trong nước nào có thiếu sót gì đâu mà phải vẽ rắn thêm chân. Nếu nói tự do lái xe theo luật lệ thì đã phải theo luật lệ còn gì mà phải nói đến tự dọ Kính lên tiếng. Tự do thuộc về ý thức hệ tương đối chứ không thể đem ra phân tách đúng hay sai, hợp hay không hợp, tự do hay giới hạn. Chính ngay tư tưởng mình, nói như anh Chỉnh, cũng không hoàn toàn tự do...

- Hãy nghe anh Kính nói ngang, Thanh chêm vô, đỡ đòn cho anh Chỉnh.

Vấn đề được đặt ra là nếu mình chưa thực sự có tự do tư tưởng thì chẳng có gì đáng nói để bàn luận. Thực ra, lề luật, nguyên tắc, được đặt ra để giới hạn những người thiếu ý thức. Những người ý thức mới dám suy nghĩ và nhận định; họ sống vượt khỏi những ham muốn bình thường dù thuộc về truyền thống hay giáo điều. Tuy nhiên, ý thức tự do trong lãnh vực tư tưởng còn vượt xa hơn mà không có ý thức này, tất cả những gì được gọi là tự do chỉ là mộng tưởng. Thí dụ, ai không ngưỡng mộ những điều tốt lành, và ai không khinh chê những điều ác hại. Tuy nhiên, tự hỏi lòng mình tại sao ngưỡng mộ những điều tốt lành? Vì điều đó lợi cho mình hay giúp mình an tâm không bị thiệt hại hoặc ảnh hưởng? Vì mình chưa tốt lành đủ nên muốn trở nên tốt? Tại sao khinh chê những điều ác hại? Phỏng chúng ta e nó ảnh hưởng hoặc gây điều bất lợi đến mình? Hay điều đó là điều mình đang muốn tránh? Đây là tâm bịnh của con người, đứng vào phe này và chống lại phe kia; phe nào mình ưa thích thì theo, phe nào không thích thì chống. Nghĩ thế, Kính tiếp,

- Pascal có nói, "Kẻ thích làm thánh lại biến thành thú." Tận lực ép mình ép xác để trở nên thánh tức là bắt mình trở nên những gì không phải là mình; điều này chỉ là chạy theo thú tính. Thế nên, nếu không sống vượt lên khỏi các giá trị xã hội dù là luân lý hay lề luật thì dù có phá đổ được tất cả những giá trị hiện thời con người lại trở thành nô lệ cho những khuôn khổ tư tưởng khác mà thôi. Tự do tư tưởng là không lệ thuộc bất cứ hệ thống tư tưởng cố định nào cả vì bất cứ gì, chủ thuyết nào, dù được cho là toàn hảo đến mấy cũng có sự quá lố của nó để trở nên thú tính mà chống lại thú tính thì vẫn thuộc về thú tính.

- Anh nói sống vượt khỏi những ham muốn bình thường là thế nào? Là tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi những ý thích bình thường, có thức ăn ngon đem bỏ, dùng thứ mình không ưa? Hoặc nếu thích uống bia thì cứ nước lã mà uống và không thích rượu lại càng ép mình để chịu khổ? Và rồi thế nào là sống vượt lên khỏi các giá trị xã hội?

- Trước hết, đừng vịn vào những ngôn từ tôi nói thì tôi mới trả lời được. Vậy nếu vận tốc giới hạn trên xa lộ là bẩy mươi dặm một giờ, muốn không phạm luật giao thông thì lái xe như thế nào?

- Tất nhiên không lái xe quá vận tốc bẩy chục dậm.

- Vậy nghĩa là sao?

- Không phạm luật.

- Điều này có nghĩa không cho luật chi phối mình phải không. Thế nên sống vượt khỏi luật lệ có nghĩa không phạm vào những gì luật lệ cấm kỵ. Sống vượt khỏi sự thiêu đốt của lửa thì đừng đụng vào lửa kẻo mà bị nó đốt cháy. Tương tự với các giá trị xã hội, không cho chúng ảnh hưởng mình. Mình không chạy theo nó dẫu mình sống như mọi người. Mặc quần áo như mọi người vì mang thân xác người nhưng những giá trị về quần áo không chi phối mình, lòng mình khác hẳn về quan niệm giá trị.

- Bởi vậy, Kính tiếp, thấy những điều không ra gì mà chê, để lòng xao xuyến muốn cổ võ điều mình thích thì vẫn còn lệ thuộc thị dục, vẫn còn bị ảnh hưởng bởi giá trị xã hội vì một sự việc, sự kiện, xảy ra trước khi có sự khen chê, ưa thích. Khen chê có thay đổi gì không mà chỉ là sự nô lệ cho ý thích. Phỏng mình được sinh ra để làm gì? Hùa theo kẻ khác, thích cái này không thích cái kia, đặt mình trong một khuôn mẫu giới hạn để cho rằng cái này đúng, cái kia sai? Lấy gì làm căn bản đo lường đúng sai nếu không dựa vào giá trị ước định xã hội? Cho rằng một sự kiện đúng như vậy phải dựa trên căn bản sai mới nói là nó đúng. Thế mình được sinh ra đúng hay sai? Mình đâu được sinh ra vì ý thích này, ước muốn kia mà chỉ là chính mình, không phải cho bất cứ gì. Thế nên, điều được mọi người cho là dở vẫn có nguyên nhân tạo thành nó mà mình chưa biết hay không biết. Hùa theo điều kẻ khác cho là hay tất nhiên chạy theo thị dục của kẻ khác. Khinh chê điều mọi người cho là dở mà không tìm hiểu cho rõ ràng cũng còn nô lệ theo thị hiếu người đời, theo giá trị xã hội. Đúng sai, phải trái, hay dở... chỉ là những ước định giá trị xã hội lệ thuộc thị dục. Cũng một miếng ăn, nuốt xuống dạ dày, ai không cho rằng tốt lành; tuy nhiên, thay vì nuốt lại nhổ ra một chiếc đĩa sạch sẽ, nào ai dám bỏ nó vào miệng trở lại vì cho rằng nó dợ Tốt lành, dơ bẩn cũng là miếng ăn đã nhai sao mới đấy đã thấy đối nghịch?

- Nhưng miếng ăn là vật chất và chính mình nhận thấy là dơ! Vậy không cho nó là dơ thì nó không dơ sao; tương tự như thế, cho rằng ăn cướp là tốt lành thì cứ đi ăn cướp sao? Thanh lè nhè chen giọng.

- Tôi muốn nói đến nhận thức bị lệ thuộc lối nhìn bình thường của con người; điều này chứng tỏ chúng ta không có được sự tự do trong tư tưởng bởi được nhồi sọ, bởi học theo, bởi không dám đặt vấn đề nhận định mà ngược lại chấp nhận những gì được mọi người chấp nhận chứ không nhận định kỹ sự việc, không dám trở nên chính mình. Có rất nhiều vấn đề chúng ta chưa biết, chỉ nghe nói đã vội cho rằng thế nọ, thế kia... Chúng ta đã tự bịt kín nhận thức của mình bằng những giá trị người khác định sẵn.

- Mình sống với người mà không cùng mẫu mực như người sẽ bị đào thải, bị đẩy ra khỏi xã hội và bị mọi người xa lánh...

Có phải như vậy mình đã cố trở nên không phải chính mình mà muốn trở nên giống kẻ khác không? Kính thầm nghĩ. Ý nghĩa của câu "Kẻ thích làm thánh lại biến thành thú" là như thế đó. Mình đã không dám sống cho mình mà sống theo thú tính, nói cách khác, sống theo thị dục xã hội, không dám vượt lên. Tự do tư tưởng đồng nghĩa với sự trở nên chính mình, tức là vượt khỏi sự thích hoặc không thích bất cứ gì, không khen bất cứ gì mà cũng chẳng chê bất cứ gì bởi mỗi sự kiện có lý riêng của nó. Cố gắng làm điều lành để trừ khử điều dữ thì chính ước muốn trừ khử đã là thị dục có thể chỉ làm tăng sự dữ lên mà thôi. Bởi vậy, trở nên chính mình hay có tự do tư tưởng không bị bất cứ gì chi phối vì còn lệ thuộc vẫn chưa có tự do, và còn chọn lựa tức là còn hạn chế tư tưởng. Khi mê đắm điều gì thì tất nhiên sinh lòng ưa hay ghét mà kẻ thực sự có tự do tư tưởng không bị ghét hoặc thương ảnh hưởng. Chẳng những thế, thực sự là chính mình, thực sự có tự do tư tưởng cần phải được độc lập khỏi tất cả quan niệm, nhận thức, suy tư, học thức, kinh nghiệm bản thân nơi quá khứ. Qúa khứ không bao giờ trở lại; quá khứ là những gì đã chết, không thể thay đổi. Thế nên, nếu dựa trên những gì không còn sinh động làm căn bản cho những dữ kiện luôn luôn biến đổi thì vẫn còn là nô lệ cho sự thị phi quá khứ. Trở nên chính mình bây giờ và lúc này tức là chết cho quá khứ, nói theo Phúc Âm, "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết," hoặc là "Chết cho chính mình." Dẫu những điều xưa nay mình đã được giáo dục, học hỏi, hoặc cảm nghiệm cũng đều cần được đưa lên bàn cân tránh lệ thuộc vì khi quá khứ còn có thể ảnh hưởng sự nhận định, những gì mới lạ của sự kiện sẽ không được nhận biết, không được phát hiện. Đám mây quá khứ che lấp, ngăn chặn nhận thức, và như vậy tự do tư tưởng đã bị bao bọc trong khuôn khổ nào đó. Nghĩ thì nhiều nhưng Kính chỉ nói lên một phần tư tưởng của mình:

- Tự do tư tưởng thực sự chính là trạng thái giải thoát khỏi những ước định do con người tạo ra để có cái nhìn độc lập, trung thực mà cảm nghiệm cuộc sống. Tự do này đối nghịch bất cứ gì đòi một chỗ đứng, một căn bản được xác định. Tự do tư tưởng không thuộc về phe nào hoặc đúng sai, phải trái, hay dở, và như thế tự do tư tưởng không tùy thuộc một khuôn mẫu xã hội nào vì bất cứ khuôn mẫu nào cũng làm mù lòa nhận thức. Chính nhờ có tự do tư tưởng, nhận thức vượt lên trên lối nhìn bình thường thế nhân, lòng sẽ không bị ảnh hưởng bởi những giá trị xã hội nên không giao động, không thể bị lệ thuộc mà hoàn toàn độc lập. Tự do tư tưởng giải thoát con người khỏi thành kiến, không bị lệ thuộc vào bất cứ giáo điều nào hoặc sự ràng buộc nào.

- Nói như vậy, người thực sự có tự do tư tưởng không giống ai, không đồng thanh và đồng khí với bất cứ ai. Phỏng người thực sự có tự do tư tưởng tất nhiên tuyệt đối cô độc... chị Lữ đặt vấn đề.

- Chị nói đúng; bởi vậy người ta chỉ nói đến tự do nhưng thực ra chẳng ai có thể nói lên được tự do theo họ hiểu là gì.

- Tại sao lại không nói được sự hiểu biết tự do của mình là gì? Chỉnh chen lời.

- Tôi đã biết ngay từ đầu dù có nói cũng chẳng nói được gì bởi muốn hiểu tự do là gì phải thực sự có được tự do tư tưởng, phải chấp nhận tuyệt đối cô độc. Chỉ những kẻ không lệ thuộc vào bất cứ gì mới cảm nghiệm được thế nào là tự dọ Mà đã là cảm nghiệm, làm sao diễn tả, làm sao nói cho người khác hiểu. Anh đã không thể nào nói cho tôi hiểu được anh thương vợ con anh như thế nào thì cũng không thể nào nói lên được tự do là gì bởi có nói cũng như không... Đó cũng là ý nghĩa câu nói càng tìm cách định nghĩa tự do chỉ càng giới hạn cuộc sống. Tự do là ý thức sống chứ không phải những gì nên hay không nên, cái gì nói được hay không, hoặc những gì được phép và không được phép...

Chương 6

Hêllô, Kính đây, tôi đang nghe.

- Chào anh, ngày mai thứ bẩy anh có bận chuyện gì không?

- Cũng bận và cũng không...

- Vậy thì ghé nhà em lúc hai giờ chiều ăn cơm... Mà anh thích uống rượu hay bia?

- Ah! Phải nói là thích đủ thứ...

- Vẫn có thứ hợp khẩu hơn thì gọi là thích...

- Kẻ ăn chực không có quyền đòi hỏi nên đành chấp nhận có còn hơn không dẫu chưa chắc có đã hơn không...

- Vậy em quyết định cho anh và nhà em uống rượu vì cả hai thứ đều sẵn có nhưng chỉ có một thứ bia và mấy chai rượu khác nhau.

- Thế tại sao chị đặt vấn đề bia hay rượu?

- Vì tùy thức uống mà nấu món ăn. Em nghe mấy người hay nhậu nói rượu uống với gỏi cá, nem, tái, tiết canh phê hơn... Còn bia thì với những món khác nhẹ hơn nên muốn hỏi anh thích uống thứ nào để chuẩn bị đồ ăn.

- Phỏng có chuyện gì mà quan trọng vậy? Và nhiều người tham dự không?

- Không có ai hết, chỉ mình anh và vợ chồng em thôi.

- Lý do?

- Em muốn có nhiều giờ nói chuyện vì một vài vấn đề cần phải hỏi anh.

- À, về lòng tin phải không?

- Anh đoán giỏi. Anh làm ơn đoán thêm tên của một chai rượu trong năm chai xem có đúng không...

- Henessey... Tôi đã nhìn thấy lâu rồi để trên nóc tủ lạnh cùng với mấy chai khác như Napoléon, Remy Martin... Mà chị muốn tôi đoán để làm gì, trúng hay trật có gì khác đâu.

- Lẽ thường, những gì anh để ý hơn sẽ được nói đến trước. Ngày mai anh sẽ khui chai Henessey.

- Chị muốn nói rằng khi người ta là nô lệ hoặc để ý đến chuyện gì thì sẽ nghĩ đến nó trước...

- Có thể đúng và cũng có thể sai.

- Lý do?

- Tại sao anh hỏi lý dọ Lý do thuộc về quá khứ, đã chết thì nói làm chị Ý thích lại là nô lệ của thị dục mà thị dục có thể đúng và có thể sai. Em chỉ lặp lại lời anh nói tối hôm nọ nhậu ở nhà em...

- Giỏi, thôi thì hãy coi uống rượu cũng như không để khỏi phải chọn lựa...

- Có khác chứ sao cũng như không...

- Chị bị lừa rồi, uống say đến độ không biết gì nữa thì chẳng phải cũng như không à? Có lẽ còn tệ hơn không uống...

- Đồng ý với anh. Có uống đến mấy thì lúc tỉnh cũng như chưa uống.

- Có lẽ từ nay chị trở nên cô độc...

- Chưa đâu, muốn cô độc lại phải bước qua cầu chọn lựa mà còn chọn lựa vẫn còn nô lệ ước muốn... Mai anh qua nghen, lúc hai giờ. Em phải đi đón mấy cháu ở trường giáo lý.

- Cảm ơn chị, sẽ gặp anh chị ngày mai.

° ° °

Chiếc bàn kiếng elips đặt ở giữa căn phòng khá rộng được chạy viền quanh ba vách với hai hàng hộc tủ gỗ mộc quang dầu bóng. Một dãy lơ lửng ép sát tường từ góc trần kéo xuống vừa tầm tay với, và cách một khoảng trống, dãy tủ phía dưới tựa chiếc bàn dài áp tường nâng đỡ microway, lò nướng bánh mì... và những dụng cụ lặt vặt cho việc bếp núc. Những cánh cửa hộc tủ bằng gỗ bá hương dường như khuyến khích thực khách thưởng lãm nét đẹp tự nhiên của tạo vật nổi bật giữa màu sơn tường và nền gạch cùng màu trắng. Mặt kiếng dầy của chiếc bàn tự tạo cho mình đường viền xanh trong, chạy vòng quanh chừng như muốn phô bày rõ hơn màu sáng trắng kim loại của chân bàn và khung đỡ phía dưới. Hình ảnh và màu sắc hòa hợp này tạo nơi kẻ thưởng lãm nghệ thuật có cảm nghĩ muốn gom màu khung bàn và những khung ghế cũng màu bạc trắng biến thành con sóng khua động khoảnh mặt bàn tựa làn nước yên lặng trong vắt cho trào ra khỏi viền xanh thành kính cắt. Trên bàn, hai đĩa tiết canh trổ mầu đỏ tươi được phụ họa bởi hai đĩa cải xanh non pha lẫn cải cúc và vài thứ lá thơm kèm hai bên chiếc nồi điện hình vuông, thành cao cỡ ba đốt ngón tay, trong đó đang sùn bọt nóng tỏa mùi vịt ướp chao lan nhẹ như cố cưỡng lại sức hút vũ bão của chiếc quạt hút hơi ẩn trên trần cố gồng mình chu toàn nhiệm vụ chừng e sợ những mùi vị nấu nướng Á Đông ảm vào vách tường, mặt gạch. Màu đỏ tiết canh đối nghịch với màu xanh rau cải vừa đập vào mắt, chợt bị mùi vịt nấu chao khuyến dụ khiến thực khách khó lòng cưỡng lại nỗi ao ước thưởng thức những món ăn đang được phơi bày như thách đố. Chai Henessey dẫu bị nhãn hiệu che khuất khá nhiều cũng cố lộ ra màu cánh gián chất rượu dễ gây cảm hứng lòng người. Khác với những chai rượu nhóm thanh niên hay gọi "bò đi ông" và "thánh mờ mờ" mà mỗi lần nâng ly cùng nhau mở đầu chầu nhậu sẵn sàng đưa chất men thấm nhập cơ thể, miệng hô xin chấp nhận chén đắng cay cuộc đời, Henessey có vỏ thủy tinh trắng trong, có lẽ hãng chế tạo muốn phô bày nét đẹp mầu rượu. Tất cả màu sắc thanh nhẹ hòa cùng mùi thức ăn được hỗ trợ bởi những bộ ba ly, chén, đũa xếp đặt ngay ngắn đợi chờ thực khách gợi Kính cảm nghĩ có chuyện quan trọng đang chờ đón.

Quen sống độc thân, sự ngăn nắp đối với Kính chỉ là điều mơ tưởng. Còn gì ngại ngùng cho bằng sau khi làm xong công việc nào đó dù nhẹ nhàng nhưng cần sự tỉ mỉ hoặc cực nhọc, mệt đến phờ người, mà lại phải thu dọn dụng cụ cất đi cho ngăn nắp trong lúc lon bia và điếu thuốc khuyến khích, đợi chờ. Thôi thì dồn tất cả vào một đống nơi góc nhà để mỗi khi muốn kiếm cứ tới đó mà bới, Kính quyết định! Thoạt đầu, đống dụng cụ được xếp đặt gọn gàng coi tạm ngăn nắp dẫu chẳng có thứ tự nào được đếm xỉa tới, nhưng cứ mỗi lần kiếm chiếc búa, cái kìm, lại phải lục tung mọi thứ lên. Có điều hơi lạ, bất cứ món đồ nào muốn tìm thì hình như nó lại cứ cố ý chui xuống tận đáy đống dụng cụ coi có vẻ gọn gàng ấy sợ rằng được xử dụng lỡ bị mòn thêm chút ít chăng. Đảo lộn lắm cũng chán, tại sao phải vun chồng đống để cái nọ che lấp cái kia khó tìm kiếm, Kính nghĩ. Và từ nhận thức đó, được phụ họa bởi phần nào bản tính thanh niên thà làm việc nặng còn hơn phải tỉ mỉ giải quyết những chuyện cỏn con có việc mà chẳng có tên, những dụng cụ được trãi ra choán hết một phần tư căn phòng khách dọc lối đi. Nhà mướn một phòng không có chỗ chứa đồ lặt vặt nên phòng khách mở thoáng, nối tiếp với phòng ăn trở thành chốn trưng bày đủ mọi dụng cụ cần thiết. Độc thân mà, thế là bàn, ghế salon, ghế dựa, bàn ăn, chẳng nơi nào không được biến thành chỗ treo quần áo. Phải nói là quăng thì đúng hơn bởi vừa tiện tay, vừa đỡ tốn công sức nhất là ngại ngùng nào đứng lên, ngồi xuống cứ như là tập thể thao thẩm mỹ! Hơn nữa, quần áo máng vô lưng ghế tự nói lên chủ chúng mang tính chất nghệ sĩ thế nào ấy. Có lần Kính quyết định quăng quần áo đã mặc vào một góc phòng ngủ cho gọn nhưng vài lần lỡ chưa kịp giặt đồ mà chợt cần đi đây đó trong khi tủ trống trơn sao có thể lôi lại chiếc quần và chiếc áo nơi đống lộn xộn ấy khoác tạm vào người. Thế nên, mặc dầu chiếc phòng khách bất đắc dĩ bị trở nên phòng trưng bày quần áo chưa kịp giặt, nó đã nhiều lần giúp cho chủ thuê giải quyết được những trường hợp cấp bách do tính vô ý không đặt nặng vấn đề ăn mặc. May mắn, sống nơi đất nước quá dư thừa này, mấy bộ đồ vét mua tại chợ Hudson chỉ tốn vài chục bạc cũng đủ che khuất những nếp nhăn không cần thiết của bộ đồ nên đem giặt được tái xử dụng, giúp cho chủ nhân có bộ mã ăn nói tha hồ lịch sự mặc dầu bẩn sạch, mới giặt, hay mặc lại không cần biết. Nào ai đặt vấn đề và có bao giờ dám hỏi quần áo mình đã giặt được bao lâu; ít nhất, mọi người đều biết phép lịch sự tối thiểu vì dẫu cho ai đó có cặp mắt tinh đời để ý đến những chuyện nhỏ nhoi không cần thiết cũng chẳng bao giờ nói. Do đó, đến khi sự thực hành lý thuyết tiện dụng không xếp gọn dụng cụ vặt vãnh cho dễ kiếm thì phòng khách đương nhiên trở nên giống khu bán đồ lạp xoong được phụ thêm phần trưng bày quần áo, muốn đi từ cửa trước tới bếp phải để ý từng bước chẳng khác gì tay võ hiệp xông vào trận đồ thường được diễn tả như một tài nghệ tuyệt vời ở truyện kiếm hiệp. Có lẽ thật tuyệt vời vì bước vào nhà Kính mà vô tình cứ xông xáo như chỗ không người tất nhiên sẽ bị lãnh đủ chẳng thua chi mắc nạn trong trận đồ. Đạp nhằm móc búa đóng đinh, cán búa vùng lên đập cái bốp vô ống quyển. Có điều lạ, không hiểu sao khi dùng búa đóng đanh thì búa nặng mấy cũng có vẻ nhẹ, phải đập đi đập lại nhiều lần đinh mới lụt vào gỗ, thế mà khi vô tình chỉ đạp nhẹ bởi không chủ ý, sao cán búa quất vào xương mạnh quá sức! Lẽ thường, đau bực cả người, cũng may, ấy chỉ là cán búa.

Sự ngăn nắp của nhà bếp, bàn ăn trang nhã, gợi nơi Kính ý nghĩ về công sức để dọn dẹp nhà cửa cho gọn gàng... Có lẽ vì sự ngại ngùng thu dọn những chuyện lặt vặt, câu hỏi đã bao nhiêu lần chưa giải quyết rõ ràng lại chợt đến, "Mình sống cho mình hay cho căn nhà?" Dẫu nhiều lần tự lý luận để cầu may có thể không bị tính chất lộn xộn thiếu ngăn nắp của căn phòng làm phiền hà, Kính vẫn chẳng bao giờ đạt được kết luận nào tạm ổn. Mình không sống vì căn phòng nhưng căn phòng lộn xộn vẫn ảnh hưởng sự di động hoặc ngay cả lối suy nghĩ, tính toán bởi luôn luôn phải để ý tránh những cử động vô ý. Có thể nó giúp mình luôn luôn tỉnh thức nhận định, âu cũng là cơ hội may mắn dài dẵng... Tuy nhiên, kết quả của lý luận áp dụng thực tế chưa thấy đâu, mà dù cố kiếm những lý lẽ bảo vệ sự ngại ngùng mỗi lần dọn dẹp, căn phòng vẫn từng giây phút kêu gọi chủ thuê tự tập cho mình thói quen ngăn nắp trong khi Kính vẫn hình như cố rán thực hành tính kiên nhẫn chịu đựng chính sự thiếu ngăn nắp của mình. Nhiều lần Kính tự an ủi bằng câu Kinh Thánh: "Tinh thần thì tỉnh táo mà thân xác lại nặng nề." Và rồi, ngày này qua ngày khác, căn phòng liên tục đương đường thách đố trong khi con người không ngừng lần lữa... Phỏng thói quen tốt lành tạo cho mình cuộc sống ngăn nắp hay vì những lộn xộn rắc rối biến mình trở thành nô lệ cho những thói quen tốt lành ngăn nắp? Liệu ý thức giúp con người nhận định đích xác hay cũng góp phần tạo nên sự nô lệ dựa trên căn bản kinh nghiệm quá khứ nào đó để rồi mình ngủ yên trong ấy? Thực tại biến đổi mà sự nhận định dễ thường bị thói quen ảnh hưởng?

- Chào anh Kính, Lữ lên tiếng khi đi từ hành lang hẹp giữa hai dãy phòng ngủ, cảm phiền anh chút vì nhà tôi phải đưa cháu tới trường giáo lý.

- Tôi vừa gặp chị ấy ở cửa nên mới vô được. Tôi đến hơi sớm, còn những mười phút nữa mới tới hai giờ.

- Hay anh và tôi bắt đầu đi thôi, nhà tôi về tới ngay bây giờ...

- Chờ chị ấy cho phải lẽ; vả lại cũng nên để đầu bếp phân định thứ tự ra sao.

- Không sao đâu, gia đình nhà tôi không có phép tắc nào hết. Mời anh, chúng mình bắt đầu; có lẽ vừa khui được chai rượu thì nhà tôi về tới nơi vì có xa chi đâu... Nào, mời anh... Lữ tiến lại bàn ăn đoạn đưa tay chỉ ghế...

- Kỳ này anh có hay phải làm giờ phụ trội không? Kính hỏi.

- Hãng xưởng dạo này quá bận rộn vì hệ thống máy tính trục trặc mất mấy ngày nên công việc dồn đọng. Mỗi ngày tôi phải làm mười tiếng. Mấy tuần trước tôi phải làm thêm ngày thứ bẩy nữa nhưng chịu không nổi. Làm nhiều thì sự tiêu pha tương đối cũng rộng rãi thêm được đôi chút nhưng áp lực công việc quá nặng nề do đó phải kêu hoài cai hãng mới chấp thuận cho nghỉ ngày thứ bẩy... Vừa nói, Lữ vừa mở nút chai Henessey đoạn rót ra hai chiếc ly, một cho mình, một cho Kính... Nhà tôi về tới rồi đó... Nào mời anh, Lữ tiếp.

- Sao hai anh còn chưa bắt đầu?

- Anh Kính nói chờ em về phân định nên chỉ mới khui rượu...

- Vậy chị uống gì mà vẫn còn ly trống?

- Có đây, có đây... Nếu anh không nhắc coi chừng tôi mang tiếng trọng nam khinh đầu bếp... Sáng nay tôi đã phải đích thân tậu chai rượu nhẹ này về để may ra giúp bà xã nóng máy xả cho hăng... Anh Lữ vừa nói vừa tiến tới tủ lạnh lấy chai La Rosé.

- Chuyện gì mà phải bổ túc xăng dầu vậy?

- Không có chi đâu anh Kính. Nhà em nói uống bia uống rượu một mình không hứng thú nên muốn thử đề nghị em tập làm quen với chất men may ra có ngày đủ lượng đối ẩm với anh ấy.

- Đây, lần đầu tiên từ ngày cưới hôm nay anh mời em uống rượu nhẹ tập dần chờ tới khi thằng Ẩn lập gia đình may ra hai vợ chồng già mình có thể cụng ly cho thêm phần long trọng. Nào xin mời anh Kính, chúng ta bắt đầu thôi.

- Mời chị làm dấu, phần phát động dành cho đầu bếp... Kính nói.

- Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần amen. Xin Chúa chúc lành cho chúng con, cho gia đình cũng như tình thân hữu giữa chúng con, và cho những của ăn chúng con sắp lãnh nhận. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con amen...

- Ai đánh tiết canh đây, anh hay chị?

- Nhà em cầm tiết và em pha bổi. Hình như hơi nhạt, anh có cần thêm nước mắm mặn không vì trên bàn chỉ có nước mắm pha.

- Cảm ơn chị, tôi phải thử trước mới biết được. Mỗi lần ăn tiết canh, tôi thường gợi nhớ đến thời kỳ đi làm tẹ Vào ngày Chủ Nhật, tôi đáp xe lam ra chợ Bà Rịa ghé vô quán cháo gọi một chén tiết canh, một tô cháo lòng heo, một cây chả xíu quẩy, một ly rượu. Khi cơ thể thiếu chất bổ dưỡng sao ăn ngon thế mà lúc này muốn chi không được, vậy mà khó kiếm bữa ăn ngon miệng.

- Tại sao anh lại gọi là chén tiết canh? Chị Lữ nghe có vẻ hơi lạ lên tiếng hỏi.

- Ở quán đó họ đánh tiết canh vào từng chén nhỏ cho dễ bán. Ai ăn nhiều kêu thêm. Mỗi chén một đồng, tô cháo lòng hai đồng, ly rượu một đồng.

- Thế rồi ăn làm sao với chén tiết canh?

- Nhà hàng dọn thêm cho mình một chén ăn cơm, đũa, muỗm, đã có sẵn trên bàn, một đĩa nhỏ vài loại lá thơm, hai miếng chanh, vài trái ớt hiểm. Bỏ mấy lá thơm vào chén ăn, xúc muỗng tiết canh để chồng lên đoạn thêm vài giọt chanh, nước mắm, chiêu một ngụm rượu và đưa caỵ Nếu muốn cho mùi vị đậm đà hơn thì kèm theo trái ớt hiểm...

- Cay thế sao mà ăn?

- Khi làm những công việc nặng nhọc nhất là phải thức đêm nhiều, tự nhiên người ta thèm uống rượu và ăn ớt. Hình như cơ thể tự nó khuyến khích tỳ vị ưa thích những gì cần thiết qua việc ăn uống. Những ngày ấy, tôi ăn ớt không thấy cay bao nhiêu. Nhất là thời kỳ sống ở vùng kinh tế mới, ăn uống thì nào có gì đâu, hôm nào may mắn lắm mới có gạo nấu cơm, thức ăn gồm một chén muối xả và một chén ớt hiểm. Trước khi và miếng cơm có chút muối xả cho đặm miệng đã phải nhai trái ớt, vì không vậy, ăn chẳng thấy ngon. Có lẽ bởi lạ nước nên cơ thể cần ớt chống bệnh tật nơi đất mới chăng...

...

- Anh muốn đổi rượu chát hay vẫn thứ rượu đó? Chị Lữ hỏi lúc bữa ăn gần tàn.

- Cảm ơn chị, để tôi dùng thứ này vì uống pha thứ khác tôi sẽ bị nhức đầu...

- Vậy thì mời hai anh ra salon để em dẹp chén đĩa... Anh Lữ mang dùm em tách nước trà, ngoài đó đã có sẵn chén và bánh ngọt. À, thêm con dao nữa để gọt trái cây.

- Xếp vô bồn rồi ngâm xà bông để đó được rồi. Em định rửa xong mớ đó nữa thì còn giờ đâu giải đáp thắc mắc... Anh Lữ nhắc vợ về mục đích của bữa ăn...

- Hôm nay không đủ thì hôm khác... mà em có định rửa đâu. Làm hết phận vụ của con cái e chúng nó nói không có cơ hội đóng góp vào công việc gia đình... Chị Lữ vừa nhanh tay dọn dẹp bàn ăn vừa nói... Xong rồi, sao anh chưa rót nước trà? Chị tiến đến salon...

- Để ai uống người ấy rót cho nóng, Kính đỡ lời thay anh Lữ. Vậy những vấn đề chị thắc mắc bắt đầu từ điểm nào. Chị đã đọc hết phần Phúc Âm chưa mà sao nghe có vẻ còn tỉnh táo lắm...

- Lần đầu tiên em uống rượu nhẹ nên thấy hơi quay quay.

- Tôi nói chưa có vẻ rối chứ đâu nói rượu, còn quay thì đàng nào cũng quay.

- Anh nói đúng, đọc và nếu để ý tìm hiểu tại sao Phúc Âm lại được viết như vậy sẽ thấy bị quay mòng mòng. Chị Lữ cúi người lấy cuốn Kinh Thánh phía dưới mặt bàn đoạn mở nơi phần có trang giấy được ghi chi chít những chữ để lên lòng... Xưa tới giờ em chỉ cho rằng đã có các cha giảng giải Phúc Âm nơi nhà thờ, mình đi dự lễ chỉ có bổn phận nghe cho qua, lại còn mong cho lễ chóng hết và ra về thảnh thơi tạm coi là xong nhiệm vụ thờ phượng... Từ hôm nghe dại anh đọc Phúc Âm với chủ đích, chẳng những em quay mòng mòng mà thậm chí nhà em cũng bị khổ; đến lúc chợt nghĩ lại, em tự cảm thấy mình kỳ cục thế nào ấy bởi đã cứ tưởng nhà em phải biết hết... Anh biết không, có lần bí quá vì em không chấp nhận được điều giải thích, anh ấy khùng lên nói, "Tôi đâu phải là Đức Kitô, bà muốn biết cứ Đức Kitô mà hỏi." Anh xem, em vô lý không? Em chợt nhận ra mình kỳ cục nên đặt vấn đề tại sao không tự suy nghĩ và tìm hiểu, tự mình bước đi mà cứ đòi ngồi trên lưng cho người khác cõng. Không hỏi nữa, em định đọc một lần bốn Phúc Âm rồi sẽ tính sau. Nhưng khi đến câu truyện mười trinh nữ, năm cô khôn ngoan và năm cô dại khờ trong Phúc Âm Mathêu (25: 1-13), em thấy có vẻ phi lý làm sao ấy. Đã dại khờ thì đâu phải lỗi tại họ mà đi dự tiệc cưới hay tiệc nào chăng nữa, sớm hay trễ là chuyện bình thường, vậy tại sao mấy cô dại khờ lại bị đối xử cách tàn tệ như vậy? Hơn nữa, đây là dụ ngôn ám chỉ về nước trời, chàng rể đại diện Thiên Chúa thì lại càng không thể chấp nhận được. Phỏng Phúc Âm muốn đưa lên một Thiên Chúa khắt khe, thiếu thông cảm, chỉ muốn bắt mọi người phải luôn luôn sẵn sàng cho hợp ý mình trong khi sự trễ nãi đâu phải do mấy cô phù dâu dại khờ này. Sự trễ nãi do tự công việc xảy ra ngoài ý muốn. Nói cho công bằng, thiếu dầu đèn là lỗi tự chàng rể đại diện Thiên Chúa đến trễ chứ nào tự ai; em nói như vậy có nghĩa đặt vấn đề trên căn bản công bằng, lỗi tự ai thì người ấy phải chịu trách nhiệm. Chẳng lẽ bố em đi ăn cướp đem nhốt em vô tù để chịu phạt; em nào có ăn cướp đâu! Thực là một chuyện phi lý khiến bực cả mình. Không thèm đọc nữa, có lẽ quay quay rồi, em đi tắm chuẩn bị ngủ... Thế nhưng, người cứ tức anh ách; em phải bênh Chúa của em chứ; mà Phúc Âm rao giảng về Thiên Chúa lại viết phản phé, chứng minh Chúa của em vô lý như vậy đâu có được. Cố ngủ mà không chợp mắt nổi, anh Lữ thấy em có vẻ chán điều gì ấy, cứ thở dài nên hỏi. Em kể lại; anh ấy còn nói chọc, "Anh đã nói rồi, muốn điên cái đầu thì cứ việc nói chuyện với anh Kính. Mười cô trinh nữ mà em đã xao xuyến như thế này thì một cô chắc em ăn không ngon, ngủ không yên mà coi chừng đạp anh ra khỏi giường," làm em nín cười không được nhưng lòng càng thấy khúc mắc hơn. Em nghĩ, tại sao phải là anh Kính, tại sao không phải là em. Thế rồi đầu óc em cứ luẩn quẩn với câu hỏi, tại sao các cô khờ dại bị từ chối dẫu lỗi không ở họ?... Nhớ lại ở nhà thờ đã có lần cha giảng hãy sẵn sàng; nơi ghi chú ở cuốn Kinh Thánh cũng nói sẵn sàng... Em không thể chấp nhận được. Họ đã khờ dại thì chỉ có thể sẵn sàng bằng cách đem đèn đóm đi với đầy phao dầu thôi vì nếu chuyện không xảy ra như thế, họ đã được gọi là khôn ngoan. Em chợt nghĩ, các cô khờ dại bảo sao làm vậy; các cô khôn ngoan dám đặt vấn đề giả sử chàng rể đến trễ... Và em nhận ra các cô khờ dại bị từ chối tham dự tiệc cưới vì đã không suy nghĩ bởi dù khờ đến đâu nếu nghĩ rằng chàng rể có thể đến trễ thì cũng biết cần mang thêm dầu hoặc đến nhà đợi tắt đèn thì sao có thể hết dầu. Như vậy, dụ ngôn này nói lên những kẻ đọc Phúc Âm mà không dám suy nghĩ sẽ bị kết án là khờ dại và bị khước từ... Anh thấy em ngon cơ chưa?

- Giỏi, Kính khuyến khích, chị suy luận quá haỵ Lẽ đương nhiên, những người không suy nghĩ thì chỉ nghe sao biết vậy, chẳng những thế, lại còn biết sai nên bị kết án là phải... Nhưng chị còn thở dài sau khi nghĩ được như thế không?

- Em ngủ ngon ơ ngay sau đó vì vấn đề được giải quyết thỏa đáng đến độ không ngờ.

- Vậy chứ lý do gì khiến chị cho rằng Phúc Âm phản phé?

- Chúng ta được dạy dỗ rằng Thiên Chúa nhân từ và yêu thương vô bờ bến, đàng này Phúc Âm đưa lên một Thiên Chúa không biết thông cảm có phải là viết nghịch lại đặc tính của Thiên Chúa không?

Gớm thật, mới để ý đọc Phúc Âm mà đã dám đặt vấn đề như vậy thì khi đã quen suy luận, cái mỏ này sẽ đưa ra lắm nhận định chẳng ngờ, Kính thầm nghĩ nên hỏi,

- Vậy chị thấy Phúc Âm có chữ nào nói lên những kẻ nghe sao biết vậy, không chịu suy nghĩ sẽ bị kết án không?

- Điều này do em nghĩ ra chứ...

- Phúc Âm không nói mà chị nghĩ tới và chấp nhận. Vậy tại sao chị không chấp nhận đúng y như những điều Phúc Âm viết? Thế là chị đã áp dụng được ý quên lời.

- Anh nói đúng, bởi vì nếu cứ quanh quẩn ở những gì Phúc Âm viết, làm sao có thể chấp nhận một cách hợp lý, hợp tình...

- Thấy chưa, tục ngữ ca dao mình đã nói từ lâu ai cũng biết mà đâu ai để ý. Nào là "Được chim quên ná," "Được cá quên nơm," "Được ý quên lời," cũng đồng một ý nghĩa ám chỉ vào sự kiện quay quay với bài Phúc Âm của chị. Mới mấy phút, tôi thấy chị nói liên tục, trái ngược lại với kiểu cách của chị trước đây...

- Nhưng chưa hết, em còn phải nói nhiều nữa vì Phúc Âm viết gì đâu có vẻ kỳ cục. Anh đừng ngắt khi em nói... Ngay hôm sau em đọc tiếp dụ ngôn những nén vàng. Tưởng rằng mình trở thành học giả Kinh Thánh vì đã dám đặt vấn đề để suy nghĩ ý nghĩa của câu truyện, nhưng đúng là chỉ mới học giả chứ chưa học thiệt. Em lại bị dụ ngôn này quay cho như quay dế. Điều kỳ cục là người tôi tớ được ký thác cho một nén vàng, đã nhận định được về nhân cách người chủ mình nên tính toán sao cho khỏi bị phiền hà thì lại bị kết án. Dĩ nhiên, hai người kia làm lợi thì được thưởng nhưng người đầy tớ này đâu có làm tiêu hao mất xu nào của chủ đâu. Hơn nữa, lỡ dùng tiền mở cửa tiệm hay đi buôn lỗ cháy túi thì lấy gì để bù đắp trả lại ông chủ keo kiệt. Em lại phải đối diện với một Thiên Chúa khắt khe và cứ thấy Phúc Âm tạo dựng lên những tính chất xấu xa của Thiên Chúa, điều gì chứ chuyện này không thể chấp nhận được.

- Tại sao chị cứ khư khư cho rằng Thượng Đế phải tốt lành, phải yêu thương như vậy?

- Anh đừng ngắt lời, để em nói...

Những giáo điều một chiều ám ảnh con người đến nỗi không thoát ra được. Thế mới biết, những gì con người đã in trí khó mà tẩy não. Phúc Âm được viết hơn kém hai ngàn năm, trình bày đặc tính Thiên Chúa một đàng, con dân Ngài cứ nghĩ một nẻo tùy thuộc lối nhìn luân lý tuyệt đối gò bó thì sao có thể nhận ra được. Thế nên, dù cho kẻ nào muốn có nhận định trung thực về Phúc Âm thì lại bị mặc cảm e sợ phạm thượng đến Thiên Chúa tốt lành một chiều theo lối nhìn thị dục. Bởi đó, Kính tự nghĩ hãy để chị ta nói nên khỏa lấp,

- Nào, mời chị tiếp tục phát thanh; hôm nay chúng ta được nghe chương trình radio đặc biệt không cần tốn pin, tốn điện... Hèn chi anh Lữ lúc đấu với chúng tôi thì hăng say lắm mà từ nãy giờ vẫn phải giữ im lặng...

- Em hiểu anh nói gì, biến thành radio cũng tốt thôi, nhưng để em nói cho mà nghe. Thế rồi, em tự hỏi, bài Phúc Âm này muốn nói về chuyện gì, nói về ông chủ hay nói về người tôi tớ. Nếu nói về ông chủ thì đem sự thưởng phạt ra làm gì, và nói về đầy tớ tại sao đặt vấn đề người này làm được năm nén, người kia ba nén, và người đem một nén vàng đi chôn. Hơn nữa, nếu nói về vấn đề làm lụng, dùng công sức mình đổ mồ hôi làm thuê mới không lỗ lã tiền bạc, đàng này có một số vốn bỏ ra buôn bán làm ăn đã chắc gì có lời. Phúc Âm lại không nói đến chuyện thua lỗ mà chỉ sinh lợi gấp đôi số tiền được chủ trao. Cứ theo các cha giảng thì những món tiền này là khả năng, tài năng, được ban cho nên không thể nào lỗ được và kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật, kẻ không có thì điều có cũng bị giật mất như Phúc Âm viết. Em nghĩ cũng có lý vì tài năng không xử dụng sẽ bị mất đi chẳng hạn lâu nay không phải may vá như ở Việt Nam nên nghề may của em bị giảm sút. Nếu em tiếp tục, em sẽ may càng ngày càng giỏi. Nhưng em thấy không ổn, vì may ở bên này ít tiền hơn đi làm thuê thì may làm gì. Mục đích của sự làm việc là kiếm tiền sinh sống và thế nào để cho làm ít giờ mà có đủ hoặc nhiều tiền hơn để chi tiêu thì chính điều kiện sinh sống làm cho tài năng em lụt đi chứ đâu phải em không muốn phát triển. Nhưng tại sao Phúc Âm không viết cho một người bị lỗ, mất tiền vì điều kiện buôn bán không thuận lợi, hoặc cho vay bị lừa? Đặt vấn đề như vậy, em nghĩ giả sử là em viết Phúc Âm, em sẽ cho thêm một tên tôi tớ nữa những bốn nén vàng và cho anh chàng này buôn bán bị lỗ ba nén rưỡi. Em suy đi tính lại phải kết luận bài Phúc Âm thế nào cho hợp lý, hợp tình. Nếu phạt người buôn bán thua lỗ thì thật là vô lý bởi anh ta đã cố gắng hết sức nhưng không gặp thời hoặc quá tốt lành đến độ ngây ngô bị lừa thì đâu phải lỗi của anh tạ Nếu không phạt người ngu dốt theo nhận xét phiếm diện để sinh ra lỗ lã mà lại phạt anh chàng không làm thiệt hại gì lại càng vô lý hơn. Thế là cứ luẩn quẩn không biết làm sao giải quyết. Cuối cùng em đi tới kết luận không phạt ba người buôn bán dù họ làm sinh lời hay bị thua lỗ bởi họ đã cố gắng hết sức mà chỉ phạt tên đem chôn vàng vì anh chàng này không thèm làm gì. Nhưng khổ nỗi, anh chàng này sợ Ông chủ keo kiệt, tham lam, và phi lý. Bỗng, thật lạ lùng, em cảm thấy thích quá, như vậy, dụ ngôn những nén vàng chủ đích viết về sự kết án thái độ sợ hãi của người tôi tớ đem vàng đi chôn. Em chợt nhớ lại, dụ ngôn mười cô trinh nữ lên án những người không thèm suy nghĩ, bảo sao biết vậy; bây giờ, dụ ngôn những nén vàng lên án sự sợ hãi không dám xử dụng sáng kiến, không dám thử lửa vì e bị cháy. Như thế, tất nhiên sợ bị phạt là chắc chắn đã bị phạt. Người đầy tớ đem tiền đi chôn bị gọi là vô dụng không phải vì dốt hoặc vì ngu mà vì sợ. Có điều, các dụ ngôn lại được viết theo kiểu đe dọa thì bố ai mà không sợ. Em nghĩ, sự lên án phải tròng vào cổ những người đe dọa mới đúng bởi đã không biết khuyến khích cho người ta vươn lên... Nhưng... chị Lữ ngập ngừng, biết sao mà nói vì em cảm thấy xưa nay em nghe Lời Chúa và đã bị đe dọa quá nhiều nên không dám suy nghĩ. Khổ thật, không dám suy nghĩ chỉ vì e rằng mình suy nghĩ sai mà không biết rằng sai... Đến giờ, em lại cảm thấy đau khổ vì mình đã sợ sai lầm... Thế rồi em chợt nhớ anh đã nói cách đây mấy tuần: "Sợ rối đạo là đã rối," và "Hãy cứ suy nghĩ cả ngàn lần, thế nào không có lần đúng, mà đã có lần đúng vẫn còn hơn không dám suy nghĩ để chẳng có lần nào sai." Mới thoạt nghe anh nói, em thấy khó thể chấp nhận nhưng bây giờ mới biết, sai đúng cũng chẳng là gì mà điều quan trọng là mình có dám sống ý thức, dám suy tư để sống cho cuộc đời mình có ý nghĩa hay không. Phải công nhận, lúc đầu, anh nói thật khó nghe, nhưng càng suy tư càng thấy thấm thía. Đâu ai có thể chấp nhận lối lý luận, "Ai sợ sai lầm sẽ không thể sống cho mình mà thực sự đã chết dẫu còn đang mang thân xác sống động." Nghĩ kỹ mới thấy dẫu sai lầm chưa chắc đã bị kết án mà sợ sai lầm mới bị kết án. Nếu ai hiểu dụ ngôn này thực sự nói gì chắc phải rúng động vì đã bao lâu nay mình càng ngày càng tự lên án chính mình bởi sợ Chúa phạt, sợ xuống hỏa ngục do đó sợ sai lầm...

- Chị nói đúng, bảo sao làm vậy không phải là sống tốt lành, khiêm nhường hay vâng lời mà là khinh chê hồng ân đã được ban cho; nói theo Phúc Âm tức là khờ dại nên bị từ chối. Sợ sai lầm, sợ bị phạt thì chính mình đang tự kết án. Thực ra, người khác kết án mình, nói mình ra sao thì cùng lắm mình chỉ bực bội, khó chịu bởi muốn được người khác nhận biết mình tốt lành, thánh thiện, nhưng đã tự kết án thì sống còn khốn khổ hơn chết...

- Tiếp theo dụ ngôn nén vàng là đoạn phán xét cùng tận. Đoạn Phúc Âm này em đã được nghe giảng và đọc nó mấy lần. Nhưng vì mới thử dùng sự suy nghĩ áp dụng vào hai bài Phúc Âm trên, em đặt vấn đề tại sao làm cho người khác lại có nghĩa làm cho Chúa như đã được viết trong sách. Làm cho người thì được thưởng, không giúp sẽ bị phạt. Nhìn kỹ thực tại sự việc, giúp người ta đã chắc gì là điều tốt mặc dầu ý định mình tốt lành bởi sự tốt lành đối với mình chưa chắc đã tốt lành đối với người khác. Hơn nữa, những người trong tù, họ phải là loại người như thế nào đối với xã hội mới bị giam, chứ như em không phạm luật, không giết người cướp của sao bị tù. Liệu giúp cho những kẻ không nên giúp có thể trở thành sự củng cố mối đe dọa cho chính mình hoặc cho những người khác không? Điều làm em cảm thấy khó nghĩ nhất là lý do gì mình được sinh ra. Nếu mình được sinh ra với nhiệm vụ để giúp những người khác thì ít nhất mình cũng phải giúp chính mình trước vì nếu mình không giúp mình được sao có thể giúp kẻ khác. Vậy nếu mọi người chỉ tự giúp họ thì đâu cần ai giúp ngoại trừ những trường hợp bất khả kháng. Đàng này, những người đã tự dấn thân vào những điều đe dọa xã hội hoặc không tự giúp mình thì tại sao em phải có bổn phận giúp họ. Nếu đặt vấn đề xa hơn chút nữa, biết đâu những trường hợp khốn khó đến với kẻ khác lại cần thiết vì có thể đó là cơ hội để họ sống vươn lên, sống ý thức hơn. Giúp họ cũng có thể trở thành phá bỏ cơ hội thăng tiến cho ho... Chị Lữ rót ly trà trong lúc nói.

Coi chừng khốn khó đến nơi, Kính nghĩ. Không ngờ chị này suy nghĩ sâu xa như thế! Dám đặt vấn đề so sánh giữa sự suy tư về Phúc Âm với những lời giảng giải của những vị thuyết giáo, chắc chị ta đã nhận ra được giá trị của hồng ân suy tư nơi mỗi người. Có lẽ đến lúc Thánh Thần của Đức Kitô phải làm việc chứ chẳng lẽ kiên nhẫn quá thì dân Ngài đi xuống hố hết sao! Niềm vui trộn lẫn hy vọng dâng dâng nơi lòng Kính trong lúc nhìn chị Lữ rót trà... Cảm nghĩ tiếc nuối hòa với sự ước ao có được người bạn đời biết suy tư như chị Lữ... Những hai năm rồi mà mình không nhận ra khối óc trân quí hằng ngày gặp gỡ, thật phí uổng thời giờ nói chuyện nhàm... Nhưng Kính tự an ủi, ít nhất từ nay mình đã tìm ra người tương ý để nói chuyện. Còn người bạn đời, sự việc phải đến sẽ đến...

- Em nói đến khô cổ rồi mà chưa đâu vào đâu, phải thấm giọng đã... đoạn đưa một hơi cho hết ly trà, chị Lữ nói tiếp. Cuốn Kinh Thánh Tân Ước mới được soạn xong năm 1994 đề bản quyền Tòa Tổng Giám Mục Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh ghi chú rằng Chúa Giêsu kết thúc giáo huấn về cánh chung bằng dụ ngôn này và chính Chúa Giêsu sẽ là vị thẩm phán tối cao. Ngôn từ nơi bản dịch này khá rõ ràng: "Mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé mọn nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy." Em đặt câu hỏi những người bé mọn nhất đây là những người nào, người thời đó hay chỉ chung cho tất cả những người kém may mắn bây giờ. Dĩ nhiên, Phúc Âm được viết cho mọi thời đại, thế nên những ngôn từ phải được hiểu không có giới hạn thời gian và nơi chốn. Tuy nhiên, em chợt nghĩ, bài Phúc Âm được viết dưới thời La Mã cai trị dân Do Thái thì đi thăm người tù, người bị phạt trần truồng thời bấy giờ sẽ được coi như kẻ đồng lõa chống lại chính quyền La Mã... Như thế, nếu vào thời đó mà cứ thực hiện đúng như Phúc Âm nói thì đương nhiên trở thành kẻ đi tự tử, thay vì tự giết mình lại chấp nhận cho kẻ khác giết với sự đồng ý của mình. Thực ra, mới đọc qua đoạn Phúc Âm này, mọi sự tưởng như dễ dàng, giúp hay thăm viếng, an ủi những người gặp cảnh khốn khó tức là làm cho chính Chúa, nhưng khi suy nghĩ, áp dụng ý của hai dụ ngôn trước đó để tìm hiểu thì em cảm thấy thực sự không hiểu bài Phúc Âm được gọi là phán xét chung này nói gì nữa. Tổng quát, những vấn đề em đặt ra bao gồm mấy điểm: có trường hợp giúp người là giết chính mình; có trường hợp giúp người trở thành cổ võ cho người ta phạm thêm tội ác; có trường hợp giúp người là cất mất cơ hội không để cho họ thăng tiến; có trường hợp giúp người là cách gây gánh nặng cho những người chung quanh... Em tự hỏi, vậy làm sao biết được trường hợp nào nên giúp và trường hợp nào không nên. Anh thấy rõ, lái xe trên xa lộ thời điểm này, đâu ai dám cả gan cho những người đón đường đi nhờ. Mình giúp họ biết đâu lại tạo cho họ cơ hội phạm tội cướp xe và mình đương nhiên gây nên sự khốn khó cho mình ấy là chưa nói tới bị giết. Hơn nữa, nếu những người khốn cùng không có khả năng tự lập chẳng lẽ họ bị kết án hay sao vì cách nào cho họ thực hiện sự giúp đỡ những người khác? Suốt hai ngày, đầu óc em không thể nào tìm được ẩn ý của dụ ngôn ngày cánh chung. Do đó, em chấp nhận chịu thua không suy nghĩ về những dụ ngôn nữa mà đọc Phúc Âm tìm hiểu về lòng tin. Hai ngày sau...

- Có phải chị bắt đầu nói về những rắc rối của lòng tin không?

- Vâng, em...

- Tôi xin ngắt lời chị để đặt vấn đề giải quyết dứt khoát khúc mắc của dụ ngôn cánh chung, sau đó chị nói về lòng tin may ra dễ hơn.

- Anh nói thế có lý hơn vì vấn đề lòng tin càng làm em bối rối...

Đến khổ, cố gắng suy nghĩ, lý luận để kiếm tìm nhận định mà nào còn kẽ hở cho lọt vộ Vì được nghe quen tai "Thiên Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ" thì sao có thể hiểu được dụ ngôn chiên và dệ Cũng chính vì hiểu Phúc Âm theo quan niệm luân lý một chiều, đứng về phía cực đoan này để lên án cực đoan kia... đã khiến con người trở thành sỏi đá. Muốn sống vươn lên nhưng thực hiện lời Phúc Âm thì chỉ có chết, đàng nào cũng bị lên án. Ôi! Tội nào lớn hơn tội ngu dốt của lối nhìn thiển cận! Đã bao nhiêu hòn đá khổng lồ tròng vào cổ dân Chúa và dìm xuống hỏa ngục theo sự khôn ngoan thị dục. Nghĩ mà đau, Kính lựa lời dẫn đến giải thích,

- Vậy chị đã trả lời được câu hỏi chị đặt ra chưa?

- Câu hỏi gì anh làm ơn nhắc cho em...

- Lý do gì mình được sinh ra?

- Em mới đặt câu hỏi nhưng chưa tìm ra câu trả lời.

- Thế chị có tìm thấy trong Phúc Âm có câu nào nói về công việc quan trọng nhất của một con người không?

- Em đâu có để ý, em chỉ chú trọng về lòng tin mà thôi.

- Vậy chị có nhớ đã bao nhiêu lần được nghe hoặc đọc câu: "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho" (Mt. 6:33; Lc. 12:32).

- Anh muốn nói đó là mục đích của cuộc sống con người?

Đọc Phúc Âm mà chỉ thấy điều nên hay không nên theo giấy trắng mực đen thì lại đi vào vòng luẩn quẩn. Phúc Âm nói về nước Thiên Chúa và thí dụ giải thích, dân Ngài chỉ được nghe về những hình ảnh tưởng tượng một nơi chốn hữu vi phần nào thỏa mãn khát vọng chạy trốn khổ ải như miếng mồi nhử những con thiêu thân. Bao nhiêu thế hệ rồi, Nước Thiên Chúa được rao giảng chỉ là thiên đàng thị dục buồn tênh vẫn còn có thể đứng vững và hấp dẫn thì dân Chúa vẫn còn đói khát Tin Mừng. Kính cảm thấy đau lòng nhưng phải lấy giọng điềm đạm đưa ra nhận xét,

- Đây là câu Phúc Âm Mathêu, chị vừa nghe đã hiểu nói về chuyện gì chứ tôi đâu nói mục đích... Câu Phúc Âm chỉ đơn sơ nói "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa... " Vậy thì nếu đem ráp vào dụ ngôn cánh chung có thể làm sáng tỏ hơn không?

- Tìm kiếm Nước Thiên Chúa, không làm cho những người bé mọn... Em đâu thấy có sự liên hệ gì giữa hai câu này đâu.

- Vậy Nước Thiên Chúa là gì?

- Thì em nghe giảng đó là nước Trời, nước thiên đàng, thế giới công bình thánh thiện, hưởng nhan thánh Chúa, nơi đó không có khổ đau, không phải làm ăn cực nhọc, chỉ luôn luôn hưởng phúc thanh nhàn vui vẻ vô cùng amen. Chị Lữ kéo dài tiếng amen dội về vẻ quen thuộc nơi những bài kinh đọc ngày Chủ Nhật.

Chương 7

Biết ngay mà, Kính thầm nghĩ. Nước Thiên Chúa, Nước Trời bị hiểu là nước thiên đàng nơi chốn tưởng tượng của những ước mơ thế tục nghịch lại những khổ ải cuộc sống hữu hình... Nói làm sao, dùng hình ảnh nào và lý luận ra sao... Nếu không, thiên đàng đâu chẳng thấy mà chỉ tuyên dương án phạt kề cổ... bởi sao có thể thực hiện lời Phúc Âm theo nghĩa đen...

Dĩ nhiên sau khi chết hồn mình đâu cần ăn uống nên khỏi phải làm việc. Hồn mình lại vô hình do đó đâu cần quần áo che thân, và vì thế cũng không cần nhà cửa để ở thì tất nhiên chỉ luôn luôn hưởng phúc thanh nhàn... Còn vui vẻ vô cùng hay gì gì nữa thì không thấy nghe nói mấy bởi chỉ thấy người ta đồn thổi đôi khi rằng hồn người này nhập vào người kia xin giúp làm việc này, trả nợ nọ, hoặc gớm ghê hơn nữa thì ba trẻ Fatima nhìn thấy hỏa ngục mà chẳng ai nói rằng được nhìn thấy thiên đàng... Trong Phúc Âm cũng thế, chỉ có mỗi trường hợp nói về ông Lazarô ngồi trong cung lòng Abraham và người giàu bị thiêu đốt khát nước chứ không nói Lazarô ở trên thiên đàng hay nước trời hoặc nước Thiên Chúa. Tôi nghĩ, hãy để dành Nước Thiên Chúa sau này sẽ có lúc bàn luận, bây giờ trở lại vấn đề làm và không làm cho những người bé mọn nơi dụ ngôn cánh chung. Chỉ nhớ một điều, Phúc Âm khuyên chúng ta "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người... " (Mt. 6:33). Như vậy, thì làm những chuyện gì cho những người bé mọn phải là thứ nhì hoặc là thứ ba phải không? Vậy chị làm ơn đọc lại câu Phúc Âm về việc không làm cho người bé mọn xem nói thế nào.

- Phúc Âm Mathêu, đoạn 25, câu 45, đây rồi, chị Lữ vừa rở Kinh Thánh vừa nói... "Quả thật, Ta bảo các ngươi, những gì các ngươi đã không làm cho một người nào trong các kẻ hèn mọn nhất này, là các ngươi đã không làm cho chính mình Ta" (NTThuấn).

- Nếu cứ theo nghĩa đen của câu này để mà thực hiện thì chỉ có cách càng chết sớm ngày nào càng tốt vì chúng ta không thể nào giúp cho hết mọi kẻ khốn cùng được. Điều này có nghĩa, dù giúp được bao nhiêu người, nếu đem so sánh với tổng số những kẻ khốn cùng thì mình vẫn đã bị kết án, và do đó càng sống lâu càng không giúp nhiều người nên tội càng lớn lao, như vậy, chết sớm nhẹ tội hơn. Câu này tôi đã có lần mở năm bản dịch Kinh Thánh tiếng Anh gồm có The New Oxford Annotated Bible, The New American Bible, The New Jerusalem Bible, Holy Bible, The Word of God, và mấy bản dịch khác nhau của Tân Ước, trong đó chỉ có cuốn The New Jerusalem Bible cũng như trong cuốn bài đọc tiếng Mỹ của người Công Giáo dùng động từ "neglect" nơi câu này. Đại khái có nghĩa, những gì các ngươi biết và có thể giúp nhưng lờ đi không làm cho một trong những người bé mọn là các ngươi đã không làm cho chính Ta...

- Nếu vậy mới có lý, mới có thể giải thích được dụ ngôn cánh chung.

- Chị muốn nói thế nào?

- Dụ ngôn này không thể hiểu được đó là ngày sau hết hoặc ngày phán xét mà lại liên hệ với hai dụ ngôn được viết trước. Dụ ngôn trinh nữ lên án kẻ bảo sao làm vậy không ý thức. Dụ ngôn những nén vàng xét xử những kẻ sợ hãi sai lầm đến độ không dám làm gì, và dụ ngôn này lên án những kẻ biết những điều nên làm mà không thèm làm. À... à... em hiểu lý do tại sao anh nhắc tới câu "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa... " Nếu vậy thì dụ ngôn thứ ba này lên án những ai không chịu tìm kiếm Nước Thiên Chúa... Nhưng như vậy cũng bù trớt vì có ai biết Nước Thiên Chúa thế nào đâu... Mà... thiên đàng... thì hai tiếng này không có trong Phúc Âm... Thế ra... không dám suy nghĩ cũng chẳng có gì lạ vì... lấy gì làm căn bản để suy nghĩ... Chị Lữ ngập ngừng vì lý luận đi vào ngõ cụt do thiếu kiến thức.

- Hình như tới giờ đi đón cháu nhỏ học giáo lý...

- Anh đi đón con dùm em, Phúc Âm viết kiểu này đọc chỉ ấm ức thêm. Chị Lữ nói vội như e phải bỏ dở cơ hội bàn luận.

- OK, anh Kính nói chuyện với nhà tôi để tôi đi đón cháu về...

- Có lẽ câu nói của anh Lữ "Muốn biết cứ Đức Kitô mà hỏi" đã đến lúc phải được áp dụng...

- Hỏi Đức Kitô cũng cần phải có kiến thức và sự suy nghĩ... mà kiến thức Kinh Thánh em đâu biết chi.

- Chị lại quên câu "Tìm sẽ gặp, gõ thì cửa sẽ được mở cho, và xin sẽ được." Yên chí đi, chị sẽ gặp và cửa sẽ mở cho chị. Chỉ một điều quan trọng là đừng bao giờ nghĩ rằng mình không có thể là đủ. Kiến thức cần thiết cho chị tìm hiểu Kinh Thánh sẽ đến đúng lúc nếu chị thực sự muốn biết vì lợi ích của sự thăng tiến tâm linh. Dứt khoát Thánh Thần sẽ phải làm việc; nói theo kiểu Kinh Thánh...

- Vậy theo anh nghĩ, dụ ngôn thứ ba này chủ đích nói gì?

- Chị đã nói rồi, lên án những người không chịu tìm kiếm Nước Thiên Chúa, không chịu tìm sự công chính của Ngài vì biết những điều nên làm mà không thực hiện. Vấn đề áp dụng thế nào lại là chuyện khác do điều kiện thực tại và ý thức của con người...

- Nghĩ thì nghĩ vậy do suy luận mà ra, nhưng tại sao biết điều nên làm mà không làm lại bị lên án? Cuộc đời này thiếu gì việc nên làm nhưng em nghĩ thực sự không cần thiết phải thực hiện. Chẳng hạn tụi em nên có căn nhà khá hơn, rộng rãi hơn cho gia đình thoải mái; em nên làm việc nhiều hơn để có thể sống khá hơn và giúp được một vài người ở Việt Nam; chúng em nên mua chiếc mini van hàng tuần đưa gia đình đi hóng mát cho khỏe người. Đây chỉ là một vài thí dụ thấy tận mắt nên thực hiện mà đâu cần thiết. Phỏng không chịu khổ cực để làm như thế cũng bị lên án.

- Nếu chị đứng vào phe đấu lý đặt vấn đề với những tay hùng biện hộ giáo có lẽ chị thắng lớn bởi chị có sự suy luận liên kết những yếu tố khá nhanh và vững chắc. Điều này rất lợi, tôi bảo đảm chị sẽ có cái nhìn về Phúc Âm rất khác lạ mà lại cũng khó cho người đấu lý chống đỡ ngược lại. Những sự kiện thực tại được chị ráp nối hợp tình hợp lý khiến cho đối phương khó bề chống đỡ do sự tổng hợp xáo trộn giữa dữ kiện và ý thức tâm linh. Có lẽ bây giờ tôi hiểu được phần nào lý do chị dám đặt vấn đề về ba dụ ngôn mà xưa nay mọi người đều cảm thấy hiểu rất rõ ràng theo nghĩa đen nhưng ý chính lại chẳng giống một chữ nào như dụ ngôn được viết. Trở lại câu chị hỏi, chị có nhớ mang máng rằng trong Phúc Âm có câu: "Kẻ thảy bỏ Ta đi và không lĩnh chịu các lời của Ta, thì có người xét xử nó: ấy là lời Ta đã nói, chính lời ấy sẽ xét xử nó trong ngày sau hết."

- Hình như ở Gioan... câu này cũng kỳ cục, làm sao không chấp nhận lại bị xét xử... Đây, Gioan đoạn 12 câu 48... "Kẻ thảy bỏ... "

- Thực ra câu này được dịch hình như thừa một chữ. Tôi đọc bản dịch tiếng Anh có vẻ hợp lý hơn vì họ dịch đại khái "Kẻ nào từ chối và không lãnh nhận lời ta nói tự có sự xét xử; ấy là Lời ta đã nói... " Chị thấy, chẳng hạn như bữa ăn vừa qua, tiết canh, vịt ướp chao nhúng rau sống... Nếu chị ngồi trước bàn ăn thịnh soạn như thế mà không ăn thì sao?

- Anh muốn nói... Chị Lữ lộ vẻ đắn đo, anh muốn nói nếu mình không chịu tìm hiểu thì án phạt là sự dốt nát, mê muội.

- Đặt vấn đề như thế này có lẽ dễ hiểu hơn: không ăn thì đói, sự đói hành hạ nên tạm gọi là án phạt vì người không ăn phải chịu. Lời Phúc Âm nếu không được suy nghĩ cho am hiểu để thấm nhập vào mình thì mình cũng chỉ giống như một ống rỗng đối với thực phẩm, một thân xác bịnh hoạn, ăn không tiêu... Không hiểu Phúc Âm thì suốt đời trầm luân nơi mê muội, trong sự sai lầm chạy theo thế tục không thể thoát ra được. Án phạt này, chỉ những ai cảm nghiệm được mới hiểu thế nào... Chị thấy rõ, mới thử đặt vấn đề suy nghĩ chỉ ba dụ ngôn mà nhận thức của chị hầu như đổi mới không như xưa...

- Vậy tại sao cũng có câu... ta đến để xét xử thế gian... nghe ngang như cua vậy? Xin lỗi, em không có ý diễu anh đâu.

- Ha! Ha! Coi chừng chị còn ngang hơn tôi là cái chắc vì chị đã để ý đến những câu nói mới thoạt nghe đầy vẻ ngang ngược của Phúc Âm mà ít ai dám đặt vấn đề... Hình như câu này nơi Gioan đoạn 9 câu 39, 40 gì đó... Chị đọc lên coi.

- "Và Đức Giêsu nói: Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù!" Đúng thật là câu nói ngang ngược... làm sao...

- Tôi nói trước, từ khi chị hiểu câu này nói gì, bảo đảm dần dần chị sẽ trở nên ngang như con cua lé nữa chứ đừng nói con cua bình thường. Tôi không ngờ có người dám nói Phúc Âm viết ngang ngược...

- Tại sao kẻ không thấy thì được thấy và kẻ thấy được lại hóa đui mù...

- Thì có sao đâu, người mù lòa có bác sĩ mổ mắt, kẻ có cặp mắt như hai chiếc đèn xe hơi lại đeo kiếng râm...

- Người mù mới đeo kiếng râm chứ... Anh không thấy mấy người mù... Không phải, nhưng sao thấy được lại hóa đui mù... chị Lữ đang nói câu nọ bỗng bắt qua câu kia... Anh giải thích được không? Câu nói gì mà kỳ cục...

- Chị có thể giải thích cho tôi điều gì đã che lấp sự nhận định của năm cô trinh nữ dại khờ, che luôn óc phán đoán người tôi tớ được cho một nén bạc, và che tất cả những người có cơ hội không làm cho người hèn mọn...

- Không dám suy nghĩ... thói quen... sự sợ hãi... sợ sai lầm... không để ý... không muốn bị phiền hà... ích kỷ... Chị Lữ ngồi bất động, đôi mắt nhìn như muốn xuyên qua khoảng tường trống trước mặt, miệng lẩm nhẩm như vị thiền sư tụng niệm... Đúng rồi, thói quen, không phải, quan niệm sống của mỗi người...

- Vậy tại sao chị phải suy nghĩ nhiều thế về mấy câu Phúc Âm ngang ngược này?

- Ngang nhưng có lý... Làm cho kẻ mù được sáng tức là giúp cho kẻ tìm tòi hiểu biết hơn. Làm cho kẻ thấy được lại hóa ra đui mù... có... nghĩa... khiến những kẻ cho rằng mình khôn ngoan, giỏi giang bận rộn với những chuyện sống hàng ngày không muốn biết thêm về tâm linh nên không hiểu được Phúc Âm thực sự muốn nói gì... Cũng có lý... Chị Lữ lại như người tụng niệm với những lời nói đứt quãng...

- Câu này gồm hai phần, phần đầu, khiến kẻ mù thấy được chỉ về thể xác, Đức Giêsu chữa lành người mù và cũng có thể áp dụng như chị vừa nói là giúp cho kẻ tìm tòi hiểu biết hơn. Phần tiếp theo, "Kẻ thấy được lại hóa ra đui mù" chỉ về những kẻ khôn ngoan, hiểu biết nhiều về cuộc sống vật chất hiện tại nên cho rằng cuộc sống chỉ là những thắng lợi và mãi lo theo đuổi do đó không đặt vấn đề tìm hiểu thêm về tâm linh nên trở thành mù tối đối với sự am hiểu Phúc Âm. Nhận định câu nói như thế, chị còn thấy Phúc Âm ngang ngược nữa không?

- Không thể ngờ được... "Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù!" Đúng thật là câu nói ngang ngược... nhưng tuyệt vời. Vậy sao anh có thể nghĩ như thế? Đâu là căn bản đặt vấn đề tìm hiểu?

- Nơi Gioan đoạn 16 câu 12 có nói, "Ta còn lắm điều phải nói với các ngươi, nhưng hiện giờ, các ngươi không mang nổi. Song khi nào Ngài đến, vì là Thần Khí sự thật, Ngài sẽ đưa các ngươi vào tất cả sự thật... " Chị đừng vội vã, rồi chuyện đến sẽ đến... Và khi chuyện đến thì có lẽ lại nói ngang theo những câu Phúc Âm... Bây giờ trở lại vấn đề lòng tin được chưa?

- Chưa, vì còn mấy câu ngang ngang nữa em chưa để ý nhưng khó chấp nhận... Lòng tin thì đã sẵn sàng... Thế tại sao người giầu có khó vào nước trời hơn con lạc đà chui qua lỗ kim? Em không dám cho là ngang nữa nhưng không chấp nhận được.

- Chị đã bao giờ nghe người nào đó giải thích rằng nơi đền thờ Jerusalem có một chiếc cổng nhỏ, vì nó quá nhỏ nên người ta gọi lóng nó là cửa lỗ kim chưa, và như thế, ý nói con lạc đà khó mà đi qua được. Nếu không biết điều này, chúng ta cứ tưởng là lỗ kim khâu thực sư...

- Anh nói vậy thì con lạc đà vẫn không chui qua được vì cổng quá nhỏ và như thế thì chẳng lẽ người giầu có đều bị kết án hay sao. Một vợ chồng vua nước Pháp được phong thánh, họ giầu có, đầy uy quyền nữa, chẳng lẽ Giáo Hội Công Giáo phong thánh cho kẻ ở hỏa ngục vì khó vào được nước trời hơn con lạc đà chui qua lỗ kim, nói cách khác, không thể nào vào được. Hơn nữa, sự giầu có mang tính chất tương đối vì nếu đem so sánh một gia đình bình thường ở đây với cuộc sống nơi một nước nghèo thì mình quá giầu có. Phi lý, ai có thể chấp nhận được, cho dù lỗ kim ám chỉ cái gì.

- Thì tôi nói đúng theo những lời giải thích thường được nghe ở nhà thờ và đặc biệt hơn nữa là ghi chú nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước. Vậy nếu chị không chấp nhận được thì phải giải quyết ra sao?

- Em cảm thấy hình như có điều gì không ổn nơi câu này vì ý nghĩa rất rõ ràng nhưng lại nghịch thường với thực tế thành ra phi lý. Em chỉ đặt vấn đề, nói là giúp người nghèo khó, vậy ai có thể giúp? Tất nhiên chỉ những người ít nhất phải đủ ăn đủ mặc hoặc giầu có hơn. Đàng này, cứ theo câu nói Phúc Âm thì người giàu có cho dù làm việc phúc đức bao nhiêu chăng nữa cũng không thể nào được vào nước trời thì thực hiện điều tốt lành làm chi, giúp người khốn khó cũng chẳng ơn ích gì chẳng thà đem tiền của mình có ăn xài cho thoải mái cuộc sống hiện tại vì rốt cuộc rồi cũng lãnh đủ. Phỏng nếu áp dụng đúng nghĩa đen của câu này, Phúc Âm một cách nào đó xúi giục người ta làm bậy... Điều này em không thể chấp nhận do đó đành chờ may ra có lúc...

- Tất nhiên chị muốn nói "Tìm sẽ gặp?"

- Em hy vọng thế.

- Chị có nhớ câu, "Vì kho tàng của ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó" nơi Phúc Âm Mathêu đoạn mấy không?

- Có, hình như phần nói về kho tàng đích thực... Chị Lữ vừa nói vừa rở Kinh Thánh... Mathêu đoạn 6 câu 21...

- Chị có nghĩ rằng kho tàng, tiền bạc của chị Ở đâu thì lòng dạ chị cũng ở đó không?

- Tiền ở nhà băng, nhà cửa xe cộ nơi đây có gì mà phải đặt vấn đề lòng da...

- Thế lòng dạ của chị thường ở đâu?

- Anh muốn nói ý nghĩ, tư tưởng, ước mơ... Có lý, phải nói thế này, lòng dạ con người luôn luôn để ý đến ước muốn, những chuyện mình đang theo đuổi...

- Như vậy nếu đem áp dụng sự giải thích của chị vào câu Phúc Âm thì chị nghĩ thế nào.

- Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó... Chị Lữ đọc chầm chậm... có thể đổi thành vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó...

- Chị có thể chấp nhận lối ráp nối này không?

- Đúng, hợp lý và hợp tình... nhưng chẳng lẽ Phúc Âm viết phi lý?

- Không phi lý chút nào hết nhưng có thể không được dịch đúng nghĩa của lối dùng chữ ngày xưa.

- Cũng có thể... Nhưng tại sao anh đưa ra câu này?

- Chị thử ráp câu này với câu nói phi lý người giầu có coi sao... Hình như câu người giầu có ở cả ba Phúc Âm Mathêu, Mác cô và Lucạ Chị thử rở Mác cô đoạn 10 câu 20 đến 30 xem...

- Đây rồi, câu 25, "Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa." Anh muốn nói ráp thế nào?

- Ráp câu trước câu sau, thế nào cũng được.

- "Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa." "Vì kho tàng của ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó." Thế nghĩa là...

- Tôi muốn nói chị ráp với câu chị vừa giải thích về kho tàng và lòng da...

Chị Lữ lại lẩm nhẩm, Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó... À, à... nếu vậy phải đổi luôn, không, không đổi nhưng phải thêm vào câu lạc đà... để trở thành: Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người ước muốn giàu có vào được Nước Thiên Chúa vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó. Hợp lý..., nhưng tại sao anh dám nghĩ lung tung như thế này?

- Tôi dâu dám nghĩ lung tung, tôi chỉ không muốn bị lên án thôi. Chị thấy không, theo tôi nghĩ, hai câu Phúc Âm này phải được sắp xếp gần nhau và được viết lại thành "Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn là người ước muốn giàu có của cải trần gian vào được Nước Thiên Chúa vì ước muốn của người ta ở đâu thì lòng họ cũng ở đó." Thế nên, câu Phúc Âm mới đọc thì tưởng rằng lên án người giầu, nhưng khi đặt vấn đề cho sáng tỏ lại trở thành lời khuyến cáo những người ham muốn trở nên giầu có. Và như vậy mới có lý, mới thuận tai, và mới có thể chấp nhận được vì nó không lên án ai, chỉ nói lên một thực thể. Bởi vậy, giầu nghèo gì mà ham muốn danh vọng, của cải thế tục, hoặc bất cứ gì để rồi bị chúng che mờ con đường tâm linh thì cũng suốt đời lội trong vũng lầy u mê... Trong mấy cuốn Kinh Thánh bản dịch tiếng Mỹ, độc nhất chỉ cuốn Holy Bible nơi Phúc Âm Mác cô có ghi thêm ba chữ "trust in riches" vào câu này. Đại khái có thể hiểu "Rất khó khăn cho những người tin tưởng nơi sự giầu có vào được Nước Trời." Tương đối, bản dịch này làm sáng nghĩa hơn nhưng tôi nghĩ vẫn chưa thể áp dụng vào thực tại cuộc sống con người dẫu trên phương diện luân lý hay tâm linh. Đồng ý rằng luân lý thay đổi, và Phúc Âm không viết theo nhận thức luân lý nên thường thì những câu nói đặt vào miệng Đức Giêsu rất nghịch với luân lý, tuy thế, khi xét theo khía cạnh tâm linh lại rất hợp lý hợp tình. Có lẽ bây giờ chị cảm thấy phần nào Phúc Âm nói vậy nhưng không phải vậy... nói theo kiểu chị tức là nói ngang...

- Đúng, làm cho kẻ mù được sáng và làm cho kẻ sáng suốt trở nên tối tăm... Bị cho rằng ngang cũng chẳng oan chút nào... Hèn chi người ta cho là anh ngang... lòng dạ của ngươi ở đâu thì ngươi mở miệng nói như thế ấy!

- Chị khen hay chê tôi vậy?

- Cả hai, khen một nửa, nói theo thiên hạ một nửa chứ em không dám chệ Nhưng tại sao anh không chịu nói cho người ta hiểu?

- Thì chị đi mà nói! Chưa có ý nói đã được gọi là ngang thì cố ý nói coi chừng chỉ đi làm thợ điện...

- Sao anh bảo phải đi làm thợ điện... Ah, em lại bị hố...

- Chị nói gì? Bị hố chuyện gì?

- Thợ điện, chị Lữ trả lời cụt ngủn mà tỏ ra vui vẻ, đắc ý như mới khám phá được điều gì mới la...

- Trong Phúc Âm còn mấy câu khác nữa cũng vậy, mới thoạt nghe hay đọc thì rất nghịch lý nhưng để ý suy nghĩ mới thấy quá thâm trầm...

- Có phải câu, ai yêu cha mẹ vợ con hơn ta thì không đáng là môn đệ của ta không? Em thấy cũng hơi kỳ kỳ vì sao có thể thực lòng mà nói em yêu Chúa hơn chồng con được!

- Và câu khác chẳng hạn, đừng tưởng ta đến để đem an bình mà là chia rẽ...

- Thế anh đã nghĩ ra chưa vì khi đọc hai câu này em cảm thấy hình như cũng có ẩn ý chi đó mà khó có thể nhất thời giải thích.

- Anh chị lập gia đình bao lâu rồi vậy?

- Tính đến nay mười tám năm rồi đó. Con trai lớn của em mười sáu tuổi, to hơn bố nó rồi.

- Ủa, vậy chị lập gia đình từ khi mới biết chạy?

- Thế tại sao anh chưa có vợ?

- Tôi đang hỏi về chị mà!

- Anh nịnh đầm giỏi vậy mà chưa có vợ kể cũng lạ.

- Cuộc đời này có người thông minh hơn tôi có thể tưởng tượng...

- Có lẽ bị ảnh hưởng lối nói của anh hơi nhiều rồi nên sinh ra thông minh. Vậy có phải khó có người bắt được ý anh muốn nói nên anh còn đang tìm kiếm phải không?

- Đúng một nửa! Thật ra, sống độc thân quen rồi nên tôi sợ khó có người chấp nhận nổi tính chất hoang đàng của tôi. Tôi muốn nói hoang đàng nơi tư tưởng bởi không nghĩ giống những người chung quanh... Vậy có khi nào anh chị bất hòa không? Tôi muốn nói chẳng hạn cãi lộn lung tung thôi.

- Nhiều chứ, cuộc sống gia đình thì cũng phải có lúc chén bát đụng nhau cho thêm mắm muối cuộc đời...

- Thế chị có biết lý do tại sao hai người cãi nhau không?

- Thì người ý này, kẻ muốn thế kia có chi lạ đâu, riết rồi trở thành bình thường.

- Nghĩa là bất đồng ý kiến, hoặc là ai cũng chỉ cho rằng ý mình là đúng, là hơn.

- Dĩ nhiên, nếu không vậy sao phải bực mình rồi mới nhận ra sự phi lý rởm...

- Hèn chi chị dám mổ xẻ Phúc Âm kỹ vậy. Nhưng anh chị có thực sự yêu thương nhau không? Phỏng vắng anh ấy mấy hôm chị cảm thấy thế nào?

- Anh hỏi chi kỹ vậy, vợ chồng thì nhớ nhau chứ, chẳng thế mà được gọi là quen hơi...

- Tôi chỉ muốn hỏi về tình cảm; chị có thực sự thương anh ấy hơn hết mọi sự khác không?

- Chắc chắn như một cộng với một là hai. Có thế mới đặt vấn đề trung thành được.

- Thế mà khi hai người cãi lộn tất nhiên ai cũng cho rằng mình là đúng... Điều này nói lên, dẫu vợ chồng thực sự thương nhau cách mấy, đôi khi vẫn không thân thiết bằng tư tưởng hay ý nghĩ đối với mình. Vậy nếu thương vợ hay thương chồng mình hơn ý nghĩ, tất nhiên sẽ chẳng có chuyện cãi lộn cãi lạo giữa hai vợ chồng xảy ra phải không?

- Đó là chuyện đương nhiên, và đa số hai người cãi nhau do nguyên nhân bất đồng ý kiến... bởi ai cũng cho mình là phải...

- Vậy thì có thể nói được rằng mình thân thiết với ý nghĩ, quan niệm, hay tư tưởng của mình hơn với vợ hay với chồng...

- Tại sao anh lại so sánh tư tưởng, quan niệm, với con người...

- Câu 37 đoạn 10 nơi Phúc Âm Mathêu được viết "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Tạ Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta ắt không xứng với Ta," nếu đem thay thế quan niệm, ý nghĩ, ý muốn vào cha mẹ, con trai con gái chị sẽ thấy tại sao tôi hỏi về chuyện anh chị cưới nhau bao lâu. Theo tôi nghĩ, cha mẹ, vợ con, anh em họ hàng là những người thân thiết được dùng để ám chỉ những gì ngăn cản sự tìm hiểu Phúc Âm mà thôi. Như vậy, câu này có nghĩa kẻ nào còn thấy tư tưởng, ý định, ý nghĩ của mình quan trọng hơn những gì ta nói thì không thể nào hiểu được ta nói gì, sao có thể đáng là môn đệ của tạ Tôi nghĩ điều này được trình bày rõ ràng hơn nơi câu nói không lấy mụn vải sống vá nơi áo cũ cũng như không thể lấy bì cũ để đựng rượu mới.

- Hình như anh dám tách rời những câu nói Phúc Âm và xếp sao cho thuận với lý luận, ý nghĩ trong diễn tiến suy tư...

- Chị nói đúng, bởi như vậy còn hơn cố chấp giữ nguyên vị trí để rồi không hiểu gì. Vấn đề này khá dài dòng vì nói tóm lại về lịch trình thành hình của bộ Kinh Thánh thì Phúc Âm cũng đã được sắp xếp những câu nói cho hợp lý và thuận chiều diễn giảng. Thực ra, ở vào thời điểm mười mấy thế kỷ trước đây, sự sắp xếp này đã được chấp thuận và hội đồng gồm có bẩy mươi học giả Kinh Thánh nên đã được gọi bản có lối xếp đặt mà chúng ta đang dùng là bản bẩy mươi.

- Hỏi câu này có vẻ ngoài vấn đề nhưng em hơi ngạc nhiên tại sao câu nói Phúc Âm Mác cô chỉ nói đến kẻ yêu cha mẹ, con trai, con gái, mà không nhắc đến yêu vợ hay yêu chồng?

- Ồ, tôi biết nhưng không để ý. Câu hỏi chị nêu lên có giá trị về văn hóa của nó. Người Do Thái và hầu như các dân tộc Trung Đông, Á Đông, ngày xưa không coi người vợ có giá trị ngang hàng. Chẳng hạn như câu nói "Nhất nam viết hữu" chị thừa biết. Dân Do Thái ngày xưa quan niệm rằng nữ giới là mầm mống gây nên tội lỗi, không xứng đáng được coi ngang hàng với nam giới, nên ra ngoài đường phải lấy vải che đầu, che mặt đi. Đó cũng là lý do tại sao ngày nay coi trên TV chị thấy họ che đầu và có thể coi như thói tục còn sót lại bởi quan niệm nam trọng hơn nữ. Từ quan niệm cổ xưa ấy phát sinh ra thứ thời trang khác đó là chiếc núp đội đầu của các nữ tụ Có lần tôi định hỏi một chị nữ tu xem đối với họ chiếc núp có ý nghĩa gì. Thế nhưng tôi hơi e ngại vì đôi khi câu hỏi đơn sơ bởi lòng thành của mình bị coi là thắc mắc hay chế nhạo coi chừng chỉ thêm phiền. Có thể tôi sai nhưng thật ra, con người mang một năng lực sáng tạo rất lớn mà cho tới nay người ta chỉ mới chớm nhận ra như đã có người nói "Suy nghĩ là kiến tạo và người suy nghĩ là đấng tạo dựng." Câu nói này có vẻ còn quá mới; tuy nhiên, càng tìm hiểu về Phúc Âm bao nhiêu, tôi càng nhận ra giá trị và vị thế của con người cao trọng bấy nhiêu. Thực sự, có thể rằng nếu tôi dám nói thẳng ngay bây giờ chị sẽ lên án tôi. Nhưng tôi nhận thấy có lẽ chẳng bao lâu chị cũng sẽ chẳng có thể ngờ về chính chị nếu sự phỏng đoán của tôi không lầm.

- Ý nghĩ gì mà có vẻ ghê gớm như vậy.

- Không ghê gớm đâu, nhưng phạm thượng thì đúng hơn. Thôi, chị đừng bắt tôi phải nói vì tôi e chưa tới lúc...

- Bộ anh cho rằng em chưa đủ khả năng để hiểu...

- Đức Giêsu hai ngàn năm trước đây đã nói mà nào ai để ý. Chị đừng nôn nóng làm chi thêm phiền bởi có thể chỉ bất lợi. Tôi thử hỏi chị, vậy lý do gì Phúc Âm có câu: "Kẻ nào cầm cày mà còn quay trở lại thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa?" Nếu mà chị trả lời được, tôi bảo đảm chị thừa khả năng giải thích hầu hết mọi vấn đề nơi Phúc Âm. Nhưng nếu chị không tự trả lời được, đừng đụng chạm đến điều chưa nên của tôi. Nào, mời chị giải thích.

- Anh nhớ câu này ở đâu không?

- Hình như Luca, cuối đoạn 9, nói về điều kiện để xứng đáng làm môn đồ Đức Giêsu.

- Đoạn 9 câu 61; "Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa." Câu này trả lời cho người xin về từ biệt người nhà để theo Đức Giêsu mà! Thì ý nghĩa cũng gần giống như câu ai yêu mến cha mẹ vợ con hơn ta không xứng đáng là môn đệ của tạ Nhưng tại sao lại đặt vấn đề còn quay trở lại lúc cầm cày trong khi sự yêu cầu chỉ là từ biệt thân nhân. Đối với thân nhân ruột thịt, ai cũng nhung nhớ... Chị Lữ nhìn nơi trang Kinh Thánh mà miệng lại thốt lên những lời nói ráp nối của suy luận. Cầm cày... quay trở lại... bất kham... không xứng đáng... không hợp... Anh có nghĩ là có sự liên hệ của câu này với hai câu mà anh mới nói về rượu mới bì cũ, vải mới áo cũ không? Chị Lữ thử đặt mối liên hệ.

- Đồng loại nhưng không cùng giống, nửa trúng nửa không.

- Vậy theo kinh nghiệm uống rượu của anh thế nào?

Chị Lữ hỏi một câu bâng quơ khó xác định, nhưng Kính hiểu chị đang dò dẫm mối liên kết ý tưởng của hai câu Phúc Âm. Đang từ người cầm cày mà bỏ lững suy nghĩ về rượu... để tìm kiếm... Phải công nhận chị Lữ khá thông minh, Kính thầm nghĩ, nên trả lời bằng cách hỏi ngược để phân tích,

- Chị muốn hỏi về vấn đề gì của uống rượu. Rượu nào say hơn, ngon hơn, hoặc mắc hơn, dễ uống hơn, hoặc nhiều người thích hơn...

- Em nuốt hết ý tưởng, xin lỗi anh. Em muốn nói rượu cũ và rượu mới người ta thích rượu nào hơn?

- Rượu cũ uống êm hơn nên dễ uống hơn do đó thường thì người ta thích uống rượu cũ hơn...

- Rượu cũ không đổ vào bì mới và rượu mới đổ vào bì cũ sẽ phá bể bì. Tại sao rượu có thể phá bể được bì?

- Chữ bì đây là bong bóng của các con vật ngày xưa được rửa sạch để đựng rượu...

- Như vậy là có sự dứt khoát, không thể dây dưa, chung đụng. Vải mới vá áo cũ không được; rượu mới đổ bì cũ không được; kẻ cầm cày quay lui trở lại là bất kham trong khi chỉ xin cho về từ giã. Câu này có nghĩa người nào muốn biết về Nước Thiên Chúa, muốn theo Đức Giêsu phải dứt khoát với tất cả những gì thân thiết nhất đối với mình... Khoan, khoan, em muốn nói... Đúng là nói chuyện với Kính không khùng là hãy còn may mắn vì anh dồn người đối thoại phải vận dụng tất cả năng lực nhận định. Chị Lữ nhắm mắt chống cằm lên hai tay bất động... Chừng hơn phút sau chị lên tiếng: Người nào muốn hiểu được Phúc Âm, muốn theo Đức Giêsu, chị nói chầm chậm từng lời rõ ràng, phải biết dứt khoát với tất cả những quan niệm, kinh nghiệm, cũng như học thức, tất cả mọi hiểu biết đã qua phải bỏ đi hết không tiếc nuối hay bám víu... Nhưng làm sao bỏ, làm sao có thể vứt hết những gì đã biết... Có phải cách đây ba tuần anh nói về tự do tư tưởng là nhận thức để vứt bỏ hết những ước muốn bình thường của mọi người?

- Kể như đã có câu trả lời. Chị nói đúng và suy luận sự liên kết của mấy câu Phúc Âm rất đúng với ý nghĩa chúng muốn nói lên. Tôi nghĩ, điều mà tôi không muốn nói nhưng sau lại dùng nó để thách đố chị chưa chắc đã có thể làm chị ngạc nhiên chứ không nói đến có thể mang lại bất cứ gì bất lợi cho chị, có chăng, chỉ giúp chị tìm hiểu mau hơn. Đó là, quyền năng của Thượng Đế ở ngay nơi mỗi người nhưng con người chưa biết xử dụng.

- Anh nói gì, có phải anh muốn nói con người có quyền năng như Thượng Đế?

- Không, tôi chỉ nói quyền năng của Thượng Đế ở ngay chính mình mà chúng ta không nhận ra. Quyền năng này nơi chị, nơi tôi, nơi anh Lữ, nơi mọi người. Chị muốn hiểu sao thì hiểu. Và như thế tôi đã thi hành đúng điều giao ước của tôi. Nhưng tôi muốn chị tự nhắc lại ý nghĩa của người cầm cày một lần nữa xem có khác hơn không.

- "Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa" nếu đem so sánh tổng hợp với những câu áo và rượu cũng như sự lưu luyến cha mẹ con cái, mang nghĩa tuyệt đối dứt khoát với những gì mình đã được học hỏi, dạy dỗ từ xưa tới giờ. Sự dứt khoát này bao gồm tất cả kinh nghiệm cũng như quan niệm và ý thức cũ để có lối nhìn hoàn toàn đổi mới mà nhận định về Phúc Âm thì mới có thể am hiểu được. Tóm lại, có thể nói là phải đổi mới não trạng, cần được tẩy não. Anh thấy em thuộc bài chưa... Tuy nhiên, quan niệm và ý thức cũ chẳng khác gì tình máu mủ ruột thịt gia đình, hấp dẫn tựa rượu để lâu năm đối với kẻ thích uống rượu như anh. Thế nên, cần phải có một phương pháp nào đó gột rửa để đổi mới thì em chưa biết...

- Chị có thể nghĩ đến câu Phúc Âm nào ngoài mấy câu vừa rồi để minh chứng cần phải đổi mới não trạng?

- Đây là lần đầu tiên em suy nghĩ dẫn tới kết luận này; thật lòng mà nói, chưa bao giờ em dám đặt vấn đề về Phúc Âm mà chỉ nghe giảng, nói cho đúng, có nghe cũng như không. Điều gì có vẻ mới lạ hoặc chướng tai, bàn qua tán lại với ai đó đôi câu rồi cũng coi như không có chi xảy đến.

- Nơi Phúc Âm Mác Cô đoạn 1 câu 15 được viết: "Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! hãy hối cải và tin vào Tin Mừng." Cuốn Kinh Thánh Tân Ước có ghi phụ chú: "Từ Hy lạp metanoia theo nghĩa gốc là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận" (KTTƯ Giáo Phận TP. HCM; VN; 1994; tr. 184). Văn từ "gần bên" hay "đến gần" được dùng 18 lần nơi Phúc Âm nhất lãm để chỉ tính chất thời gian của Nước Thiên Chúa bắt đầu được rao giảng bởi Gioan Tẩy Giả và sau đó được đặt vào miệng Đức Giêsu trong những lần công bố, rao giảng. Tuy nhiên những khi Phúc Âm dùng câu trả lời về thời điểm của Nước Thiên Chúa thì Phúc Âm lại nói Nước Thiên Chúa đã đến (Mt. 12:29; Lc. 11:20). Nơi Luca 17:21 còn ghi rõ, "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được 'này ở đấy hay 'ở đó', vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông." Xét thế, hình như văn từ được dùng khác nhau trong 21 lần nói về thực thể Nước Trời để chỉ cùng một ý niệm thời điểm và khi dịch thuật, tôi nghĩ, người dịch vì quá chú trọng đến văn từ hoặc đã không hiểu lối nói thời Phúc Âm được viết. Thí dụ điển hình, người Mỹ nói "eat like horse" trong khi ngôn ngữ Việt diễn tả "ăn như hổ". Từ nhận xét này, tôi nghĩ, những lối nói "đã đến" hoặc "đã đến gần," hoặc "ở giữa các ông" đều mang cùng một ý nghĩa nhất là khi đặt vấn đề về ý niệm thời gian đối với ý thức hiện hữu. Từ nhận định này, câu "Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! hãy hối cải và tin vào Tin Mừng" đem hợp với phụ chú có thể xếp thành: Nước Thiên Chúa ở trong các ông, hãy đổi não trạng, và tin vào Tin Mừng. Xét theo cơ cấu, câu nói gồm hai phần; phần đầu tuyên bố, rao giảng; phần thứ nhì đưa lên điều kiện để dẫn tới hành động. Vậy hai chữ Tin Mừng ở đây chính là phần đầu: Nước Thiên Chúa ở trong các ông. Đây chính là lời rao giảng của Đức Giêsu, là Tin Mừng Đức Giêsu công bố, nhưng thường bị hiểu lệch theo nghĩa khác vì không ai dám đặt vấn đề đổi não trạng nhưng vẫn cứ cầm cày và quay trở lại, vẫn dùng rượu mới đổ bì cũ vì rượu cũ đã xỉn thấm vào tim vào máu rồi. Vấn đề chị đặt ra là phương pháp nào để gột rửa cho sự đổi mới thì chỉ có một con đường đó là nhận thức về lòng tin...

- Nghe anh nói cũng có lý vì em thường tự hỏi câu "người nghèo khó được nghe báo Tin Mừng" có nghĩa gì, và Tin Mừng là gì. Người nghèo dĩ nhiên đang khát khao những điều cần thiết nhất cho sự sống hằng ngày, đàng này đem tin mừng đến để làm gì? Tin Mừng có xoa dịu được cái bụng đang đói của họ không? Có giúp họ cảm thấy ấm hơn khi đang rét run vì thiếu áo quần mặc không? Sở dĩ em thấy có lý vì qua những câu Phúc Âm nói về lòng tin suốt mấy tuần qua suy nghĩ, em cảm thấy có điều gì lạ mà xưa nay em chưa từng bao giờ nhận biết. Hình như có một quyền lực nào đó được gọi là lòng tin mà chưa được phanh phui, quyền lực này bao trùm và giải quyết được mọi sự thiết yếu nhất của con người. Thế nhưng, càng suy nghĩ, càng thử đặt vấn đề em càng cảm thấy e sợ, càng cảm thấy điều gì đó vừa khuyến khích lại vừa đe dọa, và hình như có một mãnh lực thúc đẩy và đòi hỏi nếu muốn cảm nghiệm thì đành phải liều... Em không diễn tả được thực sự cảm nghiệm này như thế nào nhưng nó thúc bách, nó làm cho mình xao xuyến thế nào ấy khiến mình trở nên ngơ ngơ ngáo ngáo không biết phải làm sao.

- Tôi hiểu chị muốn nói gì. Vậy từ xưa tới nay, theo chị nghĩ, lòng tin hay đức tin là gì?

- Xưa nay em được dạy về đức tin thì em cũng tin như mọi người chung quanh. Tin có ông Trời, nghĩa là tin có Thượng Đế, Đấng tạo nên mọi sự trên trời dưới đất. Em không đặt nặng vấn đề danh hiệu Trời hay Chúa nên gọi thế nào cũng được. Dĩ nhiên, trời đất, vạn vật này không thể tự dưng mà có nên phải có bàn tay quyền lực nào đó tác thành. Em cũng nghĩ có những quyền lực vô hình ảnh hưởng nơi cuộc sống mình vì nhiều khi có những chuyện xảy ra chẳng thể ngờ được. Thế nên, đành chấp nhận có những nguyên nhân mà mình vô tình hay không hiểu đã tạo ra sự kiện như thế. Hơn nữa, nhân nào quả nấy, mình sống tốt lành thì sẽ được hưởng kết quả tốt lành và mình làm những việc chẳng ra gì chắc chắn phải lãnh sự báo oán cho công bằng vì có làm, có bỏ công sức thì có ăn, không làm mà kiếm cách sao cho có ăn thì một là lạm dụng hai là thực hiện điều xấu xa... Riêng nói về tôn giáo, bởi theo đạo Công Giáo thì bảo tin thế nào em tin thế vậy, không bao giờ đặt vấn đề bởi đặt vấn đề cũng không được mà cũng chẳng lợi ích gì cho cuộc sống mình đang phải đối diện. Nói rằng tin Chúa ba ngôi, Cha, Con, Thánh Thần, hay nói không tin nào thấy gì hơn kém đâu! Ừ thì tin, em cũng thế, nhưng nói không tin sẽ bị người ta nói thế nọ thế kia, nào xuống hỏa ngục, nào rối đạo... thôi thì cứ xổ những lời giống họ đỡ bị phiền. Có thể nói, những điều được học về đạo Công Giáo chẳng giúp em gì nếu so với những người không Công Giáo mà có chăng chỉ bị phiền hơn. Thí dụ, phải ăn ngay ở lành, đạo nào không nói thế; chính những người không theo đạo nào, chỉ tin vào ông Trời và cúng vái hình tượng ông bà ông vải của họ cũng quan niệm "Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối" thì xét về luân lý theo hay không theo đạo cũng như nhau; anh thấy đúng không? Nhưng thực tế cuộc sống thì những người có đạo bị phiền hà nhiều hơn. Nào lễ lạy, nào đoàn thể, nào rước phách, nào luật đi lễ ngày Chủ Nhật trong khi người không có đạo thảnh thơi ở nhà coi ti vi, ăn uống, đi chơi dễ chịu hơn; ấy là em không muốn nói đến những sự phiền hà xảy đến giữa chốn đô hội chẳng hạn những lời ong tiếng ve về cách ăn mặc, người này đẹp, người kia xấu... Em không được cao lắm cũng có kẻ phê bình là lùn tịt; mặc bộ đồ thích mắt mới mua có kẻ nói ra vẻ ta đây... Thực lòng mà nói, theo đạo khiến em bị phiền nhiều hơn không theo mà không đi nhà thờ cuối tuần lại sợ bị phạt xuống hỏa ngục, sợ người ta nói bê bối, lười. Xét thế, tin thì cũng như mọi người mà theo đạo chẳng có gì liên hệ với đức tin lại lắm phiền hà. Đã có nhiều lần suy nghĩ về câu nói đạo tại tâm, lại nghe người khác nói Phật tại tâm... em thấy, một nửa muốn bỏ đạo quách, một nửa sợ tội và sợ người chung quanh dị nghi...

Chương 8

- Thế có khi nào chị tự hỏi tại sao mình theo đạo không?

Lẽ đương nhiên, câu trả lời rõ ràng nhất là em theo đạo theo truyền thống; nói vậy không đúng, em theo đạo vì sợ thì đúng hơn. Anh thử nghĩ coi, thà rằng mình bỏ ra một tiếng hay hơn tiếng đồng hồ ngày Chủ Nhật tới nhà thờ như trả giá cho sự hưởng phúc sau này còn hơn bây giờ không đi lỡ sau khi chết có thiên đàng mà không được hưởng có phải ngu dại không! Nói theo tâm lý, thái độ này chỉ là ép mình chạy theo sự tin tưởng may rủi chẳng khác gì trả giá cho bảo hiểm tai nạn hay những gì chẳng may có thể xảy đến. Có thể nói là vị kỷ, hoặc e sợ, hoặc để tự an ủi mình thì tạm được gọi là khôn ngoan. Em không hiểu anh hay những người khác nghĩ gì về điều gọi là tin, nhưng em nghĩ, ai cũng là người nên ít nhất có những tâm tình và cảm ứng về thực tại giống nhau. Thực lòng mà nói, có lẽ bởi em dám suy nghĩ nên cảm thấy phiền nhiều hơn vì thà không biết gì cứ hùa theo người khác sống cho qua ngày đoạn tháng, được sinh ra thì phải sống như câu hát nào đó, " hãy cứ yêu người mà sống, lâu dần đời mình cũng qua" thì không có chuyện gì đáng nói. Thế nên, chính sự hiểu biết, dám đặt vấn đề về niềm tin nên đã chẳng biết bao nhiêu lần em cảm thấy Chúa, Phật, hình như chỉ được dùng như một mốc, cứ điểm cho mình lẩn trốn, hoặc đổ thừa để xoa dịu sự đau khổ mình phải đương đầu không đường trốn chạy. Nói rằng Trời định, Chúa định, hay phận số thì cũng thế thôi vì ý nghĩ này giúp mình rán sức chấp nhận sự việc không hài lòng xảy tới...

- Tôi có câu hỏi hơi nghịch nhĩ một chút chị có chấp nhận cho tôi nói không?

- Anh cứ việc nói, không có gì lạ đối với em đâu.

- Thế vậy ngày xưa chị học tới đâu?

- Ở Việt Nam em học xong hai năm luật, sang đây em học hai năm nghề điện tử để làm việc giúp gia đình...

- Hèn chi chị có những nhận định xác đáng về tâm lý... Mời chị nói tiếp...

- Tuy nhiên, thực thể nội tâm quá phức tạp. Nếu nói rằng sợ, ích kỷ, a dua theo truyền thống v.v... mà theo đạo thì cũng không đúng. Hình như mỗi người được sinh ra với một nỗi khát vọng sâu thẳm tìm về tâm linh mà nỗi khát vọng này không có gì trong cuộc đời xóa bỏ được. Đồng thời, theo em nghĩ có thể đúng có thể sai, hình như lương tâm, trí tuệ là phần nào hiện thể của khát vọng tâm linh. Em nghĩ rằng, tôn giáo là phương tiện, có thể cũng không phải, hoặc hình thức tỏ bày nỗi khát vọng này. Hoặc nói cách khác, theo đạo để phần nào kiện toàn ao ước thâm sâu tiềm ẩn nơi con người. Có điều, muốn tìm hiểu tại sao mình có nỗi ước ao mờ ảo đó thì cứ cảm thấy như rợ vào rừng, không biết đâu là đầu mối. Đi nhà thờ, nghe giảng giải, hoặc coi trên ti vi, các vị thuyết giáo chỉ nói đến Chúa như một thực thể được chấp nhận đến độ vô ý thức và dùng Chúa như ngọn roi răn đe hoặc khuyến khích người khác thực hiện những gì họ muốn hoặc cho là đúng. Em có đọc một số sách về các tôn giáo khác, chung qui, mọi tôn giáo dẫu có nói đến những điều nên sống thì cũng một cách nào đó dù rõ ràng hay không quảng bá những sự đau khổ mà không ai muốn chịu. Hình như các vị thuyết giáo rao giảng hình phạt nhiều hơn là tuyên truyền về niềm tin hay vị Thượng Đế của họ. Em nghĩ, nỗi khát vọng sâu thẳm tâm linh nơi con người chỉ là một mà lối diễn tả lại khác nhau nên phát sinh lắm thứ đạo, nhiều cách tỏ bày được gọi là tôn giáo hay sự thờ phượng. Hơn nữa, chẳng lẽ một Thượng Đế, một Thiên Chúa quyền năng lại thèm thuồng vài câu kinh, tiếng hát của tạo vật đã được dựng nên do chính quyền lực của Ngài? Đờn ca hát xướng như trong nhà thờ; chiêng trống, khánh mõ như ở chùa chiền làm sao sánh được với rừng thẳm núi cao muông chim đua hót hoặc mưa bão sất sét. Hình ảnh nào có thể đẹp đẽ, hùng vĩ hơn sông núi, trời mây, tinh tú... Đền đài to lớn sao có thể so sánh với dẫu chỉ trái đất cỏn con này giữa hơn mười tỷ giãi ngân hà... Thực ra, nói chuyện với anh cũng chỉ là mục đích mà em muốn thử xem những điều mình suy nghĩ bao lâu nay có thể chấp nhận bởi đầu óc con người được không. Có điều, sở dĩ nói với anh vì thấy kiểu nói phóng sinh, bất cần thiên hạ cho là đúng hoặc sai, và nếu khi phải giải thích thì anh thừa khả năng lý luận để minh chứng điều anh nói... Em nghĩ, chính ngay anh Lữ cũng khó thể cảm thông được với những suy luận này phương chi là những người khác, và như anh thấy, tại sao nói chuyện với anh thì cái miệng không ngừng mà nơi đô hội, em chỉ ngồi đó ậm ừ như ngậm hột thi... Bởi vậy, khi anh nói thử nghe dại anh chỉ tìm hiểu lòng tin, em có ý thử ngay nhưng đồng thời cảm thấy hình như anh đánh giá em quá thấp có lẽ bởi đã hơn hai năm, anh hay ghé lại nói chuyện với anh Lữ, không thấy em nói gì nên cho rằng em không biết gì chăng.

Kính hơi bàng hoàng vì nhận định của chị Lữ về mình. Càng nói chuyện Kính càng ngạc nhiên vì thái độ đối nghịch của chị Lữ lúc nói chuyện với mình và khi ở chốn đô hội. Điều mà Kính không ngờ, chị Lữ có cả một khối óc suy tư và nhận định sắc sảo khó ai nhận biết được nhưng chẳng bao giờ tỏ lộ và nếu Kính không lầm thì đây là lần thứ nhất chị dám nói. Lý do tạo nên nhận xét này vì Kính thấy càng nói chị Lữ càng lưu loát và chính xác, hình như những gì chỉ vừa mới thoát khỏi cửa miệng lại trở thành kinh nghiệm thực tập cấp thời để diễn tả ý tưởng tiếp nối. Ngay buổi chiều bắt đầu tham gia nói chuyện, chị Lữ nói rất ngắn gọn, bất cứ câu nào cũng như mũi dùi đâm thẳng vào điểm muốn tới mà vấn đề bàn luận thì khô như ngói không mấy ai muốn đụng đến. Kính biết rất rõ về cái miệng của mình, những gì nói ra, anh tự cho rằng người nghe đương nhiên đã có trình độ tối thiểu nào đó nên bị gọi là ngang do những người đã chẳng hiểu điều vừa nghe có ý nghĩa gì nên thấy nghịch lỗ tai của họ. Tuy nhiên, đối với chị Lữ, càng nói chuyện, chị càng đi sâu vào những vấn đề khó nuốt khiến Kính ngạc nhiên. Sự thực mà nói, Kính ngạc nhiên vì dẫu đã nhận biết con người thường hay có những vẻ bên ngoài đối nghịch với nội tâm của họ nhưng cái miệng là khó giữ nhất vì nó đứng ở trung gian giữa thái độ và nội tâm. Dĩ nhiên, không nói không phải tại không biết nhưng biết mà không nói lại có lý do nào đó, hoặc là không thích nói những điều vô bổ, hoặc không gặp cơ hội thuận tiện để nói, hoặc không muốn cho ai biết mình nghĩ thế nào. Loại thứ ba này thuộc tính chất của những người thâm trầm nơi giới lãnh đạo có biệt tài vì họ được sinh ra để lãnh đạo. Nghĩ thế, Kính trả lời,

- Cái miệng của chị khiến tôi ngạc nhiên nên có thiên kiến mà hôm nọ tôi đã nói. Sở dĩ tôi đề nghị chị tìm hiểu về lòng tin vì chính tôi đã bị khốn khổ vì nó đã bao lâu nay do lòng khao khát tâm linh như chị vừa cho biết. Cuối cùng, tôi đã phải vật lộn với cuốn Kinh Thánh; đó cũng là lý do tại sao tôi có thể biết được một vài câu ở phần nào của Phúc Âm như chị thấy. Hơn nữa, thực ra, quyền lực của Thượng Đế ở mỗi người chúng ta; tất nhiên, tốt nhất cố gắng mở rộng lòng để chiêm ngưỡng những kỳ công Ngài đang thực hiện nơi loài người mới là điều nên. Nói như vậy đủ chứng tỏ tôi đã nghĩ gì. Chị còn nhớ câu lần trước chị nói: nhận định nhưng không nhận định? Dĩ nhiên, Kinh Thánh không có câu này nhưng nó cũng chẳng khác gì câu: "Không làm gì là làm tất cả."... Tôi chỉ biết nói vậy thôi, chị hiểu thế nào cũng nửa đúng nửa sai...

- Tại sao anh nói nửa đúng nửa sai?

- Đúng với chị vì chị biết chị nghĩ gì, sai với tôi vì tôi không phải là chị.

- Biết đâu em có thể nghĩ đúng điều anh nói.

- E rằng chính tôi cũng không hiểu mình nói gì sao chị có thể nghĩ được tôi nói gì!

- Giỏi, lý luận cũng hay... Em chỉ học kiểu nói của anh thôi nghen...

- Ban nãy chị nói tôn giáo là phương tiện hoặc hình thức tỏ bày nỗi khát vọng tâm linh nơi con người, điều này chẳng đúng, chẳng sai...

- Thì nửa đúng nửa sai...

- Nó vậy đó! Dẫu tôn giáo mang nhiệm vụ hướng dẫn con người tới bờ suối tâm linh như hôm nọ tôi nói, tính chất khác của tôn giáo là đem phần nào thành quả tâm linh giãi bày cho quần chúng. Đó là lý do tại sao có những điều luật tôn giáo. Thực ra, những điều luật này nói lên những gì ngăn cản bước tiến con người trong hành trình tâm linh, nhưng vì đường lối áp dụng để quảng bá tôn giáo chỉ mới tiến đến mức độ như ngày nay, chúng ta không thể và cũng không có quyền dùng bất cứ phương cách nào để bắt ép sự việc xảy ra theo ý mình. Đọc Phúc Âm chị thấy, đã có lần Đức Giêsu than lên, "Ôi! Thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ ở với các ngươi, và phải chịu đựng các ngươi?" (Mt. 17:17; Lc. 9:41). Phúc Âm viết về Đức Giêsu quyền năng mà Ngài đã phải than lên như thế thì lấy lý do gì chị phải sốt ruột. Cháu nhỏ nhất của chị năm nay mười hai tuổi rồi phải không? Vậy lúc cháu mới được ba tháng chị có cho cháu ăn miếng bê thui chấm nước mắm gừng không? Hơn nữa, những người lãnh đạo tôn giáo thời đại nào cũng muốn cho tôn giáo mình được phát triển do đó cần có nhiều nhà truyền giáo. Dẫu muốn "Qúi hồ tinh bất quí hồ đa" đến mấy chăng nữa thì cũng chỉ có thể chọn lựa và huấn luyện đến một giới hạn nào đó chứ làm sao các tôn giáo có thể đào tạo được những người đồng loạt tương đương với vị sáng lập. Chị có lẽ nhớ câu "Môn đồ không lẽ hơn thầy, và tôi tớ hơn chủ" (Mt.10:24) trong Phúc Âm sao!

- Vậy tôn giáo sẽ đi đến đâu?

- Tôn giáo đi đến đâu không phải là chuyện của chị cũng như của tôi mà chị đi đến đâu, tôi đi đến đâu mới quan trọng.

- Anh muốn nhắc em nói trở lại vấn đề lòng tin phải không?

- Đó là câu trả lời đi đến đâu.

- Như anh đã nghe, đó là thực trạng đức tin và suy luận về tôn giáo nơi em. Riêng về đức tin, em tự hỏi, nếu thực sự có một Đấng cao cả quyền năng bao trùm vũ trụ này thì dầu tin hay không tin sự hiện hữu của Đấng ấy nào có khác chi đâu! Đấng ấy đã đang hiện hữu thì tin hay không vẫn hiện hữu. Thực tế mà nói, vấn đề của con người là cuộc sống. Chẳng lẽ mọi người nói tin thì Đấng ấy làm cho cả vũ trụ này thái hòa, mây luôn luôn bay tô điểm bầu trời, làm bớt nóng chỗ gắt nắng và giúp ấm cúng nơi lạnh lẽo, mưa thuận gió hòa và con người muốn gì được nấy? Và giả sử ai nói không tin có Đấng ấy thì làm ăn sẽ thua lỗ, đụng chuyện gì thất bại chuyện đó sao? Phỏng có phải cũng bởi tin vậy nên đã có chùa Bà Banh ở Việt Nam! Và thử hỏi nếu Đấng cao cả ấy nghe lời cầu xin của mọi người thì lúc nào chả có người cầu và rồi sao mà nghe. Ai xuống tàu đánh bài cũng cầu được ước thấy thì làm sao còn tàu đánh bài cho mà thắng? Anh thấy kiểu em nói ngang giống anh chưa? Tuy nhiên, đọc trong Phúc Âm thì Đức Giêsu nói đến một lòng tin khác biệt như chẳng có gì liên hệ đến đức tin mà em đã được dạy dỗ hoặc đức tin đang làm em khốn khổ. Đến đây em phải xác định, lòng tin chỉ điều Đức Giêsu nói, và đức tin là của em. Chẳng những thế, lòng tin và đức tin lại đối nghịch nhau như nước với lửa. Em thấy có đức tin kiểu này cũng được, không có cũng được nhưng miệng luôn luôn để ý lặp lại như chiếc máy cassett rằng tin... cái gì cũng tin... cho giống mọi người. Thế nên, bao nhiêu lần cầm đến cuốn Kinh Thánh thì bấy nhiêu lần ngại ngùng vì chỉ thấy những gì mình không thể chấp nhận đang xảy đến như mối đe dọa phải đối diện với thực trạng bối rối nội tâm. Em thử hỏi, làm sao có thể chấp nhận được một Thiên Chúa thiên vị như trong Cựu Ước, bênh một đám dân hoang đàng vì lỡ chọn nó làm con riêng mà đổ biết bao điều khốn khổ khốn nạn lên đầu những dân tộc khác. Ông Thiên Chúa của dân Do Thái này không thể chấp nhận được... em tự nghĩ. Được dạy dỗ Trời phù, Phật bi, và Thiên Chúa yêu thương, nghe giảng giải tình yêu Thiên Chúa, lòng thương xót Trời Phật, và đồng thời cũng bị nhồi nhét vào tai rằng Trời đày, Chúa phạt... Đến khổ! Em cảm thấy mình trở thành bãi chiến trường để cho hai đối thủ, tình yêu thương và hình phạt, chung đúc với nhau kiến tạo thành Trời, Phật, hoặc Thiên Chúa của những nhà giảng thuyết hùng hồn vung tay múa chân truyền bá những điều có lẽ chính họ cũng không hiểu. Em tự hỏi, không biết mấy nhà hùng biện tôn giáo ấy có nghĩ rằng tất cả những người đang nghe họ nói là ngu hết không? Và nếu họ không nghĩ thế, chắc chắn đã có những chuyện lớn lao xảy ra vì ít nhất cũng đã mấy ngàn năm qua với biết bao những vị thuyết giảng tôn giáo... có lẽ mồ hôi vì gắng sức cổ võ đến độ quên cả thân mình của họ đã tạo thành con sông lớn lao nào đó...

- Thế chị đã gặp được Đức Phật, Đức Chúa giảng thuyết bao giờ chưa?

- Em cũng tự hỏi phỏng trên thế giới này mấy tỷ người mà không có thể có được lấy một Đức Phật hoặc Đức Chúa hay sao mà không thấy ai nói; ngược lại chỉ thấy những người dùng Đức Phật, Đức Chúa như những bung xung để truyền bá tôn giáo của họ, và một khi ai đã lỡ lọt vào tròng rồi thì lại khốn khổ vì Phật đâu không thấy, Chúa đâu chẳng rõ, mà đang nhởn nhơ nhưng không bỗng vác vào cái ách ngập đầy những lề luật phải theo, hình phạt phải sợ. Đã có lần em tự đặt vấn đề, Đức Thích Ca có lập đạo không và Đức Giêsu có phải là người Công Giáo không! Câu trả lời rõ ràng không! Đức Thích Ca nói về giác ngộ, Đức Giêsu lên đền thờ Do Thái giảng trong hội đường. Thế ra, không Đức nào lập đạo mà chỉ hướng dẫn về hành trình tâm linh. Các vị thuyết giáo thì rao giảng về Chúa, về Phật mà quên mất mục tiêu giáo chủ mình đã đạt tới...

- Điều này chị nói hay họ nói?

- Anh muốn hỏi điều nào?

- Thuyết giáo và hướng dẫn.

- Em cảm thấy thế chứ họ đâu bảo em thế.

- Tại sao?

- Vì những điều họ nói chính họ cũng chưa đạt tới thì có phải là thuyết giáo không. Người nào đã đạt tới điều mình nói hoặc biết phương thức nào đạt tới đâu cần rao bán về ai mà nói và có thể chứng minh những điều mình nói là sự thực cho mọi người tai nghe mắt thấy.

Phải công nhận Thánh Thần làm việc quá bạo đối với những tâm hồn khát khao. Ít nhất cũng phải vậy... dám nhận xét về lời giảng của những nhà thuyết giáo rồi đem so sánh với Kinh Thánh và đưa ra nhận định đồng thời suy nghĩ để tìm đường hướng phải là một sự thức tỉnh lớn lao ngoài suy luận bình thường của con người. Dẫu người ngu đến mấy mà bị lừa vào vòng mù tối đến độ chịu đựng không nổi nữa thì tiếng kêu than cũng phải thấu tới trời... Không thế, nếu cứ để những thùng rỗng khua vang mãi, dân Chúa làm sao tránh thoát tình trạng điếc tai. Niềm vui nào đó rộn lên trong lòng Kính... Thần Khí của Đức Giêsu không lười nhưng chỉ chưa có những tâm hồn thực sự khát khao dám mở rộng để Ngài làm việc...

- Phỏng đó có thể là lý do tại sao chị muốn tìm hiểu về lòng tin trong Phúc Âm?

- Tất nhiên, nhất là bỗng dưng anh đưa ra đề nghị khác lạ em chưa bao giờ nghĩ tới.

- Thế sau khi tìm hiểu, chị đã có lòng tin chưa?

- Anh ngạo em đó phải không?

- Chị quên là Phúc Âm có lời chép, "Tìm sẽ gặp, hãy gõ, cửa sẽ mở cho, và xin thì sẽ được" ư!

- Ah! Anh nói đúng; em đã gặp, mà gặp cái rối không à!

- Ha! Ha! Biết được mình rối thì không rối vì nếu đã rối sao có thể biết! Và như thế, ít nhất trên đời này có được một kẻ không sợ sai lầm. Đức Giêsu cũng giỏi vì đã có thể khiến cho kẻ đầu đầy lý luận biết mình tăm tối... Ha! Ha! Ha!

- Anh ngạo em đó phải không?

- Tôi nào dám ngạo chị mà mừng thì đúng hơn vì nếu ai cho rằng mình cảm nhận được những điều Phúc Âm nói mà đồng thời không cảm nhận được Đức Giêsu nói những lời ngang ngược đối với lối nhìn thị dục thì chỉ là nói phét. Thế nên, có thực sự thấy mình tăm tối khi tìm hiểu về lòng tin mới phải bám víu vào Đức Giêsu để ăn vạ đòi Thánh Thần soi sáng. Hơn nữa, có điều kỳ lạ, Đức Giêsu thích làm cho những kẻ thực lòng muốn cảm nhận điều Ngài nói rối khùng lên giống như bị kẹt trong đường hầm tăm tối mới thèm xúi Thánh Thần nhá đèn. Có vậy mà không chịu hiểu lại dám nói tôi ngạo...

- Thì em đã có kinh nghiệm đâu mà biết.

- Vậy cái rối của chị như thế nào mà nói đã gặp...

- Sở dĩ mà em tìm hiểu lòng tin vì lần trước anh nói thử nghe dại anh chỉ tìm hiểu lòng tin thôi. Sau hai ngày suy gẫm về dụ ngôn thứ ba không đi đến đâu, em đọc qua một lượt bốn Phúc Âm và để ý đến những câu nói về lòng tin. Càng đọc em càng thấy Phúc Âm nói một lòng tin thật khác lạ xưa nay em chưa từng nghĩ đến mà có được nghe giảng về lòng tin thì chỉ có nghĩa cho rằng Thiên Chúa hiện hữu hoặc coi Phúc Âm như những bài học luân lý, tốt lành hơn nữa là sự khuyến khích lối sống theo tác phong đạo đức. Nhưng có một câu làm em ngơ ngác không biết nghĩ sao đó là câu 8 đoạn 18 của Phúc Âm Luca, "Tuy vậy Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?" Thực ra, xưa nay, có lần nào vô tình cầm đến cuốn Kinh Thánh thì em cũng chỉ cầm cho qua vì chữ nhỏ li ti, nói toàn những chuyện như huyền thoại không thể áp dụng... Ngược lại, khi đọc và để ý về lòng tin, em thấy có điều gì khó mà tổng hợp. Bởi vậy, để có nhận xét rõ ràng hơn, em lấy giấy chép lại những câu nào có chữ tin thì được tất cả hơn kém một trăm mấy chục câu. Thế rồi lọc ra những câu cần thiết để mong có thể hiểu được định nghĩa lòng tin là gì, em lại càng cảm thấy bối rối.

- Chị thấy bối rối ra sao?

- Trước tiên, em cảm thấy lo sợ vì đã bao lâu nay, từ nhỏ đến lớn, nào học giáo lý, nào đi nhà thờ, nghe những lời giảng giải, nào tham gia đoàn thể nọ, đoàn thể kia ngoại trừ kỳ này em tạm nghỉ một thời gian, nào rước phách, làm tuần bẩy ngày, chín ngày, thôi thì đủ thứ... Đùng một cái, gần hai ngàn năm nay câu Phúc Âm vẫn nằm chình ình thách đố với lời nghi ngờ, "Tuy vậy Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?" Vậy bao nhiêu Kitô hữu chẳng lẽ có thể bị tiêu diệt trước khi Đức Giêsu trở lại hay sao? Em tự đặt câu hỏi lý do gì Phúc Âm đưa lên câu này? Và lòng tin của mình ra sao? Tuy nhiên, em thấy Đức Giêsu nói về một lòng tin đã lắm, phê lắm, nhưng lại cũng ngang lắm, và đồng thời quyền lực lắm lắm...

- Chị định nói tiếng lạ hay sao mà cứ lắm lắm như người nói lặp vậy?

- Sao anh vội thế, hãy để Thánh Thần làm việc coi... Lắm lắm hay lặp cũng thế thôi nào có chi lạ lùng... Ah! Đúng, lòng tin Đức Giêsu nói lạ lùng mới đúng chứ không phải như mấy nhà thuyết giáo hô hào phải tin thế này, phải tin thế kia. Anh hãy nghe này, chị Lữ lật tờ giấy, đặt ngón tay dõi theo những hàng chữ, nơi Mathêu 8:13, Đức Giêsu nói: "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy" khi viên bách quản gặp Ngài về việc người đầy tớ bị bịnh. Ngài không bảo phải tin như thế nào, Ngài không nói Chúa mấy ngôi, Phật mấy tính, hoặc ông ta theo đạo nào, thờ ai, có được lên thiên đàng, niết bàn, hay phải luân hồi làm con bọ chét, hoặt bị đày ải thiêu đốt dưới hỏa ngục hay không mà rất rõ ràng, "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy." Anh thử nghĩ xem, xưa nay có ai dám nói kiểu này đâu, thật là quá sức tưởng tượng của loài người nếu không muốn nói là không tưởng hay nói dóc. "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy" phỏng mang ý bảo ông đã có sẵn quyền năng, chẳng cần phải làm gì hết, chỉ muốn là được giống như quyền năng của Thiên Chúa vậy, hãy phán một lời thì mọi sự sẽ xảy ra theo ý muốn. Thấy chưa, không đã, không ngang, không lạ lùng lắm lắm đối với con mắt loài người thì là thế nào?

- Như vậy theo chị viên bách quản đã có sẵn quyền năng như Thiên Chúa?

- Em không nói thế, em muốn nói viên bách quản cũng chỉ là người như mọi người và Đức Giêsu không đưa ra sự phân biệt ông ta theo đạo nào, làm gì, mà chỉ cần tin rằng chuyện gì xảy ra thì sẽ được như thế. Từ đó suy ra, nơi mỗi người, bất kỳ là ai, đã có sẵn một quyền lực nơi mình và quyền lực này biến điều mình thực sự tin thành sự kiện.

- Thế thực sự tin là làm sao?

- "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy," chị Lữ lẩm nhẩm. Lúc mới đọc câu truyện, chữ tin trong câu này có nghĩa điều gì Đức Giêsu muốn thì sẽ xảy ra bởi ông ta đã nêu lên vai trò của ông khi ra mệnh lệnh cho những người thuộc hạ để so sánh với ý nghĩ về quyền lực của Đức Giêsụ Tuy nhiên, câu trả lời của Đức Giêsu chỉ thu gọn, "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy" chứ Phúc Âm không ghi ông đã tin vào tôi có thể làm chuyện đó thì được như vậy, hoặc ông đã tin tôi làm được thì tôi làm như vậy. Thế nên, em nghĩ, chữ tin ở đây chỉ ước muốn của viên bách quản cho người đầy tớ được khỏi bệnh. Như vậy, thực sự tin là thực sự ước ao điều mình muốn xảy đến.

- Nói như thế có nghĩa cứ muốn là được? Thế đã bao nhiêu điều chị ước muốn trong cuộc đời phỏng đã đạt được hết?

- Đây mới là lần đầu em suy nghĩ về câu Phúc Âm này và thấy như vậy chứ từ trước tới giờ em đâu để ý về ước muốn. Mà thật ra, em nghĩ, mình chỉ ước muốn những gì không cần thiết không à! Những gì thực sự cần thiết cho cuộc sống thì mình đã có không những đủ mà có lẽ thừa thãi nữa là đàng khác.

- Chị muốn nói theo ý nghĩa nào?

- Anh thấy không, nhịp đập con tim là cần thiết nhất, lá phổi thở... những sự tối quan hệ như thế nào có ai để ý mà chỉ nào là quần áo cho đẹp, nhà cho sang, cho hơn những người chung quanh hoặc khỏi bị chê là dổm, xe nọ pháo kia v.v... Đến khi dư ăn dư mặc có tí tiền trong nhà băng thì ra bộ ta đây, xốn lên nào thế này, nào thế nọ, đánh bài đánh bạc, mất tầu, mất nhà, mất cả vợ con... Những sự nguy hại bởi của cải không cần thiết cho sự sống thì làm sao con người thực sự muốn, mà thật ra, có được cũng chỉ khốn khổ thêm. Sự cần thiết cho sự sống là những gì không có không thể được thì mình đã có tất cả. Em nghĩ, đó là lý do tại sao có câu, "Hãy coi chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm, mà Cha các ngươi, Đấng ở trên trời nuôi nấng chúng! Các ngươi không hơn chúng sao?" (Mt. 6:26).

- Tôi thấy chị có rối chút nào đâu, ngược lại có vẻ vào phe với Phúc Âm!

- Phúc Âm đâu đơn giản chỉ có thế mà Đức Giêsu còn nói hơn nữa trong trường hợp người phụ nữ bị băng huyết: "Lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mt. 9:22). Em chưa từng thấy bất cứ một vị thuyết giáo nào dám nói đến câu này mà chỉ thấy nói Trời giúp, Phật phù hộ, và Chúa cứu. Anh thấy không, chỉ có Đức Giêsu nói điều lạ lùng khiến em đã không tin vào mắt mình. Đọc qua hai Phúc Âm khác cũng thế; nơi Mác cô 5:34 ghi rằng: "Ngài nói với bà: Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con; hãy đi bằng yên và lành hẳn tật nguyền của con." Phúc Âm Luca đoạn 8 câu 48 ghi gọn hơn: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con, hãy đi bằng yên." Tại sao Phúc Âm không ghi rằng, vì con đã tin vào ta thì ta cứu chữa con, hoặc vì con đã tin vào Thiên Chúa nên Chúa cứu chữa con. Như vậy, cứ theo ba câu Phúc Âm này thì chính lòng tin nơi người phụ nữ bị băng huyết chữa lành bệnh của bà ta chứ Đức Giêsu không chữa. Anh nghĩ thế nào, có phải Đức Giêsu nói rằng có quyền lực nào đó được gọi là lòng tin nơi con người chữa lành được các bệnh tật không. Đức Giêsu không đặt điều kiện gì, không đòi hỏi thế này thế kia, không nói rằng vì bà ta đã tập luyện thiền hay zen được những bao lâu, hoặc theo phe phái nào từ xưa tới giờ, chẳng cần công phu công phụ gì ráo trọi mà chỉ nói đến lòng tin cứu chữa. Như vậy, phỏng có phải lòng tin là quyền lực nào đó nơi mọi người mà không ai nhận biết nên chẳng biết xử dụng.

- Tôi nghe chị nói giống như một nhà hộ giáo, nói như vậy không đúng, chị đang diễn giảng Phúc Âm. Có lẽ, chị nên lên toà giảng để giải thích Phúc Âm về lòng tin cho mọi người mới đúng.

- Anh chưa nghe hết đã dám kết luận em diễn giảng Phúc Âm. Không phải vậy đâu mà em đang nhận thấy Phúc Âm nói về một lòng tin đối nghịch với đức tin mà em được dạy dỗ từ bao lâu naỵ Chẳng những thế, lòng tin Đức Giêsu nói đến không những khác hẳn mà hoàn toàn ngược lại những gì các nhà thuyết giáo hô hào rao giảng nơi hội đường hoặc trên ti vị Chính điều này làm em bối rối.

- Tại sao lại bối rối phi lý như vậy? Họ nói điều họ cho là đúng theo sự suy nghĩ của họ; chị đọc Phúc Âm nhận thấy sao thì tùy ý, nào ai bắt chị phải nghĩ giống họ đâu! Chẳng lẽ khi chị coi ti vi, trong đó có ông nào đang thuyết giảng mà chị nghĩ khác, ông ấy có thể nhảy ra khỏi màn ảnh ti vi bắt chị phải tin theo những điều ông ta nói?

- Em không nói về ai bắt em phải tin giống họ mà em bối rối vì nhận ra Phúc Âm nói về một lòng tin không giống bất cứ ai rao giảng cả! Phỏng em sai hay họ sai?

- Có lẽ họ cho rằng mình ngu như chị đã đặt vấn đề lúc nãy; để tôi nhắc lại lời chị nói, "Không biết mấy nhà hùng biện tôn giáo ấy có nghĩ rằng tất cả những người đang nghe họ nói là ngu hết không?" Thế thì bối rối chi cho mệt...

- Anh nhắc lại thì anh nhớ chứ em cũng chẳng biết mình đã nói gì!

- Ha! Ha! Lời Phúc Âm đã ứng nghiệm, "Song khi nào Ngài đến, vì là Thần khí sự thật, Ngài sẽ đưa các ngươi vào tất cả sự thật; vì không phải tự mình mà Ngài nói, nhưng nghe gì Ngài sẽ nói ra, và Ngài sẽ loan báo cho các ngươi những điều sẽ đến" (Gioan 16:13), "Vì không phải các ngươi nói, mà là Thần Khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi" (Mt. 10:20). Chính chị nói mà không nhớ mình nói gì thì chỉ còn cách đổ lỗi cho Thần Khí...

- Anh muốn biến em thành kẻ kiêu ngạo không đó?

Chị tưởng tôi trích câu Phúc Âm nhạo chơi? Không phải đâu, thế chị không nhớ có lần tôi đã nói là mình được sinh ra với tất cả những sự cần biết, không ai học từ nơi ai cả. Mọi người chung quanh, sách vở, những sự kiện xảy đến, tất cả chỉ là phương tiện để cho một người tỉnh thức mà nhận ra những gì mình đã có sẵn. Ngược lại, những gì mình đã không có thì đến muôn đời một người cũng chẳng thể biết được. Chị đã có sẵn lòng tin nên vào thời điểm này, Phúc Âm trở thành phương tiện hay cơ hội cho chị nhận thức về lòng tin nơi chị mà thôi. Có lẽ chị chưa bao giờ đọc câu trong sách tiên tri Yêrêmia: "Ta sẽ đặt luật của Ta vào bên trong chúng và Ta sẽ viết trên tim lòng chúng... Chúng sẽ không còn, mỗi người, phải dạy bảo nhau... Vì hết thảy chúng đều biết Ta, từ kẻ bé đến người lớn... " (Yêr. 31:33-34). Hoặc câu khác nơi sách tiên tri Joel: "Ta sẽ đổ Thần khí của Ta trên mọi xác phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ tuyên sấm. Kẻ già nua sẽ chiêm điềm mộng. Trai tráng các ngươi sẽ thấy thị kiến... " (3:1). Sẽ còn nhiều chuyện lạ lùng xảy đến chứ bối rối chỉ là bước khởi đầu. Có vậy, chị mới cảm thông được với Đức Giêsu do các môn đồ không nhận biết những gì Ngài rao giảng đến nỗi Ngài đã phải than lên "Ôi thế hệ cứng tin... " Có hiểu cóc gì lời Ngài nói đâu mà tin với không... Ngài nói phải bỏ hết những lối nhìn cũ, những tư tưởng Chúa phạt, Chúa đứng về phe người Do Thái, Chúa thưởng kẻ lành, Chúa thế nọ, Chúa thế kia... Bộ tự nhiên mà chị có thể nhận ra được chị trở thành bãi chiến trường cho hai đối thủ yêu thương và án phạt của những nhà thuyết giảng tôn giáo vung tay múa chân rao truyền sao? Mỗi sự vật, sự kiện, có lý riêng của nó. Nếu chị chấp nhận được ông Thượng Đế thiên vị theo lối nhìn của dân Do Thái sao chị có thể chấp nhận được Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng, sao chị có thể cuống lên vì lòng tin, sao chị có thể bỏ thời giờ ngồi chép lại những câu Phúc Âm nghe đến chối tai, được in với loại chữ nhỏ vừa bằng cái mắt muỗi. Những sự kiện đó xảy đến với chị ngoài ý muốn nhưng cần biết mọi việc có lý riêng của nó... Phải là con người đầy đủ tính chất như chị, phải trải qua cuộc đời của chị, và phải đến thời điểm này sự suy tư Phúc Âm mới có thể xảy đến khiến cho chị khùng lên. Mà nếu chị đã không khùng lên vì những gì được nghe, được dạy dỗ, chị không thể nào có được năng lực tìm hiểu lòng tin. Suy luận như thế nhưng Kính chỉ trả lời,

- Tôi không muốn chị trở thành gì hết, cứ hãy là chị, thế thôi. Hai mươi thế kỷ qua, lời Phúc Âm vẫn còn là một thách đố... Thiên Chúa Đức Giêsu rao giảng vẫn chưa được nhận biết. Chị có hiểu tại sao chị nhận ra người ta đã chỉ nhìn vào Phúc Âm như những bài học luân lý hay đạo đức? Tại sao chị không chấp nhận như mọi người... Giỏi, chị không chấp nhận Lời Chúa như mọi người nên bịt cái miệng luôn, ai nói, ai hỏi gì cũng ậm ừ... Đến lúc này... bộ chị tưởng chị đang nói đấy ư? Không đâu, đừng nghĩ thế mà lầm... Chúng ta chỉ tưởng tượng mình suy nghĩ, nhưng thực ra, chính Thượng Đế đang suy nghĩ nơi chúng tạ Bởi vậy, những gì chị có thể hiểu biết thì chị đã có sẵn. Nếu ai nhận chân được thực thể này, chẳng còn gì đáng nói...

- Anh nói gì? Anh bảo không phải mình suy nghĩ mà chính Thượng Đế? Rồi gì nữa, Thiên Chúa Đức Giêsu rao giảng như thế nào? Bộ có hai Thiên Chúa sao? Và anh còn nói gì, mình được sinh ra với tất cả những sự cần biết?

Kính ngồi yên nhìn vẻ mặt thách đố của chị Lữ. Anh chờ chị nói tiếp, nhưng không, chị đang đợi câu trả lời.

- Tôi có ý chờ xem chị có đưa nhận xét cho rằng tôi nói đúng hay nói sai về mấy điểm chị hỏi... Thế ra tôi lại bị lầm thêm một lần nữa đó là tôi đã tưởng chị lên tiếng ráp nối cho rằng tôi đưa ra ý nghĩ mình nói là Chúa nói... Cũng giỏi, chị có bộ Óc suy luận nối kết tuyệt vời và cái miệng biết im đúng lúc. Thế chị có biết quyền lực nào khiến con tim chị đập ngoài ý muốn của mình, lá phổi thở tự nó, và hàng tỷ tế bào li ti tạo thành cơ thể mỗi người đang sinh động, lớn lên, sinh sản, và chết đi mặc dầu không bao giờ được nghĩ tới?

- Theo các bác sĩ, con tim đập do sự luân lưu của máu huyết nơi cơ thể.

- Vậy đã ai chế ra được con tim, hệ thống mạch máu nhân tạo chạy trong một cơ thể như người rồi cho nó luân lưu để tự tạo thành nhịp đập con tim chưa?

- Phi lý, vì năng lực hoàn lại bị mất đi, sao có thể tiếp tục đập tự nó được.

- Thế sao chị nói theo lời nhận định của các bác sĩ?

- Ừ nhỉ, phải có động lực đặc biệt bổ xung...

- Chị thấy không, khi ngủ, mình quên luôn cả thân xác của mình mà con tim cứ đập, phổi cứ thở, dẫu chẳng bao giờ để ý mà cứ bẩy năm cả tỉ tế bào tạo thành thân xác mình đổi mới. Quyền lực khiến con tim đập, phổi thở, và những tế bào sinh hoạt tự chúng nơi thân xác mình tôi gọi là Thượng Đế, hoặc là quyền lực hiện hữu. Thế nên, đối với tôi, Thượng Đế chính là Quyền Lực Hiện Hữu, nói cách khác, là cội nguồn của mọi sự hiện hữu, hữu hình cũng như vô hình. Tư tưởng là một sự hiện hữu nên Thượng Đế ở đó mà sự suy nghĩ của con người cũng là sự hiện hữu dù sự suy nghĩ đó thế nào chăng nữa, đúng, sai, phải, trái, tốt, xấu... Thượng Đế ở tất cả.

- Như vậy làm sao giải thích những tư tưởng tội lỗi?

- Chị quên thực thể của sự vật và sự việc. Tất cả đều có hai mặt; những đối cực đều cùng một bản tánh nhưng khác độ mà thôi vì những cái cực đoan lại gặp nhau. Tất cả mọi chân lý đều là những chân lý một mặt nghĩa là không bao gồm tất cả. Cũng một sự kiện, đối với người này tốt, đối với người kia xấu thì tư tưởng tự nó vẫn đứng trung lập, được gọi là tốt lành hay tội lỗi không phải tự nó. Chị có nhớ chị đã nói về xăng chạy máy những chiếc xe gia đình cổ xưa không?

- Anh muốn nói tư tưởng tội lỗi chỉ do người tội lỗi tạo ra?

- Chị đừng nối kết tư tưởng và con người dẫu tư tưởng từ con người phát sinh. Hãy xét tư tưởng tự nó vì nó cũng là một sự hiện hữu mà Thượng Đế là cội nguồn mọi sự hiện hữu thì Thượng Đế cũng ở đó. Tuy nhiên, ý niệm tội lỗi hay tốt lành tùy thuộc bảng giá trị của con người trong điều kiện và thời điểm cũng như nơi chốn ý niệm đó được phát sinh. Thí dụ, chị có ý làm thịt con gà chị nuôi để nấu bữa ăn thì ý nghĩ này là sự tốt lành theo nhận định của chị và của mọi người. Đàng khác, nếu chị có ý nghĩ làm thịt con gà của người khác ngoài sự đồng ý của họ thì chị thấy không ổn phải không? Cũng phải thêm rằng có thể chị chưa bao giờ nghĩ tới làm thịt con gà của hàng xóm. Chị thấy không, cũng chỉ là ý nghĩ hay ý định làm thịt một con gà như nhau nhưng vì điều kiện khác nhau, ý nghĩ đó trở thành nên hay không nên, nói cách khác, tội lỗi và tốt lành. Thế nên, tư tưởng không tốt lành, không xấu xa, nó đã có tức là nó hiện hữu dầu không nhìn thấy. Vì nó hiện hữu, Thượng Đế tất nhiên ở đó bởi Ngài là cội nguồn mọi sự hiện hữu.

- Thế theo anh, Thượng Đế là cội nguồn mọi sự hiện hữu hay là tất cả những sự hiện hữu góp chung lại?

- Tôi dùng danh từ Quyền Lực Hiện Hữu chỉ về Thượng Đế, Thiên Chúa để tránh ý niệm phân biệt chúng ta thường hay vấp phải nảy sinh cái tôi tách rời riêng biệt. Sự sống nơi chị và thân xác chị là hai thực thể hay là một? Chị lập gia đình với anh Lữ thì chị cưới thân xác anh ấy hay sự hiện hữu, cái hồn của anh ấy? Và giả sử có người nào yêu thương ai đó đến mức độ không thể có nhau không được, nhưng khi gần cưới, một trong hai người chẳng may chết, người còn sống phỏng chấp nhận cưới một xác chết? Thế quyền lực nào khiến cái xác sinh động. Quyền lực hiện hữu bao trùm tất cả muôn loài hữu hình cũng như vô hình, từ một nguyên tử nhỏ không thể nhìn thấy được đến vũ trụ hơn mười tỷ giãi ngân hà. Quyền lực này khiến một nguyên tử nhỏ như thế có cơ cấu chẳng khác gì cơ cấu của một hệ thống mặt trời, và lớn lao hơn, giãi ngân hà, hay cơ cấu vũ trụ. Chị có thể tưởng tượng nổi sự khôn ngoan nào đã dẫn đường chỉ lối cho những con cá hồi tìm về nơi chôn rau cắt rốn để sinh sản dẫu suốt cuộc đời nó lớn lên ở ngoài biển như chị đã thấy chiếu trên truyền hình băng tần Discoverỷ Cũng được chiếu nơi chương trình này, những con lươn biển gồm các loại khác nhau tùy thuộc nơi chốn chúng cư ngụ, nhưng đến thời kỳ sanh nở, qui tụ về quần đảo Bermuda sinh con và chết, và khi những con lươn con được sinh ra tại đây không biết gì về sinh quán của bố mẹ chúng mà vẫn trở về sinh sống và lớn lên. Quyền lực nào hướng dẫn những con lươn Mỹ không về Pháp và lươn Nhật không sống tại Việt Nam. Trong cuộc sống hữu hình này, loài nào giống nấy được xếp đặt theo một thứ tự không thể nào trí óc loài người hiểu nổi. Chị đã bao giờ gặp ai cặp mắt ở đàng sau, hoặc cái miệng bên trên cái mắt? Định luật thứ tự nào sắp xếp để cho trứng và tinh trùng nhỏ li ti nơi dạ con người đàn bà phát triển trở thành một con người với những bộ phận khác biệt mà vị trí cũng như công việc của chúng nơi nào vào chốn đó. Bộ Óc con người phỏng tự nhiên mà phát sinh những tư tưởng kiến tạo nhiều ngành nhiều loại... Câu hỏi được đặt ra là quyền lực nào ở nơi mọi sự mọi vật, quyền lực nào khiến các âm điện tử quay quanh dương điện tử? Tại sao có hấp lực, vậy quyền lực nào tạo nên và điều chỉnh hấp lực, thái dương, vũ trụ, sắp xếp nhiệm vụ của từng nhịp tim đập được chia thành những thời kỳ nghỉ ngơi, bơm máu, hút máu vào các ngăn? Như vậy, mọi thực thể này được hướng dẫn bởi quyền lực bao trùm tất cả mà tôi gọi là Quyền Lực Hiện Hữu hay là Trời, Thiên Chúa, Thượng Đế.

- Như vậy có nghĩa Thượng Đế luôn luôn thay đổi?

- Thế những tôm cá đang sinh sản, lớn lên và bị ăn thịt hay chết đi nơi biển cả, nghĩa là chúng đang thay đổi thì biển cả có biến thành cái ao nếu không có sự biến chuyển của mặt đất không?

- Tất nhiên là không?

- Và có thể dùng hình ảnh biển trong giới hạn thời gian không bị chuyển biến của mặt đất ảnh hưởng để nói rằng tôm cá trong biển thay đổi thì biển cũng thay đổi không?

- Nửa nọ nửa kia...

- Thượng Đế cũng thế thôi nhưng đừng so sánh, ráp nối, trong tư tưởng giới hạn vì Thượng Đế mà chúng ta có thể tưởng tượng hay hiểu được chỉ là sản phẩm của tưởng tượng mà thôi. Dùng hình ảnh để dẫn chứng về tính chất vô hình vô tướng không dễ chi vì dẫu sao vẫn bị giới hạn nhận định ngăn cách thực thể. Chính ngay cảm nghiệm của một người mà đã không có thể nào diễn giải cho kẻ khác cảm được một cách chính xác thì nói chi tới những hình ảnh nói về Thượng Đế. Kính cảm thấy e ngại, thầm kêu nài Đức Giêsu sai gấp Thần Khí... nếu không thì nguy...

- Như vậy, con người hoàn toàn ở trong Thượng Đế như cá ở trong biển?

- Hơn thế nữa, có thể một phần nào được biểu hiệu như ngọn sóng nhỏ bé với biển cả hay đường tan trong nước... Con người được ví như ngọn sóng bản chất là nước nơi biển cả. Ngọn sóng bùng lên vì sự biến chuyển của nước, và như vậy...

Chương 9

- Chuyện sẽ xảy đến như Đức Giêsu tỏ cho các môn đồ là điều phải đến, nhưng vì Phêrô, qua kinh nghiệm sống, chứng kiến những chuyện đã xảy ra thì nghĩ rằng với quyền lực ông đã nhìn thấy theo con mắt thế tục nơi Đức Giêsu, tất nhiên sẽ không thể có chuyện những người đối lập làm khó cho Ngài. Như vậy, Satan là ước muốn theo quan niệm thế tục mà thôi chứ thần thánh chi, ma quỉ gì, vì nếu Thượng Đế là cội nguồn mọi sự hiện hữu, ý niệm satan cũng là một sự hiện hữu, ý niệm thiên thần kiêu ngạo nổi loạn rồi bị phạt cũng là một sự hiện hữu mà ngoài Thượng Đế thì không có gì hiện hữu, sao con người có thể tưởng tượng được? Chị thử xét coi, người nào mang ý niệm sợ bị phạt thì đã bị phạt rồi. Hình phạt này chính là sự sợ hãi điều mình không muốn sẽ xảy đến. Chị thấy không, mới đơn giản nhận định như thế đã thấy quyền lực của ý nghĩ ảnh hưởng chính người suy nghĩ. Bởi đó muốn thoát khỏi sự sai lầm, muốn thoát khỏi ảnh hưởng của lối nhìn thế tục thì chỉ nên lặp lại lời chị đã nói thêm một lần nữa, nhận định nhưng không nhận định. Thực ra, còn nhận định thì còn sai, còn tạo thêm lầm lỗi; điều này cũng đã có trong Phúc Âm mà chúng ta không để ý hoặc không hiểu mà thôi; đó là câu: "Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét" (Mt. 7:1; Lc. 6:37). Nơi Gioan nói rõ hơn nhưng vẫn không dễ gì hiểu được nếu không đặt vấn đề về thực thể sự việc, "Đừng theo mã ngoài mà xét xử! Hãy xét xử cho công minh!" (Gioan 7:24). Mã bề ngoài là những gì mình nhận thấy tùy thuộc lòng mình. Lòng mình thế nào thì nhận thấy sự việc thế ấy cũng như cùng một trái ớt, người ăn được thì ngon mà kẻ không ăn được thì trái ớt trở nên khốn khổ. Bởi vậy xét xử cho công minh thì đừng xét xử bởi sự việc xảy ra có lý riêng của nó mà mình có biết chi đâu. Thế nên, "Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán" thường được hiểu theo nghĩa luân lý; mà nhận định nhưng không nhận định cũng cùng một nghĩa thì nghe ngang tai bởi có vẻ khuyến khích người khác trở nên ngớ ngẩn. Chỉ khi nào câu nói của chị trở nên chính chị thì chị mới thoát được quyền lực của ý nghĩ vì đã có ý nghĩ, tất nhiên sẽ bị thiên về một trong hai mặt đối nghịch của sự việc: đúng hoặc sai, phải hoặc trái. Từ đó suy ra, Satan, ma quỉ, chỉ là ước muốn theo lối nhìn thế tục và ước muốn này ám ảnh nặng nề đến nỗi con người khi chết rồi hồn vẫn không thoát khỏi tham muốn này... Điều này có thể được giải thích với câu: "Ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó... "

Anh nói vậy mới có lý, đã bao lâu nay em cứ thấy câu "Muốn là đã được một nửa" thật phi lý vì giả sử câu này đúng thì em đã có nửa quả địa cầu này tha hồ vung vít... Không ngờ, ý nghĩa của câu nói phi lý nằm về địa hạt tâm linh... Hèn chi có câu nói "Không làm điều xấu đã khó, không nghĩ đến điều xấu lại càng khó hơn." Nhưng tất cả ở trong Thượng Đế... Sao mà rắc rối quá vậy?

- Chị thấy rõ, mọi sự, mọi vật đang trên hành trình biến chuyển dù mình không để ý tới vì không có bất cứ gì đứng yên một chỗ. Ngay cả những thành phần bé nhỏ nhất của nguyên tử là âm điện tử cũng đang máy động chung quanh dương điện tử. Thế nên, tất cả đang biến đổi như dòng nước chảy dẫu dòng nước vẫn là dòng nước. Tuy nhiên, cái gì cũng tự chất chứa nửa nọ nửa kia. Ý nghĩ, ước muốn, ý định tự nó là một sự hiện hữu trung dung, không đúng, không sai. Nó được coi là đúng hay là sai tùy sự nhận định nơi con người trong những điều kiện đã ảnh hưởng con người. Chỉ khi nào con người thoát khỏi lối nhìn đúng sai mới nhận chân được sự việc, nhận ra được Quyền Lực Hiện Hữu đang liên tục biến chuyển, mới nhận chân ra được sự đối nghịch coi bộ không thể hòa hợp lại cũng chỉ là một trong Quyền Lực Hiện Hữu. Thế nên, sự đối nghịch luân lý này không phải tự bản chất sự kiện hay sự việc; nó được phát sinh từ chính lối nhìn luân lý thiên kiến nơi mình khiến có nhận định sai lệch. Sự kiện xảy ra tự bản chất nó như mặt trời soi sáng trong những ngày gắt nắng; người phơi lúa, phơi hạt giống thì nói trời phù, may mắn; trái lại, kẻ cấy rau thì than rằng ác độc... Mặt trời tốt cho ai và độc ác với ai thì chính người ấy biết chứ tôi chắc chắn không biết, có chăng chỉ biết nó soi, nó vẫn soi.

- Nếu nói như vậy, con người bị ám ảnh bởi ước muốn thế tục tức là đang chịu luận phạt bởi sự nhận định của mình mà muốn tránh sự ám ảnh này tất nhiên đừng nhận định nữa, chỉ nên sống trôi theo dòng đời, nó muốn đến đâu thì đến, không cần cố gắng?

- Thật ra, có cố gắng đến cách mấy thì cũng chỉ tạo thêm lo âu phiền não cho mình mà thôi bởi thực tế minh chứng có chưa chắc đã hơn không. Hơn nữa, còn cố gắng thì chỉ càng chạy theo thị dục, ước muốn. Mà còn ước muốn vẫn còn chọn lựa, vẫn trở thành nô lệ cho nhận định vì có nhận định là có đúng sai, hơn kém, nên lại theo đuổi một chân lý vô nhân đạo nào đó, và như vậy, không còn tự do tư tưởng vì đã bị lệ thuộc cho điều mình cố gắng trở thành. Tự suy sẽ thấy, đã cố gắng trở thành bất cứ gì thì vẫn không phải là mình. Thế nên, sự cố gắng trở thành bất cứ gì tức là không sống cho mình mà sống cho ước muốn, tạo thêm ưu tư phiền não... Điều này Phúc Âm nói rõ: "Hãy coi chim trời. Chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm, mà Cha các ngươi, Đấng ở trên trời nuôi nấng chúng! Các ngươi không hơn chúng sao? Ai trong các ngươi chỉ lo mà có thể thêm cho đời mình một gang nữa?" (Mt. 6:26-27). Nơi Luca còn được nhấn mạnh: "Vậy nếu điều ti tiểu nhất, các ngươi còn không thể làm, tại sao lại áy náy về các điều khác" (12:26). Chỉ một điều cần thiết nhất được Phúc Âm đề nghị: "Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, và sự công chính của Người, và các điều ấy (khác) sẽ được ban thêm cho các ngươi. Vậy chớ lo đến ngày mai: Mai sẽ lo cho mai. Khổ ngày nào, đủ cho ngày ấy" (Mt. 6:33-34). Chị thấy rõ, cố gắng, mơ ước trở thành bất cứ gì chỉ là những chuyện chưa tới, những gì mình không phải, mà tìm kiếm Nước Thiên Chúa thì bị lãng quên hay không được để ý tới. Do đó, không lo cho ngày mai là sống cho giây phút hiện tại này vì khi mình còn muốn gì, thì đã tự động bỏ quên hiện tại bởi ước muốn con người ở đâu thì lòng dạ họ Ở đó. Sự sống như một giòng sông cuồn cuộn chảy không bao giờ đứng im; bởi vậy, khi ta tiếp xúc với nó mà tâm hồn mơ ước cho tương lại hoặc quyến luyến với quá khứ thì không thể nào tiếp xúc với nó được.

- Và như thế anh muốn nói nếu không có ước muốn sẽ không bị ảnh hưởng hoặc trách nhiệm về kết quả sự việc xảy đến? Anh lại vừa nói tới Nước Thiên Chúa, đã không ước muốn thì tại sao lại bày ra tìm kiếm bất cứ gì?

- Chị đặt câu hỏi về nhiều vấn đề dồn dập, chưa giải quyết xong vấn đề này lại chồng chất thêm những vấn đề liên hệ khác. Ít nhất hai câu hỏi về Thiên Chúa của Đức Giêsu, và mình được sinh ra với đầy đủ những gì cần biết chưa được đá động tới. Thêm vào đó, những chi tiết phụ cứ theo đà suy luận mà nảy nở, bây giờ lại thêm đề tài Nước Thiên Chúa... có lẽ phải kèm thêm sự công chính của Ngài...

- Thì anh hãy cứ coi đây là giòng sông bàn luận đang cuồn cuộn chảy, nó tới đâu thì tới... vì mỗi vấn đề được tiếp nối tự có lý riêng của nó, và đúng thời điểm từng vấn đề sẽ được đề cập...

- Giỏi, chị tổng hợp như thế chứng tỏ đã phần nào đẩy ý muốn ra khỏi hiện tại để nhận định nhưng không nhận định... Trở lại vấn đề ước muốn và trách nhiệm. Chị thử tưởng tượng đứng nhìn con tò vò xây tổ. Chị dõi theo con côn trùng bé tí có hai chiếc cánh nếu nhìn theo con mắt kinh nghiệm thì không thể nào nó nhấc chân lên khỏi mặt đất thế mà bay, nó vẫn bay đi lấy đất rồi còn biết đất chỗ nào nên lấy, chỗ nào không nên và xây cái tổ tôi và chị không thể nào xây được. Theo dõi con tò vò, chị có đặt vấn đề tổ tò vò đẹp hay xấu không? Nếu nói nó thế nào chăng nữa thì lại cần một kiểu mẫu nào đó làm đối tượng so sánh. Tổ tò vò chỉ là tổ tò vò nhưng đẹp xấu thì tự Ở nơi ý nghĩ của chị chứ đâu phải nơi tổ tò vò. Chính bởi ý nghĩ của chị tạo nên mối liên tưởng so sánh cho rằng tổ tò vò nên như thế nọ, nên như thế kia mà sinh ra ý niệm xấu hay đẹp theo ước muốn của mình. Chị có nhớ câu Phúc Âm "Hết thảy hãy nghe Ta mà hiểu lấy! Không có gì ở ngoài người ta mà vào mình có thể làm cho người ta ra nhơ uế được; nhưng chính các điều tự người ta ra là những điều làm cho người ta ra nhơ uế" (Mc. 7:14-15). Như vậy, nhận định đúng đắn tức là sống cho hiện tại chứ không phải xét đoán hơn kém, đúng sai, vì khi còn đặt vấn đề phải thế này phải thế kia, còn ước muốn là còn lệ thuộc những gì đã chết với quá khứ và dùng chúng làm mẫu mực tạo nên cái nhìn sai lầm được gọi là nhơ uế. Còn nhận định còn phân chia thiện ác nên còn sai lầm bởi còn dùng cái đã chết đo cái sống trong khi điều kiện tác thành cái đã chết hoàn toàn khác biệt những điều kiện tạo nên cái sống hiện tại. Bởi đó, ý nghĩ, ước muốn, thị dục tự bên trong chỉ làm cho con người nhơ uế, sai lầm chứ sự kiện như hiện tại, dòng hiện hữu tiếp tục biến chuyển không ngừng, không biết đâu mà lường; suy thế, sự cố gắng hoàn thành ước muốn chỉ giết chết hiện tại, bỏ quên tự thể của mình. Ứng dụng vào sự kiện và hành động, tự chúng không tốt, không xấu, nên không tạo thành trách nhiệm mà sự tốt xấu tự lòng người gán cho chúng tạo nên ưu tư hay phấn khởi... Như thế, còn ước muốn sự việc, sự kiện phải thế này, phải thế kia còn phiền hà, còn trách nhiệm mà bỏ quên điều tiên vàn Phúc Âm khuyến khích là vấn đề chị vừa nêu lên: "Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, và sự công chính của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi" (Mt. 6:33; Lc. 12:31).

- Em nói đúng chưa? Anh còn quá lo âu nhiều thứ nên ngay đến vấn đề nói chuyện cũng phải cần vấn đề này chưa nói, vấn đề kia bỏ dở.

- Thì nó vậy đó, con tò vò lo xây cái tổ bé tí chứ không phải xây cái nhà, mà con người có muốn làm cái tổ bé tí của con tò vò cũng không làm được như nó. Có lẽ tôi không được Thánh Thần cảm ứng nên đành chấp nhận những suy tư hữu hạn đã được sinh ra với mình. Vậy chị thử nhắc lại, theo chị nghĩ Nước Thiên Chúa là gì?

- Thì em được nghe giảng giải là Nước Trời, là thiên đàng, nơi mát mẻ, vui vẻ, vô cùng amen... còn nhiều thứ tốt lành lắm mà em đã chết đâu nên không biết...

- Có nghĩa là những sự tốt lành mà mọi người ước mơ?

- Nếu không ước mơ sao phải cố gắng sống tốt lành để được thưởng trên nước thiên đàng! Anh hỏi chi lạ kỳ!

- Mà đã ước mơ thì đã tự chuốc lấy phiền hà, tự đã muốn trở thành những gì không phải là chính mình?

- Hèn chi người ta gọi anh là ngang... nhưng cũng có lý...

- Vậy Thượng Đế là gì?

- Thì còn gì nữa, Đấng Tạo Hóa, Thiên Chúa, anh định đưa cái bẫy ngang nào nữa?

- Đấng Tạo Hóa hay Quyền Lực Hiện Hữu có chi khác nhau không?

- Anh hỏi có vẻ ngớ ngẩn nhưng cũng có mục đích... thì cũng thế thôi nào có chi khác biệt.

- Như vậy Quyền Lực Hiện Hữu hiện diện ở tất cả dù nơi thế giới hữu hình hay vô hình phải không?

- Tất nhiên, vì không có sự hiện hữu thì sao có thể nói tới được.

- Phỏng có thể nói cách khác là Thượng Đế ở khắp mọi nơi như chị đã được học giáo lý ngày xưa.

- Đúng, rồi sao nữa?

- Thế ở bụi đất chị bước lên trên, nơi không khí, nơi những hồn kẻ chết, hỏa ngục, thiên đàng, tất cả mọi sự đều có sự hiện hữu?

- Dĩ nhiên vì dù là sự vật hay ý tưởng thì cũng là sự hiện hữu.

- Vậy có thể nói Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa, chính Thượng Đế!

- Ah! Có vậy thôi mà bao lâu nay em không nghĩ đến... mà chỉ nào Chúa ngự trên trời, lạy Cha chúng con ở trên trời... Và như vậy chúng ta đang ở trên trời sao?

- Tại sao chị nói chúng ta đang ở trên trời, vậy còn dưới đất, cuộc sống này bỏ đi đâu?

- Anh suy luận vậy cũng có lý, chị Lữ nói như mơ màng, trời đất cũng chỉ là một trong sự hiện hữu của Thượng Đế, tất cả đang như một dòng sông hiện hữu biến chuyển... và tất cả là hiện tại...

- Chị nói đúng, tất cả là hiện tại trong dòng sông hiện hữu biến chuyển của vĩnh cửu và như vậy sống cho hiện tại là đang sống trong vĩnh cửu. Tất cả ở trong Thượng Đế và đang biến chuyển trong Ngài như những con sóng trên mặt đại dương. Sự hiện hữu hữu hình chỉ là một giai đoạn của vĩnh cửu và sự hiện hữu vô hình được mệnh danh bằng những ám định khác nhau tùy quan niệm của con người. Thế nên, tìm kiếm Thiên Chúa là trở lại với tự thể của mình, trở lại với gốc của mình, trở lại với Quyền Lực Hiện Hữu. Đây cũng là lời mời gọi mọi người nhận biết cội nguồn tâm linh Đức Giêsu đã rao giảng: "Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:21), đã đến (Mt. 12:29; Lc. 11:20), và gần bên (Mc. 1:15). Hơn nữa, xưa nay có thể vì ý niệm về Thượng Đế tách biệt với con người, ngự trên chín tầng trời, phô diễn những quyền năng cả thể theo quan niệm Do Thái, do đó những gì được gọi phép lạ Đức Giêsu thực hiện ghi lại trong Phúc Âm bị hiểu theo nghĩa đen. Đồng thời cũng có thể con người vẫn còn bị ám ảnh quá nặng nề bởi lối nhân cách hóa Thượng Đế nên lo sợ bị kết án phạm thượng như những người biệt phái và kỳ lão đã kết án Đức Giêsụ Chúng ta đã không dám đón nhận Phúc Âm với một tâm hồn mở rộng, mà có chăng ngược lại, quá "kính nhi viễn chi" để rồi không cần biết Phúc Âm nói gì, nói cách khác, tránh né sự tìm hiểu trực diện và coi Phúc Âm như những bài học luân lý diễn tả bằng dụ ngôn được nối kết và sắp xếp thành hệ thống. Một thí dụ điển hình, nơi Phúc Âm Mathêu (1:23) được viết: "Và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi." Gọi Đức Giêsu là Chúa, là Thiên Chúa v.v... và hiểu câu này chỉ về sự hiện diện của Ngài ở trần gian vào thời điểm nào đó mang nghĩa quá hạn hẹp. Tại sao lại gọi là Giêsu mà không gọi là Emmanuel nếu tên của Ngài là Emmanuel? Chẳng lẽ lời Kinh Thánh không ứng nghiệm nên gọi Ngài là Giêsu cho hợp với nghĩa Yavê cứu thoát? Và nếu không gọi Ngài như vậy thì Ngài không cứu thoát? Chúng ta gọi ông nào đó là tổng thống, là vua của một nước thì tổng thống hay vua là danh hiệu dành cho người ở vị thế thủ lãnh một quốc gia chứ vua hay tổng thống không phải là tên của ông tạ Gọi Đức Giêsu là Emmanuel thì đây là danh hiệu của Ngài vì Ngài rao giảng "Thiên Chúa ở cùng chúng ta," "Nước Thiên Chúa ở trong các ông, đã đến, và gần bên."

- Như vậy, Đức Giêsu nói lên vị thế cao trọng của con người?

- Của mọi loài vì tất cả ở trong Thượng Đế và cũng chính vì thế lòng tin được nói đến trong Phúc Âm tự nó mang quyền lực cao cả chứ không phải tin có nghĩa chỉ nghĩ rằng Thượng Đế hiện hữu hay không. Hiểu như thế, chúng ta không bị ngạc nhiên về câu trả lời của Đức Giêsu cho viên bách quản: "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13), hoặc với người phụ nữ bị bệnh loạn huyết: "Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mt. 9:22) mà không nói gì đến tin vào Thiên Chúa hay tin vào Ngài. Như vậy, lòng tin hay đức tin cũng chỉ là một; đó là quyền lực hiện hữu nơi mỗi người. Con chim bay được không phải vì có đôi cánh mà phải có quyền lực tiềm ẩn nơi nó. Tại sao biết bao thứ khác cũng có cánh mà không bay? Hơn nữa, nhận thức được quyền lực của Thượng Đế đang bao trùm tất cả chúng ta mới nhận ra mình đang ngụp lặn trong sự thánh thiện, mới nhìn được sự thánh đang từng giây phút xảy ra mọi nơi mọi chốn, và đồng thời mới có thể nhận chân được những ham muốn thế tục là chướng ngại ngăn chận hành trình tâm linh, hành trình trở về cội nguồn Quyền Lực Hiện Hữu.

- Thật lòng mà nói xưa nay nghe giảng giải, em chỉ thấy Phúc Âm được coi như những bài học luân lý... và được viết dưới hình thức khác nghe cho đỡ chán...

- Chị thấy rõ, nếu nhìn Phúc Âm như những bài học luân lý, người ta sẽ gặp phải những bế tắc không cách giải quyết và rồi cứ đề nghị, khuyên răn, hoặc đe dọa rằng phải noi gương Đức Giêsu... Noi gương Ngài thế nào trong thái độ Ngài lên án biệt phái, luật sĩ, và ký lục đến độ vuốt mặt không kịp: "Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng cho vào... Các ngươi rảo khắp biển cả đất liền để chinh phục dẫu một người tòng giáo, nhưng khi nó đã là tòng giáo, thì các ngươi lại biến nó thành con cái hỏa ngục, gấp đôi các ngươi... Bọn dẫn đàng mù quáng... Các ngươi gạn lọc con muỗi nhưng lại nuốt chửng con lạc đà!... Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, mã ngoài hình như đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt thây ma và mọi thứ xú uế; cũng vậy, bên ngoài các ngươi có vẻ công chính đối với người ta, nhưng bên trong thì đầy giả hình và vô đạo... " (Mt. 23:13-35; Lc. 11:40-52). Những người biệt phái, luật sĩ, và ký lục thời đó họ phải giữ những luật lệ thật khắt khe theo truyền thống Do Thái... Họ thuộc loại gương mẫu luân lý... thế mà Đức Giêsu không nói được một câu nào khen họ. Đức Giêsu không đến để giảng về luân lý mà Tin Mừng Nước Trời, rao giảng về Thiên Chúa ở cùng chúng tạ Có thế mới giải thích được tại sao, "Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét" (Mt. 7:1; Lc. 6:37). Khi một sự việc xảy đến, ai là người không tự động có phản ứng! Không phải phản ứng để tranh cãi hoặc để chứng tỏ mình khôn ngoan, sáng suốt, nhưng ít nhất để nhận định, trau giồi kinh nghiệm sống tránh sai lầm theo lối nhìn thế nhân. Tuy nhiên, nhìn nhận theo tâm linh, xét đoán dù thế nào chăng nữa đã đứng về phe của ước muốn và chỉ đem lại cái nhìn sai lầm đưa đến ý nghĩ chẳng nên. Tất nhiên, tự ý nghĩ này mang quyền lực kiến tạo một thực thể do kết quả của lối nhìn thế tục. Hơn nữa, tất cả là một trong Thượng Đế, xét đoán, lên án người khác tức là tự trói buộc chính mình. Quyền lực của ý định, ước muốn chính là quyền lực của sự hiện hữu bắt nguồn tự Thượng Đế. Sự suy luận này chứng minh rõ ràng câu nói: "Không làm điều xấu đã khó, không nghĩ đến điều xấu lại càng khó hơn." Đâu phải phi lý đặt vấn đề nghĩ điều xấu trong khi mọi người đều chấp nhận và tôn trọng quyền tự do tư tưởng. Có nhận thức được Thượng Đế ở cùng chúng ta mới có thể hiểu nổi tại sao Phúc Âm đặt vào miệng Đức Kitô câu nói: "Hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi, ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác" (Mt. 5:45). Luân lý nào giải quyết được câu này? Yêu mến kẻ thù thì phải giúp họ, mà giúp họ thì khác nào mượn họ để tự tử. Luân lý nào giải thích nổi sự soi sáng của mặt trời thiện cho kẻ phơi lúa, ác cho kẻ cấy lúa, trồng rau, mà lại được coi hợp lý hợp tình? Luân lý nào giải thích được câu: "Hãy coi chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm, mà Cha các ngươi, Đấng ở trên trời nuôi nấng chúng! Các ngươi không hơn chúng sao?" (Mt. 6:26). Luân lý làm sao giải thích hoặc thực hiện hợp tình hợp lý câu: "Và người nghèo khó được nghe báo Tin Mừng." Người nghèo họ cần gì? Tin mừng gì khiến cái bụng đói meo ngưng cắn rứt? Chị thử nghĩ coi, phỏng rao giảng Phúc Âm tùy theo nhận định luân lý là thực hiện thâm ý minh chứng Đức Giêsu đã đưa ra những điều không tưởng?

- Như vậy theo anh, nói về Phúc Âm phải nói về chính sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta?

- Khi dùng danh từ sự sống thì đã đương nhiên bao gồm sự chết bởi vì nơi cuộc sống thế nhân có sinh phải có tử. Tuy nhiên, nếu cảm nghiệm được mình đang trên giòng sông hiện hữu của vĩnh cửu, thì giai đoạn hiện hữu hữu hình này linh hồn (tự thể) mình đang trên con đò thăng tiến tâm linh, nói cách khác, đang có cơ hội tăng trưởng lòng tin hầu trở nên thiện toàn như Đức Giêsu đã mời gọi: "Vậy các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:48). Thử hỏi, làm sao chúng ta có thể trở nên trọn lành như Thượng Đế nếu không có bản chất của Thượng Đế nơi chúng tả Một con khỉ dẫu thông minh đến mấy và cho dù có thể luyện tập cho nó chơi đờn dương cầm hay đến mấy thì cũng không bao giờ nó có thể trở thành nhạc sĩ. Chỉ Thượng Đế ở cùng chúng ta, chúng ta mới có thể trở nên thiện toàn giống Ngài. Từ đó, theo tôi nghĩ, câu Phúc Âm, "Đức Giêsu nói với ông (Tôma): Đàng và sự thật, sự sống, chính là Ta! Không ai đến với Cha mà lại không nhờ Ta" (Gioan 14:6) thường bị hiểu lầm hoặc cố tình hiểu lầm để cho rằng Đức Giêsu giống như con đàng mình bước lên theo nghĩa đen. Cho rằng Ngài là sự thật khơi khơi vậy vì có ai nghĩ rằng Ngài nói sai đâu! Và Ngài là sự sống bởi Ngài đã có thân xác hữu hình, chết, và sống lại... Nhưng, hãy dám tự hỏi xem câu Phúc Âm này có thể áp dụng hay cảm nghiệm theo nghĩa đen trong cuộc đời con người không? Tất nhiên, dám tự hỏi thì đã có câu trả lời, và thật rõ ràng, nó trở thành không tưởng nếu không được đặt trên căn bản Thiên Chúa ở cùng chúng tạ Chị có thể nghiệm chứng, Đức Giêsu chỉ cho con đàng để mà đi thì chẳng chịu đi lại cứ ỳ ra đó, hô ầm lên rằng tin với yêu thì sẽ tới đâu? Ngài nói sự thật về bản thể con người thì bảo đó là luân lý để áp dụng theo ý ham muốn riêng tự Ngài nói đến sự sống linh hồn không giới hạn bởi cái chết của xác thân thì cứ sợ xuống hỏa ngục... Rõ khổ, còn cái hỏa ngục nào khốn nạn hơn cái hỏa ngục e sợ khiến phải nhào vào ham muốn thế tục để chạy trốn? Và như thế, làm sao dám nói gì đến sự nhận thức quyền lực của Thượng Đế đang ở nơi mình? Tôi đố chị giải thích sao để có thể chấp nhận được câu (Gioan 11:26), "Phục sinh và sự sống chính là Ta! Ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống; và mọi kẻ sống cùng tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ."

- Anh nói lạ, xưa nay chẳng lẽ chưa từng có ai tin vào Đức Giêsu, nhưng thực tế chứng minh, đâu thấy ai sống đến hai trăm tuổi...

- Có phải chị muốn cho rằng lời nói, "Mọi kẻ sống cùng tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ" có thể bị dịch thuật không đúng?

- Cũng có lẽ vậy bởi ý nghĩa rất rõ ràng nhưng không nghiệm chứng được...

- Phỏng chị e ngại lý do nào đó nên không dám cho rằng lời nói này không tưởng?

- Cũng có thể vì em thấy bất ổn làm sao ấy!

Dân Chúa bơ vơ thế đấy! Lời Kinh Thánh nghe thì chối tai không biết lấy gì nơi thực tế để chứng minh. Đàng khác, nỗi e sợ sai lầm đã thấm nhập tận xương tủy từ bao nhiêu đời bởi được rao giảng Chúa phạt, thế nên chỉ dám đau khổ kính nhi viễn chi trong nỗi khắc khoải lo ngại. Phỏng đây là ý Chúa muốn cho dân Ngài hay sự lầm lạc bởi những đầu óc chiều theo thị dục tạo thành màn tối che lấp ánh sáng Phúc Âm.

- Chấp nhận câu nói đúng thì chứng minh không được; bảo rằng lời nói sai thì e vấp phạm đến Phúc Âm. Như vậy chị nghĩ như thế nào?

- Nghĩ gì được nữa mà nghĩ, có lẽ đành lờ đi thôi, Lời Chúa thì Chúa hiểu chứ ai mà hiểu được... Vậy anh nói câu này thế nào? Hay cũng bí...

- Tôi dám nói, câu này nửa đúng, nửa sai...

- Anh trả lời như không trả lời. Ai không biết là câu Phúc Âm một nửa nói về Đức Giêsu là đúng, còn một nửa sau anh mới đố em nên em hỏi ngược lại... Như vậy anh bảo nửa này là sai?

- Nếu tôi nói vậy chị có thể chấp nhận được không?

- Em không nghĩ là Phúc Âm viết sai, nhưng... khó nói quá... mà cũng chẳng biết nói gì nữa...

Lời Phúc Âm ngang ngang ngửa ngửa trộn lẫn giữa thực tại hữu hình và vô hình đã làm cho không biết bao nhiêu đầu óc sáng suốt thế tục trở nên mù tối. Giáo lý dạy linh hồn con người không chết được... mà lại cũng chỉ cho rằng Chúa dựng nên... trong khi ai cũng phải đối diện với thực tại đã có sinh thì phải có tử. Âu cũng là kết quả của lối nhìn hạn hẹp được hăng say loan truyền coi chừng có thể trở thành công cụ phá hoại tâm linh. Kính cảm thấy đau lòng nên ngập ngừng nói,

- Tôi muốn nói rằng nửa sau, "Và mọi kẻ sống cùng tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ" nửa đúng nửa sai...

- Anh làm ơn đưa bằng chứng đã ai sống được đến hai trăm tuổi chưa?

- Như vậy chị đã dựa vào bằng cớ là không ai hiện đang sống tới hai trăm tuổi trên trái đất này để cho rằng nửa câu sau là sai?

- Em không nói sai với đúng vì em chấp nhận không biết chứ không phải em muốn chứng minh nó sai.

- Hãy để tôi giải thích tại sao nửa đúng nửa sai... Nếu xét về sự sống theo lối nhìn con mắt thế nhân, tức là chỉ nói tới sự sống xác thân, đồng ý không có ai đang sống tới hai trăm tuổi. Đây là điểm hay bị lầm lẫn của sự nhận định về Phúc Âm như những bài học luân lý. Chị làm ơn nhớ dùm, Phúc Âm không phải là những bài học luân lý hoặc đạo đức. Luân lý, đạo đức thay đổi tùy theo thời điểm và những điều kiện quan điểm cũng như sinh sống của con người. Phúc Âm chỉ nói về tâm linh, về sự sống siêu nhiên, ấy là nói theo danh từ cố đạo hay dùng, tức là nói về sự sống của Thượng Đế nơi chị, nơi tôi, nơi vạn vật... Cũng chỉ vì muốn tránh hiểu lầm về ngôn từ "sự sống" mà tôi hay dùng ngôn từ "sự hiện hữu" bao gồm luôn sự hiện hữu hữu hình và sự hiện hữu vô hình. Như vậy tôi nói phần này sai có nghĩa: nếu xét theo nhận định thế tục, chỉ nói tới sự sống xác thân, chúng ta đã nghĩ sai về câu Phúc Âm. Cái sai này không ở câu Phúc Âm mà ở nhận định con người lấy sự sống thân xác làm chuẩn. Giải thích lòng thòng vậy chị nghe rõ? Phần này của câu Phúc Âm đúng vì sự hiện hữu của chúng ta có chết được đâu; sự hiện hữu này tự bản thể Thượng Đế, đó chính là Chúa ở cùng chúng tạ Tóm lại, nửa đúng nửa sai tùy theo nhận thức, tùy theo căn bản nào. Tôi có thể trưng dẫn một câu khác của Phúc Âm nơi câu truyện bẩy anh em trai lấy một người đàn bà, bị hỏi sau ngày sống lại ai sẽ được coi là chồng, Đức Giêsu trả lời: "Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của người sống" (Mt. 22:32; Mc. 12:27). Riêng Luca thêm, "Vì hết thảy đều sống cho Người" (Lc. 20:38). Phúc Âm dùng những sự kiện nơi cuộc sống thế nhân để nói về cuộc sống bất tử và hành trình lòng tin, hành trình cảm nghiệm Quyền Lực Hiện Hữu nơi con người. Chỉ nơi thế giới hữu hình mới có sự chết của xác thân, sự chết ở thế giới vô hình là không nhận biết bản thể tuyệt đối hay tự thể của mình...

- Nếu như anh nói, linh hồn mình cũng là một với Thượng Đế vì ngay sự hiện hữu của mình cũng ở trong và bất khả phân ly với Ngài như ngọn sóng đối với đại dương thì khi chết hồn lại hòa nhập với Ngài làm một như con sóng tan trong nước biển. Thế sao lại có thể nói là linh hồn con người không nhận ra được tự thể hay bản thể tuyệt đối của mình?

- Câu hỏi này có thể được trả lời từ sự suy luận về quyền lực của lòng tin. Chị có thể xác định quyền lực của lòng tin tự đâu ra không?

- Thì tự quyền lực của Thượng Đế ở nơi mình.

- Quyền lực này thế nào, phát sinh và ảnh hưởng ra sao nơi mình?

- Đó là quyền lực của ý định, ý nghĩ, ước muốn...

- Vậy chị có còn nhớ Phúc Âm có câu nào nói về quyền lực này không?

- Cái gì... "Phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng" ở Phúc Âm Mathêu (5:28).

- Vậy nếu một người thực sự ước ao điều gì thì sao?

- Ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi đặt vào đó.

- Như vậy chị có thể suy luận thế nào về ước muốn đối với con người?

- Thì ý định, ước muốn, ám ảnh mạnh mẽ con người...

Chị Lữ trả lời một loạt giống học trò trả bài thầy giáo. Cũng khá, vì đã biết ít nhất bỏ được tự ái rởm để nói lên những điểm chính thay vì cho rằng mình biết rồi là đủ, Kính nghĩ thầm. Mới chỉ hơn tiếng đồng hồ nói chuyện mà thái độ chị này thay đổi quá nhanh, thay đổi đến độ không bị hạn chế bởi kiểu cách từ bao lâu nay đã trở thành thói quen. Hy vọng chị ta bước qua được những giới hạn hình thức suy tư để tiến tới sự mở rộng tâm hồn đón nhận bất cứ điều gì có thể xảy đến nơi hành trình suy luận tìm hiểu sau này...

- Xét thế, ý định, ước muốn đã mang quyền lực và quyền lực này ảnh hưởng đến con người. Nếu con người ước ao thăng tiến, cố tìm kiếm cuộc sống tâm linh, thì lối sống họ sẽ chiều theo ước muốn này để tìm mọi cách, mọi cơ hội tìm hiểu. Nếu kẻ nào đặt mọi ước muốn vào tiền bạc, danh vọng, tất cả suy nghĩ, lối sống sẽ chỉ dồn về sự tìm kiếm tiền bạc và danh vọng. Khi sự ước muốn quá mạnh mẽ tạo nên lực ám ảnh khiến nhận thức không thoát ra được thì sau khi thân xác đã chết, linh hồn vẫn còn bị ám ảnh tiếp tục, sao có thể tìm lại được tự thể của mình. Chị có biết ai bị nghiền rượu không? hoặc xì ke ma túy v.v... Ước muốn ám ảnh con người còn có thể mạnh mẽ hơn nữa. Sự ảnh hưởng này nếu ai chịu đặt vấn đề, dám suy nghĩ để trực diện với lòng mình sẽ thấy ngaỵ Chị thừa kinh nghiệm về nguyên nhân tạo nên những cảnh chén bát đụng nhau giữa vợ chồng; chị thấy không, ý nghĩ có quyền lực lớn lao hơn tình nghĩa vợ chồng nhiều.

- Thế là trở nên con cháu họ hàng thánh Phêrô...

- Giỏi! Tên thánh tôi là Phêrô, coi chừng đụng chạm.

- Ha! Ha! Từ nay em không sợ ma nữa vì đã đối diện với nghĩa tử của thánh Phêrô... Ha! Ha!

- Chị có sợ ma không?

- Có chứ, thấy ớn ớn mặc dầu biết rằng người sống còn chẳng làm gì được ai phương chi kẻ đã chết!

- Như vậy chị đã biết ma quỉ là gì rồi chứ!

- Tất nhiên là linh hồn người những người bị ước muốn thế tục vẫn còn ám ảnh quá mạnh mà không biết cách nào thoát ra để tưởng rằng tất cả chỉ có vậy.

- Chị định nghĩa ma quỉ quá hay...

- Thế có cách nào giúp họ không?

- Cầu nguyện cho họ...

Lã Mộng Thường

Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Câu hỏi lãng quên 2

Câu hỏi lãng quên 2 Chương 10 Kính nói thế nhưng không giải thích bởi thầm nghĩ chưa chắc giải thích về quyền lực của sự cầu nguyện đã có lợ...